Nguyễn Quang Lập's Blog, page 90

January 30, 2013

Mẹ Lê Anh Hùng viết đơn yêu cầu trả con.

le-anh-hungVề việc Lê Anh Hùng bị đưa vào Trung tâm bảo trợ xã hội II dư luận đã phản ảnh rất nhiều. Câu hỏi đặt ra là: Tại sao mẹ  Lê Anh Hùng lại tự ý viết đơn cho đứa con đang khỏe mạnh của mình vào trại tâm thần. Trong đơn, mẹ Lê Anh Hùng đã có câu trả lời rất rõ ràng, rằng bà chỉ muốn đưa con mình đi khám bệnh ( vì theo bà Lê Anh Hùng quá bênh vợ, không tin mẹ). Sau đó “một số người lạ mặt đến cơ quan Lê Anh Hùng đưa Lê Anh Hùng đi”, mấy ngày sau bà mới được chính quyền báo cho bà biết họ đã đưa Lê Anh Hùng vào Trung tâm bảo trợ xã hội II theo đề nghị của bà. Sự việc đã sáng rõ, dựa vào nguyện vọng đưa con đi khám của mẹ LAH họ đã đưa LAH đi thẳng vào trại tâm thần, một việc làm hết sức phi lý.  Dưới đây là lá đơn mẹ Lê Anh Hùng gửi chính quyền để nói lại cho rõ và yêu cầu chính quyền trả con cho bà ( dẫn theo DL- tại đây). Với cái đơn này, chính quyền không thể không trả Lê Anh Hùng về cho gia đình, bởi vì đó là việc làm trái pháp luật và vô nhân đạo.


250643_420079458070151_1492929898_n



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 30, 2013 00:42

January 29, 2013

Chúng nó ăn uống thế này đây, thưa Thủ tướng!…

Mai Thanh Hải


533595_184007265056334_1000127286_nTừ sáng đến tối, thấy các thể loại báo chí rầm rộ đăng tin bài phản ánh, ca ngợi việc Thủ tướng, sau khi đọc một số báo, trong đó nhất là báo Tuổi trẻ TP.HCM, đã chỉ đạo Bộ GD&ĐT chủ trì, phối hợp với các địa phương miền núi – biên giới phía Bắc kiểm tra, làm rõ và báo cáo việc học sinh thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu sách vở… em buồn nẫu.


Vẫn biết Thủ tướng “trăm công nghìn việc”, lãnh đạo các Bộ ngành – địa phương “trăm việc nghìn công”, các chuyên viên cấp dưới cũng “công công việc việc”, nhưng đến giờ mới vỡ ra và cấp tập chỉ đạo, thì buồn quá.


Những chuyện thế này, báo chí – cơ quan phản ánh, tuyên truyền chính sách, thực tế cuộc sống từ Trung ương xuống địa phương và ngược lại (đó là chưa kể tới các thể loại báo tỉnh, huyện ngốn hàng đống tiền Ngân sách nuôi cả bãi biên chế), có biết không, khi các nhà báo dịp nào cũng lũ lượt lên biên giới – miền núi?.


Biết chứ!. Cũng kêu… be bé đấy chứ, nhưng hình như không đúng thời điểm, nên chỉ có chị Thời sự VTV với phóng sự ăn thịt chuột ở Sơn La và anh Tuổi trẻ, dịp đi rải quà khắp các tỉnh, kêu váng lên, nhờ Giời mà Thủ tướng biết.


Thưa Thủ tướng, dặm dài miền núi – biên giới, chẳng phải chỉ riêng Tây Bắc, chúng em gặp mãi thành quen, nói mãi thành nhàm, với những cảnh này rồi ạ!.


Chả dám nói là những đứa học sinh lít nhít Nội trú, Bán trú ở đầy điểm bản, xã huyện không cơm, không áo, không dép mũ, không sách vở, không trường lớp (nói vậy, bị quy… “nói xấu chế độ” ngay), mà chỉ nói là thiếu, rất thiếu và cực thiếu.


Bây giờ, Thủ tướng và mọi người mới được nghe chuyện học sinh Sơn La bẫy chuột để “kiếm tý tươi”, chứ năm 2005, khi công tác tại Chiêm Hóa (Tuyên Quang), cánh nhà báo chúng em đã chứng kiến cảnh bọn trẻ bẫy chuột, nướng ăn với cơm vì không còn bất cứ thứ gì, ngoài muối trắng. May mà vẫn còn hình ảnh chụp lại, cho Thủ tướng xem…


Với bọn Bán trú. Chúng nó có cơm ăn đấy chứ (mà hết thảy chúng nó, đến mùa giáp hạt, hết gạo thì còn ngô xay), nhưng cơm ăn bữa trưa được mang đi từ sáng, với thức ăn là muối trắng kèm với hoặc măng ớt, hoặc măng luộc hoặc… ăn không.


Nhà nào “có điều kiện lắm”, cũng chỉ vài con cá khô kho mặn chát, to bằng đầu đũa là cùng.


Với bọn trẻ con Nội trú. Nấu 1 nồi cơm, ăn cả ngày, với bất cứ gì chúng có: Muối trắng, cá khô, dưa kho, măng ớt và thậm chí cơm trộn với… nước lã. Cuối tuần nghỉ học sớm về bản với gia đình, đầu tuần lễ mễ xách gạo – thức ăn, vác củi lủi thủi đến Trường học, tự nấu – tự “cân đối” số đồ ăn – chất đốt dùng cho cả tuần.


Đứa nào ăn khỏe, hết gạo sớm, đói là chuyện thường nhật, chả xa xôi…


Thủ tướng hỏi, các Bộ ngành – địa phương sẽ nói ngay “có chế độ Nhà nước”.


Nhưng xin thưa, mấy đồng còm cõi hỗ trợ thêm cho con trẻ, có khi hết năm học, trẻ con nghỉ hè ráo rồi, mới lững thững bò về đến xã và thành “khoản” chuyển cho bố mẹ chúng biến thành bia rượu – nhậu nhẹt và năm học sau, bọn trẻ lại mòn mỏi đến Trường với cơm không, muối trắng, nước suối, như chẳng hề có sự quan tâm.


Thủ tướng trách, nhưng đừng trách các thầy cô giáo cắm bản, ngày ngày xót xa nhìn bữa ăn của trẻ con.


Họ cũng còi cọc đồng lương, nơi rẻo cao mua cái gì cũng theo giá thị trường đắt đỏ, nuôi đến thân mình còn khó, nói gì tuổi thanh xuân chôn trong chốn đồng rừng, để mà chia sẻ hết cho học sinh, dẫu con cá khô – bát mì tôm, nhúm muối trắng, cũng san cho trẻ con vì niềm thương đồng loại.


Thôi thì Thủ tướng bận việc nhớn, lãnh đạo Bộ ngành – địa phương bận việc bé, các chuyên viên – cán bộ chuyên trách lo những việc tý xíu, bụng to khó trèo đèo vượt suối, lại tiết kiệm từng đồng công tác phí, nên để bọn lọ mọ chúng em, chuyển cho Thủ tướng vài tấm hình ghi được ở những nơi tụi em kêu goi – huy động đồng bào góp từng con cá, chai mắm, thùng mì tôm, lọ ruốc, bao gạo, manh áo, chiếc nồi… mang đến giúp bọn lít nhít vùng núi cao – biên giới ấy.


Vài tấm hình thôi, ở ngay Trạm Tấu, Mù Căng Chải (Yên Bái), Chiêm Hóa (Tuyên Quang), Bắc Mê – Đồng Văn (Hà Giang), Bát Xát (Lào Cai), Bảo Lạc (Cao Bằng), Điện Biên Đông (Điện Biên) mà chúng em đã làm cái việc, bây giờ mọi người hay gọi là “thiện nguyện”, để nói với Thủ tướng: “CHÚNG NÓ ĂN THẾ NÀY ĐÂY, THƯA THỦ TƯỚNG!”…

*****


TB: Nếu Thủ tướng quan tâm thật đến những hình ảnh này, xin tìm hiểu hoạt động của những nhóm thiện nguyện, bao lâu nay… “xã hội hóa” việc tiếp tế lương thực – thực phẩm – vật dụng – cơ sở vật chất giúp đỡ học sinh miền núi.



Và nhất là Thủ tướng chỉ đạo các địa phương giúp đỡ các hoạt động này, đừng chối từ – thoái thác, đòi hành chính hóa (làm thiện nguyện phải có công văn – dấu đỏ), như 1 Tỉnh ủy viên ở Hà Giang, với chúng em mới ngay đây…




Xin đội ơn Thủ tướng!..


———————————————————————————————————————————-






































Theo blog MTH

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 29, 2013 20:08

Chết dở tục quê

 603990_4708086101624_845338314_n  Mình không sành cà phê, ngon dở không thành vấn đề,  chỉ thích ngồi một mình không phải nói chuyện với ai, càng không gặp người quen càng tốt. Cho nên  chung cư mình cũng có quán cà phê  nhưng mình không thích ngồi ở đó, vẫn thường ra ngồi mấy quán vỉa hè, quán càng vắng càng thích. Sát ngay cổng phụ chung cư có cái quán cóc của hai mẹ con cái Thảo, một cái bạt rách bốn cái cọc tre là thành cái quán.


          Quán cái Thảo rất vắng khách, năm thì mười họa mới có khách vào, chủ yếu Thảo chạy đưa cà phê cho các bảo vệ mấy chung cư gần đấy, chả biết một ngày có bán được năm chục ly hay không. Rất ít khi thấy Thảo đứng bán cà phê nghiêm chỉnh, nó bỏ quán trống suốt ngày, ai vào quán ới một tiếng, nó ở túp lều bên kia tường dạ dạ to rồi lật đật chạy ra, pha cà phê xong lại lật đật chạy vào. Chẳng biết nó làm gì mà khi nào cũng thấy tất bật.


          Con gái Thảo đang học đại học, mặt cô bé hiền ngoan nhưng buồn, mấy tháng mình uống cà phê ở đấy chưa khi nào thấy nó cười tươi. Hỏi ra mới biết mẹ nó ôm nó trốn nhà chồng, trốn luôn cả bố nó từ Quảng Trị vô Nam từ khi nó vừa một tuổi, từ bấy đến nay đã gần hai chục năm rồi. Mình hỏi sao trốn, nó cười như khóc, nói cháu không biết. Thấy cái lều tạm hai mẹ con ở trông nhếch nhác quá, cũng một tấm bạt rách và bốn cái cọc tre, mình nói đất nhà cháu rộng thế sao không bán đi một nửa lấy tiền làm cái nhà. Nó thở hắt, nói đất đâu của nhà cháu hả ông, là mẹ cháu cắm lều tạm lên đó ở, chừng nào người ta đuổi lại chạy.


          Mình nói chuyện với cái Thảo mới biết nó vốn là giáo viên dạy cấp 1, nhà ở Thị xã Quảng Trị cũng không đến nỗi nghèo khó lắm. Kẹt nỗi lấy chồng  nông thôn, nó phải về sống ở nhà chồng. Kể từ đó nó khóc hết nước mắt vì tục quê ở nhà chồng, cực nhất là khi nó sinh con, nội chuyện kiêng khem cũng đủ làm nó chịu hết nỗi.  Mình hỏi sao đến nỗi thế. Nó cười buồn, nói kể ra dài dòng sợ mất thời giờ chú, nói thật lắm khi cháu muốn đập đầu vào tường chết quách cho xong.


          Mình nói ngày nay nhiều chị em sinh xong chẳng thấy kiêng khem gì, vừa sinh đã ra gió, ăn uống lung tung, tắm rửa cũng giống người thường. Như thế cũng chẳng hay. Nhất thời thì thấy tiện lợi, khỏe khoắn nhưng về lâu dài có thể đó là mối họa khôn lường. Người ta nói chị em ngày nay sinh nở vài lứa đã thấy già khú, mau hư người cũng duyên do không chịu giữ gìn các kì vượt cạn. Thảo nói vâng, cháu biết chứ. Sinh nở không thể không kiêng khem nhưng kiêng khem như nhà  chồng cháu thì thật đáng sợ.


 Thảo thở hắt ra, ngồi im hồi lâu rồi thủng thẳng kể.


