Huy Đức's Blog, page 3

August 26, 2018

John McCain (1936-2018)

Cho dù, vào đúng ngày 29-4-2000, John McCain đã gọi Bên Thắng Cuộc là “wrong guys”, chưa có chính trị gia nước ngoài nào tận tình với Hà Nội như ông (và John Kerry). Không biết có ai cật vấn “động cơ” của ông ấy. Chỉ biết, bằng cách kéo Hà Nội lại gần với Washington hơn, ông đã giúp được rất nhiều cho cả những người Việt Nam Cộng hoà và những thường dân Việt Nam (được coi là) Cộng sản.


Nếu không xếp súng đạn và cả huân chương vào quá khứ thì ông đã ở mãi trong chiến tranh; nếu cứ nuôi thù hận thì ông suốt đời chỉ có kẻ thù. Và, ông chỉ là “War Hero” chứ không thể trở thành một “Political Hero” như ông đã.



Rất may là nhiều chính trị gia và nhà ngoại giao Hà Nội cũng đã biết bước ra khỏi chiến tranh, đón nhận được một phần các nỗ lực của những cựu binh như ông, như John Kerry và cả Bob Kerrey… Cái cách mà John McCain & John Kerry giúp đỡ các nhà ngoại giao Hà Nội ở Washington, D.C., là như chăm sóc, giúp đỡ những đứa con. Không phải các ông đang dung dưỡng các nhà độc tài mà các ông đang kiên nhẫn để các nhà độc tài bớt độc tài và hành xử có trách nhiệm hơn với dân chúng.


[Tôi có mặt ở D.C. trong những ngày mà các nhà đàm phán VN đang căng thẳng với Mỹ từng câu chữ. Những bế tắc trong đàm phán thường không chỉ vì người Mỹ đòi hỏi các lợi ích kinh tế mà chủ yếu vì họ đòi các quyền lợi khác cho người dân VN. Tôi vài lần đùa với một người Việt Nam mà tôi cũng coi là “hero” – Trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ (BTA), ông Nguyễn Đình Lương – “Có những đòi hỏi của Mỹ mà nếu các anh thất bại ở bàn đàm phán thì người dân VN chiến thắng”]


Nhờ những nhân cách như John McCain mà Hà Nội đã dần hoà giải được với Washington. Trong khi, người Việt vẫn chưa có những nhân cách đủ lớn để giúp hai phía VN hoà giải. Không phải tự nhiên mà truyền thông Mỹ và MXH hôm nay tràn ngập những lời tốt đẹp khi nói về ông. Một người chỉ có thể trở thành anh hùng của dân khi không chỉ có lòng quả cảm mà còn phải có đủ tài năng và đạo đức, đạo đức của một con người.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 26, 2018 09:02

June 10, 2018

Đừng Quá Sợ Dân

Chiều nay, đừng ngạc nhiên khi trên truyền thông hay trong các phòng kín có ai đó thổi phồng vai trò của “các thế lực thù địch” đứng sau các cuộc biểu tình [tuy có thể cũng có những kẻ tát nước theo mưa]. Và cũng đừng ngạc nhiên khi mạng xã hội (MXH) cũng bị cho là thủ phạm [để thuyết phục các nhà lãnh đạo ủng hộ các biện pháp cứng rắn hơn].


Cho dù hàng vạn con người đã xuống đường, người dân không hề thách thức quyền lực. Người dân chỉ bày tỏ thái độ.


Bóng dáng các “nhà đầu tư chiến lược” đứng sau dự luật đặc khu không khỏi khiến dân chúng cảm thấy, lợi ích nhóm đang ảnh hưởng lên tiến trình ban hành chính sách. Tham vọng kiểm soát MXH bằng việc đưa ra dự luật an ninh mạng – trong bối cảnh dân chúng lên tiếng về luật đặc khu – lại khiến cho nhiều người tin, những phản biện ngay thẳng của họ rồi đây sẽ bị đặt tròng vòng kiểm soát, và việc dừng luật đặc khu có thể chỉ là một bước đi chiến thuật mà thôi.


Không ai có thể thuyết phục được dân chúng nghĩ khác để ngồi nhà, mặc “đảng và nhà nước lo”, trừ khi có một tiến trình ban hành chính sách minh bạch, nơi tiếng dân được lắng nghe; nơi, trong chính sách, ý dân là quan trọng nhất.


Tối nay, hy vọng quý vị, thay vì ngồi nghĩ mưu thắng dân, chỉ ngồi để lựa tìm những bước đi để có dân.


Quốc hội nên ngưng họp ít ngày để có được sự bình tĩnh khi đánh giá sự kiện này và chưa nên thông qua ngay các chính sách ảnh hưởng đến số đông dân chúng.


Một chính sách đưa ra mà vôi vã; chỉ cân đong lời lãi hay chú trọng quyền lực ngành… thay vì phải đánh giá đầy đủ các tác động của nó kể cả các tác động chính trị thì rất khó tránh được sự “phản biện” mạnh mẽ như những gì xảy ra hôm nay.


Xin nói tiếp luật đặc khu trong một dịp khác, tôi chỉ khẩn thiết đề nghị QH ngưng ngay việc thông qua luật an ninh mạng.


Dự luật có nguy cơ sắp được QH thông qua này đã không còn dừng lại ở các giải pháp nhằm ngăn chặn các cuộc tấn công từ mạng. Phạm vi điều chỉnh của nó đã mở ra nhiều lĩnh vực: ảnh hưởng tới cơ hội phát triển nền kinh tế số; ảnh hưởng đến các cam kết quốc tế, đặc biệt là các cam kết về tự do thương mại. Đặc biệt, dự luật này còn có nguy cơ ảnh hưởng đến các mối quan hệ đối ngoại.


Chỉ riêng Uỷ ban Quốc phòng An ninh không thể đánh giá hết các tác động của nó. UB Thường vụ Quốc hội cần dành thời gian để lắng nghe ý kiến của các chuyên gia, của Bộ TT & TT, Bộ Công thương, Bộ Ngoại giao… Cần để cho các Uỷ ban khác của Quốc hội tham gia thẩm định, đánh giá đầy đủ tác động nhiều mặt. Hãy rút kinh nghiệm từ Bộ Luật Hình Sự để đừng vội vã.


Mong sao, các nhà cầm quyền đừng quá lo sợ trước những gì diễn ra hôm nay. Còn được chứng kiến dân chúng bày tỏ thái độ một cách ôn hoà có nghĩa là dân chúng chưa bỏ rơi mình. Quan sát cuộc biểu tình hôm nay, tôi thấy dân chúng không hề “có tham vọng quyền lực”. Họ chỉ cần được lắng nghe, được tôn trọng từ một chính quyền biết đặt lợi ích của quốc dân và quốc gia lên trên hết.


