Nguyễn Quang Lập's Blog, page 91

January 28, 2013

Đừng bảo Đảng hèn!

Đồng Phụng Việt


209000_338116992929912_25277236_nVài năm nay, mỗi khi bàn về Đảng trong tương quan giữa “ta” và “địch”, giữa “trong” và “ngoài”, người ta thường khái quát rằng, Đảng “hèn với giặc, ác với dân”.


Mình không đồng tình với lối khái quát này. Đã khái quát thì cần chuẩn xác về bản chất. Theo mình, khái quát, Đảng “hèn với giặc, ác với dân”, chỉ đúng ở vế sau (ác với dân). Có nhiều lý do để mình tin vế đầu (hèn với giặc) là sai.


Nếu hiểu hèn là biết nhưng không dám nói những điều nên nói, hoặc không dám làm những điều cần làm thì Đảng không hèn! Cho rằng Đảng hèn có thể là một ngộ nhận hết sức tai hại.


1.


Sự kiện gần nhất khiến nhiều người khẳng định Đảng “hèn với giặc” là chuyện cải táng liệt sĩ Lê Đình Chinh, đưa hài cốt của anh từ Nghĩa trang liệt sĩ huyện Cao Lộc, Lạng Sơn, về an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ Hàm Rồng, Thanh Hóa.


Liệt sĩ Lê Đình Chinh vẫn được xem là người lính Việt Nam đầu tiên hy sinh trong cuộc xung đột giữa Việt Nam với Trung Quốc, chấm dứt giai đoạn “mối tình hữu nghị sáng như rạng đông”.


Xem lại vài tài liệu, đối chiếu chúng với thực tế, mình tin rằng, sở dĩ, hồi đó, Đảng đề cao liệt sĩ Lê Đình Chinh, vì Đảng vừa cần một lời “đính chính”, để người Việt không xem quan hệ giữa Đảng với Trung Quốc theo kiểu “Bên ni biên giới là mình. Bên kia biên giới cũng tình quê hương” như trước nữa, vừa cần một biểu tượng, động viên người Việt chống lại “bọn bành trướng”.


Chỉ hai tháng sau ngày bị kẻ thù sát hại (26/8/1978), liệt sĩ Lê Đình Chinh đã được Đảng phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” (31/10/1978), một kỷ lục hiếm có về thời gian xét – tặng danh hiệu này.


Khoảng ba tháng sau ngày liệt sĩ Lê Đình Chinh được phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”, hôm 17/2/1979, Trung Quốc xua quân tràn qua biên giới, đòi “dạy cho Việt Nam một bài học”.


Một thập niên sau, khi quan hệ giữa Đảng với Trung Quốc đã được “bình thường hóa”, Đảng quyết định dẹp bỏ biểu tượng Lê Đình Chinh. Bài hát “Chúng tôi là đồng đội của Lê Đình Chinh” thôi không được phát, không được diễn nữa. Sách giáo khoa với những bài viết về Lê Đình Chinh, hoặc phê phán “bọn bành trướng” mang “tham vọng bá quyền” cũng bị thu hồi. Song song với việc dẹp bỏ biểu tượng Lê Đình Chinh, Đảng bắt đầu tiến trình phi tang tất cả những gì có liên quan đến giai đoạn xung đột với Trung Quốc. Hàng chục ngàn người lính Việt Nam hy sinh ở biên giới phía Bắc từ 1979-1988, ở biên giới Tây Nam và chiến trường Campuchia từ 1977-1989, không những không được nhắc đến, mà bia tưởng niệm, bia ghi công cũng bị đục bỏ, các nghĩa trang liệt sĩ hoang tàn, vắng lạnh…


Ngặt là Đảng muốn “lặng” nhưng Trung Quốc không “ngừng”, thực tế quan hệ Việt -Trung rõ ràng là càng ngày càng khác “tinh thần bốn tốt” và “16 chữ vàng”. Càng ngày càng có nhiều người tỏ ra phẫn nộ trước thái độ, cách hành xử của Đảng đối với Trung Quốc, cũng như sự bạc bẽo đối với những người đã hy sinh cả trong cuộc chiến chống Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, lẫn cuộc chiến liên quan đến Trung Quốc ở biên giới phía Tây Nam…


Khi những giọt nước mấp mé miệng ly thì xuất hiện chuyện tổ chức cải táng liệt sĩ Lê Đình Chinh.


Mình không tin việc tổ chức cải táng liệt sĩ Lê Đình Chinh là chuyện ngẫu nhiên, phát xuất từ thiện ý. Nếu mình không lầm, từ lúc quan hệ giữa Đảng với Trung Quốc được “bình thường hóa” cho tới bây giờ, đây là lần đầu tiên, hệ thống truyền thông mới đồng loạt loan tin cải táng một liệt sĩ, hy sinh trong cuộc chiến chống Trung Quốc, bảo vệ tổ quốc.


“Kịch bản” cải táng liệt sĩ Lê Đình Chinh không đạt hiệu quả “xoa dịu dư luận” là điều nằm ngoài dự trù. Vì liệt sĩ Lê Đình Chinh vốn là biểu tượng của giai đoạn chống sự xâm lược của Trung Quốc nên việc cải táng, đưa hài cốt của anh về an táng tại quê nhà thu hút sự chú ý của nhiều người và mọi người dễ dàng phát hiện, hệ thống truyền thông đã không dám gọi tên, chỉ mặt kẻ thù.


Trong vụ này, mình tin Đảng chủ động tổ chức sự kiện để xoa dịu dư luận và thất bại là do… đạo diễn dở chứ Đảng không hèn! Đảng nói gì, làm gì cũng có chủ định.


2.


Trước sự kiện cải táng liệt sĩ Lê Đình Chinh một chút, có một sự kiện khác, xảy ra hồi cuối tháng 11 năm ngoái, cũng được nhiều người xem như bằng chứng về chuyện Đảng “hèn với giặc”. Đó là vụ cáp của tàu Bình Minh 02 thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam bị đứt, khi đang chuẩn bị khảo sát đáy biển khu vực Vịnh Bắc bộ.


Lúc đầu, hệ thống truyền thông loan tin cáp của tàu Bình Minh 02 bị đứt là do tàu của Trung Quốc “cắt”, sau đó, hệ thống truyền thông đột ngột sửa tình tiết “cắt” trong sự kiện này thành… “làm đứt”. “Cắt” tất nhiên là cố ý – khó có thể chấp nhận, còn “làm đứt” thì có thể do vô tình và có thể… thông cảm, bỏ qua.


Mục kích hệ thống truyền thông đồng loạt loan báo tàu Trung Quốc “cắt” cáp tàu Bình Minh, rồi đồng loạt sửa “cắt” thành “làm đứt”, nhiều người tiếp tục nhận định Đảng hèn, mình vẫn tin Đảng không hèn. Bằng chứng? Phát biểu của ông Nguyễn Thế Kỷ – Phó Ban Tuyên giáo Trung ương, trong cuộc họp giữa Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Thông tin Truyền thông, với lãnh đạo các cơ quan truyền thông, được tổ chức chừng mươi ngày sau sự kiện cáp của tàu Bình Minh 02 đứt, do trang web Ba Sàm công bố (1), cho thấy, Đảng tìm mọi cách để kiềm chế sự phẫn nộ của người Việt trước những hành động càng lúc càng càn rỡ của Trung Quốc, để người Việt đừng phản đối, đừng biểu tình, chứ Đảng đâu có hèn!


Trong cuộc họp vừa đề cập, ông Kỷ bảo rằng, việc hệ thống truyền thông “bất tuân thượng lệnh”, loan báo sự kiện tàu Bình Minh 02 bị tàu Trung Quốc “cắt” cáp đã khiến những ngày cuối của tuần đó, cả công an lẫn quân đội phải “căng lực lượng ra, để ngăn chặn, ngăn cản tụ tập đông người” vì “nếu mà số người tụ tập quá đông thì sẽ bất lợi, thậm chí là có thể đảo chiều, cho an ninh chính trị và trật tự xã hội”.


Mình tin ông Kỷ đã nói rất thật về một sự thật, đó là, Đảng không ngại Trung Quốc! Đảng chỉ sợ sự phẫn nộ, thất vọng của người Việt về Đảng lên tới cực đại. Nếu điều đó xảy ra, Đảng sẽ không còn cơ hội duy trì vai trò “lãnh đạo Nhà nước và xã hội” như trước nay nữa.


3.


Sau các cuộc biểu tình phản đối những hành động ngang ngược của Trung Quốc, vi phạm chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông, thực tế cho thấy, Đảng đã làm nhiều chuyện để hóa giải dư luận Đàng “hèn với giặc”.


Các cuộc thi (thi viết, thi ảnh, thi hùng biện), triển lãm (hình ảnh, tài liệu, hiện vật) về biển, đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam, các cuộc vận động (đóng góp tài chính, hỗ trợ vật chất – tinh thần cho những người lính đang trấn giữ biển, đảo), được tổ chức vừa rộng rãi từ trung ương tới địa phương, vừa rầm rộ hướng đến tất cả các giới. Các bài viết có tính chất phê phán Trung Quốc, thông tin mua sắm vũ khí và phương tiện chiến tranh để phòng vệ trên biến – những chủ đề vốn thuộc loại cấm kỵ – xuất hiện ngày một nhiều trên hệ thống truyền thông chính thống. Tất cả những nỗ lực khác thường ấy đều xuất hiện sau tháng 12 năm 2007 – thời điểm xảy ra cuộc biểu tình đầu tiên chống Trung Quốc đụng tới biển Đông của người Việt – và chúng tỷ lệ thuận với các cuộc biểu tình chống Trung Quốc sau đó.


Quan sát thực tế và trò chuyện với nhiều người, mình có cảm giác rằng, những nỗ lực khác thường của Đảng trong thời gian vừa qua để hóa giải dư luận Đàng “hèn với giặc”, rõ ràng là có tác dụng nhất định, đặc biệt là với cán bộ, đảng viên và công an, quân đội. Trong chừng mực nào đó, vì cảm thấy hình như Đảng chưa hèn tới mức đáng ngại cho tiền đồ của tổ quốc, lợi ích của dân tộc, nhiều người tiếp tục “tọa thủ bàng quan”, đứng ngoài cuộc, tiếp tục để mọi thứ cho “Đảng lo”, giống như các thế hệ cha, anh đã từng chấp nhận để “Đảng lo” theo kiểu: “Bắt phanh trần phải phanh trần. Cho may ô mới được phần may ô”!


