Huy Đức's Blog, page 12

May 15, 2014

“Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc dùng vũ lực xâm lược và chiếm đóng từ 19-1-1974″

Những ngày trước khi mất (11-6-2008) Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt mấy lần than phiền, đề nghị của ông – cần phải có một bộ quy tắc ứng xử với Trung Quốc – đã chưa được thực hiện. Ông cho rằng, thật khó để cáo buộc ai đó là người “thân Trung Quốc”, cho nên, cách tốt nhất để ngăn chặn Trung Quốc tiếp cận, tác động, chia rẽ nội bộ những người cầm quyền, phải thống nhất một bộ quy tắc ứng xử.


Cán bộ, ở bất cứ cấp nào mà tiếp xúc, phát ngôn… với Trung Quốc không theo bộ quy tắc này thì phải xử lý, phải coi như là “theo Trung Quốc”. Khi nói điều này với người có trách nhiệm cao nhất lúc đó, ông Võ Văn Kiệt còn đề nghị, khi bàn những vấn đề liên quan tới Bắc Kinh không nên họp trong bất cứ phòng họp truyền thống nào.


Ngày 5 và 6-6-2013, khi ngồi nghe các ý kiến tại hội thảo “xử lý căng thẳng biển đông” tại CSIS, Washinton, D.C., tôi thấy hai vị diễn giả người của Bộ Ngoại giao Việt Nam đã trình bày phần của mình rất thuyết phục. Tuy nhiên, trong khi Wu Shicun, Chủ tịch viện Nghiên cứu biển Nam Trung Hoa của Trung Quốc, bất cứ khi nào đề cập đến Trường Sa hoặc các hòn đảo đang nắm giữ bởi Philippine đều nhấn mạnh, “đang bị chiếm đóng bất hợp pháp bởi Việt Nam” hoặc “bởi Philippine”, thì các quan chức của ta chỉ dùng những từ rất “học thuật”.


Ngay sau đó, tôi có đề nghị với một quan chức cao cấp của Bộ Ngoại giao Việt Nam đi cùng: Cần có ngay “bộ quy tắc ứng xử” trong vấn đề Biển Đông, trước hết phải soạn ngay một từ điển các thuật ngữ Biển Đông. Các quan chức, diễn giả của Việt Nam, thay vì gọi vùng biển và quần đảo Hoàng Sa là “vùng tranh chấp”, hoặc gọi theo cách thông thường trong tiếng Anh (Paracel Islands), bất cứ lúc nào, cứ mở miệng ra là phải nói: “Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc dùng vũ lực xâm lược và chiếm đóng từ 19-1-1974″.


Báo chí, các học giả cũng đừng bao giờ sợ dài khi thường xuyên lặp lại cụm danh từ này. Cho dù chưa thể lấy lại Hoàng Sa ngay, bất cứ ở đâu, chúng ta cũng phải nói tên kẻ xâm lược cho những người xung quanh biết rõ. Phải làm cho Trung Quốc trở thành một gã nhà giàu đang đeo một chiếc đồng hồ đắt tiền nhưng ai cũng biết đó là đồ ăn cắp.


Huy Đức


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 15, 2014 22:46

May 7, 2014

Thức Tỉnh

Năm 17 tuổi, khi Trung Quốc xâm lược Việt Nam, tôi đã xung phong nhập ngũ, lên vùng Biên giới; Năm 22 tuổi, tôi có mặt ở CPC và đã ở lại đó 3 năm. Nếu bây giờ có chiến tranh, tôi 52 tuổi, cũng không ngại ngần thêm một lần áo lính.


Trung Quốc rõ ràng đang muốn đẩy xa xung đột. Trước khi tuyên bố đưa giàn khoan 981 vào hoạt động, họ kêu đại sứ về và không để lại đại biện lâm thời (không có ai để Việt Nam có thể triệu tập trao công hàm); mặc dù có đường dây nóng, họ cũng từ chối đối thoại ở tầm thượng đỉnh. Nhưng, tôi đồng ý là phải tránh đến mức tối đa để phải dùng súng ống. Cuộc họp báo chiều qua, 7-5-2014, là rất cần thiết. Nhưng các nhà báo quốc tế nên được đưa theo các tàu “cảnh sát biển” để chứng kiến sự thô bạo của Bắc Kinh.


Như tôi đã nói trong status sáng thứ Bảy, 3-5-2014: “Trung Quốc giả mặt ‘láng giếng tốt, đồng chí tốt’ mới nguy chứ họ hành xử đúng như tâm địa của họ thì phải coi đó là cơ hội”. Đây là lúc Đảng Cộng sản Việt Nam phải xét lại toàn bộ chính sách với Bắc Kinh. Không chỉ những vấn đề như Biển Đông là không thể song phương mà Việt Nam phải ngay lập tức từ bỏ con đường Bắc Kinh cả mô hình kinh tế và mô hình chính trị.


Không nên đặt vào thế đối đầu, nhưng rõ ràng, với Bắc Kinh cộng sản, chúng ta không một giây được coi là bạn. Chiến tranh chỉ là việc chẳng đặng đừng, mong sao tôi không phải cầm súng nữa và thanh niên Việt Nam không còn phải đánh nhau với ai nữa. Hy vọng, vụ giàn khoan 981 sẽ thức tỉnh Đảng cộng sản Việt Nam, không chỉ sớm quay lại bờ nhân dân để đuổi “quân bành trướng Bắc Kinh” mà quan trọng hơn là kiến tạo cho Việt Nam một con đường mới. Một con đường có nhiều đối tác, bạn bè.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 07, 2014 19:13

April 8, 2014

Một Nguyên Thủ Mạnh & Một Quốc Gia Mạnh

Ngày 3-4-2014, trong “lễ thượng kỳ”, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhắc đến khái niệm một “quốc gia mạnh” và, cái cách ông đứng trên nóc tàu, một tay chống nạnh, một tay vẫy đám đông, bên cạnh một cựu nguyên thủ phải ôm cột giữ thăng bằng, gợi ý hình ảnh một quốc gia mạnh cũng tương đồng với một nguyên thủ mạnh.


Một Nguyên Thủ Mạnh


Tàu ngầm chỉ phát huy tác dụng khi nó lặn sâu chứ không phải khi nó nổi lên. Chính trị Việt Nam cũng như biển khơi. Một nguyên thủ mạnh không chỉ là người biết xây dựng hình ảnh trước công chúng mà còn phải là một người biết kiến tạo tương lai cho mình và cho chính công chúng ấy.


Một nguyên thủ đưa được nhiều người thân, nhiều “em út” vào các vị trí trọng yếu, thâu tóm được nhiều quyền lực và tiền bạc chỉ được coi là một nhà độc tài. Một nguyên thủ coi mọi người dân đều là người của mình, thiết kế được một nhà nước mà ai ngồi vào cũng rất khó tham nhũng, khó lạm quyền; kiến tạo được những nền tảng dân chủ để quốc gia vẫn phát triển ngay cả khi không có mình, nguyên thủ ấy mới đáng được coi là nguyên thủ mạnh.


Một nguyên thủ mà đất nước cần vào lúc này phải là một nhà cải cách. Muốn trở thành một nhà cải cách phải có đủ khát vọng và trí tuệ. Chỉ những người có khát vọng dân chủ mới có đủ dũng cảm để từ bỏ đặc lợi, đặc quyền. Chỉ những người có đủ trí tuệ mới có thể tập hợp lực lượng và chuẩn bị một lộ trình vững chắc. Chưa có ý chí chính trị (cải cách), chưa thiết kế lộ trình chính trị thì chưa thể nào “thông điệp”.


Độc Tài & Dân Chủ


Những cuộc biểu tình ở thủ đô Bangkok hay được những người ngại thay đổi nói đến như những con ngoáo ộp dân chủ. Trong khi, Singapore lại thỉnh thoảng được đưa ra như một ví dụ êm ái khi bào chữa cho sự độc tài.


Nhưng, Singapore chỉ là một “citi-state” và Thái Lan mới chỉ là một quốc gia đang ở trên đường đi đến dân chủ. Quyền lực nhà nước Thái vẫn đang khi nặng về vương quyền, khi nghiêng về pháp quyền. Trong những xung đột chính trị, quyền đưa ra “phán quyết” cuối cùng thường là quân đội chứ không phải là tối cao pháp viện.


Không phải không có những ví dụ về “độc tài anh minh”. Nhưng, tỉ lệ các quốc gia thực sự thành công nhờ các nhà “độc tài anh minh” là không đáng kể so với những quốc gia thành công nhờ dân chủ. Điều quan trọng là, không nên rủi ro một quốc gia bằng cách ủng hộ một nhà độc tài vì nghĩ là họ anh minh bởi nếu họ không anh minh thì sẽ vô phương cứu chữa.


Dân chủ không phải là đích đến mà là con đường ít rủi ro hơn để một quốc gia đi tới phồn vinh. Các nhà độc tài có thể giam hãm một dân tộc nhiều thập niên, nhưng không có nhà độc tài nào có thể ngăn cản một dân tộc đi đến tự do, dân chủ.


Chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng – trong thông điệp đầu năm 2014 – cũng đã phải thừa nhận: “Dân chủ là xu thế khách quan trong tiến trình phát triển của xã hội loài người”. Có thể nhiều người không muốn “Đảng ta phải nắm chắc ngọn cờ dân chủ” như tuyên bố của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng tôi tin, những người đấu tranh cho tự do sẽ hoan nghênh bất cứ ai, kể cả Đảng cộng sản, đưa được dân chủ đến cho Việt Nam.


Dân chủ không phải là một “ông Bụt” để có thể hiện lên khi một chế độ toàn trị bị dân chúng lật nhào. “Cách mạng Cam”, “Mùa Xuân Ả Rập…” là những ví dụ cho thấy, dân chủ không đơn giản chỉ là đa đảng và tự do bầu cử. Tự do chính trị là điều kiện tiên quyết để có dân chủ nhưng một nền dân chủ chỉ có thể đứng được trên các trụ cột: nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự và kinh tế thị trường.


Nếu những điều được nói trong Thông điệp đầu năm của Thủ tướng là thật lòng. Nếu những người đang nắm quyền muốn tìm lối thoát cho mình trong dân, thì nên chuẩn bị một lộ trình thông minh để từ bỏ độc tài. Con đường đi đến dân chủ không nhất thiết phải bắt đầu bằng sụp đổ.


Kinh Tế Thị Trường


Khác với các nền độc tài khác, độc tài xã hội chủ nghĩa không chỉ tước đoạt tự do chính trị mà còn tước đoạt cả quyền tự kiếm sống của người dân. Cho nên, tiến trình đi đến dân chủ của những quốc gia bị giam hãm quá lâu trong “tập trung, quan liêu” như Việt Nam, ưu tiên xây dựng kinh tế thị trường phải được đặt lên trước hết.


“Đổi mới” mà Đảng vẫn coi như một công lao thực chất chỉ là để cho dân được quyền tự lo lấy cơm ăn (Đại hội Đảng lần thứ VI, 12-1986, cho phép phát triển kinh tế nhiều thành phần từ chỗ tập trung quyền này trong tay nhà nước). Năm năm sau, ở Đại hội VII (1991), những người cải cách mới đưa được vào văn kiện Đại hội ý tưởng “xây dựng nền kinh tế thị trường”. Nhưng, tháng Giêng năm 1994, tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ, những người bảo thủ đã “buộc” vào “kinh tế thị trường” cái “đuôi định hướng”.


“Định hướng xã hội chủ nghĩa” đã trở thành chỗ dựa chính trị để “kinh tế quốc doanh” trở thành “chủ đạo”. Không thể có kinh tế thị trường khi nhà nước nắm hết các nguồn lực của xã hội, rồi nhảy vào mọi ngóc ngách của thị trường để cạnh tranh với khu vực “dân doanh”. Trong giai đoạn thị trường sơ khai, nhà nước có thể vẫn duy trì một số doanh nghiệp cung ứng những dịch vụ mà tư nhân không thể đầu tư. Nhưng nếu nhà nước cũng kinh doanh thì không bao giờ có môi trường cạnh tranh lành mạnh.


Năm 2006, lẽ ra Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có thể hoàn thiện các thiết chế của kinh thị trường, nâng thành quả thi hành Luật Doanh nghiệp 1999 lên một mức cao hơn nhờ tác động của Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ và WTO.


Nhưng chủ trương cho quốc doanh kinh doanh đa ngành không những đã tạo ra những ung nhọt bên trong (Vinashin, EVN Telecom…) mà còn hủy hoại môi trường kinh doanh. Giấy phép lại được các bộ ngành khôi phục và quyết sách kinh tế quan trong nhất trong nhiệm kỳ hai của ông lại nặng về hành chánh[1].


Đại hội lần thứ XI (2011) đã có một quyết định quan trọng, không còn coi “chế độ công hữu về tư liệu sản xuất” là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nếu các cố vấn chính sách của Chính phủ vẫn là những nhà cải cách, đây sẽ là chỗ dựa chính trị để trao quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân; thay “quốc doanh là chủ đạo” bằng “hiệu quả của nền kinh tế là chủ đạo”… Rất tiếc, sau Đại hội XI, Chính phủ không những không khai thác được lợi thế chính trị này để đưa ra được cải cách quan trọng nào mà còn để trống “trận địa chính sách” cho những người giáo điều, bảo thủ [2].


Trong khoảng 1990 đến 2006, các nhà cải cách và những kẻ bảo thủ vẫn giằng co trong cuộc đấu tranh “ai thắng ai”. Đôi bên đều cố gắng cài cắm “chữ nghĩa” vào các văn kiện rồi khai thác nó khi làm chính sách. Đầu thập niên 1990, các nhà lãnh đạo Việt Nam – từ thủ tướng cho tới các bộ trưởng, thứ trưởng – đều ý thức là họ cần phải học A, B, C về kinh tế thị trường. Thế hệ lãnh đạo ngày nay có bằng cấp cao hơn, nhiều người lầm tưởng là về kinh tế thị trường họ không cần phải học.