Quê chồng cháu sinh nở không ra bệnh viện. Cháu sinh tại nhà, bố mẹ chồng thưng cái buồng nhỏ, kín mít, không còn một khe hở nào, y chang cái xà lim, thiếu sáng thiếu khí. Và nóng, nóng kinh khủng. Nắng Quảng Trị chú biết rồi, vào mùa hạ chẳng khác gì cái nồi rang. Cháu xin mở hé cái cửa sổ, không cho. Xin mắc cái quạt, không cho. Cháu khẩn khoản xin mẹ chồng, nói con có thể chịu được nhưng con bé nó sắp chín đây rồi mạ ơi. Mẹ chồng lườm cháu, nói máy ở thành thị, quen thói tiểu tư sản, mới nóng tí đã kêu.


 Lại thêm cái tục nằm than, xông muối. Suốt tháng ở cữ, dưới gầm giường luôn có nồi than to, quạt  lửa đỏ rực. Lửa than than bốc lên cháy sém cả chiếu vẫn bắt mẹ con cháu cứ  nằm cho trọn tháng. Cháu sợ con gái cháu chết cháy mất, cứ ngồi ôm nó suốt ngày đêm, không dám đặt xuống gường. Cả tháng cữ cháu chỉ ngủ ngồi, cứ gật gà gật gù như thế cả tháng trời, chưa khi nào được trọn giấc.


Đến đoạn xông muối thì cháu hết chịu nổi. Ngày nào cũng  một lần xông muối, hơi nước nóng cộng hơi muối bốc lên ngột ngạt vô cùng. Cháu ngồi trong chịu không nổi, vừa nhấc đầu lên mẹ chồng  đã vội vàng dúi đầu xuống. Một lần chịu không nổi cháu ngất luôn. Tưởng nhờ thế bố mẹ chồng tha cho cháu, nhưng không, bố chồng cháu ra lệnh, nói như rứa là con ni máu xấu, phải xông muối lâu gấp đôi gấp ba mới được.


 Nghe thế cháu  rùng mình, sợ quá nửa đêm ẵm con trốn về nhà mình, cứ băng đồng mà đi, đến sang mới tới đường quốc lộ, bắt xe ôm về Thị xã Quảng Trị. Về tới nhà thì chồng con đã đứng chờ ở cổng. Lại phải quay về nhà chồng. Sau bữa đó cháu ôm liệt giường gần một tháng.


Mình hỏi thế bố mẹ đẻ cháu không nói gì à? Thảo thở dài, nói bố mẹ đẻ cháu cũng lạc hậu lắm, một hai đuổi cháu về nhà chồng, nói xuất giá tòng phu không oong đơ chi hết. Mình hỏi thế thằng chồng thì thế nào. Thảo lắc đầu cười nhạt, nói chú đừng hỏi ông đó mà rầu lắm. Nhậu nhẹt tối ngày, về tới nhà lăn ra ngủ. Cháu có kể khổ thì ổng gạt đi, nói chà, có chừng đó đã kêu, thiên hạ đều làm vậy cả có ai chết đâu. Nước mắt Thảo chảy ròng ròng.


Mình không hỏi nữa nhưng Thảo cứ kể, nói tục quê sợ lắm chú ạ. Qua được tháng ở cữ lại đến đoạn con đau ốm mới chết dở với tục quê. Cháu vẫn biết dân gian có những bài thuốc chữa bệnh con nít rất hay. Ví dụ khi con đầy bụng, bắt một con gián, nướng hoặc rang rồi giã bột, hòa với dầu hỏa bôi rốn con, bụng trẻ xẹp liền. Hay con nít tưa miệng thì lấy lá cây hoa cúc đất rửa sạch giã lấy nước, lấy chút hàn the cho lên thìa cà phê nướng chảy hòa với nước hoa lá hoa cúc đất. Lấy cái lông gà đã tiệt trùng, chấm nước đó quét miệng con, vài ba lần sạch biến. Hay lắm. Nhưng quê chồng cháu quá nhiều bài chữa mẹo vô lý đùng đùng, lắm khi nguy hiểm chết người mà không biết. Cháu nói rã mồm chẳng ai chịu nghe, cực ơi là cực, để cháu kể chú nghe.


          Con gái cháu nổi mận ngứa, tây y thì bảo là dị ứng, dân ta thì gọi là mề đay, hay mận tịt. Cái này dễ chữa không, nhưng mẹ chồng cháu dứt khoát bắt cháu  lấy cái nón mê đặt chín miếng trầu đem ra để  ngã ba đường cúng ông Cầu bà Quán. Trong nhà con ngứa khóc, ngoài đường mẹ sì sụp cúng vái. Cháu là giáo viên cứ sì sụp khấn vái giữa ngã ba không ra làm sao,  nhưng không làm vậy thì chồng đấm bố mẹ chồng mắng, chú thấy có cực không?


          Một hôm cháu dạy về, thấy con bé đau bụng khóc ngặt nghẽo. Đoán ở nhà bà nội cho nó ăn gì bị rối loạn tiêu hóa, cháu ôm con đi trạm y tế xã, mẹ chồng cháu ngăn lại, nói khỏi phải đi đâu hết, tao vừa hỏi mấy người bên xóm, có cách chữa mẹo hay lắm. Cháu hỏi cách chi mạ, mẹ chồng cháu nói chỉ cần mượn người nhổ bão, nhổ cục tóc trên đầu mày là khỏi. Cháu cười, nói mạ đừng có nghe tào lao, có nhổ trọc đầu đầu con cũng chẳng khỏi đâu. Thằng chồng cháu uống rượu đâu về, liền cho cháu  bợp tai, nói cô hỗn láo với mạ tôi từ bao giờ thế. Rồi hắn đè cổ cháu xuống, gọi người hàng xóm nhổ tóc chỏm đầu cháu, nhổ trắng cả chỏm đầu con bé vẫn khóc ngặt nghẽo, khi đó mới cho cháu bồng con đi trạm y tế.


          Chuyện đó vẫn chưa hãi hùng  đâu chú ạ. Con bé cháu bị viêm phế quản, bú vào là trớ ra. Cháu bảo chồng đi mua thuốc kháng sinh, bố chồng cháu ngăn lại, nói con nít bị trớ sao lại uống thuốc kháng sinh, ngu. Để con nhỏ đó cho tau. Tưởng ông làm gì, té ra ông ra bến múc nước lòng đò cho con bé uống, nói thần dược đây, cả làng này đều trị tật trớ con nít như ri cả.


Cháu hãi quá, lạy lục phúc bái, nói ông ơi nước lòng đò trâu bò uống còn chết, ông không nghe người ta nói vậy sao. Bố chồng cháu không chịu, nói tau nuôi năm sáu đứa con, mày còn dạy khôn tau.


          Cháu ôm chặt lấy con dứt khoát không cho uống, bố chồng cháu giật con bé ra, cháu giật lại, nói không, các người tính giết con tôi à, ác lắm!. Thằng chồng cháu nhảy ra hét lên, nói a con này dám chửi cả cha tau. Nó đánh cháu một trận nhừ tử, cho đến khi con ngất đi nó mới thôi.


Tối đó cháu viết cái đơn ly dị để lại rồi ôm con bỏ đi. Lúc đầu vô Huế, sau vô Đà Nẵng, lần mò mãi vô tận Sài Gòn, gần hai mươi năm rồi chú.


Thảo ngước lên, khuôn mặt đầm nước mắt, nói hai mươi năm chưa một lần cháu dám về quê.  Thằng chồng cháu bắn tin, nếu mẹ con cháu về quê nó giết cả mẹ lẫn con. Chú ơi, năm ngoái nghe tin ba cháu mất cháu cũng không dám về … Thảo bỗng khóc òa nức nở.


NQL



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 29, 2013 18:30

Ông Đỗ Mười đẻ ra Lý Mỹ*

MINH DIỆN


200px-Do_Muoi_cropped Chiều 21-3-1978, Hội trường của trường đảng Nguyễn Ái Quốc II, Thủ Đức, như nghẹt thở. Mấy trăm cán bộ cơ quan trung ương và các tỉnh, thành phố phía Nam được triệu tập về đây từ hai, ba ngày trước. Ăn, ngủ ngay tại đây, nội bất xuất, ngoại bất nhập, công an giám sát chặt chẽ. Tôi là phóng viên báo Tiền Phong, Trung ương Đoàn trưng dụng làm “nhiệm vụ đặc biệt” cũng  nằm trong số đó.
 Nhiệm vụ đặc biệt gì không ai được biết. Qua vài thông tin rò rỉ, các “quân sư quạt mo” nhận định chuẩn bị đánh tư sản thương nghiệp, mật danh X-3,  dưới sự chỉ huy của “Bàn tay sắt” Đỗ Mười và giờ G đã điểm! Khi đó, ông Đỗ Mười là Phó Thủ tướng kiêm nhiệm Trưởng ban Cải tạo Công thương nghiệp Xã hội chủ nghĩa, phụ trách vấn đề cải tạo Công thương nghiệp XHCN tại miền Nam.
 