Đảng, tất nhiên, luôn muốn như vậy và làm mọi cách để được như vậy nên không ngại xuống tay ngăn chặn, trấn áp, thậm chí bắt giam, kết án bất kỳ ai tự phát cổ vũ cho sự thật vốn dĩ hiển nhiên: “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam”. Nhìn lại lịch sử Đảng, mình tin ai cũng có thể dễ dàng nhận ra rằng, Đảng không bao giờ chấp nhận bất kỳ hình thức tự phát “tụ tập quá đông” nào có thể gây “bất lợi, thậm chí là có thể đảo chiều, cho an ninh chính trị và trật tự xã hội”, đe dọa vai trò “lãnh đạo Nhà nước và xã hội” của Đảng. Cũng vì vậy, mình tin, ngay cả khi biểu tình tự phát chỉ nhằm cổ vũ: “Việt Nam là của Việt Nam”, Đảng cũng sẽ không nương tay!


Dẫu cho chính đáng, các hành vi tự phát nằm ngoài sự lãnh đạo của Đảng sẽ không bao giờ được Đảng chấp nhận. Việt Nam, từ lâu đã là của riêng Đảng! Nói gì, làm gì, ở đâu, với ai là quyền của Đảng. Tự phát gạt bỏ yếu tố này, đồng nghĩa với tự sát.


Vậy thì có nên để cho “Đảng lo” mọi thứ? Mình nghĩ là không!


4.


Theo hệ thống truyền thông chính thống, vị trí mà cáp của tàu Bình Minh 02 bị tàu Trung Quốc “làm đứt”, hôm 30 tháng 11 năm 2012 là 17.26 độ vĩ Bắc và 108.02 độ kinh Đông, cách đảo Cồn Cỏ 43 hải lý về phía Đông Nam. Nói cách khác, tàu Bình Minh 02 bị tàu Trung Quốc “làm đứt” cáp khi đang trong khu vực vịnh Bắc bộ.


Tám năm trước, cũng có một sự kiện đặc biệt, từng khiến nhiều người Việt uất nghẹn, xảy ra trong khu vực vịnh Bắc bộ: Sáng 8 tháng 1 năm 2005, con tàu của ông Nguyễn Phi Phường – Chủ nhiệm HTX Đánh cá Hùng Cường (huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa), đang đánh cá trong khu vực vịnh Bắc bộ thì bị một số tàu Trung Quốc bao vây rồi xả súng bắn. Ông Lê Văn Xuyên – thuyền trưởng vừa phát tín hiệu kêu cứu, vừa lái tàu chạy vào đất liền nhưng giữa đường tàu hỏng máy, 8 ngư dân trên con tàu này bị bắn chết tại chỗ, 8 ngư dân khác (trong đó có hai người bị thương) bị bắt cùng với con tàu của họ. Cũng trong ngày hôm đó, tại vịnh Bắc bộ, phía Trung Quốc còn truy sát thêm ba con tàu đánh cá khác của ngư dân Việt Nam. Chỉ có hai trong số ba con tàu này “bình an, vô sự”. Tuy cũng chạy thoát nhưng con tàu thứ ba, của ông Nguyễn Văn Hoàn, cũng ở huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, có một thủy thủ bị bắn chết, năm thủy thủ khác bị thương.


Nếu dùng Google Earth, đem so 21 điểm được xác định trong Hiệp định Phân định vịnh Bắc bộ mà Đảng ký với Trung Quốc hồi năm 2000 (2), để dựa vào đó vạch đường phân định vịnh Bắc bộ, với vị trí tàu của ông Nguyễn Văn Hoàn khi bị tấn công (19.16 độ vĩ Bắc, 107.06 độ kinh Đông) thì tàu của ông Nguyễn Văn Hoàn nằm gần điểm 15 (19°16’04″ Bắc, 107°11’23″ Đông) và điểm 16 (19°12’55″ Bắc, 107°09’34″ Đông). Tương tự, vị trí của tàu Bình Minh 02 lúc bị tàu Trung Quốc làm đứt cáp ở gần điểm 21 (17°47’00″ Bắc, 107°58’00″ Đông). Không có con tàu nào của phía Việt Nam lấn sang phía bên kia đường phân định. Trong cả hai vụ, chỉ có tàu Trung Quốc lấn sang phần biển thuộc phía Việt Nam. Tuy nhiên, xem thêm… Hiệp định Hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc bộ mà Đảng ký với Trung Quốc năm 2000 (3) thì… tàu Trung Quốc có thể làm điều đó!


Năm 2011, sau khi nghiên cứu Hiệp định Phân định vịnh Bắc bộ, Tiến sĩ Dương Danh Huy – thành viên Qũy Nghiên cứu biển Đông, công bố bài “Nhìn lại Hiệp định Vịnh Bắc Bộ sau 10 năm”. Ông nhận định, quan điểm cho rằng hiệp định này công bằng hơn Công ước Pháp Thanh 1887 là chưa thuyết phục. Các điểm để vạch đường phân định, từ 9 đến 18 đều có xu hướng lấn sang phía Việt Nam từ 3 đến 27 hải lý!


Ít ai hiểu tại sao vì Đảng không giải thích. Đây là hệ quả của chuyện để “Đảng lo” mọi thứ. Dẫu thế, theo mình, vẫn không nên dựa vào đó để nhận định Đảng sợ Trung Quốc và trở thành hèn.


Cho dù thực tế quan hệ Việt – Trung là một sự thóa mạ “tinh thần 4 tốt” và “16 chữ vàng” nhưng mới đây, thay mặt Đảng, tướng Nguyễn Chí Vịnh vừa khẳng định thêm một lần nữa rằng, sự “tương đồng ý thức hệ” là “di sản quý báu hàng đầu mà Việt Nam và Trung Quốc cùng có”. Sự tương đồng ấy giúp Đảng kiên trì đeo đuổi “chủ trương giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình” để giữ cho bằng được sự “ổn định chính trị”. Trung Quốc có thể là kẻ thù đối với tiền đồ tổ quốc, vận mệnh dân tộc nhưng với Đảng, Trung Quốc là “một người bạn XHCN rất lớn ở sát bên cạnh” (6).


Viết tới đây, mình chợt nhớ đến trường hợp Phạm Thanh Nghiên, một cô gái sống ở Hải Phòng. Tháng 9 năm 2008, Phạm Thanh Nghiên bị bắt vì “Tuyên truyền chống nhà nước XHCN”. Lúc đầu, cơ quan điều tra xác định Nghiên “Tuyên truyền chống nhà nước XHCN” vì cô… tọa kháng tại tư gia với băng rôn “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam. Phản đối công hàm bán nước 14/9/1958”. Đến khi ra tòa, tuy Viện Kiểm sát rút lại cáo buộc về hành vi này nhưng Phạm Thanh Nghiên vẫn bị kết án 4 năm tù vì đã viết – phổ biến bài “Uất ức biển ta ơi!” (5).


Trong “Uất ức biển ta ơi!”, Phạm Thanh Nghiên kể về cuộc gặp những nhân chứng là ngư dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa bị Trung Quốc truy sát, bắt giữ hôm 8 tháng 1 năm 2005 ở vịnh Bắc bộ. Theo đó, hai ngư dân trên con tàu của ông Nguyễn Phi Phường, bị thương, được phía Trung Quốc “làm sống” (khoét thịt lấy đạn, khâu vết thương không có thuốc tê, thuốc mê) sau khi bị bắt. Theo đó, khi đến gặp cả 8 ngư dân, đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam, khuyên họ thế này: “Cố gắng cải tạo cho tốt, đừng cãi lời người ta. Chúng tôi sẽ cố gắng đưa các anh về trước Tết”. “Uất ức biển ta ơi!” còn kể thêm về thảm cảnh của những người mẹ, người vợ, con cái các nạn dân đã thiệt mạng rồi kết luận: “Chính quyền cộng sản Trung Quốc đã gây nợ xương máu với người Việt Nam! Cùng với việc để mất Hoàng Sa, mất nhiều đảo ở Trường Sa, mất hàng vạn cây số vuông ở biên giới phía Bắc, ở vịnh Bắc bộ, mất sinh mạng của con dân trên biển, chính quyền cộng sản Việt Nam nợ nhân dân Việt Nam lòng ái quốc!”.


Khi Đảng vẫn muốn “có sự ủng hộ của Trung Quốc”, muốn “hợp tác chặt chẽ với Trung Quốc” vì điều đó “vô cùng thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam” thì Phạm Thanh Nghiên không thể vô tội. Chưa ai biết diện mạo của CNXH tròn méo thế nào nhưng Việt Nam còn xây dựng CNXH thì Đảng còn cơ hội duy trì vai trò “lãnh đạo Nhà nước và xã hội”! Nghiên phải vào tù vì cô chỉ ra sự bất cập nếu để “Đảng lo” mọi thứ.


5.


Vài ngày qua, nhiều người bày tỏ cả sự cảm động lẫn hoan hỉ trước hình ảnh ông Đặng Công Ngữ – Chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa cúi đầu trước những người đã dũng cảm đối mặt với các chiến hạm Trung Quốc đến cướp Hoàng Sa năm 1974. Giống như nhiều người, mình cũng thấy hành động của ông Ngữ là cần và đáng trân trọng nhưng chừng đó đã đủ? Chắc chắn là không. Nó chỉ như một giọt hy vọng, giảm bớt vị đắng trong chén oan nghiệt.


Nếu vẫn nghĩ Đảng hèn, thỉnh thoảng, chúng ta sẽ nhận được một giọt hy vọng như thế. Sau đó, dù không muốn, chúng ta vẫn phải tiếp tục húp cho hết chén oan nghiệt ấy, vừa húp, vừa hy vọng sẽ có lúc được ngưng.


Theo FB của DPV


……………………………..


Chú thích


(1) Ban Tuyên giáo TW và Bộ Thông tin Truyền thông họp với báo chí


(2) Hiệp định Phân định vịnh Bắc bộ


(3) Hiệp định Hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc bộ


(4) Nhìn lại Hiệp định Vịnh Bắc Bộ sau 10 năm


(5) “Uất ức biển ta ơi!”


(6) Phỏng vấn Nguyễn Chí Vịnh




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 28, 2013 23:19

Tướng Lê Văn Cương: “Tại sao Việt Nam mạnh? Tại sao Việt Nam yếu?”

Phúc Hưng thực hiện


Le-Van-Cuong-1-fa05eNQL: Việt Nam mỗi năm có cả trăm người được phong tướng nhưng hỏi có tướng nào có trí lự và bản lĩnh như tướng Lê Văn Cương? Chắc không.


Ông có bất ngờ trước việc Philippines xúc tiến khởi kiện Trung Quốc ra tòa án trọng tài Liên hiệp quốc?


Thiếu tướng Lê Văn Cương: Tôi không bất ngờ về việc này. Tranh chấp biển đảo, biên giới lãnh thổ thông thường trên thế giới có 3 cách giải quyết. Cách thứ nhất là thương lượng, nhân nhượng nhằm đi đến kết cục hóa giải được mâu thuẫn. Trong trường hợp Philippines, Manila có đủ niềm tin rằng Bắc Kinh sẽ không nhân nhượng và thương thảo sẽ không có hiệu quả. Họ quyết định chọn phương thức thứ 2, mang ra tòa án quốc tế hy vọng vào cán công công lý sẽ giúp đỡ.