PS: Khi tôi viết note này, chưa nhận được các thông tin về các diễn tiến ở Bình Thuận, đó là điều đáng tiếc, nhưng tôi tin những hành động đó là đơn lẻ; hy vọng, đôi bên đều dành cho nhau lối ra.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 10, 2018 03:01

June 9, 2018

Quốc Hội Hãy Biểu Quyết Luật An Ninh Mạng Bằng “Tư Duy 4.0”

Tuy ảnh hưởng của Dự luật An Ninh Mạng lên sự phát triển của đất nước có thể còn sâu sắc hơn Dự luật Đặc khu, khả năng rất cao là nó vẫn được đưa ra bỏ phiếu trong ngày 12-6-2018. Nhưng, có lẽ vì nó quá chuyên ngành và mối đe doạ không dễ tạo ra “nhận thức chung” như đất đai, lãnh thổ. Nên, Dự luật này đã không sớm nhận được sự phản ứng đông đảo và không được các tổ chức có ảnh hưởng chính trị lớn như Hội Cựu Chiến binh lên tiếng.


Đặc biệt, nhiều nỗ lực góp ý cho Dự luật một cách xây dựng trên báo chí chính thống đều gần như bị dập tắt. Một số chuyên gia, nhà báo phải chịu đựng rất nhiều áp lực, kể cả người viết bài này.


Một số nhà lãnh đạo QH gần đây mới tiếp cận được các ý kiến tâm huyết, hiểu những thiếu sót của Dự luật, nhưng quy trình trì hoãn nó cần một tiếng nói từ Chính phủ, trong khi Bộ TT & TT thì đang “bối rối”, Thủ tướng thì đang ở Canada. Trách nhiệm lịch sử đang nằm trong tay các đại biểu. Mong các vị hiểu, không chỉ thông qua một luật tốt mà bác một dự luật có vấn đề cũng được cử tri coi là “thành tích lập pháp”.


Tôi hiểu tâm lý của nhiều đại biểu, đặc biệt, những đại biểu đồng thời đang là thành viên chính phủ hay lãnh đạo địa phương. Quý vị cũng không dễ chịu gì khi chỉ vì lỡ lời đã bị mạng xã hội (MXH) nặng nề chỉ trích. Nhưng, nếu lắng nghe và dần dần điều chỉnh, quý vị sẽ nhận thấy, chính MXH đã cung cấp cho quý vị một môi trường đủ khắc nghiệt để quý vị trở thành những chính trị gia.


Một chính sách không thể nào đi vào cuộc sống nếu nó không thuyết phục được dân chúng. Làm chính sách mà đe doạ các nỗ lực phản biệt của xã hội thì chính sách đó nếu không đưa đất nước quay về thời kỳ nghèo nàn lạc hậu cũng sẽ bị lịch sử đào thải.


Tôi rất ít khi trích dẫn tiền nhân nhưng tôi nghĩ những tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn rất có ý nghĩa với quý vị; ông từng nói, “Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”. Nếu QH làm luật mà trên tinh thần ấy, chắc chắn sẽ không có những điều luật trong BLHS với cái gọi là “tuyên truyền chống nhà nước”.


Nhưng, người dân tuy đang phải chấp nhận những chế tài đó thì với luật pháp hiện hành, một người chỉ có thể coi là “tuyên truyền chống nhà nước” khi có một bản án có hiệu lực của toà. Dự thảo Luật này trao nhiều quyền cho các cán bộ công an. Một số vị trong QH có thể sử dụng quyền này để gây sức ép gỡ bỏ những bài viết chỉ trích mình nhưng điều đó chỉ làm cho quý vị thêm lộng quyền, dấn sâu, lâu dần thành “củi”. Về lâu dài, nó còn tác động lên người thân và chính bản thân quý vị [tin tôi đi, rồi có lúc quý vị muốn lên tiếng và chợt nhận ra “quyền được mở miệng” đã bị chính mình bịt lại].


Nếu Dự luật được thông qua, thì ngay trong lĩnh vực “tư tưởng văn hoá” sẽ phải đối diện với nguy cơ “công an trị” thay vì tuyên giáo. Chính Hồ Chí Minh – người khai sinh Chế độ – đã nói rằng, “Nước có độc lập mà dân không có tự do thì độc lập đó cũng không có ý nghĩa”. Công cuộc Đổi Mới bắt đầu từ 1986 về bản chất là từng bước trao quyền tự do cho dân. Thoạt tiên là quyền tự kiếm lấy cơm ăn, quyền đi lại… và giờ đây là quyền được nói trên không gian mạng.


Có internet, chế độ bị chỉ trích rất nặng nề, nhưng như quý vị thấy đấy, Chính quyền chỉ ngày càng mạnh lên chứ không yếu đi. Vì, quan chức lạm quyền là bị dân kêu, tham nhũng có thể bị dân tố cáo. Tôi biết, nhiều người trong quý vị cũng có vấn đề nhưng tôi tin, đa số cũng mong những kẻ quá xấu xa bị vạch mặt chỉ tên (trên báo hay trên MXH).


Không chỉ trong lĩnh vực “tư tưởng văn hoá”, dự luật này trao quyền can thiệp của Công an gần như trong mọi hoạt động trên không gian mạng. Nếu nó được thông qua, theo các chuyên gia, còn “gây khó khăn cho cả việc phát triển chính phủ điện tử, thương mại điện tử, công nghiệp nội dung số, làm mất cơ hội phát triển kinh tế số, cách mạng công nghiệp 4.0 của Việt Nam”.


Để ngăn chặn các nguy cơ trên mạng không thể nào chỉ sử dụng bộ máy công an và không thể chỉ là những nỗ lực của từng quốc gia đơn lẻ. Và, anh không thể lựa chọn phương thức tự vệ hữu hiệu nhất – hợp tác quốc tế – một khi anh hạn chế người dân của anh tiếp cận với các giá trị phổ quát mà VN cam kết.


Dự luật này là sáng kiến của Bộ Công an từ thời đại tướng Trần Đại Quang. Tôi, với tư cách là cử tri tại đơn vị ông ứng cử, rất muốn thấy ông nghĩ đến các di sản chính trị của mình. Công đức không chỉ đặt ở các đình chùa mà chủ yếu phải gieo ở trong dân.


Nhiều nhà ngoại giao phương Tây có ấn tượng tốt khi gặp thượng tướng Tô Lâm. Họ tìm thấy ở ông tư chất của một chính khách hơn là một sỹ quan công an thuần tuý. Tuy khá “shock” sau vụ TXT nhưng đó vẫn là điều mà họ có thể giải thích. Nhiều người rất ngạc nhiên khi BCA tiếp tục thiết kế Dự luật như vậy. Trong con mắt của nhiều nhà ngoại giao châu Âu đang vận động cho việc ký kết và phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do VN-EU, thì Dự luật này là bước lùi rất lớn về cải cách. Và nó có thể gây hiệu ứng tiêu cực không kém gì vụ TXT cho quan hệ ngoại giao với châu Âu.


An ninh mạng là một vấn đề cần thiết, nhưng giải pháp hữu hiệu nhất vẫn là con người, công nghệ và hợp tác quốc tế. Nguy cơ tin giả xuất hiện trên MXH là có thật nhưng Chế độ đang có trong tay hơn một nghìn tờ báo. Tôi chia sẻ những lo ngại của quý vị về “tuyên truyền chống nhà nước” xuất hiện trên MXH. Nhưng BLHS đang có quá nhiều tội danh ngăn chặn các hành vi thậm chí mới chỉ ở mức thực thi quyền được nói.


