Huy Đức's Blog, page 4
May 10, 2018
Thủ Thiêm
LO TÁI ĐỊNH CƯ CHO DÂN THỦ THIÊM TRƯỚC RỒI HÃY PHÂN LÔ, ĐẤU GIÁ PHẦN CÒN LẠI
Nếu tỷ lệ đất có thể xây dựng ở Thủ Thiêm (sau khi làm hạ tầng và các công trình công cộng khác) là 10%, thì cứ một hộ dân trước đây có 1.000 mét vuông, cho dù là “đất nông nghiệp”, cũng xứng đáng có một căn hộ 100 mét vuông ở trung tâm đô thị mới. Vì sao? Vì các cao ốc căn hộ có thể xây 5-7 tầng thậm chí hàng chục tầng. Phần bán những căn hộ khác dư để xây nhà, công viên, đường sá.
Lãnh đạo Thành phố nên nhóm họp khẩn cấp; đừng để những oan khuất mất đất của người dân Thủ Thiêm kéo dài nữa. Ngoài phần “đền bù” họ đã nhận trước đây, Thành phố nên: hoặc dành hẳn một khu để xây nhà tái định cư đạt tiêu chuẩn Thủ Thiêm [chứ không phải là những cao ốc ổ chuột như các khu tái định cư hiện nay]; hoặc, yêu cầu các nhà đầu tư dành một lượng căn hộ nhất định trong các khu nhà kinh doanh của mình để hoàn trả cho người dân mất đất [theo tỷ lệ ở trên đã nói].
Người dân chọn sinh sống trong những căn nhà này hay bán là quyền của họ. Chỉ khi, đã có hướng xử lý thoả đáng với dân rồi mới tiếp tục đấu giá những “lô” còn lại. Đấy không phải là “chính sách mới”; đấy là trả lại cho dân phần tài sản cũ các nhiệm kỳ trước đây thu giữ.
Tôi không nghĩ nước mắt người dân đủ khả năng phục hồi lương tâm của các ông Lê Thanh Hải, Nguyễn Văn Đua… Nhưng, tôi cho rằng, nếu những người đang nắm quyền ban hành chính sách, đặc biệt là chính sách đất đai hiện nay, mà trơ cứng trước những giọt nước mắt đó, không sớm thì muộn sẽ gặt “vạ trong tường vách”.
Muốn không tái lập những Văn Giang, Ecopark, Thủ Thiêm…, Quốc hội nên nhanh chóng sửa luật Đất Đai, theo đó, nghiêm cấm sử dụng khái niệm “thu hồi, giải toả”. Pháp luật không phải là “bom”; ruộng vườn, nhà cửa của dân không phải là đồn địch.
Một nhà nước chính danh thì phải bảo vệ được tài sản cho dân. Một chính quyền tử tế phải là thành luỹ giữ sự an cư. Nước có phát triển tới đâu cũng trở nên vô nghĩa khi sự phát triển đó tạo ra một nhóm trọc phú mà tiền bạc có được nhờ làm cùng đinh phần dân chúng khác.
Chính quyền phải là chỗ dựa chứ không phải là nơi mang đến sự sợ hãi. Dù sự sợ hãi chỉ do những kẻ tha hoá cấu kết với phường trộm cướp gây ra. Những người tử tế, nếu còn, phải loại bỏ những chính sách tiếp tay cho bọn xấu. Tử tế mà im lặng thì khi dân lắc mạn thuyền, quý vị không đủ tiền mua nhà, mua quốc tịch như bọn Vũ Đình Duy, Trịnh Xuân Thanh… đâu.
May 4, 2018
Trách Nhiệm Người Đứng Đầu, Nhìn Từ Vụ Án “NĂM CAM”
Khác với Năm Cam – một đối tượng “ngoài xã hội” – rất nhiều vụ án xảy ra gần đây có vai trò đắc lực của các tướng lĩnh Công an. Đặc biệt, những vụ án như “đánh bạc nghìn tỷ” hay “Vũ Nhôm”, các “đối tượng ngoài xã hội” chỉ tham gia với vai trò công cụ. Không phải tự nhiên mà trong nhiệm kỳ trước, Út Trọc, Vũ Nhôm… được gọi là “Út Bộ Trưởng”, “Vũ Bộ Trưởng”.
Trong vụ án Năm Cam, trung tướng Bùi Quốc Huy bị án 4 năm tù giam vì tội, trong thời gian ông làm Giám đốc CATP HCM “đã “không chỉ đạo, tổ chức biện pháp đấu tranh có hiệu quả, để tội phạm có tổ chức xảy ra trong một thời gian dài, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” [Theo ông Huy thì ông đã từng có văn bản đề xuất bắt Năm Cam, tuy nhiên Thành uỷ – thời ông Nguyễn Minh Triết – có bút phê cho lui lại để củng cố thêm chứng cứ].
Đặc biệt, trong vụ án này, chỉ vì từng là người đứng đầu (1996-2000) chứ không hề dính líu gì, ông Trương Tấn Sang cũng đã bị BCH Trung ương kỷ luật khiển trách bởi “chưa làm tròn trách nhiệm trong việc chỉ đạo điều tra, ngăn chặn những hoạt động tội phạm của Trương Văn Cam cùng đồng bọn” [Ông Sang rời Thành phố ra làm Trưởng ban Kinh tế TƯ tháng 1-2000, 10 tháng trước khi xảy ra vụ “giết Dung Hà”, hành vi nghiêm trọng nhất của vụ án].
Tính chất mức độ liên đới trách nhiệm của hai nhân vật bị kỷ luật trong vụ án Năm Cam ít nghiêm trọng hơn rất nhiều so với những vụ việc xảy ra trong ngành Công An vừa được phanh phui. Những nỗ lực phá án của những người đương nhiệm nhằm cắt bỏ những khối u trong ngành là rất đáng ghi nhận. Nhưng cũng phải xác định thời điểm bắt đầu xảy ra các vụ án nghiêm trọng như “Đánh bạc nghìn tỷ, Vũ Nhôm…” để xem xét trách nhiệm của người đứng đầu ngành lúc đó.
