Nguyễn Quang Lập's Blog, page 86
February 3, 2013
Phạm Duy, những cuộc hạnh ngộ

Phạm Duy nói ông Võ Văn Kiệt là một trong những người ông gặp nhiều nhất
Một trong những ghi chép cuối đời của cố nhạc sỹ Phạm Duy là về một số cuộc gặp gỡ đáng kể trên đường đời của ông.
Ghi chép mang tên ‘Những Cuộc Hạnh Ngộ’ được một người bạn thân của nhạc sỹ chia sẻ với BBC và đây là bản đã được rút ngắn.
Ảnh trong bài do chính nhạc sỹ sưu tầm trong khi một số tựa đề phụ do BBC đặt.
Bài viết có hai phần gồm phần một dưới đây và quý vị có thể nhắp chuột vào tựa đề ‘Gặp cựu TT Võ Văn Kiệt và những người khác’ ở phía bên tay phải của phần một để đọc phần hai.
Phạm Duy qua đời tại Bệnh viện 115 ở thành phố Hồ Chí Minh hôm 27/1, hưởng thọ 92 tuổi và được an táng tại nghĩa trang Công viên Bình Dương hôm 3/2/2013.
Gặp Vua Bảo Đại và các cuộc gặp trước năm 75

Phạm Duy gặp Vua Bảo Đại khi mới ngoài 20
Khi đi hát ở Phan Rang vào năm 1944, có một hôm bỗng có xe hơi của ông tỉnh trưởng Phan Rang là Nguyễn Duy Quang tới rạp hát để đón tôi vào Dinh, giữa sự ngạc nhiên của nhân viên đoàn hát.
Vào trong dinh tôi mới biết là có ông Bảo Đại đang ngồi ở đó. Ông thường trị vì tại Đà Lạt và đi bắn ở trong rừng nhiều hơn là ngồi trên ngai vàng tại Huế.
Hôm nay ông từ một vùng săn bắn nào đó xuống chơi thành phố Phan Rang và nghỉ ngơi trong Dinh Tỉnh Trưởng.
Tôi đã biết tới sự yêu nhạc của ông vua khi thấy ông đem người con trai của Thượng Thư Phạm Quỳnh là Phạm Bích vào làm bí thư riêng chỉ vì anh này đánh đàn guitare rất giỏi.
Đã không còn coi đối tượng là quan trọng nữa, đã chủ trương khi cất lên tiếng hát là hát cho mình nhiều hơn là hát cho người, nên tôi chẳng có một mặc cảm nào khi ngồi ôm đàn hát cho ông vua nghe.
Ông Bảo Đại, rất lịch sự, rất nhã nhặn, sau khi nghe hát xong, ngồi mời tôi ăn bánh ngọt và nói chuyện với tôi bằng tiếng Pháp. Hỏi tôi học nhạc ở đâu ? Từ bao giờ ? Hơi ngạc nhiên khi thấy tôi trả lời là chẳng học ai cả !
Hỏi thăm về ông Khiêm, về gia đình tôi. Một ông vua yêu nghệ thuật như vậy chắc chắn là đằng sau cặp kính đen mà ông thường đeo, có ẩn nấp một đôi mắt nhân từ.
Ừ, đúng như vậy, trải qua bao nhiêu biến thiên của lịch sử, có nhiều kẻ quai mồm ra phê bình Bảo Đại là thế này thế nọ, nhưng tôi chưa thấy ai dám nói ông ta đã bỏ tù hay đã giết một người Việt Nam.
Trong khi qua vài ba cuộc Cách Mạng trên thế giới, có biết bao nhiêu người đã bị thủ tiêu hay bị cầm tù bởi những nhà lãnh đạo mệnh danh là yêu nước thương nòi…
Xong buổi hát ”vo” (theo tiếng nhà nghề là : hát không lấy tiền) khi tôi ra về, tỉnh trưởng Nguyễn Duy Quang tiễn tôi ra cửa, rất tế nhị, tay cầm sẵn một gói quà là 5 thước vải phin rất tốt để tặng anh ca sĩ trẻ tuổi.
Với số vải này, tôi may được hai cái áo sơ-mi, một cái mặc cho tới khi rách, một cái sẽ tặng anh bạn thi sĩ Nguyễn Bính khi gặp anh ở Saigon một vài tháng sau để anh bán lấy tiền vào nằm tiệm hút.
Về tới rạp và khoe là vừa hát cho vua nghe, cả gánh hát lắc đầu lè lưỡi thán phục…
Với một nghệ sĩ hát rong mới 20 tuổi, được gặp một vị hoàng đế, thật là một hạnh ngộ.
Các chính trị gia Việt Nam Cộng hòa
Tôi được gặp ông Diệm và chỉ nói chuyện gia đình vì anh Khiêm của tôi lúc đó là Bộ Trưởng, sau đó là Đại Sứ trong chính phủ của ông,
Tới khi có chính quyền Nguyễn Văn Thiệu vì tôi là Phó Giám Đốc Đài Truyền Hình nên thỉnh thoảng tôi có tiếp đón ông mỗi khi ông tới thu hình.
Riêng Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ thì luôn luôn gặp tôi tại tư gia tướng Lansdale để sinh hoạt văn nghệ tiêu khiển.
Các văn nghệ sỹ Mỹ

John Steinbeck đến Sài Gòn để gặp con trai và nhờ vậy Phạm Duy được gặp mặt
Cũng tại tư gia tướng Lansdale, tôi được gặp văn hào John Steinbeck khi ông qua VN để thăm người con đang là đệ tử của ông Đạo Dừa.
John Ernst Steinbeck III (1902– 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn.
Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Of Mice and Men (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác.
Tác phẩm được đánh giá cao nhất là The Grapes of Wrath (1939; đoạt giải Pulitzer năm1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của bangOklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930.
Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ.
Là một trong những “tượng đài” văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức.
Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962.
Trong những đêm họp mặt để “hát với nhau” như thế, Đại Sứ Cabot Lodge cũng cởi áo veste ra để hát.
Tôi cũng có dịp gặp các nghệ sĩ nổi danh như Pete Seeger, ông vua dân ca Hoa Kỳ :
Peter Seeger (sinh ngày 3 tháng 5 năm 1919), còn được biết đến với tên Pete Seeger, là một nhạc sĩ, ca sĩ nhạc đồng quê và là nhà hoạt động chính trị.