Nhà Nước Pháp Quyền


Sau vụ xử 5 công an đánh chết công dân Ngô Thanh Kiều, ông Chánh án thành phố Tuy Hòa nói rằng bản án của tòa là một “lựa chọn an toàn” nhằm giữ gìn “quan hệ”. Giải thích của ông chánh án làm dư luận bất bình nhưng ông đã rất thật thà. Trong quan hệ chính trị ở địa phương, xét về thứ bậc, chánh án thường chỉ được cơ cấu vào ban chấp hành trong khi trưởng công an lại nằm trong thường vụ.


Pháp chế xã hội chủ nghĩa ưu tiên bảo vệ chế độ chính trị, coi pháp luật là ý chí của giai cấp cầm quyền. Nhà nước pháp quyền đặt “pháp” – những giá trị, những nguyên tắc về công lý được các thành viên trong cộng đồng chia sẻ và thừa nhận – cao hơn “luật” – những quy tắc do quyền lực tạo nên, lệ thuộc vào chính trị (Điều 88, Điều 258… của Bộ Luật Hình sự). Pháp không chỉ là sự công bằng mà còn là chủ quyền, pháp đứng trên, điều chỉnh hành vi của những người cầm quyền.


Một nhà nước không có khả năng bảo vệ công lý thì không thể thiết lập nền tảng cho những giá trị cốt lõi của dân chủ nảy mầm. Công lý không thể được mang đến bởi những người coi các mối quan hệ trong Đảng quan trọng hơn các giá trị được chia sẻ bởi cộng đồng. Không thể xây dựng nhà nước pháp quyền khi hệ thống pháp lý lệ thuộc hoàn toàn vào chính trị.


Con đường đi từ một nhà nước chuyên chính đến một nhà nước pháp quyền không thể một sớm, một chiều. Không chỉ phải thiết lập một hệ thống tư pháp không còn lệ thuộc các cấp ủy và chính quyền địa phương mà còn phải có một hệ thống tư pháp “nhân danh công lý”. Một khi tòa án vẫn còn “nhân danh nước cộng hòa XHCN Việt Nam” thì cán cân của tòa vẫn nghiêng về các yếu tố nhà nước như kết luận điều tra, cáo trạng thay vì phải dựa vào công lý.


Xã Hội Dân Sự


Tháng 9-2011, nhà báo Trần Đăng Tuấn cùng các đồng nghiệp lên Suối Giàng định để “ngắm những cây chè cổ thụ”. Nhưng trong chuyến đi, họ chứng kiến bữa ăn của 80 học sinh của một trường tiểu học nội trú chỉ có cơm và canh cải xanh. Ngay sau chuyến đi đó, ông Tuấn và bạn bè đã khởi động chương trình “cơm có thịt”.


Hơn 18 tỷ đồng và nhiều hiện vật đã được người dân đóng góp và từ đó, không chỉ trường tiểu học Suối Giàng, hàng ngàn trẻ em vùng cao đã được làm quen với những bữa “cơm có thịt”. Vậy nhưng, phải đến đầu tháng 4-2014, “cơm có thịt” mới được công nhận tư cách pháp nhân (Lập quỹ có tên gọi là Trò Nghèo Vùng Cao).


Một nhà cầm quyền khôn ngoan không bao giờ ôm hết về mình trách nhiệm giải quyết mọi phiền hà. Điều gì các quan hệ kinh tế, các quan hệ dân sự… xử lý được thì nhà nước không dại gì nhúng tay vào. Một chế độ dùng quyền lực nhà nước để đè bẹp xã hội dân sự, dùng các định chế chính trị (Đảng và các tổ chức chính trị của Đảng, các thiết chế nhà nước, các nhóm lợi ích…) chế ngự xã hội, thì chế độ đó không chỉ ngăn cản con người phát triển toàn diện mà còn tự làm nghèo chính mình.


Sự hình thành xã hội dân sự sẽ gặp không ít khó khăn khi chưa có tự do chính trị. Nhưng xã hội dân sự cũng không thể hình thành khi người dân không nhận thức được đó là sứ mệnh của chính mình. Chỉ khi người dân bước ra khỏi tâm thế thần dân để đứng trên tư thế công dân thì mới có thể xây dựng một xã hội dân sự trưởng thành, đủ sức đón nhận một cuộc chuyển tiếp dân chủ giảm thiểu khả năng đổ vỡ.


Những người đến Bangkok khi các cuộc biểu tình đang ở cao trào ngạc nhiên khi thấy mọi hoạt động trên các khu phố không có “tụ tập đông người” vẫn diễn ra bình thường. Thay đổi chính phủ cũng không gây ra rối loạn khi xã hội dân sự phát triển, hành chính công vụ và hệ thống tư pháp độc lập với các đảng phái chính trị.


Tự Do Chính Trị và Các Nhà Dân Chủ


Không chỉ có công an, không ít người thành đạt trong xã hội hiện nay cũng thường sử dụng những ngôn ngữ ít thiện cảm khi nói về những người đấu tranh. Họ khai thác hình ảnh và ngôn ngữ thể hiện trong tình trạng bức xúc của một số người xuống đường và coi đó là “dân chủ”.


Không rõ, khi có tự do chính trị, những người như blogger Điếu Cày, chị Bùi Hằng, luật sư Lê Công Định, tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ… có ra tranh cử hay không. Nhưng dân chủ không có nghĩa là các “nhà dân chủ” có thể đương nhiên cầm quyền mà là người dân có quyền bầu hoặc không bầu cho họ.


Dân chủ có đủ chỗ cho tất cả mọi người. Đừng mặc cảm vì mình không đủ dũng cảm hy sinh như Lê Thị Công Nhân, như Điếu Cày… Xã hội dân chủ cần cả những người biết làm giàu cho chính mình chứ không chỉ cần những người dám xuống đường.


Tháng 3-2002, bác sĩ Phạm Hồng Sơn dịch bài viết “Như Thế Nào Là Dân Chủ” trên website của Đại sứ quán Hoa Kỳ rồi phát tán “tài liệu” này. Ông còn viết và phát hành bài “Những Tín Hiệu Đáng Mừng Cho Dân Chủ Tại Việt Nam”. Hai mươi ngày sau, bác sĩ Phạm Hồng Sơn bị bắt. Năm 2003 tòa sơ thẩm xử ông 13 năm tù, phúc thẩm giảm xuống còn 5 năm tù. Mười năm sau, cho dù vẫn có những người vì thực thi quyền tự do ngôn luận mà bị vào tù như Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào… nhưng không gian tự do chính trị đã rộng hơn rất nhiều so với thời bác sĩ Phạm Hồng Sơn ngôn luận.


Chính những người tranh đấu như bác sĩ Phạm Hồng Sơn, luật sự Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân… đã góp phần mở ra không gian tự do đó. Nếu chính quyền bình tĩnh, họ cũng sẽ thấy, những người tranh đấu không những không đe dọa quyền lực của họ mà còn giúp họ nhận ra, càng tôn trọng quyền tự do của người dân, nhà nước càng mạnh lên.


Đừng quá sợ hãi những người biểu tình quanh Hồ Gươm mà hãy quan sát các đoàn “dân oan” để thấy những “quả bom” ức chế trong dân. Không lúc nào là quá trễ để có một lựa chọn thông minh: đưa ra lộ trình dân chủ hóa để chủ động tham gia hay chờ đợi sự sụp đổ để trở thành đối tượng của đám đông giận dữ.


Đây là lúc những người trong Đảng có thể chia sẻ con đường cải cách, phải biết bỏ qua những tị hiềm, bắt tay nhau xây dựng một quốc gia vững mạnh.


Huy Đức




[1] Trong nhiệm kỳ hai, Thủ tướng có ít những chính sách sai lầm hơn. Nhưng cách điều hành vẫn rất là hành chánh. Nghị định về quản lý vàng về mặt hình thức đã tạo ra những “con số đẹp” (mang lại cho Ngân hàng Nhà nước 7.600 tỷ đồng) nhưng hậu quả của nó là lâu dài. Chi phí của nền kinh tế tăng lên do 6000 cửa hàng vàng và doanh nghiệp kinh doanh vàng phải đóng cửa hoặc phải núp bóng các doanh nghiệp có phép kinh doanh vàng; các ngân hàng thương mại phải mua đấu thầu gần 7 tấn vàng với giá cao hơn bình thường ít nhất là 7.600 tỷ đồng.




[2] Không có cải thiện trong chính sách đất đai, quan điểm “quốc doanh là chủ đạo” lại còn được đưa vào Hiến pháp.




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 08, 2014 17:45

March 29, 2014

Luân Chuyển Cán Bộ và Nhân Sự Cho Đại Hội

Sau một quyết định luân chuyển, 44 vụ trưởng, thứ trưởng… bỗng trở thành phó tỉnh[1]. Nhiều người trong đó sau Đại hội sẽ lại ra Hà Nội làm Bộ trưởng, vào Trung ương. “Luân chuyển cán bộ” là một giải pháp được Hội nghị Trung ương Ba, khóa VIII (6-1997), đặt ra. Nhưng phải tới Hội nghị Trung ương Sáu (lần 2), khóa VIII (1998), mới bắt đầu được Tổng bí thư Lê Khả Phiêu áp dụng.


Chỗ Trống


Nếu những nỗ lực đưa tuổi về hưu lên 65 không thành công, Đại hội sắp tới hứa hẹn sẽ có rất nhiều “chỗ trống”. Tuổi để không “tái ứng cử” của ủy viên Trung ương hiện là 60, tức là những người sinh từ năm 1956 trở về trước sẽ phải ra đi. Có tới 81/154 ủy viên trung ương (không tính Ban bí thư, Bộ chính trị) có năm sinh từ 1951-1956. Trong số này có 11 bộ trưởng, 15 bí thư tỉnh ủy và hai vị chủ tịch 2 thành phố Hà Nội, Sài Gòn.


Hy vọng không phải hoàn toàn tắt hết cho 15 vị ủy viên Trung ương sinh năm 1956. Nhưng cũng phải nhớ là ở Đại hội XI chỉ có 4 vị sinh năm 1951 (tương đương 1956 ở đại hội XII) lọt vào Trung ương: Phó chủ tịch Nước Nguyễn Thị Doan, Phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn, Ủy viên Thường vụ Quốc hội Đào Trọng Thi, Bộ trưởng Giàng Seo Phử. Năm 2011, cũng có ba vị bộ trưởng khác “cố đấm” nhưng không “ăn được xôi”: Lê Doãn Hợp (1951), Trần Đình Đàn (1951), Phạm Khôi Nguyên (1950).


Tuổi về hưu của ủy viên Bộ chính trị là 65. Có ít nhất 4 ủy viên Bộ chính trị chắc chắn sẽ bị vấn đề tuổi tác loại ra khỏi danh sách nhân sự Đại hội 12: Nguyễn Phú Trọng (1944), Nguyễn Sinh Hùng (1946), Ngô Văn Dụ và Tô Huy Rứa (cùng sinh năm 1947). Cũng có không nhiều cơ hội cho: Lê Hồng Anh (12-11-1949), Phùng Quang Thanh (2-2-1949), Phạm Quang Nghị (2-9-1949) và Lê Thanh Hải (20-2-1950).


Hai ủy viên Bộ chính trị, Phạm Gia Khiêm (6-8-1944) và Hồ Đức Việt (13-8-1947) đã bị đánh rớt tại Đại hội XI. Chỉ có một tiền lệ là trường hợp của Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, ông được tái cử để đưa lên ghế Chủ tịch Quốc hội khi chỉ còn vài ngày là 65 tuổi (18-1-1946).


Quy định tuổi tác và giới hạn hai nhiệm kỳ cũng có tác dụng tích cực trong một nền chính trị cả nể như Việt Nam. Ông Phạm Văn Đồng từng làm Thủ tướng từ năm 1955 đến 1987. Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn đều giữ chức cho đến “hơi thở cuối cùng”. Trước Đại hội VIII, Đỗ Mười đã 79 tuổi nhưng vẫn còn “bám trụ”.


Bộ Tứ


Từ sau Đại hội IX, tuổi không tái ứng cử của “bộ tứ” được quy định là 67. Đại hội XI diễn ra vào tháng Giêng 2011, khi Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng vẫn còn 3 tháng… để trở thành Tổng bí thư (ông Trọng sinh ngày 14-4-1944).


Nếu Đại hội XII tổ chức vào đầu năm 2016, Ông Trương Tấn Sang có thể chạm vào giới hạn tuổi tác (ông sinh ngày 21-1-1949) nhưng lại có lợi thế là mới giữ chức Chủ tịch Nước một nhiệm kỳ. Ông Nguyễn Tấn Dũng đang còn mấy tháng tuổi (ông sinh 17-11-1949) nhưng chỉ có một con đường “đi lên” vì đã có hai nhiệm kỳ Thủ tướng[2].


Rất nhiều “hồng y” muốn trở thành “giáo hoàng” nhưng ai cũng phải giữ bề ngoài đạo mạo. Ai cũng cần người thay họ nói ra “tham vọng” đó (bằng cách đề cử trong những hội nghị trung ương cuối nhiệm kỳ). Trước Đại hội XI, cho dù uy tín của Nông Đức Mạnh thế nào, lời giới thiệu người kế vị của ông vẫn vô cùng quan trọng. Năm 2011, nếu không được Nông Đức Mạnh giới thiệu, Nguyễn Phú Trọng có thể chỉ là một ông già 67 tuổi về hưu.


Đề cử người kế vị của ông Nguyễn Phú Trọng chắc chắn vẫn có trọng lượng nhưng cách vận hành Bộ chính trị và Ban chấp hành Trung ương giờ đây đã phức tạp hơn. Nó chịu chi phối rất nhiều của vấn đề “thế – lực”.


Nguyễn Tấn Dũng là ủy viên dự khuyết từ tháng 12-1986. Trong khi tháng 1-1994 Nguyễn Phú Trọng mới được đặc cách vào Trung ương. Tuy vào Bộ chính trị gần như trong cùng một thời gian, mãi tới năm 2006 Trương Tấn Sang và Nguyễn Phú Trọng mới có một ví trí có quyền lực ở tầm quốc gia. Trong khi từ năm 1996, Nguyễn Tấn Dũng đã được đưa vào nhóm năm người quyền lực nhất (Thường vụ Bộ chính trị) và lần lượt giữ những chức vụ mà các quyết định có thể “quy ra thóc”, chi phối tới mọi ngóc ngách của hệ thống chính trị: Phó thủ tướng thường trực (1997); Thủ tướng (2006).


