Huy Đức's Blog, page 14

September 1, 2013

Cha Tôi

Anh em chúng tôi tổ chức lễ mừng thọ bách niên cha (ông Trương Dưỡng) mà rất vui vì còn được đón mừng hai bậc cao niên khác trong gia đình, chú Trương Huy Thắng, em trai thứ 5 của cha tôi,năm nay 90 tuổi; cô Trương Thị Vân, em gái thứ 11 của cha tôi, năm nay 84 tuổi.


Dẫu rằng ngày nay, người thọ bảy mươi, tám mươi, không còn hiếm nữa, nhưng bách niên giai lão như cha tôi và thượng thọ như cô chú tôi vẫn là một ân huệ, một món quà vô giá của trời tổ tiên, trời đất.


Cha tôi sinh năm 1913 tại Hà Tĩnh. Ông bà nội sinh hạ 11 người con nhưng chỉ nuôi được 7. Một người chú nữa hy sinh năm 1954 ở vùng biên Thanh Hóa – Lào. Tháng 8-1945, cha tôi – một người lính của “quan hai” Phan Tử Lăng – tham gia cướp chính quyền ở Huế. Trong chiến dịch Hạ Lào và chiến dịch Hà – Nam – Ninh, ông đã là đại đội trưởng, nhưng năm 1952, sau khi bị thương nặng, ông xuất ngũ.


Năm 1946, cha tôi đóng quân ở xã Phù Việt, ở đó ông yêu một người con gái xinh đẹp con địa chủ tên là Bùi Thị Tám nhưng họ không đến được với nhau. Bà Bùi Thị Tám giới thiệu một người bạn của bà cho cha tôi, người về sau trở thành mẹ tôi. Mẹ tôi cũng tên là Tám – NguyễnThị Tám.


Cha tôi chưa bao giờ thốt ra những lời yêu thương, chúng tôi đọc được những điều đó trong toàn bộ cuộc đời ông. Chúng tôi cũng rất vụng về khi sử dụng ngôn từ để bày tỏ tình yêu và sự kính trọng đối với song thân.



Di sản mà cha mẹ tôi để lại không phải là công danh, tiền bạc mà là sự hy sinh. Sau khi buông súng cha tôi dồn hết thời gian cho gia đình. Năm 1960 ông được đưa đi “xây dựng nông trường quốc doanh”. Đơn vị mà ông đứng đầu được vinh danh là “Tổ lao động xã hội chủ nghĩa”. Cá nhân ông ba năm liền được tặng danh hiệu chiến sĩ thi đua toàn miền Bắc. Ông được bồi dưỡng điển hình, được điều ra Bộ Nông trường, nhưng đã từ chối con đường công danh, chọn ở lại quê nuôi 7 anh em chúng tôi ăn học.


Trong chiến tranh, nhà tôi ở cạnh ngã ba Khe Giao và ở cách không xa ngã ba Đồng Lộc. Tuổi thơ của chúng tôi lớn lên bên cạnh hố bom, mắt thấy những đoàn xe chuyển quân, những chiếc máy bay Mỹ bổ nhào; tai nghe tiếng bom rít và từng tràng đạn pháo phòng không bắn trả.


Cha tôi bao giờ cũng là ngườixuống hầm sau cùng. Giáng sinh năm 1972, chúng tôi được thông báo, nếu nghe ba phát pháo thì phải ra hầm ngay vì đó là tín hiệu báo động có B-52. Suốt tuần đó, chúng tôi chạy lên, chạy xuống hàng chục lần nhưng B-52 chỉ ném xuống Hải Phòng, Hà Nội… Đêm ấy, khi nghe tiếng pháo hiệu, cha tôi nói: “Thôi các con cứ ngủ yên, chắc nó không đánh vùng ta đâu”. Cha tôi sai nhưng điều đó đã cứu chúng tôi.


Ngay khi cha tôi vừa dứt lời, đất dưới chân giường rung chuyển, đêm bị xé ra bởi một bức tường âm thanh, tiếng bom tiếp nối tiếp tiếng bom, chát chúa. B-52 đánh ngay vào chỗ chúng tôi – đội Một, nông trường Thạch Ngọc.


Chiếc giường mà ba cha con tôi nằm được đặt thấp hơn mặt đất. Trên trần nhà được che chắn bởi những thanh gỗ chắc chắn. Không có quả bom nào rơi trúng nhà, nhưng khi mặt trời lên, chúng tôi nhìn thấy những tảng đá to nằm trên trần ngay chỗ giường chúng tôi nằm; tường đất bị sập, thủng; không có chiếc cột nhà nào là không bị mảnh bom xé toạc. Nếu chúng tôi đứng dậy chạy ra hầm thì có thể đã bị xé ra như những chiếc cột nhà.


Ngay khi vừa dứt tiếng bom, trong khi cha tôi “điểm danh” vợ, con, anh tôi chạy tới những gia đình đang bị bom vùi. Đêm ấy xóm tôi mất 6 người, trong đó, nhà chú Thận mất ba, ba đứa con còn lại của chú Thận từ đó mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cha tôi đưa ba chị em về ở trong nhà.


Tôi chưa bao giờ thấy cha tôi đi ngủ trước. Mỗi sáng, khi ông đánh thức chúng tôi, cơm sáng và phần cơm gói mang đến trường cho buổi trưa đã được ông chuẩn bị. Mấy anh em tôi mỗi đứa học một trường, nhà xa, thường phải đi bộ từ 5 giờ sáng. Mùa Đông giờ ấy hãy còn rất rét và tối, cha tôi thường cùng chị tôi – học cách nhà 10 km – đi bộ cho tới khi mặt trời lên, có đông người ra đường, ông mới quay trở về.


Năm 1973, cha tôi về hưu -khi đó em gái út của chúng tôi chỉ mới lên ba, các anh của tôi, người thì đang chiến đấu ở miền Nam, người thì đi học xa – thay vì nghỉ ngơi, ông lại bắt đầu một công việc khác, lần này không phải để “xây dựng chủ nghĩa xã hội” mà dựng cho anh em chúng tôi một căn nhà.


Căn nhà gỗ nhỏ của chúng tôi được nhiều người trầm trồ. Ông bắt đầu giúp hàng xóm làm nhà rồi không lâu sau trở thành một chủ thầu. Nhiều ngôi nhà như thế đã được ông dựng lên ở trong vùng.


Năm 1988, cha mẹ tôi chuyển vào Sài Gòn, nơi 4 anh em tôi, định cư. Tại đây, hai người gặp lại người bạn thời thanh niên, bà Bùi Thị Tám. Con trai bà Tám – Bùi Đức Thịnh – là bạn ở Sài Gòn của tôi nhưng mãi về sau này chúng tôi mới hay cha mẹ mình đã từng có một mối tình như vậy. Trong suốt hơn hai thập niên qua, gần như mỗi tuần, cha tôi lại đạp xe, cả đi lẫn về, 10 cây số, để thăm bà Tám.


Sống bách niên để chứng kiến con cháu sum vầy chắc chắn là hạnh phúc nhưng đồng thời cũng phải lần lượt chứng kiến bạn bè của mình bỏ mình. Mẹ tôi mất đã gần ba năm. Và, cách đây vừa đúng 50 ngày khi nhận được tin bà Bùi Thị Tám bệnh nặng, tôi chạy tới khi bà đang ở trong tình trạng hấp hối. Tôi bước ra ngoài gọi điện thoại cho em tôi. 15 phút sau cha tôi tới. Ông kéo ghế ngồi bên cạnh, cầm tay bà, không nói gì, chỉ 10 phút sau Bà Bùi Thị Tám mất.


Giờ đây, mỗi sáng cha tôi vẫn dậy sớm, tập thể dục, đi vài đường quyền rồi đạp xe năm, bảy ki lô mét thăm những người trong tổ hưu, trong hội người cao tuổi, những người gần như chỉ bằng tuổi con mình. Họ cùng làm thơ và đọc cho nhau nghe.


Tối nay, trong tiệc mừng bách niên cha tôi, có một phụ nữ trong tổ hưu lên đọc thơ “cách mạng”. Chúng tôi hỏi cha có phát biểu hoặc đọc thơ không, ông bảo: “Thôi, những điều tao nói tụi bây không thích”. Cha tôi vẫn sống với nhiều ký ức. Cho dù ông không muốn làm phiền thế hệ con cái mình, chúng tôi hiểu, trong ông, đó là những điều rất đẹp.

17


Lụa của Chủ tịch Nước (Phường bảo thế)

Lụa của Chủ tịch Nước (Phường bảo thế)


15


Người chú thứ 5 (áo xanh) năm nay vừa tròn 90 tuổi

Người chú thứ 5 (áo xanh) năm nay vừa tròn 90 tuổi


Cha tôi và cô Út (84 tuổi)

Cha tôi và cô Út (84 tuổi)


11

Huy Đức



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 01, 2013 05:07

June 15, 2013

Chia tay nước Mỹ

Khi khép cánh cửa 21 Shepard, nhận ra mình sẽ không còn quay lại căn nhà này, bàn tay của tôi hơi sững lại, cảm giác như khi chia tay một người thân mà biết rồi sẽ không gặp nhau.


Thời tiết Cambridge đang ở thì đẹp nhất.


Tôi đã ở đây một năm.


