Nguyễn Quang Lập's Blog, page 87
February 2, 2013
Vì sao Phạm Duy rời Việt Bắc

Nhạc sĩ Phạm Duy thời theo kháng chiến
Sau khi Đại Hội Văn Nghệ Nhân Dân bế mạc, mọi người ai nấy đã trở về những chiến khu của mình rồi thì “giây phút của sự thật” đã tới với tôi. Trong một buổi trưa có nắng vàng nhẩy múa trên lá cây, thả bước trên một con dốc nhỏ nằm trong khu rừng Yên Giã, anh Nguyễn Xuân Khoát bá vai tôi, hai người lặng lẽ đi… Một hồi lâu, anh Khoát nói, giọng nói thầm thì:
— Đoàn thể cử tao nói cho mày biết. Là mày đã được kết nạp. Mày sẽ được cử đi Moscou. Mày sẽ được ông Cụ gắn cho một huân chương chiến sĩ. Nhưng có điều kiện. Mày phải bỏ cái tính “chơi” của mày đi. Mày phải khai tử bài hát Bên Cầu Biên Giới. Và nếu xuất ngoại thì Thái Hằng phải ở lại. Một mình mày đi thôi. Về suy nghĩ. Mấy hôm nữa, trả lời tao.
Tôi bàng hoàng. Như bị anh bốc-xơ — cỡ võ sĩ Mỹ đen Tyson hiện nay chẳng hạn — vừa “ục” vào đầu mình một cú đấm. Anh Khoát lảo đảo đi về phía trước, lảo đảo là vì anh đi đôi giầy bốt to quá, nặng quá. Tôi cũng lảo đảo như người vừa bị “nốc ao”, quay về ngôi nhà nứa của mình, nằm chắp tay lên bụng, suy nghĩ…
… Khi bước chân lên miền Việt Bắc này, tôi không bao giờ chờ đợi có được những thứ gọi là “đại ân huệ” như thế này cả. Nhất là những ân huệ có điều kiện. Cứ nghĩ rằng mình lên đây để làm việc như một thường dân yêu nước và được tự do sáng tác hay được tự do đi công tác, giống như khi mình còn ở Liên Khu IV. Chỉ cần mình có thêm hai, ba người bạn mới để mình yêu mến như đã yêu mến Nguyễn Sơn, Đặng Thái Mai, Nguyễn Đức Quỳnh… Chỉ cần có thế thôi. Ai ngờ bây giờ mình lại được đãi ngộ đến thế. Ai ngờ bây giờ mình lại được đẩy vào một guồng máy chặt chẽ để sống cuộc đời của một anh cán bộ chính trị gương mẫu. Trong khi bản tính mình là một con người rất phóng túng. Trong suốt đời tôi, kể từ khi còn bé cho tới nay, tôi sợ nhất là bị đẩy vào kỷ luật. Vào làm đảng viên của một cái Đảng mà kỷ luật chắc chắn phải là thứ kỷ luật sắt, cứ yên chí đi, chỉ cần sau “ba bẩy hai mươi mốt ngày” là tôi sẽ bị đá đít tống ra khỏi đảng liền.
Hơn nữa, tôi ý thức hơn ai hết về giai cấp của mình. Nằm trong ngôi nhà nứa này, tôi tự nói thầm cho tôi nghe, bởi vì khi phải trả lời anh Khoát tôi sẽ không nói văn vẻ như thế này:
— Anh Khoát ơi. Tôi là tiểu tư sản mà. Làm sao tôi có thể tiến thẳng “lên” giai cấp vô sản được? Dù tôi cũng xuất thân là một công nhân, đi khắp mọi nơi ở trong nước để làm các nghề lao động chân tay trước khi sống bằng nghề lao động trí óc (!). Nhưng anh ơi, đó là sau khi tôi đã bị ông anh bắt phải vào học nghề trong trường Kỹ Nghệ Thực Hành, rồi tôi bất mãn, phạm nhiều kỷ luật như đánh nhau, phá phách máy móc ở trường… cho nên tôi bị đuổi ra khỏi trường. Trong bản khai lý lịch cách đây không lâu, tôi đâu có khai tôi là công nhân? Tôi có thể là người có nhiều cảm tình với Cách Mạng nhưng không bao giờ tôi là người học thuộc lòng những bài học, những lý thuyết, những tôn chỉ của Cách mạng cả. Đã có lần tôi trả lời một thằng Cách Mạng nửa mùa, khi nó phê bình tôi là tôi là duy tâm, duy tiếc gì đó, nó nói như một con vẹt vậy. Tôi bèn chỉ tay vào mặt nó: ” Ê mày, nghe đây. Tao không phải là “duy tâm” và cũng chẳng bao giờ là “duy vật” cả. Tao là… “duy cẩn”, Phạm Duy Cẩn. Hiểu không? “ Tại Thanh Hoá, tôi đã có lần khó chịu vì bị phê bình là tiêu cực qua những bài mà tôi vẫn cho là theo đúng chủ trương hiện thực của chính quyền đề ra như Bao Giờ Anh Lấy Được Đồn Tây, Bà Mẹ Gio Linh. Nhưng khi tôi thấy — qua anh Khoát — Trung Ương bắt tôi phải khai tử bài Bên Cầu Biên Giới, tôi nổi giận chứ không chỉ khó chịu như trước nữa. Tôi thấy họ đặt vấn đề quá nặng. Một bài hát, theo tôi, nếu nó có may mắn được hát lên trong một thời kỳ nào đó thì đời của nó cũng chẳng khác chi một đời hoa, sớm nở tối tàn, có gì đâu mà quan trọng hoá đến độ phải treo cổ nó lên hả? Tôi thấy Cách Mạng bắt đầu lẩm cẩm khi kết án bài Vọng Cổ trong cái Đại Hội mà tôi vừa tham dự. Bây giờ lại tới chuyện lãnh đạo bắt tôi phải tự tay giết chết một bản nhạc tình tôi vẫn thường coi là tầm thường và còn vớ vẩn nữa là khác. Sự ngu đần trong việc quan trọng hoá một bản nhạc như thế này cũng vẫn còn thấy hiện ra mấy chục năm sau, khi ở Miền Nam có những người lên án bài thơ của một anh lính trong lực lượng Nhẩy Dù do tôi phổ nhạc — bài thơ nhan đề Trả Lời Một Câu Hỏi mà tôi đổi lại là Kỷ Vật Cho Em — cho rằng sự phổ biến của bài hát này đã làm cho quân nhân nản lòng, do đó miền Nam Quốc Gia thua miền Bắc Cộng Sản. Nói như vậy là chấp nhận rằng một bài hát có khả năng để đánh giặc giỏi hơn một đội quân có một triệu lính, với sự giúp đỡ của một nước Đồng Minh có bom nguyên tử à?
Bây giờ tới việc thứ ba là bỏ Thái Hằng ở lại Việt Bắc để đi Moscou. Thái Hằng đã có mang được gần sáu tháng rồi. Đã có lần cả hai vợ chồng tôi đều bị sốt rét, cùng nằm rên khừ khừ trên cái giường nứa ở khu Yên Giã này. Nhưng cũng còn có người ốm này săn sóc cho người ốm kia. (Thái Hằng vừa nhắc lại chuyện tôi… ỉa đùn ở Yên Giã khi bệnh sốt rét đưa tới bệnh kiết lỵ). Cái bệnh sốt rét quái đản mãi hơn mười năm sau mới được đẩy lui khi một Bác Sĩ ở Saigon tìm ra cách chữa rất hiệu nghiệm là tiêm quinine vào mạch máu của chúng tôi. Ngay trước ngày Đại Hội Văn Nghệ Nhân Dân, khi tôi phải đi vắng hai tuần — tôi lên hát ở Đài Phát Thanh bí mật, có gặp lại Thương Huyền tại đó — Thái Hằng nằm một mình ở trong khu rừng già này, nửa đêm có cọp về, vợ tôi vốn là người bị bệnh yếu dây thần kinh từ trước, nay lại sợ cọp tới độ muốn phát điên lên, sáng hôm sau phải tới xin ở tạm nhà chị Nguyễn Xuân Khoát trong khi đợi tôi đi công tác trở về.
Nếu tôi đi ngoại quốc mà Thái Hằng ở lại, vào ngày sinh nở, ai là người sẽ săn sóc người đẻ hộ tôi? Tôi cũng có thể tin rằng Đoàn Thể sẽ làm chuyện đó một cách rất chu đáo, nhưng tôi đã thấy trước mắt chuyện bà Đào Duy Kỳ, vợ của một đảng viên cỡ lớn, ở ngay tại khu Trung Ương này, khi sinh ra đứa con thì phải nuôi một con dê ở trong vườn để có sữa cho con bú. Hình ảnh của người mẹ nghèo thiếu ăn và của đứa con đói sữa trong bài thơ Tâm Sự Đêm Giao Thừa của Hoàng Cầm mà tôi thuộc lòng như cháo, cũng hiện ra trong đầu tôi lúc này…
Gặp ông Hồ
… Trong thời gian chờ đợi tới ngày tôi phải trả lời anh Khoát về một vấn đề tối ư quan trọng có khả năng quyết định cả một đời người, tôi được gọi đi gặp ông Hồ. Đi khoảng gần hai tiếng đồng hồ thì tới chỗ ông ở. Qua khỏi một con suối được đặt tên là Lê Nin thì thấy hiện ra một ngôi nhà sàn b_ăng tre rất đẹp, có ông Chủ Tịch họ Hồ đang ngồi đánh máy. Nhìn thấy U³ông, tôi vẫn thấy cảm động như lúc gặp ông lần đầu. Nhưng vì bây giờ được nhìn ông gần hơn lần trước, tôi thấy cặp mắt của ông thật là sáng, nhưng nó không toát ra một sự trìu mến. Cũng có thể một người làm chính trị suốt đời như ông thì lúc nào cũng cần phải cần phải quyết liệt, phải tàn nhẫn, cho nên ông có một cái nhìn rất dữ.
Tới gặp ông lần này, tôi rất thông minh để thấy ngay rằng đối với ông, lúc đó, tôi chẳng là cái gì cả. Không chừng ông cũng chẳng biết tới tên tôi hay biết tới công việc của tôi là đàng khác. Trong cái bắt tay hay trong câu chuyện, tôi chỉ cảm thấy có một chút thân mật của một người muốn làm cha thiên hạ, ban xuống cho một đứa con dân. Chỉ có thế thôi. Một nhà lãnh đạo như ông Hồ, đang có muôn ngàn chuyện phải làm, đâu có thì giờ để mà đãi ngộ một văn nghệ sĩ? Chẳng qua là vì những vị phụ trách về văn nghệ nghĩ rằng gặp ông Hồ là một ân huệ lớn đối với một công dân và nghệ sĩ như tôi. Trong mọi tính toán như: cho vào Đảng, cho đi Moscou, đề nghị tặng huân chương, còn có thêm một tính toán nữa là cho tôi gặp một người mà ai cũng mong được gặp.
Họ không biết là tôi đã từng được mời tới gặp ông Bảo Đại khi ông vua này đi săn và tới Phan Rang hồi năm 1943. Tôi đang đi hát với gánh Đức Huy ở đó, ông Tỉnh Trưởng là Nguyễn Duy Quang cho xe hơi tới đón tôi đưa vào Dinh Tỉnh Trưởng để đàn hát cho ông vua nghe. Lúc đó tôi mới 22 tuổi. Chỉ có tôi và Bảo Đại ngồi ở trong phòng khách. Ông chăm chú ngồi nghe tôi hát, hỏi thăm gia đình tôi. Gặp ông vua mà cũng chẳng thấy có gì là ghê gớm cả. Ông vua nghe mình hát thì cũng như… ông trọc phú hay ông phu xe — những quý vị khán giả bỏ tiền mua vé vào rạp — nghe mình hát mà thôi. Nhưng phải công nhận rằng ông Bảo Đại là một người rất nhã nhặn, rất thích âm nhạc. Tiếc rằng tôi không nhìn được rõ đôi mắt của ông vì ông luôn luôn đeo kính đen.
Sau này cũng thế, vì anh tôi là Phạm Duy Khiêm đang làm Đại Sứ cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tôi cũng được mời vào Dinh Độc Lập để gập hai anh em lãnh tụ họ Ngô. Cả hai ông đều có những cái nhìn rất dữ và cao ngạo. Đối với hai ông, tôi cũng chỉ có đúng một sự lễ phép vừa phải như khi tôi gặp những lãnh tụ khác. Một thứ lễ phép theo kiểu “kính như viễn chi” vốn là một cách rất hay để thoái thác không nhận một ân huệ hay một món nợ vật chất hay tinh thần nào ở nơi những người có quyền hành này. Sự tương kính đã có giữa hai bên rồi thì không bao giờ tôi dám phê phán các nhà lãnh tụ đó cả, từ ông Bảo Đại, qua ông Hồ Chí Minh tới hai vị lãnh đạo họ Ngô. Đó là công việc của lịch sử.
Nhưng có một điều mà bây giờ tôi mới nhìn thấy khi tôi gặp ông Hồ Chí Minh ở Việt Bắc là: dù đây là một thứ chính quyền Cách Mạng nhưng ở cái nơi chiến khu âm u bí hiểm này cũng có một thứ triều đình rồi — chẳng trách Nguyễn Tuân gọi đây là đất thánh. Triều đình nào cũng phải có kẻ nịnh. Kẻ nịnh bao giờ cũng đông hơn người trung. Lúc tôi tới nơi ông Hồ ở là lúc tôi thấy Tống Ngọc Hạp đem một bầy thiếu nhi tới và tôi chứng kiến một sự “tranh nhau đi gặp Bác Hồ”, một sự cãi nhau om xòm giữa người này người nọ trong sự chọn lựa ai được vào gặp, ai không được vào gặp. Tôi trở về Yên Giã, lòng rất thản nhiên vì bây giờ thì tôi không còn gì để thắc mắc nữa.