             Hôm đó, ông Đỗ Mười mặc chiếc quần Kaki màu cà phê đậm, chiếc áo Sơ mi ngắn tay cùng màu, chân đi dép. Ông có khổ người khệnh khạng, mặt chữ “nãi”, trán ngắn đầy nếp nhăn, miệng cá trê, bờm tóc dựng trông rất dữ. Tôi đã được nghe nói nhiều về tính bốc đồng, nóng nảy của ông Đỗ Mười, hôm  đó được giáp mặt, quả đúng vậy. 
              Đúng như mọi người dự đoán, chiến dịch X-5 đã bắt đầu.
             Ông  Đỗ Mười đọc Quyết định của Thủ tướng, đọc Chỉ thị 100 – CP, và triển khai kế hoạch cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam.  
Ông nói: “Từ sau giải phóng chúng ta đã thực hiện X-1, tập trung bọn ngụy quân, ngụy quyền học tập cải tạo. Đã thực hiện X-2 đánh bọn tư sản mại bản. Bây giờ chiến dịch X-3, quyết liệt nhất, nhằm tiêu diệt tận gốc rễ chủ nghĩa tư bản, tay sai  đế quốc Mỹ…
       “Đánh rắn phải đánh dập đầu, ta đã đánh dập đầu rồi, nhưng con rắn tư bản đánh dập đầu nó chưa chế, cái đuôi nó còn nguy hiểm hơn cái đầu. Không giần cho nát cái đuôi của nó, thì nó vẫn tác oai tác quái phá chúng ta. Vừa qua kẻ nào vơ vét mì chính (bột ngọt), vải vóc, đường, sữa đầu cơ trục lợi, rồi lại đổ tội cho nhà nước ta chuyển ra Bắc nên thị trường khan hiếm? Chính là bọn tư sản thương nghiệp! Kẻ nào tích trữ thóc gạo để dân ta đói? Chính là bọn đầu nậu lúa gạo. Tôi hỏi các đồng chí, kẻ nào cung cấp lương thực, thực phẩm cho tổ chức phản động trên Lâm Đồng chống phá cách mạng? Kẻ nào? Chính là bọn tư sản đấy! Bọn gian thương đầu cơ, phá hoại, bọn ngồi mát ăn bát vàng, rút rỉa máu xương đồng bào ta, ngăn cản con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa của đảng ta …”.
                Ông Đỗ Mười nói say sưa, hùng hồn, quyết liệt. Mép ông sủi bọt. Tay ông vung vẩy. Mồ hôi trán đầm đìa.
               Lúc đầu ông mặc quần áo nghiêm chỉnh, sau một hồi diễn thuyết khoa chân múa tay, ông bật nút áo sơ mi phanh ngực ra. Cuối cùng cởi phăng cái áo sơ mi ướt đẫm mồ hôi, trên người ông chỉ còn mỗi chiếc áo may ô ba lỗ.
                Ông vẫn hăng nói: “Cho nên chúng ta phải róc thịt chúng ra. Bắt chúng lao động sản xuất, tự làm lấy mà ăn. Phải biết cày ruộng, cấy lúa, trồng ngô. Đất hoang còn nhiều, bắt chúng  đổ mồ hôi sôi nước mắt  kiếm miếng ăn …”.
               Bầu không khí ngột ngạt và kích động muốn nổ tung  hội trường. Sức nóng từ Đỗ Mười truyền đến từng người. Tiếng vỗ tay rào rào, tiếng cười tiếng nói hả hê. Những gương mặt hừng hực khí thế “xung trận”.
               Xin đừng ở vị trí hôm nay phán xét những người trong cuộc ba mươi lăm năm trước, thời điểm đó tư duy của mọi người khác bây giờ, nhất là tư duy của những cán bộ đảng viên vốn tin tưởng tuyệt đối vào đường lối chính sách của đảng. Những người mà Đảng bảo sao cứ làm đúng phắc như vậy. Hãy bình tĩnh nhìn lại một cách trung thực, khách quan, để thấy một phần nỗi đau của mình, bạn bè mình, dân tộc mình, nỗi đau từ sự ấu trĩ, nóng vội, làm ào ào, đặt trái tim không đúng chỗ ngay từ  khởi đầu!
                Ông Đỗ Mười kết thúc buổi triển khai chiến dịch X-3, bằng một mấy cái chém tay như có ‘thượng phương bảo kiếm’: “Anh nào, chị nào nhụt ít chí thì lui ra một bên. Kẻ nào tỏ ra nhân nhượng với bọn tư sản là phản bội giai cấp, không phải Bôn – sê- vích, có tội với đảng với dân, sẽ bị trừng trị!”.
                Chúng tôi  ra về với một tâm trạng nặng nề, mag theo lời cảnh tỉnh “Tuyệt đối bí mật”.
               Nhưng hình như linh tính đã báo điềm chẳng lành cho thành phố Sài Gòn.  Đó là cảm giác của tôi khi chạy xe máy từ cầu Công Lý lên cảng Bạch Đằng vòng qua Chợ Lớn. Người dân đổ ra đường nhiều hơn, vội vã, tất tưởi, gương mặt thất thần,  nhiều tốp người tụm nhau bàn tán. Người ta nháo nhào đi mua từng cân muối ký gạo, như sắp chạy càn. Người dân thành phố vốn nhạy cảm và đó lại là cảm giác đúng: Thủ tướng nào thì chưa biết, nhưng trước hết phải lo thủ lấy miếng ăn!
             Bảy giờ sáng hôm sau, ngày 23-3-1978, tất cả các cửa hàng kinh doanh to nhỏ, đủ mọi ngành nghề, ngóc ngách, đóng cửa, án binh bất động theo lệnh của Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Một bản thông báo ngắn gọn do ông Vũ Đình Liệu thay mặt UBND thành phố ký được ban hành ngay sau  đó, xác nhận “Chiến dịch X-3”, bắt đầu ở thành phố mang tên Bác.
                Tất cả các cơ sở kinh doanh, buôn bán, nhà hàng, cửa hàng, kho tàng, trung tâm dịch vụ bị niêm phong. Danh sách đã được lên từ trước. Họ làm bí mật lâu rồi. Như một trận đánh giặc đã được trinh sát, điều nghiên tỉ mỉ, chính xác. Các tổ công tác ập vào từng điểm bất ngờ, nhanh chóng niêm phong  tài sản, khống chế mọi người trong gia đình nội bất xuất, ngoại bất nhập. Mỗi điểm niêm phong có tối thiểu một tổ ba người, không cùng cơ quan, không quen biết nhau. Họ là thanh niên xung phong, thanh niên công nhân các nhà máy, sinh viên các trường đại học, cả những thanh niên các phường được huy động vào chiến dịch.            
                Ngay buổi chiều hôm ấy một cuộc mít tinh tuần hành từ  Nhà văn hóa thanh niên do Thành đoàn tổ chức. Hàng ngàn học sinh, sinh viên rầm rộ xuống đường, diễu hành khắp các phố chính Sài gòn, Chợ Lớn, hoan nghênh chính sách cải tạo công thương nghiệp của đảng, đả đảo bọn gian thương. Suốt đêm Câu lạc bộ thanh niên vang lên bài ca “Tình nguyện”, “Dậy mà đi”. Khi chống Mỹ sinh viên học sinh hát những bài hát ấy, giờ cũng hát những bài hát ấy để tăng bầu nhiệt huyết  đánh tư sàn!
                  Ngày 26-3-1978, cô công nhân Nguyễn Thị Bé B.  ở nhà máy dệt Phong Phú được kết nạp đoàn vì từ chối nhận một món quà của một cơ sở kinh doanh mà cô canh giữ. Tiếp theo một trường hợp tương tự, anh thanh niên Vũ Ngọc Ch.  ở nhà máy dệt Thắng Lợi.
                Mấy ngày sau tiếng trống ở trường Trần Khai Nguyên quận 5, vang lên, như trống trận. Đó là nơi tập trung của 1.200 thanh niên học sinh người Hoa xuống đường ủng hộ chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, người  dẫn đầu là cô học sinh lớp 11, có gương mặt búp bê, mái tóc cắt ngằn: Lý Mỹ.
             Lý Mỹ là con gái một gia đình kinh doanh buôn bán, có một cửa hàng ở đường Cách mạngTháng Tám, quận 10. Khi X-3 nổ ra, Lý Mỹ mới 17 tuổi,  được tổ chức đoàn tuyên truyền giáo dục lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, được kết nạp đoàn khóa 26-3, được nghe đích thân ông  Đỗ Mười nói chuyện về chính sách cải tạo công thương nghiệp. Trái tim non trẻ của cô học sinh mười bảy tuổi như sôi sục bầu máu nóng đấu tranh giai cấp,  cô đã chọn đối tượng để đấu tranh, đó chính là cha mẹ mình.
               Lý Mỹ vận động thuyết phục cha mẹ kê khai tài sản, cha mẹ chần chừ, cô trực tiếp đứng ra kê khai. Cô theo dõi bố mẹ cất giấu vàng bạc, của cải, báo cho tổ kê khai moi móc ra bằng hết. Lý Mỹ phát biểu trên báo: “Tinh thần Pavel Corsaghin sáng chói trong trái tim tôi! Tôi không cần vàng bạc, của cải, cha mẹ tôi bóc lột của nhân dân. Từ hôm nay tôi  từ bỏ giai cấp bóc lột, bước sang cuộc sống mới, hòa vào dòng người lao động vinh quang  xây dựng xã hội chủ nghĩa” (Báo Tiền Phong số 40 ,1978).
               Khi cha mẹ vật vã than khóc, và dọa ra nước ngoài,  Lý Mỹ tuyên bố nếu cha mẹ xuất cảnh, cô sẽ ở lại một mình, chấp nhận  cuộc sống cô đơn để cống hiến cho lý tưởng cộng sản !
                Không phải chỉ có một Lý Mỹ, mà hàng trăm “Lý Mỹ” như vậy. Những “Lý Mỹ” được sinh ra nóng hổi dưới lá cờ  Đoàn thanh niên cộng sản Hổ Chí Minh.
               Khi cải cách ruộng đất ở miền Bắc tôi là đứa trẻ sáu tuổi đi xem đấu tố như xem hội hè, khi cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam, tôi ba mươi tuổi, là người trong cuộc. Trước con mắt tôi, cuộc cách mạng sau chỉ khác cuộc cách mạnh trước là  không bắn giết,  còn  giống hệt  nhau. Cũng con tố cha mẹ, vợ tố chồng, bạn bẻ tố nhau. Những cán bộ từng hoạt động bí mật trong  chiến tranh, được những gia đình  buôn bán , giàu có bao bọc, giờ quay ngoắt lại tịch thu tài sàn ân nhân của mình.  Những tính từ bọn, đồng bọn, “tên tư sản”, “con buôn” thay danh từ  ông, bà, anh, chị. Gần ba chục năm trước, người bị quy là địa chủ, phú nông xấu xa thế nào, thì 1978,  người bị gọi là  tư sản, con buôn  xấu xa  như vậy. Người ta  đã phủ nhận một tầng lớp tiên tiến của xã hội, nhục mạ tầng lớp đó, đào hố ngăn cách giữa các tầng lớp nhân dân, và kéo lùi sự phát triển của đất nước, đó là một sự thật lịch sử cần ghi nhận.
              Chiến dịch X-3 thành phố Hồ Chí Minh, đã đánh gục  28.787 nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, hộ buôn bán.
              Ông Nguyễn Văn Linh nói: “ Khi tôi làm Trưởng ban cải tạo trung ương,  tìm hiểu và dự kiến Sài Gòn, Chợ Lớn có khoảng 6.000 hộ kinh doanh buôn bán lớn. Khi anh Đỗ Mười thay tôi, anh ấy áp dụng theo quy chuẩn cuộc cải tạo tư sản Hà Nội từ năm 1955, nên con số mới phồng to lên như vậy” (Nguyễn Văn Linh, Những trăn trở trước đổi mới).
              Ông  Đỗ Mười  đưa  hàng ngàn hộ tiểu thương, trung lưu  vào diện cài tạo, gộp luôn những hộ sản xuất vào đối tượng đó.
              Ông Nguyễn Văn Linh nói: “Anh Mười không trao đổi với chúng tôi. Anh ấy có ‘thượng phương bảo kiếm’ trong tay, toàn quyền quyết định”  (Nguyễn Văn Linh  trăn trở cuộc đổi mới).
               Ông Đỗ Mười thay ông Nguyễn Văn Linh làm Trưởng ban cải tạo ngày 16-2-1978. Trong chiến dịch X-3, Đỗ Mười không sử dụng  người cùa Nguyễn Văn Linh, mà đưa hầu hết cán bộ từ miến Bắc vào nắm giữ những vị trí quan trọng. Đồng thời ông bố trí  cán bộ  các ngành thương nghiệp, giao thông vận tải, công nghiệp nhẹ, kho hàng vào tiếp quản. Ông đóng đại bản doanh ở Thủ Đức, trực tiếp chỉ đạo, không tham khảo bất cứ ý kiến  ai trong cơ quan lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh.  
               Kết quả X-3, với “công lao to lớn” của Đỗ Mười, thu được khoảng hơn 4.000 kg vàng, gần 1.200.000 đô la, và một khối lượng hàng hóa không thống kê hết. Từ chiếc xe hơi, TiVi, tủ lạnh, đến bịch bột giặt, quả trứng gà đều khê khai và tịch thu chất trong các kho, để rồi  không cánh mà bay, hoặc biến thảnh phế thải.
               X-3, cú đòn trời giáng cuối cùng, biến “Hòn ngọc Viễn Đông” thành “Thành phố chết”, đẩy thêm dòng người bỏ đất nước ra đi bất chấp hiểm nguy, bao nhiêu số phận  đã rã rời trên biển sâu. Năm 2005, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt nhìn nhận: “Trong các chiến dịch cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công với cách mạng đã không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế”.
 