Đứng đầu bộ sức mạnh chống tội phạm trong thời gian tội phạm, đặc biệt là tham nhũng hoành hành nhất; chưa kể những tội phạm được tiếp tay, bao che bởi nhiều tướng lĩnh dưới quyền mà không bị xử lý gì, thì – đối với công cuộc chống tham nhũng của BCT, TƯ – không những dân mà cán bộ ở các địa phương cũng không “tâm phục”.
PS: Tôi sẽ nói trách nhiệm TBT & BCT trong một dịp khác.
May 2, 2018
Ai Thủ Lợi Ở Thủ Thiêm
Kịch bản của những người làm quy hoạch Thủ Thiêm từ thập niên 1990s (thời ông Võ Viết Thanh, Vũ Hùng Việt) là đấu thầu quốc tế. Tuy nhiên, yếu tố nước ngoài đã được sử dụng như những con ngáo ộp (đe doạ an ninh, chính trị) để các dự án BT ở đây rơi vào tay các nhà thầu sân sau. Những nhà thầu này từng giữ dự án nhiều năm mà không đầu tư một mét hạ tầng nào để sau đó bán lại với giá cao hơn gấp 3, 4 lần chi phí.
Phải biết những kẻ thực sự thủ đắc siêu lợi nhuận ở những nơi này (chưa phải là nhà đầu tư hiện thời) mới hiểu vì sao ngày 17-11-2015, khi đang thanh tra các dự án BT ở Thủ Thiêm, các thanh tra viên đã bị “mật rút” về Hà Nội.
Không chỉ phải phục hồi thanh tra để làm rõ các nhóm đặc quyền, đặc lợi đã chia chác Thủ Thiêm mà cần phải rút được những bài học nhằm bổ sung chính sách.
Đừng để những người dân đang nằm trong các vùng tham vọng của những Sun Group, FLC… rồi phải tha phương như người dân Thủ Thiêm. Nếu đất có thể đẻ ra siêu lợi nhuận tại sao những người dân sở hữu đất đai của cha ông lại không phải là những người đầu tiên được sẻ chia lợi nhuận.
Quốc hội nên cho sửa ngay Luật Đất Đai, thay vì tiếp tục trao cho chính quyền từ cấp huyện trở lên quyền thu hồi đất, chỉ nên cho họ quyền “trưng mua” như Hiến định.
Quốc hội cũng nên ban hành một đạo luật cho phép người dân nằm trong vùng có dự án đụng chạm đến một quy mô đất đai và dân số nhất định bầu ra một ban đại diện làm việc với nhà nước và các chủ đầu tư về tỷ lệ góp vốn bằng quyền sử dụng đất và thoả thuận mức giá với những người muốn nhận tiền để đầu tư nơi khác.
Tại sao hàng chục nghìn người dân Thủ Thiêm hay Ecopark bị “giải toả” đất đai chỉ nhận đền bù được khoảng vài trăm nghìn đồng một mét vuông để rồi đất ấy đang được bán với giá có nơi lên đến trăm triệu một mét vuông. Nếu phải giải toả Thủ Thiêm rồi giao cho các tư nhân “phân lô bán nền” như hiện nay, tại sao người dân lại không được sử dụng đất đai của ông cha để cùng góp vốn.
Nếu có một ban đại diện thực sự của người dân, chi phí đầu tư hạ tầng sẽ không cao như vừa qua vì nó buộc phải minh bạch và ban này sẽ không chấp nhận những khoản chi cho tham nhũng.
Chắc những người đang có quyền ban hành chính sách hiện nay cũng nhận ra rằng, quý vị không hề thiếu tiền. Cái quý vị thiếu là sự tôn trọng và ủng hộ của dân chúng.
Mấy ai trong quý vị thực sự được hưởng lợi khi duy trì những chính sách đặt tài sản của những người dân thấp cổ bé miệng trong tầm ngắm của những kẻ tham lam. Thay vì cho các đại gia núp sau lưng rồi đưa chân vào thế đối đầu với nhân dân hãy đặt mình trong tâm thế người dân. “Quan nhất thời”. Nên nhớ là, người thân và chính quý vị rất có thể trở thành nạn nhân của những chính sách mà quý vị đang níu kéo vì tưởng bở sẽ có cơ trục lợi.
April 29, 2018
30-4-2018 của NHỊP CẦU HOÀNG SA
Cựu binh Lữ Công Bảy và kỹ sư Đỗ Thái Bình vừa có mặt ở xã Mỹ Hiệp, huyện Chợ Mới, An Giang, mừng nhà mới của cựu binh Hoàng Sa Lê Văn Mỹ. Trong trận Hải chiến bảo vệ Hoàng Sa trước quân Trung Quốc xâm lược, 19-1-1974, ông Mỹ là trung sĩ trọng pháo 76,2 ly, trên mũi tàu HQ-04 của Hải quân Việt Nam Cộng Hoà.
Ông Lê Văn Mỹ sinh năm 1951 tại Đồng Tháp; ông có 7 người con, người lớn nhất sinh năm 1975. Trong một tai nạn giao thông, vợ ông bị chấn thương sọ não; ông phải bán hết nhà cửa để nhiều năm nuôi người vợ sống đời thực vật. Năm 2010, khi vợ mất thì ông chỉ còn hai bàn tay trắng. Sau 2010, ông Mỹ lên Bình Dương làm bảo vệ và tái giá với bà Dương Kim Ngân.
Năm 2017, ông lâm bệnh nặng, Nhịp Cầu Hoàng Sa đã hỗ trợ 15 triệu (chi phí sau bảo hiểm). Ra viện, ông về quê vợ ở An Giang, gia đình vợ cho đất và góp 200 triệu giúp vợ chồng ông xây nhà. Nhịp Cầu Hoàng Sa đã hỗ trợ thêm 100 triệu.
Cũng thời gian này, Chương trình đã mua đất và đang giúp hai gia đình Hoàng Sa khác, con gái tử sỹ Hoàng Sa Lương Thanh Thú (Củ Chi) và vợ con tử sỹ Hoàng Sa Dương Văn Lợi (Nhà Bè), xây nhà.