Chủ quyền là sức mạnh của mọi quốc gia. Tuy nhiên chủ quyền của một quốc gia trong không gian mạng không chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ. Kéo không gian mạng vào bên trong đường biên giới quốc gia là thất bại. Chủ quyền quốc gia trong thời đại ngày nay cũng không chỉ được xác lập bằng các cột bê tông mà còn là những giá trị mà người VN đóng góp. “Cách mạng 4.0” mà quý vị vẫn thường nói chỉ có thể thực hiện trên nền tảng tự do. Kinh tế số, cách mạng 4.0 không bao giờ có thể manh nha khi bóng dáng “còng số 8” cứ thấp thoáng trong máy tính.


Những người thực sự hiểu biết về an ninh mạng, kinh tế số trong Chính phủ, trong UBTV QH nên dành thời gian để cân nhắc thêm. QH vẫn còn những ngày trống do Luật Đặc khu đã hoãn. Nếu Dự luật An Ninh Mạng vẫn phải đưa ra biểu quyết, xin quý vị hãy bấm nút bằng “tư duy 4.0”. Tương lai con cháu đang ở trong tay quý vị. Đừng để các tuyên bố về tự do chỉ dừng lại trong những ngôn từ sáo rỗng.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 09, 2018 01:32

June 3, 2018

Bộ Chính Trị & Hai Dự Án Luật

“Bộ Chính trị (BCT) đã kết luận rồi, dự thảo luật không trái Hiến pháp, phải bàn để ra luật chứ không thể không ra luật”.


Đành rằng, BCT là một thực thể quyền lực trong chế độ đảng cầm quyền và QH đã có không ít lần phải thông qua những quyết định không phải của mình. Nhưng lần này, khi Chủ tịch Quốc hội (QH) Nguyễn Thị Kim Ngân nói như vậy, không rõ là để gây sức ép lên đại biểu hay để công khai “địa chỉ chịu trách nhiệm”.



Một người tiền nhiệm khả kính của bà Ngân, Chủ tịch QH khoá VIII Lê Quang Đạo, từng nói, “Đảng lãnh đạo nhân dân cầm quyền chứ không trực tiếp cầm quyền”. Điều đó rõ hơn lên sau Hiến pháp 1992 và tất nhiên nó tuỳ thuộc rất nhiều vào trách nhiệm trước dân của từng đại biểu; trí tuệ, bản lãnh của người Chủ tịch.


Việc thiết lập 3 đặc khu và cho người nước ngoài thuê đất tới 99, tôi không rõ, BCT kết luận “phải làm” hay chỉ đồng ý về mặt nguyên tắc, “được làm”. Nhưng, cho dù BCT kết luận thế nào thì QH vẫn phải bàn và nơi đưa ra quyết định vẫn phải là QH.


Trong những quyết sách đậm tính chuyên ngành như vấn đề An Ninh Mạng và nhạy cảm với dân, với lịch sử như đất đai và đặc khu, không có cách nào để hiểu thấu đáo như khi đưa ra thảo luận công khai trên diễn đàn QH và trong dân chúng.


Trong Dự thảo luật An Ninh Mạng thì ngay từ đầu, QH đã sai khi giao cho Bộ Công an soạn thảo và UB Quốc phòng và An ninh thẩm tra. Phòng chống các mối đe doạ trên không gian mạng là vấn đề công nghệ chứ không phải là những cuộc kiểm tra hành chính hay những cái còng số 8.


QH cũng đã bỏ qua những nguyên tắc quan trọng của công tác lập pháp. Trước một mối đe doạ có thật, phải coi trong hệ thống pháp luật hiện hành đã có quy phạm hành chánh hay hình sự nào điều chỉnh chưa. Nếu cần một chính sách mới thì còn phải cân nhắc, tác dụng của nó có cao hơn chi phí thực thi mà ngân sách, nền kinh tế và xã hội phải chịu hay không. Nếu tuân thủ các nguyên tắc đó, không bao giờ QH phải thảo luận một dự luật như An Ninh Mang.


Khi phát biểu về bất cứ vấn đề gì tôi đều tôn trọng các định chế hiện hành và vẫn cho rằng (assume that), Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của dân như được viết trong Hiến pháp.


Nếu BCT mới đúng là nơi quyết định cao nhất chứ không phải QH như bà Ngân nói. Mà, Uỷ ban Thường vụ QH không tập hợp trung thực ý kiến đa chiều của đại biểu, của cử tri, trình bày lại với BCT. Thì, UB Thường vụ Quốc hội đã đặt Bộ chính trị trước nguy cơ ra những quyết định… phi chính trị.


Tôi thừa nhận là có cả màu sắc “dân tuý” trong các trào lưu phản ứng với Dự luật Đặc khu nhưng các lập luận đưa ra chủ yếu là xác đáng. Nhưng ngay cả với các yếu tố dân tuý cũng không thể làm ngơ. Không có thể chế chính trị nào, cho dù độc tài tập thể hay độc tài cá nhân, lại có thể coi thường các bài học lịch sử và cảm xúc thâm căn của dân chúng.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 03, 2018 07:30

June 1, 2018

Đặc Khu

Nước có hơn 63 tỉnh thành, dân hơn 90 triệu. Ân huệ thiên nhiên vốn đã không công bằng, nay không lẽ Quốc hội lại chỉ dành đặc quyền cho 3 nơi.


Cái thời Đặng Tiểu Bình làm Thâm Quyến là bởi chính trị Trung Quốc khi đó chưa cho phép “thị trường”. Thành công của Thâm Quyến có vai trò thị phạm cho những bước đi cải cách về chính sách. Nay, thay vì đặc khu, lẽ ra Chính phủ & Quốc hội nên cải thiện môi trường kinh doanh cho cả nước. Cái gì đang cản trở người dân làm ăn, cái gì đang làm cọc cạch cỗ xe kinh tế thị trường… thì nhanh nhanh gỡ bỏ.



Trước hết, Chính phủ nên quay trở lại với hành động có ý nghĩa nhất từ đầu nhiệm kỳ của mình: huỷ bỏ các điều kiện kinh doanh (đang sử dụng công cụ hành chánh can thiệp vào các quan hệ dân sự, kinh tế); phát hiện và ngăn chặn nguy cơ xuất hiện các điều kiện kinh doanh trong các dự án luật mới (Dự luật An Ninh Mạng là ví dụ).


Tiếp đó, nên sửa đổi chính sách đất đai. Cho dù đặc khu hay ở đâu trên lãnh thổ VN, ưu đãi đặc biệt nhất với một nhà đầu tư nước ngoài cũng chỉ có thể ngang bằng với những gì mà người dân và các nhà đầu tư VN được hưởng.