                Có lần chúng tôi hỏi nhà báo Trần Bạch Đằng: “Hình như trong  63 năm tham gia cách mạng và làm lãnh đạo, ông Đỗ Mười không đề lại một tác phẩm nào?”.  Ông Trần Bạch Đằng chớp mắt nhếch cái miệng méo xẹo:  “Cha ấy để lại cho đời  tác phẩm cải tạo công thương nghiệp !” .
                Ông Đỗ Mười sinh ngày 2-2-1917 tại Thanh Trì, Hà Nội. Ông làm rất nhiều chức vụ quan trọng, từng làm Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam 1991-1997.
               Tôi không muốn viết chân dung ông bởi chẳng có gỉ đáng viết, chỉ ghi lại vài dòng những người đồng chí của ông, nhận xét về ông.  
               Ông Đoàn Duy Thành, nguyên Phó Thủ tướng chính phủ kề: “Một lần anh Mười xuống Hải Phòng, tôi và anh Nguyễn Dần  dẫn anh ấy đi thăm nhà máy đóng tàu. Đi ngang Quán Toan thấy cái nhà hai tầng, anh Mười hỏi: “Nhà ai đây?”  tôi trả lời: “Dạ nhà anh Bút lái xe”, anh Mười nói: “Nếu tôi mà là bí thư , chủ tịch thành phố tôi sẽ tịch thu ngay cái nhà này làm nhà mẫu giáo!” .
                Ông Đỗ Mười là người đố kỵ với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, không biết vì ghen ghét tài năng hay nguyên nhân gì. Ông Đoàn Duy Thành kể: “Chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, anh Mười gọi tôi tới, nêu vấn đề anh Văn năm 16 tuổi được thực dân Pháp cho sang Pháp học 6 tháng. Rồi anh Mười bảo, về nói cho  đoàn đại biểu Hải Phòng biết, và những ai quen biết ở các đoàn khác cũng nói cho các đồng chí ấy biết. Tôi hỏi anh Trường Chinh, anh Trường Chinh bảo: “Võ Nguyên Giáp năm 1941-1942, kể cả việc làm con nuôi Martin trùm mật thám Đông Dương là chuyện bịa hết!”  (Làm người là khó).
                  Ông Nguyễn Văn Linh trong một lần hội nghị ở T78 đã nói thẳng với ông Đỗ Mười: “Anh Mười tưởng rằng làm Uỷ viên Bộ chính trị là to lắm, muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, muốn phê bình ai cũng được… Anh Mười đứng dậy nói: “Tôi nói đó là tinh thần Bôn-sê-vich” (Làm người là khó).
                  Ông Đoàn Duy Thành kể tiếp: “Có lần tôi hỏi anh Tô (Phạm Văn Đồng): “Còn Đỗ Mười thì sao?”.  Anh Tô suy nghĩ hai ba phút rồi nói:  “Chỉ có phá !”.
              Nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói rất đúng với trường hợp cải tạo công thương nghiệp.
               Năm nay ông Đỗ Mười hơn chín chục tuổi rồi. Nghe nói ông vẫn phải nuôi con mọn. Tôi không biết có đúng không, và nếu đúng, tương lai nó sẽ ra sao? Cầu trời, nó đừng như những “đứa con” sinh ra từ cuộc cải tạo công thương nghiệp 1978 như Lý Mỹ!
M.D
Theo blog BVB
………….
*Lý Mỹ là một nhân vật trong cuốn Bên thắng cuộc, nữ thanh niên “bôn sệt”, sản phẩm của lối tuyên truyền nhồi sọ.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 29, 2013 16:24

” Bên thắng cuộc” viết cho ai? Ai đọc ” Bên thắng cuộc”?

Gò Cỏ May


23759_4184221720949_371302794_n


Phải nói sau khi đọc xong cuốn 2 của “Bên thắng cuộc”, có tựa đề “Quyền bính”, tôi như vừa tận hưởng “bữa tiệc” thông tin rất ấn tượng. Mà từ trước tới nay chưa được tham dự bao giờ.


Có một số ý kiến cho rằng, tác giả Huy Đức chỉ bày biện các sự kiện theo kết cấu có chủ ý một cách thật tự nhiên mà không bình luận gì nhiều… nên tác phẩm thiếu đi tính “hàn lâm”. Nhưng theo tôi, ở 2 cuốn sách này, Huy Đức đã đạt tới một thủ pháp rất cao trong cách thể hiện của một nhà báo có tầm nhìn theo phương pháp làm báo hiện đại. Đó là sự tôn trọng độc giả, tránh sự áp đặt chủ kiến của tác giả lên hiện thực khách quan của lịch sử. Khiến độc giả thay vì thụ động tiếp nhận thông tin, lại có thể chủ động tham gia vào từng sự kiện. Để tiếp nhận nó một cách chủ động, tùy theo trình độ, khả năng và cảm thụ riêng biệt của mỗi người.


Lại có ý kiến nhận xét, tác giả Huy Đức giành nhiều thiện cảm với các ông Võ Văn Kiệt và các cộng sự đắc lực của ông. Song nếu tinh ý, ta sẽ thấy, tác giả không hề né tránh khi đề cập tới trách nhiệm của ông Võ Văn Kiệt trong việc ký 2 nghị định gây nhiều hệ luỵ về mở rộng hoạt động của Tổng cục II (96/CP) và nghị định quản chế tại gia những người bất đồng chính kiến (31/CP).


Cố TT Võ Văn Kiệt trên công trường xây dựng trạm biến thế 500kv Pleiku ngày 3-11-1993 - Ảnh: Nguyễn công thành


Nhược điểm nữa rất cơ bản ở ông Kiệt là không những chỉ mải lo về chính sách phát triển kinh tế mà xem nhẹ công tác nhân sự (để cho Trần Đình Hoan tác oai tác quái). Với cương vị thủ tướng ông đã buông lơi cả về quốc phòng, an ninh và ngoại giao cho Lê Đức Anh thoả sức tung hoành. Rồi cả những lem nhem trong chuyện “quan hệ bất chính” (quan hệ ngoài hôn nhân) của Võ Văn Kiệt với bà Hồ Thị Minh (người dự kiến sẽ “giúp việc” cho cụ Hồ) ở chiến khu Việt Bắc. Người con ngoài giá thú Phan Thành Nam (với bà Minh) cũng được Huy Đức đưa vào tác phẩm khá chi tiết, khi mà tất cả các tài liệu chính thống đều né tránh.


Một người nữa, được cho là Huy Đức ưu ái, đó là vị Đại tướng Tổng tư lệnh – Bí thư Quân uỷ (một thời) – Võ Nguyên Giáp. Song cứ đọc những dòng sau đây, ta sẽ thấy tác giả đã rất khách quan đối với nhân vật lịch sử này:


Hình minh hoạ tướng Giáp trên bìa tạp chí Time, ngày 15/5/1972


“Mưu lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ, năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, tướng Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, tướng Giáp trở nên cam  chịu và thụ động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi thanh gươm trận của ông.”


Không chỉ có Điện Biên Phủ, trong cuộc chiến ở miền Nam trước 30.04.1975, cho dù cả 2 ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ o ép tướng Giáp một cách quyết liệt bằng việc cho bắt tất cả những cộng sự thân tín của ông Giáp trong cái gọi là “Vụ án xét lại chống đảng”. Nhưng vai trò của tướng Giáp trên cương vị Bộ trưởng Quốc phòng và Bí thư Tổng Quân uỷ TW trong Tổng hành dinh chỉ đạo bộ máy chiến tranh của Hà Nội là không ai có thể thay thế được. Vậy mà uy tín và sinh mạng của tướng Giáp dưới cái nhìn của TBT Lê Duẩn và Trưởng Ban Tổ chức TW Lê Đức Thọ thật rẻ rúng:


Theo Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể ông Lê Duẩn, một hôm ông Giáp gọi điện thoại kêu ông Đại tới nhà, ông Đại nói: “Ông Giáp hẹn tôi 13 giờ, nhưng 15 giờ tôi mới đến. Gặp, ông bảo là đã chờ tôi lâu lắm rồi. Ông khoác vai tôi rồi nói: Đại đưa hộ thư này trực tiếp tới anh Ba giúp nhé. Té ra chiều hôm đó có cuộc họp bàn về vấn đề của tướng Giáp. Tối tôi đưa thư cho ba tôi, ông nói: tào lao”. Ông Hồ Ngọc Đại kể tiếp: “Có lần, tôi sang nhà số 2 Nguyễn Cảnh Chân chúc Tết Lê Đức Thọ. Tới nơi, tôi thấy ông Giáp cũng vừa đến. Từ trong nhà ra, ông Thọ đi qua trước mặt mà không thèm chào ông Giáp một câu, bước đến ôm lấy tôi. Có lần ông Thọ nói ông còn để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm”.


(trích chương 15: tướng Giáp – Cuốn 2: Quyền bính)


Cho nên trong thời điểm tướng Giáp được giao nhiệm vụ phụ trách UB Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình, ngoài dân gian đã lưu truyền vế câu đối: “Ba mươi năm chiến tranh tướng Võ không còn Nguyên mảnh Giáp” là vậy! Bởi, khi “thanh gươm trận” sắc bén của ông đã không thể bảo vệ được các chiến hữu và cả bản thân mình, hào quang của vị “Anh Cả Quân Đội” thật sự chỉ như thứ “nắng quái chiều hôm” trong mắt những kẻ nắm “Quyền bính” thật sự. Nếu tướng Giáp không “hèn” trước song Lê (Lê Duẩn, Lê Đức Thọ), chắc chắn số phận của ông sẽ đoản mệnh như hai vị tướng lừng danh nơi trận mạc (Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn) chí cốt của ông (?)


Đóng góp rất đáng ghi nhận của Bên thắng cuộc (BTC) là đã trả lại một phần quan trọng sự thật của lịch sử hiện đại của Việt Nam (nhất là sau 30.04.1975) như vốn dĩ nó có. Chứ không phải bằng sự thêu dệt nhằm mục đích tuyên truyền của bất kỳ phe nhóm nào. Bởi vậy, sau khi đọc xong BTC, ta càng thấy không lạ những cây viết qúa gượng gạo (theo đơn đặt hàng) khi cho rằng tác phẩm của Huy Đức là “thiên kiến”; “thiên lệch”; “bóp méo”; “nhìn lịch sử qua lỗ đồng xu”; là “chém gió”. Có ý kiến của quan chức còn lấp lửng răn đe “sẽ xem xét BTC dưới góc độ của Nghị định 97/CP”.


Đối với những người chưa hề (chưa thèm) đọc tác phẩm mà đã hô hào và tích cực chống cuốn sách, thật chả đáng để chúng ta bận tâm nhiều.


Có vài chi tiết vụn vặt ở phía các tướng lãnh của VNCH như tướng Lê Văn Hưng (chuẩn tướng  – Phó tư lệnh Quân Đoàn IV) dùng súng bắn vào ngực (tim) hay bắn vào đầu? hiện vẫn chưa chính xác. Đặc biệt cách dùng từ “tuẫn tiết” (như Huy Đức dùng) hay “tự tử” (vì sợ bị trừng trị của một số ý kiến phò bên thắng cuộc) cũng có gây tranh cãi. Mặc dù vậy, những cái chết can đảm, trọng danh dự của các tướng VNCH (dù bằng sung hay bằng thuốc độc) trong và sau thời điểm 30.4.1975 như tướng Nguyễn Khoa Nam; Lê Văn Hưng; Trần Văn Hai; Phạm Văn Phú; Lê Nguyên Vỹ… cũng đáng để cho những ai yêu hoà bình, hoà hợp và hoà giải dân tộc suy ngẫm. Bởi không chỉ sự thật mà cả tình thương yêu giống nòi mới có thể là phương thuốc qúi nhằm “chữa lành các vết thương cũ”. Chứ hận thù và cố chấp sẽ chả bao giờ lấp được cái “hố ngăn cách” vốn đã qúa sâu giữa những cựu thù.