Cũng nhân dịp này, Chương trình đã hỗ trợ các cựu binh Gạc ma ở Quảng Bình 270 triệu VND, trong đó:
Giúp thương binh Nguyễn Văn Lực – Sơn trạch, Bố trạch – 120 triệu VND; Giúp cựu binh Hồ Văn Đạo – Đức Trạch, Bố Trạch – 100 triệu VND (2 lần); Giúp chị Trần Thị Sen vợ goá của cựu binh Dương Văn Lê – Tây Trạch, Bố Trạch – 50 triệu (hiện một người con của chị Sen đang học đại học tại Sài Gòn bằng học bổng của Nhịp Cầu Hoàng Sa).
Nhịp Cầu Hoàng Sa là một chương trình do nhà nghiên cứu hàng hải Đỗ Thái Bình (Do Thai Binh), nhà khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu cùng các nhà báo Vũ Kim Hạnh (Vu Kim Hanh), Nguyễn Thế Thanh, Huy Đức khởi xướng từ tháng 1-2014; với sự cộng tác tích cực của nhà báo Thanh Triều (Sài Gòn) và Đinh Quang Anh Thái (Thai Dinh – California, Mỹ). Từ đó tới nay, Chương trình đã nhận được hàng nghìn lượt đóng góp với số tiền lên đến hơn 8 tỷ đồng.
Chương trình đã mua, xây và tài trợ “dựng lại” 18 căn nhà, trong đó có 13 căn nhà có tổng mức đầu tư trên 400 triệu [7 căn nhà cho gia đình Hoàng Sa từ 400 tới 1 tỷ 114 triệu/căn; 5 căn nhà cho các cựu binh Gạc Ma và gia đình liệt sỹ chống Trung Quốc từ 400 tới 440 triệu/căn; 1 căn nhà cho cựu binh Hoàng Sa với mức đầu tư 100 triệu; góp xây căn nhà chống lũ và một nhà thờ cho liệt sỹ; gúp sửa hai căn nhà khác.
Ngoài ra, Chương trình còn thường xuyên chăm sóc sức khoẻ các cựu binh và thân nhân; cấp học bổng cho con các cựu binh Gạc Ma.
Hoàng Sa là chiến trường duy nhất trên lãnh thổ Việt Nam, nơi – trước ngày 30-4-1975 – người Việt không bắn vào người Việt. Hoàng Sa là một địa danh nhắc nhở, mỗi khi người Việt kề vai sát cánh bên nhau sẽ nhận rõ ai mới thực sự là kẻ thù chung, ai mới là kẻ có dã tâm xâm lược. Hoàng Sa, vì thế, còn là một NHỊP CẦU, cần “bắc” để nối những tấm lòng và, với mong muốn, người Việt hòa giải cùng người Việt.
Xin cám ơn các bạn đã đồng hành cùng chúng tôi.





March 4, 2018
“Hồi Ức Lính Tây Nam”
Năm con gà bị vặn cổ; một con heo sặc tro, chỉ ít phút sau, lính pha thịt chặt xương đâu ra đấy [gà và heo của những người dân Khmer vừa chạy, trong thời điểm người lính được quán triệt “không lấy cái kim sợi chỉ của dân”]. Những người lính giành nhau những miếng vàng lá. Những người lính loay hoay mở chiếc đồng hồ trên cổ tay một tên “Pốt” vừa bị bắn hạ. Và, những món đồ cổ trong ba lô…
Chưa có một cuốn sách nào tiếp cận những “người lính tình nguyện” ở cả những góc khuất như thế. Nhưng, đấy là chiến tranh. Đấy là những người lính rách rưới, đói xanh xao, hành quân cả tháng, không có “chất tươi”. Đấy là những người lính có thể chết vì hổ vồ, rắn cắn; có thể mất chân, có thể mục kích 4 năm đồng đội của mình bị hất tung lên bởi một trái mìn…
Đấy là những người lính đang ở độ tuổi 18, có người là “học trò Văn Vượng” có thể ôm guitar nắn nót từng bài cổ điển như Vũ Khúc Tây Ban Nha, Arabia… Nhưng, phải “đập vỡ cây đàn” theo đúng nghĩa đen để đối diện với một cuộc chiến mà số người chết khát, chết vì sốt rét chưa chắc đã ít hơn số người chết vì đạn xuyên, vì B40, vì mìn K58…
Chưa có một cuốn sách nào viết về cuộc chiến hơn mười năm (12-1978 đến 9-1989) của những người lính Việt Nam trên đất Campuchia cận cảnh, chân thực và sống động như Hồi Ức Lính Tây Nam.
Đã từng có hàng chục tiểu thuyết, hàng ngàn bài báo được viết sau ngày 7-1-1979. Đã có những đại lễ diễn ra trước Hoàng Cung, trong dinh Độc Lập. Đã có những ngôn từ to tát – “nghĩa vụ quốc tế”, “cứu nhân dân campuchia khỏi hoạ diệt chủng” – được dùng… Nhưng, không phải tự nhiên mà diện mạo lần đưa quân ra nước ngoài lâu nhất trong lịch sử Việt Nam này càng ngày càng trở nên mờ nhạt. Sau những cuộc trống dong cờ mở, cuộc chiến chống Khmer Đỏ ở Campuchia, trước đây, chưa bao giờ được làm rõ hình hài.
Có lẽ, những người lính đã từng ở CPC, nếu đọc được cuốn sách này cũng sẽ như tôi, biết ơn trung sỹ Xuân Tùng. Người đã đi cùng những loạt đạn đầu tiên phá vỡ phòng tuyến Chi Phu, S’vey Rieng; có vài ngày tận hưởng “chiến lợi phẩm” trong tư thế người chiến thằng rồi ngay lập tực phải truy kích Khmer Đỏ đến tận biên giới Thái Lan…
Người, suốt bốn năm sống chết trong gang tấc, đôi khi sục bi đông xuống ao, uống đầy, mới nhìn thấy dưới đáy nước là một sọ người… nhưng không ai đổ nước ra khỏi bi đông cả. Khát đôi khi cũng giết người như súng đạn. Suốt 4 năm, những người lính như anh nhiều khi dửng dưng, thấy cái chết chỉ là giải thoát. Nhẹ nhàng gỡ đôi dép đúc còn đầy máu đông của đồng đội, nói với những gương mặt trắng bệch, “tụi bây vậy là không còn bị đánh thức để đổi gác”. Người, đã đặc tả cuộc chiến đó theo cách mà ai đã đọc sẽ không khỏi bị ám ảnh kéo dài.