Ông cũng là thành viên của the Weavers, tuy nhiên cũng đã sáng tác nhiều bài hát, trong đó có một bản thu âm “Goodnight Irene” đã đứng đầu bảng xếp hạng trong vòng 13 tuần vào năm 1950.
Ông cũng là cựu thành viên của Đảng Cộng sản Mỹ và là người có công lao đóng góp chính cho nền âm nhạc dân gian và là người tiên phong trong phong trào âm nhạc phản chiến trong những năm của thập kỷ 50 và 60. Ông là tác giả bài hát phản chiến nổi tiếng Where Have All the Flowers Gone?
Ông cũng là tác giả bài hát Teacher Uncle Ho (Bác Hồ – Thày giáo).
Hội ngộ với nghệ sĩ Việt Nam
[image error]
Phạm Duy nói chưa gặp ai “nên thơ” như Lưu Trọng Lư
1944, tôi đang là anh nghệ sĩ Tân Nhạc của gánh Đức Huy. Gánh hát tới Tourane (Đà Nẵng).
Đà Nẵng là một thành phố tuyệt đẹp bên sông Hàn, bên bờ biển Đông với những nét quyến rũ chưa từng có ở các đô thị biển khác… Tôi đi thămBảo tàng Chămđể chiêm ngưỡng một nền văn hoá Chăm rực rỡ, những pho tượng cổ, những linh vật thờ, những biểu trưng của một dân tộc phồn thịnh giờ chỉ còn trong quá vãng.
Đây là bảo tàng duy nhất về nền văn hoá Chăm trên thế giới và giá trị của nó đã vượt ra khỏi biên giới nước Việt Nam.
Thú vị nhất là tôi gặp chàng thi sĩ mà mình yêu qúy vô cùng là Lưu Trọng Lư.
Lúc đó anh Lư đang dạy học tại trường Phan Bội Châu (hay Phan Chu Trinh?), sau khi nghe tôi trình diễn tại rạp hát, ngày hôm sau anh đã nằng nặc lôi tôi lên xe kéo, đưa tôi tới trường học để hát cho học trò của anh nghe. Từ trước tới giờ, tôi chưa gặp ai nên thơ như con người Lưu Trọng Lư.
Chưa gặp anh đã nghe nói anh là người rất lơ đãng. Gặp anh rồi thì nhìn bề ngoài của anh cũng đã thấy anh là một con nai vàng ngơ ngác.
Đã có ai kể cho tôi nghe chuyện anh cầm tiền đi chợ mua đồ cúng nhân ngày giỗ vợ nhưng anh ghé vào tiệm hút rồi quên phứt chuyện đó!
Theo lời kể của Hoài Thanh, đã có lần Lưu Trọng Lư nằm đọc tập thơ TIẾNG THU của mình rồi ngồi dậy cười to :
– A ha ! thế mà mấy bữa ni cứ tưởng (…) hai câu : ”Giật mình ta thấy mồ hôi lạnh, mộng đẹp bên chăn đã biến rồi…” là của Thế Lữ… Hai câu thơ ấy là của Lưu Trọng Lư.
Sau khi tôi hát cho lũ học trò xanh xao và gầy gò nghe bài Buồn Tàn Thu rồi thì nhà giáo Lưu Trọng Lư đầu bù tóc rối, quần áo lôi thôi lếch thếch và nát nhầu, móc ở trong túi ra những mẩu thơ để tặng tôi ngay trong lớp học. Tôi nhớ rất kỹ đó là những đoạn thơ của bài Giang Hồ mà khi in ra thì anh Lư đề tặng Nguyễn Tuân và Vũ Hoàng Chương :
Mời anh cạn hết chén này
Trăng vàng ở cuối non tây ngậm buồn
Tiếng gà đã rộn trong thôn
Nửa đời phiêu lãng chỉ còn đêm nay…
Tôi sẽ có nhiều lần phổ nhạc những bài thơ tuyệt vời của anh Lư để trả ơn sự hạnh ngộ nửa đường phiêu lãng này. Từ bài Tiếng Thu qua Vần Thơ Sầu Rụng tới Thú Đau Thương và Còn Chi Nữa (bài này tôi mạn phép đổi tên là Hoa Rụng Ven Sông).
Lê Thương, Trần Văn Trạch và Đức Quỳnh

Lê Thương (phải) ‘làm thơ bay bướm nhưng sống giản dị
Vào năm 1951, khi tôi vào sinh sống tại Saigon, tôi có ba người bạn là Lê Thương, Trần Văn Trạch và Đức Quỳnh.
Lê Thương rời Bến Tre, anh về Saigon làm nghề thầy giáo. Căn nhà nhỏ của anh đường Võ Tánh là nơi tôi đến chơi hàng ngày, hoặc rủ anh đi mua báo Pháp như PARIS MATCH, CANARD ENCHAINÉ ở hiệu sách PORTAIL đường Catinat… hoặc rủ anh đi ăn, đi chơi. Lê Thương làm thơ, làm nhạc rất bay bướm nhưng anh có cuộc sống rất giản dị.
Trước đây, tôi chỉ biết Lê Thương qua những bài hát tình yêu rất hay như Bản Đàn Xuân, Thu Trên Đảo Kinh Châu, Một Ngày Xanh, Nàng Hà Tiên… và Phần I của truyện ca bất hủ Hòn Vọng Phu. Bây giờ, tôi được biết thêm những bài Bà Tư Bán Hàng, Bài Hoà Bình 48, Liên Hiệp Quốc, Làng Báo Sài Thành, Đốt Hay Không Đốt Téléphone, Cái Đồng Hồ, Chuyến Xe Lửa Mùng Năm…
*
Trần Văn Trạch là một ca sĩ chanteur de charme, hát những bài ca “mùi mẫn”, chưa có những tiết mục bắn súng, phi cơ bay và dội bom bằng mồm, hoặc những bài ca hài hước như sau này. Tại dancing Théophile, Trạch thường hát nhiều bài Tây và một vài bài ta.
*
Đức Quỳnh, có giọng hát ồ ồ, có mái tóc bồng bềnh và hàm răng thô. Nhưng lúc nào cũng ăn mặc chải chuốt, lúc nào cũng mặc veston, đeo nơ… dù trời Saigon rất là nóng bức.