Tôi tới gặp anh Khoát ngay và trả lời dứt khoát là tôi xin trở về Thanh Hoá. Và xin về ngay để cho kịp ngày vợ đẻ, sẽ có bà mẹ vợ săn sóc cho mẹ tròn con vuông. Tôi rất cám ơn mọi người, xin được không nhận bất cứ một thứ ân huệ nào cả. Nhưng khi vợ chồng tôi tới chào người lãnh đạo văn nghệ của cả nước thì Tố Hữu tặng cho vợ chồng tôi một số tiền. Tôi nhận ngay vì đó là tiền lương và vãng phí.
Tướng Nguyễn Sơn
Ngày mai lên đường về suôi thì tối hôm đó bỗng nhiên tôi gặp vợ chồng tướng Nguyễn Sơn ở nơi an toàn khu này. Ông mời vợ chồng tôi tới ăn cơm. Trong bữa cơm rất ngon tại một ngôi nhà sàn ở giữa vùng Việt Bắc, dưới ánh đèn dầu leo lắt, ngoài những chuyện xã giao thông thường, ông không nói gì tới chuyện ông đã bị Đảng gửi trả ông về Trung Cộng. Tôi cũng không hé miệng cho ông biết tình trạng và thái độ của tôi trước những ân huệ mà cấp trên đã dành cho tôi. Nhưng khi biết tôi sẽ trở về Khu IV vì lý do Thái Hằng đang có mang thì ông gật gù, ra chiều đồng ý.
Khi tôi về tới Thanh Hoá, tôi mới biết rằng tướng Nguyễn Sơn đã bị thay thế bởi Hoàng Minh Thảo, có Trần Văn Quang làm ủy viên chính trị. Sau này, tôi mới biết rõ nguyên do tại sao ông Sơn lại bỏ kháng chiến để ra đi. Theo người bạn đàn anh của tôi là Hoàng Văn Chí — anh em cột chèo với Nguyễn Sơn — lúc đó đang làm việc tại Khu IV, thì tướng Nguyễn Sơn phản đối việc ông Hồ yêu cầu Trung Cộng viện trợ, cho rằng hễ nhận viện trợ của ngoại bang thì sẽ mất hết chủ quyền. Ông Sơn viện lẽ rằng trong thời kỳ chống Nhật, Mao Trạch Đông không thèm nhờ Nga Sô viện trợ, để mặc Nga Sô tiếp tế cho Tưởng Giới Thạch. Theo ông Sơn thì Việt Nam phải tự lực kháng chiến, chiếm lấy vũ khí của Pháp để mà đánh Pháp. Cuộc chiến đấu gian lao hơn nhưng nước mình sẽ không phụ thuộc ngoại bang. Cũng vẫn theo Hoàng Văn Chí, Nguyễn Sơn to tiếng với ông Hồ về việc này và bỏ ra đi ngay sau buổi thảo luận gay go đó, rất có thể ngay trong cái ngày mà tôi được ông mời tới nhà để ăn cơm. Tôi cũng không ngờ rằng đó là bữa cơm từ biệt mà tướng Nguyễn Sơn dành cho một nghệ sĩ trẻ tuổi mà ông hết lòng nâng đỡ không những chỉ trong công tác mà còn trong cả đời tư, khi ông là người se duyên và chủ hôn cho vợ chồng chúng tôi. Không còn Nguyễn Sơn ở Khu IV nữa, rồi đây tôi sẽ thấy mình bơ vơ vô kể.
Vụ án Trần Dụ Châu
Trên đường về, vợ chồng ghé qua một địa điểm ở trong tỉnh Thái Nguyên để gặp anh tôi là Phạm Duy Nhượng hiện đang là giáo viên của trường dạy các cán bộ cao cấp về văn hoá. Việt Minh có cái hay là trong kháng chiến, những người không có trình độ văn hoá cao hoặc có khi chỉ mới có bằng Tiểu Học mà thôi, sau khi đã chiến đấu ở ngoài mặt trận trong một thời gian thì dù có là Sư Đoàn Trưởng,Trung Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng hay Đại Đội Trưởng gì đi nữa thì cũng — a lê — mời các ông quan to súng dài này buông súng ra, bỏ chức vụ đi, lục tục về một ngôi trường được dựng lên ở một nơi giống như “u tì quốc” để học lại từ đầu. Nhà giáo Phạm Duy Nhượng là thầy dạy học văn hoá cho vô số các Tướng Lãnh Cộng Sản về hưu hiện nay ở ngoài Bắc. Sống ở “ù tì quU³ốc” này vài ngày, tôi được nghe một câu chuyện có dính líu tới giới cầm bút, cầm đàn và cầm… dọc tẩu của chúng tôi:
“… Sau khi tan Đại Hội, các văn nghệ sĩ như Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Tuân, Canh Thân, Xuân Tiên, Xuân Lôi, Nguyễn Văn Hiếu về tới thị xã đổ nát là Thái Nguyên thì gập Đinh Văn Tỉnh, người có biệt danh là Tỉnh “Chố” vì anh ta có đôi mắt cá vàng, lúc nào cũng như chố mắt ra để nhìn thiên hạ. Tỉnh “Chố” mách nước cho mọi người biết:
— Ơ± một địa điểm gọi là Lăng Tạ, chỗ giáp giới Thái Nguyên-Bắc Giang ấy, các cậu có thể tới ăn hút thả giàn được đó. Tại đây có Lê Sỹ Cửu là đệ tử ruột của Cục Trưởng Cục Quân Nhu Trần Dụ Châu. Anh ta sẽ tổ chức một đám cưới cho người em. Họ cũng đang cần “văn nghệ giúp vui”…
Nghe thấy Tỉnh “Chố” mách nước như vậy, các văn nghệ sĩ nhà ta vội vàng kéo nhau tới Lăng Tạ. Đám cưới cực kỳ sang trọng được tổ chức tại ngôi nhà của Lê Sỹ Cửu, nằm trên một ngọn đồi. Ơ± hai bên đường, từ dưới chân đồi lên tới cổng nhà, để soi sáng cho đường đi là hàng ngàn ngọn nến bạch lạp. Cục Quân Nhu là cơ quan có nhân viên và phương tiện để ra vào Hà Nội hằng ngày, mua những đồ tiếp liệu như vải vóc thuốc men, các hàng thuộc loại “xa xỉ phẩm”… trong đó có thuốc lá thơm cho ông Hồ. Lê Sỹ Cửu luôn luôn cưA°ơi một chiếc xe đạp Sterling mà ghi đông là loại thép “dura” có pha chất “aluminium”. Xe đạp thời kháng chiến mà có được một cái đèn hiệu RADIUS để đi ban đêm là đã sang trọng lắm rồi. Xe đạp của Lê Sỹ Cửu có tới hai cái đèn, đèn nào cũng to như đèn pha xe hơi cơ. Hằng ngày Lê Sỹ Cửu là một người tiêu tiền như rác. Số tiền đổ vào đám cưới này chắc chắn là phải kinh khủng lắm. Người ta kể lại là về phần ăn thì sau khi nhà bếp làm thịt, những lông gà, lông vịt đổ xuống sông trôi lềnh bềnh đến mấy ngày mà vẫn chưa hết. Và cũng không thiếu một thứ rượu ngon nào trong bữa tiệc cưới này. Thuốc lá thơm như Philip Morris, Cotab, Camel, 3 con 5… đem ra mời khách hút, không phải từng điếu mà là từng bao. Ăn uống no say xong là có luôn dăm ba cái bàn đèn thuốc phiện để đãi khách. Lẽ tất nhiên Trần Dụ Châu là thượng khách đám cưới.
Thực ra, cái đám cưới cực kỳ hoang phí được tổ chức trên xương máu của nhân dân này cũng chẳng có ai biết đến, ngoài những người tới dự đám cưới. Cũng chẳng có ai bận tâm đi báo cáo ai cả. Vả lại, Cục Trưởng Cục Quân Nhu đã là nhân viên cấp cao nhất ở đây rồi. Hơn nữa, Trần Dụ Châu là người rất hào hiệp đối với bạn bè và các đàn em. Có người bạn nào ở xa tới thăm anh là anh tặng luôn cho người đó một bộ đồ kaki Mỹ. Cho nên nếu anh có để cho đàn em của anh làm chuyện hoang phí như thế này thì cũng không có ai nỡ trách móc anh làm gì. Chẳng may trong đám cưới này lại có Đoàn Phú Tứ.
Trong bữa ăn, có lẽ đã quá say — hay giả vờ say không chừng — Đoàn Phú Tứ nhìn thẳng vào mặt Trần Dụ Châu, lên tiếng phê bình sự hoang phí này. Lê Sỹ Cửu vội vàng chạy tới, nắm cổ Đoàn Phú Tứ kéo đi. Và để lấy lòng “xếp” của mình, anh ta giơ tay tát Đoàn Phú Tứ. Thế là chuyện này bùng nổ. Đoàn Phú Tứ lập tức báo cáo lên Trung Ương, đưa ra những tội của Trần Dụ Châu như: bao che cho đàn em phung phí công quỹ, tổ chức đám cưới vô cùng phí phạm trong khi chính phủ đang bắt cả nước phải hi sinh, có thái độ hung hãn với văn nghệ sĩ khi bị phê bình thẳng thắn. Câu chuyện lan tràn đi khắp mọi nơi. Ai cũng xì xào. Nếu người tố cáo không phải là Đoàn Phú Tứ thì chuyện này cũng có thể được lấp liếm đi, nhưng lúc đó người ta rất cần tới văn nghệ sĩ để động viên quần chúng cho nên Trung Ương đã không thể làm ngơ được. Kết quả, Cục Trưởng Cục Quân Nhu Trần Dụ Châu bị đưa ra xử án trước công chúng vào ngày mùng 5 tháng 9 năm 1950, có Chu Văn Tấn ngồi ghế Chánh A³n và có Trần Tử Bình đại diện của Chủ Tịch họ Hồ tới dự để cho phiên toà thêm phần long trọng. Trần Dụ Châu bị kết án tử hình và bị đem ra xử bắn tại sân vận động Thái Nguyên…”
Tôi biết sơ sơ là cô bạn ca sĩ Thương Huyền dễ thương và hát hay của tôi trong những ngày xa xưa, khi ra với kháng chiến thì cô trở thành người bạn tình hay người vợ chưa cưới của Cục Trưởng Cục Quân Nhu Trần Dụ Châu. Tôi cũng vừa mới gặp nàng ở Đài Phát Thanh bí mật một tháng trước đây. Lúc đó nàng đang ngồi trong phòng vi âm, tay cầm cái quạt nan để đuổi một lũ ruồi đang bu vào một vài nốt ghẻ ở nơi đôi chân thon đẹp của nàng, những nốt ghẻ mà ai đã đi kháng chiến thì cũng đều được thiên nhiên ô nhiễm âu yếm tặng cho. Rất niềm nở, Thương Huyền hỏi thăm tôi về Thái Hằng. Còn về phần tôi, vì mắc bệnh “tế nhị” cho nên tôi không dám thăm hỏi gì về đời tư của nàng cả. Nay biết chuyện Cục Trưởng Trần Dụ Châu gặp nạn, tôi nghĩ tới Thương Huyền rất nhiều. Từ giã trường dạy văn hoá và anh Nhượng, chúng tôi ra đi. Trong hành trình trở về Khu IV, trên một quãng đường nào đó, tôi chúc thầm cho người bạn cũ có một nụ cười rất phúc hậu qua khỏi được tất cả những khó khăn của cuộc đời. Rồi từ đó, tôi quên Thương Huyền.
HỐI KÝ PHẠM DUY/ chương 33







Thư của bà Đặng Thị Hoàng Yến: ” Đóng góp sửa đổi hiến pháp là thời khắc lịch sử của toàn thể nhân dân Việt Nam”

Tôi tên là: Đặng Thị Hoàng Yến – Chủ tịch Tập đoàn Tân Tạo, Chủ tịch Trường Đại học Tân Tạo (ttu.edu.vn) và là cựu đại biểu Quốc Hội KHóa 13 bị bãi miễn tại kỳ họp thứ 3. Mặc dù đang trong thời gian chữa bệnh, song tôi với mong muốn được đóng góp vào viẹc Sửa đổi Hiến Pháp – Một Thời khắc lịch sử của mỗi người dân Việt Nam, vì vậy tôi vẫn cố gắng viết và gởi đến Các Quý Ông Bà những điều tâm huyết của tôi:
I. QUYỀN CON NGƯỜI
Hiến pháp hiện nay quy định “Mọi người có quyền sống” (Điều 21, Chương II, Dự thảo Hiến pháp sửa đổi 2013). Nhưng sống như thế nào, quyền được sống được cụ thể bao gồm những quyền gì, thì Hiến Pháp chưa nêu rõ ràng và đầy đủ. Bất cứ một ddất nước tiến bộ nào, nhất là một chế độ tốt đẹp cần phải có quy định rõ ràng và bảo vệ các quyền cơ bản mà không ai có quyền tước bỏ đó là: Quyền tự do ngôn luận, Quyền tự do mưu cầu hạnh phúc, Quyền tự do tôn giáo, Quyền tự do hội họp và đặc biệt là Quyền tự do kiện Chính phủ sẽ cho phép nhân dân thực sự làm chủ, giám sát mọi hoạt động của Chính Phủ từ địa phương đến Trung Ương. Nếu người dân có Quyền tự do kiện Chính phủ sẽ là động lực khiến Chính phủ phải thực sự do dân, vì dân, hạn chế tham nhũng và ban hành các văn bản không hợp hiến. Hiện nay, do Hiến pháp chưa quy định về Quyền này nên có nhiều trường hợp người dân kiện Chính phủ nhưng Tòa án không nhận đơn.
Do vậy, để thể hiện được tính ưu việt của chế độ, thực hiện đúng mục đích về một chế độ do dân và thật sự vì dân, tôi đề nghị bổ sung và quy định rõ trong Chương II – Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân những quyền con người cơ bản sau:
- Quyền tự do ngôn luận
- Quyền tự do mưu cầu hạnh phúc
- Quyền tự do tôn giáo
- Quyền tự do hội họp
- Quyền tự do kiện Chính phủ
II. DÂN CHỦ
Đề nghị bổ sung và quy định rõ, công dân có quyền tự do thành lập và gia nhập Đảng phái và những Đảng phái này được quyền thành lập, tham gia vào Quốc hội và Chính phủ để điều hành đất nước nếu được sự tín nhiệm của nhân dân thông qua bầu cử.