“Mùa Xa Nhà” của Nguyễn Thành Nhân là cuốn sách khá chân thực đầu tiên của một người lính viết về chiến tranh của quân đội Việt Nam ở CPC. Nhưng, “Hồi Ức Lính Tây Nam” là một tác phẩm lớn. Chưa có một cuốn sách nào của một người tham chiến ở vai trò chiến sỹ viết về cuộc chiến tranh có mình – cho dù gần như chỉ nói về những người lính xung quanh mình – lại đạt đến tầm vóc lớn lao như thế.
Trên bìa sách, tác giả ký tên Trung Sỹ. Trung sỹ là cấp bậc cao nhất trong quân ngũ của Xuân Tùng. Cấp không có nghĩa vụ phải nhìn cuộc chiến theo nhãn quan chính uỷ.
Chưa bao giờ cuộc chiến được nhìn cận cảnh đến vậy. Xuân Tùng dường như không giấu chúng ta điều gì. Từ sự sợ hãi. Từ những khao khát giới tính. Từ bàn tay “trai tơ” để cho một cô gái dạn dĩ chung tàu kéo luồn sâu vào trong áo ngực. Từ giải khăn nắm chắc để mặc người vợ goá lính “Pốt” kéo vào góc tối khi sức trẻ đã bị đốt cháy sau những bước lăm thon. Từ lần “đào ngũ” về thăm nhà sau những tuần sốt rét cận kề cái chết…
Đó là cuộc chiến tranh mà những người lính biết trăn trở không khỏi tự vấn “căn cước”. Đôi khi chỉ vì người dân trong phum tháo đoạn thang tre để giảm thiểu số ống thốt nốt bị lấy bởi những người “lính tình nguyện”. Đôi khi chỉ vì cô gái Khmer trên tàu sợ hãi thu cái túi đựng vàng vào lòng trước ánh mắt của lính, thực ra là chỉ nhắm vào cái gáy nõn nà của cô… Những người “không tiếc máu xương” để “cứu nhân dân Campuchia” đã từng chết tức tưởi vì những họng súng đặt trên những chiếc xe bò thong thả về phum; những người bị dao quắm chặt đứt đầu khi vô tư một mình đi cùng những người dân mà mình vừa góp công “giải phóng”.
Vượt qua tất cả những điều đó, cuốn sách càng trần trụi, càng chạm tới đáy “tự nhiên chủ nghĩa” càng cho thấy lòng quả cảm của những người lính, sự gắn kết của một đội quân. Tác giả thường lột tả chất lính ấy chỉ trong vài dòng ngắn ngủi. Một người chỉ huy, khi địch bắn rát đã nhường công sự cho tân binh, cậu lính vài giờ trước đó chỉ vì lười mà không đào cho mình một nơi trú ẩn. Một người chỉ huy khác – bình thường suốt ngày văng tục, “tao, mày” – khi ổ bụng đã vỡ ra vì mìn, vẫn cố dặn “các em” cách đi sao không để kẻ thù truy sát.
Từ cách kể chuyện những người lính xuất ngũ nâng niu đôi chim sáo trên tàu. Từ cách đặc tả những con chim sẻ ngồi đợi lũ ong mật lóp ngóp ngoi từ những ống nước thốt nốt ra. Sau Bùi Ngọc Tấn ít thấy ai tả thực sinh động và lôi cuốn thế. Cuốn sách được nói là hồi ức của một người lính – không là nhà văn, không là nhà báo – nhưng thứ ngôn ngữ mà Xuân Tùng sử dụng lại văn tới mức gần như rất khó kiếm trong các tiểu thuyết trong nước xuất bản gần đây.
Cho dù tác giả rất tiết chế, từng chữ trong cuốn sách vẫn chứa đựng rất nhiều cảm xúc. Thứ cảm xúc khiến người đọc đôi khi bật khóc. Như khi đối diện với một cuộc chiến không quy ước, Hồi Ức Lính Tây Nam đã được Xuân Tùng viết ra một cách trầm tĩnh, bản lĩnh… Sự trầm tĩnh, bản lĩnh có được sau 40 năm đau đáu, dồn nén.
Xuân Tùng là trung sỹ thông tin tiểu đoàn bộ bình 4, trung đoàn 2, sư đoàn 9. Công việc của anh trong chiến tranh là giữ liên lạc giữa tiểu đoàn và các đại đội. Và, công việc của anh đạt được trong cuốn sách này là giữ được sự liên lạc giữa chúng ta với một phần lịch sử có nguy cơ quên lãng.
Đây không chỉ là một hồi ức cá nhân. Trong sách không chỉ có sự ám ảnh của “những gương mặt trắng bệch” nằm yên trong những chiếc võng nhuộm máu và bùn non. Trong sách không chỉ có những người lính cùng tiểu đoàn mà còn có cả hình ảnh của một thế hệ thanh niên Việt Nam, những người đã mang tuổi trẻ đến Campuchia rồi không bao giờ được trở về cố quốc.
Cuốn sách cho ta thấy giá của xương máu. Một cá nhân hay một quốc gia, đôi khi phải lấy máu để giữ phẩm giá. Tuy nhiên, những ai có quyền trước khi quyết định chiến tranh hãy đọc cuốn sách này, hãy nhận thức đầy đủ về máu và phẩm giá qua Hồi Ức của những người đã từng là Lính.
February 13, 2018
Kẹt Xe Cấp… Nhà Nước
Cho dù cả Ban Bí thư lẫn Thủ tướng đều ra văn bản “cấm quà”, ai dám khẳng định nguyên nhân chính làm cho Hà Nội kẹt xe đến tận mấy hôm nay không phải vì “triều cống”. Quà cáp không phải là thứ có thể vận hành theo chỉ thị; nó, hoặc tuân theo “mệnh lệnh của trái tim”; hoặc được toan tính như một khoản đầu tư (cho ghế và cho dự án). Có những khoản quà cáp được trao theo “truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta”; nhưng tôi tin, có không ít “rương tráp” đã chẳng được vác ra Thủ đô nếu ghế và tiền bạc không chủ yếu được quyết từ Hà Nội.