Đức Quỳnh có soạn ra một bài hát nhan đề Ba Giờ Khuya mà Trạch hát tại Dancing Théophile. Rồi còn viết ra Thoi Tơ (thơ Nguyễn Bính) Người Kỹ Nữ Với Cung Đàn, Hỏi Em, Hò Khoan, Trả Lại Anh… Anh còn soạn hai bài hát cho tuổi thơ là Chim Chích Chòe và Rước Đèn Tháng Tám.
*
Rồi tôi tới Saigon thì hạnh ngộ là được gặp hai nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh, Lê Văn Trương…
Tại đàm trường Viễn Kiến, Nguyễn Đức Quỳnh dạy tôi làm người hiền. Trong tiệm hút, Lê Văn Trương dạy tôi làm người hùng.
Mời quý vị bấm vào ‘Gặp cựu TT Võ Văn Kiệt và những người khác’ ở phía bên phải trên đầu trang để đọc phần 2.
Gặp cựu TT Võ Văn Kiệt và những người khác

Phạm Duy nói ông Võ Văn Kiệt là một trong những người ông gặp nhiều nhất
Còn hạnh ngộ nào lớn lao hơn là sự gặp gỡ giữa tôi và hai thi sĩ Hữu Loan, Hoàng Cầm khi trở lại Việt Nam.
Để tôi sáng tác được những bài Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà, Tình Cầm…
*
Biết bao nhiêu hạnh ngộ khi tôi gặp Bùi Công Kỳ, Cung Trầm Tưởng.
Gặp Bùi Công Kỳ thì tôi học được lối sống bất cần đời của anh. Gặp Cung Trầm Tưởng thì tôi phổ thơ của anh thành những tình ca Mùa Thu Paris, Tiễn Em, Bên Ni Bên Nớ v.v…
*
Quen biết các nhạc sĩ Hoàng Trọng, Hoàng Thi Thơ là những hạnh ngộ chắc chắn.
*

Nguyễn Văn Tý là tác giả Dáng đứng Bến Tre
Bây giờ là người bạn chí thân nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý.
Quen nhau từ 1947, tới khi tôi trở về VN vào năm 2005, chúng tôi lại được bắt tay nhau trên sân khấu hay ngoài đời.
Nguyễn Văn Tý (5 tháng 3 năm 1935 – ) là một nhạc sĩ nổi tiếng của Việt Nam, ông có nhiều đóng góp sáng tác từ dòng nhạc tiền chiến như Dư âm đến những ca khúc như Dáng đứng Bến Tre, Mẹ yêu con, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ… Nguyễn Văn Tý là một nhạc sĩ thành công với chất liệu dân ca.
Những sáng tác của ông được chắt chiu và nghiền ngẫm qua những chuyến đi thực tế trong thời gian dài, nhiều sáng tác đã sử dụng khéo léo chất liệu dân ca của nhiều vùng miền (Một khúc tâm tình người Hà Tĩnh, Dáng đứng Bến Tre, Mẹ yêu con…).
Một đề tài quen thuộc trong nhiều sáng tác của ông là phụ nữ với những ca khúc như Bài ca phụ nữ Việt Nam, Mẹ yêu con, Tấm áo chiến sỹ mẹ vá năm xưa… Nguyễn Văn Tý cũng là một nhạc sĩ có nhiều sáng tác “ngành ca”: Em đi làm tín dụng, Anh đi tìm tôm trên biển cả, Chim hót trên cánh đồng đay, Cô đi nuôi dạy trẻ, Bài ca năm tấn.
*
Cũng như với Nguyễn Văn Tý, tôi quen nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương từ 1944. Thật là hạnh phúc cho tôi khi gặp lại Nguyễn Văn Thương.
Nguyễn Văn Thương là một nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng, thuộc thế hệ đầu tiên của tân nhạc Việt Nam. Anh là tác giả của những ca khúc tiền chiến bất hủ như Đêm đông, Trên sông Hương và những ca khúc kháng chiến như Bình Trị Thiên khói lửa. Anh còn có nhiều tác phẩm khí nhạc khác.
*
Tôi gặp Ái Vân tại Paris khi nàng vừa vượt biên qua Đức. Rồi nàng qua sống tại San Jose. Chúng tôi có rất nhiều hoạt động âm nhạc trên sân khấu cũng như trên địa hạt DVD.
Ái Vân được nhiều hãng phát hành DVD như Thúy Nga Paris, Thế Giới Nghệ Thuật… những nhạc cảnh của tôi như Người Ðẹp Trong Tranh, Thị Mầu Lên Chùa, Trên Ðồi Xuân, Chum Vàng, Mài Dao Dạy Vợ, Mối Tình Sơn Nữ…
*
Tôi và Nguyễn Đình Thi quen nhau từ ngày Cách Mạng Tháng 8. Anh là người có nhiều tài và là một cán bộ cao cấp của Nhà Nước.
Anh sinh năm1924 ở Luông Phabăng (Lào). Cha là viên chức Sở bưu điện Đông Dươngcó sang làm việc ở Lào. Anh thuộc thế hệ các nghệ sỹ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp.
Anh viết sách khảo luận triết học, viết văn, làm thơ, soạn nhạc, soạn kịch, viết lý luận phê bình. Anh được nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minhvề văn học nghệ thuật đợt I năm 1996.
Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Đình Thi làm Tổng thư kýHội Văn hóa cứu quốc. Từ năm1958 đến năm 1989 làm Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Từ năm 1995, Anh là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật. Anh mất năm 2003 tại Hà Nội.
*
Lại có thêm một hội ngộ tốt đẹp. Vừa trở về VN, tôi được mời tới gặp ông Chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.
Ông Phạm Thế Duyệt (sinh ngày10 tháng 8 năm1936) là một nhà chính trị Việt Nam.
Ông từng là ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Namcác khóa VII và VIII, từng là Bí thư thành ủy Hà Nội, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam) khóa V, chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Namkhóa V, đại biểu Quốc hội từ khóa đến khóa XI.
*

Phạm Duy biết ông Tố Hữu từ những ngày Cách mạng tháng Tám
Tôi quen anh Tố Hữu từ ngày Cách Mạng thành công và có nhiều dịp công tác với anh tại Huế và tại Việt Bắc trong ngày Đại Hội Văn Hóa.