130128150319_le_duan_464x261_leduan_nocreditNgoài thái độ ngạo mạn của cặp bài trùng Lê Duẩn – Lê Đức Thọ, bỏ ngoài tai lời khuyên can hợp lý của tướng Giáp trong đợt Mậu Thân 1968, dẫn tới sự tổn thất nặng nề cả quân và dân trên toàn miền Nam. Nhờ phần phụ lục của cuốn 2 (Quyền bính) của BTC mà ta mới thấy rõ hơn chân tướng nhà độc tài hiếu chiến Lê Đức Thọ đã cư xử vô lối tới mức nào với trận chiến khốc liệt ở Quảng Trị: “Theo tướng Lê Phi Long, trong thời gian diễn ra Chiến dịch Quảng Trị: “Ông Lê Đức Thọ không hiểu bằng con đường nào, thường xuyên điện thẳng cho các sư đoàn không qua điện đài của Bộ Tổng Tham mưu, vừa để nắm tình hình vừa tự ý đôn đốc đánh. Kỳ quặc! Chúng tôi, cơ quan tham mưu, không đồng tình với cách làm này nhưng không biết than thở với ai, hình như anh Văn cũng cảm nhận được điều đó…”. Chính sự chớ trêu này mà: “Thành cổ Quảng Trị thất thủ khi quân miền Bắc đã gần như hoàn toàn kiệt sức. Theo tướng Lê Phi Long: “Lực lượng chiếm giữ Thành Cổ khi đó nói là có mấy tiểu đoàn nhưng trên thực tế chỉ còn phiên hiệu, mỗi tiểu đoàn chỉ còn ba bốn chục người. Việc bổ sung quân số tiếp tế qua sông hết sức khó khăn. Nhiều sinh viên đã phải rời giảng đường để nhập ngũ. Nhiều tân binh chưa gặp mặt người chỉ huy đã ngã xuống. Nhiều cán bộ chỉ huy ngày đêm vất vả, râu tóc mọc kín mặt mà không có thời gian cắt cạo. Trong hầm phẫu ở ngay dinh Tỉnh Trưởng cũ thường xuyên có trên dưới 200 thương binh, sặc mùi hôi thối. Các lực lượng trong Thành Cổ thì chiến đấu một cách tuyệt vọng, còn các đơn vị ở các hướng khác, tuy có cố gắng đánh vào cạnh sườn để hỗ trợ cho lực lượng ở trong Thành nhưng cũng không tạo được hiệu quả. Chiến dịch Quảng Trị kéo dài, thương vong rất lớn, có thể nói là lớn nhất so với tất cả các chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến. Mỗi lần nghĩ lại tôi rất đau lòng. Ta đã tung hết lực lượng, đã kiệt quệ. Có lúc tôi đã phải điều học viên trường Lục Quân về gần thủ đô lập một lữ đoàn để bảo vệ Trung ương, vì hết cả quân”.


imagesVậy mà những màn vừa diễn ra về cái gọi là “kỷ niệm 40 năm ngày ký kết Hiệp định Paris thắng lợi” của hệ thống tuyên truyền lề đảng ầm ĩ suốt cả tuần qua vẫn cho rằng Lê Đức Thọ là nhà chính trị, nhà ngoại giao và nhà quân sự bậc kỳ tài. Trong khi bất chấp lời khuyên của Tổng hành dinh (của tướng Giáp), cùng với Lê Duẩn nhắm mắt ném quân vào “cối xay thịt” – Thành cổ Quảng trị nghiền nát 1 đại đội/ngày (81 ngày=81 đại đội) mà kết quả của hòa đàm cũng chỉ là những điều khoản do phía Mỹ đưa ra từ thời gian trước đó. Để minh định cho sự thật này, tác giả Pierre Asselin từ Hononulu gửi cho BBC ngày hôm qua (28.01) đã chỉ ra rằng:


Chiến thắng của Hà Nội là một chiến thắng trả bằng cái giá đắt, không phải là một chiến thắng vẹn toàn mà những lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đặc biệt là Lê Duẩn, đã mường tượng khi cuộc chiến bắt đầu.”


Ở một đoạn khác Asselin phân tích:


“Hà Nội đánh giá thấp quyết tâm bảo vệ lợi ích của Tòa Bạch Ốc ở Việt Nam. Đợt đánh bom Giáng sinh ở Hà Nội và Hải Phòng gây chấn động tâm lý‎ cho Hà Nội, chưa kể thiệt hại vật chất. Vài ngày sau khi Hà Nội cam kết trở lại bàn thương lượng và Nixon tạm dừng đánh bom, hội đàm mở lại ở Paris.


Sự thực tế của Hà Nội, việc họ muốn kết thúc đàm phán, chấm dứt chạm súng, thể hiện rõ qua sự sẵn lòng có những nhượng bộ mới, nhất là ngôn ngữ về tình trạng khu phi quân sự sau khi ngừng bắn. Nếu Hà Nội đã có những nhượng bộ này ngay từ đầu tháng 12, cuộc đánh bom Giáng sinh đã tránh được.”


()


Có một điều thú vị nữa mà những ai chưa được đọc “Hoa xuyên tuyết” của tác giả Bùi Tín thì chưa hiểu được sự trắc ẩn trong con người cố TBT Nguyễn Văn Linh. Một người mà có thời được cho là linh hồn của công cuộc “đổi mới” và “cởi trói” sinh hoạt văn nghệ ở Việt Nam từ Đại hội VI (1986). Sau khi đọc xong cuốn 2 (Quyền bính), với những giữ kiện khá đầy đủ, ta mới thấy đây chính là con người ít học, bảo thủ, định kiến và thù vặt nhỏ nhen với tầm nhìn vô cùng thiển cận. Cho dù đời tư khá thanh bạch chính liêm. Nguyễn Văn Linh và những nhân vật bảo thủ giáo điều như Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng… đã bóp chết tư tưởng dân chủ đa nguyên xuất hiện ở xứ ta hồi cuối thập niên 80s ngay từ trong trứng nước.


Vợ chồng cố TBT Nguyễn Văn linh - Hồ Thị Huệ thời trẻ.


Công cuộc “đổi mới” với những bài báo ký tên NVL dưới thời ông Linh trị vì thực chất chỉ nhằm nâng cao vị thế của Tổng bí thư (vốn “cách nhau chỉ bằng sợi tóc” như chính lời ông Linh nói lúc nhậm chức). Để rồi sau đó quay lại hoàn toàn với giáo điều “ý thức hệ” một cách tai hại và phải chui vào vòng ảnh hưởng của Bắc Kinh mà cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gọi là “Giai đoạn Bắc thuộc lần thứ 5 bắt đầu”. Đó là về chính trị. Còn lĩnh vực kinh tế, với tư duy giáo điều về con đường đi lên CNXH, thành phần kinh tế nhà nước vẫn cứ nắm vai trò “chủ đạo” cho dù làm ăn thua lỗ, thất thoát do không tự bơi được trong cơ chế thị trường tự do. Luôn cần “phao bơi” chả khác thời bao cấp. Cái gọi là “đổi mới” thực ra chỉ là giải pháp tình thế khi bầu sữa “viện trợ của Liên Xô” không còn. Nhiều nơi trong nước thiếu đói tới mức có người đàn ông phải cắt bắp chân của mình để nấu cháo cứu đói cho các con. Những cảnh rùng rợn như trong “Cái đêm hôm ấy đêm gì” (Phùng Gia Lộc), chỉ khi được phanh phui, người dân mới được đảng và nhà nước “đổi mới tư duy” cho bung ra làm ăn tự do để khỏi chết đói.


Khi có chút của ăn của để nhờ mở ra đa thành phần về kinh tế mang lại thì giới bảo thủ lại sợ “chệch hướng”, lại thít. Nhất là việc đưa vào Bản sửa đổi Hiến pháp 1992 điều 4 (giống điều 6 của thây ma hiến pháp Liên bang Xô Viết) về sự lãnh đạo độc tôn của ĐCS. Đặc biệt vẫn qui định đất đai thuộc “Sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý”. Như thế cái gọi là “đổi mới” theo “cơ chế thị trường định hướng XHCN” thực ra chỉ là trò bịp để cho những kẻ nắm quyền bính đè đầu cưỡi cổ hòng “ăn trên ngồi trốc” và “vinh thân phì gia” trên xương máu và mồ hôi nước mắt của muôn dân.


Như một qui luật tất yếu “cùng tắc biến”, những bế tắc về kinh tế hiện nay, biết đâu lại là cơ may cho sự thay đổi toàn diện cả kinh tế lẫn chính trị. Đồng hành với những đóng góp rất trách nhiệm của hàng ngàn trí thức và nhân sỹ tiến bộ vào Bản dự thảo hiển pháp sửa đổi đang trong giai đoạn lấy ý kiến đóng góp của toàn dân, cuốn sách BTC của Huy Đức do tác giả tự phát hành vào dịp này thật rất kịp thời. Nó không chỉ dừng lại ở việc công bố sự thật để giúp chúng ta tìm ra phương thuốc đúng để chữa lành các vết thương cũ mà còn giúp những người đang nắm vận mệnh quốc gia không phạm các sai lầm mới” như tác giả bộc bạch ở chương cuối (chương 22 – Cuốn 2: Quyền bính) với đoạn kết sau đây:


Nhớ khi “cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”, Việt Nam nhanh chóng trở thành một quốc gia kiệt quệ, dân chúng lầm than, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi. Nhớ khi trả lại ruộng đất và một số quyền căn bản cho dân thì đất nước hồi sinh, đời sống người dân bắt đầu cải thiện. Bản chất của đổi mới là từ chỗ Đảng và Nhà nước cấm đoán, tập trung tất mọi quyền hành, đến chỗ để cho dân quyền được tự lo lấy cơm ăn, áo mặc. 


images770206_16Ngay sau khi tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”(629). Không thể phủ nhận tầm nhìn của Hồ Chí Minh. Khi ông đưa ra tuyên bố này loài người chưa có Internet, thế giới chưa có toàn cầu hoá, độc lập dân tộc đối với người dân ở nhiều quốc gia vẫn được coi là vô cùng thiêng liêng. 


Giá như không phải là ý thức hệ mà tự do và hạnh phúc của nhân dân mới là nền tảng hình thành chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, thì người dân đã tránh được chuyên chính vô sản, tránh được cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, tránh được Nhân văn – Giai phẩm, tránh được biết bao binh đao xung đột trong nội bộ dân tộc, gia đình.”


Thiết nghĩ, đó là tất cả tâm lành của một nhà báo dấn thân, không còn muốn “trú ngụ trong sự sợ hãi” luôn trăn trở và lao động miệt mài hàng chục năm dòng mới có được. Vậy “công trình khảo cứu lịch sử đặc sắc này với lương tâm trong sáng và tay nghề lão luyện của một nhà báo chuyên nghiệp có trách nhiệm trước vận mệnh của đất nước…” (như ý kiến của giáo sư Chu Hảo – NXB Tri thức, Hà Nội) đã viết cho ai? Và ai cần đọc Bên thắng cuộc nhất?


Xin nhường lại cho người có trách nhiệm cao nhất của chế độ, ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các ông trong Ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (nếu qúi vị thật lòng muốn dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh… ) trả nhời giùm!


Theo blog GCM



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 29, 2013 15:27

Ở đồn Mang Cá thích hơn ở nhà

Mai Xuân Dũng
385188_308854935884121_101482021_nNQL : Đọc bài này thấy buồn nẫu ruột, sao ra nông nỗi này hở trời!
Đã lâu lắm chợt hôm nay trên cánh đồng Dương Nội lại nghe nông dân “nhại thơ” Tố Hữu: “Ở đồn Mang Cá thích hơn ở nhà” (?)
Dương nội có đồn Mang Cá sao?
Thật hóm khi nhắc đến đồn Mang Cá để chỉ mấy cái lều giữ đất, giữ mồ mả. Người nghe tận tai nhìn tận mắt thì khó mà cười nổi. Chiến tranh dẫu chưa phai mờ trong ký ức hàng triệu người, Đất nước dẫu đã im tiếng súng, im tiếng gào rú của bom đạn thì hà cớ gì lại có cái “đồn Mang Cá” ở giữa vùng đất bờ xôi ruộng mật, giữa nơi mồ mả tổ tiên của người nông dân trong cái thành phố Hà nội vì Hòa bình này?
Quả thật  khi nhìn thấy quang cảnh khu ruộng xã Dương nội la liệt khẩu hiệu màu máu trên nền vải gai tang trắng: “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, Nhân dân Dương nội thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất đất không chịu thất nghiệp đói nghèo, Quyết tử giữ đất cho con cháu sau này, Đốt chết quân cướp đất…”, khắp nơi la liệt bùi nhùi, chai xăng…để tự vệ thì mới thấy bà con ví cái lều canh giữ mồ mả là “đồn mang cá” ngày Huế đổ máu năm xưa không có gì quá.


 
Ven đường, bài vị hương án và hình nhân thế mạng lặng câm bên bờ ruộng nhưng là thông điệp quá rõ ràng về sự thất vọng vô bờ bến khi công lý đã chết và người nông dân phải viện đến cả cõi âm để giữ đất trước các chủ dự án tham lam được bảo kê bởi chính quyền địa phương.
 



Các tấm vải màu tang trắng viết bằng sơn ngầu đỏ, các tấm vải màu tang vàng: “Giết quân cướp đất” là gì nếu không phải là thể hiện sự thù hận ? Chẳng thể cổ vũ cho bạo lực nhưng rõ ràng người nông dân đã bị dồn đến bờ tuyệt vọng và buộc phải chọn giải pháp cuối cùng: Chiến đấu để tồn tại. Nông dân không có ai bảo vệ, luật pháp không phải là thứ để bảo vệ họ.