Người thắng cuộc là người có nhiều phiếu hơn. Người có nhiều phiếu hơn không hẳn vì uy tín lớn hơn mà còn có thể là người có nhiều “gót chân A-Sin” để sau khi bầu lên “đàn em” dễ dàng trục lợi.


Thành phần bỏ phiếu trong Đại hội không bị chi phối một cách trực tiếp bởi nguyên tắc lợi ích như trong Bộ chính trị, Trung ương, nhưng đại biểu lại thường là những người “phục tùng”. Cho dù xác suất rất thấp, Đại hội vẫn có thể tạo ra bất ngờ nếu như các đại biểu hiểu là lá phiếu của họ có thể chỉ tập trung đặc quyền, đặc lợi cho một số người nhân danh “tập trung dân chủ”.


Tại Sao Luân Chuyển


“Luân chuyển”, theo Nghị quyết Trung ương Ba, là để “giúp cán bộ trẻ có triển vọng, cán bộ trong quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn”. Nhưng, tại sao một ông phó chánh án Toà án Nhân dân Tối cao lại phải “rèn luyện” bằng cách về tỉnh làm phó bí thư; một ông Viện trưởng Viện Nghiên cứu Châu Phi lại phải cần “thực tiễn” ở ủy ban nhân dân một tỉnh..


Ban Tổ chức Trung ương có bao giờ hỏi ông Nguyễn Văn Giàu, hai năm cách ly với chuyên môn ở Ninh Thuận (2004-2006) có giúp được gì cho ông khi làm Thống đốc. Bí thư tỉnh ủy là một nhà chính trị địa phương trong khi Thống đốc ngân hàng làm công việc của một nhà kỹ trị. Ban Tổ chức cũng có bao giờ hỏi ông Nguyễn Hòa Bình (luân chuyển về Quảng Ngãi 2010-2011), kinh nghiệm làm Bí thư có giúp gì để  một ông tướng công an trở thành Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao. Đứng đầu “viện công tố” mà học được cái lắt léo của “chính trị gia” thì liệu có còn “độc lập, chỉ tuân theo pháp luật”.


Cũng có những cán bộ được quy hoạch để làm chính trị khi về địa phương, bị đặt trước thách thức phải tự “tìm chỗ trống có cơ cấu” như Thứ trưởng Trần Thế Ngọc (trước đương kim Bí thư Trần Thị Kim Cúc ở Tiền Giang hồi năm 2010); Phải phản công tự vệ như phó ban Tư tưởng Văn hóa Phạm Quang Nghị khi về làm Bí thư Hà Nam (1997-2001). “Đấu đá nội bộ” cũng có tác dụng trui rèn bản lĩnh nhưng không phải là con đường nhất định để trở thành chính trị gia.


Không thể coi luân chuyển là “thử thách” khi đó chỉ là quy trình một cán bộ được Ban bí thư xếp sẵn ghế rồi “ẵm” về địa phương. Chỉ có rất ít trường hợp thất bại như Vũ Trọng Kim (Quảng Trị 2001-2005). Luân chuyển chỉ là cơ hội để các bên cài đặt nhân sự của mình vào những vị trí có cơ cấu. Cả khách lẫn chủ đều biết chịu đựng nhau. Xuôi chèo mát mái thì đến hẹn họ mới đi cho. Đó là thời gian “nín thở qua sông” chứ không phải là “rèn luyện”.


Cho dù Đảng kiểm soát tuyệt đối về công tác cán bộ nhưng không có nghĩa là cán bộ của Đảng thì có thể ngồi bất cứ chỗ nào. Có những bí thư tỉnh ủy có thể làm bộ trưởng. Nhưng không có nghĩa ai có “hàm bộ trưởng” là có thể phiên ngang. Chính trị địa phương không giống như chính trị quốc gia và điều quan trọng hơn, viên chức hành chánh, viên chức chính trị và chính khách là những vị trí không thể luân qua, chuyển lại.


Hành Chánh Chuyên Nghiệp


Cho dù độc đảng hay đa đảng một quốc gia muốn ổn định đều cần phải thiết lập được một nền hành chánh công vụ chuyên nghiệp và độc lập. Các viên chức hành chánh, nếu muốn vẫn có thể “học tập đạo đức Hồ Chí Minh” và chính trị Marx – Lenin, nhưng điều họ bắt buộc phải học là chỉ được làm những gì pháp luật cho làm, tuân thủ các chuẩn mực hành chánh một cách chính xác và không cần sáng kiến.


Bộ máy hành chánh có thể hình thành từ trong các bộ, ngành, từ tỉnh, quận, huyện và phường xã. Đứng đầu các bộ máy hành chánh ở tất cả các cơ quan này là những người được đào tạo trong trường hành chánh. Họ là các chủ sự, các đốc sự và tham sự hành chánh. Họ có thể có hàm tương đương với thứ trưởng, phó tỉnh trưởng hay phó quận trưởng…


Các bộ trưởng, tỉnh trưởng có thể bị thay thế sau mỗi nhiệm kỳ, nhưng người đứng đầu bộ máy hành chánh thì chuyên nghiệp. Khi nào có bộ trưởng, tỉnh trưởng mới tới, họ lại giúp tập huấn để các chính trị gia biết giới hạn, thủ tục khi ứng xử các quyền hành chánh.


Viên chức hành chánh là một “ngạch” có thể chọn qua thi tuyển.


Viên chức chính trị bổ nhiệm (political appointee)


Đây là một lực lượng hết sức hùng hậu, trung ương có các bộ trưởng, các thẩm phán (bao gồm cả chánh án), công tố viên (kiểm sát viên – bao gồm cả viện trưởng viên kiểm sát)…; địa phương có các giám đốc sở… Họ được bổ nhiệm bởi những chính trị gia được quốc hội hoặc các cuộc tổng tuyển cử bầu lên như thủ tướng, chủ tịch nước, chủ tịch tỉnh… và thường phải được phê chuẩn của quốc hội hay hội đồng nhân dân các cấp.


Quyền lựa chọn nhân sự cho các vị trí này thuộc về các chính trị gia. Nếu họ đưa “em út” hay đưa những kẻ “chạy chức, chạy quyền” vào thì có thể sẽ bị phát hiện trong quá trình điều trần. Nếu người mà họ bổ nhiệm không được phê chuẩn thì họ sẽ rất có thể mất uy tín, phải từ chức hoặc chịu thất cử trong nhiệm kỳ kế tiếp.


Tuy quyền lựa chọn là của cá nhân nhưng để có sự hậu thuẫn chính trị các chính trị gia buộc phải lựa chọn nhân sự từ nhiều nguồn khác nhau. Thay vì dựa vào “kho dự trữ cán bộ” của Bộ chính trị, Ban bí thư, Thủ tướng sẽ lựa chọn các bộ trưởng trong hàng các chính trị gia hoặc trong các nhà kỹ trị, các nhà văn hóa lớn; Chủ tịch nước sẽ chọn các thẩm phán không phải từ những người được quy hoạch mà có thể từ các luật sư nổi tiếng, giỏi nghề nghiệp và liêm chính.


Chính Trị Gia


Công tác cán bộ như hiện nay không thể làm xuất hiện chính trị gia cho dù vẫn có những chức danh được đặt vào thông qua bầu cử. Chính trị gia thực thụ phải là những người trưởng thành từ các hoạt động chính trị, xã hội… được công chúng biết đến và chọn lựa.


Không phải tự nhiên, cho dù có học vấn cao hơn, phẩm chất chính trị gia của lãnh đạo càng ngày càng tụt xuống. Trước đây, các lãnh đạo địa phương được điều ra Trung ương thường nhờ thành tích “đổi mới” (như Võ Văn Kiệt, Đoàn Duy Thành, Nguyễn Văn Chính – Chín Cần…). Ngày nay, không ai biết thành tích ở địa phương của các bí thư tỉnh ủy được đưa lên là gì. Không có môi trường chính trị để những người trở thành lãnh đạo thực sự cao hơn các đồng chí của họ “một cái đầu”, các nhà lãnh đạo đã chọn những kẻ kém mình “một cái đầu” cho dễ bảo.


Hiện tượng xuất hiện các nhà lãnh đạo dưới 40 tuổi có học vấn cao, được đào tạo ở Mỹ, ở Canada như Nguyễn Thanh Nghị (phó bí thư Kiên Giang), Nguyễn Xuân Anh (phó bí thư Đà Nẵng) lẽ ra phải được coi là tích cực. Nhưng họ lại đang trở thành đối tượng để dư luận “xì xào”. Vấn đề là tại sao lại chỉ có hai vị ấy mà không phải là những người xuất sắc khác trong số hàng chục ngàn bạn trẻ vừa du học trở về.


Nếu không có một môi trường chính trị minh bạch thì những người tử tế rất khó có chỗ đứng trong giới cầm quyền. Nếu không có một môi trường tranh cử công khai thì người tài không thể xuất hiện và được thử thách. Nếu đội ngũ kế cận chỉ gồm những người được cha chú “lôi từ trong túi áo ra” thì cho dù họ lên tới cấp nào cũng chỉ có thể hành xử như hàng thuộc hạ.


Huy Đức




[1] Trong 44 cán bộ được luân chuyển đợt này, có 2 ủy viên dự khuyết Trung ương, 19  thứ trưởng và tương đương; 25 cục trưởng, vụ trưởng và tương đương; 3 cán bộ nữ. Theo Quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, 25 người giữ chức Phó Bí thư tỉnh ủy, thành ủy; 19 người giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố.




[2] Theo Nghị quyết Trung ương Ba, Khóa VIII: “Cán bộ đứng đầu từ cấp huyện, quận trở lên không giữ một chức vụ quá hai nhiệm kỳ”.




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 29, 2014 04:21

March 17, 2014

74 Hay 75 Tử Sĩ Hoàng Sa

Cho đến nay, danh sách 74 người lính Việt Nam Cộng Hòa hy sinh ở Hoàng Sa trong trận hải chiến chống quân Trung Quốc xâm lược ngày 19-1-1974 vẫn chưa hoàn chỉnh. Sau hai tháng Nhịp Cầu Hoàng Sa công bố xin ý kiến, chúng tôi đã nhận được một số thông tin rất có giá trị.



Cùng Hoàn Chỉnh Danh Sách 74 Liệt Sĩ Hoàng Sa

Về trung sĩ cơ khí tên “Xuân” (HQ 16) ở số thứ tự 73, chúng tôi đã có đầy đủ tài liệu để khẳng định tên đầy đủ là Trần Văn Xuân. Di cốt của ông hiện để tại chùa Phước Duyên, 124 Xóm Chiếu F.14 Quận 4. Người cung cấp những tài liệu này cho chúng tôi là anh Trần Văn Dũng, em trai anh Trần Văn Xuân (74 – danh sách mới), hiện cư ngụ tại Quận 4. Trước đó, anh Nguyen Nho (qua nhà văn Nguyễn Quang Lập) có gửi thư cho chúng tôi báo nhiều thông tin có giá trị nhưng thông tin của anh Nguyen Nho về họ tên thì chưa chính xác.


Về hạ sỹ Nguyễn Thành Danh, trong danh sách cũ (số thứ tự 9), tên chính xác là Bùi Quốc Danh. Họ của anh Danh đã bị viết sai ngay trong “Tường trình ủy khúc” đọc trong lễ truy điệu tổ chức tại Sài Gòn năm 1974. Tuy nhiên, tên của hạ sĩ Danh ghi kèm theo chân dung các tử sĩ Hoàng Sa lại là Bùi Quốc Danh. Ông Bùi Quốc Thêm, em trai của hạ sĩ Danh đã có thư gửi nhà nghiên cứu Vũ Hữu San (nguyên Hạm trưởng HQ-4) xác nhận tên chính xác của hạ sĩ Danh là Bùi Quốc Danh.


Chúng tôi cũng bổ sung vào Danh sách này tên tuổi của trung sĩ Phạm Ngọc Đa (số thứ tự 12). Người cung cấp cho chúng tôi những thông tin này (28-2-2014) là hai người em ruột của trung sĩ Đa, chị Phạm Thị Kim Lệ và anh Phạm Minh Cảnh. Danh tánh của trung sĩ Phạm Ngọc Đa lâu nay chưa xuất hiện trong danh sách 74 tử sĩ Hoàng Sa, mặc dù đã có những tài liệu nói rằng trung sĩ Đa mất trên bè cứu sinh của tàu HQ-10 chỉ 15 phút trước khi bè này gặp được tàu Hà Lan.


Mẹ của trung sĩ Đa, bà Phan thị Thê (sinh 1928) hiện sống ở thành phố Long Xuyên, An Giang. Bà lưu giữ từng trang tài liệu liên quan đến người con đã hy sinh, khoản tiền tử tuất Chế độ cũ cấp trước ngày 30-4-1975, bà cũng không dùng đến vì theo bà, “Đó là tiền xương máu”. Cháu ruột của trung sĩ Phạm Ngọc Đa, con trai của chị Phạm Ngọc Hà, em gái Đa, đang là chiến sĩ hải quân đánh bộ, Quân đội Nhân dân Việt Nam.


Việc tên tuổi của trung sĩ Phạm Ngọc Đa chưa có trong danh sách 74 tử sĩ Hoàng Sa là một thiếu sót về sau của những người lập danh sách. Theo ông Vũ Hữu San, trong Tường Trình Ủy Khúc của Bộ tư lệnh Hải quân, đã có tên Phạm Ngọc Đa (121 BTL/HmĐTS./VCh Pham-Ngọc Đa 71A703.001). Việc bổ sung tên tuổi trung sĩ Phạm Ngọc Đa vào danh sách tử sĩ Hoàng Sa là hoàn toàn có cơ sở. Tuy nhiên, một vấn đề được đặt ra ở đây: Như vậy, 74 hay 75 chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-1-1974?