Hiện nay, Trung Quốc đang có những bước tiến nhanh và vững mạnh trên nhiều mọi lĩnh vực, và không thể phủ nhận vai trò quan trọng và công lao của Đảng Cộng Sản Trung Quốc trong sự phát triển đó. Dù Trung Quốc là một nước mà Đảng Cộng Sản cầm quyền như Việt Nam, nhưng thực tế, Trung Quốc hiện nay có 09 Đảng, trong đó có Đảng Cộng Sản Trung Quốc, mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc vẫn không hề mất vai trò lãnh đạo của họ. Do vậy, dựa trên bài học của Trung Quốc, chúng ta nhận thấy rằng, nếu Đảng Cộng Sản có năng lực, được sự tin tưởng của nhân dân, thì dù cho tự do thành lập Đảng, Đảng Cộng Sản vẫn không mất vai trò lãnh đạo đất nước.
Đồng thời ngay chúng ta cũng có thể học tập kinh nghiệm ngay từ các nước Tư bản tiên tiến để đưa ra những quy định Cần và Đủ để được phép nộp đơn xin thành lập Đảng, nhưng phải thỏa mãn các điều kiện sau:
- Người nộp đơn thành lập Đảng phải là người có quốc tịch Việt Nam và sinh sống tại Việt Nam;
- Đảng hoạt động bằng tiền Đảng phí, các khoản tài trợ của cá nhân hoặc các tổ chức của Việt Nam, và hoạt động tại Việt Nam;
- Đảng phải cam kết hoạt động đúng Hiến pháp và Luật pháp Việt Nam
- Đảng phải cam kết không được nhận tài trợ của cá nhân và các tổ chức của nước ngoài.
- Việc thành lập Đảng không thỏa mãn các đìều kiện trên đều là Vi Hiến và sẽ bị xét xử với tội danh chống phá nhà nước.
Nếu Hiến pháp được bổ sung những điều trên, chắc chắn đất nước sẽ bước trên con đường dân chủ thực sự, cho phép Nhân dân được quyền tự do lựa chọn Đảng phái. Đảng Cộng Sản cũng sẽ có động lực thúc đẩy để tự đổi mới, đại diện cho nhân dân và được nhân dân ủng hộ, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Đảng Cộng Sản nhiều năm, quy tụ được mọi ngọn cờ Đảng phái dưới ngọn cờ của mình.
Như vậy, Đảng Cộng Sản nếu vẫn thật sự “do dân và vì dân” thì sẽ vẫn được nhân dân tín nhiệm, vẫn nắm được vai trò lãnh đạo khi được nhân dân tín nhiệm và sẽ thực sự biến các Đảng phái ở nước ngoài trở thành vi hiến và các nước không thể lợi dụng để can thiệp vào nội bộ Việt Nam. Hiện nay, việc chỉ có 1 Đảng đã khiến cả thế giới lên án; và theo xu thế tiến bộ của Thời đại, nếu tiếp tục không sửa đổi thì việc này sẽ trở thành quá muộn, các Đảng viên Đảng Cộng Sản sẽ không có sự cạnh tranh, không nhận thấy áp lực cần phải đổi mới, tạo ra sự độc quyền không lành mạnh.
III. QUYỀN SỞ HỮU ĐẤT ĐAI
Điều 54 Dự thảo Hiến pháp Sửa đổi 2013 quy định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.” thì tất yếu phải có đa sở hữu trong lĩnh vực đất đai, phù hợp với các thành phần kinh tế. Chính vì vậy, đề nghị sửa đổi Điều 57 và 58, Chương III, Dự thảo Hiến pháp Sửa đổi 2013.
Thực tế, hàng năm có tới 70 – 80% khiếu kiện kéo dài liên quan đến lĩnh vực đất đai chỉ vì Chế độ sở hữu đất đai không tương thích với nhiều thành phần kinh tế đã dược Luật pháp công nhận đang vận hành và phát triển khá tốt.
Hãy cho người dân được quyền lựa chọn: nếu họ muốn được giao đất sở hữu thì họ phải trả tiền, nếu muốn thuê thì quy định tiền thuê. Như vậy,sẽ giúp cho Nhà nước có khoản thu lớn cho Ngân sách, và hơn hết giúp cho chấm dứt được khiếu kiện kéo dài và tham nhũng hoành hành trong lĩnh vực đất đai.
Ví dụ về chính sách Hóa giá nhà: Từ những năm 1985 – 1990, khi tôi đang công tác tại Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh đã tham gia kiến nghị xin thực hiện thí điểm thực hiện đề án hóa giá nhà và đã được Thành Phố và Trung Ương cho thực hiện thí điểm đầu tiên trên cả nước. Sau khi áp dụng thành công, chính sách hóa giá nhà đã được áp dụng trên cả nước rất thành công. Chính điều này đã khiến nhiều cán bộ công nhân viên phấn khởi, nhà nước thu đựợc lượng tiền lớn và các nhà hóa giá được bảo quản, nâng cấp để làm đẹp đẽ cả quang cảnh chung của cả thành phố…
Do vậy, nếu cho người dân có quyền sở hữu đất đai, nhân dân cả nước sẽ phấn khởi, sử dụng đất có hiệu quả, tránh được khiếu kiện và tham nhũng trong lĩnh vực đất đai và có khoản thu lớn cho Ngân sách Nhà nước.
Trên đây là một số ý kiến và kiến nghị bổ sung và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, các ý kiến thể hiện tinh thần xây dựng và trách nhiệm cao nhất đối với việc sửa đổi Hiến pháp, một sự kiện hệ trọng, có ảnh hưởng lớn đến tương lai của đất nước. Kính mong các đồng chí trong Ban Sửa đổi Hiến pháp sẽ có một sự xem xét khách quan và chính xác nhất, để đảm bảo việc Hiến pháp thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại mới.
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc sức khỏe!
Người đóng góp ý kiến
Đặng Thị Hoàng Yến







February 1, 2013
Cải cách ruộng đất… ngược
Không hiểu sao càng ngày tôi lại càng có cảm nhận rằng rất nhiều vụ cưỡng chế, tịch thu đất đai đang diễn ra ở Việt Nam chỉ là phong trào “Cải cách ruộng đất ngược” mà thôi. Tôi gọi nó là ngược bởi vì những gì diễn ra trong những năm của thập kỷ 50 của thế kỷ trước là nhằm mục đích tịch thu đất của người giầu để chia cho người nghèo. Mặc dù có rất nhiều sai phạm, thậm chí có thể gọi là tội ác, gây tang thương cho nhiều gia đình nhưng mục đích chính vẫn nhằm để người cầy có ruộng. Giờ đây phần lớn những cuộc cưỡng chế đã và đang diễn ra, cho dù không phải là chỉ đạo trực tiếp từ TW nhưng các chính quyền địa phương đã sử dụng nó nhưng một công cụ để thực hiện cái gọi là “tịch thu đất của người nghèo để gom cho một số người giầu” và hoàn toàn không vì lợi ích chung cho đất nước. Chính quyền địa phương bao giờ cũng dùng lực lượng an ninh như cánh tay sắt để đạt bằng được mục đích của mình kể cả sự tàn bạo không thể chấp nhận được ở một thế chế luôn vỗ ngực cho mình là dân chủ. Hơn thế nữa các tập đoàn tư bản cá nhân, cổ phần hóa đều sử dụng chính quyền địa phương đưa lực lượng an ninh cưỡng chế dân lành mặc dù những dự án này hoàn toàn không phải là các dự án nhà nước. Đây là việc làm phạm pháp, không thể chấp nhận được.
Trong những lần về Việt Nam làm việc về các dự án tài trợ nước sạch của chính phủ Czech cho các vùng khó khăn ở Việt Nam thì đoàn chúng tôi, 3 người, hai cậu bạn người Czech và tôi đã có điều kiện đi gần hết các miền của Tổ Quốc. Bọn tôi choáng về số lượng các sân golf ở các tỉnh mà có một điều ngược đời là tỉnh càng nghèo thì số lượng sân golf càng nhiều, càng hiện đại và diện tích sân golf càng lớn. Lãnh đạo tỉnh nào khi gặp gỡ chúng tôi đều rất tự hào khoe về những sân golf của tỉnh mình và có những tỉnh đang cố gắng để có sân golf lớn nhất và hiện đại nhất Đông Nam Á. Bọn tôi, những người làm về tài nguyên và môi trường nên lúc đầu đã không khỏi ngạc nhiên về những vị trí của những sân golf như vậy, những vị trí mà dân Việt Nam mình gọi là đắc địa. Sau những lần đi các tỉnh và nhìn thấy thực trạng như vậy thì một cậu bạn tôi, chủ tịch hội đồng quản trị và đồng thời là một chuyên gia có tầm cỡ về đất đai, môi trường mới hỏi tôi về giá đất ở Việt Nam. Sau khi biết được những cái giá giời ơi, đất hỡi như vậy thì cậu chàng phán ngay cho một câu: Tao hiểu rồi và cậu giải thích là càng nhiều sân golf và càng to thì địa phương càng có nhiều tiền vì đặc thù của sân golf là người ta có thể rút tiền vô tội vạ mà khó ai có thể kiểm soát được. Điểm thứ hai, quan trọng hơn là từ đất nông nghiệp thì các chủ đầu tư sẽ rất dễ dàng chuyển sân golf thành đất thổ cư và đó là những mỏ vàng khổng lồ cho những nhóm quyền lợi. Càng ngày tôi càng thấy nhận xét của cậu ta là đúng và giờ đây trên các sân golf ở Việt Nam đang thi nhau mọc lên những villa đắt tiền, không phải ai cũng có thể mua được. Chúng tôi đã được tận mắt nhìn thấy những cánh đồng bỏ hoang nhiều năm trong khi người nông dân không có đất trồng trọt chỉ vì chúng là đất dự án. Họ đã phải bán với cái giá rẻ như bèo để rồi sau một thời gian những người sở hữu mới có thể bán đi hoặc nhượng lại với cái giá ngất ngưởng gấp nhiều lần cái giá ban đầu mà không phải bỏ thêm bất kỳ một đồng xu nào cả hoặc rất ít.
Nền kinh tế Việt Nam tồn tại được là do các khoản vay mượn từ nước ngoài chứ hoàn toàn không thể tự thân vận động được. Một ngày nào đó, khi đất không còn để bán, khi tài nguyên cạn kiệt, ngành công nghiệp vẫn chỉ ở bước sơ khai ban đầu và nông nghiệp đang chết dần chết mòn cùng với những khoản nợ khổng lồ đè nặng trên vai thì xã hội Việt Nam sẽ ra sao? Tôi nhớ mãi câu nói của chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn khi phóng viên hỏi về những vụ cho doanh nghiệp nước ngoài thuê đất rừng biên giới phía Bắc trong vòng 50 năm với cái giá tượng trưng. Ông ta đã nói rằng sau 50 năm nữa thì đó sẽ là việc của con cháu và chúng nó sẽ phải lo. Không hiểu đó cũng là suy nghĩ ngầm của những người lãnh đạo từ địa phương đến trung ương không? Nếu đúng như vậy thì buồn cho một đất nước từng có những nguồn tài nguyên phong phú với những con người cặm cụi làm việc cả cuộc đời nhưng nghèo vẫn hoàn nghèo và thậm chí càng nghèo.
Các hệ thống truyền thông Việt Nam giờ đây không còn nói đến Việt Nam “rừng vàng, biển bạc” và Sài Gòn sẽ vĩnh viễn không bao giờ được gọi là “hòn ngọc của Viễn Đông” nữa. Thời đó đã qua lâu rồi.
Czech Republic, 12.03.2012
Theo blog PV







Một thực tế đáng xấu hổ
Thấy cái tít bài :“Trí thức Hà Nội mong được tạo điều kiện phản biện” ( tại đây) mình hơi bị sốc. Đọc kĩ bài thì thấy không ai nói câu đó cả, chỉ cho hai người nói, một là nhà thơ Bằng Việt, hai là ông hiệu trưởng Phan Lê Hòa, nhưng dù nói năng nhạt nhẽo hai người này không nói như vậy. Cũng có thể trong cuộc gặp gỡ đầu xuân của lãnh đạo Hà Nội với “đại diện trí thức Hà Thành”, toàn bộ cuộc gặp gỡ đã toát lên cái ý đó nên tác giả Chu Hoàng đã giật tít vậy chăng?
Nếu đúng vậy thì hèn quá, kém quá, xấu hổ quá! Mấy ông đó không thể đại diện cho trí thức Hà Thành được đâu, không bao giờ!
Phản biện là quyền con người, ấy là quyền mở miệng hà cớ gì phải xin? Ở một Đất nước mà tự do ngôn luận xếp thứ 172 trong 179 quốc gia thì đợi chính quyền cho phản biện rất chi là không tưởng, nó cho thấy cái sự xin- cho, ý thức ” mọi việc có đảng lo” đã thấm vào máu của đám trí thức giả cầy này rồi.
Phản biện là quyền con người, là đạo đức của trí thức, cho nên trí thức phải đòi cho được, giành cho được cái quyền ấy các vị “đại diện trí thức Hà Thành” ơi!
Bài báo làm mình nhớ cuộc phỏng vấn mình của ông Đào Tuấn cách đây vài tháng. Nay đăng lại cho bà con coi, cũng là lời nhắn gửi tới mấy ông gọi là “đại diện trí thức Hà Thành” kia.
- Nhiều ý kiến coi phản biện chỉ là “nói ngược”, thậm chí còn suy diễn thêm động cơ “để được nổi tiếng”, theo ông, phản biện là thế nào và nó có ý nghĩa thế nào đối với hai chữ ý thức. Theo ông, phản biện xã hội có phải là một vai trò không thể thiếu của trí thức?