Cùng thời điểm với các lệnh cấm quà Tết, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã công bố quy chế diện cán bộ thuộc thẩm quyền Trung ương: Bộ Chính trị quản lý bí thư, chủ tịch UB và chủ tịch HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương còn Ban Bí thư thì quản lý tới từng uỷ viên thường vụ. Cho dù đây không phải là quy định mới nhưng việc nhắc lại trong mỗi nhiệm kỳ (kể từ khoá VII tới nay) cũng làm các địa phương hiểu rõ đâu mới thực là trung tâm quyền lực.
Và, nếu như lâu nay, chỉ chánh phó giám đốc mới phải ra Bộ; bắt đầu từ nhiệm kỳ trước, ở ngành Công an, việc bổ nhiệm các cấp từ trưởng, phó phòng; trưởng phó huyện trở lên đều phải “ra” Hà Nội [cấp phó được uỷ quyền cho giám đốc Công an tỉnh ký sau khi được TCCT đồng ý]. Có ai biết có bao nhiêu người trong số 1.226 giáo sư, phó giáo sư vừa được phong, trước đó, không phải “thăm viếng” thủ đô; có công ty dược nào trước Tết đã không phải ra Cục, Bộ…
Công cuộc “đốt lò” – chống hậu quả của “THAM” – có những thành tích nhất định hình như có làm giảm sự chú ý vào các nỗ lực cắt giảm giấy phép và các điều kiện kinh doanh – căn nguyên của “NHŨNG”. Suốt hai nhiệm kỳ tài sản công bị chia chác như chỗ không người của bọn quan THAM ở “tầm vĩ mô”, đã làm cho xã hội mất cảnh giác với 7.000 điều kiện kinh doanh và giấy phép con [phát sinh trong khoảng 2008 – 2014] trao công cụ cho “cấp vi mô” nhũng nhiễu doanh nghiệp và người dân tới tận hang cùng, ngõ hẻm.
Tuy nhiên, nếu như công cuộc chống tham cho dù đã còng tay vài con “hổ giấy” cũng chưa phải được tiến hành trên nền tảng bền vững của nhà nước pháp quyền; thì, công cuộc triệt phá nguy cơ NHŨNG lại vẫn vẫn chưa đi từ gốc. Các bộ thay vì ban hành chính sách vẫn thích “quản lý, phát triển ngành” (Bộ Công thương nắm sắt sữa, Bộ Y tế giữ các “bệnh viện đầu ngành”; Bộ Giáo dục vẫn thích phong giáo sư cho…Bộ trưởng); các cơ quan điều tiết thị trường ở Trung ương thay vì chỉ xây dựng các quy định hành chính lại muốn thực thi các quy định đó (lẽ ra nên giao cho địa phương và các văn phòng địa phương).
Không thể cải cách các thể chế kinh tế thành công nếu hai chức năng hành pháp chính trị & hành chính công vụ không tách bạch. Một khi các cơ quan ban hành các giấy phép đang có thể trục lợi qua việc cấp các giấy phép đó, mà hy vọng chính sách không lấp ló đặc lợi, đặc quyền thì thật là rất mơ hồ.
Tôi không nghi ngờ nỗ lực chống chạy dự án khi Bộ trưởng Bùi Quang Vinh cho sửa đổi Luật Đầu Tư Công (2014). Tuy nhiên, khi Luật ấy được giao cho các quan chức trong đầu có “sỏi” ở Bộ của ông, Luật ông Vinh không chỉ không ngăn được nạn chạy dự án mà còn tăng thêm một tầng để “chạy”. Đầu thập niên 1990s, khi muốn cải cách lĩnh vực tài chính ngân hàng, Phó Chủ tịch HĐBT Võ Văn Kiệt đã giao cho các chuyên gia độc lập song hành soạn thảo Pháp lệnh Các Tổ chức Tín Dụng với ban soạn thảo của Ngành và cuối cùng, không phải Dự thảo Ngành mà bản của các chuyên gia [Lâm Võ Hoàng & Huỳnh Bửu Sơn] đã được chọn.
Cái sai phổ biến và căn bản nhất của các nhà hoạch định chính sách trong hơn hai thập niên qua là đã trao cho cơ quan hành pháp sử dụng quá nhiều công cụ hành chính can thiệp vào các quan hệ dân sự & thị trường.
Đất đai, về danh nghĩa là sở hữu toàn dân, nhưng “bảy quyền” mà Hiến pháp và Luật trao cho người sử dụng đất là tài sản (có cái gì bán ra vàng, ra tiền mà không được coi là tài sản không). Thế nhưng, Luật vẫn trao cho chính quyền từ cấp huyện trở lên có quyền thu hồi đất. Không có một nhà nước nào tôn trọng các nguyên tắc dân sự lại cho phép sử dụng một quyết định hành chánh tước tài sản của người dân (thu hồi đất).
Ở cấp văn bản thấp hơn, Nghị định 109, lại đòi một doanh nghiệp phải có nhà kho to, máy xay xát lớn mới cho quyền xuất khẩu gạo. Trong khi, các nhà xuất khẩu chỉ cần thị trường, nhà kho và máy xay xát họ có thể đi thuê thay vì là nơi chôn vốn [Nghị định 109 ngay lập tức “tước” quyền xuất khẩu gạo của khoảng 100 doanh nghiệp và giúp khoảng 100 doanh nghiệp khác trở thành “cai đầu dài”, xuất uỷ thác cho những doanh nghiệp nhỏ có thị trường thật sự].
Tôi vẫn cho rằng, “chính phủ kiến tạo” có nhiều yếu tố tích cực. Tuy nhiên, để một nhà nước có khả năng “kiến tạo” mà không can thiệp quá mức cần thiết vào khả năng tự vận hành của xã hội và thị trường, đòi hỏi Chính phủ không chỉ dừng lại ở những tuyên bố chính trị mà còn phải thiết kế một mô hình thích hợp.