Con số 74 người lính hy sinh trong trận hải chiến này được đưa ra trong lễ truy điệu khi mà chính thể Việt Nam Cộng Hòa đang còn cầm quyền ở miền Nam, theo chúng tôi, là rất khó “để sót”. Trong nỗi đau mất người thân, chắc chắn thân nhân của những tử sĩ này đã lên tiếng trong hơn một năm sau đó, nhất là sau khi những người bị Trung Quốc bắt đã được trao trả.


Danh sách hiện nay được lập nên theo trí nhớ của đồng đội, sau hơn 40 năm lưu lạc, nên không tránh khỏi tên họ có những trường hợp chưa chính xác, có trùng lắp. Ví dụ, trong số các ảnh phổ biến trên mạng có một tử sĩ tên là Nguyễn Văn Ba, trong khi theo danh sách trong Tường Trình Ủy Khúc lại chỉ có hai người tên “Ba”: Phạm Văn Ba và Trần Văn Ba (không có Nguyễn Văn Ba); tử sĩ Bùi Quốc Danh, trong khi danh sách trước đây ghi là Nguyễn Thành Danh (chúng tôi đã giải thích trên đây). Hay ở số thứ tự 72 và 74 (danh sách cũ) có hai người mang tên Xuân cùng ở HQ-10 (trung sĩ Nguyễn Quang Xuân và trung sĩ Nguyễn Vĩnh Xuân)…


Thời gian qua, chúng tôi cũng được gia đình các tử sĩ cung cấp thêm thông tin: Hạ sĩ Trần văn Định, HQ10, mất khi còn độc thân, được thờ cúng bởi cha, mẹ, nhà riêng ở đường Phùng văn Cung, Phú Nhuận. Từ khi cha mẹ hạ sĩ Định mất, người em là Trần văn Hùng tiếp tục nhang khói cho anh. Anh Hùng là tài xế Taxi Vinasun. Hạ sĩ Nguyễn Văn Thân, HQ-10, hiện còn các em, cư ngụ tại đường Huỳnh Tấn Phát, Nhà Bè.


Qua facebook của mình, chị Bội Liên Nguyễn Lê cho biết, “Chú tôi: Chuẩn úy Nguyễn Phú Hảo – Tàu HQ5 Trần Bình Trọng – sinh năm 1940. Quê quán: Hải Châu – Đà Nẵng.Khi mất chú vẫn còn độc thân nên hiện nay bố tôi là người thờ phụng, nhà ở đườngHoàng Diệu – Đà Nẵng”. Chúng tôi sẽ liên hệ với gia đình chuẩn úy Hảo khi có dịp ra Đà Nẵng hoặc khi có số điện thoại.


Hiện nay, trong danh sách mới lập lại của chúng tôi (kèm theođây) vẫn còn 5 người chưa có đầy đủ họ tên: thượng sĩ Châu[1](5); trung sĩ Đức (20); trung sĩ Nam (38); thủy thủ Thanh (54); thượng sĩ Thọ (59). Nhiều người chưa có chân dung và những dữ liệu về ngày sinh và quê quán .


Những ai là thân nhân, những ai là đồng đội, những ai là người quen… biết thêm thông tin xin gửi về cho chúng tôi theo email: Đỗ Thái Bình: binhthaido@gmail.com; Huy Đức: huyducnews1984@gmail.com. Cũng như với những người đã hy sinh vì tổ quốc trong những trận chiến khác, đừng để những người đã hy sinh vì Hoàng Sa “khuyết danh”. Hãy cùng chúng tôi viết tên các anh.




[1] Ngay sau khi chúng tôi công bố danh sách, một facebooker gửi tin: “Số thứ tự thứ 5 là liệt sĩ Thượng sĩ nhất quản nội trưởng trọng pháo, họ tên đầy đủ Nguyễn Hồng Châu. Quê quán hiện nay, phường 6, Quận 4, TPHCM. Liệt sĩ Nguyễn Hồng Châu là người nhà của tui. Nhà báo hay cơ quan chức năng muốn thông tin đầy đủ thì hãy liên lạc qua fb này”. Chúng tôi (Binh Do Thai) đã liên lạc qua Facebook ngay nhưng cho tới nay vẫn chưa nhận được hồi âm).




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 17, 2014 01:52

March 14, 2014

Nối Tiếp Những Nhịp Cầu

Trước khi khởi động chương trình Nhịp Cầu Hoàng Sa, tôi liên hệ với bạn bè đang làm báo, đề nghị họ nên có chương trình tri ân gia đình những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh ở Hoàng Sa ngày 19-1-1974. Hai tuần sau, các đồng nghiệp của tôi báo lại là Ban biên tập của họ không đồng ý. Lúc đấy, chúng tôi mới xúc tiến công tác chuẩn bị và ngày 7-1-2014, công bố Chương trình Nhịp Cầu Hoàng Sa.


Chúng tôi hoan nghênh chương trình “Nghĩa Tình Hoàng Sa, Trường Sa” của Tổng Liên doàn Lao động Việt Nam (13-3-2014). Tháng 2-2014, sau khi cùng cựu binh Lê Hữu Thảo đi khảo sát hoàn cảnh của hơn hai mươi gia đình liệt sỹ Gạc Ma và cựu binh Gạc Ma, chúng tôi biết rằng, không một chương trình đơn lẻ nào có thể chia sẻ hết những mất mát của gia đình những người lính này. Hy vọng, Tổng Liên đoàn Lao động, với ảnh hưởng chính trị của mình có thể có được những khoản đóng góp lớn từ các doanh nghiệp lớn.


Chỉ mong, khi mà những người mẹ, người vợ Hoàng Sa, Gạc Ma còn phải ở trong những căn nhà nhỏ hẹp, thiếu thốn mọi bề, tiền bạc nên được ưu tiên dùng để chăm sóc những “tượng đài sống” này, thay vì xây dựng các tượng đài bằng đá.


Nhiều người băn khoăn khi ngôi đền mà Chương trình Nghĩa tình Hoàng Sa, Trường Sa định xây dựng chỉ để thờ vong linh 64 liệt sỹ Gạc Ma. Tôi biết Tổng Liên đoàn Lao động cũng đối diện với không ít khó khăn. Nhưng nên đình việc xây đền cho đến khi người Việt có thể thờ chung những vong hồn giữ biển. Nếu các gia đình liệt sỹ Hoàng Sa chỉ nhận được “những phần quà” trong khi tên tuổi các liệt sỹ Gạc Ma được đặt ở trong đền, chắc hẳn Chương trình sẽ làm chạnh lòng những đứa con côi và các bà quả phụ.


Thật buồn khi chiến tranh kết thúc đã 39 năm nhiều người vẫn phải “nhìn trước ngó sau” khi nhắc tới những gì liên quan tới chính thể Việt Nam Cộng hòa. Nhưng chính vì điều đó mà chúng tôi khởi động chương trình này. Bởi, nếu hai bên lúc nào cũng có thể vui vầy, chúng ta không còn phải bắc “nhịp cầu” nào nữa.


Trong quá trình vận động, nhiều người đề nghị chúng tôi thêm vào tên của Chương trình hai chữ “Trường Sa” để tiện hơn cho họ trong việc tham gia. Nhưng chúng tôi vẫn giữ nguyên. Hoàng Sa là nơi duy nhất trước ngày 30-4-1975 người Việt đã không bắn vào nhau. Hoàng Sa là nơi người Việt đã chĩa súng đúng vào quân xâm lược. Hoàng Sa, với chúng tôi, không phải là một điểm đến mà là một điểm nối.


Chúng tôi không gọi chương trình của mình là nghĩa tình. Những ngôi nhà mà chúng tôi đang xây sẽ không đặt biển bảng nào. Chúng tôi quan niệm, đây là cơ hội để chúng ta tri ân những người lính đã hy sinh bảo vệ đất nước mình. Những người vợ ấy, những bà mẹ ấy không phải gánh trên vai “nợ tình”ai hết.


Từ cách đây 5 tuần, chúng tôi bắt đầu làm thủ tục để mua một căn hộ theo nguyện vọng của bà quả phụ Ngụy Văn Thà. Chúng tôi đang tiếp tục vận động để giúp bà quả phụ thiếu tá Nguyễn Thành Trí cải thiện chỗ ở. Người con trai mà bà Trí còn mang thai khi chồng ngã xuống ở Hoàng Sa sắp bước sang tuổi 40, dự định tháng 7 này sẽ lập gia đình. Căn hộ 40 mét vuông mà ba mẹ con bà đang sống sẽ càng trở nên chật chội. Chúng tôi cũng đang bắt đầu khởi động một nhịp cầu mới: Giúp cựu binh Gạc Ma Lê Hữu Thảo mua đất cất nhà.


Khi chúng tôi làm Chương trình này, việc tri ân những gia đình Hoàng Sa còn chưa được truyền thông nhà nước nói đến. Rất vui khi Tổng Liên đoàn Lao động, một “mắt xích” lớn trong hệ thống chính trị, đã đưa sự chú ý của báo chí chính thống tới những gia đình Việt Nam Cộng hòa.


Chắc chắn, Chương trình “Nghĩa tình Hoàng Sa, TrườngSa” sẽ “phủ sóng” rộng hơn Chương trình của chúng tôi. Nhưng vấn đề không chỉ là vật chất. Lịch sử hơn nửa thế kỷ qua đã để lại trong lòng đất nước này muôn vàn góc khuất. Người Việt với nhau đang cần nối tiếp vô số những “nhịp cầu”.


Huy Đức


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 14, 2014 01:49

March 13, 2014

Trả Tự Do cho Giáo Dục

Thành lập và đứng đầu Ủy ban quốc gia đổi mới giáo dục là một lựa chọn rất khôn ngoan của Thủ tướng. Nhưng, một nền giáo dục bị giam hãm qua nhiều thập niên không thể thay đổi nếu công việc từ nay tới 2020 chỉ là “xây dựng chương trình môn họcvà biên soạn các sách giáo khoa” như Hội đồng giáo dục đưa ra hôm 25-2[1]. Biên soạn sách giáo khoa là công việc có thể đảm đương bởi những tổ chức dân lập như “Cánh Buồn”. Điều mà đất nước cần ở một vị thủ tướng có tầm nhìn là ngay bây giờ phải “trả tự do” cho Giáo dục.


Giáo Dục


Ngày nay, không ai có thể đặt quốc gia, dân tộc trong những không gian riêng biệt. Một nền giáo dục có tương lai là một nền giáo dục tạo ra được những giá trị có thể chia sẻ toàn cầu, chuẩn bị được một nguồn nhân lực giàu tính nhân văn và khả năng sáng tạo.


Không thể cải cách giáo dục nếu chỉ nghĩ đến sự tồn vong của Chế độ. Cũng không thể cải cách giáo dục nếu chỉ nghĩ đến sự hùng cường đơn lẻ của một quốc gia. Không thể cải cách giáo dục, nếu không nghĩ đến việc chuẩn bị những thế hệ người Việt có thể tìm chỗ đứng bên ngoài biên giới Việt.


Cải cách là để xây dựng một nền giáo dục mà những người làm chính sách cũng có thể yên tâm để trao gửi con em chứ không phải là để trục lợi rồi lặng lẽ đưa con cháu mình đi “tị nạn” bằng con đường du học.


Tách Bạch Hành Chính & Chính Sách


Không thể bắt đầu một chiến lược cải cách bằng việc xây dựng “chương trình môn học và biên soạn các sách giáo khoa”. Để tránh những chính sách “sặc mùi ngân sách” và để đảm bảo khi duy trì một thủ tục hành chánh nào đó (đăng ký, giấy phép…) là vì nó cần chứ không phải vì sẽ thu được phong bì. Do vậy, trước hết, phải tách bạch chức năng hành pháp chính trị và chức năng hành chính công vụ của ngành giáo dục.


Những người đã tham gia vào quy trình ban hành chính sách thì không được dính líu tới lợi ích khi thi hành. Cha đẻ của các giấy phép thì không bao giờ được nắm quyền cấp phép.


Thay vì tiêu tốn quá nhiều ngân sách và can thiệp vào mọi ngóc ngách như hiện nay. Bộ Giáo dục chỉ cần giữ lại vai trò ban hành chính sách: Chính sách khuyến khích khu vực tư tham gia đầu tư giáo dục; chính sách để môi trường đại học thực sự sáng tạo, để nhà trường tự quyết và tự chịu trách nhiệm với các sản phẩm giáo dục của mình…


Bộ có thể đưa ra các chuẩn giáo dục cho bậc phổ thông (học sinh tiểu học, trung học cần được trang bị kiến thức toán, lý, hóa, địa lý, văn chương và lịch sử ở chuẩn nào). Dựa trên những “chuẩn giáo dục” này, các trung tâm khảo thí sẽ ra đề thi và các trường có điều kiện hoặc các trung tâm nghiên cứu giáo dục sẽ viết sách giáo khoa. Thay vì, Bộ “ôm thầu” từ việc viết sách cho đến in và kinh doanh sách.


Với những môn học như ngoại ngữ thì cách tốt nhất là mua (hoặc xin) bản quyền giáo trình ngoại ngữ của nước ngoài. Phần nào họ viết không đúng về Việt Nam thì chỉ cần cắt bỏ hay biên tập.


Bộ xây dựng quy chế để các trung tâm khảo thí ra đời. Những trung tâm này có thể nhận chuyển giao công nghệ thi cử từ các quốc gia có nền giáo dục thành công. Trung tâm khảo thí có thể do Bộ lập ra cũng có thể giao cho tư nhân (thu phí từ các thí sinh). Có thể có vài, ba trung tâm, nơi nào có uy tín, các trường đại học sẽ sử dụng kết quả thi nhiều hơn, thí sinh sẽ đăng ký thi nhiều hơn.


Với mô hình này thì bộ máy “quản lý giáo dục” sẽ giảm tới mức tối đa, các chức năng phân loại, đánh giá chất lượng trường, ngay cả chức năng thanh tra giáo dục cũng có thể được tiến hành thông qua hiệp hội các trường ở trong và ngoài nước.