Tháng 8-2005, tôi được một gia đình Mỹ ở vùng Washington, DC tình nguyện cho tạm trú trong nhà. Lúc đầu tưởng chỉ ở một tuần nhưng sau do việc bố trí nhà ở của trường có trục trặc nên tôi đã ở lại gia đình này ba tuần.


Jeff, tên người chồng, là một đầu bếp. Anh rất hiếu khách, bữa thì Jeff làm cá hồi đút lò, bữa thì steak. Tôi ăn uống rất nhiệt tình và tự bảo đồ Mỹ không ngán như mình tưởng. Cho đến ngày Vicky, tên người vợ, chở tôi đến trường. Khi xe chạy qua một khu mua sắm nhỏ, tôi nhìn thấy… “Phở 75″. Những bảng hiệu sặc sỡ khác bỗng chốc lu mờ. Bụng không đói mà tự nhiên cồn cào, tất cả các giác quan của tôi đều rạo rực. Tôi bảo Vicky dừng xe.


Vicky ngồi đợi tôi. Chị lịch sự cầm tờ báo cao lên, dán mắt vào đó để tôi tự nhiên. Không biết chị có đọc được chữ nào trong khi tôi xì xoạp húp. Không phải bao giờ cũng có dịp để nhận ra, một giọt nước mắm cũng khiến ta nôn nao, một câu hát cũng có thể chạm vào nơi yếu nhất.


Không như mấy thập niên trước, nước Mỹ bây giờ gần như vùng nào cũng có một cộng đồng Việt Nam, ở đâu cũng không quá khó khăn để kiếm phở và nước mắm. Anh Thái, một nhà báo ở khu quận Cam nói đùa: “Chỉ khi ra khỏi Mỹ tôi mới phải nói tiếng Anh”.


Đang chạy xe trên “freeway” anh Thái thừa nhận: “Mình cũng đã từng quay quắt làm đủ thứ để trở về nhưng ở đây 5 năm, 10 năm, 20 năm… rồi cũng quen, rồi yêu nó lúc nào không hay Huy Đức ạ”. Tôi biết anh nói thực lòng. Không phải tự nhiên mà năm nào cũng có cả triệu người xếp hàng chờ thẻ xanh, nước Mỹ là một trong những nơi có nhiều người muốn đến.


Thẻ xanh!


Ngày nay, những người yêu Việt Nam không nhất thiết phải ở Việt Nam mà nên ở nơi họ cống hiến được nhiều hơn. Một nhà khoa học mà về Việt Nam có khi lại lãng phí hơn là ở lại nơi họ có môi trường để góp phần tạo ra những thành tựu mới cho khoa học. Chưa biết bao giờ Việt Nam trở thành quốc gia có thể đóng góp cho thế giới những giá trị mới. Nhưng người Việt trong nước vẫn đi lại bằng Airbus, Boeing và nhiều bạn trẻ vẫn có trên tay những chiếc I-phone gần như đồng thời với thanh niên Mỹ.


Nhưng có những người được chuẩn bị để có thể tạo ra những giá trị toàn cầu trong khi nhiều người khác lại chỉ có thể làm những công việc hoàn toàn nội địa. Có những người muốn thay đổi thế giới trong khi có những người lại chỉ muốn chăm sóc vườn tược của mình. Có những người thích cầm ly Starbucks bước vào những building trong khi có người chỉ thấy thoải mái khi ngôi bệt bên hàng chè chén.


Giữa thập niên 1990, anh Khanh, một người bạn, lần đầu về lại Sài Gòn, một trong những việc anh muốn làm là… ăn lại tô phở Quyền. Bạn bè tiếp nối bạn bè nên mãi đến khi trên đường ra sân bay anh mới có thời gian tạt vào quán phở. Nhưng, tô phở anh ăn không phải là tô phở mà anh chờ đợi. Trong suốt gần hai mươi năm rời Việt Nam, “phở Cali” đã xác lập chuẩn mực ẩm thực mới cho anh. Cho dù tô phở Quyền vẫn là phở Quyền nó cũng không thể khớp với tô “phở Quyền” của anh trong ký ức.


Năm 1983, khi vào Sài Gòn, tôi giật mình thấy mấy phụ nữ lớn tuổi ở Xóm Mới khăn đóng, răng đen, “Bắc Kỳ” hơn những người phụ nữ cùng thế hệ đang sống trên miền Bắc. Nếu như những người ra đi thường nỗ lực để bảo tồn những giá trị văn hóa mà họ mang theo ngày rời quê hương thì những người ở lại khá hồn nhiên tiếp thu thêm nhiều cái mới, họ để cuộc sống tiếp diễn một cách sống động thay vì biến nó thành bảo tàng.


Không chỉ có Việt Kiều ra đi mà cộng đồng trong nước cũng “đi”. Đôi bên đã đi về những hướng rất xa và tới những vùng rất khác nhau. Người Việt ở nước ngoài không chỉ sống với phần Việt mang theo mà còn tiếp nhận những giá trị mới để “hội nhập” với con cháu mình và cộng đồng sở tại.


Tôi nằm trong số những người được sinh ra để làm những việc “local”, những người biết hương vị Starbucks nhưng đã quá thân quen với hàng chè chén.


Tôi không muốn bắt đầu một hành trình có thể đẩy mình đi quá xa với nơi mà mình yêu thương.


Huy Đức



3 likes ·   •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 15, 2013 04:33

May 24, 2013

Cờ đỏ, cờ vàng và hòa giải

Tháng 8-2001, tôi ghé thăm một phóng viên báo Tuổi Trẻ đang học báo chí ở đại học Fullerton, California. Cô khoe, nhóm sinh viên đến từ Việt Nam vừa đấu tranh thành công để cờ đỏ sao vàng được treo ở trại hè do trường tổ chức.


Cuộc tranh giành màu cờ tại Fullerton trở nên kịch tính trong năm 2004 khi nhóm sinh viên gốc Việt tuyên bố không tham dự lễ ra trường nếu cờ đỏ sao vàng được sử dụng theo yêu cầu của các sinh viên đến từ Việt Nam. Trường Fullerton phải chọn giải pháp không treo cờ của nước nào trong lễ tốt nghiệp.


Phần lớn người Việt đến Mỹ phải lao động, học tập để vươn lên, họ không có nhiều thời gian để “care” (quan tâm) đến chính trị Việt Nam. Tháng 7-1995, khi Hà Nội và Washington thiết lập bang giao, cờ đỏ sao vàng chính thức được kéo lên trên đất Mỹ. Thật dễ hiểu khi những người Việt vượt biển trên những chiếc thuyền con, những người Việt đã nằm 15 năm, 17 năm trong các trại cải tạo, từ chối đứng dưới cờ đỏ sao vàng.


Nhưng phản ứng chỉ bắt đầu quyết liệt vào năm năm 1999, khi một người đàn ông sống tại Little Sai Gon, tên là Trần Văn Trường, cho treo trước cửa tiệm ảnh Hồ Chí Minh cùng cờ đỏ sao vàng. Cộng đồng người Việt đã biểu tình liên tục trong suốt 53 ngày để phản đối. Từ California,”chiến dịch Cờ Vàng” bắt đầu, dẫn đến việc 14 tiểu bang, gần 100 thành phố công nhận cờ vàng ba sọc đỏ như một biểu tượng của cộng đồng gốc Việt.


Cờ vàng không chỉ xuất hiện ở Mỹ.


Từ giữa thập niên 1990, nhiều nhà lãnh đạo của Hà Nội phản ứng gay gắt khi trong các chuyến công du thấy “quần chúng đón rước” không dùng cờ đỏ sao vàng mà chỉ dùng cờ vàng ba sọc đỏ. Không phải quan chức Việt Nam nào cũng hiểu chính quyền sở tại không (dại gì) đứng sau những nhóm quần chúng tự phát đó. Cho tới năm 2004, các nhà ngoại giao Việt Nam ở Mỹ vẫn mất rất nhiều công sức để ngăn chặn chính quyền các tiểu bang công nhận cờ vàng.


Việc chính quyền tiểu bang công nhận cờ vàng chỉ là một động thái đối nội. Nhà nước Việt Nam Cộng hòa rõ ràng không còn tồn tại, chính quyền Mỹ bang giao với nhà nước CHXHCN Việt Nam và công nhận cờ đỏ sao vàng. Nhưng, chính quyền Mỹ không thể ngăn cản cộng đồng người Mỹ gốc Việt chọn cho mình biểu tượng.


Một quan chức Việt Nam và thậm chí một thường dân đang cầm hộ chiếu nước CHXHCN Việt Nam, trong một nghi lễ chính thức, có quyền chỉ đứng dưới cờ đỏ sao vàng. Nhưng, một quan chức đi làm “kiều vận” mà không dám bước vào một ngôi nhà có treo cờ vàng thì sẽ không thể nào bước vào cộng đồng người Việt. Tất nhiên, bất cứ thành công nào cũng cần nỗ lực từ nhiều phía.


Năm 2006, tôi gặp lại cô bạn phóng viên Tuổi Trẻ từng học ở Fullerton. Nhà cô vào giờ đó thay vì treo cờ đỏ sao vàng, góc nào cũng tràn ngập cờ vàng ba sọc đỏ. Tôi chưa kịp tìm hiểu đó là sự lựa chọn mới của cô hay đó là cách để có thể hòa nhập vào “cộng đồng”.