NQL:Tôi nghĩ phản biện là phản ứng tự nhiên của con người có ý thức trước mọi vấn đề anh ta gặp phải, do đó phản biện là nhu cầu của cuộc sống giúp hoạt động của con người đúng đắn hơn, chất lượng hơn. Rõ ràng phản biện là một hoạt động khoa học của con người có ý thức, biết tư duy. Tự bóp nghẹt hoặc bị bóp nghẹt ý thức phản biện sẽ làm cho tuy duy bị đình trệ hoặc lệch lạc, chứng điên cũng từ đây mà ra.
Từ phản biện của con người cá nhân ta dễ dàng thấy phản biện xã hội. Ở đây tôi thích ý kiến của Nguyễn Trần Bạt: “Nếu một xã hội không có phản biện và mỗi hành động đều được đương nhiên tiến hành thì đấy là cách thể hiện rõ rệt nhất tính chất phi dân chủ của xã hội.”
Theo đó ta thấy cố tình nói ngược để được nổi tiếng không phải là hành động khoa học của phản biện, nó là trò chơi vô lối của những người thân kinh không bình thường. Những ai coi phản biện chỉ là chỉ thích nói ngược để được nổi tiếng cũng là người có thần kinh không bình thường.
- Trong cuộc tranh luận hồi đầu năm, có một thuật ngữ đã được đưa ra: “Trí thức trùm chăn”. Theo ông, hiện tượng này có thể lý giải thế nào từ vấn đề tự thân của người trí thức, và các nguyên nhân khác?
NQL: Phản biện là hoạt động khoa học thường xuyên của trí thức trong môi trường chuyên môn của anh ta, giúp cho anh ta ngày càng tiệm cận đến chân lý. Ai không biết phản biện kẻ đó không phải là trí thức.
Phản biện xã hội là đạo đức của trí thức để thể hiện quyền công dân và ý thức xã hội của anh ta. Vì trí thức là người có học, tiếng nói của anh ta rất được xã hội coi trọng và chú ý nên phản biện xã hội là nghĩa vụ của anh ta, khi xã hội cần tiếng nói phản biện anh ta phải lên tiếng. Trí thức từ chối hoặc né tránh nghĩa vụ đó gọi là trí thức trùm chăn.
Cho rằng mình lo công việc chuyên môn cho tốt là được rồi, mọi việc có đảng và nhà nước lo là lý lẽ của những ai không phải trí thức hoặc của trí thức trùm chăn. Trí thức trùm chăn tất nhiên là rất đáng khinh bỉ.
Việc phản biện của giới trí thức hiện nay phải chăng là đang rất yếu ớt, một diễn đàn công khai, một sự tự do nhất định trong phản biện, hay điều gì sẽ khiến người trí thức có thể mạnh dạn đóng góp chất xám và kiến thức của mình cho xã hội, cho đất nước?
NQL:Câu hỏi thực dễ trả lời nhưng khó nói, bởi vì ta chưa có môi trường cho phản biện phát triển. Trí thức muốn phản biện phải bước qua sợ hãi. Có 50% trí thức nước ta không dám bước qua sợ hãi, 49,9999% trí thức không dại gì phản biện, họ cần vinh thân phì gia hơn là phản biện. Chỉ còn 0,00001% trí thức dám bước qua sợ hãi để phản biện. Đó là một thực tế đáng xấu hổ.
Phần còn lại của câu hỏi tôi xin nói thẳng thế này: Nếu chúng ta còn coi tự do ngôn luận là không có lợi và nguy hiểm thì chớ có nói đến một diễn đàn công khai cho trí thức phản biện, nó rất viễn vông.
NQL







Tâm sự của một dư luận viên về việc “đánh” Huy Đức và Bên thắng cuộc

Rõ ràng là việc các xếp vừa giao, thật sự là nó quá sức đối với em, một người vừa mới gia nhập đội ngũ dư luận viên nửa tháng nay. Về nhiệt tình thì em có thừa, tiền bạc và các phương tiện hành nghề thì đã có các xếp chu cấp thoải mái. Nhưng để đánh được Huy Đức trong vụ Bên thắng cuộc thì chừng đó là còn quá thiếu.
Đã có nhiều bác vung tay đấm. Nhưng em xin nói thật, tuy là người trong đội ngũ nhưng chính em còn cảm thấy các cú đánh ấy không thuyết phục được mấy người. Có cú thì đánh cho gọi là có đánh, cú khác thì bị coi là đánh dưới thắt lưng Huy Đức. Loay hoay cũng chỉ gồm những cụm từ lặp đi lặp lại: cái nhìn thiên kiến về lịch sử, xuyên tạc cuộc kháng chiến chống xâm lược, cái nhìn không thiện cảm đối với một số lãnh đạo và thể chế, không biết thuộc thể loại gì… Theo em, để tăng cường chất lượng các bài viết mà em tạm gọi là “đánh Huy Đức”, ta phải thay đổi phương pháp chứ không thể cứ lấy cái cách qui chụp đã lỗi thời làm chiêu chính được. Kết án người khác bằng những lập luận chung chung, vô căn cứ như thế này, thật chẳng khác gì một tấn bi hài kịch, mà người bị giễu cợt và nguyền rủa cuối cùng lại chính là đội ngũ dư luận viên chúng em.
Ở đây em xin được nói thẳng: chỉ có Huy Đức hoặc là người xuất chúng hơn cả Huy Đức mới có thể “hạ gục” được Bên thắng cuộc. Dẫn chứng phải được trả lời bằng dẫn chúng, sự kiện phải được đối chiếu với sự kiện. Nếu “phe ta” không chứng minh được các sự kiện mà Huy Đức đã mất mười năm để ghi chép cẩn thận đến từng ngày, từng buổi là sai trái và bịa đặt thì chuyện cả một cộng đồng dư luận viên đông đảo vẫn thua Bên thắng cuộc là cầm chắc trong lòng bàn tay đó, thưa các xếp.
Trong tình hình này, em nghĩ ta cần phải huy động toàn bộ sức mạnh tổng lực của cả hệ thống để đối phó thì mới mong ngăn chặn được các hiệu ứng gây ra và ngày càng lây lan đến chóng mặt của Bên thắng cuộc. Trước đây, mỗi khi gặp nhau, người ta thường hỏi thăm: Có khỏe không? Còn bây giờ sau cái bắt tay là câu cửa miệng: Đọc Bên Thắng cuộc chưa?
Làn sóng tìm mua, tìm đọc Bên thắng cuộc có vẻ như ngày càng lên cao và chưa có dấu hiệu dừng lại. Báo chí chính thống càng nói nhiều về Bên Thắng cuộc thì chẳng khác nào quảng bá không công cho nó, làm cho người ta càng háo hức, càng hăm hở và … hồi hộp tìm đọc cuốn sách. Không loại trừ rằng nhiều người sẽ thay đổi về nhận thức tư tưởng sau khi đọc xong cuốn sách đình đám này. Đây là một kết quả vô cùng nguy hiểm và không hề được mong đợi trên mặt trận tư tưởng chính trị, chống diễn biến hòa bình.
Thưa các xếp,
Đọc xong 2 tập với tổng số 1.185 trang đầy ắp các sự kiện và con số của Bên thắng cuộc, em thật sự cảm thấy sợ hãi. Em tự thấy rằng với một dư luận viên óc bằng hạt gạo như em, nhiệm vụ tiếp tục “đánh” Bên thắng cuộc mà các xếp vừa giao là hoàn toàn bất khả thi. Em xin các xếp cho em được nhường lại cho đồng chí khác.
Vợ em cũng rất ủng hộ nguyện vọng này của em, mặc dù cô ta mới chỉ đọc vài chương của Bên thắng cuộc. Cô ấy bảo: Đánh là đánh thế nào, anh xin nghỉ đi, ở nhà em nuôi.
Em xin đội ơn các xếp.
Dư luận viên
VO VĂN VE







Không dễ chút nào, tiếp câu chuyện sáng qua
Ba Sàm
Bàn tiếp câu chuyện sáng qua về việc liệu có bên nào trong giới chóp bu biết nắm lấy cơ hội tranh thủ sự ủng hộ của Dân, thông qua việc mở rộng quyền tự do dân chủ, trong cuộc “chỉnh đốn” mà hóa ra chủ yếu là tìm cách “chỉnh nhau” rồi “đốn hạ”.
Trước hết, trở lại bài viết của blogger Osin, tức nhà báo Huy Đức hồi tháng 9/2012: Bẫy việt vị của Thủ tướng, trong đó đề cập tới những “đòn phép” dân chủ đưa ra nhằm cứu nguy cho bản thân ra sao. Một mặt, “đồng chí X” ngầm ra lệnh cấm biểu tình ở Hà Nội; mặt khác, cũng chính “đồng chí X” bất ngờ đưa ra đề nghị sớm có luật biểu tình. Sau đó lại đăng đàn “trả lời chất vấn” bằng một bài chuẩn bị sẵn rất mạch lạc, mạnh mẽ về Biển Đông nhưng bị ngờ là nhằm tránh búa rìu dư luận về Vinashin, ngân hàng. Kế đến là những màn “rỉ tai” những câu chuyện như thể có nhóm “thân Tàu” đang tính kế hại Thủ tướng. Chỉ có chiêu cuối cùng đã không được tung ra, sau khi thông tin này đã được đưa lên mạng: “Nhóm ‘13’ hiện đã chuẩn bị theo đơn đặt hàng của ông Nguyễn Tấn Dũng một bài phát biểu về nhà nước pháp quyền”.
Không thấy bài phát biểu đó, nhưng mới đây – 25/1/2013, “Nhóm 13” này, được gọi là “các chuyên gia kinh tế”, bất ngờ xuất hiện qua VTV-Thời sự và vài bản tin báo chí. Cuối buổi làm việc, trong câu chuyện tâm tình giữa bữa cơm thân mật tại Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng cũng đã thổ lộ những tâm tư mong muốn làm sao phải dứt khoát mở rộng hơn quyền tự do dân chủ cho người dân, thông qua một số vấn đề rất cụ thể hiện nay, thì chế độ này mới hòng tránh khỏi bị lật đổ. Đã có người trong nhóm cho rằng, quả tình, nhìn các gương mặt trong giới chóp bu chính trị hiện nay, chỉ có ông là người đủ bản lĩnh, điều kiện để đi đầu nắm lấy thứ vũ khí tối thượng đó – lòng Dân.
Nghe có vẻ buồn cười khi một người được cho là đang mất lòng dân nhất mà có thể sẽ được lòng dân nhất. Nhưng sẽ là thực tế, rất nghiêm chỉnh khi nó mang ý nghĩa như một sự “sám hối”, không còn là thủ đoạn chính trị nữa. Tuy nhiên, có thể là đã muộn với ông thủ tướng. Giữa lúc những sức ép cải cách thể chế chính trị, dân chủ hóa thông qua sửa đổi Hiến pháp đã trở nên rất mạnh mẽ, đúng cơ hội hiếm có, làm cho những người bảo thủ nhất cũng phải suy tính lại, thì chắc khó có thể chịu cho ông nắm lấy ngọn cờ này để thoát hiểm ngoạn mục một lần nữa.
Vậy thì liệu có thể nào chính những người “kiên định lập trường” nhất sẽ nắm lấy ngọn cờ cải cách này hay không? Dẫu “muốn” thì với bản lĩnh xưa nay đã rõ, họ có làm nổi không, có “qua mắt” được đám “bạn vàng” ở Bắc Kinh không? Nếu “không” thì chỉ còn một cách cuối cùng … Xin được bàn tiếp vào sáng mai – ngày 3/2.







Có nên đưa vấn đề sự lãnh đạo của Đảng vào Hiến pháp hay không ?
Hồ Anh Hải
NQL: Bài viết này đã đăng ngày hôm qua ( 1/1/2013), nay tác giả gửi lại bản thảo được sửa chữa ” cho logic hơn”. Vậy xin giới thiệu lại với bà con
Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) là đảng cầm quyền duy nhất ở nước ta trong ngót 70 năm qua, từng dẫn dắt nhân dân ta lập bao chiến công hiển hách được cả thế giới biết tới. Hiện nay Đảng đang nhấn mạnh vấn đề sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội. Tại hội nghị phổ biến Nghị quyết IV, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói : « Vào thời điểm này chúng ta càng cần phải khẳng định mạnh mẽ sự lãnh đạo của Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng. »
Để thực hiện mục tiêu đó, Tổng Bí thư nhấn mạnh : « phải xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo ». Thiết nghĩ nếu muốn thực sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng thì đây chính là biện pháp hiệu quả nhất. Có điều đây lại là một việc vô cùng gian nan vì nó gặp sự chống đối của « một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, trong đó có cả cán bộ cấp cao ». Bộ phận này chỉ muốn giữ chặt lấy cái họ coi là « bảo bối » có thể giúp họ yên vị ở chiếc ghế lãnh đạo, chứ không muốn bị chấn chỉnh, loại bỏ.
Họ cho rằng cứ giữ được Điều 4 Hiến pháp thì sẽ giữ được vai trò lãnh đạo của ĐCSVN. Vì thế khi nghe ai bàn tới Điều 4 là họ nghi ngờ ngay động cơ của người đó. Điều 4 bị coi là rất nhạy cảm, ai cũng tránh động chạm đến vì sợ bị chụp mũ « Chống Đảng, chống nhà nước XHCN ». Ý kiến xây dựng Hiến pháp có động cơ tốt, nội dung tốt nhưng cứ liên quan tới Điều 4 là đều bị xếp xó, chẳng báo chí nào dám đăng vì sợ vạ lây. Rốt cuộc những lời « nghịch nhĩ trung ngôn » không bao giờ tới được những cái tai cần nghe.
Coi nhẹ công tác xây dựng, chấn chỉnh Đảng, nhấn mạnh một chiều việc bám giữ Điều 4 Hiến pháp là suy nghĩ không có lợi cho Đảng và dân tộc. Điều 4 có vị trí cực kỳ quan trọng trong Hiến pháp, có liên quan tới vận mệnh của dân tộc và của ĐCSVN, cho nên chúng ta nhất thiết phải bàn cho ra nhẽ và thống nhất nhận thức về điều này.