Trở về quê hương năm 2001, tôi đã tới thăm một “đồng chí” xưa. Hai người đều vui vì có được môt hội ngộ không ngờ…
Chúng tôi không đả động gì tới chuyện “chính chị, chính em”, tới chuyện “đấu tranh, đánh trâu” chỉ nói chuyện “trời mưa, trời nắng, con cắng đánh nhau, bồ câu đi chữa, chốc nữa lại tạnh”.
Rồi anh Tố Hữu tự tay mở gói bánh đậu xanh Hải Dương ra mời tôi ăn…
Chia tay ra về, tôi không ngờ chỉ một năm sau, anh Tố Hữu qua đời.
Trong buổi gặp gỡ này, có mặt Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông Tin Trần Hoàn.
Anh Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành (1920–2002) là một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam. Nghệ thuật thơ Tố Hữu giàu tính dân tộc.
Phối hợp tài tình ca dao, các thể thơ dân tộc và thơ mới.
Vận dụng biến hoá cách nói, cách cảm, cách so sánh ví von rất gần gũi với tâm hồn người. Phong phú vần điệu, câu thơ mượt mà, dễ thuộc dễ ngâm.
Những bài “Việt Bắc”, “Nước non ngàn dặm”, “Theo chân Bác”… là những bài thơ tuyệt bút của Tố Hữu.
*

Ông Trần Bạch Đằng (ngồi giữa) từng bảo Phạm Duy ‘hãy tự sát’ hồi năm 1989
Bác sĩ Nguyễn Ngọc Hà mà tôi quen từ ngày gặp nhau tại Paris năm 1973 lúc đó đang là trưởng Ban Việt Kiều TP HCM, đưa tôi tới thăm ông Trần Bạch Đằng.
Tuy trước đây ông tuyên bố : “Phạm Duy hãy tự sát đi, chúng tôi sẽ cho phổ biến nhạc của ông ta”, nhưng tôi đã về VN mà chưa chết.
Vậy thì tôi phải tới thăm ông ta chứ !
Ông Trần Bạch Đằng (15 tháng 7 năm 1926—16 tháng 4 năm 2007) là một nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo Việt Nam.
Ông còn là một nhà chính trị lão thành của Việt Nam đã tham gia hoạt động cách mạng từ trước năm 1945.
Ông cũng là tác giả của quyển tiểu thuyết viết về một nhân vật tình báo bí ẩn trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam: Đại tá Phạm Ngọc Thảo, với bút danh Nguyễn Trương Thiên Lý.
*
Có lẽ người mà tôi gặp gỡ nhiều nhất là cựu Thủ Tướng Võ Văn Kiệt và chúng tôi đã có nhiều điều để nói với nhau.
Tiếc thay, ông đã nghỉ hưu và đã qua đời trước khi công cuộc Đổi mới và cải cách chính sách ở Việt Nam được hoàn toàn thực hiện.
Ông Võ Văn Kiệt (23 tháng 11 năm1922 –11 tháng 6 năm 2008) tên thật là Phan Văn Hòa, bí danh Sáu Dân, là mộtnhà chính trị Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và sau đó làThủ tướng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 8 tháng 8 năm 1991 cho đến ngày 25 tháng 9 năm 1997. Ông được nhiều báo chí đánh giá là người đã đẩy mạnh công cuộc Đổi mới và cải cách chính sách ở Việt Nam kể từ năm1986, là “tổng công trình sư” nhiều dự án táo bạo của thời kỳ Đổi mới.
*
Thế là trong suốt một đời người, tôi vô tình được quen biết khá nhiều người. Vào lúc tuổi già, sau khi hoàn tất MINH HỌA TRUYỆN KIỀU giữa năm 2009, tôi không còn hứng thú sáng tác nữa nhưng có thời giờ để ngồi viết bút ký, tùy bút và bài NHỮNG CUỘC HẠNH NGỘ này là một tùy bút có tính chất hồi tưởng.
Tôi không có ý định làm công việc khoe khoang, “thấy người sang bắt quàng làm họ” mà chỉ tâm sự với độc giả rằng : quen biết những nhân vật có nhiều chính kiến khác nhau như thế, nhưng tôi vẫn là một nghệ sĩ độc lập, không bao giờ lợi dụng phục vụ ai cả.
Nghĩ mà thương cho cậu em Đỗ Ngọc Yến ở khu Bolsa, chỉ vì với tư cách của một chủ báo, chót chụp ảnh chung với ông Nguyễn Tấn Dũng ở San Francico mà bị một lũ quá khích đào mả và nguyền rủa.
Tôi rất hân hạnh là người quen của các nhân vật chính trị, văn nghệ sĩ thế giới và không hề có một chút mặc cảm nào cả. Chỉ vì tôi là một nghệ sĩ rất muốn là bạn của tất cả mọi người, là vua quan hay là người dân bình thường.







Vấn đề hiến pháp : nền cộng hòa dân chủ

Theo tôi, qua những kinh nghiệm học hỏi từ các quốc gia tương đồng (như Đài Loan và Đại Hàn), có cùng văn hóa và hoàn cảnh lịch sử trong khu vực, quá trình dân chủ hóa VN bắt buộc phải đi qua đoạn đường « sửa đổi » hiến pháp và nền cộng hòa. Thời gian của tiến trình « dân chủ hóa » dài hay ngắn tùy theo nội dung các điều được đề nghị sửa đổi từ hiến pháp cũ và việc thay đổi nền cộng hòa có thực hiện được hay không.
Thử nhìn thí dụ Đại Hàn Dân Quốc (Republic of Korea), từ năm 1948 đến năm 1987, có đến 9 lần sửa hiến pháp, 6 lần thay nền cộng hòa, mới có được một chế độ chính trị dân chủ bền vững hôm nay. Tôi nghĩ rằng VN, trước khi dân chủ hóa thực sự, sẽ có một cuộc khủng hoảng lâu dài về « hiến pháp ».
Nhưng trước hết là về « nền cộng hòa ».
Mới đây, đại biểu quốc hội Dương Trung Quốc, vừa phát biểu trên BBC về vấn đề sửa đổi hiến pháp. Ông này đề nghị việc trở lại nền « dân chủ cộng hòa ». Điều này trùng hợp với nội dung « hiến pháp mới » mà các trí thức VN đề nghị.
Không có ai giải thích thuyết phục việc vì sao trở lại nền « cộng hòa dân chủ ».