Năm 2008, “cộng đồng người Việt Cali” đã biểu tình kéo dài khi người phụ trách tòa soạn tờ Người Việt, Vũ Quý Hạo Nhiên, cho in tấm hình chụp một cái bồn ngâm chân có in biểu tượng cờ vàng. Hạo Nhiên, thêm sự cố 2012, đã phải ra đi và biết chắc khó lòng quay trở lại. Biểu tình năm 1999, cho dù là “ôn hòa”, cũng đã khiến cho Trần Văn Trường phải chạy về Việt Nam.


Cờ đỏ sao vàng khó có thể xuất hiện ở Californiacho dù ở đó có xuất hiện một cộng đồng người Việt đến từ miền Bắc.


Nếu như nhiều người dân miền Nam trước đây tin cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của tự do thì đối với phần lớn người dân miền Bắc và thế hệ trẻ hiện nay ở miền Nam, cờ đỏ sao vàng không hẳn là biểu tượng của chế độ mà là biểu tượng quốc gia. Nhiều người đã đứng dưới lá cờ ấy để đấu tranh cho điều mà họ tin là độc lập, tự do; nhiều người đã theo lá cờ ấy mà không phải là cộngsản.


Nhiều người dân trong nước vẫn dùng cờ đỏ khi bày tỏ lòng yêu nước.


Tất nhiên cũng cần phân biệt hành động của một số kẻ cực đoan (chống lại cờ đỏ sao vàng) với hành vi của những quan chức chính quyền. Ngăn cản những du học sinh đến từ Việt Nam sử dụng cờ đỏ sao vàng cũng là một việc làm phi dân chủ. Những người hiểu được các giá trị của tự do không thể ngăn cản người khác đứng dưới một lá cờ mà mình không thích.


Nhiều người Mỹ vẫn treo cờ miền Nam cho tới ngày nay cho dù nội chiến Bắc – Nam đã kết thúc từ năm 1865. Thật khó để nghĩ tới tình huống người dân miền Nam Việt Nam được phép treo cờ vàng sau ngày 30-4-1975. Cuộc chiến tranh kéo dài 20 năm không chỉ thống nhất non sông mà còn để áp đặt ý thức hệ cộng sản lên người dân Việt. Một thời, phải “yêu chủnghĩa xã hội” mới được Đảng công nhận là yêu nước. Ngay lá cờ nửa đỏ nửa xanh của “mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam” một tổ chức do Đảng cộng sản lập ra cũng đã biến mất chỉ sau mấy tháng.


Nhiều người Việt Nam nghĩ, làm biến mất lá cờ vàng ba sọc đỏ là khôn ngoan. Nhiều người cho rằng lá cờ đó thuộc về một chính thể không còn tồn tại và là biểu tượng của một sự thất bại. Nhiều người được dạy, lá cờ đó gắn liền với những xấu xa như là “Việt gian, bán nước”.


Cuối năm 2012, sinh viên Phương Uyên và Nguyên Kha bị bắt khi rải truyền đơn ở Long An có kèm theo biểu tượng cờ vàng.


Chúng ta không có đủ thông tin để khẳng định Phương Uyên và Nguyên Kha chủ động chọn lá cờ này hay được hướng dẫn “bởi các thế lực bên ngoài”. Cho dù lá cờ ấy đến từ bên nào cũng cho thấy cờ vàng đã không biến mất như nhiều người mong muốn. Cho dù không ai biết được lá cờ nào sẽ được chọn trong tương lai, sự trở lại của cờ vàng buộc chúng ta phải thừa nhận, trong nội bộ người Việt với nhau còn bao gồm cả người Việt Nam quốc gia và người Việt Nam cộng sản.


Và, trong không gian nước Việt cũng không chỉ có người Việt.


Chín mươi triệu người dân Việt Nam rõ ràng không phải là “con một cha, nhà một nóc”. Khi “mở cõi” xuống phía Nam, các bậc tiền bối đã từng mang cuốc nhưng cũng đã từng mang gươm.


Người dân thuộc các dân tộc Tây Nguyên và những bộ tộc Chăm chưa hẳn không còn nghĩ tới đế chế Champa. Những chính khách đối lập ở Campuchia vẫn thường khai thác chủ nghĩa dân tộc cực đoan khi nhắc Sài Gòn và một số tỉnh miền Tây một thời là đất đai của họ…


Sự khác biệt đó trong cộng đồng Việt Nam có thể là những mối đe dọa, đồng thời, cũng là nền móng để xây xựng một Việt Nam thống nhất mà đa dạng. Một quốc gia sẽ trở nên vững mạnh khi sự đa dạng được thừa nhận. Một quốc gia cũng có thể rơi vào sự hỗn loạn hoặc không thể phát triển nếu sự thống nhất bị phá vỡ.


Nhưng, thống nhất quốc gia mà không dựa trên nền tảng hòa giải quốc gia thì sự thống nhất đó chỉ là tạm thời. Thống nhất quốc gia mà bằng cách ém nhẹm lịch sử và dùng vũ lực để dập tắt sự trỗi dậy của những sự khác biệt thì chẳng khác nào gài vào thế hệ tương lai một trái bom.


Nam Tư thời Tito được coi là thịnh trị, các cuộc nổi dậy đều bị dập tắt. Nhưng, ngay những ngày đầu thời hậu Tito, nước Nam Tư bắt đầu rơi vào một thập niên xung đột. Các sắc tộc chém giết lẫn nhau, cơ cấu liên bang sụp đổ. Không chỉ có Nam Tư, Indonesia hồi thập niên 1990 và Myanmar hiện nay cũng đang diễn ra những điều tương tự.


Đừng sợ những người Khmer ở miền Tây sẽ đòi mang đất về Campuchia trừ khi về phát triển và tự do, dân chủ, Việt Nam kém quá nhiều so với Campuchia. Không có người dân Arizona nào không biết đất ấy từng thuộc về Mexico nhưng không ai đòi đưa Arizona trả về cho “đất mẹ”. Ranh giới quốc gia càng ngày càng trở nên mong manh. Ở đâu có cơm no áo ấm hơn, ở đâu có tự do hơn, thì người dân sẽ chọn.


Sự khác biệt và đa dạng lúc nào cũng có thể bị kích động bởi các thế lực cực đoan. Không phải độc tài, toàn trị mà theo kinh nghiệm của những quốc gia thành công, càng nhiều tự do thì càng tránh cho sự khác biệt đó trở thành xung đột.


Tiến trình tự do cũng phải mất thời gian để thuyết phục không chỉ với những người đang cầm quyền mà cả những người dân bình thường và những thành viên trên facebook này. Trong ngày 30-4, có thể nhiều người không muốn treo cờ đỏ sao vàng (khi bị tổ dân phố yêu cầu) nhưng chính họ, chưa chắc đã hài lòng khi nhà hàng xóm treo cờ vàng ba sọc đỏ. Vấn đề là chính quyền phải làm sao để mọi phản ứng đều phải ở dưới hình thức ôn hòa.


Câu chuyện đốt cờ Mỹ sau đây có thể giúp ta có thêm thời gian suy nghĩ.


Nhiều thập niên sau nội chiến (1861-1865) nhiều người Mỹ lo ngại giá trị quốc kỳ bị giảm khi nó được các thương gia dùng để vẽ logo và đặc biệt khi nhiều người da trắng ở miền Nam thích treo cờ miền Nam (Confederate flag) hơn. Để phản ứng lại điều này, 48 tiểu bang của Hoa Kỳ đã thông qua luật cấm mạo phạm quốc kỳ, các hành động như xé, đốt, dùng cờ để quảng cáo… đều bị cấm.


Năm1905, Halter đã bị tòa tiểu bang buộc tội “khi kỳ” khi bán những chai bia có in cờ Mỹ. Năm 1907, Halter tiếp tục thua kiện ở Tối cao pháp viện.


Cho tới năm 1968, Quốc hội Mỹ vẫn thông qua luật cấm “đụng chạm” tới quốc kỳ sau khi một nhóm người Mỹ chống chiến tranh Việt Nam đốt cờ ở Central Park. Nhưng một năm sau đó, khi nghe tin cảnh sát bắn James Meredith, một nhà hoạt động dân quyền, Sydney Street đã đốt một lá cờ Mỹ ở một ngã tư của New York. Ông bị bắt và bị buộc tội “khi kỳ”.


Sydney Street kháng án vì cho rằng: “Nếu cảnh sát làm điều đó với Maredith chúng ta không cần lá cờ Mỹ”. Tối cao pháp viện đã bác án của tòa New York vì, Hiến pháp bảo vệ quyền bày tỏ chính kiến khác nhau, bao gồm cả quyền thách thức hay khinh thường quốc kỳ.


Cuộc đấu tranh đã không dừng lại.


Năm 1972, một học sinh ở Massachusetts, Goquen, bị bắt, bị xử 6 tháng tù khi may một cờ Mỹ ở đít quần. Nội vụ được chuyển lên Tối cao pháp viện. Tối cao pháp viện tuyên bố luật tiểu bang (dùng để xử Goquen) là vi hiến. Các vị thẩm phán Tối cao cho rằng, trong một quốc gia đa văn hóa, có những hành động mà người này cho là “khinh ” thì người kia lại cho là trân trọng, cho nên, chính phủ không có quyền bảo người dân phải bày tỏ thái độ, ý kiến theo cách nào.