Nếu “định hướng xã hội chủ nghĩa” vẫn còn tác dụng như thuốc an thần thì quý vị cứ xài. Nhưng, thay vì “lấy quốc doanh làm chủ đạo”, phải lấy “hiệu quả nền kinh tế làm chủ đạo”. Tất cả những doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả phải được dẹp ngay. Về lâu dài, không chỉ quân đội, công an mà nhà nước phải từ bỏ vai trò kinh doanh (chỉ làm những dịch vụ công mà khu vực tư không chịu làm”.


Điều kiện tự nhiên đã làm cho các địa phương phát triển không đồng đều. Dân chúng có nơi đã có thể làm giàu, có nơi không tiếp cận được những phúc lợi căn bản nhất. Nên có những chính sách để rút bớt khoảng cách vùng miền đó thay vì tập trung nguồn lực vào những nơi mà không cần chính sách gì các nhà đầu tư đã ùn ùn mang tiền tới (như Vân Đồn, Phú Quốc…).


PS: Trước đây, theo Luật 2003, Campuchia cũng cho người nước ngoài thuê đất 90 năm; Trung Quốc và Việt Nam đã lấy khá nhiều đất của người Campuchia. Năm 2016, CPC sửa luật, chỉ cho người nước ngoài thuê đất 50 năm, hết thời hạn đó, nếu có nhu cầu có thể được xét cho thuê lại, tối đa là thêm 40 nữa. Luật này hồi tố nên các doanh nghiệp VN, chủ yếu ồ ạt thuê đất năm 2010, thời hạn 70, 90 năm, nay bị giảm xuống 50 năm (tức là chỉ còn 42 năm nữa).

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 01, 2018 01:29

May 28, 2018

Đại Biểu Quốc Hội & An Ninh Mạng

I. ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI CŨNG BỊ “BỊT MỒM”


Sáng nay, lúc hơn 8am, tôi còn đọc được bài cảnh báo ảnh hưởng tiêu cực của Dự luật An ninh mạng trên trang online của Thanh Niên(hình 1), tới trưa tìm lại thì không còn nữa. Bài báo dẫn lời các đại biểu Quốc hội cảnh báo, nếu được thông qua, Dự luật An Ninh Mạng có thể làm giảm 1,7% GDP và làm tăng hàng loạt giấy phép con. Tất nhiên là tăng chi phí lên rất nhiều cho nền kinh tế.


Thời Báo Kinh Sài Gòn hôm qua cũng có bài phân tích rất hay về “Ba tác động tiêu cực và lâu dài với tăng trưởng” của Dự luật An Ninh Mạng, hôm nay cũng không còn nữa(hình 2 & 3).


Nói để quý vị thấy rằng, một khi Công an đã soạn luật thì ngay khi còn là dự thảo, “mồm” của các đại biểu Quốc hội cũng có thể bị “bịt”, nói chi “ngôn luận” của những người dân thế cô, thân cô.


II. “CHẮC NÓ CHỪA MÌNH RA”


Cho tới giờ này, chưa có một “ông lớn” nào của VN từng ăn nên làm ra trong ngành công nghệ thông tin lên tiếng về Dự luật An Ninh Mạng. Hội tin học, sáng lập bởi GS Phan Đình Diệu, và Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ CNTT Việt Nam (VINASA) của Chủ tịch Trương Gia Bình chưa hề công khai ý kiến.


Quý vị nên nhanh chóng truy cập bản Dự thảo thứ 18 để thấy rằng, Dự luật này nó đe doạ “cả làng Vũ Đại”, đừng tưởng đã thành các ông lớn thì có thể trục lợi khi luật o ép những “thằng nhỏ” khác hoặc nghĩ là “nó chừa mình ra”.


Với những người đang “dân tuý” bằng khẩu hiểu 4.0 như tướng Nguyễn Mạnh Hùng và PGS Trương Gia Bình thì nên nhớ là, nếu các ông “ngậm miệng” bây giờ, lịch sử sẽ coi các ông là “con buôn” chứ không còn là những người tiên phong, có ảnh hưởng với internet nữa.


II. LUẬT AN NINH MẠNG HAY LUẬT TUYÊN GIÁO


Hôm nay, Thiếu tướng Nguyễn Thanh Hồng – Uỷ viên thường trực Uỷ ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội – huỵch toẹt luôn trên VNExpress: “An ninh mạng nếu giải thích dễ hiểu nhất là không truyền bá, cổ súy, khai thác những nội dung chống phá Đảng, Nhà nước và làm sao để mỗi công dân có ý thức trong việc phòng chống tội phạm, bảo vệ bản thân và gia đình”.


Ô hay, Uỷ ban Quốc phòng và An ninh có phân biệt được “ngôn luận” và các cuộc tấn công trên mạng khác nhau thế nào không.


“Cyber attack” là một mối đe doạ có thật thì chưa hề thấy một quy phạm ngăn chặn hữu hiệu nào được dự thảo đưa ra. Trong khi đó, “tuyên truyền chống nhà nước” là những tội danh mà Bộ Luật Hình Sự đã quy định. Khi ngồi viết Dự luật này, những người soạn thảo nghĩ rằng họ đang ở một nơi chưa có luật lệ nào chăng. Và, họ nghĩ, VN vẫn còn khoảng trống cho quyền tự do chỉ trích chính quyền – quyền mà bất cứ nhà nước nào thực sự của dân đều bảo vệ – hay sao.


Mới đây, khi ngồi với một số lãnh đạo tử tế (thật) cấp tỉnh, các vị tâm sự rằng, “Điều quan tâm nhất của chúng tôi bây giờ là phải lo giữ… ghế; nhưng không phải là cái ghế đang ngồi mà là cái ghế ở các quán cà phê vỉa hè, sau khi về hưu (vẫn dám ra ngồi đó)”. Ở Hà Tĩnh, ông Võ Kim Cự giờ không ló mặt ra đường nói chi tới càfe vỉa hè đâu ông Võ Trọng Việt – Chủ nhiệm UB Quốc phòng, An Ninh – ạ.


“Tuyên truyền chống nhà nước” là một hành vi được quy định trong Bộ Luật Hình Sự. Chỉ khi có bản án có hiệu lực của Toà, một người mới bị coi là “tuyên truyền chống nhà nước”.


Thưa bà Lê Thị Nga, Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp, tôi quan sát các đóng góp của bà kể từ khi bà bắt đầu đặt chân vào QH. Tôi tin bà là một người không chỉ chính trực mà còn có tư duy pháp quyền. Bà không nên dễ dàng để QH trao cho các “cán bộ công an chuyên trách” cái quyền cầm văn bản sang buộc các MXH gỡ bài hay khoá thuê bao chỉ vì các cán bộ này coi một bài viết nào đó là “tuyên truyền chống nhà nước”.


“BẾ QUAN TOẢ CẢNG


Cho dù “dữ liệu người dùng” được giữ ở đâu thì FaceBook, Google… cũng không dễ dàng gỡ các bài viết mà các viên chức của Bộ 4T hay BCA coi là “chống nhà nước”. Lúc đó, VN chỉ còn cách duy nhất là thiết lập “tường lửa”. “Tường lửa” là một hình thức “bế quan toả cảng”. “Bế quan toả cảng” trong trong kỷ nguyên internet còn tác hại hơn nhiều so với những gì nhà Nguyễn đã làm gần hai thế kỷ trước.