Nông dân ở đây cũng như Văn Giang, Vụ Bản…vẫn cắm cờ đỏ sao vàng trên đất ruộng, trên các mộ phần như một thứ “lá chắn” mong manh trước những kẻ đang dùng chính cái lá cờ đó để làm “áo giáp” che đậy hành động bức hiếp dân lành. Cả hai bên “chiến tuyến” đều đang dùng “bùa phép” này để giữ thân (người nông dân) và để đàn áp (những kẻ mặc áo của dân xưng danh là “công bộc” của dân)



Chẳng phải chú thích thêm, chỉ cần đọc dòng chữ trên băng rôn là thấy quyết tâm chiến đấu giữ đất của dân Dương Nội.






 Giữa đồng, những “người lính” trong đồn “Mang cá” sinh hoạt ngay tại lều giữ đất, giữ mồ mả. Họ đang thay nhau “trực chiến’ 24/24 giữa cái giá rét mùa đông.




Người “lính già”, cụ Nguyễn Văn Tấn 81 tuổi, tổ Đoàn kết xã Dương Nội đã trải qua mấy cuộc chiến, trải qua mấy chế độ đang ngồi đây cùng bà con chuẩn bị “chống càn”.





Vừa giữ đất vừa kêu cứu, dân Dương nội vẫn tiếp tục kêu cứu mấy năm trời, hàng trăm lần kêu cứu lên các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương.







“Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm không có súng thì dùng cuốc thuổng gậy gộc” để chiến đấu với quân cướp đất.

Chúng tôi đã bị dồn đến chân tường nên chúng tôi thà hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ đất, tài sản, giữ mồ mả của nhân dân chúng tôi”.

Đó là lời của những người “lính” ở “đồn Mang cá”. Họ vui vẻ chấp nhận đổ máu trong trận cuối cùng này để bảo vệ đất. Họ không còn là tiểu nông ích kỉ “đèn nhà ai nhà nấy rạng” nữa mà họ đã quây quần bên nhau thân ái một lòng không ngại gió rét giữa đồng, không sợ trận cướp ngày sắp tới.


“Ở đồn Mang cá thích hơn ở nhà”.


Theo blog MXD



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 29, 2013 07:49

Dân Dương Nội giữ đất

385188_308854935884121_101482021_n


 Ảnh lấy từ blog NXD ( tại đây).Hình ảnh trên cánh đồng Dương Nội ( Hà Đông- Hà Nội) thật đau thương:- Hai cõi âm dương cùng vùng lên giữ đất



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 29, 2013 06:17

DỰ CẢM

Võ Trung Hiếu


376568_304512359651712_60558138_nRồi sẽ có một ngày con ạ

Báo đăng tin tàu Việt Nam bị tàu nước lạ bắn chìm

Lúc ấy con và lũ bạn con sẽ làm gì nhỉ ?

Xuống đường gào lên hay ngồi thiền lặng im ?


Rồi sẽ có một ngày

Báo đăng tin một công ty bên đại lục hay Hồng Công

Đã trúng thầu dự án khu đất thân yêu nơi gia đình con đang ở

Con có cảm thấy bất an hay dự cảm điều gì đáng sợ ?

Con có đành khoanh tay ngồi yên ?


Rồi sẽ có một ngày

Con chợt thấy bản đồ thành phố thân yêu

Không còn những con đường mang tên Ngô Quyền, Yết Kiêu, Quang Trung, Bà Trưng, Bà Triệu

Thay vào đó là những cái tên Vương, Tôn, Lý, Quách, Giả, Ưng, Uông, Liễu …

Con sẽ đau nhói thẫn thờ hay chỉ ngồi há hốc ngạc nhiên ?


Ba không biết có sống đủ lâu để cùng con nhìn thấy những bình minh

Nhìn thế hệ của ba và con làm thế nào mà giữ nước

Làm thế nào mà chặn quân xâm lược

Khi chúng không chỉ có vũ khí, quân đội, tình báo, vệ tinh, truyền thông, học thuyết

Mà còn thừa mứa đô-la để thắng những gói thầu

Và muôn vàn mưu ma chước quỷ thâm sâu

Để đưa mọi thứ trên đất nước này vào vòng u mê kiềm toả


Rồi sẽ có một ngày con ạ

Xem thời sự trên tivi và phải nhói lòng

Ba chẳng đùa đâu con có biết không …


Một đất nước lặng im là một đất nước hôn mê

Một dân tộc lặng im là một dân tộc chết


8.7.2012


Tác giả gửi Quê choa



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 29, 2013 06:01

Ông có cô đơn không?

Đạo diễn Đinh Anh Dũng


 imagesCó 2 lần tôi đã hỏi nhạc sĩ Phạm Duy: Ông có thấy cô đơn không?


 Lần thứ nhất lúc ông đang ở Mỹ, trong ngôi nhà ở Midway City, nơi ông vẫn gọi là Thị trấn Giữa đàng.


Thỉnh thoảng tôi đến thăm ông, lúc nào trong xe cũng có chiếc máy quay phim nhỏ. Từ khi nhạc sĩ Văn cao mất,  tôi ý thức ghi lại khoảnh khắc sống quý giá của những người tôi quý mến.Tôi hay ghi lại những sinh hoạt thường ngày của ông, lúc ông đang giữa một bầy cháu chắt, lúc ông ngồi nghe nhạc, lúc ông bên computer đang viết hay sắp xếp gì đó, lúc ông ngoài vườn sau nhà với con chó nhỏ..


Nhưng nhiều lần tôi gặp cảnh ông ngồi một mình, trong căn phòng khách vắng lặng. Và một lần tôi đã hỏi ông câu đó.


Bình thường khi hỏi những vấn đề gì khác, ông trả lời rất nhanh, khi trả lời tôi câu hỏi nầyông yên lặng rất lâu. Hình như ông cũng tự hỏi chính mình thì phải. Chung quanh ông lúc nào cũng nhiều người, nhưng có lần ông tâm sự với tôi, ở Mỹ ông chỉ có một người bạn thân duy nhất. Ông từng nói:“Tôi là người thích bạn bè.Không có bạn buồn lắm,anh tưởng tượng 30 năm ở Mỹ mà chỉ một người bạn thì có buồn không?”


 Sau phút trầm tư ông trả lời: Ông không cô đơn!


Tôi không hiểu có phải sự kiêu hãnh Phạm Duy khiến ông trả lời vậy, hay con người ông không muốn người ta thấy sự yếu mềm của mình? Cũng có thể cả hai..


 Lần thứ hai tôi hỏi câu nầy khi ông đã về định cư ở Việt nam từ lâu, trong căn nhà ở đường Lê Đại hành. Căn nhà khá vắng vẻ. Thỉnh thoảng các con ông về thăm, ở đó một thời gian ngắn rồi đi.


Quanh ông vẫn tràn ngập những hình ảnh tôi đã nhìn thấy trong căn nhà ở Cali. Đó là những bức tranh chân dung của ông do nhiều họa sĩ vẽ tặng, là những băng nhạc la liệt chung quanh, và tấm ảnh của ca sĩ Thái Hằng ở một vị trí trang trọng, người mà ông vẫn nói, đối với ông là Thánh nữ.


Ông ngồi một mình trên bộ salon màu đỏ thẩm, thường mặc bộ bà ba nâu hoặc xám. Ông vẫn đầy năng lượng khi nói về những dự định những sáng tác mới, nhưng hình như đôi khi đã thấm sự mệt mỏi. Quan sát tôi thấy ông gần gũi thân tình hơn,và hay nói về bạn cũ của mình..


“Giờ tôi không còn bạn, thế hệ tôi các ông bà ấy đi hết rồi. Bọn trẻ thì có vẻ ngại người già, thế nên nhiều khi cũng thấy buồn, muốn đi mà chẵng biết đi đâu..”


Ông chỉ nói thế,nhưng khi trả lời vẫn không công nhận mình cô đơn!


 


Nhiều lần tôi tự hỏi: Ông có cô đơn không? Chắc là có, nhưng có thể sự kiêu bạc làm ông không công nhận điều nầy.


Có lẽ ông không cô đơn theo ý nghĩa thông thường của từ ngữ vốn có, ông


cô đơn như một điều cần có của người Nghệ sĩ, ông cô đơn trong dòng chảy của thời cuộc bắt ông phải chọn lựa, cô đơn trong chính những sáng tác của mình, cô đơn khi sống giữa bao nhiêu người chung quanh, lúc nào cũng xưng tụng và ngưỡng mộ..


 


Không hiểu giờ này ông có cô đơn không nhỉ?


Ông đã ra đi trong sự nuối tiếc của bao người, nhạc của ông sẽ còn tồn tại mãi với thời gian, vì nó chính là một phần di sản quý giá của âm nhạc Việt.


Ông từng nói: “Nếu một trăm năm nữa, người ta vẫn hát bài Tình ca với câu Tôi yêu tiếng nước tôi, thì 999 bài còn lại người ta quên đi cũng được. Và mồ của tôi sẽ nằm trên môi của những người còn nhớ và hát nhạc Phạm Duy


Tôi nghĩ ông không cô đơn!


Tác giả gửi cho Quê choa



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 29, 2013 02:57

Nguyễn Tấn Dũng và kinh tế tập đoàn [*]


Huy Đức


373111_513382712014083_581802536_nĐoạn trích sau từ cuốn Bên Thắng Cuộc II: Quyền Bính nói về vai trò của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong việc thành lập hàng loạt các tập đoàn kinh tế quốc doanh – hay còn gọi là Quả Đấm Thép. Ban Biên Tập Dân Luận xin giới thiệu trích đoạn này tới độc giả, trong bối cảnh xã hội đang đặt câu hỏi ai phải chịu trách nhiệm về những con số lỗ lã và thất thoát khổng lồ ở các tập đoàn kinh tế quốc doanh.


Tác giả Huy Đức có chú thích rõ các nguồn tin sử dụng trong cuốn sách, nhưng do khuôn khổ hạn chế của bài báo này, chúng tôi không đăng các chú thích này, mời độc giả tham khảo trong sách. Độc giả có thể mua cả hai tập sách này trên Smashwords hoặc Amazon.com theo hướng dẫn trên Facebook.



Cho dù trong Bộ chính trị khóa X (2006-2011) vẫn có những người trưởng thành qua chiến tranh, họ bắt đầu thuộc thế hệ “làm cán bộ” chứ không còn là thế hệ của những “nhà cách mạng”. Nếu có khả năng nắm bắt các giá trị của thời đại và có khát vọng làm cho người dân được ngẩng cao đầu, họ hoàn toàn có cơ hội chính trị để đưa Việt Nam bước sang một trang sử mới. Ngay cả khi duy trì phương thức nắm giữ quyền bính tuyệt đối hiện thời, nếu lợi ích của nhân dân và sự phát triển quốc gia được đặt lên hàng đầu, họ có thể trao cho người dân quyền sở hữu đất đai, lấy đa sở hữu thay cho sở hữu toàn dân; họ có quyền chọn phương thức kinh tế hiệu quả nhất làm chủ đạo thay vì lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo. Vẫn còn quá sớm để nói về họ. Khi cuốn sách này ra đời, họ vẫn đang nắm giữ trong tay mình vận hội của chính họ và đất nước.


Người kế nhiệm

Theo ông Phan Văn Khải, khi thăm dò ý kiến chuẩn bị nhân sự cho Đại hội X, các ban ngành đánh giá ông Vũ Khoan cao hơn. Một trong những “ban, ngành” nhiệt tình ủng hộ ông Vũ Khoan là Ban Nghiên cứu của thủ tướng. Thời ông Phan Văn Khải, trước khi chính phủ ban hành bất cứ văn bản nào, thủ tướng cũng đều chuyển cho Ban Nghiên cứu xem trước. Các văn bản hay bị Ban Nghiên cứu có ý kiến lại thường được đưa lên từ Văn phòng Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Tấn Dũng.


Ông Khải thừa nhận, thâm tâm ông cảm tình với ông Vũ Khoan hơn, tuy nhiên, phần vì Vũ Khoan bị coi là thiếu thực tế trong nước, phần vì ông đã lớn tuổi – Vũ Khoan sinh năm 1937, cùng năm sinh với các ông Trần Đức Lương, Nguyễn Văn An – nên việc giới thiệu ông là gần như không thể. Nhưng, chủ yếu, theo ông Khải: “Tương quan lực lượng không cho phép”.