Trả Các Cở Sở Giáo Dục cho Giáo Hội


Không nên coi đây là chính sách mới vì nó chỉ là một phần trong chính sách “xã hội hóa giáo dục” mà “Đảng và Nhà nước” đã chủ trương[2]. Năm 2005, Chính phủ đề ra các mục tiêu tham vọng, tới năm 2010, tỉ lệ học sinh ngoài công lập phải đạt: Nhà trẻ 80%; mẫu giáo 70%; trung học phổ thông 40%; trung học chuyên nghiệp 30%; các cơ sở dạy nghề 60%; đại học, cao đẳng khoảng 40%.


Tuy nhiên, tới năm 2011, theo số liệu thống kê của Bộ, tỉ lệ học sinh ngoài công lập cao nhất (ở bậc mẫu giáo) cũng chỉ đạt 48,2%; thấp nhất (ở bậc trung học cơ sở) chỉ đạt 0,6%; bậc đại học chỉ có 13,2%; cao đẳng gần 20%. Không chỉ vì thủ tục hành chánh quan liêu, một trong những nguyên nhân khiến cho tỉ lệ “xã hội hóa” chưa cao là bởi các tôn giáo, nguồn lực tiềm năng nhất, chưa được tham gia đầu tư giáo dục (từ bậc phổ thông cơ sở).


Ở miền Nam trước ngày 30-4-1975, sở dĩ hệ thống công lập khá mạnh là nhờ các trường tư thục đã gánh cho Chính phủ một phần quan trọng[3]. Phần lớn các trường tư thục là do các hiệp hội, đặc biệt, các tôn giáo đầu tư[4]. Sau ngày 30-4-1975, Chế độ mới đã công hữu hóa 1.087 trường tư, trong đó gồm tất cả trường học của Giáo hội công giáo và các trường Bồ Đề của Giáo hội Phật giáo.


Một nhà nước pháp quyền không thể “bảo kê” cho một tôn giáo nào, kể cả những tôn giáo đã đồng hành kể từ khi lập quốc. Không thể không coi gần 6 triệu giáo dân đang sống ở Việt Nam (6,87%) là công dân. Có thể, nếu trao các cơ sở giáo dục cho tôn giáo sẽ làm tăng tỷ lệ công dân “có đạo” trong tương lai. Nhưng điều đó chỉ giúp cho có nhiều hơn những người Việt Nam được học về luân lý.


Nên nhớ, các cố đạo là cha đẻ của chữ Quốc ngữ. Một chế độ tự tin không sợ sự đa dạng trong văn hóa và giáo dục. Không có Nhà nước nào có nhiều công cụ để trừng trị những ai muốn dùng trường học để “kích động bạo lực” hay “chia rẽ khối đoàn kết dân tộc” như Nhà nước hiện hành.


Hơn 90% các cơ sở giáo dục của Giáo hội nằm ở những thành phố lớn. Đa số đều là những trường lớn. Nếu những trường lớn này được trả lại cho giáo hội (công giáo và phật giáo) hoặc tư thục hóa thì nguồn ngân sách, thay vì tập trung cho những vùng mà người dân có khả năng chi trả cho con em mình, chia sẻ cho những vùng mà con em của chúng ta đang cần những bữa “cơm có thịt”, đang cần những mái trường không rách, dột.


Để Các Trường Đại Học Tự Chịu Trách Nhiệm


Một cơ sở giáo dục không thể tồn tại nếu người lập ra và quản trị nó không coi đó là một hoạt động kinh doanh vấn đề là sử dụng lợi nhuận để ăn chia hay đầu tư trở lại cho giáo dục.


Chúng ta chưa có nhiều những cơ sở giáo dục phi lợi nhuận. Một trong những lý do là gần như những người không nghĩ tới lợi nhuận rất khó xin giấy phép mở trường. Chính phủ cần có nghị định hướng dẫn, bất cứ ai mở trường (kể cả trường đại học) đều chỉ cần đăng ký với bộ máy hành chánh địa phương theo thủ tục hình thành doanh nghiệp (loại có điều kiện).


Thật phi lý khi việc phong hàm giáo sư, phó giáo sư lại lệ thuộc vào cái gọi là “hội đồng quốc gia” bao gồm những người có những chuyên môn khác nhau, đa số rất xa lạ với chuyên môn của người mà họ ngồi xét duyệt. Bộ phải để cho các trường chịu trách nhiệm về các sản phẩm của mình. Chính Bộ trưởng Phạm Vũ Luận cũng biết rằng, bằng giả chỉ có thể chui vào “nhà nước” chứ” thị trường lao động” không bao giờ chấp nhận. Thị trường biết sự khác nhau giữa một “tiến sỹ Yale” với “tiến sỹ “La Sella”; giữa một “giáo sư Bách khoa” với một “giáo sư hàng huyện”.


Tuyển sinh là công việc của nhà trường, Bộ đặt ra điểm chuẩn là vừa lạm quyền vừa vô trách nhiệm con em và xã hội. Về nguyên tắc, một một người đã học 12 năm mà không đủ khả năng học đại học thì hệ thống giáo dục phổ thông tồn tại để làm gì. Kỳ thi chỉ là cách để các trường tên tuổi tìm kiếm cho mình những sinh viên giỏi.


Với cách thi như hiện nay, không phải những ai trượt đại học đều vì học lực. Đừng để các em bỏ lỡ cơ hội vào đời. Đừng để các em sớm rơi vào một môi trường xã hội có quá nhiều tệ nạn.


Hiện chỉ mới có 40% học sinh tốt nghiệp phổ thông được học trong các trường đại học hay cao đẳng. Phụ huynh của 60% học sinh còn lại sẽ yên tâm hơn nếu, những ai chưa thể đi làm ngay, có một môi trường nhà trường dừng chân trong vài năm, trước khi con em họ chọn đúng ngành học và tìm được việc làm thích hợp.


Đừng tuyệt đối hóa môi trường đại học mà nên coi đó là một chặng dừng chân chuẩn bị của các em. Nên để cho các trường đại học được mở dễ dàng hơn. Đừng buộc các nhà đầu tư giáo dục phải có những điều kiện quá gắt gao. Thật phi lý khi yêu cầu những người mở trường đại học phải có 5 hecta đất trở lên bởi có những sự nghiệp giáo dục lớn lại chỉ bắt đầu từ một phòng học nhỏ.


Đừng đòi hỏi giáo viên phải có bằng thạc sỹ, tiến sỹ mà hãy để các trường tìm đúng những người mà sinh viên của họ cần. Đừng sợ các trường đại học “mọc ra như nấm”. Người học và thị trường lao động sẽ điều chỉnh chất lượng và phân loại các trường.


Lịch Sử và Chính Trị Là Các Môn Khoa Học


Với một quốc gia như Việt Nam thì việc tiếp tục dạy “chủ nghĩa Marx – Lenin” là cần thiết. Các thế hệ tiếp theo cần biết “ý thức hệ” đã dẫn dắt dân tộc ta đi qua những “bước ngoặt” nào. Vấn đề là “Marx -Lenin” phải được tiếp thu không phải như một “giáo lý” mà phải như một môn khoa học và trở thành một phần của bộ môn triết học.


Thủ tướng cũng không nên quá lo ngại khi đụng chạm đến việc dạy và học “Marx -Lenin”. Vấn đề quan tâm lớn nhất trong Đảng hiện nay là quyền lực chứ không còn là lý luận. Ông có thể gặp phản ứng gay gắt một cách công khai nhưng ông sẽ có sự ủng hộ ngầm của tất cả học sinh, sinh viên và đặc biệt là của một thế hệ cán bộ ở hàng trung, cao cấp.


Cũng cần khảo sát để biết sinh viên đang “tiêu hóa” lịch sử Đảng và “triết học Marx – Lenin” ra sao. Thủ tướng nên bỏ thời gian chạy lên khuôn viên Học viện Chính trị Quốc gia. Không có sân trường nào có nhiều xe hơi hơn nơi đây. Ở đâu học sinh bị buộc phải có bằng chứng nhận cho một thứ kiến thức mà cuộc sống không còn cần ở đó các “cơ chế” sẽ vận hành bằng tiền bạc. Đa số cán bộ trong Đảng sẽ bỏ phiếu cho Thủ tướng nếu nhờ ông mà từ nay họ không phải xa nhà cả năm, “hầu hạ” các thầy để lấy bằng “cao cấp lý luận” trước khi đề bạt.


Nhà trường hiện đại không thể khép kín như một giáo đường. Anh không thể xây dựng một nền giáo dục mà không biết rằng học sinh, sinh viên từ lâu đã không chỉ học từ thầy mà còn có thể học từ internet. Lịch sử và chính trị là những môn khoa học, không thể tiếp tục bắt người học đón nhận theo cách của một tín đồ.


Nếu trong một môi trường giáo dục mà học sinh không thể tư duy độc lập và tập dượt khả năng suy xét (critical thinking) thì cho dù cả nước tốt nghiệp đại học và hàng triệu người có bằng tiến sỹ, dân trí ở đó cũng không thể được tính là cao được.


Cải cách giáo dục vì thế không thể lấy mục tiêu cho kỳ đại hội đang tới gần mà phải đặt nền móng cho tương lai của nhiều thế hệ.


Huy Đức




[1] Sáng 25-2-2014,Thủ tương chủ trì phiên họp của Hội đồng quốc gia giáo dục và phát triển nhân lực, tại phiên họp, Bộ Giáo dục và đào tạo đã trình bày dự thảo quyết định về việc thành lập Ủy ban quốc gia đổi mới giáo dục. Thủ tướng thống nhất thành lập Ủy ban.




[2] Nghị quyết số 05/2005/NQ–CP của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao ban hàng ngày18/5/2005: “Khuyến khích thành lập các cơ sở giáo dục, đào tạo và dạy nghề NCL; chuyển một số cơ sở công lập sang loại hình NCL. Hạn chế mở thêm các cơ sở công lập ở những vùng kinh tế phát triển. Không duy trì các cơ sở bán công, các lớp bán công trong trường công”.




[3] Vào năm 1964 các trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học. Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học. Tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học.




[4] Từ năm 1961-1975, Giáo Hội Công Giáo tại miền Nam có 145 trường trung học với 62.324 học sinh và 1.060 trường tiểu học với 209.283 học sinh (riêng tại giáo phận Sài Gòn có 56 trường trung học với 30.748 học sinh và 338 trường tiểu học với 91.870 họcsinh). Tính đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung học với tổng số học sinh là 58.466.




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 13, 2014 01:47

March 11, 2014

Bà Năm Mè & Tướng Big Minh

Nhiều người không biết bà Năm Mè là ai, dù lễ tang của bà sẽ có rất nhiều quan chức và sẽ được nói nhiều trên truyền thông nhà nước. Bà Năm Mè từng giữ chức “thứ trưởng” trong Chính phủ (“làm kiểng”) Lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sau ngày 30-4-1975, bà là “hộp thư” quan trọng giữa chính quyền thành phố và vị Tổng thống đầu hàng kẹt lại: Tướng Dương Văn Minh.


Tướng Dương Văn Minh đã từng quyết định ở lại để “làm dân một quốc gia độc lập”, nhưng cho dù được ông Võ Văn Kiệt đối xử trân trọng, cuối thập niên 70 ông vẫn quyết định rời Việt Nam.


Không chỉ do cuộc sống có những khó khăn mà có lẽ những gì xảy ra lúc ấy ở miền Nam cũng khiến lòng ông giằng xé. Tuy nhiên, ông tỏ ra hết sức cẩn trọng trong mọi ứng xử. Trước khi sang định cư ở Pháp, ông Minh hỏi bà Năm Mè (Bùi Thị Mè), “thứ trưởng” Bộ Y tế của “Cộng hòa Miền Nam” và là bạn từ thiếu thời của ông: “Tổng Lãnh sự Pháp mời cơm tôi, theo chị tôi có nên nhận lời không?”. Bà Mè đem chuyện hỏi ông Võ Văn Kiệt, ông Kiệt nói: “chị kêu ảnh cứ gặp và chị nhớ đừng nói gì để anh ấy nghĩ là tôi dặn dò. Con người như thế mình nói gì thêm với họ là không cần thiết”.


Trong bữa cơm với Lãnh sự Pháp, ông Tổng Lãnh sự hoan nghênh vợ chồng ông Minh đã chọn Pháp làm nơi cư trú, ông nói: “Ngài Đại sứ gửi lời thăm và muốn tôi nói với ông là Chính phủ Pháp sẽ lo hết chuyến đi của ông”. Ông Dương Văn Minh đáp lại: “Tôi xin cám ơn, Chính phủ của tôi đã lo hết”. Trước khi ông Minh đi Pháp, ông Kiệt kêu Thư ký Phạm Văn Hùng bố trí ở nhà bà Năm Mè một “bữa cháo gà”, theo lời ông Hùng thì hai người đã nói chuyện với nhau suốt nhiều giờ tâm đắc.


Năm 1984 khi dự Quốc khánh Cộng hòa Dân chủ Đức, sau đó đi thăm chính thức Algeria, trên đường về, ông Võ Văn Kiệt có ghé qua Pháp thăm ông Dương văn Minh, hai người đã trò chuyện khá lâu và theo ông Kiệt là rất cởi mở.


Trong những ngày ở Pháp, Tướng Dương Văn Minh vẫn liên lạc với bà Năm Mè. Trong một bức thư viết tay đề ngày 28-8-1988, ông tâm sự: “Ở Montheny được cái yên tĩnh như ở làng bên mình nên tôi và “nhà tôi” rất khỏe. Cũng nhờ không khí ở đồng nên sức khỏe tốt. Đau ốm thì có bác sĩ và thuốc men đầy đủ, mỗi hai tháng đi khám sức khỏe một lần, về cả thử máu (thử đủ chuyện). Tất cả đều được miễn phí nên được yên tâm phần nào. Nhưng dẫu sao cũng nhớ nhà lắm chị Năm ơi! Nhớ bạn bè, nhớ bà con thân thuộc. Nhớ người nầy, nhớ người kia, nhất là nhớ mẹ tôi năm nay đã già mà tôi ở xa quá. Ở nhà còn hai đứa em trai và một đứa em gái nhưng tôi thấy tụi nó không biết lo cho mẹ già đúng mức…”


Trong thập niên 90, khi tình hình trong nước đã khá dần lên, bản thân ông Võ Văn Kiệt cũng muốn ông Dương Văn Minh trở về Việt Nam như một minh chứng cho “Đổi mới”. Năm 1994, khi ông Hồ Ngọc Nhuận đi Pháp, có đến thăm ông Minh và tất nhiên là có chuyển lời mời của ông Võ Văn Kiệt.