Tôi cho rằng ý kiến này là một bước lùi lớn, sẽ làm cho tiến trình dân chủ hóa VN càng thêm mất thời giờ.
Vấn đề phải hiểu thế nào là « cộng hòa » và thế nào là « dân chủ ».
Dân chủ có nhiều cách hiểu, tùy theo ý thức hệ chính trị. Nhưng « cộng hòa » chỉ có một nghĩa.
Thế nào là « cộng hòa » ? Tránh những định nghĩa hàn lâm dài dòng, mơ hồ và trừu tượng. Thử lấy thí dụ Hàn Quốc và Đài Loan : Republic of Korea, Republic of China, các nước này dịch là Đại hàn Dân quốc và Trung Hoa Dân quốc. Như thế « Cộng hòa » được dịch là « dân quốc ». Cách dịch này sát nghĩa từ nguyên, lãnh thổ thuộc chủ quyền của dân (république), trái nghĩa với « vương quyền » (monarchique), lãnh thổ thuộc chủ quyền của vị chủ tể (vua, hoàng đế).
Cộng hòa là danh từ dùng để chỉ chế độ chính trị dựa trên mối liên hệ giữa dân chúng (nation) trong một nước đối với lãnh thổ (territoire) của nước đó. Mối liên hệ đó chủ quyền lãnh thổ thuộc về toàn dân. (Cụ Phan Bội Châu có viết đâu đó ( ?) : Dân là dân nước (nation), nước là nước dân (république)).
Chữ « cộng hòa » cần được hiểu như vậy.
Tất cả các nền « cộng hòa » trên thế giới đa phần là theo chế độ « dân chủ ». Nhưng các nước « dân chủ » chưa chắc là « cộng hòa ». Các nước quân chủ (lập hiến) như Anh, Hòa Lan, Nhật… là các nước quân chủ nhưng sinh hoạt chính trị lại theo các qui tắc dân chủ. Quyền chủ tể của « vua » chỉ là tượng trưng, quyền lực thực sự tập trung vào quốc hội (mà quốc hội được thành lập qua thể thức bầu cử tự do).
Thế nào là dân chủ ? Có hai quan niệm chính về « dân chủ ». Quan niệm « dân chủ tự do » của « tư bản chủ nghĩa » và « dân chủ nhân dân » của ý thức hệ cộng sản. Người ta nói rất nhiều về « dân chủ », nếu không xác định được các dân chủ đang nói đó đặt trên nền tảng mác-xít hay nền tảng « tự do », ta có thể tranh luận cho tới chết mà không đưa đến kết quả nào.
Khi đề nghị trở lại nền tảng « dân chủ cộng hòa » thì « dân chủ » ở đây dặt trên nền tảng nào ?
Muốn biết nền tảng nào ta thử xét qua danh sách « tên » các « nước » trên quan hệ quốc tế (tức danh sách các nước của LHQ).
Ta thấy tất cả, không có ngoại lệ nào, các nước theo chủ nghĩa cộng sản đều có tên « cộng hòa xã hội chủ nghĩa », « cộng hòa dân chủ » hay « dân chủ nhân nhân ». Cộng hòa Nhân dân Trung quốc, Cộng hòa Nhân dân Triều tiên… là các nước cộng sản. Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức cũ), Cộng hòa Dân chủ Congo, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa… cũng là các nước cộng sản. Các nước Cộng hòa (không có nhân dân hay dân chủ đi kèm) đều là các nước dân chủ (tự do).
Nền « cộng hòa dân chủ » hay nền « cộng hòa nhân dân », đều là nền cộng hòa « xã hội chủ nghĩa », tức nền cộng hòa do giai cấp vô sản dựng lên, vì giai cấp vô sản và cho giai cấp vô sản.
Vì sao có bước lùi, từ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trở về Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ?
Ý kiến của Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc trong bài phỏng vấn cho thấy ông này vẫn muốn giữ « nội hàm » xã hội chủ nghĩa. Ông này có lý của ông ta. Rượu vẫn là rượu cũ mà bình cũng cũ. Không có gì để nói.
Ý kiến của các vị trí thức thì như thế nào khi đề nghị tên nước là « Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ?
Theo tôi, VN có được dân chủ hóa thực sự hay không trước hết phải thay nền cộng hòa. VN nên lập nền cộng hòa mới. Ở đây không phải tái dựng lại đệ nhị cộng hòa. Nếu kị tiếng Việt Nam Cộng Hòa thì gọi là Việt Nam Dân Quốc (Republic of Viêt Nam). Phải lập nền cộng hòa mới, thực sự của mọi người dân, mọi giai cấp, mọi thành phần, mọi chủng tộc trên khắp miền đất nước. Đất nước là của mọi người chứ không phải của riêng của « giai cấp vô sản ».
Sau đó thì hãy nói đến hiến pháp. Cộng hòa là nền. Không ngôi nhà nào bền vững nếu không được xây trên một nền tảng vững chắc.
Theo blog TNT







Viết tặng cha tôi
Tôi sinh ra trong buổi loạn lạc. Đất nước chiến tranh, lòng người chia cắt, cả dân tộc như đàn chim vỡ tổ. Chạy thật xa để tồn tại, để tự cứu mình, cứu gia đình mình thoát khỏi cái đói hàng ngày và cái nhà tù khổng lồ. Cả cuộc đời bận chữ mưu sinh nơi đất khách quê người. Tôi may thi đủ điểm đi học đại học nước ngoài. Không có khiếu buôn bán như những người khác, nên đành bám nghề kỹ thuật. Mặc dù lý lịch hai lần “phương đông”, nhưng cũng may được chấp nhận làm việc ở những công ty lớn của thế giới. Không giàu có, nhưng vẫn cố gửi chút tiền về cho gia đình nhân dịp Tết mỗi năm.