 Trường hợp Philippines với Trung Quốc rơi vào tranh chấp chênh lệnh nhiều mặt. Phải tranh chấp với một bên lớn hơn nhiều lần, trong hoàn cảnh Philippines, lựa chọn như vậy là hoàn toàn đúng.


 Còn phương thức thứ 3 là sử dụng vũ lực để giải quyết thì thời điểm hiện nay, đây chưa phải giải pháp thích hợp.


 Dĩ nhiên, dù có đưa ra tòa án quốc tế thì Manila vẫn không thể từ bỏ quan hệ song phương với Trung Quốc và không loại trừ phương thức thương thảo.


 Nhiều người dân đang tự đặt câu hỏi: Tại sao bấy lâu  nay Việt Nam không làm như Philippines?


Thiếu tướng Lê Văn Cương: Tôi cũng biết nhiều người quan tâm và đặt vấn đề như vậy. Họ có thể sốt ruột nhưng trong vấn đề chủ quyền, cần phải tỉnh táo, căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Dĩ nhiên, chúng ta sẽ không từ bỏ phương thức kiện ra tòa án quốc tế nhưng tôi cho rằng, lúc này chưa phải thời điểm thích hợp. Lý do là vì, mối quan hệ Việt – Trung có 3 khác biệt.


 Thứ nhất, Việt Nam là láng giềng trực tiếp với Trung Quốc, hai quốc gia có đường biên giới đất liền 1435 km, điều này Philippines không có. Dù một triệu hay một tỷ năm nữa, người hàng xóm đó với chúng ta vẫn là “núi liền núi, sông liền sông”.


 Người ta có thể thay đổi bạn bè nhưng láng giềng thì không. Điều này không bao giờ được phép lãng quên trong quan hệ Việt – Trung.


 Thứ 2, trong lịch sử, rõ ràng Trung Quốc và Philippines cũng không có ân oán gì cả, còn Việt Nam và Trung Quốc thì có hơn 1000 năm quan hệ song phương với bao trắc trở. Đặt dấu mốc năm 1859 khi Pháp đặt ách đô hộ ở Việt Nam, trở về trước đó dân tộc Việt Nam chủ yếu đương đầu với tham vọng xâm chiếm cương thổ của các triều đại phong kiến Trung Quốc.


 Trong cuộc trường chinh kháng chiến chống Pháp 1945- 1954, rồi sau đó là kháng chiến trường kỳ chống Mỹ đến năm 1975, chúng ta được Đảng và nhân dân Trung Quốc ủng hộ rất tuyệt vời, cả về vật chất, tinh thần, chính trị, an ninh, văn hóa… Nhân dân Việt Nam sẽ không bao giờ quên ân tình này.  Điều đó, quan hệ Trung Quốc – Philippines không bao giờ có được.


 Thứ 3, Việt Nam và Trung Quốc nằm trong hệ thống chính trị gần gũi nhau. Và đương nhiên, điều này cũng khác với Philippines.


 Với 3 điểm khác này, mặc dầu Philippines lựa chọn như vậy nhưng Việt Nam chưa thể làm điều đó, ít nhất là trong giai đoạn hiện nay.


 Ta vẫn tối đa vận dụng khai thác mối quan hệ song phương để giải quyết khác biệt. Nhưng cùng với đó, việc chuẩn bị thật tốt cho phương thức mà Philippines đang áp dụng, cũng là điều dễ hiểu.


 Vậy theo ông, điều mà Philippines đang rốt ráo làm sẽ mang lại cho Việt Nam bài học, kinh nghiệm gì?


 Thiếu tướng Lê Văn Cương: Tôi xin khẳng định, cũng chẳng cần Manila kiện Bắc Kinh ra tòa án quốc tế thì chúng ta mới có bài học, hay chuẩn bị hồ sơ cho khả năng phải kiện. Trong hơn 1000 năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã được tôi luyện qua rất nhiều bài học trong quan hệ với “người hàng xóm” Trung Quốc.


 Tôi khẳng định, phương án này luôn được chúng ta chuẩn bị chu đáo.


 “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”


 Thiếu tướng Lê Văn Cương: Có nhiều đồng bào hỏi tôi rằng, trong mối quan hệ Trung – Việt hiện nay, 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” nên hiểu và vận dụng như thế nào? Tôi trả lời rằng, có 2 điều chúng ta luôn nói công khai: thứ nhất, Việt Nam không bao giờ kích động tinh thần dân tộc chủ nghĩa chống Trung Quốc. Và thứ hai, Việt Nam không kéo bè kéo cánh, liên kết với bất kỳ quốc gia nào để chống Trung Quốc.


 Theo 2 điều này, chúng ta có quyền làm mọi việc chúng ta cần phải làm để giữ gìn phẩm giá dân tộc, công lý, bảo vệ cho được đất đai hương hỏa của cha ông. Chúng ta phải làm để nhà cầm quyền Trung Quốc thấy rằng đó là cương thổ của một quốc gia có chủ quyền; họ phải thấy rõ, Trung Quốc là Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc thì càng phải làm gương.


 Khi họ làm sai, chúng ta phải phản đối với lý lẽ sắc sảo, chứng lý rõ ràng như tôi nói ở trên, để cả thế giới biết. 


 Và 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dầu, hướng tới tương lai” là sách lược nhưng tuyệt đối không được để ai lợi dụng 16 chữ ấy để xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam. 16 chữ ấy là “ứng vạn biến”, “dĩ bất biến” là chủ quyền, không kẻ nào được phép bán rẻ chủ quyền quốc gia.


 Tuyệt đối không được để “ứng vạn biến” thay thế cho những điều thuộc về “dĩ bất biến”.


 Trong bối cảnh đó, nhiều người đang lo ngại, những phát biểu cứng rắn từ các giới chức quân sự “diều hâu” của Trung Quốc sẽ ảnh hưởng tới mối quan hệ Việt – Trung?


 Trước thái độ hung hăng hiếu chiến của một số người Trung Quốc, chúng ta phải bình tĩnh. Trong số hơn 1 tỷ 300 triệu người Trung Quốc, tuyệt đại đa số là người tốt, nhân hậu. Những người này không có lợi ích gì trong việc Trung Quốc gây hấn với Việt Nam cũng như gây hấn với các nước khác.


 Và tôi tin rằng, trong hơn 3 triệu quân nhân Trung Quốc, tuyệt đại đa số trong số đó cũng không muốn gây sự với Việt Nam bởi bản thân họ không được lợi gì cả. Ngay trong lãnh đạo cấp cao Trung Quốc thì không phải tất cả họ đều muốn gây sự với Việt Nam. Chúng ta không vơ đũa cả nắm.


 Trong công tác đầu tranh, chúng ta phải đấu tranh bằng nhiều cách: con đường ngoại giao và tận dụng mọi cái có thể tận dụng được.


 Nếu họ có các hành động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam thì phải triệu Đại sứ của họ lên để phản đối, gửi Công hàm và tuyên bố cho cả thế giới biết. Việt Nam không bao giờ kích động chủ nghĩa dân tộc để chống lại Trung Quốc nhưng trách nhiệm của Nhà nước ta là phải nói để cho dân biết, thế giới biết.


 Một đại thi hào Trung Quốc đã từng nói đại ý rằng: “Triều đình phong kiến (Trung Quốc – PV) một vạn năm nay, người ta tàn bạo như con hồ ly nhưng nhát gan như con thỏ rừng trước kẻ mạnh”.


 Hàng nghìn năm nay, Trung Quốc là quốc gia mềm nắn rắn buông: nước nào không vững vàng thì Trung Quốc tiến, còn nước nào vững thì Trung Quốc cũng không dám tiến. Trung Quốc có thói quen bắt nạt các nước yếu và đó là sở trường của họ.


 Ông đánh giá gì trước bình luận: Trung Quốc như một chú hổ vừa thức dậy sau khi giấc ngủ dài, nay sẵn sàng giương móng vuốt?


 Đó là sai lầm và những ai tin vào sức mạnh của thứ móng vuốt đó sẽ phải trả giá về điều này. Thời buổi này, không phải muốn làm gì thì làm.


 Sắp tới đây, nếu họ mà giương cung ra, họ sẽ chuốc phải thất bại thảm hại.


Thời gian vừa qua, Trung Quốc liên tục thông tin về việc diễn tập quân sự tại Biển Đông, bổ sung tàu lớn cho lực lượng Hải giám, Ngư chính hoạt động tại Biển Đông… Ông nhận định gì về động thái này?


 Tướng Lê Văn Cương: Trước các động thái của Trung Quốc ta phải phân biệt rõ ràng. Nếu việc tập trận trong phạm vi lãnh hải của họ và không ảnh hưởng gì đến các nước khác thì đó là quyền của họ. Trung Quốc là quốc gia biển và việc người ta thực hiện công tác quản lý nhà nước trên biển bằng cách dùng tàu hải giám, ngư chính trong khu vực cho phép theo Công ước Quốc tế về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982) là bình thường.


 Vấn đề ở chỗ, nếu tàu này tàu kia của Trung Quốc lao vào cắt cáp tàu thăm dò dầu khí trên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam thì chúng ta kiên quyết phản đối.


 Chúng ta phải phản đối với nhiều hình thức, cấp độ khác nhau: thứ nhất là triệu đại sứ, gửi công hàm phản đối. Nếu nghiêm trọng hơn, ngoại trưởng, thủ tướng, chủ tịch nước có thể gửi công hàm phản đối Trung Quốc.


 Trong đó, chúng ta phải ghi rõ sự việc vi phạm nghiêm trọng đó xảy ra tại khu vực nào, tọa độ nào, tham chiếu vào luật pháp quốc tế là vi phạm điểm nào. Đặc biệt, điều này phải công bố rộng rãi cho toàn dân ta và thế giới biết.


 Thời gian gần đây, một số học giả đưa ra chủ đề tranh luận “Việt Nam lớn hay nhỏ?” Ông đánh giá gì về điều này?

 Đưa ra bàn luận như vậy là dở. Tại sao lại đưa ra vấn đề này, nếu chỉ nhìn vấn đề như thế thì làm sao giải thích được trường hợp của Israel. Đất nước với chưa đến 9 triệu dân này, nằm trong lòng 170 triệu người dân Ả Rập nhưng bao năm vẫn vững vàng sau bao sóng gió.


 Điều cần phải bàn là “Tại sao Việt Nam mạnh? Tại sao Việt Nam yếu?”.


 Nhiều người trong nước đang ngụy biện rằng, Trung Quốc lớn quá, Việt Nam không thể làm gì hơn được. Điều đó là hoàn toàn sai lầm. Trong lịch sử, từ năm 179 trước Công nguyên, khi An Dương Vương thất bại trước Triệu Đà, đến giờ đã hơn 2200 năm, không có lúc nào Trung  Quốc yếu hơn Việt Nam.