Ban soạn thảo lại nhắc đến con số 300 triệu USD mà Face Book bán quảng cáo được ở VN. Tôi đồng ý rằng, Google, Face Book phải đóng thuế thì mới “fair”. Nhưng, về phía chính quyền thì phải có tầm nhìn xa hơn tầm nhìn của những ông trùm “thu xâu”. Cứ 10 đồng chi cho quảng cáo, các doanh nghiệp Việt sẽ có một doanh thu ít nhất là 100 đồng. Nhưng, một khi các cổng internet không bị “bế quan”, giao thương của người Việt với thế giới khai thông, “GDP” còn tăng lớn hơn rất nhiều những con số mà ban soạn thảo đưa ra doạ dẫm.


Hãy nói và biểu quyết trên nền tảng quyền lợi của quốc gia, dân tộc. Các đại biểu đừng sợ, dù Ban soạn thảo là Công an.


[image error] [image error] [image error]

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 28, 2018 08:25

May 23, 2018

Luật An Ninh Mạng: Đừng Để VN Trở Thành Kẻ Thù Của Các Giá Trị Tiến Bộ

Trong lịch sử hơn 20 năm có internet (1997-2018) chưa bao giờ lợi ích quốc gia, dân tộc và tự do của người dân bị đe doạ lớn như những gì đang được chuẩn bị trong dự luật An Ninh Mạng. Điều đáng lo ngại là, Chính phủ và các đại biểu Quốc hội chưa nhận thấy nguy cơ tự cô lập mình với phần còn lại của thế giới; nguy cơ đi ngược lại những nỗ lực của Chính phủ và chống lại sự tiến bộ của người dân, nếu thông qua Dự luật.


Khi thương thảo lại để ký CPTPP thay thế TPP, Việt Nam đã đồng ý từ cấp tối cao, không buộc các công ty cung cấp dịch vụ internet đặt máy chủ, lưu trữ dữ liệu tại VN. Dự luật này lách bằng cách đòi “lưu trữ tại VN các dữ liệu cá nhân của người sử dụng dịch vụ tại VN”(google, Facebook… vẫn đang có máy chủ đặt tại VN nhưng đó là lựa chọn của họ thay vì bắt buộc).


Có cách nào để không đặt máy chủ mà lưu trữ được dữ liệu tại VN? Đòi hỏi này nếu Quốc hội bị qua mặt và thông qua sẽ trở thành vấn đề danh dự của một quốc gia trước những điều mình cam kết chứ không còn là những “mẹo vặt” ở tầm “trinh thám An Nam” nữa.


Điều đáng nói là, khi buộc các nhà cung cấp dịch vụ internet như Facebook, Google… mở văn phòng đại diện hay để dữ liệu tại VN (địa phương hoá dữ liệu) theo cách mà dự thảo này thiết kế có rất ít ý nghĩa bảo vệ an ninh quốc gia từ không gian mạng. Các quy phạm dường như chỉ nhắm tới mục đích cao nhất là gỡ những bài viết trên blog hay trên Facebook. Các hậu quả mà quốc gia phải gánh chịu do những đòi hỏi này gây ra không hề được cân nhắc.


Theo tính toán của Trung tâm nghiên cứu kinh tế Chính trị Châu Âu (ECIPE), “địa phương hoá dữ liệu” – một biện pháp rất ít quốc gia áp dụng – sẽ khiến cho GDP của VN sụt giảm 1,7%; đầu tư nước ngoài giảm 3,1 % (so với việc không yêu cầu mở văn phòng hay đặt máy chủ tại VN như hiện nay).


Chính phủ và các nhà làm luật cần tránh rơi vào cái bẫy tư duy thiển cận rằng, chi phí thực thi chỉ do Google, Facebook hay Amazon … gánh chịu. Trong tình huống phải làm vậy, gánh nặng chi phí tăng thêm sẽ bị phân bổ đến toàn bộ các doanh nghiệp Việt Nam chứ không phải các doanh nghiệp trên gánh một mình. Các lập luận cho rằng, các doanh nghiệp nêu trên “kinh doanh nhưng không đóng thuế, không làm tăng GDP cho đất nước trong nhiều năm qua” – như tài liệu gửi cho các đại biểu là những lập luận thiển cận.


Càng nhiều người dân có thể tham gia mạng xã hội, trao đổi thông tin đầu tư, kinh doanh, tiếp cận với thương mại điện tử của các doanh nghiệp công nghệ, sẽ tạo ra ảnh hưởng lan toả, tác động tích cực đến kinh tế, đặc biệt là xuất nhập khẩu.


Theo một báo cáo mà cơ quan An ninh soạn thảo cung cấp cho các đại biểu Quốc hội thì chính sách an ninh mạng của Trung Quốc, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ…, đặc biệt là Trung Quốc, được tham khảo nhiều nhất trong dự luật này. Tuy nhiên, ngay cả những quốc gia thù địch nhất với internet đó cũng không trao cho cơ quan công an quá nhiều quyền như Dự luật mà Quốc hội VN đang thảo luận.


Dự luật định trao cho “lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an hoặc cơ quan có thẩm quyền của Bộ Thông tin và Truyền thông” có quyền yêu cầu chặn “share”, xoá các thông tin mà “lực lượng” này cho rằng là “tuyên tuyền chống nhà nước” và “yêu cầu các nhà mạng ngưng cung cấp dịch vụ viễn thông, internet cho người có các bài viết đó”.


Chỉ có toà án mới có quyền tuyên bố hành vi nào là “tuyên truyền chống nhà nước”. Nếu VN có tính tới yêu cầu buộc gỡ các “fake News” trên MXH thì cũng chỉ nên tiến hành sau khi có phán quyết của Toà. Nếu để cho các quan chức của Bộ Công an và Bộ Thông tin đưa ra các phán quyết đó thì trong thời gian vừa qua, những sai phạm ở Bộ Thông tin (trong vụ MobiFone-AVG), ở Bộ Công An (trong vụ Vũ Nhôm, vụ các tướng chủ mưu đánh bạc…) liệu nhân dân có cơ hội mà bàn đến.


Đặc biệt, dự luật không những không bảo đảm an ninh mà còn đe doạ quyền tự do cá nhân của người dân khi yêu cầu các công ty dịch vụ internet “cung cấp thông tin người dùng cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an khi có yêu cầu bằng văn bản”.


Người dân không chỉ có nhu cầu được bảo vệ khỏi các mối đe doạ từ các thế lực thù địch mà còn cần được bảo vệ khỏi các mối đe doạ từ sự lạm quyền của những người thi hành công vụ. Quyền tự do cá nhân, quyền riêng tư chỉ có thể bị can thiệp khi có trát của toà. Không có một đất nước có luật pháp nào, cảnh sát lại được trao cho quyền đó.