Cha tôi là đảng viên cộng sản và ông tin Đảng không bao giờ sai. Theo ông đường lối của Đảng bao giờ cũng đúng, chỉ tội cách triển khai sai, do trình độ cấp dưới kém cỏi. Tôi rất ít khi về VN vì cha con tôi lại tranh luận mà đúng hơn là cãi nhau về chuyện đất nước về chuyện chính trị VN. Ông nói: Con không nhìn thấy đất nước đã mở cửa, đời sống đã tốt hơn trước đây rất nhiều…như đọc báo Nhân Dân. Còn tôi: Mức sống của nước mình vẫn ở dưới cùng so với các nước xung quanh. So với châu Âu thì cần cả trăm năm nữa mới kịp. Cha tôi giải thích rất nhanh: Nguyên nhân tại chiến tranh triền miên. Tôi lại căng lên: Không ba ơi! Nguyên nhân chính là… lực lượng cản trở sự phát triển của đất nước, tạo nên một xã hội tự bóc lột thời gian của mình, thích nói dối và nghe nói dối. Tất cả đều dối trá và chỉ có ăn là thật. Không có cơ chế để thu phục người tài, đưa những người vô học, vô tâm, lên lãnh đạo đất nước, chỉ biết lừa vay tiền nước ngoài về để chia nhau… Ba xem số nợ bây giờ là bao nhiêu? Ra đường thì sợ cướp, sợ đụng xe, khói xăng nồng nặc, bụi mù mịt, ăn uống cái gì cũng sợ hóa chất độc. Khắp nơi,dân khiếu nại do bị chính quyền địa phương cướp đất. Mấy trăm trường đại học và cao đẳng, nhưng không có trường nào trong danh sách 200 trường có tiếng ở châu Á. Lực lượng trí thức trở thành trí ngủ, bị lưu manh hóa, học để có bằng để loè nhau, không có đóng góp gì đáng tự hào cho kinh tế VN và khoa học nhân loại. Chính quyền thì tham nhũng nhất trong lịch sử VN, nhưng lại nhu nhược nhất với Trung Quốc, tàn ác với những người yêu nước dám cất tiếng nói bảo vệ Trường Sa – Hoàng Sa. Báo chí còn bị kiểm duyệt hơn cả thời Pháp thuộc… Khi hết lý thì ông quy cho tôi là theo cái bọn phản động nước ngoài. Lấy cái quyền làm cha để chửi tôi không tiếc lời. Mỗi lần như vậy mẹ lại tôi khóc. Bà nói: Kệ bố chúng nó! Mày nói có đứa nào nghe đâu. Chúng nó bị điếc từ khi nắm được chính quyền… Và chúng tôi lại thôi.
Mặc dù đã về hưu nhưng ông vẫn tích cực tham gia đấu tranh ở cơ sở vì nghĩ rằng chỉ họ làm sai và trên vẫn đúng… Có lẽ là bị kịch của gia đình tôi cũng giống bi kịch của bao gia đình Việt Nam.
Tôi là dân kỹ thuật không có thời gian và khả năng viết hay như Dương Thu Hương, Bùi Tín, Lê Diễn Đức, Tưởng Năng Tiến, Ngô Nhân Dụng hay Nguyễn Gia Kiểng… Nhân dịp ngày thành lập ĐCS VN tôi chia sẻ với các bạn bài thơ ngắn, viết tặng cha tôi năm 2000 khi ông nhận huy hiệu 50 tuổi đảng.
Chẳng Duy
Một thời duy vật hứa duy dân
Hy vọng tháng năm chết chết dần
Duy ngã cho nên duy ý chí
Duy tha quên hết phải duy thần.
Duy đức duy trì trên khẩu hiệu
Duy tiền, duy lợi, lại duy tâm
Duy thế, duy quyền duy nhất mãi
Kệ dân, mặc nước, chẳng duy tân!







February 2, 2013
Vấn đề Đảng trong Hiến pháp Trung Quốc
Hồ Anh Hải
Sử dụng Hiến pháp để củng cố địa vị hợp pháp của chính đảng cầm quyền luôn luôn là cái « phong vũ biểu » của nền chính trị chính đảng ở Trung Quốc kể từ sau Cách mạng Tân Hợi (1911), dù là Quốc Dân Đảng (QDĐ) của Tôn Trung Sơn và Tưởng Giới Thạch hay Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) của Mao Trạch Đông.
Sau khi đánh đổ chế độ phong kiến Mãn Thanh, QDĐ lên cầm quyền, đưa ra lý luận « Nhà nước của Đảng » (Đảng Quốc), dùng Hiến pháp xác lập mô hình « Đảng trị », tức « Dùng Đảng thay chính quyền » . ĐCSTQ, lúc đó đang hoạt động bí mật, đã kịch liệt phản đối mô hình này. Mãi đến năm 1936 và 1946, QDĐ mới tuyên bố « Trả lại chính quyền cho dân », và Hiến pháp mới không trực tiếp đề cập địa vị pháp lý của đảng cầm quyền nữa. Tuy vậy trong thực tế QDĐ vẫn thực hành « Đảng trị », tiếp tục tạo ra đặc quyền đặc lợi cho đảng mình, khiến cho hầu hết đảng viên QDĐ đều tham nhũng vinh thân phì gia, bị nhân dân căm ghét, họ ủng hộ ĐCSTQ lật đổ chính quyền QDĐ. Sau khi chạy ra Đài Loan, Tưởng Giới Thạch mới tỉnh ngộ : QDĐ thua chỉ vì đảng này tham nhũng suy thoái quá nặng, và ông quyết tâm « Thanh đảng ».
Nước CHND Trung Hoa từ ngày lập quốc tới nay đều do ĐCSTQ lãnh đạo, ngoài ra còn 8 chính đảng dân chủ khác hợp tác với ĐCSTQ và chịu sự lãnh đạo của ĐCSTQ. Trong Chính phủ Trung Quốc hiện có một bộ trưởng thuộc Đảng Trí Công không phải ĐCSTQ. Từ một đảng cách mạng, ĐCSTQ đã trở thành đảng cầm quyền duy nhất, hiện có hơn 80 triệu đảng viên, chiếm tỷ lệ lớn trong các cơ quan chính quyền, xí nghiệp, đơn vị sự nghiệp và đoàn thể xã hội và đảm nhiệm các chức vụ quan trọng.
Cho tới nay Trung Quốc đã sử dụng 4 bản Hiến pháp : 1954, 1975, 1978 và 1982. Trong đó các bản Hiến pháp 1975 và 1978 chỉ có tính chuyển tiếp vì thời gian thực thi cực ngắn (3-4 năm). Tiến trình soạn thảo Hiến pháp Trung Quốc là một quá trính không ngừng pháp chế hóa và, về mặt pháp lý, làm suy yếu dần (虚化) sự lãnh đạo của đảng, đưa vai trò đảng lui vào sau sân khấu (后台化) chính trị.