Năm 1984, để phản đối các chính sách của Tổng thống Reagan, Lee Johnson đã nhúng dầu và đốt một lá cờ trước cửa cung đại hội của đảng Cộng hòa. Ông bị bắt, bị xử tù 1 năm và phải nộp phạt 2000 dollars. Tòa tối cao tiểu bang Texas bảo vệ Johnson và cho rằng tòa án cấp dưới sai khi coi hành vi “gây xáo trộn xã hội” của Johnson là “tội”. Theo Tòa tối cao Texas: Tạo ra sự bất ổn, tạo ra sự xáo trộn, thậm chí tạo ra sự giận dữ của người dân là cần thiết, vì chỉ khi đó chính phủ mới biết rõ nhất chính kiến người dân.


Vụ việc dẫn tới, năm1989, Tối cao pháp viện Mỹ quyết định bãi bỏ các luật cấm đốt cờ ở 48 tiểu bang. Các quan tòa đưa ra phán quyết này giải thích rằng, nếu tự do bày tỏ chính kiến là có thật nó phải bao gồm cả tự do bày tỏ những ý kiến mà người khác không đồng ý, hoặc làm người khác khó chịu. Ngay cả thái độ với quốc kỳ, chính phủ cũng không có quyền bắt người dân chỉ được gửi đi những thông điệp ôn hòa và không làm cho ai khó chịu. Cuộc tranh cãi kéo dài tới nhiều năm sau, Quốc hội Mỹ có thêm 7 lần dự thảo tu chính án để chống lại phán quyết này nhưng đều thất bại.


Việc để cho người dân treo lá cờ cũ của phe bại trận miền Nam, việc để cho người dân quyền được bày tỏ thái độ, kể cả bằng cách đốt cờ, đã không làm cho giá trị quốc kỳ của Hoa Kỳ giảm xuống.


Những điều trên đây rõ ràng chưa thể xảy ra ở Việt Nam. Nhưng chúng ta cũng không nên coi đấy là độc quyền của Mỹ. Người dân Việt Nam cũng xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Người dân Việt Nam, dù là Việt hay H’mong, dù là Khmer hay Chăm… cũng xứng đáng được gìn giữ và phát triển sự khác biệt của mình. Người Việt Nam, dù là cộng sản hay quốc gia, cũng xứng đáng có quyền bày tỏ những gì mà mình tin tưởng.


Không thể có tự do trong một chế độc tài toàn trị. Nhưng, tự do cũng không thể có nếu như mỗi người dân không tự nhận ra đó là quyền của mình. Bạn không thể hành động như một người tự do nếu không bắt đầu bằng tự do trong chính tư duy của bạn.


Huy Đức



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 24, 2013 02:12

May 12, 2013

Phấn Đấu & Cơ Cấu

Thay vì bỏ phiếu chuẩn thuận ba ứng cử viên do Bộ chính trị đưa ra, Trung ương đã đề cử thêm rất nhiều người. Kết quả, sau 3 vòng bỏ phiếu, hai ứng cử viên do Bộ chính trị đưa ra thất cử.


Chiến thuật làm loãng phiếu bằng cách đưa thêm ứng cử viên từng được “áp dụng” hồi tháng 1-2009, đánh rớt cơ hội vào Ban bí thư của Tướng Lê Thế Tiệm. Nhưng không chỉ đơn giản là gạch bỏ Vương Đình Huệ hay Nguyễn Bá Thanh, lần này, dường như đang có nhiều Trung ương ủy viên muốn giành lại quyền quyết định (theo điều lệ) của Trung ương thay vì cam lòng biểu quyết như cơ quan chấp hành của Bộ chính trị.


Trong lịch sử bầu bán của Đảng cộng sản Việt Nam, những người không được Bộ chính trị hoặc Ban chấp hành trung ương giới thiệu, khi được các đại biểu hoặc các ủy viên trung ương khác giới thiệu, đều tự giác rút lui hoặc được yêu cầu rút lui. Không cần chờ tới Đại hội hay Hội nghị trung ương, một nhân vật đã được Bộ chính trị, được tổng bí thư hoặc có thời chỉ cần được Lê Đức Thọ “chấm” là chắc chắn vào Trung ương, thậm chí vào những vị trí cao hơn trong Đảng.


Dưới thời Tổng bí thư Đỗ Mười, có những câu chuyện làm nhân sự nghe cứ như giai thoại: Trước Đại hội VIII (1996), ông Đỗ Mười cho gọi một vị phó thủ tướng tới bảo: “Kỳ này tôi nghỉ anh thấy sao?”. Vị phó thủ tướng, vốn là một trí thức lịch lãm, chân thành hỏi lại: “Ai sẽ thay anh?”. Kết quả, ông bị loại ra khỏi danh sách tái cử. Ông Đỗ Mười lại cho mời một nhà lý luận bảo thủ tới và khi ông vừa dứt lời thì nhà lý luận này liền đập tay xuống bàn: “Trời ơi, đất nước đang như thế này anh nghỉ làm sao được”. Kết quả, nhà lý luận giữ được ghế ủy viên Bộ chính trị.


Ngày 19-6-1996, tại Hội nghị Trung ương 12 (Hội nghị trước khi Đại hội VIII bắt đầu), Tổng bí thư Đỗ Mười đã yêu cầu Trung ương đưa vào danh sách đề cử ủy viên Bộ chính trị hai nhân vật bị Hội nghị Trung ương 11 đưa ra và yêu cầu tái cử thêm hai ủy viên Bộ chính trị quá tuổi, Đoàn Khuê và Nguyễn Đức Bình. Tuy bị ba uỷ viên trung ương phản ứng, khi ông yêu cầu “giơ tay biểu quyết”, đa số Trung ương phải “chấp hành” ý kiến của ông. Sau Đỗ Mười, không có tổng bí thư nào có khả năng thô bạo với Trung ương như thế.


Từ Đại hội VI bắt đầu có chuyện ứng cử viên được đề cử bởi Ban chấp hành Trung ương bị thất cử ở trong đại hội. Hai nhân vật “tạo tiền lệ” là Tố Hữu (từng được Lê Duẩn chọn kế vị Tổng bí thư) và Hoàng Tùng, khi ấy đang là Bí thư trung ương Đảng. Năm 2011, Trung ương cũng từng đánh rớt một nhân vật được Bộ chính trị tái cơ cấu, Hồ Đức Việt, và Đại hội cũng đã không bầu Phạm Gia Khiêm một người được đưa vào danh sách chính thức của Trung ương.


Càng về sau, càng có nhiều ứng cử viên “giới thiệu thêm” được đưa vào danh sách bầu. Nhưng, cho dù danh sách ứng cử viên có đông hơn thì xác suất thất cử của các ứng cử viên được Bộ chính trị, Trung ương trình ra là rất thấp.


Ông Nguyễn Phú Trọng là “người của thiểu số” ngay khi bắt đầu trở thành Tổng bí thư. Ông ủng hộ “chế độ công hữu về tư liệu sản xuất” trong khi chiều 18-1-2011, 61,70% đại biểu của Đại hội XI đã chọn định nghĩa đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp”.


Việc Đại hội không coi “sở hữu công” như là một đặc trưng chủ yếu của chủ nghĩa xã hội lẽ ra phải có giá trị như một hành động vứt bỏ vòng kim cô cuối cùng của Marx (căn cứ theo Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản). Ông Trọng có thể đã có một vị trí lịch sử khác nếu ông “phục tùng đa số” như ông tuyên bố khi nhận chức Tổng bí thư, đẩy mạnh giải tư khu vực kinh tế quốc doanh và trao quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân. Nhưng, Nguyễn Phú Trọng đã chứng tỏ một cách hùng hồn là ông không có khả năng nhận ra thời cuộc cho chính ông, đừng nói là cho đất nước.


Từ Hội nghị Trung ương Bốn, ông Nguyễn Phú Trọng rõ ràng đã có nỗ lực để trở nên không tẻ nhạt như người tiền nhiệm của mình. Chỉnh đốn Đảng và chống tham nhũng là một lựa chọn khá được lòng dân. Nhưng, thay vì thừa nhận nguyên nhân tham nhũng là từ “lỗi hệ thống” để cải cách chính trị theo hướng dân chủ hơn; thay vì để cho Quốc hội và tư pháp được thực thi các quyền hiến định của mình, ông lại sử dụng những công cụ hết sức giáo điều trong khi trung ương không còn một đa số chỉ biết vâng lời như trước nữa.


Việc các cơ quan trung ương được cắt giảm chỉ còn sáu ban, kể từ năm 2006, là kết quả của gần hai thập niên cải cách chính trị theo hướng “Đảng lãnh đạo nhà nước chứ không làm thay nhà nước”. Vậy mà tại Hội nghị Trung ương Năm, ông Trọng lại cho khôi phục Ban Nội chính và Ban Kinh tế trung ương (một ban chỉ mới được giải tán từ năm 2006).


Sau khi Hội nghị trung ương Sáu đồng ý “cơ cấu” chức ủy viên Bộ chính trị cho các trưởng ban. Thay vì bầu bổ sung Bộ chính trị trước, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những bước đi “chắc ăn”: Bổ nhiệm Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ làm trưởng ban rồi mới đưa ra Trung ương bầu bổ sung. Kết quả cả hai đều không đắc cử.


Đây không chỉ là vấn đề tiêu chuẩn cá nhân của ông Huệ hay ông Thanh mà là “sự nổi loạn” của các ủy viên trung ương. Có lẽ không mấy trung ương ủy viên không từng mơ tới chiếc ghế trong Bộ chính trị cao sang, và giờ đây không ít người trong số họ không muốn chỉ ngồi nhìn những kẻ có tiền qua mặt mình, hoặc không muốn chấp nhận nguyên lý “mười năm phấn đấu không bằng một lần cơ cấu”.