 Thậm chí, thời nhà Minh Trung Quốc, tương quan chênh lệch với Việt Nam lên tới 100 lần. Từ thời điểm đó, tướng Trịnh Hòa – Trung Quốc đã dong thuyền tới châu Mỹ. Nhưng họ vẫn đại bại trong cuộc kháng chiến của dân tộc Việt, dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, Nguyễn Trãi.


90 triệu dân Việt đã luôn chứng tỏ sức mạnh của mình trước giông bão lịch sử. Đúng như Đức Thánh Trần, trước lúc lâm chung có nói với vua Trần: “Khoan thư sức dân, trên dưới đồng lòng anh em hòa mục”. Và Đảng ta thực sự trong sạch vững mạnh, gắn bó máu thịt với dân, nhà nước mạnh, quan chức công chức đều là công bộc của dân… đó là khi Tổ quốc ta mạnh nhất, sẽ không kẻ nào dám xâm phạm bờ cõi.


Theo báo DT


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 28, 2013 20:07

Báo cáo cho biết dân Bắc Hàn ăn thịt người vì đói

Nguồn: The Independent

imagesDiên Vỹ chuyển ngữ


Những báo cáo từ bên trong đất nước bần cùng bí ẩn và đang bị nạn đói hoàng hoành, Bắc Hàn, cho biết rằng một người đàn ông đã bị tử hình sau khi giết chết hai đứa con mình để ăn.


Tin tức kinh khủng rằng người Bắc Hàn đang chuyển sang ăn thịt người được báo cáo bởi Asia Press và được xuất bản trên Sunday Times.


Họ cho biết có một “nạn đón ẩn” trong những tỉnh nông nghiệp Bắc và Nam Hwanghae đã làm chết 10 nghìn người, và e rằng nạn ăn thịt người đang lan tràn trên khắp đất nước.


Những báo cáo này được đưa ra khi các chế độ cấm vận đang thắt chặt hơn vì ngôn ngữ đầy giận dữ về việc thử nghiệm tên lửa.


Trong một báo cáo đặc biệt chấn động, một người đàn ông được biết là đã đào những người cháu nội của mình lên ăn. Những báo cáo khủng khiếp khác bao gồm chuyện những người đàn ông đã luộc con của mình rồi ăn.


Asia Press là một cơ quan truyền thông chuyên môn tại Osaka, Nhật, họ nhận là đã tạo dựng được một mạng lưới “nhà báo công dân” bên trong Bắc Hàn. Những báo cáo này được xem là đáng tin cậy.


Sau những cuộc phỏng vấn, Asia Press kết luận rằng có hơn 10 nghìn người có thể đã chết ở các tỉnh Bắc và Nam Hwanghae, nằm ở phía nam thủ đô Bình Nhưỡng.


Bắc Hàn đã không xác nhận hoặc bác bỏ các báo cáo về những cái chết này.


Một người cung cấp tin tại Nam Hwanghae nói: “Hôm tháng Năm tại làng tôi, một người đàn ông đã giết chết hai đứa con của mình và định ăn chúng, ông ấy đã bị đội hành hình xử bắn.


“Trong khi vợ đi làm ăn xa, ông ấy đã giết chết đứa con gái lớn và vì đứa con trai thấy việc ông làm nên ông cũng giết nó luôn. Khi người vợ trở về, ông đưa cho bà thức ăn, nói rằng “Nhà mình có thịt.”


“Nhưng vợ ông ấy đâm ra nghi ngờ và báo với Công an, dẫn đến việc khám phá những bộ phận thân thể của con họ giấu dưới mái hiên.”


Jiro Ishimaru của Asia Press nói: “Điều đặc biệt sốc là có vô số lời kể với chúng tôi về nạn ăn thịt người.”


Một nhà báo công dân khác, Gu Gwang-ho nói: “Đã xảy ra chuyện một người đàn ông bị bắt vì đã đào mộ một đứa cháu của mình lên để ăn xác.”


Một quan chức cấp trung của Đảng Lao động Triều Tiên đang cầm quyền nói “Tại một ngôi làng ở huyện Chongdan, một người đàn ông đói đến phát điên, ông đã luộc rồi ăn thịt con trai mình và đã bị bắt.” Một thoả thuận của Liên Hiệp Quốc được thông qua hôm thứ Ba, đã gia thêm hạn cấm vận chống lại Bắc Hàn được đặt ra sau khi nước này tiến hành những cuộc thử tên lửa vào năm 2006 và 2009.


Những căng thẳng đang tăng cao hiện tại và việc gia hạn cấm vận sau khi quyết định đầy thách thức của Bình Nhưỡng trong việc tiến hành phóng tên lửa đường dài hôm 12 tháng Mười hai – họ nhấn mạnh rằng đó chỉ là một phi vụ hoà bình để phóng một vệ tinh vào quỹ đạo.


Bất chấp việc chính quyền này nhấn mạnh rằng đấy là một thử nghiệm hoà bình, toàn thế giới vẫn xem đấy là một thử nghiệm tên lửa đạn đạo bị cấm.


Hoa Kỳ, với sự hậu thuẫn của Nhật và Hàn Quốc, đã đưa ra một nghị quyết mới ở Liên Hiệp Quốc. Tuần này, Bắc Hàn lại tăng tầng suất lên án việc cấm vận, đe doạ chiến tranh với nước láng giềng miền nam rằng: “Nếu chính phủ bù nhìn của những kẻ phản quốc Nam Hàn tham gia trực tiếp vào cái gọi là ‘cấm vận’ của Liên Hiệp Quốc, chúng tôi sẽ có những phản công mạnh mẽ,” Uỷ ban Thống nhất Hoà bình Tổ quốc của Bắc Hàn tuyên bố.


Theo DL




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 28, 2013 17:34

Việt Nam có định ngăn chặn kế hoạch phát triển ” Tam sa” của bành trướng Trung Quốc?

Tâm Sự Y Giáo


376568_304512359651712_60558138_nTờ Nhân dân nhật báo của Trung Quốc hôm nay 28-1-2013 ngang nhiên đăng bài “Thành phố trẻ Tam Sa bận rộn chuẩn bị cho du lịch”.


Theo đó, trong phiên họp Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Nam hôm Chủ nhật, Xiao Jie, “thị trưởng của cái gọi là thành phố Tam Sa đã tuyên bố trong vòng một năm sẽ kết thúc giai đoạn đầu tiên xây dựng các cảng mới của đảo Phú Lâm của Việt Nam, một nhà máy khử muối nước biển có công suất 1.000 mét khối nước biển một ngày, một nhà máy xử lý nước thải và một hệ thống thu gom và vận chuyển rác thải. Một con tàu vận chuyển mới có tên gọi là Tam Sa 1, dài 120m, rộng 20m, trọng lượng 8.100 tấn sẽ được hoàn thành đầu năm 2014 để giúp vận chuyển các vật liệu cần thiết ra các đảo.
Vào tháng 9-2012, cái gọi là chính quyền thành phố Tam Sa công bố rằng 28 dự án cơ sở hạ tầng đầu tiên tại đây trị giá 3,81 tỉ USD.
Xiao cho biết y và các « quan chức » khác đang cố gắng để được chính quyền trung ương hỗ trợ về chính sách và tài chính. Bọn chúng đang bận rộn lập kế hoạch phát triển và kế hoạch bảo vệ môi trường cho Tam Sa.
Tỉnh Hải Nam sẽ tiếp tục “phát triển kinh tế biển” ở Biển Đông bên cạnh việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho “thành phố Tam Sa”. Một đội tàu đánh cá Biển Đông sẽ được thành lập với 200 tàu thuyền đánh bắt cá trong vùng biển xung quanh “thành phố Tam Sa”.
Một nhân vật khác là Lu Zhiyuan, giám đốc du lịch tỉnh Hài Nam khẳng định rằng “du lịch ở Tam Sa là rất quan trọng đối với việc tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Chúng tôi đang bận rộn để mở du lịch trong Tam Sa, và các tour du lịch sẽ là lựa chọn chính. Các tuyến hành trình đã được vạch ra”.
Ngoài du lịch, cái gọi là « thành phố Tam Sa » cũng đã có kế hoạch phát triển các ngành  công nghiệp dầu mỏ và khí đốt để điều khiển nền kinh tế
Để kết thúc, bài báo của Nhân dân nhật báo đã hết sức láo xược khi tuyên bố rằng: “Tam Sa được thành lập vào cuối tháng bảy để quản lý hơn 200 đảo nhỏ, bãi cát và rạn san hô ở quần đảo Hoàng Sa, trung Sa và Trường Sa, và 2.000.000 km vuông biển xung quanh”.
Rõ ràng là không chỉ dùng lời nói, bọn bành trướng đã và đang dùng đủ mọi cách cực kỳ nham hiểm, thâm độc và cũng hết sức trắng trợn nhằm tiến tới nuốt trọn Biển Đông cùng với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.

Từ việc xây dựng xong cái gọi là “thành phố Tam Sa” đến việc bọn bành trướng chiếm trọn Biển Đông chỉ là gang tấc. Ấy thế nhưng thật lạ lùng, chưa bao giờ nghe ai nói về việc ngăn chặn Bắc Kinh “xây dựng và phát triển thành phố Tam Sa”.
Ngoài thuật ngữ nhàm chán đến mức nguy hiểm là dùng “biện pháp hòa bình”, có cách nào để ngăn bước tiến của bầy quỉ dữ bành trướng, trước hết là làm phá sản kế hoạch “phát triển thành phố Tam Sa” của bọn chúng hay không?
Lần này, chẳng biết người phát ngôn có bước ra: “Phản đối, phản đối, phản đối!”, để rồi cuối cùng mọi thứ lại rơi vào im lặng hay không?
Chịu. Và chẳng dám hy vọng.
Theo blog TSYG

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 28, 2013 15:57

Các quan có giật mình không?

question[1]Bài Để không giật mình của báo Thanh niên ( tại đây) được bạn đọc hết sức hoan nghênh, nhiều trang mạng đã đăng lại, chuyện này ai cũng biết nhưng báo lề đảng lần đầu tiên nói ra, đặt vấn đề rất nghiêm túc: “Sau một bài viết về Hoàng Sa mới đăng tải trên Thanh Niên gần đây, chúng tôi đã một phen giật mình khi trong các phản hồi gửi về tòa soạn, không ít độc giả thổ lộ rằng bây giờ họ mới biết Hoàng Sa đã bị Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm từ gần 40 năm trước. Có bạn sinh viên cho biết mãi đến khi vào đại học thì mới biết được điều này.”