Một bức thư của bà Năm Mè gửi cho ông Dương Văn Minh vào giữa thậpniên 90 cho thấy việc xúc tiến đón ông trở lại Sài Gòn đã được làm khá tích cực. Bức thư viết: “Anh Hai kính mến! Năm mới chúng tôi xin chúc Anh: sức khỏe, hạnh phúc. Tôi có nhận 2 fax của cháu Đức. Chưa trả lời được cho cháu vì tôi bị cấp cứu về tim. Được fax anh, tôi vội trả lời để anh yên tâm. Tôi đã chuyển lời chúc tết của anh đến các anh em. Về chuyện nhà của anh Hai đừng bận tâm, anh em đã lo. Lài đã xây xong nhà, qua tết gia đình Lài sẽ dọn đi. Anh Hai cứ lo việc về, anh em dặn tôi viết thư cho anh để anh yên tâm… Không có gì trở ngại, anh Hai đừng lo. Anh cứ xúc tiến việc về. Mọi người đều kiểm tra nhà Lài. Bà Bảy cũng đã hứa. Sáng nay anh em cho biết sau tết là gia đình Lài sẽ dọn về nhà mới. Trong việc này Anh sẽ không có gì khó khăn, mọi người đều mong Anh. Kính chúc anh sức khỏe và được đón anh một ngày rất gần đây. Các cháu rất mong cậu Hai. Nhà cửa sửa xong rồi. Kính mến”.


Kèm theo bức thư của bà Năm Mè, Luật sư Trần Ngọc Liễng viết: “Kính anh Minh thân mến! Tôi hoàn toàn đồng ý với chị Năm Mè về việc yên ổn cho Anh khi trở về đây. Riêng tôi thấy có sự lưu ý giúp đỡ của các bạn của chị Năm thì trăm việc không có sơ sẩy điểm nào. Điều cần thiết là vấn đề sức khỏe của anh và sự bình yên về tâm trí thì đâu cũng là hạnh phúc cho cá nhân và cho mọi người xung quanh. Kính chào thân mến. Liễng”.


Trong bức thư gửi bà Năm Mè đề ngày 10-4-1996, ông Dương Văn Minh đã rất nôn nóng. Ông viết: “Tôi có nhận được thơ của chị. Mỗi lần đọc thơ và tin tức ở quê hương là tôi muốn, phải chi có cánh bay về ngay thì vui biết mấy. Nếu bữa nay tôi viết chữ không được ngay ngắn, khó đọc xin chị thứ lỗi cho. Vì tôi vừa mổ xong mắt trái đến nay mỗi tuần phải đi bác sĩ khám. Có lẽ đến tháng Septembre (tháng 9) họ mới mổ con mắt thứ nhì. Phải đợi lâu vì bên này họ quá kỹ và đông người mình phải đợi đến phiên mình. Tôi rất nóng lòng, lúc nào cũng mong đâu đó cho mổ để về sớm mà cứ bị kẹt chuyện này chuyện nọ hoài bực quá. Có điện nhờ chị thưa với anh Sáu để anh Sáu được rõ lòng tôi. Viết đến đây, cay mắt quá nghĩ chút sẽ viết tiếp nghe chị… Tội nghiệp Đức, lúc nào nó cũng cố gắng tìm đủ cách để giúp tôi về nước đến với quê hương. Lúc nào nó cũng đặt hết hy vọng nơi anh Sáu và chị. Nó tính là sẽ thành công. Theo những câu chuyện của nó, tôi thấy nó và Đạo (con trai bà Năm Mè- HĐ) rất hợp ý nhau. Thấy vậy tôi rất mừng. Tôi về được quê hương gặp lại mấy cháu chắc là vui lắm. Hy vọng sớm gặp nhau. Thương nhớ”.


Về sau, Bà Năm Mè có sang Pháp để gặp ông Dương Văn Minh, không rõ câu chuyện ra sao mà từ đó ông Minh bắt đầu suy nghĩ lại. Sau khi ông Minh mất tại Mỹ (6-8-2001), Dân biểu Nguyễn Hữu Chung, người đã đọc Điếu văn trong Lễ tang Tổng thống Dương Văn Minh, có gửi email cho ông Hồ Ngọc Nhuận.


Email, đề ngày 29-1-2004, viết: “Có mấy chuyện tôi muốn nói để anh rõ. Chuyện ông Tướng Dương Văn Minh: Sau khi bà Minh mất, ông Minh rất buồn, nhất là vì hai con dâu đối đãi với ông Minh không được đàng hoàng lắm. Trước tình trạng đó, ông Minh muốn về Việt Nam sinh sống, ông có hỏi ý tôi và tôi đã OK, chỉ cho ý kiến là về Việt Nam không nên ở “Hồng Thập Tự” (Dinh Hoa Lan) mà nên lên Thủ Đức ở vì Thủ Đức là nhà của ông trong khi nhà đường Hồng Thập Tự là nhà của Nhà nước. Ông cũng không nên có một hoạt động gì cả (Tôi cảnh giác ông Minh điều này vì thấyở Việt Nam có nhiều phe quá, chưa chi đã có phe chửi bới ông, họ nói Nhà nước cho ông về vì xưa kia ông đã được Cách mạng móc nối… Công việc của ông Minh càng phức tạp hơn khi Đức (con trai của ông) đi về Việt Nam vận động cái gì đó và có gặp ông Võ Văn Kiệt. Ông Kiệt có gửi cho ông Minh một cái thư mời ông Minh về, lời lẽ rất dễ thương (mà ông Minh có gửi cho tôi bản sao). Trong thời gian đó lại có bà Mè, chị vợ của anh Lý Chánh Trung hay tới lui thăm viếng, tạo một bầu không khí cách mạng náo nhiệt chung quanh ông Minh khiến nhiều người thân với ông (trong đó có mấy người bạn ông và chị Mai con gái lớn của ông) không bằng lòng. Tới một lúc nào đó, ông Minh thấy mình không chịu nổi cái ồn ào ở Paris nên ông đi Mỹ ở với chị Mai. Sau vài lần đi về như thế, ông thấy có thể ở yên bên Mỹ nên ông quyết định ở luôn”.


Cũng năm 2004, khi xem lá thư nói trên của Dân biểu Nguyễn Hữu Chung, ông Võ Văn Kiệt cho biết là cá nhân ông Đỗ Mười cũng cho người tiếp xúc, với ý định mời ông Dương Văn Minh về tham gia Mặt trận Tổ quốc. Theo ông Hồ Ngọc Nhuận, vị sứ giả mà ông Đỗ Mười phái đi gặp ông Dương Văn Minh là cựu Phó chủ tịch Thượng viện, bà luật sư Nguyễn Phước Đại.


Ông Nguyễn Hữu Chung tâm sự tiếp với ông Hồ Ngọc Nhuận trong email đề ngày 29-1-2004: “Tôi có thể nói rằng nếu tôi khuyên ông Minh về Việt Nam thì ông đã về vì rất nhiều lần ông hỏi ý, và còn có ý rủ tôi cùng về. Nhưng tôi cảm thấy có một sự bất ổn nào đó nên đã không khuyên ông về. Tội nghiệp ông đã phải sống những năm chót trong sự cô đơn, về Việt Nam sống thì chắc vui hơn. Tôi hơi mệt nên xin phép anh tạm ngưng bút. Hẹn thư sau. Về bài Điếu văn hôm đám ma ông Minh, tôi có nhờ anh Trần Văn Sơn chuyển cho anh. Hy vọng anh đã nhận được. Chung”. Đây là bức thư cuối cùng của ông Nguyễn Hữu Chung gửi cho ông Hồ Ngọc Nhuận. Ông Chung sau đó đã mất ở Canada vì bệnh ung thư.


Theo ông Nguyễn Hữu Chung, ông Hồ Ngọc Nhuận và những người thân khác, Tướng Dương Văn Minh đã lặng lẽ ra đi mà không hề để lại một dòng hồi ký. Ông Minh có lẽ đã khôn ngoan quyết định cứ để cho người đời bàn cãi về việc ai đã ra lệnh giết hai anh em nhà Ngô Đình Diệm; về việc vì sao lại chọn cách đi vào lịch sử như một kẻ đầu hàng.


Huy Đức (Bên Thắng Cuộc/ Giải Phóng/ Phụ lục 2: Tướng Big Minh sau 1975).


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 11, 2014 01:48

February 28, 2014

Bài II: Gạc Ma, Những Năm Sau Đó

Huy Đức


“Cuộc chiến chỉ xảy ra 20 phút nhưng cuộc đời kéo dài hàng chục năm. Để có hành động anh hùng trong một trận chiến không khó. Để thành công trong cuộc đời khó thay” – Lê Hữu Thảo đốt thuốc liên tục trong suốt buổi nói chuyện với chúng tôi, tối 17-2-2014, rồi thốt lên câu đó.


>> Cận Cảnh Gạc Ma Bài I: 14-3-88


Quê Nhà


“Ngay trong ngày” 14-3-1988, Bộ Ngoại giao ra tuyên bố “lên án hành động khiêu khích quân sự của nhà cầm quyền Trung Quốc”. Nhưng, phải vài hôm sau Đài tiếng nói Việt Nam và báo Nhân Dân mới cho hay: “Sáng 14-3, các tàu chiến Trung Quốc đã ngang nhiên nổ súng vào 3 tàu vận tải của Việt Nam đang hoạt động bình thường ở bãi đá ngầm Gạc Ma thuộc đảo Sinh Tồn. Tàu của ta đã phải nổ súng để tự vệ. Trong khi đó họ lại đổi trắng thay đen vu cáo tàu của Việt Nam khiêu khích vũ trang tàu Trung Quốc”[1].


Ngày 25-3-1988, đài tiếng nói Việt Nam và báo Nhân Dân cho biết chi tiết: “Họ (Trung Quốc-HĐ) đã dùng súng bắn chết thiếu úy Trần Văn Phương, dùng súng và dao găm đâm bị thương nặng chiến sỹ Nguyễn Văn Lanh, bắn chết một số chiến sỹ khác. Từ trên các tàu chiến, họ tập trung hỏa lực bắn xả vào các chiến sỹ ta ở trên các đảo và trên những tàu bị cháy đang nhảy xuống nước, bắn vào các chiến sỹ đang bơi trên thuyền cao su, dùng cả câu liêm, bắn mạnh vào các chiến sỹ ta đang bơi trên biển. Cho đến nay, chúng ta vẫn còn 74 anh em mất tích”.


Sáng 25-3-1988, ông Nguyễn Văn Mạo dậy sớm đi đôn đốc các gia đình trong xã lên xe đi “kinh tế mới”. Khoảng 8 giờ, khi trở về, ông thấy nhà mình đông nghẹt người. “Tôi rụng rời”, ông Mạo nhớ lại. Nguyễn Văn Phương, con trai ông, có tên trong danh sách 74 người mất tích. Ông Mạo vốn là một chuẩn úy pháo phòng không phục viên, lúc ấy đang là Chủ tịch xã Mê Linh, huyện Đông Hưng, Thái Bình. “Tôi buồn đến mức xin thôi làm chủ tịch ngay sau đó”- ông nói.


Tâm Điểm của Báo Chí


Thảo và Chúc ở lại Sinh Tồn Lớn 10 ngày, “ngày nào cũng nhìn thấy tàu Trung Quốc chạy qua chĩa súng vào đảo”. Ngày thứ 11, có tàu ra, đưa Thảo và Chúc vào bờ. Hàng tháng sau đó, những “người hùng Gạc Ma” sống sót trở thành tâm điểm của báo chí và các sinh hoạt chính trị. Đoàn Thanh niên Cộng sản phát động phong trào “Hướng về quần đảo Trường Sa thân yêu”.


Lê Hữu Thảo kể: “Liên tục, báo chí, lãnh đạo, các đại biểu tới thăm. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh cũng bay vào Cam Ranh. Tôi và Chúc ‘thay mặt bộ đội Trường Sa’ nhận rất nhiều quà ‘của đồng bào cả nước’. Tôi được mời đóng một đoạn phim tài liệu; được mời vô Sài Gòn; được mời lên truyền hình, nói: Sẵn sàng quay lại Trường Sa”. Khi đó, trong số những người thực sự tham chiến còn sống sót chỉ có Thảo và Chúc là không bị thương. Lanh nằm viện nhiều tháng liền.


Lê Hữu Thảo nhớ lại: “Chúng tôi được thông báo, cả hai sẽ được cử đi dự festival Thanh niên Sinh viên Thế giới diễn ra vào giữa năm sau tại Bình Nhưỡng. Hai thằng được tập huấn cách phát biểu và trả lời báo chí. Sau đó lại được thông báo, tên tôi được ghi vào bảng vàng danh dự của Hải quân. Cuối cùng, một sỹ quan quân lực gọi chúng tôi lên nói: Có đợt học tập ở Đức, Thảo và Chúc nên đi, chờ dự Festival thì chậm mất. Chúng tôi đi, té ra là ‘xuất khẩu lao động’ chứ không phải đi học”.


Những Tấm Huân Chương


Tháng 12-1988, hàng chục cán bộ chiến sĩ được phong tặng, truy tặng huân chương, phong hoặc truy phong danh hiệu anh hùng. Năm “suất” anh hùng được phân bổ: Thiếu úy Trần Văn Phương (sinh 1965-Quảng Bình), Lữ 146 (hy sinh); Trung tá Trần Đức Thông (sinh 1944-Thái Bình), Phó lữ đoàn trưởng 146 (hy sinh); Đại úy Vũ Phi Trừ (sinh 1957-Thanh Hóa), Thuyền trưởng HQ-604 (hy sinh); Thiếu tá Vũ Huy Lễ (sinh1946-Thái Bình), Thuyền trưởng HQ-505; Nguyễn Văn Lanh (sinh 1966-Quảng Bình), chiến sỹ công binh E83.