Ngày 28-6-2006, Quốc hội bỏ phiếu bầu ông Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng. Trước khi rời nhiệm sở, ông Phan Văn Khải tổ chức một buổi gặp mặt toàn thể Ban Nghiên cứu với sự có mặt của thủ tướng mới được bầu Nguyễn Tấn Dũng. Tiếp lời ông Phan Văn Khải, trong một diễn văn ngắn, ông Dũng cũng đã dùng những từ ngữ tốt đẹp để nói về Ban Nghiên cứu và tương lai cộng tác giữa ông và các thành viên. Cũng trong cuộc gặp này, ý tưởng hình thành văn phòng thủ tướng trong Văn phòng Chính phủ đã được cả ông Khải và ông Dũng cùng ủng hộ.


Trong đúng một tháng sau đó, công việc của Ban vẫn tiến hành đều đặn. Chiều 27-7-2006, ông Trần Xuân Giá được mời lên phòng thủ tướng. Ông Giá nhớ lại, đó là một cuộc làm việc vui vẻ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đồng ý để Giáo sư Đào Xuân Sâm, lúc ấy đã lớn tuổi, nghỉ hưu và ông cũng tỏ ra không bằng lòng với việc Tiến sỹ Lê Đăng Doanh vẫn hay phát biểu với vai trò thành viên của Ban Nghiên cứu. Cuộc nói chuyện kéo dài tới 17 giờ ngày 27, Thủ tướng thân tình đến mức ông Giá tạm thời gạt qua kế hoạch nghỉ hưu và trở về ngồi vẽ sơ đồ tổ chức văn phòng thủ tướng và chuẩn bị kế hoạch củng cố Ban Nghiên cứu.


Hôm sau, ngày 28-7-2006, khi ông Trần Xuân Giá đến cơ quan ở đường Lê Hồng Phong thì thấy Văn phòng vắng vẻ, nhân viên lúng túng tránh nhìn thẳng vào mắt ông. Ông Trần Xuân Giá làm tiếp một số việc rồi về nhà. Vào lúc 16 giờ cùng ngày, ông nhận được quyết định nghỉ hưu và quyết định giải thể Ban Nghiên cứu do văn thư mang tới. Cả hai cùng được chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký vào ngày 28-7-2006, tức là chỉ ít giờ sau khi ngồi “hàn huyên” với ông Trần Xuân Giá. Theo ông Giá thì ông là người cuối cùng trong Ban Nghiên cứu nhận được quyết định này.


Ông Nguyễn Tấn Dũng sinh tại Cà Mau năm 1949. Mới mười hai tuổi đã theo cha vào “bưng” làm liên lạc, ông biết chữ chủ yếu nhờ các lớp bổ túc ở trong rừng do địa phương quân tổ chức. Sau đó, ông Dũng được đưa đi cứu thương rồi làm y tá cho Tỉnh đội.


Ngày 30-4-1975, Nguyễn Tấn Dũng là trung úy, chính trị viên Đại đội Quân y thuộc Tỉnh đội Rạch Giá. Đầu thập niên 1980, theo ông Lê Khả Phiêu: “Khi ấy, tôi là Phó chính ủy Quân khu IX, trực tiếp gắn quân hàm thiếu tá cho anh Nguyễn Tấn Dũng. Năm 1981, khi anh Dũng bị thương ở chiến trường Campuchia, tôi cho anh về nước đi học”. Năm 1983, từ trường Nguyễn Ái Quốc trở về, ông Dũng ra khỏi quân đội, bạn bè của cha ông, ông Nguyễn Tấn Thử, đã bố trí ông Dũng giữ chức phó Ban Tổ chức Tỉnh ủy. Nhưng vị trí giúp ông có một bước nhảy vọt trong con đường chính trị là chức vụ mà ông nhận sau đó: bí thư Huyện ủy Hà Tiên.


Sau Đại hội V, ông Lê Duẩn có ý tưởng cơ cấu một số cán bộ trẻ và một số cán bộ đang là bí thư các ‘pháo đài huyện’ vào Trung ương làm ủy viên dự khuyết như một động thái đào tạo cán bộ. Ông Nguyễn Đình Hương580 nhớ lại: “Trước Đại hội VI, tôi được ông Lê Đức Thọ phân công trực tiếp về địa phương gặp các ứng cử viên. Phía Nam có anh Nguyễn Tấn Dũng, bí thư huyện Hà Tiên, cô Hai Liên, bí thư huyện ủy Thống Nhất, Đồng Nai, cô Trương Mỹ Hoa, bí thư quận Tân Bình; phía Bắc có cô Nguyễn Thị Xuân Mỹ, bí thư Quận ủy Lê Chân, Hải Phòng”. Sau Đại hội VI, ông Nguyễn Tấn Dũng rời “pháo đài” Hà Tiên về Rạch Giá làm phó bí thư thường trực rồi chủ tịch Ủy ban Nhân dân Tỉnh.


Trước Đại hội Đảng lần thứ VII, khi chuẩn bị cho Đại hội Tỉnh Đảng bộ Kiên Giang, ông Lâm Kiên Trì, một cán bộ lãnh đạo kỳ cựu của tỉnh từ chức, mở đường cho ông Nguyễn Tấn Dũng lên bí thư. Theo ông Năm Loan, khi ấy là ủy viên thường vụ, trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy Kiên Giang: “Ông Đỗ Mười vào T78, triệu tập Thường vụ Tỉnh ủy lên họp, duyệt phương án nhân sự và quyết định đưa Nguyễn Tấn Dũng lên làm bí thư”. Năm ấy ông Dũng bốn mươi hai tuổi.


Trong một nền chính trị, mà công tác cán bộ được giữ bí mật và phụ thuộc chủ yếu vào sự lựa chọn của một vài nhà lãnh đạo, các giai thoại lại xuất hiện để giải thích sự thăng tiến mau lẹ của một số người. Trong khi dư luận tiếp tục nghi vấn ông Nông Đức Mạnh là “con cháu Bác Hồ”581, một “huyền thoại” khác nói rằng, cha của ông Nguyễn Tấn Dũng đã “chết trên tay ông Lê Đức Anh” và trước khi chết có gửi gắm con trai cho Bí thư Khu ủy Võ Văn Kiệt và Tư lệnh Quân khu IX Lê Đức Anh. Trên thực tế, cha ông Nguyễn Tấn Dũng là ông Nguyễn Tấn Thử, thường gọi là Mười Minh, đã mất trước khi hai ông Võ Văn Kiệt và Lê Đức Anh đặt chân xuống Quân khu IX.


Ngày 16-4-1969, một trái bom Mỹ đã ném trúng hầm trú ẩn của Tỉnh đội Rạch Giá làm chết bốn người trong đó có ông Nguyễn Tấn Thử khi ấy là chính trị viên phó Tỉnh đội. Một trong ba người chết còn lại là ông Chín Quý, chính trị viên Tỉnh đội. Trong khi, đầu năm 1970, ông Lê Đức Anh mới được điều về làm tư lệnh Quân khu IX còn ông Kiệt thì mãi tới tháng 10-1970 mới xuống miền Tây. Họ có nghe nói đến vụ ném bom làm chết ông Chín Quý và ông Mười Minh nhưng theo ông Kiệt thì cả hai ông đều chưa từng gặp ông Mười Minh Nguyễn Tấn Thử. Mãi tới năm 1991, trong đại hội đại biểu tỉnh đảng bộ Kiên Giang, ông Võ Văn Kiệt mới thực sự biết rõ về ông Nguyễn Tấn Dũng và cho tới lúc này ông Kiệt vẫn muốn ông Lâm Kiên Trì, một người mà ông biết trong chiến tranh, tiếp tục làm bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang.


Ông Nguyễn Tấn Dũng được điều ra Hà Nội tháng 1-1995, ông bắt đầu với chức vụ mà xét về thứ bậc là rất nhỏ: thứ trưởng Bộ Nội vụ. Trước Đại hội VIII, theo ông Lê Khả Phiêu: “Khi làm nhân sự Bộ Chính trị, anh Nguyễn Tấn Dũng gặp tôi, nói: ‘Anh em miền Nam yêu cầu tôi phải tham gia Bộ Chính trị’. Trong khi, thứ trưởng thường trực là anh Lê Minh Hương thì băn khoăn: ‘Ngành công an không thể có hai anh ở trong Bộ Chính trị’. Tôi bàn, anh Lê Minh Hương tiếp tục ở trong Bộ Công an, anh Nguyễn Tấn Dũng chuyển sang Ban Kinh tế”.


Tháng 6-1996, ông Dũng được đưa vào Bộ Chính trị phụ trách vấn đề tài chính của Đảng. Cho dù, theo ông Lê Khả Phiêu, ông Dũng đắc cử Trung ương với số phiếu thấp và gần như “đội sổ” khi bầu Bộ Chính trị nhưng vẫn được đưa vào Thường vụ Bộ Chính trị, một định chế mới lập ra sau Đại hội VIII, vượt qua những nhân vật có thâm niên và đang giữ các chức vụ chủ chốt như Nông Đức Mạnh, Phan Văn Khải. Ông Nguyễn Đình Hương giải thích: “Nguyễn Tấn Dũng được ông Đỗ Mười đưa đột biến vào Thường vụ Bộ Chính trị chỉ vì ông Đỗ Mười có quan điểm phải nâng đỡ, bồi dưỡng, con em gia đình cách mạng. Tấn Dũng vừa là một người đã tham gia chiến đấu, vừa là con liệt sỹ, tướng mạo cũng được, lại vào Trung ương năm mới ba mươi bảy tuổi”.


Ngay cả khi đã ở trong Thường vụ Bộ Chính trị, ông Nguyễn Tấn Dũng vẫn là một con người hết sức nhã nhặn. Ông không chỉ cùng lúc nhận được sự ủng hộ đặc biệt của các ông Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, mà những ai biết ông Dũng vào giai đoạn này đều tỏ ra rất có cảm tình với ông. Theo ông Phan Văn Khải: “Nguyễn Tấn Dũng được cả ba ông ủng hộ, đặc biệt là ông Lê Đức Anh và Đỗ Mười. Tấn Dũng cũng biết cách vận động. Năm 1997, trước khi lui về làm cố vấn, cả ba ông thậm chí còn muốn đưa Tấn Dũng lên thủ tướng, tuy nhiên khi thăm dò phiếu ở Ban Chấp hành Trung ương cho cương vị này, ông chỉ nhận được một lượng phiếu tín nhiệm thấp”.


Kinh tế tập đoàn

Trước Đại hội Đảng lần thứ X, tháng 4-2006, ông Nguyễn Tấn Dũng được Bộ Chính trị phân công làm tổ trưởng biên tập “Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010”. Khi chủ trì các buổi thảo luận, ông Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu đưa vào văn kiện chủ trương tổ chức doanh nghiệp nhà nước theo hướng kinh doanh đa ngành.


Theo ông Trần Xuân Giá, tổ phó biên tập: “Cho doanh nghiệp nhà nước kinh doanh đa ngành là ngược lại với chủ trương lâu nay của chính phủ nên chúng tôi không dự thảo văn kiện theo chỉ đạo của ông Nguyễn Tấn Dũng. Đến gần đại hội, ông Dũng cáu, ông viết thẳng ra giấy ý kiến của ông rồi buộc chúng tôi phải đưa nguyên văn vào Báo cáo, phần nói về doanh nghiệp nhà nước: Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có một số ngành chính; có nhiều chủ sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối”.


Lúc ấy, ông Nguyễn Tấn Dũng đã có đủ phiếu ở Ban Chấp hành Trung ương để tiến đến chiếc ghế thủ tướng. Ông khát khao tạo dấu ấn và nôn nóng như những gì được viết trong Báo cáo Kinh tế mà ông chủ trì: “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”.