Anh Ba Sàm bình luận ( tại đây):


“Quanh những hiện tượng đáng lo ngại này, và rất nhiều biểu hiện tương tự, chúng ta không thể không đặt nghi vấn về một âm mưu thâm hiểm, trên quy mô rất lớn của những kẻ cam tâm bán nước. Chúng sử dụng mọi phương cách luôn được che đậy dưới mỹ từ “hòa bình”, “ổn định” … để đe nẹt, dọa dẫm, trừng phạt những người dân yêu nước, cơ quan báo chí, đoàn thể, cán bộ đảng viên … nếu như họ vượt qua “lằn ranh” được chúng đặt ra mơ hồ trong đấu tranh cho chủ quyền biển đảo. Sau lưng họ – những người dám tranh đấu – là những kẻ dốt nát, lười biếng, xu thời, bọn nội xâm tham nhũng, chọn cách sống tròn vo, không thèm quan tâm tới chuyện chủ quyền bị xâm phạm, chúng luôn lăm le kiếm cớ hãm hại đồng nghiệp để kiếm lợi.


Vài ví dụ mà báo Thanh niên nêu ở trên là một trong những biểu hiện tê liệt do phải sống trong một môi trường đầy sợ hãi lâu ngày, nó đã tác động tới cả thế hệ trẻ, không chỉ đơn giản là “không biết”, “hiểu sai”, mà nguy hiểm hơn là họ sẽ học cha anh, trở thành những kẻ xu thời, chọn lối sống an toàn, bất chấp tất cả.”


Mình thì nghĩ thế này:


Vấn đề “giật mình” mà báo TN đặt ra cũng chỉ chúng ta giật mình với nhau thôi, các quan không giật mình đâu. Vì sao à? Thì đây, hãy nghe một facebooker trên Blog Phương Bích ( tại đây):


“Giật mình à?


Đúng rồi, nhắc đến Hoàng Sa, Trường Sa là cấm đoán, bỏ tù, sách nhiễu;


In áo có chữ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam thì bị bắt bỏ tù;


Viết chữ HS- TS- VN thì bị đuổi học, bắt bớ;


Sinh viên đi biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn trên biển Đông, cắt cáp tàu thăm dò dầu khí thì bị đe dọa đuổi học, ra lệnh cho hiệu trưởng gây sức ép với sinh viên;


Chiếu phim “Hoàng Sa: Nỗi đau mất mát” thì bị cấm đoán;


Đi đá bóng mà hô “Hoàng Sa – Trường Sa – Việt Nam” thì ép chủ sân không cho thuê sân đá;


Mời chuyên gia đến nói chuyện về biển đảo thì bị cắt điện, đe dọa;


Tuyên truyền cho lính hải quân rằng “Hoàng Sa đã được giao cho bạn quản lý hộ, bà con ngư dân cứ ra đó đánh bắt thì bị họ bắt là đúng rồi, còn kêu ca gì”…


Tất cả lời than phiền trên chứng tỏ các quan không giật mình, nếu có giật mình thì giật mình vì sao báo lề đảng dám đặt vấn đề giật mình ra cho dân chúng biết-  Chết chết chết, khéo không chóp bu Trung Nam Hải biết, người ta lại giận thì bỏ mẹ!


Tối nay ăn tết với báo Thanh Niên, một người nói mình phải đoàn kết với Philippines, kiện thằng TQ cho nó trắng mắt ra, đừng để nó bẻ đũa từng chiếc.  Mấy người cười to, nói ông này sao lạc hậu thế, đũa Việt Nam đã gãy từ tám hoánh rồi ông ơi!


Có ai giật mình chuyện này không?


Hu hu…


NQL



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 28, 2013 07:52

Nói thêm về Nguyễn Bá Thanh

Trần Đăng Khoa


 Tran-Dang-KhoaMới đây, vào những ngày cuối tháng 1, năm 2013 này, tại Trung tâm Triển lãm Nghệ thuật 45 Tràng Tiền Hà Nội, đã có cuộc triển lãm ảnh đặc biệt, không phải ảnh nghệ thuật, mà ảnh phóng sự báo chí, ảnh đời thường, nhưng lại có sức thu hút công chúng rất mãnh liệt. Đó là triển lãm cảnh “ngủ gầm giường, ngủ hành lang bệnh viện” với hơn một trăm bức ảnh. Mỗi bức ảnh là một hoàn cảnh, một nỗi đời, một cảnh ngộ. Tác giả của những bức ảnh này, không chỉ là những phóng viên, những ký giả, cộng tác viên của Trung tâm Sức khỏe và Dân số, mà còn là những người bình thường. Họ là bệnh nhân hoặc người nhà đi theo chăm sóc bệnh nhân. Họ ghi lại những khoảnh khắc mình đã thấy hoặc đã trải, không phải có ý thức làm nghệ thuật, mà chỉ đơn giản giữ lại những kỷ niệm theo kiểu “thấy gì ghi nấy”. Chính vì thế mà nó rất chân thật và sinh động. Không phê phán ngành y tế, chỉ phơi ra một thực trạng mang tính sẻ chia. Chính thế lại đắng đót, lại có sức lay động lương tri những người tử tế. Chỉ những trái tim và tâm hồn lạnh giá mới có thể dửng dưng.


 Cuộc triển lãm đặc biệt này cũng đã lên mạng nhiều trang baó điện tử chính thống. Tôi không biết các vị lãnh đạo, các nhà quản lý nghĩ gì khi nhìn những cảnh đời nơi “gầm giường chiếu đất” này? Còn tôi, bao trùm lên mọi cảm giác là nỗi đắng đót đến se thắt cả gan ruột. Lại nhớ đến buổi “vi hành” của bà Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến xuống các bệnh viện cơ sở. Bò từ gầm giường ra chào bà là các bệnh nhân nhí bị ung thư. Rồi những bệnh nhân hiểm nghèo chờ xạ trị ba người ghép một giường. Nhiều khi bệnh nhân phải nằm chen chúc dưới gầm giường, nằm tràn cả ra hành lang bệnh viện trong thời tiết mưa ẩm và giá lạnh. Sống lay lắt như thế, ngay cả một người khỏe mạnh cũng có thể gục đổ, chứ không còn nói đến những con người bất hạnh, lại mang trong mình trọng bệnh mà sự sống mong manh chỉ tính bằng những khoảnh khắc.


Ta hiểu nỗi khổ tâm của bà Bộ trưởng Bộ Y tế có tâm đức. Nhưng chẳng lẽ lại cứ để tình trạng quá tải ở các bệnh viện diễn ra mãi như thế này sao? Hiện nay, Hà Nội đã mở rộng đến hết cả tỉnh Hà Tây cũ, còn nới thêm một phần của tỉnh Hòa Bình, chẳng lẽ vẫn không có đất để xây bệnh viện sao? Đành rằng kinh tế suy thoái trong phạm vi toàn cầu, nợ công ở nước ta cũng lên đến ngưỡng đáng phải quan ngại, Tết năm nay, nhiều cơ quan không có tiền thưởng cho nhân viên, có doanh nghiệp còn nợ cả tiền lương, dẫn đến cảnh tao loạn: Công nhân vác ghế phang giám đốc rồi sẵn sàng vào tù, nhưng cũng không phải vì thế mà không xây được bệnh viện cho dân. Không kể những vụ thất thoát khổng lồ đến hàng ngàn tỷ đồng như vụ Vinashin rồi tiếp đến là Vinalins, chúng ta vẫn còn chi hàng ngàn tỷ đồng để xây Trụ sở làm việc, Bảo tàng Quốc gia, rồi hàng trăm rạp hát, Nhà văn hóa. Đành rằng xây Trụ sở, xây Bảo tàng hay Rạp hát cũng rất quan trọng, rất cần thiết, nhưng đem những công trình ấy, so với những công trình cấp bách, cần phải làm ngay, như bệnh viện cứu chữa điều trị cho dân, hay những lớp học cho trẻ em nghèo vùng sâu vùng xa thì cái gì cần ưu tiên trước nhất? Tất nhiên là bệnh viện và lớp học rồi. Tôi hoàn toàn đồng ý với Vân Thiêng, ông bạn đồng nghiệp của tôi ở VOV: Xây thêm nhà hát, rạp chiếu phim cũng là cần thiết, bởi đấy là những thiết chế văn hóa đặc biệt gắn với trình độ và nhu cầu thưởng thức văn hóa, nghệ thuật của nhân dân. Tuy nhiên, có một thực tế là hiện nay, nhiều nhà hát mà số buổi sáng đèn mỗi năm chỉ đếm được trên mấy đầu ngón tay, nhiều nhà hát, rạp chiếu phim đã làm “dịch vụ cho thuê đám cưới”. Ngân sách là tiền thuế của dân. Vì vậy, đầu tư cái gì, đầu tư lúc nào là điều phải tính toán để đồng tiền ấy phát huy hiệu quả cao nhất. Việc xây dựng trụ sở cơ quan khang trang hiện đại và các công trình văn hóa là cần thiết trong quá trình phát triển đất nước. Tuy nhiên, chưa thấy có chuyện vì thiếu rạp mà hai, ba người phải ngồi một ghế để xem biểu diễn nghệ thuật, cũng chưa có ai chui dưới gầm ghế người khác để xem phim. Trong khi, cảnh hai, ba bệnh nhân phải nằm chung một giường, thậm chí có bệnh nhân phải chịu cảnh “gầm giường chiếu đất” thì đã thấy nhỡn tiền và sẽ còn hiển hiện ở rất nhiều bệnh viện lớn khác nữa.


Có thể giải quyết dứt điểm nạn quá tải ở các bệnh viện ấy được không? Hoàn toàn có thể giải quyết được, nếu chúng ta thực sự vì dân, lo cho muôn dân. Chỉ cần chúng ta tiết kiệm trong chi tiêu, loại bỏ những chi phí chạy theo bề nổi, hoàn toàn mang tính hình thức, rất tốn kém mà không có hiệu quả thiết thực, như các lễ hội rầm rĩ ở rất nhiều tỉnh thành, hay kiểm tra, giám sát chặt chẽ các công trình, tránh được những thất thoát để tiền dân trôi hết ra sông ra bể, như Vinashin hay Vinalins là có thể xây được hàng ngàn bệnh viện, trường học rồi.