Nên nhớ là có không ít thông tin cá nhân, người dân đã tự nguyện cung cấp khi mua vé máy bay, đặt khách sạn… chứ không chỉ khi mở tài khoản trên mạng xã hội. Những thông tin này đều được lưu giữ ở nước cung cấp dịch vụ. Vấn đề là, chưa chắc người dân – ở những quốc gia như VN – lại bị đe doạ hơn khi những thông tin của mình được lưu giữ bằng các “cơ quan chức năng” trong nước.


Hình ảnh ông chủ FB, Mark Zuckenburg, phải ra điều trần trước Quốc hội Mỹ đang được sử dụng sai lệch (trong một văn bản gửi đại biểu). Mark bị nghi để lộ 87 triệu tài khoản FB cho Cambridge Anlytica sử dụng vào các mục tiêu chính trị và thương mại [cũng như cách mà Vinaphone, Viettel… cung cấp số điện thoại cho các đại lý bán đất nền, căn hộ và bảo hiểm…] chứ không phải như cách mà các nhà dự thảo luật đang âm mưu. Nếu Mark cũng học theo FPT cung cấp dữ liệu người dùng (một số bloggers) cho cơ quan an ninh thì không cần tới Quốc hội, Mark đã nhận ngay sự tẩy chay của người tiêu dùng khắp nơi trên thế giới.


Nếu thực sự muốn bảo vệ dữ liệu, muốn tham khảo những kinh nghiệm tốt về bảo vệ người dùng, cơ quan soạn thảo không thể bỏ qua những yêu cầu bảo vệ người dùng như phải có sự đồng thuận khi thu thập dữ liệu (consent required for data collection), chấp nhận của người dùng khi chuyển, trao dữ liệu cho bên thứ ba (consent required fort transfer to third party ) hay quyền được kiểm soát dữ liệu cá nhân (right to review) …. Mà các nước châu Âu hay Singapore đang áp dụng.


Tôi sẽ nói về những quy định trao rất nhiều quyền can thiệp của công an vào các công ty kinh doanh trên nền tảng internet, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp, trong một bài viết khác.


Rất lạ là chưa thấy Chính phủ của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có phản ứng gì. Hình như cơ quan tham mưu của ông hoàn toàn không nhận ra dự luật đang tạo ra các khoảng trống để giấy phép con, điều kiện kinh doanh, các loại thanh kiểm tra và nhũng nhiễu xuất hiện. Biết bao nỗ lực của Chính phủ từ đầu nhiệm kỳ chỉ cải thiện được rất ít môi trường kinh doanh. Trong khi, cách làm luật thế này đang khiến cho những cố gắng vừa qua của Thủ tướng đổ xuống sông, xuống biển.


Năm 1997, khi bắt đầu có internet, Chính phủ khi đó đã rất dè chừng khi – trong Nghị định 21 – chủ trương, “quản lý được tới đâu thì phát triển tới đó”. Nhưng tới năm 2000, thì chính Bộ Chính trị đã phá vỡ nguyên tắc này, bằng cách đưa vào Chỉ thị 58, “Nhu cầu phát triển internet tới đâu thì năng lực quản lý của các ngành phải theo kịp sự phát triển tới đó”.


Bộ Chính trị hiện thời cũng không đòi các công ty dịch vụ internet phải đặt máy chủ trong nước, Cơ quan soạn thảo đưa ra dự luật thế này là đã trái với ý chí của cơ quan lãnh đạo tối cao, Quốc hội cũng không nên “bảo hoàng” hơn Bộ chính trị.


Phải thừa nhận rằng, không phải là không có những tội phạm sử dụng internet để thực hiện các hành vi phạm tội. Nhưng, không ai đe doạ sự tồn vong của chế độ bằng chính những tên tham nhũng đang nắm quyền trong chế độ. Chưa chắc những “Quan Làm Báo”, “Chân Dung Quyền Lực…” là do “các thế lực thù địch” với chế độ vận hành.


Không chỉ mang lại biết bao tiện ích về kinh tế, Internet đã giúp cho người dân thực hiện được những quyền tự do mà báo chí nhà nước không thể cung cấp. Tuy điều đó có làm cho bọn tham nhũng khó chịu nhưng đồng thời cũng mang lại cho chính quyền một gương mặt sáng sủa hơn.


Dự luật này không hề mang lại lợi ích gì cho nước cho dân, cả chính trị và kinh tế, mà chỉ giúp cho bọn tham nhũng đang bị truy đuổi hơn hai năm qua có khả năng “lật cờ”, trỗi dậy. Cho dù đã có nhiều cải cách, VN vẫn đang được thế giới xếp vào hàng các quốc gia có rất ít tự do. Đừng đi tiếp xuống đáy bằng việc thông qua dự luật này. Đừng để VN trở thành kẻ thù của những giá trị mà loài người đang coi là tiến bộ.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 23, 2018 03:22

May 16, 2018

Chính Phủ Sẽ Thất Bại Nếu Để Dự Luật An Ninh Mạng Thông Qua

Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sẽ thất bại kể cả mục tiêu tăng trưởng lẫn mục tiêu cải thiện môi trường kinh doanh nếu để Dự luật An Ninh Mạng thông qua.


Cách làm luật, mỗi bộ một dự án và tự trao cho mình rất nhiều quyền can thiệp vào doanh nghiệp, chính là nguyên nhân phát sinh 7000 giấy phép con và điều kiện kinh doanh trong giai đoạn 2008-2014. Và chưa có Bộ nào khi dự thảo luật lại tự trao cho mình nhiều quyền như cách mà Bộ Công an đã làm trong Dự luật này.



Có lẽ là Bộ trưởng Tô Lâm không coi việc ban hành chính sách sẽ rất quan trọng trong di sản của ông. Ông không có quyền lợi gì khi Dự luật này được thông qua ngoài việc nó làm gia tăng biên chế và gia tăng khả năng nhũng nhiễu của cán bộ dưới quyền. Đây là một Dự luật mà các nỗ lực bảo vệ an ninh – theo kinh nghiệm của vài nước đã áp dụng các công cụ tương tự – là không tác dụng trong khi gây ra rất nhiều hệ luỵ cho doanh nghiệp đặc biệt có thể coi đây là một Dự luật đe doạ quyền riêng tư của người dân.


Tổ tư vấn của Thủ tướng theo mô hình hiện nay rõ ràng là thất bại. Nếu Thủ tướng thực lòng muốn cải thiện môi trường kinh doanh bắt đầu bằng việc gỡ bỏ các điều kiện kinh doanh thì nếu không ngay lập tức thiết lập một “taskforce” để rà soát, bãi bỏ các giấy phép con, cần tái lập mô hình “Ban nghiên cứu Thủ tướng” thời Thủ tướng Phan Văn Khải. Các chính sách mới trước khi đưa sang QH phải được TaskForce này hoặc Ban Nghiên cứu rà soát, loại bỏ những điều khoản trái với các nỗ lực mà Chính phủ đang theo đuổi.