Sau thất bại ở Trung ương Bảy, lẽ ra ông Trọng và Bộ chínhtrị phải nhận ra trong Đảng đã tự diễn biến, các phương thức chính trị cổ hũ đã không còn thích hợp với thực tiễn hiện nay. Thời kỳ các lãnh tụ áp đặt niềm tin cá nhân lên toàn đảng, toàn dân tộc đã qua, ngay trong nội bộ của hệ thống toàn trị cũng cần phải có những chính trị gia thật sự.


Thay vì dừng lại để tìm một hướng đột phá, lấy phương thức vận động tranh cử để làm “công tác cán bộ trong tình hình mới”, Trung ương Bảy vẫn thông qua chiến lược nhân sự cho Đảng tới 2021 và vẫn dựa trên nguyên tắc “cơ cấu” và “quy hoạch”.


Năm 2001, khi Trưởng ban Tổ chức trung ương Nguyễn Văn An được cơ cấu làm Chủ tịch Quốc hội, tôi đặt vấn đề “tranh cử trong đảng” với ông. Ông An lúc ấy cho rằng: “Tranh cử không khéo sẽ thành tranh giành, cục bộ. Hiện giờ trong Đảng mình chỉ bàn bạc dân chủ rồi phân công. Đảng phải làm sao đảm bảo có dân chủ mà trong Đảng vẫn giữ được sự thống nhất” (Thời báo Kinh Tế Sài Gòn 28-6-2001). Giờ đây, ông Nguyễn Văn An cũng phải nhận ra rằng chính “sự thống nhất” nếu còn thì chỉ để cho một số cá nhân lũng đoạn.


Nếu như tiến trình tranh cử trong đảng diễn ra công khai, thì người thực sự tài hơn trong đội ngũ hiện tại sẽ vượt lên; đội ngũ kế cận sẽ tự nó xuất hiện chứ không phải chỉ những kẻ biết làm vừa lòng cha chú được cơ cấu.


Đặc biệt, nếu tiến trình tranh cử bắt đầu nhiều tháng trước các dịp bầu bán, thì không cần “Nghị quyết trung ương Bốn”, các ứng cử viên sẽ giúp Đảng phát hiện tài sản nổi, tài sản chìm, bồ nhí, con rơi…Giúp dân chúng hiểu được kẻ nào đã ban hành những chính sách hại dân, hại nước. Chính sự “rạn nứt” do tranh cử sẽ tạo ra một tiền đề mới cho cải cách chính trị.


Bản chất của độc tài, toàn trị là đối lập với dân chủ. Tuy nhiên trong điều kiện đảng vẫn cứ một mình cầm quyền và dân chưa biết làm thế nào để thay đổi tương lai chính trị của mình thì áp dụng một số phương thức dân chủ trong đảng cũng giảm được cho nước, cho dân phần nào tai họa.


Huy Đức



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 12, 2013 09:55

May 1, 2013

Sinh Viên & Diễn Biến Hòa Bình


Đêm qua, một sinh viên đang học năm thứ hai tại một trường đại học ở Hà Nội có nhờ tôi trả lời một số câu hỏi. Thấy cách đặt vấn đề khá lạ, tôi có đề nghị bạn ấy giải đáp một số thắc mắc. Sau khi được sự đồng ý của bạn ấy, tôi xin đưa cuộc trò chuyện của chúng tôi lên Facebook, hy vọng, qua phản hồi của bạn đọc, tôi có thể biết được đây là nhận thức chỉ của một sinh viên hay của đa số bạn trẻ.



Chào chú ạ. Cháu xin tự giới thiệu cháu là sinh viên… Cháu biết facebook của chú thông qua một người bạn ạ. Hiện nay cháu đang làm một bài tiểu luận về “vai trò của báo chí trong việc tuyên truyền sửa đổi Hiến pháp 1992 của Việt Nam”. Khi đánh giá về vai trò thì cần nhận xét của một nhà báo làm về pháp luật ạ. Cháu được biết chú là tác giả của cuốn sách bên chiến thắng, chú có thể cho cháu được phép hỏi 2 câu hỏi về vấn đề tiểu luận của cháu đc ko ạ?


Chú thì sẵn sàng thôi nhưng chú trả lời thì cháu có sử dụng được không (Sách của chú là Bên Thắng Cuộc).


À, cháu nhầm tên sách, cháu xin lỗi chú, cháu muốn được lắng nghe ý kiến của các nhà báo về vấn đề trên thôi ạ, rất cám ơn chú vì đã nhận lời. Thế cháu gửi câu hỏi luôn ở đây được ko ạ?


Được cháu, cuối tuần rảnh chú trả lời. Nhớ nhắc chú.


V âng. Cháu cám ơn ạ. Cháu xin gửi 2 câu:


Hiện nay, đất nước ta đang diễn ra một sự kiện chính trị hết sức lớn lao là đóng góp ý kiến xây dựng bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Tuy nhiên, nằm trong âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bọn phản động đang từng giây, từng phút lợi dụng mọi kẽ hở trong luật pháp, trong tư tưởng của người dân, trong các chính sách của Đảng và Nhà nước để chống phá chế độ chính trị của ta về mọi mặt của đời sống, chống phá bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Câu hỏi cháu muốn đặt ra xoay quanh những vấn đề này.


1. Nhà báo nhận thấy báo chí nước ta đang phản biện những lí lẽ, lập luận thiếu căn cứ và mang tính phản động của các thế lực thù địch ở khía cạnh nào?”


2. Nhà báo có nhận xét gì về vai trò của báo chí trong việc tuyên truyền để lấy ý kiến đống góp cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.


Chú sẽ trả lời sau, nhưng sao cháu lại bảo là: Nằm trong âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bọn phản động đang từng giây, từng phút lợi dụng mọi kẽ hở trong luật pháp, trong tư tưởng của người dân, trong các chính sách của Đảng và Nhà nước để chống phá chế độ chính trị của ta về mọi mặt của đời sống, chống phá bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992?


Đấy là theo nhận định của cháu như vậy, vì sau 1 tháng theo dõi Facebook tên là Dân làm báo , cháu thấy bất cứ 1 vấn đề gì mới xảy ra trong ngày là chúng viết ngay 1 bài bình về vấn đề đó, giọng điệu phản động, kích động và nhận được sự đồng tình của ít nhất là 20 người ngay lập tức. Còn tranh thủ kẽ hở thì cháu thấy, hễ có gì liên quan đến nhân quyền tôn giáo là hàng nghìn blog viết bài phảnbiện ngay được ạ.


Ai nói đúng thì mình nghe, ai nói sai thì thôi,góp ý mà chỉ muốn nghe người khác nói giống mình thì đâu có được cháu.


Nhưng với quá trìnhsửa đổi hiến pháp thì theo cháu là: phản động chống phá nhiều, như đòi đa nguyên đa đảng chẳng hạn, nếu ta làm ngơ thì sẽ có nhiều người nghe bọn phản động đấy ạ, hì, nên báo chí mới cần định hướng dư luận góp ý theo quan điểm của đảng ta.


Dân tộc ta trải qua nhiều cuộc chiến tranh rồi, theo cháu tại sao lại phải sợ diễn biến hòa bình? Cháu nêu ý kiến về mặt học thuật thôi, chú chỉ là nhà báo, cháu là sinh viên, không nên để các quan điểm chính trị chi phối quá cháu nhé.


Vâng, cái gì đúng thì mình nên nghe phải ko chú.


Cháu trả lời chú câu hỏi về diễn biến hòa bình nhé.


Sợ diễn biến hòa bình, theo cháu vì sợ bọn phản động dùng âm mưu lật đổ chính quyền, sợ chúng kích động đa nguyên đa đảng. Nhưng nếu không làm gì sai và chính quyền vững mạnh thì không cần phải sợ ạ.


Thế sao lại phải sợ đa nguyên, đa đảng cháu?


Sợ quyền lực tối cao ko nằm trong tay của Đảng nữa, khó mà yên bề cai trị đất nước, đặt biệt là ko thể tham nhũng nữa, đấy là vì lợi ích của 1 bộ phận trong xã hội chứ ko phải vì dân nữa ạ.


Ai không thể tham nhũng cháu? Ý cháu là cần phải bảo vệ quyền tham nhũng phải không? Sao nhất thiết quyền lực tối cao phải nằm trong tay Đảng mà không phải trong tay dân? Sao đất nước lại phải cai trị hả cháu?


Thật ra là cháu đã hiểu ý của chú, nhưng cháu là sinh viên, hiểu biết về chính trị chưa nhiều, nên có nói sai thì chết, hì, Nhà nước không muốn đa nguyên đa đảng vì như thế thì các ông lãnh đạo đâu còn cơ hội tham nhũng nữa ạ, cháu thì không cổ động đa nguyên đa đảng hay chỉ 1 đảng, vì mục đích cũng chỉ là làm xã hội tiến bộ, phát triển. Nhưng mà 1 đảng lãnh đạo mà mãi chưa tiến bộ thì cần xem xét lại ạ. Đấy là quan điểm của cháu.


Chú hỏi để cháu suy nghĩ thôi. Chú không biết cháu học những gì trong nhà trường, nhưngchú hơi ngạc nhiên khi cháu bảo vệ sự lãnh đạo của một đảng vì “nhà nước không muốn đa nguyên, đa đảng vì như thế các ông lãnh đạo đâu còn cơ hội tham nhũng nữa“. Cháu học năm thứ mấy rồi?