Chỉ cần tiết kiệm, bớt hoang phí trong những khoản chi tiêu vô bổ, chúng ta đã cứu được bao nhiêu kiếp người bất hạnh. Điều này là hoàn toàn có thể làm được. Bởi đã có địa phương làm được rồi. Một ví dụ điển hình là Đà Nẵng. Vâng, tôi vẫn lại phải nhắc đến Đà Nẵng. So với Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, hay các địa phương khác, Đà Nẵng không thuận lợi ở vị trí địa lý, cũng không tiện về giao thông, lại bị chiến tranh tàn phá khốc liệt nhất, số người hy sinh cũng lớn nhất, đã thế khí hậu lại khắc nghiệt, bão gió, lũ lụt liên miên. Một tỉnh rất nghèo. Vậy mà ông Nguyễn Bá Thanh và các cộng sự của ông vẫn vực mảnh đất nghèo ấy thành một đô thị hiện đại, một thành phố nề nếp, sạch sẽ (theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng) và quy củ nhất nước. Trước khi rời Đà Nẵng, ngay mới đây thôi, ông Nguyễn Bá Thanh còn kịp trao cho dân một bệnh viện nhằm xóa bỏ nạn “gầm giường chiếu đất”. Đó là bệnh viện ung bướu có quy mô 500 giường với 27 khoa và phòng, trước mắt đã đưa vào sử dụng 200 giường bệnh với đội ngũ hơn 70 bác sĩ, cùng các chuyên gia, y tá, điều dưỡng có trình độ chuyên môn cao, trang thiết bị y tế bệnh viện được đầu tư hiện đại, chất lượng, với các hệ thống máy xạ trị, y học hạt nhân, gia tốc tuyến tính. Đặc biệt, đây là bệnh viện dành cho những người nghèo có hộ khẩu Đà Nẵng và các tỉnh miền Trung. Sau khi trừ phần Bảo hiểm y tế thanh toán, các bệnh nhân nghèo sẽ được miễn phí toàn bộ tiền chi trả. Người nhà đi theo chăm sóc bệnh nhân cũng sẽ được hưởng chính sách ăn, ở miễn phí tại bệnh viện với bếp ăn từ thiện. Điều trị miễn phí hoàn toàn cho bệnh nhân nghèo là chính sách nhân văn đặc biệt chỉ có ở Đà Nẵng. Có địa phương nào làm được như thế không?


Bây giờ thì ta hiểu được vì sao người dân Đà Nẵng lại yêu mến Nguyễn Bá Thanh đến như thế. Và không phải chỉ có dân Đà Nẵng, nhân dân ở rất nhiều địa phương khác cũng rất quý yêu Nguyễn Bá Thanh, như quý yêu Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc thuở nào. Và chúng ta tin, rất tin rằng, trong công cuộc đổi mới của Đảng, của Đất nước, vì miếng cơm manh áo của dân, ông sẽ không bị đứt gánh giữa đường như Bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc. Và chúng ta cũng hy vọng Đà Nẵng sẽ là một mô hình tốt đẹp có thể nhân rộng ra trên phạm vi toàn quốc. Viết đến đây, tôi lại chợt giật mình nhớ đến câu ca dao:


Thương dân, dân lập đền thờ


Hại dân, dân đái sập mồ lụn xương


Và như thế, làm điều ác, đặc biệt là ác với dân, đâu phải cứ hạ cánh được an toàn là đã an toàn. Bây giờ, làm một cán bộ mà được dân tin, dân yêu như Nguyễn Bá Thanh, đâu có phải là dễ…


Theo blog TĐK



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 28, 2013 05:00

Suy nghĩ từ tuyên bố đầy khí phách của Tổng thống Aquino

Bùi Chí Vinh


Bui Chi Vinh 1Khi đưa vấn đề Trung Quốc xâm lược biển Đông ra Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc là Tổng Thống Philippines đã làm thay rất nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tổng Thống Aquino đã tuyên bố như sau: “Chúng tôi không đe dọa ai cả, bởi nếu chúng tôi không đứng lên đòi hỏi quyền lợi, ai sẽ đứng lên làm điều đó ?”



Ai sẽ đứng lên làm điều đó thay chúng tôi?

Nước Mỹ ư? Chẳng ai cho không lòng hào sảng

Mất Scarborough nghĩa là mất luôn cả bầu trời

Nghe đồn láng giềng Việt Nam có câu “Đèn nhà ai nhà nấy sáng”


Đâu phải một quốc gia lắm quần đảo như Philippines là được quyền quên luôn bãi cạn

Bãi cạn Scarborough đẻ ra san hô, quặng mỏ, linh hồn

Bãi cạn của nhân dân không phải là món quà mua bán

Cho thứ đất nước đẻ ra ác mộng đường lưỡi bò liếm từ đỉnh đến… trôn !


Chúng tôi không đứng lên đòi hỏi quyền lợi thì ai sẽ đứng lên?

Nhật Bản, Hàn Quốc ư ? Những đồng minh chỉ quan tâm thị trường chiến lược

Hiểm họa trên biển Đông không phải… “phần mềm”

Mà thuộc “ổ cứng” trường kỳ của đại cường hào Trung Quốc


Thà làm “châu chấu đá xe” còn hơn chịu 1000 năm Bắc thuộc

Chịu khống chế bởi truyền thông, chịu áp lực bởi truyền hình

Tại sao không dám đứng thẳng người mà cúi đầu khiếp nhược

Mà rên rỉ đớn hèn rằng “tàu lạ”… linh tinh!


Giặc đến nhà, đàn bà cũng chấp nhận hy sinh

Chúng tôi không đe dọa ai” không thích làm con… ngáo ộp!

Đánh giặc là đánh từ Tổng Thống tới dân đen chứ không đánh một mình

Cám ơn Aquino dạy bài học danh dự vỡ lòng về tình ái quốc!


28-01-2013

BCV


Theo DL




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 28, 2013 02:06

January 27, 2013

Vấn đề Đảng trong Hiến pháp Liên Xô

Hồ Anh Hải


Stalin bỏ phiếuPhần lớn các nước tự nhận là dân chủ đều do một (hoặc một liên minh vài đảng) cầm quyền. Nhưng Hiến pháp hầu hết các nước đều không nói gì về đảng cầm quyền, trừ một số nước xã hội chủ nghĩa (XHCN).


Nguyên Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc nói Điều 4 Hiến pháp Việt Nam là học theo Điều 6 Hiến pháp Liên Xô. Vậy Hiến pháp Liên Xô nói về vấn đề đảng cầm quyền như thế nào ?


Liên Xô trong thời gian tồn tại 1917-1991 chỉ có một chính đảng duy nhất là Đảng Cộng sản và đã sử dụng 4 bản Hiến pháp, trong đó hai bản Hiến pháp đầu không đề cập tới Đảng Cộng sản Liên Xô, dù Đảng đã lãnh đạo nhà nước ngay từ sau Cách mạng Tháng Mười. 


1- Hiến pháp 1918 (còn gọi là Hiến pháp Lê-nin) có tên là Hiến pháp (Luật cơ bản) nước cộng hòa XHCN Liên bang Nga.[1]


Hiến pháp 1918 do Đại hội Xô Viết toàn Nga lần thứ 5 thông qua ngày 10-7-1918, là bộ Hiến pháp XHCN đầu tiên trên thế giới, gồm Lời Nói Đầu (rất ngắn, không thuộc chính văn) và 6 phần, cộng 17 chương, 90 điều. « Phần Một : Tuyên ngôn quyền lợi của nhân dân lao động bị bóc lột » do Lê-nin tự tay soạn thảo, gồm 4 chương.


Toàn bộ chính văn Hiến pháp 1918 không thấy chỗ nào nói tới từ « đảng cộng sản »


2- Hiến pháp 1924 (Lê-nin có chỉ đạo soạn thảo) có tên là Hiến pháp (Luật cơ bản) Liên bang Cộng hòa XHCN Xô Viết, được  thông qua ngày 31-1-1924 [2].


Hiến pháp gồm hai phần. Phần Một là Tuyên ngôn thành lập Liên bang các nước cộng hòa XHCN Xô Viết. Phần Hai là Hiệp ước thành lập Liên bang, gồm 11 chương, cộng 72 điều. Hiến pháp này không có các quy định về chế độ xã hội, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân ; những nội dung đó do Hiến pháp của từng nước cộng hòa quy định riêng.


Toàn bộ chính văn Hiến pháp 1924 không có từ « đảng cộng sản »


3- Hiến pháp 1936, còn gọi là Hiến pháp Xta-lin [3], giữ tên gọi như cũ, gồm 13 chương, cộng 146 điều, được Đại hội đại biểu bất thường lần thứ VIII của Xô Viết Liên Xô thông qua ngày 5-12-1936. Tại đại hội này Xta-lin tuyên bố Liên Xô đã xây dựng xong chế độ XHCN, hiện tượng người bóc lột người đã bị tiêu diệt. Điều đáng quý là Hiến pháp có quy định « Các Thẩm phán viên được độc lập, chỉ phục tùng pháp luật » ; « Các cơ quan kiểm sát độc lập hành xử quyền hạn ».


Đây là bộ Hiến pháp tồn tại lâu nhất (41 năm) và lần đầu tiên nói tới vấn đề vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô.


Đáng chú ý là vấn đề này không nói tại các chương trình bày về cơ cấu xã hội và nhà nước, mà chỉ nói một cách sơ lược, không có tính chất quy định pháp lý chặt chẽ tại một phần trong Điều 126 thuộc « Chương X — Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân ».


Điều 126 viết : « Để phù hợp với lợi ích của người lao động và nhằm phát huy tính tự lập về tổ chức và tính tích cực về chính trị của quần chúng nhân dân, công dân Liên Xô được đảm bảo có quyền tập hợp trong các tổ chức xã hội như : công đoàn, hợp tác xã, đoàn thanh niên, các tổ chức thể thao và quốc phòng, các hội văn hóa, khoa học và kỹ thuật ; và những công dân tích cực và giác ngộ nhất trong hàng ngũ giai cấp công nhân, nông dân lao động và trí thức lao động tự nguyện tập hợp lại trong Đảng Cộng sản Liên Xô, là đội ngũ tiên tiến của nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh nhằm xây dựng xã hội cộng sản và là hạt nhân lãnh đạo của tất cả các tổ chức của nhân dân lao động, gồm các tổ chức xã hội cũng như các tổ chức nhà nước. » 


[ARTICLE 126. In conformity with the interests of the working people, and in order to develop the organizational initiative and political activity of the masses of the people, citizens of the U.S.S.R. are ensured the right to unite in public organizations--trade unions, cooperative associations, youth organizations,' sport and defense organizations, cultural, technical and scientific societies; and the most active and politically most conscious citizens in the ranks of the working class and other sections of the working people unite in the Communist Party of the Soviet Union (Bolsheviks), which is the vanguard of the working people in their struggle to strengthen and develop the socialist system and is the leading core of all organizations of the working people, both public and state.]


Như vậy Điều 126 không nói Đảng Cộng sản là đảng lãnh đạo nhà nước mà chỉ là một tổ chức đoàn thể có tính chất là hạt nhân lãnh đạo tất cả các tổ chức đoàn thể khác của người lao động, gồm các tổ chức đoàn thể xã hội (như các hội nghề nghiệp, câu lạc bộ…) và các tổ chức đoàn thể do nhà nước lập ra (như công đoàn, đoàn thanh niên v.v…).


4- Hiến pháp 1977 còn gọi là Hiến pháp Brê-giơ-nep [4], gồm 9 phần, 21 chương, cộng 174 điều, được thông qua ngày 7-10-1977. Nó thừa kế các tư tưởng và nguyên tắc cơ bản của 3 bộ Hiến pháp trước, nhưng có một số phát triển và thay đổi, chủ yếu là : 1) Tuyên bố Liên Xô là Nhà nước XHCN toàn dân, Đảng Cộng sản Liên Xô là lực lượng lãnh đạo và dẫn dắt xã hội Liên Xô. 2) Quy định cơ sở chế độ kinh tế  Liên Xô  là chế độ sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất, gồm hai hình thức : nhà nước (toàn dân) và tập thể.