PS: Bài viết này ngay lập tức bị buộc gỡ khỏi báo Thanh Niên; Luật đang ở trong tiến trình thảo luận mà báo chí đã bị bịt miệng thì chứng tỏ yếu tố minh bạch đã bị bóp nghẹt. Chính phủ và các đại biểu QH cần càng phải xem xét kỹ những yếu tố chống lại sự tiến bộ của dự luật này, làm tròn trách nhiệm voéi dân, với nước.


https://thanhnien.vn/kinh-doanh/luat-an-ninh-mang-duoc-va-mat-963498.html

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 16, 2018 22:24

May 14, 2018

GS Phan Đình Diệu (1936-2018): Khí Phách & Trí Tuệ

Sáng nay tôi hỏi 5 bạn sinh trong thập niên 1980s, 3 bạn nói không biết GS Phan Đình Diệu. Tôi buồn nhưng không bất ngờ. Ông là một người mà thế hệ chúng tôi ngưỡng mộ, cả về tài năng và sự chính trực. Có lẽ vì sự chính trực ấy mà ông rất ít khi có mặt trên những bục vinh quang. Nhưng, những đóng góp thầm lặng của ông đặc biệt là trong vai trò đưa công nghệ thông tin vào VN đang ảnh hưởng lên cả những thế hệ không còn biết ông là ai nữa.


GS Phan Đình Diệu là một trong những người đầu tiên gầy dựng ngành khoa học tính toán của miền Bắc (1968). Chiếc máy vi tính đầu tiên, có thể coi là của Đông Nam Á, ra đời năm 1980 [được thiết kế với chip Intel 8080A nên được đặt tên là VT80] là từ phòng thí nghiệm Viện Tin học của ông, bắt đầu từ những hợp tác trước đó với Viện Kỹ thuật Quân sự có sự giúp sức cả về chuyên môn và vật chất của ông André Trương Trọng Thi, người được coi là cha đẻ của máy tính cá nhân.


Theo tiến sỹ Vũ Duy Mẫn: “Năm 1981, sau khi lắp ráp thành công máy vi tính VT81 và cài đặt được ngôn ngữ lập trình Basic, Viện quyết định thử nghiệm đưa máy vi tính ứng dụng vào quản lý xí nghiệp cỡ nhỏ và vừa ở Xí nghiệp máy may Sinco”.


Nhưng, cho dù có nhiều nỗ lực, ngành công nghiệp sản xuất máy tính chỉ dừng lại ở đó. Tin học là một ngành không thể phát triển trong một quốc gia tự đóng cửa về chính trị và bị cô lập về thương mại với thế giới bên ngoài. Rất tiếc là khi tình hình trong nước bắt đầu cởi mở hơn thì GS Nguyễn Văn Hiệu (người thay giáo sư Trần Đại Nghĩa, làm Viện trưởng Viện khoa học Việt Nam) lại có những quyết định phi khoa học. Năm 1993, ông Hiệu loại GS Phan Đình Diệu khi ngành tin học Việt Nam cần một người lãnh đạo có tâm và có tầm nhất.


GS Hiệu nhận chức năm 45 tuổi. Ông có mọi ưu đãi của Chế độ, từ kinh phí nghiên cứu tới quyền hạn. Nắm Viện, ông Hiệu kêu gọi “các anh các chị hãy tự cứu mình”. Các công ty được thành lập, Viện khoa học Việt Nam nhanh chóng trở thành một nơi “nửa hàn lâm, nửa chợ trời”[theo TS Giang Công Thế]. Hàng nghìn cán bộ tài năng trôi giạt khắp nơi. Nền tin học Việt Nam chuyển một cách dứt khoát sang nghề… buôn máy tính.


Dù GS Phan Đình Diệu là người viết đề cương thành lập viện Công nghệ thông tin theo mô hình mới và khi bỏ phiếu thăm dò, ông nhận được tín nhiệm của đa số tuyệt đối, GS Nguyễn Văn Hiệu vẫn chọn một người có số phiếu thấp hơn vì lý do “biết làm kinh tế”. GS Phan Đình Diệu tuyên bố từ chức Viện phó Viện Khoa học Việt Nam và ra khỏi biên chế, những chuyên gia trẻ hết lòng vì khoa học như Nguyễn Chí Công, Vũ Duy Mẫn, Lê Hải Khôi, Giang Công Thế… bắt đầu phiêu bạt.


Cho dù vậy, theo GS Chu Hảo – thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ thời kỳ internet được đưa vào VN – “GS Phan Đình Diệu vẫn là linh hồn của các chính sách phát triển công nghệ thông tin của nước ta”. Ông là Chủ tịch hội Tin học và là Phó Chủ tịch Uỷ ban Quốc gia phát triển Công nghệ Thông tin cho tới năm 1998.


Nếu như, GS Nguyễn Văn Hiệu nổi tiếng là một người biết sử dụng khoa học để làm chính trị và leo lên tới các đỉnh cao danh vọng thì GS Phan Đình Diệu lại là một con người mà ngay cả trong chính trị cũng chỉ tham gia với tinh thần khoa học.


Theo ông Trần Việt Phương – thư ký riêng của Thủ tướng Phạm Văn Đồng – từ đầu thập niên 1960s, khi được Thủ tướng Phạm Văn Đồng hỏi, GS Phan Đình Diệu đã cho rằng, hệ thống kinh tế Xô Viết sẽ sụp đổ nếu tiếp tục vận hành như thế này[Hy vọng là Trung tâm Lưu trữ quốc gia vẫn còn giữ được ý kiến này của GS Phan Đình Diệu].


Rất có thể, quyết định không bổ nhiệm GS Phan Đình Diệu vào năm 1993 của ông Hiệu còn có “lý do chính trị”. Từ năm 1989, GS Phan Đình Diệu có nhiều phát biểu về “đa nguyên” và đặc biệt là các ý kiến thẳng thắn của ông góp ý cho Hiến pháp 1992.


Tháng 10-1988, sau khi giải quyết xong vấn đề “đa đảng”[giải tán hai đảng Dân chủ và Xã hội], Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh bắt đầu “chống đa nguyên” nhắm vào ông Trần Xuân Bách. Tháng 3-1989, Hội nghị Trung ương 6 khẳng định “Không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên”. Ngay sau đó trên báo Đảng, cả Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương Trần Trọng Tân lẫn “nhà nghiên cứu” Trần Bạch Đằng đều có bài, trên tinh thần “Mác Xít”, nhấn mạnh rằng, “Nếu hiểu đa nguyên theo nghĩa triết học thì từ lâu đã bị phê phán là sai lầm. Chúng ta không chấp nhận”.


Ngày 15-8-1989, GS Phan Đình Diệu có bài trên Sài Gòn Giải Phóng, đáp trả các luận điệu trên đây. Ông cho rằng, muốn “tìm đường đi cho đất nước trong thế giới hiện đại” thì phải “vận dụng trí tuệ của thời đại” từ “nhiều nguồn tri thức”. Theo ông, “Những gì xảy ra trong thế kỷ hai mươi là điều không thể hình dung đối với những bộ óc, dù là vĩ đại, của giữa thế kỷ mười chín”.