Hiến pháp là bộ luật cơ bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong một nước. Mỗi điều văn có đánh số thứ tự trong Hiến pháp đều là một điều luật có tính cưỡng chế chứ tuyệt đối không phải là một sự giải trình vô thưởng vô phạt. Khi Điều 4 Hiến pháp đã nói ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội, thì điều đó có nghĩa là :
1- Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, đảng viên đều được giữ vai trò lãnh đạo cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội;
2- Toàn thể bộ máy nhà nước và xã hội, nghĩa là toàn dân tộc, đều nhất thiết phải tuân theo sự lãnh đạo của ĐCSVN, ai không tuân theo là vi hiến và sẽ bị xử lý (Điều 123).
Điều 4 lần đầu tiên được đưa vào Hiến pháp nước ta năm 1980, nhằm xác lập vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với nhà nước và xã hội. Được biết Điều 4 là học từ Điều 6 Hiến pháp Brê-giơ-nep của Liên Xô. Rất tiếc là chưa thấy Quốc hội có văn bản chính thức giải thích lý do việc làm đó.
Bài này thử tìm hiểu tính hợp hiến của vấn đề đưa vào Hiến pháp các quy định về vai trò lãnh đạo của đảng cầm quyền (đại loại như Điều 4 và Điều 70 Hiến pháp sửa đổi). Đây chỉ là thảo luận về lý thuyết, không nhằm vào bất cứ đảng phái cụ thể nào.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa « đảng là một nhóm người kết với nhau để hoạt động đối lập với những người hoặc nhóm người khác mục đích với mình. » Từ đây có thể rút ra kết luận :
1- Đảng chỉ là một thiểu số ;
2- Mỗi đảng có mục đích riêng, tức có lợi ích riêng của mình ;
3- Do hoạt động đối lập với các đối tượng khác trong xã hội nên công việc của đảng phải được giữ kín, không thể công khai.
Hiến pháp là sản phẩm đúc kết trí tuệ nền văn minh của dân tộc, nó phải được xây dựng trên nền tảng những đạo lý muôn thủa không ai có thể bác bỏ của nhân loại (như dân chủ, tự do, bình đẳng), có vậy nó mới thiêng liêng và có hiệu quả lâu dài, tốt nhất là mãi mãi, hết sức tránh làm lại và hãn hữu lắm mới có bổ sung. Khi đưa một điều văn vào Hiến pháp, phải xem xét hậu quả có thể xảy ra sau đây vài chục, thậm chí cả trăm năm. Hiến pháp phải phục vụ lợi ích của dân tộc, không được phục vụ lợi ích của một nhóm người. Dân tộc tồn tại mãi mãi cùng đất nước ; nhóm người hoặc đảng phái thì có thể biến đổi và không tồn tại mãi được. Một bản Hiến pháp có thể dùng cho muôn đời là mong muốn cao cả của mọi nhà lập pháp.
Lịch sử thế giới và Việt Nam cho thấy đảng phái nào cũng xử lý công việc đất nước theo lợi ích của mình; lợi ích đó có nhất trí với lợi ích dân tộc hay không thì tùy thuộc vào tính chất của đảng ; nhưng không ai có thể biết trước sự thay đổi tính chất, phẩm chất của các đảng phái. Có nước tự xưng là Đảng Cộng sản (ĐCS) cầm quyền và xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng thực tế lại thi hành chế độ lãnh đạo cha truyền con nối hệt như chế độ phong kiến, thậm chí còn hà khắc hơn, khiến hàng triệu dân chết đói trong khi lãnh đạo vẫn phè phỡn. ĐCS Trung Quốc thời Mao Trạch Đông ra sức giúp Việt Nam còn ĐCS thời Đặng Tiểu Bình thì lại đem quân xâm lược Việt Nam. Tính chất ĐCSTQ thay đổi đến mức ĐCSVN « vừa là đồng chí vừa là anh em » với họ cũng không ngờ tới.
Hầu như đảng nào cũng do một người quyết định. Lãnh tụ khác thì đảng sẽ khác. Thí dụ ĐCS Liên Xô thời Lê-nin, Xta-lin, Brê-giơ-nep rất khác nhau. Chủ tịch ĐCS Trung Quốc Mao Trạch Đông cho phép bắt giam và hành hạ Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ đến chết mà không qua xét xử… Vì thế « đảng trị » chính là « nhân trị », trái với « pháp trị » là xu thế tiến bộ Hiến pháp ta đã áp dụng (Điều 2 : nhà nước pháp quyền).
Trong lịch sử thế giới chưa từng có đảng hoặc lãnh tụ nào mãi mãi không mắc sai lầm, nhất là khi họ cầm quyền, hậu quả chỉ làm khổ nhân dân.
ĐCS Trung Quốc cuối thập niên 50 từng làm hơn 30 triệu dân chết đói nhưng đảng vẫn yên vị lãnh đạo và tiếp tục phát động Cách mạng Văn hóa làm cả xã hội đại loạn, hàng trăm triệu dân bị thiệt hại về mọi mặt. Nhưng Hiến pháp nước này lại quy định nhân dân phải ủng hộ Đảng và lãnh tụ tối cao. Cán bộ ở cơ sở đều biết dân chết đói như rạ nhưng không dám báo cáo lên cấp trên vì sợ làm mất uy tín chính trị của lãnh đạo.
ĐCS Liên Xô sau nhiều năm cầm quyền đã suy thoái nặng nhưng theo Điều 6 Hiến pháp 1977 vẫn được giữ đặc quyền lãnh đạo. Khi nhân dân chán ghét Đảng tới mức Quốc hội sửa Điều 6, xóa bỏ quyền lãnh đạo của ĐCS thì việc đó đã làm Đảng tan rã, nhà nước Xô Viết sụp đổ trong khi đang nắm quyền lực mạnh nhất thế giới của một siêu cường. Hậu quả là đất nước rơi vào vực thẳm rối loạn và đói nghèo, tài sản công do nhân dân lao động làm ra trong hơn 70 năm bị tầng lớp tư bản mới chiếm đoạt. Rốt cuộc, nhân dân bị thiệt hại nhất bởi sự đổ vỡ lẽ ra có thể tránh được nếu sớm thực hiện nhà nước pháp quyền.
Từ những sự thực lịch sử kể trên có thể kết luận :
Việc dùng Hiến pháp cho phép một đảng duy nhất nắm quyền lãnh đạo đất nước vô thời hạn là một sai lầm về pháp lý đi ngược nguyên tắc nhà nước pháp quyền ; sai lầm này tiềm ẩn nguy cơ đem lại kết cục bi thảm cho đất nước.
Hiến pháp có thể dễ dàng trao quyền lãnh đạo đất nước cho một đảng nào đó khi đảng được nhân dân tín nhiệm tuyệt đối, nhưng khi đảng cầm quyền thoái hóa biến chất tới mức đánh mất lòng tin của nhân dân thì Hiến pháp phải làm gì để tước bỏ đặc quyền đã trao ?
Chừng nào chưa trả lời được câu hỏi này thì xin hãy gác lại ý đồ dùng Hiến pháp để khẳng định vai trò lãnh đạo của đảng cầm quyền, mà nên tập trung vào việc nâng cao uy tín của đảng. Pháp quyền phải tách khỏi đảng quyền ; lẫn lộn đảng quyền với pháp quyền là một sai lầm lớn.
Một dân tộc khôn ngoan không thể trao số phận mình vô thời hạn vào tay một nhóm người không do mình định kỳ bầu ra và vì thế không thể nào giám sát được mọi hành vi của họ. Lãnh tụ sáng suốt thường rất hiếm, có khi vài trăm năm mới có một người, còn những kẻ cơ hội, phiêu lưu lại rất sẵn. Cuộc đấu tranh giữa các bè phái trong đảng có thể đưa tới kết cục những kẻ cơ hội lên nắm quyền lãnh đạo đảng và khi đó họ sẽ lợi dụng đặc quyền Hiến pháp trao cho để dẫn dắt dân tộc đi tới một tương lai nguy hiểm khôn lường, có thể phút chốc tiêu hủy toàn bộ thành quả đấu tranh cách mạng mà dân tộc đã giành được với sự trả giá bằng hàng triệu sinh mạng. Người ta có thể nói rất hay về bài học vô cùng đau xót của Liên Xô, nhưng lại chưa biết vận dụng bài học ấy, nhất là bài học về Điều 6 Hiến pháp Brê-giơ-nep.
Xin đừng đi theo vết xe đổ của Liên Xô : dùng Hiến pháp đưa Đảng lên vai trò lãnh đạo rồi lại sửa Hiến pháp hạ bệ vai trò đó, khiến Đảng tan rã, nhà nước sụp đổ, hậu quả làm nhân dân khốn khổ. Đảng nên giành lấy quyền lãnh đạo đất nước bằng uy tín của mình trong lòng dân chứ không nên dựa vào sự áp đặt của Hiến pháp. Như thế dân mới được nhờ ; ngược lại là Đảng làm khổ dân.
Nhân dân có thể giám sát cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội, vì Quốc hội do dân định kỳ bầu ra và có quyền bãi miễn bất cứ đại biểu nào mất lòng dân. Với Chính phủ cũng thế, dân có quyền « đuổi Chính phủ » như Bác Hồ từng nói. Nhưng với đảng cầm quyền thì dân không thể làm được như vậy. Đảng bàn những vấn đề chủ trương chính sách tối mật và vấn đề nhân sự, sao có thể công khai cho « dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra » ; nhân sự trong đảng là việc riêng của từng đảng, nhân dân đều không thể biết và tham gia.
Người Trung Quốc từng nếm bài học vô cùng chua xót về việc đưa vào Hiến pháp những yếu tố bất định như đảng phái và cá nhân. Năm 1970 Trung ương ĐCS Trung Quốc thông qua Dự thảo Hiến pháp mới thay cho Hiến pháp 1954, trong đó có một điều viết « Quyền lợi và nghĩa vụ của công dân là ủng hộ Chủ tịch Mao Trạch Đông và bạn chiến đấu thân thiết của Người là Phó Chủ tịch Đảng Lâm Bưu, ủng hộ ĐCSTQ ». Hiến pháp chưa kịp công bố thì không lâu sau đó Lâm Bưu ám sát Mao bất thành phải trốn ra nước ngoài rồi chết vì máy bay rơi. Kết cục Hiến pháp phải bỏ câu « ủng hộ Chủ tịch Mao và Phó Chủ tịch Lâm » và sau khi Lâm chết 4 năm mới ban hành. Năm 1980, khi làm Hiến pháp mới, Ban lãnh đạo ĐCS Trung Quốc dứt khoát loại ra khỏi các điều khoản thuộc chính văn Hiến pháp tất cả những từ « Đảng cộng sản » và tên bất cứ lãnh tụ nào, quốc tế và trong nước, dù các vị ấy vĩ đại đến đâu.
Trung Quốc và Liên Xô từng có Lâm Bưu, En-xin. Ai dám bảo đảm Việt Nam mãi mãi không thể có những kẻ cơ hội như vậy ? Khi họ giành được quyền lãnh đạo đảng thì số phận dân tộc sẽ ra sao ? Xưa nay có mấy đảng không phát sinh bè phái, tranh giành quyền lãnh đạo đảng ?
Việc soạn thảo Hiến pháp phải cực kỳ thận trọng, phải nhìn xa trông rộng, tiếp thu các bài học quốc tế và trong nước. Lịch sử sẽ lên án những cách làm vô trách nhiệm mà các nhà lập pháp phạm phải. Không thể vì sợ quyền lực mà chấp nhận những thỏa hiệp vô nguyên tắc, đặt lợi ích vĩnh viễn của dân tộc xuống hàng thứ yếu.
Nguyên tắc duy nhất mà các nhà làm Hiến pháp nhất thiết phải tuân theo là đặt lợi ích dân tộc lên trên hết.
Có thể kết luận : việc đưa vào Hiến pháp vai trò của bất cứ đảng cầm quyền nào đều không phù hợp lợi ích lâu dài của dân tộc và do đó không hợp hiến và sẽ không được lòng dân.
Do trình độ tác giả nông cạn, bài viết này khó tránh khỏi sai sót ; mong được mọi người chỉ giáo.
Tác giả gửi cho Quê choa







Đề dân là chủ đích thực của Đất nước
Thu Hà thực hiện
Tuần Việt Nam xin giới thiệu lại cuộc trò chuyện với cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An về việc tu chính Hiến pháp 1992 sắp tới.
- Thưa ông, tại phiên Thảo luận ở hội trường về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011 và điều chỉnh chương trình 2010 hôm 9/6, hầu hết các ĐBQH phát biểu đều đề nghị sửa ngay một số điều của Hiến pháp 1992. Từng đảm nhiệm trọng trách người đứng đầu cơ quan lập pháp, ông chia sẻ sự quan tâm như thế nào về vấn đề này?
Cựu Chủ tịch QH Nguyễn Văn An: Tôi rất quan tâm, vì sửa đổi Hiến pháp là một sự kiện trọng đại của toàn dân. Tôi vừa hy vọng, lại cũng vừa lo, vừa băn khoăn trăn trở, vì không biết sửa đổi lần này có đáp ứng lòng mong đợi của nhân dân không?
Dân phúc quyết
- Vì sao ông có tâm trạng như vậy?
Tôi có tâm trạng như vậy là do kinh nghiệm cuộc sống mách bảo. Sửa đổi Hiến pháp là một cơ hội sinh hoạt chính trị dân chủ sâu rộng trong toàn dân, toàn dân có được hưởng quyền lợi và làm nghĩa vụ tham gia ý kiến và phúc quyết hay không?
Nếu nhân dân được tham gia và phúc quyết sửa đổi Hiến pháp lần này thì đây là một cơ hội to lớn do ta tạo ra để thúc đẩy mạnh mẽ và toàn diện công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tôi hy vọng là như vậy.