Thử hỏi, nếu Sơn La có 1.400 tỷ và được quyền chi xài chúng, HĐND Tỉnh sẽ tranh cãi để tìm một thứ tự ưu tiên, lấy cái dân bức xúc nhất, mà đầu tư hay họ vẫn làm “quảng trường tượng Bác”. Thử hỏi, nếu các xã vùng xa được quyền chọn lựa, thay vì tuỳ thuộc vào những người mang dự án từ “trên” về, họ sẽ làm cầu cho con cháu đi hay “xây nhà văn hoá” rồi bỏ không gần như quanh năm, suốt tháng.
Chẳng có thứ thuốc tiên gì có thể bảo đảm lúc nào cũng “trên bảo dưới nghe” mà nắm hết mọi thứ ở trung ương. Làm sao chống được nạn “chạy chức” khi các “chân ghế” không phải được – phần căn bản – đặt trên nền tảng lá phiếu của cử tri hay của các đảng viên mà chỉ từ các cấp uỷ bên trên. Làm sao không “cửa sau” khi hầu hết các dự án là từ trung ương rót xuống.
Chính trị địa phương mà không mạnh thì chính trị trung ương sẽ không lành mạnh. Phải minh định, cái gì cần tập quyền để bảo đảm tính thống nhất, sức mạnh của một quốc gia; cái gì cần phân quyền nhằm phát huy tính năng động của chính quyền cơ sở mà không nảy sinh cát cứ.
Không phải tự nhiên, từ ba, bốn hôm nay, Sài Gòn – từ quán xá tới đường sá – đã rất thông thoáng, thì người dân Hà Nội vẫn cứ kêu trời. Vấn đề giao thông đôi khi không chỉ cần được sửa đường sá hay cấm một vài loại phương tiện giao thông. Kẹt xe ngày Tết ở Hà Nội là “Kẹt xe cấp Nhà nước”, cho nên, nó phải được điều chỉnh từ cả mô hình nhà nước.
January 12, 2018
Ung Thư Giai Đoạn Cuối
Cách đây mấy năm, khi có biến – ông Bắc Hà cũng từng bị… “ung thư” – để rồi sau khi Nguyễn Tấn Dũng hoàn hồn, ông lại khoẻ như võ sỹ. Một tướng, bám ghế sau hai năm quá tuổi mới chịu bàn giao, năm ngoái vẫn còn kỳ kèo xin một chức trợ lý để hòng ngồi lại; nay, ngửi thấy mùi còng số 8, nghe nói, lại vừa phát bệnh…; một tướng khác thì ở trong trạng thái “tâm thần”.
Phát biểu của Đinh La Thăng về giải Nobel Y học thời còn Bí thư Thành uỷ TP HCM có khi chẳng phải là phét lác, mầm bệnh ung thư ở VN không như những gì loài người từng biết mà nó di căn bởi nhân cách tế bào.
Rất lạ là quan chức Việt Nam khi còn chức thì lại thường giấu bệnh. Từ Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, đến – đặc biệt là – Đoàn Khuê. Đại tá Vũ Bằng Đình mất chức Giám đốc Viện 108 chỉ vì báo cho Trung ương bệnh án ung thư hạch của Tướng Đoàn Khuê ở thời điểm mà ông này khát khao trở thành Chủ tịch.
Trong chính trường Việt Nam tôi chỉ biết mỗi ông Nguyễn Minh Triết là khác với các đồng chí của mình. Năm 2003, khi đang là Bí thư Thành uỷ TP HCM, các bác sỹ phát hiện ông bị ung thư tiền liệt. Sức khoẻ trên hết. Việc đầu tiên ông Triết làm là viết đơn từ chức. Tôi nhớ ngay sau đó, cả TBT Nông Đức Mạnh & Trưởng ban Tổ Chức Trần Đình Hoan đã đích thân bay vô động viên ông Triết yên tâm chữa bệnh mà không cần từ chức. Không rõ do bác sỹ chẩn đoán sai hay do điều trị kịp thời, ông Triết “vui thú điền viên” tới tận bây giờ sau khi qua một nhiệm kỳ tưng bừng làm Chủ tịch.
Đã từng có một bị án chết vì thực sự ung thư mà (trước sức ép dư luận) không được hoãn thi hành án để điều trị. Tuy nhiên, những hành vi vi phạm pháp luật trước khi bị ung thư, thậm chí trước khi bị tâm thần phải bị khởi tố điều tra. Nếu họ bệnh thật thì cho dù không phải chịu hình phạt tù, trách nhiệm trả lại tiền đã ăn cắp của dân cũng phải tuân theo pháp luật. Những ai thực sự bệnh tật khi tại chức thì cũng nên nêu gương ông Triết, mạng mình còn không quý làm sao các ông biết quý mạng dân. Đừng bám cho đến khi nhân cách bị ung thư tới giai đoạn cuối.
September 23, 2017
Ai Đưa Cụ Bá Về Trời…
(Viết khi ngắm di sản của ông Nguyễn Bá Thanh từ đỉnh Hải Vân – view của ông Lại Phiền Hà)
Các quyết định liên quan tới bất động sản, đặc biệt là công sản trước 2013, cho dù là chủ tịch thời Hoàng Tuấn Anh hay Trần Văn Minh ký bán cho anh em “Thời Đồ Bành”, Vũ Nhôm hay, sau này, Sun Group… thì cũng đều phải qua “anh Ít” tức là phải có phê chuẩn của “cụ” Nguyễn Bá Thanh.
Đồng ý rằng, “nói Nguyễn Bá Thanh ăn được, làm được” để xí xóa là “không tôn trọng nhà nước pháp quyền”(như ý kiến của nhà báo chân chính Hoàng Hải Vân). Nhưng, nếu có nhà nước pháp quyền thì làm sao cung cách chia đất trong ngần ấy năm của “cụ Bá” có… đất mà tồn tại. Theo một bộ trưởng thuộc Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, thời của ông chủ yếu chỉ có “3 loại cán bộ: loại ăn mà không làm gì; loại có làm có ăn; loại vừa ăn vừa phá”.