Sau khi đọc bài của Giáo sư Phan Đình Diệu, từ Hà Nội, Bí thư Trần Xuân Bách gửi cho TBT Sài Gòn Giải Phóng Tô Hoà một tấm danh thiếp, mặt sau ghi: “Chuyển giùm anh Phan Đình Diệu, tôi ca ngợi bài này”. Đây là bài báo cuối cùng mà Tô Hoà cho đăng với tư cách tổng biên tập Sài Gòn Giải Phóng. Ngày 28-3-1990, Trung ương cách chức ông Trần Xuân Bách.


Hai năm sau, ngày 12-3-1992, trong một phiên họp góp ý cho Hiến pháp 1992, GS Phan Đình Diệu đã có một phát biểu rất gây tiếng vang ở Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam. Ông đề nghị “tạm gác lại” việc đưa vào Hiến pháp các thuật ngữ “chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Marx – Lenin”. Ông đề nghị phải dũng cảm để thấy rằng, “mô hình CNXH, cũng như Marx – Lenin không còn đáp ứng được mục tiêu phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay”. Giai đoạn xây dựng một “tổ quốc Việt Nam trên tinh thần đoàn kết, hoà hợp và tự cường”.


Theo GS Phan Đình Diệu thì Việt Nam dứt khoát phải có “nhà nước pháp quyền”, chứ không thể tiếp tục “chuyên chính vô sản” hay “pháp quyền nửa vời”. Đặc biệt, ý kiến của ông về Mặt trận và các đoàn thể cho tới ngày nay vẫn còn rất thiết thực. Ông đề nghị, Hiến pháp chỉ cần coi lập hội là quyền tự do của người dân; từ bỏ việc nhà nước hoá các đoàn thể. Ông kêu gọi các đoàn thể thay vì dựa dẫm vào nhà nước phải lấy quần chúng làm gốc rễ, các cơ quan đảng, đoàn thể không ăn lương từ ngân sách.


GS Phan Đình Diệu không sử dụng tài năng và danh tiếng của mình để mưu cầu bổng lộc hay địa vị. Những năm sau 1975, trong những ngày đói kém, từ Paris trở về, hành lý của ông vẫn chỉ có sách và các “bản mạch” dùng cho sản xuất máy tính. Khi phải xuất hiện trên các diễn đàn thì, cho dù ở giai đoạn nào, ý kiến của ông vẫn là ý kiến của một con người yêu nước, khí phách và trí tuệ.


[image error]

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 14, 2018 01:14

May 12, 2018

Thủ Thiêm & Nhiêu Lộc: Không Ai Xứng Đáng Hy Sinh Cho Người Khác

Đừng trách báo chí hai hôm nay không nói một lời về Thủ Thiêm. Họ đã đưa được những tiếng nói oan khiên lên mặt báo và giờ đây là trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta đã có dữ liệu để “share” và lên tiếng.


“Tôi phải nói! Anh biết không, tôi phải nói bởi tôi già sắp chết rồi” – nhiều bạn bị ám ảnh bởi câu nói này của cụ bà Trần Thị Mỹ, 77 tuổi.


Tất nhiên là tôi vẫn mong có những tổng biên tập trừng mắt với Tuyên giáo như cụ bà Trần Thị Mỹ đã làm và nói với họ rằng, “Chúng tôi phải nói! Các anh biết không, vì chúng tôi im lặng mà hàng vạn người dân Thủ Thiêm đã phải tha phương trong khi rất có thể bọn tham nhũng đã chia chác nhau hàng ngàn tỷ. Các anh cứ nhìn tài sản nhà ông Hai Nhật, Tất Thành Cang… và cả một ông tưởng là thanh liêm như ông Ba Đua, mà xem.”


Nhưng, đó không phải là một điều dễ dàng trong thể chế này. Thế hệ chúng tôi đã từng bảo vệ đất cho dân từ những năm cuối thập niên 1980s, đầu 1990s. Nhưng, chúng tôi cũng nhiều lần phải dở dang công việc.


Hôm nay, tôi nghe nói Thành uỷ sẽ họp. Trước khi bàn về Thủ Thiêm, tôi muốn nhắc lại cho các vị một câu chuyện giải toả đền bù ở Dự án Nhiêu Lộc – Thị Nghè. Trên con kênh nước đen này cũng có hàng vạn người dân sống đời tăm tối. Phần lớn họ tự dựng lều, sống trên mặt kênh thối um, có người đã sống ở đây từ cuối thập niên 1960s. Chẳng ai có mảnh giấy dắt cạp quần nào cả. Nhưng, không ai bị “giải toả trắng”.


Thành phố đưa giải pháp cho các công ty kinh doanh và quản lý nhà các quận, nổi bật hồi đó là những giám đốc Quách Văn Hân, Nguyễn Phụng Thiều… Cách bờ kênh không xa mọc lên rất nhiều chung cư từ Tân Bình tới quận Nhất. Mỗi hộ cắm lều trên con kênh nước đen, được “bồi thường” một khoản tiền đủ mua một căn hộ.


Chủ nhà mà tôi mua lại, năm 1996, được bồi thường 34 triệu, đủ mua một căn hộ gần 60m2 trong một chung cư mà “nếu hắt hơi cả Bình Thạnh, Phú Nhuận và quận Nhất (Đa Kao) cùng nghe thấy”.


Khi tôi mới về đây, 2006, đi từ tầng trệt lên lầu II, tầm 10 giờ đêm, thể nào cũng gặp vài trường hợp vạ vật vì say rượu hay phê thuốc. Nhà thơ Đỗ Trung Quân mỗi lần sang chơi thường bắt gặp rất nhiều ánh mắt lườm nguýt. Các bạn ở đây rất ít đọc thơ, nhìn một cha râu ria, nặng 37kg, tưởng sang giành mối thuốc.


Thế mà tôi đã sống ở đây được 12 năm. Nhiều cư dân “gốc” đã chuyển đi. Có người bán nhà ra Hóc Môn, quận 12; nhiều người ở lại đã đổi đời. Những thay đổi đó là hợp lẽ. Tại sao Nhiêu Lộc bây giờ đã có “đò trăng”, kênh đen đã có cá lội… mà những phúc lợi ấy lại không phải dành cho cả những cư dân từng ở đó.


Tất nhiên, cái gốc vẫn là chính sách, đặc biệt là chính sách chung về đất đai. Cũng trong thập niên 1990s, nhất là những năm đầu 1990-1993, các cư dân ở Nhà Bè đã bị thu hồi đất với giá rẻ mạt để làm Khu chế xuất Tân Thuận và khu đô thị Phú Mỹ Hưng.


Có thể những người từng đuổi dân ở Thủ Thiêm cũng nói, “Không có biện pháp mạnh làm sao có một khu đô thị đẹp như Phú Mỹ Hưng”. Vấn đề là ai đang ở trong những khu nhà tiện nghi ở Phú Mỹ Hưng hay Thủ Thiêm…. Có ai biết người dân Nhà Bè bị lấy đất gần 30 năm trước bây giờ đi đâu. Phải chăng họ xứng đáng hy sinh để cho bọn vô lại giàu lên và chúng ta có thể tung tẩy dưới những vòm me ngây thơ, vô tội.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 12, 2018 22:55

Huy Đức's Blog

Huy Đức
Huy Đức isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Huy Đức's blog with rss.