Nếu nhân dân không được tham gia và phúc quyết sửa đổi Hiến pháp lần này thì chúng ta lại bỏ lỡ mất cơ hội vô cùng quan trọng.
Kinh nghiệm các lần sửa đổi Hiến pháp trước đây là như vậy. Chúng ta đã sửa đổi Hiến pháp nhiều lần rồi song chưa đáp ứng lòng mong đợi của nhân dân, nhân dân chưa có quyền phúc quyết Hiến pháp mà lẽ ra quyền phúc quyết Hiến pháp là quyền đương nhiên của người dân dưới chế độ dân chủ cộng hòa. Chính vì thế mà tôi lo, tôi băn khoăn, trăn trở.
- Thưa ông, tôi hiểu rằng lần sửa đổi sau luôn phải đảm bảo tính kế thừa và hoàn thiện tốt hơn lần trước chứ ạ?
Về nguyên tắc là như vậy. Song không phải lúc nào, không phải cái gì cũng như vậy.
Sửa đổi nhiều lần mà vẫn chưa đạt yêu cầu
Có vẻ vẫn hơi chung chung, mong ông nói rõ hơn về việc này?
Vâng. Trước tiên tôi muốn nhấn mạnh rằng chúng ta đã sửa đổi Hiến pháp nhiều lần rồi mà vẫn chưa đạt yêu cầu. Nếu tính từ năm 1946 đến 1992 là 46 năm, ta đã sửa đổi lớn 3 lần vào các năm 1959, 1980 và 1992. Đó là chưa kể nhiều lần chúng ta sửa đổi nhỏ khác.
Sửa đổi như vậy là nhiều lần rồi, song dân chưa được phúc quyết lần nào. Hiến pháp 1946 quy định dân phúc quyết Hiến pháp song dân cũng chưa được phúc quyết vì chiến tranh đã xảy ra ngay sau đó.
Còn Hiến pháp sửa đổi 1959 lại quy định Quốc hội có quyền lập Hiến và lập Pháp. Thay đổi quan trọng đó do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân bất khả kháng là đất nước trong tình trạng chiến tranh và chia cắt hai miền Nam – Bắc; rồi chịu ảnh hưởng của mô hình cộng hòa Xô Viết,…
Tuy vậy chúng ta cần hiểu bản chất của thể chế cộng hòa hay dân chủ cộng hòa là quyền lập hiến phải thuộc về nhân dân, mà trực tiếp là cử tri cả nước.
Cho nên, không thể đặt Hiến pháp ngang hàng với các bộ luật khác do Quốc hội thông qua. Hiến pháp là bộ luật cơ bản, luật gốc, luật mẹ được Quốc hội lập hiến thông qua và nhân dân phúc quyết nên rất ổn định, đặc biệt là những vấn đề cơ bản của Hiến pháp, như thể chế chính trị, ai là chủ đất nước, quyền của người chủ đất nước là những gì; ai là nguyên thủ quốc gia, quyền của nguyên thủ quốc gia là những gì?; vấn đề phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước…
Thứ hai, tôi cho rằng các lần sửa đổi Hiến pháp sau này có một vài vấn đề cốt lõi lại xa rời hoặc lại không rõ ràng bằng Hiến pháp năm 1946 – Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ba vấn đề cốt lõi
- Sự xa rời và không rõ ràng như ông vừa nói thể hiện ở những điểm cụ thể nào?
Có nhiều vấn đề, ở đây tôi chỉ đề cập tới 3 vấn đề cốt lõi:
Đầu tiên, Hiến pháp phải làm rõ AI LÀ CHỦ ĐẤT NƯỚC? NGƯỜI CHỦ ĐÓ CÓ NHỮNG QUYỀN GÌ? Với câu hỏi này, có thể nhiều người sẽ nói ngay rằng Dân làm chủ chứ ai. Đúng. Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp và Pháp luật của nhà nước đều khẳng định như vậy. Quốc hiệu của Việt Nam đã ghi rất rõ: “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Thể chế chính trị là Dân chủ Cộng hòa, khác hoàn toàn với Quân chủ.
Do vậy, người chủ đất nước không phải là Vua nữa mà chính là Dân (không phân biệt thành phần, giới tính, giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo…).
Song quy định cụ thể về quyền làm chủ trực tiếp của người dân thì còn quá ít, nhất là quyền phúc quyết Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia thì các Hiến pháp sửa đổi sau này lại ghi khác hoàn toàn với Hiến pháp năm 1946:
Điều 21 của Hiến pháp 1946 quy định: “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, theo Điều 32 và Điều 70″.
Điều 32 của Hiến pháp 1946 quy định: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa nhân dân phúc quyết, nếu 2/3 tống số nghị viện đồng ý”.
Điều 70 của Hiến pháp 1946 quy định: “Sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức sau đây… Khi được nghị viên ưng chuẩn, phải đưa ra toàn dân phúc quyết”.
Những quy định trên đây của Hiến pháp 1946 có nghĩa rằng quyền lập Hiến hoàn toàn thuộc về toàn dân, thuộc về nhân dân, mà trực tiếp là cử tri cả nước.
Hiến pháp 1946 không có một điều nào, một ý nào quy định quyền lập Hiến thuộc về Quốc hội.
Các Hiến pháp sửa đổi sau này laị quy định Quốc hội có quyền lập Hiến:
Điều 43, 44 và 50 của Hiến pháp 1959 ghi: “Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, là cơ quan duy nhất “có quyền lập Pháp”, có quyền “làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp”.
Điều 6 của Hiến pháp 1980 quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”.
Điều 82 của Hiến pháp 1980 và Điều 83 của Hiến pháp 1992 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập Hiến và lập Pháp”…
Chúng ta nhận thấy ngay rằng đã có sự thay đổi rất lớn, rất cơ bản về quyền lập Hiến từ Dân đã được chuyển sang Quốc hội.
Câu hỏi đặt ra là ai có quyền chuyển quyền đó? Câu trả lời rõ ràng là chỉ có Dân mới có quyền đó. Song Dân chưa có văn bản nào chuyển quyền lập Hiến của Dân sang Quốc hội cả, mà là do chính Quốc hội tự quyết định giao quyền lập Hiến cho mình.
Có thể nói đơn giản thế này: Ai là người có quyền tối hậu trong lập Hiến thì người đó là người chủ đích thực của đất nước. Từ chỗ Dân làm chủ trực tiếp trong lập Hiến, chuyển sang chỗ Dân làm chủ gián tiếp thông qua Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của Dân. Như vậy có thể nói, từ Dân làm chủ đích thực chuyển sang Quốc hội thay mặt cho dân làm chủ.
Đó là sự thay đổi, sự xa rời rất lớn, rất cơ bản về người chủ đích thực của đất nước.
Quốc hội vừa lập hiến, vừa lập pháp, người ta gọi như thế là vừa đá bóng, vừa thổi còi.
Dân làm chủ có nghĩa là Dân phải quyết trực tiếp thể chế quốc gia, tức là Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, rồi Dân giao cho Nhà nước và giám sát Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ và Tòa án) quản lý đất nước theo Hiến pháp và những quyết định đó của Dân. Như vậy Dân mới làm chủ đích thực.
Đây là vấn đề xa rời bản chất dân chủ của nhà nước, cả về pháp lý, cả về thực tiễn. Như trên đã nói, do nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân bất khả kháng, vì vậy, chúng ta đã chuyển từ Dân chủ thành Quốc hội chủ. Song về thực chất thì Quốc hội cũng còn nhiều hình thức.
Hiện nay khoảng 90% đại biểu Quốc hội là đảng viên. Do vậy mà nhiều người cho rằng, về hình thức thì Quốc hội quyết, song thực chất là Đảng quyết . Quyết định của Quốc hội chỉ là quyết định mở rộng trong nội bộ Đảng. Như vậy là từ Dân chủ đầy đủ chuyển sang Quốc hội chủ một phần, Dân chủ một phần, song cả Dân và Quốc hội đều còn nhiều hình thức nên nhiều người cho rằng Đảng mới thực quyền. Thực tế đó cho thấy, quyền của Dân – của người làm chủ còn bị phân tán quá lớn.
Nói cho dễ hiểu, ai làm chủ đất nước thì người đó phải có hai điều kiện, hai quyền thực chất tối thiểu là:
a/ – Bầu cơ quan đại diện cao nhất cho mình (Quốc hội) để bầu cử ra các cơ quan Nhà nước,
b/ – Phúc quyết Hiến pháp để giao quyền của Dân cho các cơ quan Nhà nước thực thi.
Chúng ta nói nhiều về Dân chủ, rằng nhân dân ta là người chủ đích thực của đất nước, rằng nhà nước ta là nhà nước của Dân, do Dân và vì Dân,… song những quyền tối hậu của người Dân thì lại chưa được quy định cụ thể và đầy đủ trong các Hiến pháp sửa đổi sau Hiến pháp 1946.
Ngay Hiến pháp 1946 tuy đã qui định rất rõ quyền lập Hiến thuộc về nhân dân, song cũng không thực hiện được trong thực tiễn vì lý do bất khả kháng là chiến tranh đã nổ ra ngay sau đó.
Từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay, nhân dân ta là người chủ đất nước, song Nhà nước ta chưa một lần nào hỏi ý kiến Dân với tính chất là trưng cầu dân ý cả. Nhân dân ta chủ yếu mới làm chủ gián tiếp thông qua các cơ quan đại diện như Quốc hội và HĐND các cấp, nhân dân mới làm chủ trực tiếp trong bầu cử trưởng thôn, bầu cử đại biểu QH và HĐND các cấp. Như vậy chưa đúng với quyền và nghĩa vụ của người Dân trong thể chế Dân chủ Cộng hòa trong điều kiện hòa bình và thống nhất đất nước như hiện nay.
Nếu Dân được phúc quyết Hiến pháp thì Hiến pháp chính là văn bản pháp lý quan trọng nhất của Dân trao quyền lực của Dân cho Nhà nước.
Ngược lại, nếu Dân chưa được phúc quyết Hiến pháp thì cũng có nghĩa là Dân chưa trao quyền lực của Dân cho Nhà nước bằng một văn bản pháp lý cao nhất là Hiến pháp.
Sửa đổi Hiến pháp lần này cần giao lại quyền phúc quyết cho dân như Hiến pháp 1946 đã quy định cho đúng với bản chất của thể chế cộng hòa hoặc dân chủ cộng hòa, hoặc cộng hòa xã hội chủ nghĩa.
- Vấn đề cốt lõi thứ hai ở đây là gì?
Đó là việc xác định: AI LÀ NGUYÊN THỦ QUỐC GIA? VÀ NGƯỜI ĐÓ CÓ NHỮNG QUYỀN GÌ?
Vấn đề này Hiến pháp 1946 ghi rất rõ, và Nhà nước ta khi đó thực hành cũng rất tốt.
Các Hiến pháp sửa đổi sau này lại không rõ ràng bằng Hiến pháp 1946, và trong thực hành cũng rất lúng túng.
Theo quy luật tự nhiên, đàn chim bao giờ cũng có chim đầu đàn, đàn trâu bao giờ cũng có trâu đầu đàn, dàn nhạc phải có nhạc trưởng,… Với một quốc gia cũng vậy, quốc gia nào cũng phải có một nguyên thủ.
Về quy định này, tại Điều 49 của Hiến pháp 1946 ghi cụ thể về quyền của Chủ tịch Nước như sau:
a, Thay mặt cho Nước…
b, Giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc…
c, Ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng….
d, Chủ tịch Hội đồng Chính phủ …
……………….
h, Ký hiệp ước với các nước….
Và Điều 50 của Hiến pháp 1946 cũng ghi: “Chủ tịch Nước không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc”.
Những quy định của Hiến pháp 1946 rất ngắn gọn, rõ ràng rằng Chủ tịch Nước là nguyên thủ quốc gia, đại diện cho Nhà nước về đối nội, đối ngoại; thống lĩnh các lực lượng vũ trang; và cũng là người đứng đầu cơ quan hành pháp là Chính phủ.
Nói cho dễ hiểu, nguyên thủ quốc gia phải có ba điều kiện, ba quyền thực chất tối thiểu như sau:
a, Thay mặt cho Nhà nước về đối nội cũng như đối ngoại,
b, Đứng đầu cơ quan hành pháp,
c, Thống lĩnh lực lượng vũ trang,
Các Hiến pháp sửa đổi sau này (1959, 1980, 1992) đều giảm nhẹ vai trò của Chủ tịch Nước, không rõ thực chất quyền của một nguyên thủ quốc gia. Điều đó không phải lỗi của vị Chủ tịch nước nào, mà chẳng qua là do các Hiến pháp sửa đổi sau này quy định như vậy:
Điều 6 của Hiến pháp 1959 quy định: “Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là người thay mặt cho Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về đối nội và đối ngoại”.
Điều 65 của Hiến pháp 1959 quy định: “Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thống lĩnh các lực lượng vũ trang trong toàn quốc, giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng”, song thực chất Tổng Bí thư mới là người thống lĩnh các lực lượng vũ trang.
Điều 66 của Hiến pháp 1959 quy định: “Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi xét thấy cần thiết thì triệu tập và Chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ”. Quy định như vậy là làm giảm nhẹ hẳn vai trò của Chủ tịch Nước trong cơ quan hành pháp so với Hiến pháp 1946.
Như vậy, các Hiến pháp sửa đổi sau này đều quy định không rõ ràng và không tập trung quyền của Chủ tịch nước bằng Hiến pháp 1946. Rõ ràng không có ai hội đủ ba điều kiện, ba quyền thực chất tối thiểu của một nguyên thủ quốc gia như Hiến pháp 1946.
Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương thống lĩnh lực lượng vũ trang song về pháp lý lại không thay mặt cho nhà nước về đối nội cũng như đối ngoại, cũng không đứng đầu cơ quan hành pháp.
Thủ tướng Chính phủ đứng đầu Chính phủ nhưng lại không đứng đầu đầy đủ cơ quan hành pháp và cũng không thống lĩnh lực lượng vũ trang.