Thảo và Chúc không nghe nhắc gì tới tên mình. Khi đó, cả hai đang lao động ở Đông Đức, không còn màng tới bằng khen, giấy khen. Trong nước, sự kiện Gạc Ma nhạt dần và biến mất trên báo cũng như trong đời sống chính trị kể từ sau “Hội nghị Thành Đô” (9-1990).


Ở Thái Bình, ông Nguyễn Văn Mạo cũng không biết con trai mình, liệt sỹ Nguyễn Văn Phương được truy tặng Huân chương chiến công hạng 3. Ông nói: “Họ đút huân chương đâu đó trên Huyện đội. Một thời gian sau, cậu xã đội trưởng lên huyện họp, nhìn thấy, cầm về”. Bố của liệt sỹ Phạm Gia Thiều, ông Phạm Gia My – người từng ở trong Quân đội từ 1953-1975 – thì không ứng xử như vậy.


Thượng úy Phạm Gia Thiều không thuộc biên chế của tàu HQ-604 nhưng khi 604 được lệnh ra đảo, một thuyền phó vắng mặt, Thiều đã đi thay. Ông My nói: “Khi được mời lên xã làm lễ truy điệu, tôi không đi vì chưa được làm rõ: Anh Trừ, thuyền trưởng, được phong anh hùng; con tôi, thuyền phó cùng chiến đấu trong giờ đó có công, có tội gì mà không nghe nói đến? Một thời gian sau, họ cử một cán bộ mang về nhà tôi tấm huân chương chiến công hạng nhất. Bà nhà tôi nói: không nhận. Đơn vị bảo gia đình yêu sách. Tôi nói: Huân chương là tặng thưởng của ‘nhà vua’ đâu có trao như thế được. Sau, đơn vị cho người mang về, mời tôi ra xã trao”.


Những người đã có mặt trên đảo Gạc Ma sáng 14-3 như Thảo thì không câu nệ ai được huân chương, ai không. Trong khoảng gần 20 phút nổ súng đó, không ai có thể quan sát bao quát, để biết, ai đã chiến đấu như thế nào để về báo công. Về sau, báo chí nói khi bị bắn, thiếu úy TrầnVăn Phương hô: “Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân”. Đấy có thể là ý chí của Phương. Trước đó, khi giao nhiệm vụ, Phương dặn, “Bằng mọi giá, phải giữ cờ”, nhưng khi bị bắn, Thảo biết, Phương không có đủ thời gian để hô khẩu hiệu.


Với Thảo, những đồng đội sẵn sàng ra đảo hôm 11-3-1988 đều là những anh hùng. Họ đã nhận nhiệm vụ với tinh thần cảm tử. Một vài bạn của Thảo xin đi đã không được chấp nhận. Một vài người sợ hãiđã đào ngũ trước đó. Vấn đề không chỉ là những tấm huân chương mà là cuộc sống của những ông bố, bà mẹ, của những người vợ, của những đứa trẻ.


Các Góa Phụ Gạc Ma


Y sỹ Phạm Huy Sơn (Diễn Nguyên, Diễn Châu, Nghệ An) tưởng có thể được ăn Tết cùng vợ con sau hai năm ở đảo Trường Sa. Nhưng, 15 ngày trước khi hết phép, anh được lệnh quay lại đơn vị, nhận nhiệm vụ mới ở “nhà giàn” Gạc Ma. Phạm Huy Sơn hy sinh khi vợ anh – chị Trần Thị Ninh – đang có thai ở tháng thứ hai (con gái anh Sơn, Phạm Thị Trang, sinh ngày 27-10-1988), đứa con trai sinh năm 1984 bị bại não bẩm sinh.


Chồng mất năm 27 tuổi, chị Ninh ở vậy nuôi con trong đau thương và cả những tủi hổ không nói được. Ba năm sau, mấy mẹ con phải ra khỏi nhà chồng. Các cậu, các dì góp chút gạch, chút ngói, cất cho một căn nhà nhỏ. Ông ngoại cho một con bò. Cậu con trai, đến nay đã 31 tuổi, nhưng đến bữa vẫn phải nằm ngửa ra, đợi mẹ xay thức ăn bón vào miệng. Trí não không phát triển nhưng chân tay khỏe mạnh. Nhiều hôm cậu lang thang hết làng trên, xóm dưới. Làm đồng về không thấy con, chị vừa chạy tìm, vừa khóc.


Năm 2006, Quân chủng Hải quân cho 15 triệu, chị Ninh nói: “Các anh ấy xét hoàn cảnh, linh động gửi tiền trước thay vì xây xong nhà mới ‘giải ngân’. Đó cũng là cơ hội, tôi vay thêm các cậu, ‘cắm’ sổ liệt sỹ trong hai năm vay thêm 15 triệu của ngân hàng. Xây được căn nhà này rồi trả dần, giờ vẫn còn nợ các cậu 15 triệu”. Căn nhà ngói 3 gian, có gắn bảng “nhà tình nghĩa” của chị Ninh, tuy không to đẹp như các nhà trong xóm, nhưng trông khang trang hơn hẳn so với căn nhà cất hồi năm 1991.


Chị Cao Thị Bình – vợ liệt sỹ, bác sĩ quân y Hồ Công Đệ (Hải Thượng, Tĩnh Gia, Thanh Hóa) – vốn là một người lính ở vùng Biên phía Bắc. Năm 1981, họ cưới nhau khi chị ra quân. Từ năm 2012, “các đoàn” về thăm thấy chị có một căn nhà khá khang trang, ít ai biết, cho đến năm 2011, chị vẫn phải làm “osin” ở Vũng Tàu. Tám năm giúp việc cho một gia đình, nhà chủ thông cảm hoàn cảnh, để chị mang 3 đứa con vào cùng ăn học.


Chồng chết năm 31 tuổi, khi mới mang thai 6 tháng đứa con thứ 3, chị Bình kể: “Bốn năm sau khi anh mất, một người bạn mới mang đồ đạc của anh về. Khi đó, 4 mẹ con đang sống trong một căn nhà tranh, vách đất. Đêm đêm, tôi lặn ngụp, mò cua, bắt ốc, bệnh sưng khớp đeo đẳng tới bây giờ. Hai đứa con gái đã lấy chồng, rất thương mẹ. Cháu trai, Hồ Công Được, cũng đã có bằng trung cấp cơ điện. Chỉ mong cháu xin được một chỗ làm trong công trường xây dựng nhà máy lọc dầu Nghi Sơn, rồi tôi có chết cũng mãn nguyện”.


Trung úy hải đồ Lê Đình Thơ (Hoằng Minh, Hoằng Hóa, Thanh Hóa) hy sinh khi con gái, Lê Thị Thủy, mới vừa tròn một tuổi. Chín tháng sau, mẹ anh, bà Lê Thị Lương, kể: “Ngày 20-12-1988, đơn vị cho xe về đón tôi ra, đến lượt vợ thằng Thơ mất”. Mất con, rồi mất dâu, bà thay mẹ nuôi đứa cháu nội mới gần 2 tuổi. Bà Lương nói trong nước mắt: “Tôi khổ cả đường tình, cả đường con. Tôi sinh đứa thứ 4 thì chồng bỏ đi lấy vợ khác. Nhiều năm trời không biết giấc ngủ là gì bác ạ”. Cô dâu út thấy bà kể lể, nắm áo: “Thôi, bà ơi!” .Bà Lương quay sang con dâu, quyệt mắt: “Mi có biết khổ là chi mô”.


Được bà nội và các cô chú chăm sóc, Thủy lớn khôn, học giỏi. Sau khi tốt nghiệp trường đại học Mỏ Địa Chất, cô được đơn vị cũ của cha – Đoàn do đạc biên vẻ bản đồ và nghiên cứu biển, Hải quân -nhận về làm. Bà Lương cho biết, đơn vị cha cháu vẫn giữ liên lạc suốt bao nhiêu năm và luôn quan tâm đến cháu. Bà khoe, mỗi khi ra thăm cháu, cứ hết người này đến người kia mời. Bà nói: “Gần đây, tôi nằm mơ thấy thằng Thơ về, nó mặc quân phục, đeo quân hàm rất đẹp, nói với tôi: Mẹ chăm cháu thế là được rồi, mẹ không phải ra nữa, vậy là tôi ở nhà”. Bà Lương bảo: “5 triệu các anh (Nhịp Cầu Hoàng Sa) đưa hôm Tết, tôi dùng để mua một cỗ hòm”.


Các ông bố, bà mẹ, những người vợ liệt sỹ hết tuổi lao động được cấp tiền tử tuất, trước đây là 370 nghìn/ tháng; sau đó tăng lên 670 nghìn; năm 2013 là 1 triệu 100 nghìn; năm 2014 là 1 triệu 220 nghìn/ tháng. Từ năm 2008, nhiều đơn vị phối hợp với địa phương, cấp cho một số gia đình liệt sỹ Gạc Ma từ 15, 20 triệu đến 30, 50 triệu/ gia đình để xây “nhà tình nghĩa”, nhiều gia đình cố vay mượn thêm để xây được căn nhà.


Ngày 19-2-2014, khi chúng tôi đến xã Nghi Yên, Nghi Lộc, Nghệ An, thăm gia đình liệt sỹ Đậu Xuân Tư, hai cha con người em của Tư, Đậu Xuân Chương, vẫn đang “đi Lào làm phụ hồ”. Chị Phan Thị Lương, vợ anh Chương, nói: “Anh ấy rất muốn mua cái máy cày hoặc máy tuốt lúa (khoảng 35 triệu) để khỏi phải đi làm thuê xa nhưng ngân hàng không cho vay vốn vì vẫn còn nợ 6 triệu chưa trả hết”.


Năm 2010, bà Nguyễn Thị Nhơn (83 tuổi), mẹ của Đậu Xuân Tư, được một đơn vị tặng 50 triệu. Thay vì tu sửa căn nhà cũ của gia đình Chương, người em đang chăm sóc bà Nhơn, theo chị Lương: “Họ yêu cầu phải xây riêng cho bà, chúng tôi phải vay mượn thêm 45 triệu”.


Cuộc Chiến, Cuộc Đời


Phần lớn các cựu binh Gạc Ma khi trở về đều sống rất chật vật. Trừ một số người nhận danh hiệu anh hùng, nhận huân chương, thăng tiến trong quân đội, số còn lại “hết nghĩa vụ ra quân” không có chế độ gì. Phạm Xuân Trường, Trương Văn Hiền… tuy đã ổn định gia đình nhưng kinh tế chỉ đắp đổi qua ngày. Ngôi nhà Phạm Xuân Trường xây đã mấy năm vẫn chưa kiếm đủ tiền mua cửa. Còn Lê Hữu Thảo thì vẫn lông bông, chưa vợ, chưa nhà.


Trong một lần về quê đầu năm 1991, Thảo yêu một “cô gái đẹp có tiếng ở Hà Tĩnh”. Suốt mấy năm sau đó, cô nhất mực chờ anh. Năm 1995, sốt ruột vì tuổi con gái lớn dần, bố cô điện thoại sang Đức cho Thảo nói: “Nếu con yêu và quyết tâm lấy nó thì đêm nay suy nghĩ kỹ, ngày mai điện về. Khi đó, nó muốn đợi bao lâu cũng được”. Đêm ấy,Thảo bị bắt trong một chiến dịch truy quét thuốc lá lậu của cảnh sát Đức.


Mối tình sau đó, cho Thảo một đứa contrai, cũng chỉ kéo dài được mấy năm. Đã từng hào hiệp với bạn bè. Để rồi, nay trở về quê, Thảo nói: “Thật xấu hổ khi gần như chỉ còn hai bàn tay trắng”.




[1] TuổiTrẻ thứ Năm, 17-3-1988.


Chị Cao Thị Bình và cháu ngoại.

Chị Cao Thị Bình và cháu ngoại.


Có những ngôi nhà thực sự tình nghĩa, như nhà của ông Phạm Gia My. Bạn bè liệt sỹ Phạm Gia Thiều, thời anh học ở đại học Hàng hải đã góp 500 triệu xây nhà tặng ông.

Có những ngôi nhà thực sự tình nghĩa, như nhà của ông Phạm Gia My. Bạn bè liệt sỹ Phạm Gia Thiều, thời anh học ở đại học Hàng hải đã góp 500 triệu xây nhà tặng ông.




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 28, 2014 16:12

February 27, 2014

Cận Cảnh Gạc Ma

Cuộc đụng độ súng đạn chỉ diễn ra chưa đầy 20 phút nhưng nó kéo dài, có lẽ sẽ, tới hết cuộc đời Lê Hữu Thảo và những đồng đội sống sót của anh. Lê Hữu Thảo được “biên chế” vào một trong hai trung đội chiến đấu của Lữ 146 lập ra khá gấp rút trước khi tàu HQ-604 rời Cam Ranh ra Gạc Ma.


Bài I: 14-3-88


Huy Đức


Ngày 10-3-1988, tàu 604 đã ra tới phao số 0 nhưng gió bão lớn quá phải quay lại. Cũng như HQ-605, HQ-604 là loại tàu vận tải nhỏ, cũ, do Trung Quốc viện trợ. Chập tối hôm sau, 11-3-1988, HQ-604 lại xuất phát tiếp dù sóng gió vẫn rất dữ dội.


Tàu 604 phải đi lòng vòng tiếp nước ngọt cho một số đảo, đến Gạc Ma thì đã khoảng 3, 4 giờ chiều 13-3. Khi ấy, thủy triều đang lên, chỉ có thể nhận dạng bãi san hô Gạc Ma qua mảng xanh nõn chuối kéo dài chừng 500m. Hơn nửa tiếng sau đó, một tàu khu trục của Trung Quốc tới, đậu cách 150m, quân lính kéo lên boong, bắc tay làm loa, hét to: “Đây là lãnh thổ Trung Quốc, yêu cầu tàu và bộ đội Việt Nam rút ra”. Từ trên boong tàu HQ-604 hàng chục người lính Việt Nam cũng bụm tay đáp trả: “Đây là lãnh thổ Việt Nam!”.