Đấy là theo quan điểm của cháu, hì, tại chú hỏi vì sao không đa nguyên đa đảng ạ. Bây giờ quyền lực tất cả nằm trong tay chú mà chú lại phải san sẻ cho người khác, như vậy thì ai cũng phản đối cả ạ. Cháu mới học năm 2 thôi ạ, cháu còn chưa học hết đại học đại cương nên nhiều cái vẫn chưa hiểu nổi đâu ạ, hì.


Chú đưa đoạn chat này lên FB, không để tên cháu, không để tên trường, chú cháu mình quan sát xem mọi người thảo luận thế nào nhé?


Có được không hả chú?


Sẽ k ai biết cháu, nhưng cháu có thể biết mọi người nghĩ gì?


Vâng. Cháu cũng muốn xem phản ứngcủa mọi người thế nào chú ạ


Có thể có ý kiến gay gắt nhưng cái chính là cháu sẽ học được. Ai có ý kiến xây dựng thì mình nghe. Ai chửi bới thì mình có thể không cần để ý. Cháu thấy sao?


Quan điểm của cháu sẽ có nhiều người phản đối, không phải vì họ không thấy đúng đâu ạ, mà cháu nghĩ họ không dám nói thôi. Chứ bây giờ đất nước phát triển, giáo dục phát triển bọn cháu cũng được lợi mà. Chú cứ đăng đi ạ, nhưng nếu nghe ý kiến gay gắt thì cháu ko ngại, chỉ sợ các ông chính quyền thấy lại nghĩ cháu cổ vũ đa đang thì chết.


Đây là trường hợp có thật, bạn ấy đang cần học hỏi, xin đề nghị các anh chị không dùng lời lẽ nặng nề khi nhận xét.


Huy Đức



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 01, 2013 23:14

April 28, 2013

Giải Phóng

Năm 1991, khi thăm chính thức Thái Lan ông Võ Văn Kiệt nói: “Chúng tôi tự hào đã đánh thắng 3 đế quốc to”. Thủ tướng Thái Lan đáp lời: “Chúng tôi tự hào vì không phải đánh nhau với đế quốc to nào cả”.


Chính quyền Thái Lan từng bị chỉ trích vì chính sách “ngoại giao cây tre” nhưng đổi lại người dân Thái đã tránh được bao cảnh đầu rơi, máu chảy. Không chỉ có người Thái, cho đến trước Thế chiến thứ II người Nhật cũng đã từng khôn ngoan tránh đối đầu với phương Tây. Nhật là một dân tộc thiện chiến, nhưng năm 1853, khi Đề đốc Perry đưa tàu chiến Mỹ tới Edo, người Nhật nhận ra họ đang đối diện không phải với một “mandi” mà là một đế quốc. Thay vì “tuẫn tiết”, Thiên hoàng Minh Trị, bên ngoài thì cho mở cửa giao thương, bên trong thì canh tân.Nước Nhật vừa giữ được độc lập vừa trở nên hùng mạnh.


Tinh thần độc lập cũng vô cùng cao cả. Nhưng, như Hồ Chí Minh nói: “Nước độc lập mà dân không có tự do, hạnh phúc, thì độc lập đó cũng không có ý nghĩa”. Năm 1999, người Úc đã từng trưng cầu dân ý về việc họ có nên thay thế quan toàn quyền của Nữ Hoàng Anh bằng một chế độ cộng hòa tổng thống (độc lập) hay không, kết quả là đa số dân Úc đã nói không. Bởi, điều quan trọng nhất là hạnh phúc và tự do thì người dân đã có.


Ngày 30-4-1975, không thể chối cãi, là ngày chiến thắng nhưng nó chỉ mới là chiến thắng của những người cộng sản. Cho dù đã sau 38 năm, theo tôi, vẫn có thể tạm gác lại chuyện đánh giá bản chất của cuộc chiến tranh. Nếu những người cộng sản tin những gì mình đã làm là cao cả thì nên chiểu theo “lời dạy của Hồ Chí Minh”, thấy cái gì dân chưa có tự do thì trả tự do cho dân, thấy cái gì dân chưa hạnh phúc thì để cho dân mưu cầu hạnh phúc.


Cái ngày mà đảng cộng sản Việt Nam làm được điều đó xin cứ gọi là ngày giải phóng.


Huy Đức



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 28, 2013 16:29

March 31, 2013

Những Quả Bom Đoàn Văn Vươn

Sẽ hiếm có phiên tòa nào được nhiều người quan sát như phiên tòa xét xử anh em nhà Đoàn Văn Vươn. Nếu vẫn cố thủ trong pháp chế XHCN thì áp dụng chuyên chính để trấn áp là chuyện không còn phải bàn. Nếu muốn gieo cấy những hạt giống pháp quyền thì mục tiêu của bản án phải là công lý.


Chỉ có tư duy trên nền tảng của sự mặc cảm và sợ hãi mới cho rằng nếu không trừng phạt anh Vươn là buông lơi chuyên chế, là sẽ có nhiều nông dân khác tiếp bước anh Vươn. Hành động của anh Đoàn Văn Vươn, trong sâu xa là một tiếng kêu oan chứ không phải là hành động của một người cùng quẫn. Đành rằng anh có tự “chuẩn bị vũ khí” nhưng trái bom mà anh tự chế không để gây sát thương, nó chỉ để tạo ra tiếng nổ.


Hành vi của anh Vươn có dấu hiệu chống người thi hành công vụ, bởi cho dù những người ấy thi hành một quyết định vô lương thì họ cũng làm việc đó nhân danh nhà nước. Hành vi của anh có dấu hiệu cố ý gây thương tích vì có làm bị thương nhẹ một số nhân viên. Nếu cố ý giết người chắc hẳn anh Vươn không dùng súng hoa cải bắn ở một tầm xa như vậy.


Những phát súng và quả bom Đoàn Văn Vươn chỉ như tiếng trống kêu oan gióng lên trước Tam Pháp ty. Nhờ nó mà chính quyền trung ương nhận ra sự lạm quyền của chính quyền địa phương, nhận ra những bất hợp lý trong Luật Đất đai. Theo khoản 4, điều 8 của Bộ Luật Hình sự, thì hành vi của anh em nhà anh Vươn chưa cấu thành tội phạm (Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác).


Không phải tự nhiên khi bất cứ ai lên tiếng trên các diễn đàn nhân dân đều mong muốn được thấy anh Vươn tự do. Đấy không chỉ là sự cảm thông cá nhân mà còn là cả một nỗi khát khao công lý.


Chính sách đất đai hiện nay đang dồn không biết bao nhiêu người dân vào hoàn cảnh Đoàn Văn Vươn. Công việc của vị thẩm phán xử anh Vươn cũng như một chiến sỹ công binh. Nếu bản án chỉ lo trấn áp thì sẽ dồn những Đoàn Văn Vươn khác vào bước đường cùng, sức công phá của những quả bom ấy sẽ khốc liệt chứ không chỉ gây tiếng nổ. Nếu bản án công bằng với anh Vươn thì những ngòi nổ trong hàng loạt quả bom Đoàn Văn Vươn khác cũng tự nhiên được tháo ra. Bởi những người nông dân mất đất ấy sẽ trì hoãn sự phản ứng của mình để chờ công lý.


Bản án là thông điệp của nhà nước trung ương tới chính quyền địa phương; là sự lựa chọn giữa người dân lương thiện và đám cường hào; là sự xác lập chuẩn mực công vụ: bảo vệ dân chúng hay nhân danh nhà nước để chà đạp lên dân chúng.


Phiên tòa chắc chắn sẽ không kết thúc ngay cả khi bản án đã có hiệu lực. Tên tuổi của Đoàn Văn Vươn rồi sẽ còn vang. Chuyến tàu đi vào lịch sử của anh đủ chỗ để các vị thẩm phán và cả người đứng đầu chế độ quá giang. Vấn đề là họ chọn chỗ đứng trên bia miệng hay ở trong lòng hậu thế.


Huy Đức



1 like ·   •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 31, 2013 23:50

February 19, 2013

Sửa Hiến Pháp Chứ Không Phải Xây Hầm Trú Ẩn

Nếu tôi là trưởng ban sửa đổi Hiếp pháp 1992 tôi sẽ đề nghị ngưng lại cho đến khi trong Đảng thực sự biết rõ mình muốn duy trì mô hình đảng chủ lập hiến như hiện nay hay muốn thiết lập ở Việt Nam một nền cộng hòa thật sự.


Các nhà nước quân chủ phải lập hiến khi nhà vua bị các tôn giáo, lãnh chúa… buộc phải chia sẻ quyền lực. Các nhà nước đảng chủ phải lập hiến vì muốn tạo ra cái vỏ bọc cộng hòa cho sự toàn trị của mình. Nếu Đảng cộng sản Việt Nam muốn tiếp tục chế độ chính trị như hiện nay thì cách khôn ngoan nhất là cứ giữ Hiếp pháp 1992 vì nó vẫn đang làm tốt vai trò “phông màn” cho Đảng.