Hiến pháp 1977 làm nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô bằng Điều 6 ở « Chương I — Chế độ chính trị » :


« Đảng Cộng sản Liên Xô là lực lượng lãnh đạo và dẫn dắt xã hội Xô viết, là hạt nhân của hệ thống chính trị, của nhà nước và các tổ chức xã hội. Đảng Cộng sản Liên Xô tồn tại vì nhân dân và phục vụ nhân dân. Đảng Cộng sản Liên Xô được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác-Lênin quyết định chính sách đối ngoại, đối nội của Liên Xô, lãnh đạo các hoạt động sáng tạo vĩ đại của nhân dân Liên Xô, làm cho cuộc đấu tranh giành thắng lợi cho chủ nghĩa cộng sản có đặc điểm là có kế hoạch, có căn cứ khoa học. Mọi tổ chức đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp Liên Xô. » 


Quy định này có tính pháp lý rõ rệt, khác với Điều 126 Hiến pháp 1936.122


Hiến pháp 1977 ra đời khi Đảng Cộng sản Liên Xô, từ sau ngày Xta-lin mất, đang trượt dài trên con đường suy thoái biến chất, uy tín Đảng giảm sút, tình trạng dân không nghe Đảng tăng dần. Có lẽ vì thấy tình trạng bất lợi này mà Brê-giơ-nep chủ trương dùng Hiến pháp để buộc mọi tổ chức nhà nước và xã hội phải tuân theo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nhưng ý định bảo vệ đặc quyền ấy lại gây phản tác dụng. Một số đảng viên đã lợi dụng Điều 6 làm phương tiện tìm kiếm đặc quyền đặc lợi cho mình, làm giàu bất chính. Chính con trai và con rể Brê-giơ-nep đều thăng tiến nhanh, con gái ông trở thành triệu phú đô-la.


Báo Thời Nay viết : Tầng lớp đặc quyền trong Đảng Cộng sản Liên Xô chỉ từng bước hình thành sau khi Brê-giơ-nep nắm quyền, nhất là vào giai đoạn cuối. Dưới thời Brê-giơ-nep, tình trạng tham nhũng tại Mat-xcơ-va và các nước cộng hòa ngày càng nghiêm trọng. Đặc quyền còn trở thành “lá bùa hộ mệnh” để cán bộ lãnh đạo mặc sức tham nhũng mà không bị cản trở. Đối với tầng lớp đặc quyền, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đi từ chỗ ít ngăn chặn đến không tấn công, rồi bao che, thậm chí dung túng, khiến cho khối u ác tính này phát triển và lây lan nhanh chóng trên chính cơ thể của mình. [5] 


Hậu quả làm Đảng càng biến chất, suy thoái, tham nhũng nặng, nảy sinh bè phái, những kẻ nịnh bợ Brê-giơ-nep thăng tiến nhanh. En-xin Bí thư Thành ủy Mat-xcơ-va đã lợi dụng việc phê phán tình trạng đó để tạo uy tín cá nhân, khuynh đảo dư luận, góp phần đẩy nhanh sự sụp đổ của Đảng Cộng sản.


Chủ trương hạn chế tự do ngôn luận đã gây phản tác dụng. Trong khi truyền thông chính thống lớn tiếng ca tụng Brê-giơ-nep và Đảng Cộng sản thì nhân dân ngày càng ớn ghét tình trạng tham nhũng trong Đảng, nhưng họ bị bịt miệng không được nói, vì thế Brê-giơ-nep không nắm được lòng dân. Mãi cho tới trước khi Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ không lâu, qua một cuộc thăm dò dân ý về chủ đề « Đảng Cộng sản Liên Xô đại diện cho ai ? » người ta mới biết có tới 85% số người được hỏi cho rằng Đảng đại diện cho quan chức, cán bộ và nhân viên nhà nước. [5] Nghĩa là Đảng Cộng sản đã xa rời lợi ích của nhân dân. Và cái gì phải đến ắt sẽ đến.


Tháng 3-1990, Đại hội Đại biểu nhân dân Liên Xô thông qua quyết định sửa đổi Hiến pháp, hủy bỏ quy định về địa vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, tuyên bố tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả các chính đảng tham gia xây dựng và quản lý nhà nước, xã hội. Sau sự kiện 19-8-1991, Đảng Cộng sản Liên Xô tự giải thể.


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhận định rất đúng: Liên Xô tan rã « có một nguyên nhân rất cơ bản chính là vì Đảng Cộng sản lúc đó đã suy thoái, biến chất do quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi… » [6].


Đặc quyền sẽ tạo ra đặc lợi. Khi có đặc quyền, những đảng viên phẩm chất kém lập tức sử dụng nó để kiếm đặc lợi cho mình, khiến cho tham nhũng tràn lan như một bệnh dịch, làm hư hỏng cả một đảng cách mạng vĩ đại. Điều 6 Hiến pháp tạo ra đặc quyền cho nên làm hại Đảng. Ý định của Brê-giơ-nep rốt cuộc chẳng những không bảo vệ được vai trò lãnh đạo của Đảng mà còn góp phần làm Đảng nhanh chóng suy thoái, trượt dài tới chỗ cuối cùng Đảng Cộng sản tan rã, nhà nước XHCN hùng mạnh nhất thế giới sụp đổ trong sự thờ ơ của 280 triệu công dân Liên Xô, trong đó có 21 triệu đảng viên. Hậu quả vô cùng đau xót : người bị thiệt hại nhất chính là nhân dân Liên Xô chứ không phải những kẻ đã vơ vét đầy túi nhờ đặc quyền đặc lợi.


Tổng Bí thư Brê-giơ-nep đã quên mất một chân lý : lòng dân mạnh hơn mọi thứ, kể cả Hiến pháp ; được lòng dân thì mới giữ được vai trò lãnh đạo của Đảng ; mất lòng dân thì mất tất cả. 


Ghi chú :


[1] http://www.hist.msu.ru/ER/Etext/cnst1918.htm (tiếng Nga)


[2] http://www.hist.msu.ru/ER/Etext/cnst1924.htm (tiếng Nga)


[3] http://www.hist.msu.ru/ER/Etext/cnst1936.htm (tiếng Nga)


      http://www.departments.bucknell.edu/russian/const/1936toc.html (tiếng Anh)


[4] http://www.hist.msu.ru/ER/Etext/cnst1977.htm (tiếng Nga)


[5] http://vnexpress.net/gl/the-gioi/2010/08/3ba1f4d7/


[6] http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/479628/Phat-bieu-cua-Tong-bi-thu-tai-Hoi-nghi-trien-khai-nghi-quyet-TU-4.html


——–



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 27, 2013 23:33

Đảng cần phải làm gì?