Khi ông Nguyễn Bá Thanh còn làm Bí thư kiêm Chủ tịch HĐND, hễ khi nào tôi chỉ trích những việc làm và tuyên bố mang tính độc tài và mị dân của ông là có hàng trăm “fans” Nguyễn Bá Thanh xông vào phê phán (tôi dùng từ có ý giảm nhẹ đi). Về mặt mị dân, Đinh La Thăng chỉ là học trò của cụ Bá. Nhưng, dù cùng là “độc tài, mị dân”, Nguyễn Bá Thanh và Đinh La Thăng vẫn ở hai thái cực: một bên làm 10, “ăn” 2, 3; một bên vì muốn “ăn” 1, sẵn sàng phá 5 phá mười.
Xét lại các quyết định của Nguyễn Bá Thanh cũng có thể coi chính quyền hiện thời đang áp dụng nguyên tắc pháp bất vị “đồng minh, phe phái”; xét lại các quyết định của Nguyễn Bá Thanh cũng cho thấy chính quyền không còn quá e dè trước các “thần tượng của dân” (như trước đây người ta đã không khởi tố Tướng Nguyễn Việt Thành – tội lạm dụng quyền lực và chia chác tang tài vật các vụ án – vì ông ta đã lỡ được tô vẽ như anh hùng, trong khi gần hết những người thừa lệnh ông ở PC16 Tiền Giang đều đã phải vào tù hoặc trú ẩn trong nhà thương tâm thần).
Không rõ về mặt pháp lý, các đời chủ tịch Đà Nẵng ký các quyết định đang bị điều tra hiện nay có chặt chẽ không, nếu phải “thế Thanh chịu tội”, chắc phận “rau răm ở lại” cũng sẽ khiến hai ông ngậm ngùi không ít [nhất là “đời chủ tịch” phải ký tá những gì liên quan tới thương vụ sân vận động Chi Lăng].


September 21, 2017
TS Nguyễn Sĩ Dũng & Quốc Hội
Sử dụng khoa học chính trị, phân tích những điểm nghẽn thể chế của Việt Nam, theo tôi, hiện không ai có thể uyên bác hơn TS Nguyễn Sỹ Dũng. Cho dù rất nhiều điều trong cuốn sách “Bàn Về Quốc Hội” không mấy xa lạ với tôi – phần vì tôi cũng có hơn 10 năm sục sạo các hành lang của Ba Đình; phần quan trọng vì, như một cậu học trò, tôi đã từng nghe anh nói rất nhiều lần những điều này – thế nhưng, tôi vẫn phải ngấu nghiến đọc hết 350 trang với từng con chữ.
TS Nguyễn Sĩ Dũng là một người luôn trăn trở, theo sát mọi chuyển động của hệ thống chính trị, đặc biệt là của Quốc hội và cuốn sách này cho thấy, ông không chỉ có một khả năng đặc biệt phát hiện vấn đề mà còn có khả năng giúp chúng ta có một góc nhìn mới mẻ hơn, trước hiện tình đất nước tưởng như đã thành chuyện cũ.
Nhân giới thiệu cuốn sách, xin kể… công, việc tôi đã “lôi kéo” anh Sĩ Dũng vào con đường… viết lách.
Mặc dù Chính quyền cho phép người Việt Nam trong nước kết nối internet từ 1997 nhưng tới năm 2000, lượng người có thể tiếp cận vẫn còn rất thấp. “Kinh tế tri thức” đang là một khái niệm khá mơ hồ. Tôi đề nghị anh viết về kinh tế tri thức cho tờ tuần báo mà tôi phụ trách.
Tôi ngạc nhiên thấy anh Sĩ Dũng có một khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ viết các vấn đề phức tạp hết sức mạch lạc, dí dỏm và làm cho bất cứ ai cũng có thể hiểu nó một cách dễ dàng. Tôi nói với anh, “Nếu anh tiếp tục viết hoặc phát biểu trên báo thì công chúng sẽ được lợi nhưng sự biết đến của công chúng sẽ rất bất lợi cho con đường thăng tiến của anh”. Vài tuần sau, anh Sĩ Dũng nói với tôi, “Huy Đức nói có lý nhưng mình sẽ tiếp tục viết”.
Từ đó, tôi chứng kiến ở VPQH, những cán bộ cùng thời cấp vụ với anh Sĩ Dũng lần lượt vào thường vụ, làm chủ nhiệm UB; bao nhiêu lần tên anh bị gạt ra khỏi danh sách ứng cử viên đại biểu… Nhưng, những ai quan sát sâu hoạt động Quốc hội VN trong vòng 30 năm qua đều nhận thấy những đóng góp của anh.
Và nhưng, nhờ thế mà chúng ta có cuốn sách này. Các vấn đề chính trị khô khan như “Quốc Hội” đã được anh diễn đạt một cách mạch lạc, khúc chiết, hấp dẫn và dễ hiểu. Nói như cựu bộ trưởng Trương Đình Tuyển, cuốn sách “hữu ích không chỉ cho giới nghiên cứu, cho các đại biểu Quốc hội, mà còn cho tất cả mọi người”.


September 10, 2017
Bắt Sơn, Bắt Quỳnh Mà Không Bắt Thăng Thì Coi Như Chỉ Đánh Râu Ria & Tha Kẻ Chủ Mưu
Khoản tiền 246 tỷ – “phần nổi của tảng băng” – mà Nguyễn Xuân Sơn cầm về đưa Ninh Văn Quỳnh có thể phần nào giải thích vì sao Đinh La Thăng lại cho phép góp 800 tỷ, tương đương 20% vốn điều lệ, vào OceanBank [Cho dù khoản tiền 100 tỷ sau cùng được góp khi Đinh la Thăng “vắng mặt kỹ thuật” hai ngày, 12-5-2011, thì lúc đó ông ta vẫn là Chủ tịch Hội đồng thành viên và kiểm soát mọi quyền lực ở PVN].
Bằng việc cho phép nắm giữ 20% vốn ở OceanBank, Thăng đã biến ngân hàng này trở thành “dịch vụ nội bộ” của PVN, các đơn vị thành viên đều phải mở tài khoản tại đây. Kể từ năm 2008, dòng tiền PVN đã đi qua đây trên 500 nghìn tỷ VND. Có thời điểm, số dư tiền gửi của PVN tại OceanBank lên tới 25.000 tỷ VND, riêng Dầu khí Việt – Nga có lúc gửi ở đây tới 100 triệu USD. Do OceanBank bị kiểm soát đặc biệt, cho đến bây giờ PVN vẫn còn bị kẹt ở đây gần 10.000 tỷ VND (bao gồm cả khoản tiền 70 triệu USD của Viet – Nga Petro).