Sẽ là một sai lầm chính trị (của Đảng) nếu sửa đổi hiến pháp không phải vì cải cách mà chỉ để tự trấn an. Khi lực lượng vũ trang đã khẩu hiệu “chỉ biết còn Đảng, còn mình” mà vẫn không hết sợ hãi thì lẽ ra Đảng phải sửa cái gốc là trao quyền lực cho dân. Bảo vệ sự cầm quyền của Đảng mà bằng cách hiến định lòng trung cho quân đội và cố thủ trong điều 4 như một thứ lô cốt thì chỉ gây ra tranh cãi về tính hợp hiến của đảng độc tôn và khiến dân chúng nghĩ rằng Đảng coi mục tiêu cầm quyền cao hơn chủ quyền quốc gia, dân tộc.


Nếu chỉ quan tâm tới việc phân chia quyền lực thì không cần sửa hiến pháp. Quyền lực lâu nay vẫn được phân chia một cách bất thành văn và phe nhóm thường giải quyết tốt hơn hiến pháp. Vấn đề là tại hội nghị trung ương sắp tới ông Nguyễn Bá Thanh có đủ phiếu vào Bộ chính trị, ông Vương Đình Huệ có trở thành bí thư trung ương Đảng hay không? Ông Nguyễn Bá Thanh rồi sẽ chọn con đường đi vào lịch sử như một bao công, hay với không ít tỳ vết hiện nay, sẽ bắt tay với Thủ tướng đương nhiệm, quay lưng với những người đã từng nuôi kỳ vọng?


Nếu nhận ra đây là cơ hội chính trị thì đừng vội vã, hãy ngồi lại với nhân dân, hình thành một bản hiến pháp có thể thiết lập một nền cộng hòa, trên nguyên tắc: một chính quyền không phải do dân thì không thể là của dân và không thể hy vọng chính quyền đó sẽ vì dân được. Với quyền lập hiến, nhân dân phải tham gia với tư cách là người quyết định chứ không phải “khách” mời “góp ý” như Đảng đang làm.


Ủy ban sửa đổi hiếp pháp, vì thế, phải thay đổi quy trình làm việc của mình. Thay vì cắm đầu viết lách, bước một, chuẩn bị những vấn đề phải trình Quốc hội biểu quyết đưa ra trưng cầu dân ý. Điều phải trưng cầu dân ý đầu tiên là Việt Nam nên chọn mô hình cộng hòa đại nghị (nơi quốc hội bầu ra chính phủ và nguyên thủ quốc gia) hay cộng hòa tổng thống (nơi cử tri trực tiếp bầu ra nguyên thủ).


Cộng hòa đại nghị thường thành công hơn ở các quốc gia đi từ nền quân chủ lập hiến. Nơi hoàng gia, tuy không trực tiếp cầm quyền, vẫn còn uy tín để trị vì như một biểu tượng quốc gia. Tuy các triều vua của Việt Nam đã bị “phế từ lâu”, vẫn nên hỏi xem dân chúng muốn tìm một hoàng thân hay tự tay bầu ra tổng thống.


Đảng Cộng sản Việt Nam hoàn toàn có thể đưa điều 4 ra trưng cầu dân ý và nếu nhân dân tán thành trong một cuộc bỏ phiếu hoàn toàn tự do thì việc cầm quyền của Đảng sẽ thực sự vinh quang. Nếu dân muốn Đảng cộng sản chỉ là một trong các đảng chính trị của người Việt Nam thì anh chỉ có thể cầm quyền khi thắng trong bầu cử.


Trong tình huống đó, hiến pháp nên quy định sự khác nhau giữa ứng cử viên độc lập với ứng cử viên được đề cử bởi một đảng chính trị. Ví dụ: một người có thể trở thành ứng cử viên tổng thống nếu được một đảng chính trị có cơ sở hoạt động ở tầm quốc gia đề cử hoặc có đủ một lượng chữ ký ủng hộ nhất định (nếu là ứng cử viên độc lập).


Với một dân tộc đang có hàng triệu người sống và làm việc ở khắp năm châu như Việt Nam, cần trưng cầu dân ý về điều kiện của các ứng cử viên: có chấp nhận người có hai quốc tịch ứng cử tổng thống, nghị sỹ Việt Nam hay không? Có nên đòi hỏi ứng cử viên tổng thống và ứng cử viên nghị sỹ quốc hội phải là người sinh ở Việt Nam và sống liên tục ở trong nước 5 năm tính đến ngày bầu cử?


Chế độ kinh tế cũng cần được đưa ra hỏi dân. Tự do tư tưởng là vấn đề phải được bảo vệ trong xã hội tương lai. Hiến pháp tôn trọng niềm tin cộng sản của một thiểu số nhân dân nhưng dân chúng không thể trả chi phí để nuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” bằng cách coi “kinh tế nhà nước là chủ đạo”. Nên trưng cầu dân ý về việc cấm nhà nước thành lập những xí nghiệp mang tính kinh doanh (trừ các doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp khai thác những loại tài nguyên đặc biệt).


Hãy trưng cầu dân ý để dân chúng chọn giữa sở hữu toàn dân và chế độ đa sở hữu đối với đất đai.


Sau khi có kết quả trưng cầu dân ý, Ủy ban sửa đổi hiến pháp mới tiến hành bước hai: thiết kế một mô hình nhà nước có khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia, có thể hòa giải quốc gia, phát triển quốc gia, đảm bảo an ninh và mang lại công lý cho người dân tốt nhất. Ủy ban cũng không nên giấu dốt, cái gì biết thì hẵng làm cái gì không có kinh nghiệm thì nên học hỏi, nhất là từ những mô hình nhà nước đã được loài người áp dụng thành công. Việt Nam cần một mô hình chính trị bền vững dài lâu chứ không phải chỉ “bay 15 phút” rồi “bỏ kho” như những chiếc máy bay Vam mà Việt Nam đã từng tự chế.


Cách mà công an Hải Phòng đối xử với anh em ông Đoàn Văn Vươn cho thấy, hệ thống tư pháp hiện hành không thể đảm bảo công lý, nhất là đối với những xung đột giữa công dân với địa phương. Ngoài việc tổ chức tòa án theo cấp xét xử (thay vì theo cấp hành chính), lực lượng điều tra hình sự và công tố nên tổ chức thống nhất ở cấp toàn quốc gia. Cảnh sát địa phương chỉ đảm bảo giao thông và trật tự, trị an; có thể bắt trộm, cướp rồi giao lại cho cơ quan công tố.


Các địa phương tùy vào ngân sách và tình hình an ninh mà quyết định số lượng cảnh sát. Không để tình trạng như Thành phố Hồ Chí Minh phải lấy thanh niên xung phong ra điều khiển giao thông và chống cướp bằng lực lượng từ trung ương cứu viện.


Thật là nguy hiểm nếu lực lượng công an, quân đội thay vì trung thành với quốc gia lại trung thành với đảng phái. Đảng có thể nay tồn, mai vong nhưng Nước thì muôn đời phải giữ. Nếu quân đội không coi nhiệm vụ quan trọng nhất là giữ nước thì khi trong Đảng có bất đồng, quân đội mất phương hướng, những kẻ có dã tâm lãnh thổ như Trung Quốc rất dễ thừa cơ chiếm nốt Trường Sa bằng một cuộc chiến tranh cục bộ.


Cũng cần tách bạch hành pháp chính trị và hành chính công vụ để khi Đảng tan rã thì chỉ có chức năng hành pháp chính trị tạm ngưng, trộm cướp vẫn có người bắt; đèn xanh, đèn đỏ vẫn sáng ở ngã tư; người dân vẫn có thể làm passport, đăng ký xe và sang tên nhà, đất…


Bước thứ ba, Ủy ban sửa đổi hiến pháp trình những mô hình hành chánh, tư pháp tương thích này để quốc hội thông qua. Sau đó tới bước thứ tư mới tiến hành cho chuyên viên thảo ra hiến pháp. Do đã trưng cầu dân ý, hiến pháp chỉ cần 2/3 tổng số đại biểu thông qua chứ không cần đưa ra phúc quyết toàn dân. Chỉ phải giữ nguyên tắc cái gì dân đã quyết khi trưng cầu dân ý thì quốc hội không có quyền thay đổi.


Cũng có thể rút ra các bài học lập hiến từ Việt Nam. Hiến pháp 1946 từng được viết bởi những trí thức có tinh thần pháp quyền và bác ái, tự do. Cho dù nó được quyết định bởi một quốc hội được bầu lên trong cuộc tổng tuyển cử do Việt Minh kiểm soát, Hiến pháp 1946 đã được thông qua bởi những người yêu nước và khát khao độc lập, tự do.


Tuy chưa được công bố chính thức do chiến tranh nhưng Hiến pháp 1946 đã có hiệu lực trên thực tế. Hồ Chí Minh đóng một vai trò quan trọng trong Hiến pháp 1946, nhưng chính ông, sau khi đi dự Hội nghị 81 đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế từ Mascova trở về, đã phế bỏ bản hiến pháp dân chủ này để thay thế bằng Hiến pháp 1959.


Theo Bộ trưởng Nguyễn Đình Lộc, Hiến pháp 1959 được dịch ra từ Hiến pháp Liên Xô nhưng qua bản tiếng Trung nên nhiều định chế nhà nước đã được copy một cách vội vã và không chính xác. Hiến pháp 1980 cũng copy từ hiến pháp của các nước cộng sản Đông Âu, áp dụng nguyên si những định chế mà ngay sau đó đã bị các nước này bãi bỏ. Không nên sợ hãi trước những mô hình nhà nước đã được áp dụng thành công. “Nhập khẩu” mô hình chính trị đã là truyền thống mà Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu từ năm 1959.