Chủ tịch Nước thay mặt cho nhà nước về đối nội và đối ngoại nhưng trong thực tiễn lại không thống lĩnh lực lượng vũ trang, cũng như không đứng đầu đầy đủ cơ quan hành pháp.
Chúng ta dễ dàng nhận thấy ngay rằng quyền lực của một nguyên thủ quốc gia lại bị phân tán làm ba nơi, do ba người nắm giữ. Tức là ta có ba người thực thi quyền của một nguyên thủ trong điều hành thực tiễn, như thế có phân tán quyền của nguyên thủ quốc gia không? Tôi cho là quá phân tán.
Tới đây, chúng ta phải sửa đổi bổ sung Hiến pháp làm sao để chỉ có một nguyên thủ quốc gia, tập trung quyền hành pháp vào người đứng đầu để điều hành đất nước có hiệu lực và hiệu quả hơn.
Việc không rõ nguyên thủ quốc gia, không rõ con chim đầu đàn, không rõ nhạc trưởng, hậu quả thế nào thật dễ hiểu, dễ thấy.
- Và vấn đề cốt lõi thứ ba?
Đó là VẤN ĐỀ PHÂN CÔNG VÀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC. Phân công phải hướng tới cân bằng tương đối, phải rõ ràng, rành mạch; kiểm soát phải có chế tài, phải chặt chẽ, hiệu lực.
Phân công phải cân bằng thì mới có khả năng kiểm soát hiệu lực, kiểm soát hiệu lực nằm ngay trong sự phân công công bằng.
Nhìn lại lịch sử của thể chế quân chủ cho thấy, quyền lực tập trung vào nhà Vua, mà quyền lực bao giờ cũng có xu hướng lạm quyền, thoái hóa… Do đó mà triều đại nào lên, lúc đầu thường là được lòng người, sau lại thoái hóa, lại bị triều đại sau thay thế. Những sự thay thế đó thường diễn ra khi triều đại cũ đã quá thối nát, quá cản trở sự phát triển của xã hội và thường bị thay thế bằng bạo lực.
Chính vì thế mà thể chế cộng hòa hay dân chủ cộng hòa đã áp dụng sự phân công cân bằng và kiểm soát quyền lực để chống độc quyền, hạn chế sự lạm quyền và khi cần thì thay thế ê kíp cầm quyền một cách chủ động, kịp thời, thông qua tranh cử nghị viện.
Quyền lực dưới thể chế cộng hòa hay dân chủ cộng hòa không tập trung vào một người hay một lực lượng, cơ quan nào, mà phân công tương đối cân bằng cho ba cơ quan: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp (Quốc hội – Chính phủ – Tòa án): Quốc hội là cơ quan lập pháp cao nhất, Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất, và Tòa án là cơ quan xét xử cao nhất.
Nghiên cứu kỹ các Hiến pháp sửa đổi sau này (1959, 1980, 1992) thì thấy rằng những quy định để cân bằng và kiểm soát quyền lực lại không được rõ ràng và cân bằng như Hiến pháp 1946.
Ví dụ, Quốc hội có quyền lập Hiến, điều đó có nghĩa rằng quyền lực của Quốc hội vượt trội quá lớn so với các cơ quan hành pháp và tư pháp. Quốc hội có quyền phân công quyền lực cho cả các cơ quan hành pháp và tư pháp, và cho cả chính mình.
Đúng ra, quyền lập Hiến phải là quyền của Dân chứ không phải của Quốc hội. Do đó mà quyền của Dân cũng bị phân tán và yếu thế, không đúng với quyền của người làm chủ.
Hoặc quyền của nguyên thủ quốc gia bị phân tán ở ba nơi, điều đó cũng có nghĩa là quyền lực của cơ quan hành pháp quá yếu thế so với cơ quan lập pháp.
Còn quyền lực của cơ quan tư pháp thì sao? Trong thực tiễn thì nó yếu thế hơn các cơ quan lập pháp và hành pháp và còn bị chi phối trong xét xử.
Chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, phân công quyền lực không cân bằng, không rõ ràng thì sự kiểm soát sẽ không có hiệu lực và hiệu quả. Tình trạng tham ô, lãng phí, quan liêu, cơ hội là những biểu hiện của sự lạm quyền và thoái hóa quyền lực rõ ràng nhất. Nó cũng là hậu quả của sự phân công và kiểm soát quyền lực chưa được cân bằng như quy định của Hiến pháp 1946.
Cân bằng và kiểm soát quyền lực là một cơ chế cực kỳ quan trọng trong Hiến pháp nhằm tránh sự lạm quyền và thoái hóa mà trong thể chế quân chủ chuyên chế đã bất lực. Tất nhiên không thể nói tuyệt đối được, vì thể chế nào cũng phải thông qua con người cụ thể. Nhưng có một cơ chế cân bằng và kiểm soát quyền lực cho ba cơ quan Nhà nước, sẽ tốt hơn rất nhiều so với cơ chế tập trung quyền lực vào một ông vua, hoặc vào bất kỳ một lực lượng, một cơ quan nào khác.
Cân bằng và kiềm soát quyền lực là một sự tiến bộ về khoa học và nghệ thuật cầm quyền, là một bước tiến của văn minh nhân loại về quyền lực nhà nước. Chính vì vậy, sửa đổi bổ sung Hiến pháp lần này phải quan tâm để làm rõ ràng hơn, hoàn thiện tốt hơn sự phân công cân bằng và kiểm soát quyền lực Nhà nước.
- Thưa ông, có ý kiến cho rằng, Hiến pháp 1946 và các Hiến pháp được sửa đổi bổ sung sau này của Việt Nam không theo một khuôn mẫu nào của thế giới, có đúng vậy không?
Theo tôi, nói công bằng hơn thì chỉ có các Hiến pháp được sửa đổi, bổ sung sau này (1959, 1980, 1992) là theo khuôn mẫu của cộng hòa Xô Viết, nó không gần với những khuôn mẫu chung của thế giới và có một số quy định cốt lõi lại xa rời với Hiến pháp 1946.
Riêng Hiến pháp 1946 vẫn nằm trong ba hình thức phổ biến của thế giới có nền thể chế cộng hòa hoặc dân chủ cộng hòa:
a, Thể chế cộng hòa Tổng thống: Tổng thống là nguyên thủ quốc gia.
b, Thể chế cộng hòa đại nghị: Tổng thống hoặc Thủ tướng là nguyên thủ quốc gia.
c, Thể chế cộng hòa lưỡng tính: Tổng thống hoặc Chủ tịch Nước là nguyên thủ quốc gia.
Hiến pháp 1946 của nước ta nằm trong loại hình tổ chức thứ ba. Các Hiến pháp sửa đổi, bổ sung sau này có một số vấn đề hệ trọng lại xa rời, hoặc không rõ ràng bằng Hiến pháp 1946, ví dụ như vấn đề cân bằng và kiểm soát quyền lực, vấn đề tập trung quyền của nguyên thủ quốc gia, vấn đề dân phúc quyết Hiến pháp,…
Như vừa rồi tôi đã nói, thực ra lịch sử của Nhà nước nói chung mới có hai loại thể chế: Thể chế Quân chủ và thể chế Dân chủ. Mỗi thể chế đó cũng có những quá trình vận động và có những khác biệt tùy theo sự phát triển, điều kiện và con người lịch sử cụ thể.
Cũng có thể Hiến pháp ghi nền thể chế là Cộng hòa hay Dân chủ Cộng hòa, song thực chất vẫn là chuyên chế, không phải là quân chủ chuyên chế mà là tập thể chuyên chế. Đó là sự biến tướng, tiếm quyền. Tức là về mặt hình thức có thể là Cộng hòa hay Dân chủ Cộng hòa, song về thực chất vẫn có thể là chuyên chế.
- Tóm lại, ông muốn gửi gắm điều gì trong lần sửa đổi Hiến pháp sắp tới?
Tôi muốn gửi gắm nhiều điều, muốn được trở lại rất nhiều điểm tiến bộ, hiện đại của Hiến pháp 1946. Đó là những vấn đề về: Dân chủ, Cộng hòa, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.
Trên đây tôi chỉ nhấn mạnh có ba vấn đề:
1/- Dân được quyền phúc quyết Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, để cho đúng nghĩa với thể chế Dân chủ Cộng hòa, Dân là chủ đích thực của đất nước.
2/- Quyền của nguyên thủ quốc gia cần được tập trung hơn, nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý, điều hành của cơ quan hành pháp.
3/- Phân công và kiểm soát quyền lực cần được cân bằng hơn, nhằm phòng ngừa sự lạm quyền và thoái hóa quyền lực, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và cơ hội trong hệ thống chính trị.
Tôi hy vọng tới đây, nhân dân ta sẽ được hưởng quyền và làm nghĩa vụ của người chủ đích thực của đất nước là: Tham gia ý kiến và phúc quyết sửa đổi Hiến pháp lần này.
- Xin cám ơn ông!







Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn, Nguyễn Anh Tuấn khởi xướng trang: Cùng viết hiến pháp
NQL: Một sự kiện hơi bị lạ và rất phấn khởi, là: gs toán Ngô Bảo Châu, gs vật lý Đàm Thanh Sơn và nhà báo Nguyễn Anh Tuấn, nguyên tổng biên tập ViệtNamnet, đã cùng nhau lập nên trang web: Cùng viết hiến pháp ( tại đây). Dưới đây là tuyên ngôn của họ.
Cùng viết hiến pháp
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp Việt nam 1992 đã gây nên sự chú ý rộng rãi trong người dân. Trang Cùng viết Hiến pháp này ra đời nhằm tạo thêm một không gian đối thoại cho tất cả những người quan tâm đến việc sửa đổi Hiến pháp, để họ có thể cùng thảo luận về chủ đề này một cách nghiêm túc và dân chủ.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của một quốc gia. Hiến pháp phải chứa đựng những nguyên tắc làm nền tảng cho việc xây dựng thể chế chính trị, tổ chức và vận hành của nhà nước, bảo vệ những quyền cơ bản của người dân. Một bản hiến pháp tốt là bước đầu tiên để đảm bảo cho các công dân cùng nhau xây dựng một cuộc sống hoà bình, tự do, một xã hội dân chủ và công bằng, cái mà xét cho cùng, chính là lý do cho sự tồn tại của mọi thiết chế xã hội. Tuy đều có hoặc đều dựa vào nền tảng triết học này, hiến pháp của các nước đã ra đời trong những bối cảnh lịch sử khác nhau, đã bị chi phối bởi những hệ thống quyền lợi, những sức mạnh chính trị khác nhau, và rốt cuộc chúng đã có những dấu ấn khác nhau lên lịch sử phát triển của mỗi nước. Để hiểu Hiến pháp 1992 và tham gia tích cực vào việc sửa đổi nó, thiết nghĩ cần tham chiếu các bản Hiến pháp Việt nam đã từng có trước đó, cũng như những bản Hiến pháp đã có dấu ấn trong lịch sử thế giới.
Cùng viết Hiến pháp sẽ đăng, hoặc đăng lại những bài viết phân tích về những nội dung cụ thể của Dự thảo sửa đổi hiến pháp Việt nam 1992, về bối cảnh ra đời, dấu ấn lịch sử của những hiến pháp quan trọng trên thế giới, và sẽ đặc biệt quan tâm đến những yếu tố làm nên sức sống và sức mạnh của một bản hiến pháp, như một hệ qui chiếu trong một thế giới luôn luôn vận động, chứ không chỉ đơn thuần như một công cụ cho công tác quản lý nhà nước.
Cùng viết Hiến pháp khuyến khích đối thoại giữa các tác giả, và với độc giả. Cùng viết Hiến pháp đề cao tinh thần tôn trọng trong đối thoại, tôn trọng người viết, tôn trọng người đọc, tôn trọng ngữ pháp tiếng Việt. Cùng viết Hiến pháp khuyến khích tranh luận thẳng thắn dựa trên lý lẽ và dẫn chứng, không lấy phẫn nộ làm phương pháp tranh luận, không nhận đăng những ý kiến có tính qui kết vô căn cứ, có tính thoá mạ, vu khống hoặc lạc đề.
Cùng viết Hiến pháp chủ trương hạn chế nội dung trong phạm vi những vấn đề liên quan trực tiếp đến Hiến pháp và việc xây dựng một nhà nước pháp quyền. Các vụ việc cụ thể nếu được nêu sẽ khoanh định dưới dạng thức học thuật để nghiên cứu tính hợp lý và nhất quán của Hiến pháp và pháp luật. Cùng viết Hiến pháp không tham gia vào việc bình luận, phán xét đúng sai trong những vụ việc cụ thể.
Cùng viết hiến pháp ra đời ngày 1/2/2013 để tạo ra một không gian đối thoại dân chủ về việc sửa đổi Hiến pháp, và sẽ được duy trì ít nhất đến ngày 31/03/2013 để phục vụ việc đóng góp ý kiến vào bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Chúng tôi hy vọng đây sẽ là bước khởi đầu tạo điều kiện cho những đối thoại thẳng thắn về xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Nhóm khởi xướng
Ngô Bảo Châu
Đàm Thanh Sơn
Nguyễn Anh Tuấn







Đọc “Bên thắng cuộc” để tìm sự đồng thuận cho hiện tại và tương lai
Tiêu Dao Bảo Cự
NQL: Đây là bài viết hay nhất trong tất cả các bài viết về Bên thắng cuộc mà tôi đã đọc.
Cuốn sách Bên thắng cuộc của tác giả Huy Đức vừa mới ra đời đã tạo thành một hiện tượng, nhiều người tìm đọc, giới thiệu cho nhau, ngợi ca và phê phán. Một cơn sốt trong dư luận như thế này là điều hiếm có từ một cuốn sách khá khô khan.