Nói qua, nói lại một lúc, tàu Trung Quốc lui ra khỏi tầm mắt. Một số bộ đội công binh lấy cần câu cá. Trong khi, trên mặt một số tân binh không giấu được chút âu lo.


Tối 13-3-1988, một số anh em quá mệt do say sóng xuống hầm tàu nghỉ. Phần lớn ở lại trên boong. Đây chính là thời gian mà những người lính Gạc Ma bắt đầu làm quen nhau. Trên tàu lúc ấy gồm: Thủy thủ đoàn 22 người; Lính thủy đánh bộ, Lữ 146, khoảng 30 người; 5 người Quân chủng Hải quân gửi theo thực tập; Phía Công binh, trung đoàn 83, có khoảng 50 người. Họ chỉ biết nhau từ khi bước xuống tàu, rồi phải trải qua một hải trình mà sóng gió làm cho gần như tất cả đều phải nôn thốc, nôn tháo.


Khoảng 3 giờ sáng, thủy triều xuống, Công binh hạ thuyền, đưa người ra trồng cột, dựng cờ. 5 giờ sáng, Trần Văn Phương, trung đội phó; Nguyễn Mậu Phong, trung đội trưởng, gọi tiểu đội trưởng Lê Hữu Thảo, giao nhiệm vụ đưa chiến sỹ xuống bãi đá giữ cờ. Thảo gọi Đậu Xuân Tư và Nguyễn Văn Thành đi cùng, nhưng Thành bị cảm nên HoàngTrọng Chúc xuống thay. Khi ấy, súng ống vẫn còn để trong thùng gỗ, chưa kịp lau dầu mỡ. Thảo nói với thủy thủ đoàn: “Cho tôi mượn hai khẩu AK”. Thảo, Chúc, Tư cùng Phương, Phong xuống thuyền, Công binh chèo ra phía “cột cờ”. Ở trên boong Lữ đoàn phó Trần Đức Thông ra lệnh: “Tất cả dậy ăn sáng và mang vũ khí lên lau chùi”.


Sau khi mọi người ổn định, Phong cùng các chiến sỹ công binh quay lại tàu, chỉ huy việc vận chuyển vật liệu. Nhiệm vụ của Công binh là dựng ở Gạc Ma một căn nhà chòi đủ cho mộttrung đội ở. Đây là phần quan trọng nhất trong chiến dịch “Chủ quyền88″[1]. Trong số bốn người ở lại, Phương – Thảo – Tư – Chúc, chỉ có Thảo và Tư là có AK.


Thảo bao quát tình hình, kiểm tra cột cờ, rồi lấy thuốc lá ra hút trong không gian biển gần như tĩnh lặng. Từ trên boong, Thảo nhìn thấy chiến sỹ công binh Nguyễn Văn Lanh, mặc quần đùi màu đỏ, nhảy xuống, bơi ra nơi có khoảng 5, 6 chiến sỹ công binh khác.


Chuyến xuồng thứ hai, thay vì chở vật liệu, đã kéo một dây cáp dài từ mạn tàu ra ngoài bãi cạn, neo lại cách chỗ Thảo đứng khoảng hơn mười mét. Từ xa, tàu Trung Quốc bắt đầu tiến gần; ngoảnh lại, phía Việt Nam có thêm hai tàu, HQ-505 và HQ-605. Công binh vẫn lặng lẽ vận chuyển cột bê tông đồng thời chuẩn bị thêm cờ. Khi ấy, cờ Việt Nam vẫn bay trên bãi đá Gạc Ma.


Lập tức, tàu Trung Quốc ập tới. Ba tàu khu trục vào gần, một tàu ở xa hơn. Về sau, anh em Công binh sống sót nói, khi còn ở trên boong, họ nhìn thấy trên chiếc tàu thứ 4 đó có người quay phim. Rất nhanh, 4 xuồng máy được thả xuống, chuyển lính đổ bộ, rải dọc theo bãi đá. Thảo đếm được 49 tên, trong đó có một tên mang máy điện đàm. Viên chỉ huy xuống sau cùng, đứng cách Thảo 3 mét.


Ở dưới bãi đá, trong khi phía Việt Nam chỉ có hai khẩu AK; 50 lính Trung Quốc trang bị súng, dao găm. Bọn họ tuốt lê rồi lấy lương khô ra ăn. Trong thời gian đó, một chiếc xuồng máy Trung Quốc chạy vòng vòng quanh HQ-604, chĩa đại liên lên tàu, liên tục yêu cầu “Việt Nam rút”.


Tiểu đội trưởng LêHữu Thảo nói với trung đội phó Trần Văn Phương: “Kiểu này, đánh giáp la cà là chắc, tôi phải xử lý thế nào?”. Phương: “Đồng chí lại gần, bảo vệ cờ và quan sát. Đừng nổ súng trước. Bình tĩnh!”. Thêm một xuồng Công binh nữa được kéo ra. Lính Trung Quốc xáp lại. Nhiều chiến sỹ nhảy từ trên boong HQ-604 xuống hỗ trợ anh em. Cờ tổ quốc tiếp tục được chuyền tay nhau.


Thảo đi về hướng sát cột cờ hơn. Viên chỉ huy phía Trung Quốc – lúc này, đứng cách Thảo chừng 10 mét- rút khẩu súng ngắn, bắn một phát chỉ thiên. Dường như hắn cũng đang sợ hãi nên khẩu súng tuột khỏi tay rơi xuống biển. Bọn lính Trung Quốc bắt đầu xáp vào cướp cờ. Hai bên giằng co, xô đẩy. Thảo nhìn thấy lá cờ đỏ được chuyền tới tay anh Phương. Phương vừa bước được mấy bước thì súng nổ, Thảo nghe Phương kêu:”Cứu tôi”. Súng lại nổ, Thảo thấy Phương ngã xuống.


Ở chỗ Thảo, một tên lính Trung Quốc nhảy vào giật khẩu AK đang đeo trước ngực Đậu Xuân Tư. Thảo cùng Tư giằng lại. Một thằng dùng lê đâm Thảo nhưng không trúng. Cùng lúc tiếng súng rộ lên. Thảo chĩa súng vào đội hình lính Trung Quốc, siết cò cho đến khi hết đạn…


Về sau nhớ lại, Thảo nghĩ, chỉ cần chậm mấy giây là hết cơ hội. Các đồng đội của Thảo từ trên tàu cũng đồng loạt nổ súng. Bọn lính Trung Quốc vừa dùng AK bắn trả vừa lên xuồng máy về tàu. Từ khi đó, quanh chỗ Thảo đứng, đạn dội xuống xối xả từ các tàu địch. Đạn 100 ly, 76 ly 2; 12 ly 7, đại liên… Đạn trùm lên đồng đội đang đứng trên boong HQ-604.


Khi ấy nước đã lên tới bẹn, Thảo bỏ súng, ngả người, lặn một đoạn. Ngóc đầu lên thấy đạn bắn theo. Lại lặn. Lần thứ 3 khi Thảo nổi lên, anh thấy HQ-604 bị bao quanh bởi một lưới lửa. Thảo cởi giày, cởi mũ áo, cởi quần dài, rồi bơi ra xa.


HQ-604 là tàu vận tải cỡ 50 tấn, do Trung Quốc viện trợ. Trên tàu không có lấy một khẩu 12ly7. Trước giờ khởi hành, các chiến sỹ được quán triệt tinh thần, “việc nó nó làm, việc mình mình làm”. Hạ sĩ hải đồ Phạm Xuân Trường, có mặt trên boong, thừa nhận, súng ống lấy từ trong các thùng gỗ mới lau chùi mỡ được một phần thì xảy ra đụng độ.


Khi hỏa lực Trung Quốc dồn bắn vào tàu, Trường cùng ba người lính khác nép vội vào sau két nước. Một người đồng hương Hương Sơn, Hà Tĩnh, của Trường – Nguyễn Thanh Hải – bắn hai phát B-40. Nhưng tàu Trung Quốc đậu quá tầm, cả hai trái B-40 đều rơi xuống biển. Hải trúng đạn, gục xuống. Ba người nép vào két nước cũng trúng đạn chỉ mình Trường sống sót. Khi HQ-604 bắt đầu chìm, anh nhảy xuống biển.


Tiếng súng thưa dần. Thảo bơi về phía HQ-604. Đồ đạc, ván mảnh nổi lềnh bềnh. Thảo nghe: “Cứu anh với Thảo ơi”. Thảo bơi lại gần, thấy một đồng đội bị bỏng, nằm bất động. Thảo không hiểu vì sao anh ấy gọi đúng tên mình vì về sau Thảo mới biết tên anh là Bùi Hoàng Hải[2]. Thảo bám đống phao, nhìn vào bãi cạn, thấy chiếc xuồng công binh còn đó, 3, 4 bộ đội Việt Nam nhấp nhô bám thành xuồng. Thảo dìu Hải lại, nhờ mọi người bế Hải lên xuồng. Cách đó 15m, Thảo thấy Chúc.


Lúc này, mọi người mới phát hiện, trên bãi đá, cách xuồng chừng 300m vẫn còn 5 tên lính Trung Quốc. Tuy ở ngoài tầm súng AK, Thảo vẫn yêu cầu anh em tản ra.


Thảo cùng đồng đội tìm thấy Nguyễn Văn Lanh. Lanh bị đạn bắn xuyên ngực, lúc ấy đang ngất lịm đi, nửa chìm, nửa nổi. Một người bị thương khác đang nằm trên một thùng dầu phụ.Quay lại gần chỗ Thảo đứng trước khi nổ súng, Chúc vớt được một khẩu AK. Năm anh em còn sống, chia nhau lội tìm đồng đội. Họ nhìn thấy xác Phương. Lúc ấy,cá mập quẫy tung nước. Từ xa, có một người bơi lại. Thảo nhận ra Phạm XuânTrường. “Hải đâu? Thành đâu?”. Trường: “Chết hết rồi”.


Gần trưa, tàu Trung Quốc rút ra khá xa. Năm tên lính đứng lại trên bãi đá cũng được xuồng máy đưa về. Phía xa, tàu 605 bị nghiêng, 505 vẫn bốc khói. Giữa trưa, có hai máy bay bay qua rất cao.


Chiếc thuyền nhôm thủng nhiều chỗ. Khi Thảo quay lại, thi thể anh Phương vẫn để bên ngoài xuồng. Thảo nói, bằng mọi giá phải đưa Phương về cùng, rồi kêu anh em xé vải nút những lỗ thủng, tát nước, đặt xác Phương và những người bị thương lên xuồng. Có vài người lính công binh không biết bơi, Thảo đề nghị họ lên ngồi, chèo; những người biết bơi bám mạn xuồng đẩy, đi về phía tàu HQ-505.


Bơi xuồng chừng một giờ thì phía sau xa có một người đang bơi. Thảo leo lên xuồng nhìn rồi cương quyết đưa xuồng quay lại. Người được vớt tên là Hưng, thợ máy tàu 604. Cùng lúc, những người lính trên tàu 505 nhìn thấy; một xuồng máy được thả xuống, thủy 505 ra dìu nhóm Thảo vào tàu.


Trước đó, tàu 505 đã đâm lên bãi đá cạn Colin. HQ-505 trở thành cột mốc chủ quyền của Việt Nam trên đảo. Lúc đó trời đã về chiều. Khoảng 9 giờ đêm, một chiếc tàu cắm cờ chữ thập ra tới Colin. Những người sống sót, những người bị thương, cùng thi thể Trần Văn Phương, Võ Văn Tứ, được đưa lên Sinh Tồn Lớn. Hai liệt sỹ được an táng trên đảo.


Khi ấy không ai biết rõ bao nhiêu người lính đã chết. Thủy thủ đoàn 604 đi 22 người, sống sót 5; tổng cộng có 11 người bị thương; ngoài Tứ và Phương, còn hơn 70 người mất tích.


Bài II: Những Năm Sau Đó




[1] Đầunăm 1988, Trung Quốc cho quân chiếm đóng một số bãi đá Việt Nam tuyên bố chủ quyền như Chữ Thập (20-1-1988), Châu Viên (18-2-1988), Ga Ven (26-2), Kennan (28-2). Cùng lúc, Hải quân Việt Nam cũng đưa vũ khí, khí tài ra đóng giữ tại các đảo đá Tiên Nữ (26-1), Đá Lát (5-2), Đá Lớn (6-2), Đá Đông (18-2), Tốc Tan (27-2), Núi Le (2-3). Trên đường tiếp tế cho các căn cứ ở Trường Sa, Gạc Ma, CôLin và Len Đao có vị trí như một tiền đồn. Đôi bên đều có tham vọng chiếm giữ ba bãi đá đó. Đầu tháng 3-1988, Trung Quốc đưa 1 tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộvệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải… ra hoạt động thường xuyên. Hải quân Việt Nam cũng đẩy nhanh Chiến dịch “Chủ quyền 88″.




[2] Nay là đại tá, Phó chỉ huy trưởng tỉnh đội Thanh Hóa.




Lê Hữu Thảo thăm Phạm Xuân Trường, một đồng đội trên tàu 604 sống sót

Lê Hữu Thảo thăm Phạm Xuân Trường, một đồng đội trên tàu 604 sống sót


Lê Hữu Thảo thăm bà Hoàng Thị Thuận (1948) mẹ chiến sỹ Nguyễn Thanh Hải, người lính đã dũng cảm hy sinh trên boong tàu HQ-604 sau khi bắn hai quả B40 về phía quân Trung Quốc.

Lê Hữu Thảo thăm bà Hoàng Thị Thuận (1948) mẹ chiến sỹ Nguyễn Thanh Hải, người lính đã dũng cảm hy sinh trên boong tàu HQ-604 sau khi bắn hai quả B40 về phía quân Trung Quốc.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 27, 2014 20:24

Huy Đức's Blog

Huy Đức
Huy Đức isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Huy Đức's blog with rss.