Một chế độ toàn trị thường đi đến sụp đổ hoặc tiếp tục tồn tại bằng cách siết chặt dân chủ, tự do. Quá trình này càng kéo dài bao nhiêu thì càng hủy hoại các nguồn lực và giá trị quốc gia tới đó. Sự sụp đổ hay sự ngắc ngoải của chế độ đều trút hậu quả lên đầu thường dân. Chủ động cải cách để từng bước trao mọi quyền lực cho nhân dân không chỉ là lối thoát của Việt Nam mà còn là cánh cửa để Đảng thoát ra trong danh dự.


Huy Đức



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 19, 2013 20:50

February 14, 2013

Chiến tranh 17-2-1979

Ngày 16-3-1979, Trung Quốc rút hết quân, cuộc chiến tranh ngắn ngủi mà Đặng Tiểu Bình tuyên bố để “dạy cho Việt Nam một bài học”, kết quả, theo các học giả phương Tây, Trung Quốc đã bị Việt Nam dạy cho bài học. Nhưng suy cho cùng thì điều quan trọng không nằm ở chỗ ai dạy mà là ai đã học được bài học từ lịch sử của mình.


>> Biên Giới Tháng Hai (2009-1979)


Tháng 2-1979, trong khi Trung Quốc tập trung hơn 60 sư đoàn thì do chiến tranh Campuchia, ở phía Bắc, Việt Nam chỉ còn 11 sư đoàn, chủ yếu đang “làm kinh tế”. Nhiều nơi khi Trung Quốc đánh, súng ống vẫn đang còn nằm ở trong kho. Nhưng, quân Trung Quốc đã không thể chiếm các tỉnh lỵ biên giới nhanh như họ tính. 25 nghìn lính Trung Quốc bị chết, 37 nghìn lính bị thương. Chi phí cho cuộc chiến tranh chưa đầy 4 tuần ấy lên tới 5,5 tỷ nhân dân tệ trong khi ngân sách cả năm 1979 của Trung Quốc chỉ có 22,3 tỷ.


Trên thực tế, Đặng Tiểu Bình đã “học” được rất nhiều từ cuộc chiến tranh. Bài học đầu tiên của Đặng là ông ta biết Liên Xô sẽ không hy sinh quyền lợi của mình cho niềm tin ngây thơ của các nhà lãnh đạo Việt Nam. Trước khi chiến tranh xảy ra Đặng đã cho sơ tán dân ở một số vùng biên phía Bắc Trung Quốc đề phòng khả năng bị Liên Xô tấn công. Thay vì có hành động quân sự theo Hiệp ước hợp tác toàn diện vừa ký vào tháng 11-1978, khi Việt Nam bị xâm lược, 56 sư đoàn quân Liên Xô nằm ở biên giới Trung Quốc đã án binh bất động. Hai tuần sau khi rút quân, Đặng bắt đầu đi đêm với Mascova.


Ngày 19-3-1979, Đặng nhận định trong 10 năm tới chưa có chiến tranh quy mô thế giới và quyết định, thay vì hiện đại hóa quân đội ngay đã ưu tiên giảm quy mô quân số. Từ 5,2 triệu quân năm 1979 tới năm 1988 quân số của Trung Quốc chỉ còn 3,2 triệu. Chi phí quốc phòng giảm được từ 4,6% GDP năm 1979 xuống còn 1,4% năm 1991. Đặc biệt, từ tháng 3-1979 cho đến khi kết thúc chiến tranh, tất cả các đơn vị bộ binh trên cả nước Trung Quốc đều được luân chuyển đến Biên giới Việt Nam thực hành tác chiến.


Việt Nam kiệt quệ khi bị Trung Quốc biến thành một thao trường. Từ tháng 3-1979, 3 quân đoàn và 11 sư đoàn Việt Nam đã bị cầm chân suốt một thập niên với biết bao máu chảy, đầu rơi trên Biên giới.


Osin Huy Đức



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 14, 2013 10:49

January 14, 2013

Bên Thắng Cuộc Bản In

Tranh luận về Giải Phóng vẫn diễn ra gay gắt trong thời gian tôi gấp rút chuẩn bị xuất bản phần II: Quyền Bính. Những ý khiến khác nhau không chỉ có trong các cộng đồng người Việt mà nổ ra ngay ở trong chính đồng nghiệp, bạn bè. Đây là một thực tế.


Nếu một cuốn sách như Bên Thắng Cuộc vừa đưa ra đã có được đánh giá thống nhất ngay thì tôi đã không cần phải viết cuốn sách này và không ai còn phải băn khoăn về một tiến trình hòa giải.


Trong khi tranh cãi cũng có không ít người không giữ được bình tĩnh. Văn hóa tranh luận chỉ có thể hình thành qua một quá trình. Tác giả và cuốn sách bị chỉ trích gay gắt vẫn tốt hơn là tất cả chúng ta cùng im lặng. Bên Thắng Cuộc đề cập đến những trải nghiệm liên quan tới từng cá nhân nên giờ đây tác giả cũng phải dành quyền đánh giá nó cho bạn đọc.


Bản in cuốn I sách Bên Thắng Cuộc sẽ có mặt ở California, Mỹ, từ ngày 14-1-2013. Tôi quyết định lùi thời gian phát hành để hiệu đính Giải Phóng nhằm đưa tới tay bạn đọc một ấn bản có thể giảm sai sót tối đa. Internet thật là mầu nhiệm, ngay sau khi bản điện tử được phát hành rộng rãi trên Amazon và Smashwords, tôi nhận được rất nhiều ý kiến phê bình, đặc biệt được rất nhiều bạn đọc chỉ ra cho những lỗi mà tôi mắc phải.


Có những lỗi chỉ những biên tập viên kỳ cựu trong ngành xuất bản, báo chí như anh Nguyễn Việt Long, chị Nguyễn Thu Tâm (các bạn FB của tôi) mới có thể chỉ ra. Nhà sử học Nguyễn Kỳ Phong, một chuyên gia về Chiến tranh Việt Nam, đã giúp tôi hiệu đính nhiều chi tiết liên quan đến Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đặc biệt, một giảng viên đại học đang làm việc tại Sài Gòn, bạn Đặng Uyên Ngọc, đã bổ sung cho tôi một tư liệu quý về việc đổi tên Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh. Tư liệu này đã được tôi bổ sung vào bản in và bản điện tử của cuốn Giải Phóng.


Thật thú vị khi internet đã giúp tôi tìm ra thiếu tá Lê Quang Liễn nhân vật “LQL” trong bài phỏng vấn đăng trên báo Tin Sáng tháng 9-1975 (“Ngụy Quân”, Chương II Cải Tạo”). Trong bài phỏng vấn này, phóng viên Phan Bảo An đã để cho vợ (lúc đó) của Thiếu tá Liễn ca tụng “cuộc sống lành mạnh” trong trại cải tạo.


Bài phỏng vấn (9-1975) còn nói thiếu tá LQL “đã bị tên tướng ngụy Bùi Thế Lân bỏ kẹt tại cửa Thuận An và đã cùng toàn bộ binh lính trong Tiểu đoàn 7 đầu hàng quân đội giải phóng”. Trên thực tế, Thiếu tá Lê Quang Liễn và phần lớn đồng đội của ông bị bắt ở cửa biển Thuận An và ông “là người tù cuối cùng của Lữ Đoàn 147 được ra khỏi trại (12-2-1988)… sau gần 13 năm tù ngục”. Thư của thiếu tá Lê Quang Liễn viết: “Nói toàn bộ ra hàng là cố tình hạ nhục anh em chúng tôi khi thất thế”.


Như tôi viết trong chương Cải Tạo, tháng 9-1975, sau hơn ba tháng các sỹ quan Việt Nam Cộng hòa bị đưa đi “học tập” mà gia đình, người thân, không hề có tin tức, Chính quyền mở một chiến dịch báo chí và động viên các trại viên viết thư về nhà. Không chỉ vợ con những người tù, mà ngay chính các trại viên trong trại cải tạo cũng sẵn sàng viết những lời tốt đẹp để mô tả những ngày tù của mình chỉ mong nhận được sự “khoan hồng của cách mạng”. Những bài báo “viết sai sự thật” đó cũng là những bằng chứng lịch sử. Tuy nhiên, trong bản hiệu đính, tôi đã nói rõ thêm về trường hợp của thiếu tá Lê Quang Liễn để ông và các đồng đội của ông không bị hiểu lầm là đã ra hàng.


Gợi mở không gian tranh luận cũng là một trong những mục tiêu của tôi khi viết Bên Thắng Cuộc. Sự phản hồi của bạn đọc đối với cuốn I – Giải Phóng – cho thấy, đi tìm sự thật không thể nào là công việc của một cuốn sách hay của một con người.


Có thể đặt mua sách in ở đây:


http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=159115&zoneid=3#.UPK015PjlF8


Hoặc ở đây:


transsolutions@comcast.net,


412-897-5762,


gởi check/money order đến:


Transpacific Solutions LLC


107 Marshall Drive, Sharpsburg, PA 15215


Cuốn 1, Giải phóng, $19.99 + $4.50 bưu phí.  Cuốn 2, Quyền bính, $19.99 + $4.50 bưu phí.


(Hai cuốn $40 + $9.00 bưu phí).



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 14, 2013 17:58

Huy Đức's Blog

Huy Đức
Huy Đức isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Huy Đức's blog with rss.