Trao đổi với ông Bùi Đức Lại và ông Trần Mạnh Hảo về điều 4 Dự thảo Hiến pháp


1277712861_luat 020Nguyễn Huy Canh


Ông Trần Mạnh Hảo vừa có bài viết trên trang của n/v Phạm Viết Đào về nền tảng của HP92 (hiện nay ta gọi là Dự thảo sửa đổi HP) bị phá hủy bởi chính điều 4 của nó. Toàn bộ bài viết chặt chẽ, chính xác của ông chỉ nhằm đi tới một kết luận, một đòi hỏi xóa bỏ điều 4 của DT. Đòi hỏi này phù hợp với tâm nguyện của nhiều nhân sĩ trí thức từ Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, GS Nguyễn Minh Thuyết, TS Nguyễn Thanh Giang cho đến cựu lãnh đạo Ban tổ chức TW Bùi Đức Lại…
Trước hiện thực nhiều đau buồn, nhức nhối của đất nước như sự nghèo khó cùng cực của người dân, những bất công và nỗi oan trái, sự tha hóa mạnh mẽ của Đảng…, những nguyện vọng trên đã nhìn thấy rất đúng rằng nó là hệ quả của việc áp đặt quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với nhà nước và xã hội. Nhưng từ đó tiếc rằng, các ý kiến đó lại đẩy tới một nguyên nhân cội nguồn sâu sa hơn từ trong điều 4HP.
Trong chiều suy tư và kinh nghiệm đầy máu lửa và nước mắt của nhân loại đã rút ra được một kết luận có tính nguyên lí: mọi lí thuyết xét theo nguồn gốc hình thành của nó, ít ra, nó đều phải là hình ảnh của hiện thực, của đời sống hiện thực.
HP là một lí thuyết, một nguyên lí được xây dựng trong hình thức là các qui định có tính chất pháp luật. Và vì vậy 1/Những phân tích dựa trên qui luật của tư duy logic rất đúng đắn, chính xác của ông TMH không phải đã là chân lí, là ý nghĩa trong sự tồn tại của nó. Và 2/Tính chân lí của một hệ thống lí thuyết không bao giờ được chứng minh chỉ từ những tiên đề của hệ thống ấy.
Vì thế cái ý muốn bác bỏ điều 4 DT(dự thảo) của ông để nhằm có được một bản HP logic và hoàn hảo là một sự phiến diện và vô nghĩa: Tính chân lí của HP sửa đổi phải là đích tìm kiếm và vận động của chính hiện thực lịch sử này, chứ không phải ở sự chặt chẽ có tính hình thức của tư duy chúng ta.
  Cùng trong chiều hướng bác bỏ điều 4HP được đặt trong hình thái của câu hỏi về lí do tồn tại của nó, ông Bùi Đức Lại đã đi xa hơn một bước khi ông không bị vướng vào định đề của logic hình thức của bản HP, mà là sự đặt thành vấn đề cơ sở cho sự tồn tại của nó bằng việc yêu cầu phải luật hóa được điều 4.
Ông đã rất đúng khi cho rằng sự lãnh đạo của Đảng sao cho không phải là sự áp đặt lên xã hội và nhân dân mà phải trên cơ sở tín nhiệm, ủy quyền của người dân được xác lập ngay từ trong thủ tục lập hiến. Có như thế thì theo ông, đảng sẽ nằm ngay trong HP, chịu sự qui định của nó…
Có một thực tế này tôi muốn nói với ông, trong cơ cấu tồn tại của mình, Đảng và nhà nước đã là hai thực tại. Và quyền lực của Đảng đã được đảng xác lập từ các Đại hội và các trung tâm như một quyền lực bóng tối. Người dân hoàn toàn đứng ngoài quá trình chính trị đó, họ chỉ như những kẻ xa lạ. Bởi vì, ngay từ đầu như một mặc định, họ chỉ được xem như một đối tượng được chăn dắt,chỉ dẫn, giáo dục và ban cho (xin nói thêm, đó cũng là lí do vì sao các cán bộ chỉ cần bằng cách nào đó được vào cấp ủy thì coi như đã chắc chắn 99% được cơ cấu vào trong bộ máy đảng, chính quyền hoặc đoàn thể, còn lá phiếu sau này của người dân như thế nào thì hoàn toàn không quan trọng, và do đó họ đã mắc phải bệnh khinh miệt,coi thường nhân dân như một gien di truyền vậy). Vậy thì làm sao có thể nói được là nhân dân ủy quyền cho đảng trong thủ tục lập hiến trong cái cấu trúc quyền lực còn nguyên vẹn sau hơn 50 năm ấy?
Vì quá mơ hồ như thế nên ông cho rằng phải luật hóa điều 4HP. Cách lí giải của ông mắc phải hai sai lầm nghiêm trọng, một là ông đã lấy luật làm cơ sở cho sự tồn tại của điều 4, và do đó cho HP-đó là điều chưa bao giờ thấy!
Thứ hai, ông đã không nhìn thấy trong sự hiện ra của mình, đảng đã như một tổ chức quyền lực: thể chế chính trị trong đó chúng ta đã và đang sống là đảng trị hiểu theo nghĩa của hình thái “quân chủ chuyên chế” đã biến dạng. Do đó, Đảng đã đứng trên, và ngoài HP và PL từ trong cơ cấu tồn tại của mình. Vậy làm sao nhân dân thông qua QH viết ra những điều qui định cho sự lãnh đạo của đảng được. Không có một đạo luật nào làm được điều đó ngoài những ý nghĩ điên rồ.
Thực tiễn chính trị của đất nước đang đặt ra những thử thách nghiêm trọng cho đảng và dân tộc chúng ta lúc này, rằng cần phải thiết kế những con đường, những dự án, những bước đi thích hợp cho một cuộc cách tân lớn hơn là những tranh cãi “kinh viện”cho những qui định của HP như một không gian riêng của lí tính thuần túy.
Nhân dân, sự chịu đựng như đang chạm đáy bởi sự nghèo khó, bất công, bị áp bức và khinh rẻ cùng nhiều giá trị của giáo dục, đạo đức bị đảo lộn.
Về phía Đảng là một quá trình tha hóa diễn ra ngày một mạnh mẽ như một sự kiện khách quan của lịch sử. Cái tha hóa được hiểu ở đây là một cuộc chuyển hóa, chuyển biến của Đảng thành cái khác mình trước đó. Công cuộc tha hóa này được đánh dấu về mặt lịch sử bắt đầu từ thời kì đổi mới: thực tiễn và pháp luật thừa nhận sở hữu tư nhân, chế độ sở hữu tư nhân như một tất yếu khách quan của sự tồn tại phát triển xã hội, và do đó quyền sở hữu tư nhân của mọi người dân là chính đáng. Cùng với điều đó là quyền sản xuất và kinh doanh của công dân là không hạn chế và được pháp luật bảo hộ. Những đảng viên của Đảng, với tính cách là công dân, sau này cũng đã được thừa nhận quyền tổ chức kinh doanh theo phương cách tư nhân tư bản chủ nghĩa. Có nghĩa là đảng viên cũng được suy nghĩ làm giàu cho bản thân mình, và hoàn toàn được tham gia vào quan hệ bóc lột khách quan giữa người và người diễn ra trong quá trình tổ chức lao động và sản xuất.
Đảng từ trong máu lửa là một Lí tưởng cứu đời, vì dân vì nước; và mỗi một đảng viên là một bộ phận, một thành tố, yếu tố cấu thành hệ thống lí tưởng đó-cái lí tưởng xóa bỏ chế độ tư hữu và mọi khác biệt về gia cấp, và vì thế mỗi một con người đảng viên là một vô thân, vô ngã . Phấn đấu hi sinh vì dân tộc, vì người khác, vị tha đã trở thành phẩm chất, thành đặc trưng riêng biệt của Đảng và của những đảng viên. Qúa trình biến đổi lịch sử nói trên, đối với mỗi đảng viên  cũng  đồng thời là quá trình chuyển hóa, tha hóa, nói theo ngôn ngữ triết học, là từ vô ngã, vô thân đến hữu ngã, có bản ngã. Lo toan, thu vén, quan tâm cho lợi ích của bản thân, của vợ con và những thú vui trần tục được thỏa mãn cùng diễn ra trong mối quan tâm, bận tâm tới hạnh phúc của người khác đã trở thành nhu cầu chính đáng của đảng viên, và được xã hội và pháp luật thừa nhận. Nhưng cái quá trình tha hóa khách quan này của Đảng cũng đã kéo theo nó một quá trình tha hóa kép hiểu theo nghĩa hẹp là một sự hư hỏng, suy đồi của phẩm chất một con người khi toàn bộ cấu trúc và vận hành của Đảng đã không có một sự thay đổi tương ứng nhằm đáp ứng quá trình tha hóa khách quan đó của mình. Thành ra sự biến đổi này từng ngày, từng giờ đã biến thành đe dọa sự tồn vong của Đảng. Đó là điều mà TBT đã cảm nhận thấy một cách rõ ràng và đau đớn, còn tân trưởng ban nội chính TW thì nhìn thấy sự lâm nguy đang đến rất gần.
Nhưng tiếc rằng, các vị lãnh đạo cao cấp của đảng đã không nhìn thấy được mặt khách quan, lịch sử của những diễn biến đó, của công cuộc tha hóa đó đang nằm ngay trong cơ chế, cơ cấu kinh tế- xã hội đã thay đổi theo hướng qui hồi bản ngã chân chính của mỗi con người, cùng với một thể chế quyền lực phi dân chủ, khép kín vẫn được giữ nguyên của đảng.
Vì chỉ nhìn thấy mặt chủ quan, chủ thể của quá trình tha hóa, nên TBT đã kiến tạo nên nqtw4 xem việc tự nêu gương, tự rèn luyện, tự nhận lỗi của quan chức là điều kiện tiên quyết ngăn chặn sự suy thoái của đảng…Nhưng tư tưởng về con đường của TBT đã thất bại. Cái còn lại chỉ là một lò lửa đang tắt dần cùng với một chiến lược củng cố vị thế và quyền lực trong cái cấu trúc đã cũ của đảng. Còn tân trưởng ban nội chính thì đưa ra quyết sách gì? Ông kêu gọi cần đến một sự “chiến đấu” để lấy lại lòng tin của nhân dân.
Chiến đấu để làm trong sạch Đảng-đó là một điều quí. Nhưng tôi e rằng với con đường này, có thể ông sẽ đẩy Đảng vào trạng thái tê liệt, hoặc khủng hoảng. Đó là điều mà TBT đã cảm nhận được khi ông nói về “ân oán, cừu thù…”.
Đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết của nhân dân về một xã hội công bằng, dân chủ, nhân ái và phát triển; đồng thời ngăn chặn có hiệu quả tình trạng đang lâm nguy của Đảng song song với nhu cầu ổn định đất nước, xã hội, tôi cho rằng giai đoạn hiện nay không có con đường nào khác bằng việc thay thế thể chế chuyên chế, phi dân chủ đã cũ và lạc hậu của Đảng bằng một thể chế dân trị: nhân dân toàn quyền lựa chọn những đảng viên ưu tú của Đảng vào nắm giữ 2 cơ quan lập pháp (với một tỉ lệ thích hợp từ 60%->65% số ghế trong QH) và hành pháp thông qua bầu cử QH và nguyên thủ QG được tổ chức bởi hội đồng bầu cử quốc gia (độc lập). Tuy rằng một dự án cho công cuộc chuyển đổi thành công đó không phải là mục đích của bài viết, nhưng tôi hiểu từ 2 cơ quan này, đặc biệt với cơ quan quyền lực hành pháp, Đảng sẽ thực hiện được vai trò lãnh đạo đất nước, lãnh đạo quốc gia của mình trong thể chế cộng hòa-dân chủ bởi một chế độ nhất đảng…
                                                                   
Ngày 28/1/013

      H.C.


Theo blog PVĐ, đầu đề của QC



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 27, 2013 20:47

Lỗ hổng pháp luật hết sức nguy hiểm!

Lê Nga- Thanh Tùng


Liệu có đưa được Lê Anh Hùng ra khỏi trại tâm thần hay không?

Liệu có đưa được Lê Anh Hùng ra khỏi trại tâm thần hay không?


NQL: Đọc bài này thì rõ, rất khó có thể đưa Lê Anh Hùng ra khỏi trại tâm thần, trừ khi bà mẹ anh Hùng nghĩ lại, bảo lãnh cho anh Hùng.


Trao đổi với Thanh Niên, Luật sư Nguyễn Văn Đức – Công ty Luật TNHH MTV Biển Đông, phân tích: “Hiện nay, ở VN cũng như các nước trên thế giới, một người vào BV tâm thần có thể thuộc một trong ba dạng sau: nhập viện tự nguyện; nhập viện theo yêu cầu của người khác (thường được gọi là người thứ ba, ngoài BN và pháp luật); nhập viện bắt buộc theo yêu cầu của cơ quan tố tụng. Trường hợp của ông T. nói trên, rơi vào dạng thứ hai.


Ở các nước Âu, Mỹ, pháp luật quy định rất chặt chẽ về trường hợp người nhập viện theo yêu cầu của người khác. Người yêu cầu người khác vào BV phải có quan hệ rõ ràng với BN, sẵn sàng chịu mọi trách nhiệm trước pháp luật nếu yêu cầu của họ bị phát hiện là có ý đồ xấu, phi y tế. Ngay cả BS được giao nhiệm vụ tiếp nhận BN cũng phải xác định có cần thiết nhập viện hay không theo quy định chuyên môn nghiệp vụ. Khi ký giấy cho họ nhập viện, BS phải chịu trách nhiệm liên đới về việc điều trị của mình.


Ở nước ta, tại điều 12, Luật Khám chữa bệnh có quy định về quyền được từ chối chữa bệnh và ra khỏi cơ sở khám bệnh chữa bệnh. Tuy nhiên, quy định này còn chung chung, chưa có hướng dẫn cụ thể. Cho nên, một khi xảy ra tranh chấp giữa người đưa BN vào viện với những người thân thích còn lại, cơ sở y tế bị mắc “kẹt”. Trường hợp người ký đưa vào không đồng ý cho ra thì người bị đưa vào BV không thể ra được, kể cả họ được xác định không bị bệnh tâm thần. Đây là một kẽ hở của pháp luật hết sức nguy hiểm, một số đối tượng xấu có thể lợi dụng điều này để đưa người vào BV tâm thần, với ý đồ tước đoạt quyền tự do, xâm phạm đến quyền nhân thân của họ. Ở ta đã từng xảy ra những trường hợp như vậy, và hậu quả pháp lý để lại cũng hết sức nặng nề, nên theo tôi, đã đến lúc cần xây dựng luật về sức khỏe tâm thần quy định cụ thể, chặt chẽ vấn đề này”.


Theo báo TN, rút từ bài Bị khống chế đưa vào bệnh viện tâm thần



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 27, 2013 20:04

Nguyễn Quang Lập's Blog

Nguyễn Quang Lập
Nguyễn Quang Lập isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Quang Lập's blog with rss.