1) Hiến pháp 1954 123
Hiến pháp này được soạn thảo dưới sự chủ trì trực tiếp của Mao Trạch Đông, dựa trên cơ sở bản Cương lĩnh chung mang tính chất Hiến pháp tạm thời do Hội nghị Hiệp thương chính trị toàn quốc (Chinh Hiệp) làm ra năm 1949, trước ngày lập quốc. Sau hơn 3 tháng soạn thảo, ngày 23-3-1954 Dự thảo Hiến pháp được đưa ra toàn dân thảo luận, hình thành bản Hiến pháp chính thức, được Quốc hội thông qua ngày 20-9-1954.
Nội dung Hiến pháp ngoài Lời Nói Đầu (không thuộc phần chính văn của Hiến pháp nên không phải là quy định pháp luật) ra còn có 4 chương, cộng 106 điều. Hiến pháp tuyên bố Trung Quốc theo chế độ dân chủ nhân dân.
Lời Nói Đầu có xác nhận địa vị lãnh đạo của ĐCSTQ trong Mặt trận Thống nhất nhưng chỉ khẳng định « tính hợp hiến » của đảng cầm quyền chứ không xác nhận địa vị lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, cũng không có quy định chức quyền của Đảng trong đời sống nhà nước. Các điều văn trong Hiến pháp hoàn toàn không nói gì tới ĐCSTQ.
2) Hiến pháp 1975
Được soạn thảo và ban hành trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, khi đường lối tả khuynh đang điên cuồng tác yêu tác quái, Hiến pháp này đề cao lý luận « Tiếp tục cách mạng dưới nền chuyên chính vô sản » của Mao Trạch Đông, phủ định « công dân nhất luật bình đẳng trước pháp luật », khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và khẳng định thể chế coi sự lãnh đạo ấy cao hơn chính quyền nhà nước. Tóm lại là không tách rời đảng với chính quyền, lấy đảng thay chính quyền, dùng đảng trị nước.
Hiến pháp chỉ có 30 điều thì 10 chỗ đề cập vấn đề liên quan tới ĐCSTQ. Ngoài Lời Nói Đầu ra, các Điều 2, 13, 15 và 16 đều quy định « ĐCSTQ lãnh đạo » . Điều 17 khẳng định Đảng có « quyền đề nghị về nhân sự » người lãnh đạo cơ quan nhà nước. Điều 26 còn viết : « Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân » trước hết là « ủng hộ sự lãnh đạo của ĐCSTQ ». Hiến pháp xác nhận địa vị lãnh đạo của Đảng trong toàn bộ đời sống nhà nước và có quy định cụ thể về chức quyền của Đảng, như quyền lãnh đạo và quyền thống soái về quân sự, quyền lãnh đạo Quốc hội, quyền đề cử Thủ tướng. Nhưng không có quy định trình tự Đảng phải tuân theo khi hành xử các chức quyền đó, vì thế đã để lại một không gian lớn có tính tùy ý, tạo điều kiện Đảng có thể hành xử quyền lực một cách phi luật pháp.
Do ảnh hưởng của tư tưởng cực tả nên công tác làm Hiến pháp 1975 có xảy ra một chuyện : Ngày 6-9-1970, hội nghị lần hai Trung ương Đảng khóa IX thông qua Dự thảo Hiến pháp này, trong đó có câu « Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân là ủng hộ Chủ tịch Mao Trạch Đông và bạn chiến đấu thân thiết của Người là Phó Chủ tịch Lâm Bưu, ủng hộ ĐCSTQ ». Sau đó ít lâu, Lâm Bưu thất bại trong âm mưu ám sát Mao Trạch Đông, ngày 13-9-1971 trốn sang Liên Xô rồi chết do máy bay rơi khi bay qua Mông Cổ. Vì thế cách đặt vấn đề như trên của Dự thảo Hiến pháp trở thành trò cười lịch sử. Rốt cuộc bản Hiến pháp chính thức phải bỏ đi nửa câu « ủng hộ » Chủ tịch Mao và Lâm Bưu và mãi đến năm 1975 mới ban hành. Sự cố này cho thấy việc đưa vào Hiến pháp những yếu tố bất định và không vĩnh cửu, như vai trò của chính đảng và lãnh tụ có thể mang lại hậu quả bi thảm như thế nào.
3) Hiến pháp 1978
Hiến pháp này được soạn thảo sau khi Cách mạng Văn hóa chấm dứt nhưng người chủ trì soạn thảo là Chủ tịch Đảng Hoa Quốc Phong cố nhấn mạnh tư tưởng « Hai Phàm Là » của mình [Phàm là lời Mao Trạch Đông nói đều đúng ; phàm là chỉ thị của Mao Trạch Đông thì chúng ta phải kiên quyết chấp hành]. Do đó Hiến pháp 1975 cơ bản giữ lại các quy định về địa vị pháp lý của ĐCSTQ như Hiến pháp 1975, chỉ bỏ đi quy định về quyền lãnh đạo của Trung ương Đảng đối với Quốc hội, và vẫn không có quy định trình tự Đảng phải tuân theo khi hành xử các chức quyền.
4) Hiến pháp 1982
Được soạn thảo rất công phu từ năm 1980, sau khi ĐCSTQ quyết định tiến hành Cải cách mở cửa, Hiến pháp này đã sửa đổi lớn Hiến pháp 1978, đã kế thừa và khôi phục truyền thống tốt đẹp của Hiến pháp 1954. Dự thảo Hiến pháp được đưa ra toàn dân thảo luận, Quốc hội thông qua và ban hành ngày 4-12-1982. Giới lý luận Trung Quốc đánh giá đây là bản Hiến pháp tốt nhất ở nước này từ trước tới nay.
Hiến pháp hiện hành ở Trung Quốc là Hiến pháp 1982 có bổ sung 4 Tu chính án do Quốc hội đưa ra vào các năm 1988, 1993, 1999 và 2004. Lời Nói Đầu (không có tính pháp luật) có thuật lại vai trò lãnh đạo của ĐCSTQ trong cách mạng và trong xây dựng CNXH.
Tất cả các điều văn (138 điều) trong chính văn Hiến pháp hoàn toàn không có từ « Đảng Cộng sản » và « cộng sản », nghĩa là không có quy định về địa vị lãnh đạo của ĐCSTQ, và cũng không có tên bất cứ lãnh tụ cộng sản nào.