Mặc dù từ năm 1994, Quyết định số 91/TTg của Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói đến việc “thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh” nhưng cho đến năm 2005, Việt Nam chưa có một tập đoàn nào ra đời. Cuối nhiệm kỳ, Thủ tướng Phan Văn Khải cho thành lập hai tập đoàn: Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam ngày 26-12-2005 và Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam Vinashin ngày 15-5-2006.


Hai tháng sau khi nhận chức, ngày 29-8-2006, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho ngành dầu khí được nâng lên quy mô tập đoàn, PetroVietnam, ngày 30-10-2006 thành lập Tập đoàn Công nghiệp Cao su, ngày 9-01-2006 thành lập Tập đoàn Bưu chính Viễn thông. Tốc độ thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước có chững lại sau khi cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt viết một thư ngỏ đăng trên Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn, yêu cầu thận trọng vì theo ông, trong khi những yếu kém của mô hình tổng công ty 90, 91 chưa được khắc phục mà lại làm phình to chúng ra bằng các quyết định hành chính là không hợp lý. Ông Võ Văn Kiệt viết: “Các doanh nghiệp nhà nước của ta có truyền thống dựa vào bao cấp nhiều mặt, không dễ từ bỏ thói quen cũ, nếu từ bỏ thói quen cũ cũng không dễ đứng vững trong thế cạnh tranh… Không có gì đảm bảo khi các tập đoàn được thành lập sẽ hoạt động tốt hơn các doanh nghiệp hiện nay”.


Trong khoảng thời gian từ khi ông Võ Văn Kiệt mất, tháng 6-2008, cho đến năm 2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã kịp nâng số tập đoàn kinh tế nhà nước lên con số mười hai. Nhưng chính sách cho tập đoàn kinh tế nhà nước kinh doanh đa ngành chứ không phải số lượng tập đoàn kinh tế nhà nước mới là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng kinh tế.


Theo ông Phan Văn Khải: “Khi thành lập Tập đoàn Vinashin, tôi nghĩ, đất nước mình có bờ biển dài hơn 3.000km, phát triển ngành công nghiệp đóng tàu là cần thiết nhất là khi ngành công nghiệp này đang được chuyển dịch từ các nước Bắc Âu về Trung Quốc, Hàn Quốc. Chính tôi quyết định đầu tư cho Vinashin khoản tiền bán trái phiếu chính phủ hơn 700 triệu USD. Nhưng, sau đó thì không chỉ Vinashin mà nhiều tập đoàn khác cũng phát triển ồ ạt nhiều loại ngành nghề, ở đâu cũng thấy đất đai của Vinashin và của các tập đoàn nhà nước”.


Theo ông Trần Xuân Giá: “Ông Nguyễn Tấn Dũng coi doanh nghiệp nhà nước như một động lực phát triển, nhưng phát triển doanh nghiệp nhà nước theo cách của ông Dũng không hẳn chỉ để làm vừa lòng ông Đỗ Mười”. Cho phép các tập đoàn kinh tế nhà nước kinh doanh đa ngành cũng như tháo khoán các kênh đầu tư mà nguồn vốn cho khu vực này lại thường bắt đầu từ ngân sách. Ông Phan Văn Khải giải thích: “Nguyễn Tấn Dũng muốn tạo ra một thành tích nổi bật ngay trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình. Tấn Dũng muốn hoàn thành kế hoạch 5 năm chỉ sau bốn năm. Ngay trong năm 2007, ông đầu tư ồ ạt. Tiền đổ ra từ ngân sách, từ ngân hàng. Thậm chí, để có vốn lớn, dự trữ quốc gia, dự trữ ngoại tệ cũng được đưa ra. Bội chi ngân sách lớn, bất ổn vĩ mô bắt đầu”.


Theo ông Trần Xuân Giá: “Thời Thủ tướng Phan Văn Khải, mỗi khi tổng đầu tư lên tới trên 30% GDP là lập tức thủ tướng được báo động. Trước năm 2006, năm có tổng đầu tư lớn nhất cũng chỉ đạt 36%. Trong khi, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ngay sau khi nhận chức đã đưa tổng mức đầu tư lên 42% và đạt tới 44% GDP trong năm 2007”. Cho tới lúc đó những ý kiến can gián thủ tướng cũng chủ yếu xuất phát từ các thành viên cũ của Ban Nghiên cứu như Trần Xuân Giá, Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan. Nhưng tiếng nói của họ không còn sức mạnh của một định chế sau khi Ban Nghiên cứu đã bị giải tán. Cả ba sau đó còn nhận được các khuyến cáo một cách trực tiếp và nhiều cơ quan báo chí trong nhiều tháng không phỏng vấn hoặc đăng bài của những chuyên gia này.


Năm 2006, tăng trưởng tín dụng ở mức 21,4% nhưng con số này lên tới 51% trong năm 2007. Kết quả là lạm phát cả năm ở mức 12,6%. Các doanh nghiệp, các ngân hàng bắt đầu nhận ra những rủi ro, từng bước kiểm soát vốn đầu tư vào chứng khoán và địa ốc. Nhưng đầu năm 2008, Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dường như hoảng sợ khi lạm phát lên tới gần 3% mỗi tháng và những “liệu pháp” được đưa ra sau đó đã khiến cho nền kinh tế dồn dập chịu nhiều cú sốc.


Cuối tháng 1-2008, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các ngân hàng thương mại phải tăng dự trữ bắt buộc từ 10 lên 11%. Để có ngay một lượng tiền mặt lên tới khoảng 20.000 tỷ đồng nhằm đáp ứng nhu cầu dự trữ, các ngân hàng thương mại cổ phần buộc lòng phải tăng lãi suất huy động. Lãi suất qua đêm thị trường liên ngân hàng mấy ngày cuối tháng 1-2008 tăng vọt lên tới 27%, trong khi đầu tháng, con số này chỉ là 6,52%. Ngày 13-2-2008, Ngân hàng Nhà nước lại ra quyết định, buộc các ngân hàng thương mại phải mua một lượng tín phiếu trị giá 20.300 tỷ đồng. Áp lực tiền bạc đã làm náo loạn các tổ chức tín dụng.


Thoạt đầu, các tổng công ty nhà nước rút các khoản tiền đang cho vay lãi suất thấp ở các ngân hàng quốc doanh, gửi sang ngân hàng cổ phần. Chỉ trong ngày 18-2-2008, các tổng công ty nhà nước đã rút ra hơn 4.000 tỷ đồng. Các ngân hàng quốc doanh, vốn vẫn dùng những nguồn tiền lãi suất thấp từ Nhà nước đem cho các ngân hàng nhỏ vay lại, nay thiếu tiền đột ngột, vội vàng ép các ngân hàng này. “Cơn khát” tiền toàn hệ thống đã đẩy lãi suất thị trường liên ngân hàng có khi lên tới trên 40%.


Lãi suất huy động tăng, đã khiến cho các ngân hàng phải tăng lãi suất cho vay. Nhiều ngân hàng buộc khách hàng chấp nhận lãi suất lên tới 24 – 25%, cao hơn nhiều mức mà Luật Dân sự cho phép. Các doanh nghiệp cũng “khát” tiền mặt, tình trạng bán hàng dưới giá, hoặc vay với lãi suất cao đang khiến cho chi phí sản xuất tăng đột biến. Không có gì ngạc nhiên khi lạm phát ba tháng đầu năm 2008 lên tới 9,19%. Các biện pháp của Ngân hàng Nhà nước nói là chống lạm phát, nhưng đã trực tiếp làm “mất giá” đồng tiền khi đặt các ngân hàng trong tình thế phải nâng lãi suất.


Ngày 25-3-2008, Ngân hàng Nhà nước lại khiến cho tình trạng khan hiếm tiền mặt thêm nghiêm trọng khi yêu cầu thu về 52.000 tỷ đồng của ngân sách đang được đem cho các ngân hàng quốc doanh vay với lãi suất 3%/năm, thấp hơn nhiều so với lãi suất trên thị trường tín dụng. Khoản tiền này theo nguyên tắc phải được chuyển vào Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, từ mười năm trước, theo “sáng kiến” của Bộ Tài chính, nó đã được đem cho các ngân hàng quốc doanh vay. Một mặt, nó tạo ra sự bất bình đẳng trong môi trường kinh doanh, một mặt làm cho nền kinh tế lập tức rơi vào khủng hoảng do tín dụng bị cắt đột ngột và những khoản vay còn lại thì phải chịu lãi suất cao.


Thị trường chứng khoán nhanh chóng hiển thị “sức khỏe” của nền kinh tế. Từ mức trên 1000, ngày 6-3-2008, chỉ số VN-index xuống còn 611. Cho dù Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cố dùng uy tín chính trị của mình để cứu vãn bằng cách tuyên bố rằng đầu tư vào chứng khoán bây giờ là thắng vì đã xuống đến đáy nhưng chỉ hai mươi ngày sau, 25-3-2008, chỉ số VN-index chỉ còn 492 điểm. Ngày 5-12-2008, VN-index chỉ còn 299 điểm. Xuất khẩu quý 1-2008 vẫn tăng 23,7%; nhập khẩu tăng 60,7%. Tại Sài Gòn, kinh tế vẫn tăng trưởng khá, ngân sách quý I vẫn thu tăng 72,6%. Nhưng các biện pháp chống lạm phát đã làm cho Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chánh hơn nửa năm trước khi khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu.


Từ cuối năm 2008, khuynh hướng quay trở lại nền kinh tế chỉ huy càng tăng lên cho dù điều này là vô vọng vì ở giai đoạn này, đóng góp của khu vực tư nhân cho nền kinh tế đã vượt qua con số 50% GDP của Việt Nam. Dù vậy, Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng vẫn liên tục ban hành các mệnh lệnh hành chánh hòng kiểm soát trần lãi xuất, kiểm soát thị trường ngoại tệ, thị trường vàng.


Khi ông Đỗ Mười nhận chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, để có ngoại tệ, Chính phủ phải cho một nhà đầu tư của Nhật thuê khu nhà khách ven hồ Thiền Quang. Khi ông Nguyễn Tấn Dũng nhận chức thủ tướng, Việt Nam có một khoản dự trữ ngoại tệ lên tới 23 tỷ đôla. Nhưng, di sản lớn hơn mà Thủ tướng Phan Văn Khải trao lại cho ông Dũng là một Việt Nam đã hoàn thành thủ tục để gia nhập WTO. Trong khoảng thời gian 1996-2000, cho dù chịu mấy năm khủng hoảng kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng 7,5% trong khi lạm phát chỉ là 3,5%. Trong khoảng thời gian 2001-2005, lạm phát có cao hơn, 5,1%, nhưng tăng trưởng vẫn dương: 7%.


Chỉ sau mấy tháng nhận chức, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đưa GDP tăng trưởng tới mức kỷ lục: 8,5% vào tháng 12-2007; đồng thời cũng đã đưa lạm phát vào tháng 8-2008 lên tới 28,2%. Tháng 3-2009, tăng trưởng GDP rơi xuống đáy: 3,1%. Trong sáu năm ông Nguyễn Tấn Dũng giữ chứ Thủ tướng, mức tăng trưởng kinh tế luôn thấp hơn rất nhiều so với mức lạm phát. Năm 2007 GDP tăng trưởng ở mức 8,48% trong khi lạm phát lên tới 12,63%. Năm 2008 mức tăng trưởng giảm xuống 6,18% trong khi lạm phát là 19,89%. Năm 2009 GDP chỉ tăng 5,32% lạm phát xuống còn 6,52% do các nguồn đầu tư bị cắt đột ngột. Năm 2010 GDP tăng đạt mức 6,78% nhưng lạm phát tăng lên 11,75%. Năm 2011 tăng trưởng GDP giảm còn 5,89% trong khi lạm phát lên tới 18,13%. Năm 2012, nền kinh tế gần như ngưng trệ, lạm phát ở mức 6,81% nhưng GDP cũng xuống tới 5,03% thấp kỷ lục kể từ năm 1999. Nền kinh tế rơi vào tình trạng gần như không lối thoát.


Theo DL


……………………..


[*] Tựa đề đoạn trích do Ban Biên Tập Dân Luận đặt.




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 29, 2013 01:00

Nguyễn Quang Lập's Blog

Nguyễn Quang Lập
Nguyễn Quang Lập isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Quang Lập's blog with rss.