Về bản thân cuốn sách Bên thắng cuộc
Nội dung của Bên thắng cuộc không phải là vấn đề mới. Lịch sử Việt Nam sau 1975, ai đã từng trưởng thành trong giai đoạn này mà không sống trải, chiêm nghiệm hay nghe, biết ít nhiều về những gì đang trào sôi trên đất nước và ảnh hưởng đến từng số phận con người. Cái mới ở chỗ tác giả đã tập trung vào một số chủ đề nổi cộm với cách trình bày sáng sủa, đầy ắp tư liệu để cung cấp cho người đọc một cái nhìn tổng thể, sinh động và liên tục.
Có người nói cuốn sách không trình bày được toàn bộ sự thật về giai đoạn lịch sử này. Điều ấy tất nhiên và đòi hỏi đó là một yêu cầu vô lý. Ai, cuốn sách nào có thể trình bày được như thế? Không ai cả, nếu không phải là hàng trăm cuốn sách và một độ lùi lịch sử vài ba chục năm nếu tình hình thuận lợi, không còn độc đảng toàn trị, độc quyền viết lịch sử.
Có người ở ngành lịch sử trong nước than: ước gì chúng tôi có thể có tư liệu và tự do để viết như Huy Đức, một người làm báo. Người viết sử chính thức trong hệ thống chỉ được phép sử dụng tư liệu chính thống và viết theo quan điểm chính thống. Làm sao có sự thật lịch sử.
Có người còn nói về thể loại, cho rằng Bên thắng cuộc không phải là sách lịch sử, không có giá trị. Sao lại phải gọt chân cho vừa giày? Thiếu gì sách lịch sử “đúng kiểu” mà lại chẳng có bao nhiêu lịch sử trong đó. Tác phẩm làm ra các thể loại chứ không phải thể loại làm ra tác phẩm. Điều này đúng không phải chỉ cho lịch sử mà còn trong văn học nghệ thuật. Thí dụ có nên tranh cãi tiểu thuyết và truyện ngắn cần phải có cốt truyện hay không. Đơn giản là cuốn Bên thắng cuộc viết về đất nước thời kỳ sau 1975 và giá trị của nó ở chỗ mang lại điều gì có ích cho người đọc.
Bên thắng cuộc có nhiều điều mới và không mới, đúng và không đúng, đối với người này người khác. Chuyện “tuẫn tiết”, tù cải tạo, vượt biên, không thể nào Huy Đức biết được nhiều, đầy đủ và thấm thía bằng những người trong cuộc, nhất là khi nhiều người trong số họ sau khi ra nước ngoài đã viết bút ký, hồi ký về chuyện của mình và những người đồng cảnh. Cũng những chuyện đó và nhiều chuyện khác, thế mạnh của Huy Đức là người có hiểu biết, có tư liệu đặc biệt của bên thắng cuộc mà nhiều vấn đề đến nay vẫn chưa được phổ biến công khai. Những cuộc phỏng vấn, chuyện trò cá nhân, các hoàn cảnh và tâm tình riêng tư của giới lãnh đạo được đưa vào không phải là những “chuyện vặt vãnh” mà chính là giúp soi rọi thêm tình hình, vì lịch sử không chỉ là những sự kiện khô khan, những con số, ngày tháng, chủ trương chính sách mà do con người cụ thể tác động, nhất là những người nắm quyền lực.
Có những vấn đề tuy đã chú ý tập trung nhưng Huy Đức cũng không thể nào giới thiệu đầy đủ như chuyện “cởi” và trói” thời Nguyễn Văn Linh, chỉ riêng trong lĩnh vực văn học nghệ thuật và báo chí. Tác giả đã không đề cập cơn sóng phản kháng đòi tự do dân chủ cuồn cuộn trong giới văn nghệ và báo chí ở nhiều tỉnh Miền Trung, Tây Nguyên, Miền Nam, kể cả trong một số báo Đảng và những hệ lụy sau đó. Đây chỉ là một nhận xét, dĩ nhiên không thể đòi hỏi quá nhiều ở tác giả trong một cuốn sách viết toàn diện về một thời kỳ dài phức tạp như thế.
Giá trị nội dung của bản thân Bên thắng cuộc, chính là lịch sử, hay hoàn cảnh đất nước từ sau 1975, được tái hiện một cách công phu, tập trung, với tư liệu phong phú, có thể tin cậy, một cách tương đối khách quan, bằng bút pháp trong sáng của một nhà báo có tâm, có nghề, được chuẩn bị một cách có ý thức và khoa học qua nhiều năm tháng, với ý chí và ý định rõ rệt muốn mang lại sự thực cho một giai đoạn lịch sử hiện tại, đáng lý rõ rệt thì lại quá mù mờ.
Các nguồn tư liệu riêng và chung phong phú, với hàng nghìn chú thích nghiêm túc (cuốn I có 608 chú thích, cuốn II có 654 chú thích), không chỉ về những vấn đề sau 1975 mà còn ngược về quá khứ nhiều năm trong những sự kiện liên quan, cho thấy sự làm việc cẩn trọng, cần mẫn của tác giả. Có thể đã có những sai sót đây đó nhưng có lẽ do vô tình chứ không phải cố ý của tác giả.
Vì mục đích nói về bên thắng cuộc nên những tư liệu đưa ra cũng chủ yếu của bên này. Có những tư liệu chứng tỏ sự dối trá rõ rệt và đó là dối trá của nhà cầm quyền chứ không phải là dối trá của người trích dẫn, như ta có thể thấy khi tác giả đưa ra những tư liệu trái ngược chung quanh chuyện cải tạo. Thí dụ một trích dẫn trên báo Tin Sáng mô tả “không khí trong các trại cải tạo từa tựa như một trại hè” trước khi giới thiệu một lá thư của người chồng là sĩ quan đang cải tạo gởi cho vợ. Người đọc có thể thấy dụng ý mỉa mai của tác giả chứ không phải đồng tình khi cố ý đưa ra trích dẫn đó một cách khách quan và đặt trong bối cảnh bi đát của toàn bộ chuyện cải tạo.
Bên thắng cuộc chắc chắn là một cuốn sách đáng để đọc, nội dung của nó không tranh luận, tranh cãi với ai nhưng vừa mới ra mắt đã tạo nên nhiều dư luận ngược chiều, tranh luận, tranh cãi đến mức cực đoan và chắc chắn chuyện này còn tiếp diễn. Đây là hiệu ứng thành công và đáng mừng của một tác phẩm.
Trừ một số bài viết dù ở bên này hay bên kia, có nhận định một cách khách quan, phần lớn các bài viết chống cuốn sách ở cả hai phía thắng và thua cuộc (kể cả việc biểu tình chống dù chưa đọc sách), đều chứng tỏ “hội chứng chính nghĩa” của cuộc chiến trước đây đến nay vẫn chưa chấm dứt mà còn tiếp diễn một cách gay gắt khi sự ra đời của cuốn sách kích động lên.
Dĩ nhiên có một số sự kiện lịch sử trước và sau 1975 vẫn chưa được soi sáng đầy đủ và chưa có nhận định thống nhất từ nhiều phía do tính chất mù mờ phức tạp của lịch sử và quan điểm, chính kiến của người trong cuộc. Tuy nhiên tâm trạng rõ rệt của những người chống cuốn sách vẫn là phe ta, đường lối chính sách của phe ta có chính nghĩa, ai nói khác đi đều là thứ phản bội, tội đồ của dân tộc. Chính điều này đã góp phần làm lịch sử “giẫm chân tại chỗ” khi đáng lý phải vùng vẫy thoát ra khỏi vũng bùn của máu và nước mắt.
Về tựa đề Bên thắng cuộc và tên hai phần của cuốn sách (Giải phóng và Quyền bính), có lẽ tác giả Huy Đức đã nghiền ngẫm sâu xa và sự lựa chọn có sức gợi nhiều ý nghĩa.
Bên thắng cuộc vì sau 1975 đất nước thuộc về bên thắng cuộc, bên phải chịu tránh nhiệm trước dân tộc và lịch sử, hiện tại và mai sau. Tác giả là người đã trưởng thành, làm việc và chiêm nghiệm trong bộ máy cai trị, có cái nhìn cận cảnh từ bên trong, hi vọng có thể đưa ra một tiếng nói về sự thật, khác với tiếng loa đồng ca một chiều đinh tai nhức óc như hình chụp dùng làm bìa cho tác phẩm.
Giải phóng nhưng những điều diễn ra sau đó với cải tạo, vượt biên, đánh tư sản, ngăn sông cấm chợ… lại không hề mang ý nghĩa giải phóng. Ngược lại thực tế đã chứng minh nhân dân Miền Nam và cả nước lại đi vào vòng trói buộc, vào cảnh trì trệ thay vì cất cánh như đáng ra phải có sau khi đã “thống nhất đất nước, quy giang sơn về một mối”. Chưa kể đến gợi ý trong lời mở đầu của tác giả, đây là Miền Bắc giải phóng Miền Nam hay ngược lại.
Quyền bính bộc lộ bản chất của một tập đoàn khi đã nắm được quyền lực cai trị. Trình độ kém cỏi trong xây dựng đất nước thời bình, bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí và kiêu ngạo cộng sản; sự quyết đoán của những cá nhân lãnh đạo không đủ tầm và tâm; các cuộc đấu đá nội bộ để tranh giành quyền lực; “lỗi hệ thống” mang tính bao trùm mà những cá nhân dù có thiện chí và ý chí cũng không sao xoay chuyển…
Trong Quyền bính không phải không có những điều tích cực nói về những người lãnh đạo và những người cộng sản. Sinh ra và trưởng thành trong nô lệ và chiến tranh, nhiều người không được học hành. Họ thường xuất thân là nông dân nghèo, làm thuê, ở đợ rồi “tham gia cách mạng”. Không được học hành không phải lỗi ở họ. Tuy nhiên sau đó họ đã học trong trường đời và đấu tranh cách mạng, với ý chí kiên cường, chịu đựng gian khổ và chấp nhận hi sinh lớn lao. Khi ở vai trò lãnh đạo, nhiều người cũng đã hết sức ưu tư về tình hình đất nước, khiêm tốn học hỏi, lắng nghe các trí thức chuyên gia để tìm ra những quyết sách đúng. Tác giả cũng đã không giấu thiện cảm đối với một số người, đặc biệt đối với cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Đội ngũ các chuyên gia và các trí thức tham mưu cũng đã ra sức tìm tòi cái mới của thời đại, học hỏi các nước láng giềng và phương Tây, tham mưu cho lãnh đạo thoát khỏi bế tắc. Nổi bật là vấn đề kinh tế thị trường, cho dù vẫn còn “cái đuôi định hướng xã hội chủ nghĩa”, sử dụng công nghệ thông tin tiên tiến, đa phương hóa, từng bước đi vào hội nhập toàn cầu. Kết quả dù quá chậm nhưng đất nước đã không rơi vào vực thẳm.
Tuy nhiên mọi cố gắng đó đều chỉ đạt thành tựu rất thấp, không tương xứng với năng lực của một dân tộc không kém cần cù và thông minh so với bất cứ dân tộc nào khác, sau khi đất nước đã thống nhất. Nguyên nhân chính là “lỗi hệ thống”, bắt nguồn từ sự độc tài đảng trị, bám chặt giáo điều cổ hủ vì sợ “chệch hướng xã hội chủ nghĩa” và sự vận hành của guồng máy đã đè bẹp mọi cá nhân có ý muốn cưỡng lại, cho dù họ ở cấp cao nhất như Võ Văn Kiệt, Trần Xuân Bách, Trần Độ…
Bên cạnh đó, vì liên minh ý thức hệ và muốn có chỗ dựa để giữ vững độc quyền lãnh đạo, những người cộng sản cầm quyền đã lọt vào gọng kềm của Trung Quốc, trở thành một mối họa lớn cho dân tộc. Đảng Cộng sản rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan, loay hoay giữa hai nguy cơ “mất nước hay mất Đảng”.
Tác giả Bên thắng cuộc không minh nhiên nói ra những điều trên nhưng qua những gì được trình bày một cách khách quan, chi tiết, cả chiều rộng và chiều sâu, người đọc có thể cảm nhận rất rõ thông điệp nào đã được gởi đi từ cuốn sách.
Cho dù những điều trên là đúng như thế, tác giả có phải là một kẻ nói xấu Đảng, phản bội đất nước như một số báo chí trong nước quy chụp, hay là một tên cộng sản tay sai tuyên truyền cho Nghị quyết 36 như một số người ở hải ngoại quy kết? Thật nực cười khi có hai kết luận trái ngược nhau như thế về cùng một cuốn sách và một tác giả.
Lịch sử đã qua và đang đi qua từng ngày. Phải nhận rõ quá khứ nhưng càng phải thấy rõ hơn bước đi cho hiện tại và tương lai. Hận thù hay kiêu căng về quá khứ để tranh phần chính nghĩa không ích lợi gì cho số phận và tương lai dân tộc. Thực tế lịch sử, những người cộng sản đã là bên thắng cuộc và cũng thực tế họ đang đưa đất nước vào nguy cơ. Vấn đề là phải làm gì có hiệu quả để giải quyết nguy cơ trước mắt và kiến tạo tương lai chứ không phải nguyền rủa nhau. Đọc Bên thắng cuộc chính là cơ hội để mọi người nhìn lại toàn bộ tình hình một cách tỉnh táo.
Trong những ngày tháng gần đây không ít người thuộc nhiều thành phần, trước hết là trí thức và đảng viên có lương tri thực sự lo cho dân tộc đã đặt ra những vấn đề cấp thiết, đặc biệt mới nhất trong Lời kêu gọi thực thi quyền con người và Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992: Dân chủ hóa đất nước, chống độc tài đảng trị, giải quyết nguyên nhân của mọi nguyên nhân đưa đến tham nhũng, kinh tế suy thoái, văn hóa, đạo đức xã hội trên đà băng hoại, trước mắt cấp bách là chống Trung Quốc xâm lược.
Đây là nhiệm vụ của toàn dân tộc không trừ bất kỳ ai, kể cả Đảng Cộng sản cầm quyền nếu Đảng muốn còn tồn tại dù có cầm quyền hay không. Ai phá hoại nhiệm vụ này mới là kẻ phản bội tổ quốc.
Đà Lạt 31/1/2013







Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