Khoản tiền 246 tỷ VND đưa về Tập đoàn và hàng trăm tỷ đồng đưa trực tiếp cho các đơn vị thành viên của PVN này được chi dưới hình thức “chăm sóc khách hàng”. Lãnh đạo OceanBank và 35 cán bộ lãnh đạo chi nhánh khác đang hầu tòa với tội danh “cố ý làm trái”.
Các cơ quan tố tụng đã hơi vội khi định tội, khiến cho phạm vi chịu trách nhiệm tố tụng đã mở rộng tới 35 cán bộ lãnh đạo chi nhánh [“Cố ý làm trái” Thông tư số 02/2011/TT-NHNN, ngày 3-3-2011, chi vượt lãi suất trần: 14%], trong khi bản chất của vụ án này là lãnh đạo PVN tham ô, có sự tiếp tay của Hà Văn Thắm và Nguyễn Xuân Sơn.
Thông tư 02 đưa ra “lãi suất trần” và các hình thức xử lý vi phạm của nó cho thấy, giới hạn điều chỉnh của nó là hành chính, chỉ có 3 chế tài hành chính khi vi phạm Thông tư này: “Đình chỉ hoặc miễn nhiệm người điều hành 3 năm; Hạn chế mở rộng phạm vi, qui mô, địa bàn hoạt động 1 năm; Hạn chế hoặc tạm đình chỉ huy động, cho vay của đơn vị vi phạm thuộc tổ chức”.
Một người vi phạm một quy định hành chánh (có hình thức xử phạt), chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi đã bị xử lý hành chánh mà còn tái phạm. 35 cán bộ chi nhánh vi phạm Thông tư 02, chưa từng bị xử lý hành chánh theo các hình thức quy định tại Thông tư này mà đã bị truy tố là không đúng nguyên tắc tố tụng.
Luật Các Tổ Chức Tín Dụng (cả 2001 & 2010) đều cho phép “Tổ chức tín dụng được quyền ấn định lãi suất huy động”. Tuy nhiên, ở thời điểm vụ việc xảy ra, các tổ chức tín dụng còn phải tuân thủ Bộ Luật Dân Sự 2005 [Khoản 1, điều 476], quy định, lãi suất vay tiền “do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản”, tức là không quá 13,5%/năm (lãi suất cơ bản là 9%/năm theo Quyết định số 2868 ngày 29-11-2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước). Chiểu theo Bộ Luật Dân Sự thì Thông tư 02 cũng đã sai khi không điều chỉnh lãi suất cơ bản mà đưa lãi suất huy động lên 14%, cao hơn mức cho phép là 13,5%.
Tuy nhiên, mức lãi suất này đã không còn hiệu lực. Bộ luật Dân sự năm 2015, [Khoản 1, điều 468] vẫn công nhận nguyên tắc “thỏa thuận lãi suất”, nhưng đưa ra giới hạn “không được vượt quá 20%/năm”.
Như vậy, ngay cả khi bị “hình sự hóa”, 35 bị cáo là cán bộ chi nhánh của Oceanbank cũng cần được các cơ quan tố tụng áp dụng “nguyên tắc có lợi cho người bị buộc tội”[khoản 1 Điều 4 Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015]. Tuyên họ không phạm tội vì theo nguyên tắc này thì không nên truy cứu một hành vi vi phạm một quy định của pháp luật mà giờ đây không còn hiệu lực.
Có lẽ không cần phải nhắc lại bối cảnh rối loạn của thị trường tài chính, ngân hàng 2008 – 2012. Không chỉ có OceanBank, hầu hết các ngân hàng thương mại đều phải chi vượt trần một khoản gọi là “chăm sóc khách hàng” để giữ thanh khoản (điều lẽ ra ngân hàng nhà nước phải giúp họ). Các cơ quan tố tụng không thể chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự các quan chức Oceanbank mà không truy cứu các quan chức ở những ngân hàng khác có cùng hành vi này.
Nhưng, đưa những con người không hề gây nguy hiểm, đang có sự nghiệp vững vàng và đang đóng góp ấy vào vòng tố tụng thì chỉ có mất mát chứ không thêm lợi ích gì cho xã hội.
Bản chất của vụ án này là “tham ô” chứ không phải là “cố ý làm trái”. Những ai nhận phần chi ngoài sổ sách khoản lãi suất vượt trần này, nếu là tư nhân chỉ là nhận lại phần tiền của chính họ (trong bối cảnh lạm phát từ 18-22%/năm). Nhưng đối với khu vực quốc doanh, mà đối tượng chính ở đây là các quan chức tập đoàn Dầu khí thì tiền đấy là tiền của nhà nước, của nhân dân, OceanBank có thể chi nhưng nếu các quan chức PVN giữ lấy làm “đối ngoại” hoặc tiêu xài thì phải được gọi đúng tên là tham nhũng.
Chỉ vì xác định không chính xác tội danh, cơ quan điều tra đã mất rất nhiều thời gian với 35 cán bộ chi nhánh thay vì tập trung điều tra các quan tham ở PVN đặc biệt là Đinh La Thăng.
Nếu chỉ xử những người làm công ăn lương ở OceanBank mà không xử các quan chức PVN ăn chia tiền lãi suất ngoài sổ sách thì vụ án rất dễ bị đi lạc hướng.
Nếu không truy cứu trách nhiệm hình sự Đinh La Thăng thì trong vụ PVN, coi như các cơ quan chống tham nhũng chỉ “lượm củi khô”, chỉ bắt đám thừa hành mà để lọt thủ phạm, để lọt kẻ cầm đầu; những đồng phạm như Sơn, như Quỳnh… ai hiểu nội tình Dầu Khí đều biết, họ không oan, nhưng ở một mức độ nào đó họ đều là nạn nhân của Thăng.


Huy Đức's Blog
- Huy Đức's profile
- 51 followers