Điều 29 : « Lực lượng vũ trang nước CHNDTH thuộc về nhân dân. Nhiệm vụ của lực lượng này là củng cố quốc phòng, chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ lao động hòa bình của nhân dân, tham gia sự nghiệp xây dựng quốc gia, nỗ lực phục vụ nhân dân. » Điều 93 Chương « Cơ cấu nhà nước » viết : Ủy ban Quân sự Trung ương nước CHND Trung Hoa lãnh đạo lực lượng vũ trang toàn quốc… Nhiệm kỳ của UBQSTW như nhiệm kỳ của Quốc hội. »
Nhưng Hiến pháp vẫn có quy định : « Tất cả các cơ quan nhà nước và lực lượng vũ trang, các chính đảng và các đoàn thể xã hội, các xí nghiệp, tổ chức sự nghiệp đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật… », « Bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào đều không được có đặc quyền vượt qua Hiến pháp và pháp luật ». Hai quy định này thể hiện tiến bộ rất lớn vì ở đây từ « các chính đảng » dĩ nhiên đã gồm cả ĐCSTQ, từ « tổ chức hoặc cá nhân » dĩ nhiên gồm cả tổ chức các cấp của ĐCSTQ và người lãnh đạo đảng. Một số học giả Trung Quốc cho rằng Hiến pháp 1982 vẫn còn một sơ hở là không nói rõ khi trên thực tế có tình trạng tổ chức hoặc cá nhân nào đó nắm giữ và hành xử « đặc quyền vượt Hiến pháp và pháp luật » thì phải xử lý thế nào.
Vì sao Hiến pháp 1982 không có quy định về địa vị lãnh đạo của ĐCSTQ, tức không giao bất cứ quyền lực nhà nước nào cho ĐCSTQ ?
Theo giải thích đó là vì Báo cáo chính trị tại Đại hội XII ĐCSTQ (9-1982) đã chỉ rõ : « Đảng không phải là tổ chức quyền lực ra lệnh chỉ huy quần chúng ». Điều lệ mới của Đảng đưa ra quyết định lịch sử : « Đảng phải hoạt động trong phạm vi Hiến pháp và pháp luật ». Từ năm 1941 Đặng Tiểu Bình đã tuyên bố phản đối chủ trương « Dĩ đảng trị quốc » của Quốc Dân Đảng, nay ĐCSTQ cũng không thể lặp lại chủ trương ấy.
Xét về lý luận, quyền lãnh đạo của Đảng thuộc vào phạm trù chính trị ; thực chất nó là một loại uy tín chính trị, tài nguyên chính trị và quyền uy chính trị, chứ không phải là nói việc nắm giữ và hành xử quyền lực nhà nước. Đảng được nhân dân yêu quý, ủng hộ và phục tùng – đây là một loại uy tín chính trị, tài nguyên chính trị và quyền uy chính trị ; nó khác với lực cưỡng chế và lực ràng buộc của quyền lực nhà nước. Biểu hiện chủ yếu của nó là sức thu hút chính trị, sức thuyết phục chính trị và ảnh hưởng chính trị đối với quần chúng nhân dân. Đảng lãnh đạo không phải là Đảng trực tiếp nắm giữ và hành xử quyền lực nhà nước để tiến hành cưỡng chế và chi phối quần chúng nhân dân, các tổ chức xã hội, các cơ quan nhà nước và đời sống chính trị của đất nước. Hiến pháp đã nói « Tất cả mọi quyền lực của nước CHND Trung Hoa thuộc về nhân dân. Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan mà nhân dân dùng để hành xử quyền lực nhà nước ». Vì vậy quyền lãnh đạo chính trị của ĐCSTQ nhất thiết không phải là quyền lực đặc biệt, siêu quyền lực, quyền lực vô hạn được đặt ngang hàng thậm chí lên trên quyền làm chủ của nhân dân và quyền lực của chính quyền nhà nước. Đặng Tiểu Bình nói : có một số đồng chí « hiểu nhầm ưu thế của Đảng, cho rằng đảng viên bao biện là ưu thế tuyệt đối của Đảng mà không hiểu rằng ưu thế tuyệt đối đích thực là ở sự ủng hộ của quần chúng. Ưu thế được xây dựng trên cơ sở quyền lực là ưu thế không bền vững », ông kêu gọi quét sạch mọi di độc của Quốc Dân Đảng « quyền lực của đảng cao hơn tất cả », « dùng đảng để cai trị đất nước ».
Chủ nghĩa Mác cho rằng một chính đảng có địa vị cầm quyền không có nghĩa là tổ chức các cấp của đảng có thể lấn át lên trên các cơ quan chính quyền nhà nước, không có nghĩa là nắm giữ và hành xử quyền lực nhà nước một cách trực tiếp, cụ thể. Cách làm sai lầm không tách rời đảng với chính quyền, lấy đảng thay cho chính quyền, trên thực tế chỉ gây thiệt hại nghiêm trọng cho địa vị lãnh đạo của Đảng cộng sản
Tuy Hiến pháp không giao quyền lực nhà nước cho ĐCSTQ, nhưng trên thực tế việc ĐCSTQ là đảng cầm quyền đã được xác định ở chỗ : – Đường lối của Đảng đã thể hiện trong toàn bộ Hiến pháp và các luật pháp khác ; – Những người do Đảng giới thiệu theo trình tự pháp lý đều đảm nhiệm các cương vị lãnh đạo chủ chốt trong Chính phủ.
Vì sao việc Hiến pháp 1982 hủy bỏ Điều nói về vai trò lãnh đạo của ĐCSTQ lại không gây ra sóng gió gì ở Trung Quốc ?
Theo giải thích đó là do mấy nguyên nhân sau đây :
1) Cái gọi là hủy bỏ ấy chẳng qua chỉ là khôi phục lại bộ mặt vốn có của Hiến pháp 1954 từng được xây dựng trong thời kỳ Chính phủ Trung Quốc còn là Chính phủ liên hợp, có nhiều chính đảng và nhân sĩ ngoài ĐCSTQ tham gia (tương tự Chính phủ Việt Nam năm 1946 ?). Hiến pháp 1982 được soạn thảo khi cả nước đang đau khổ suy ngẫm lại tác hại của tư tưởng cực tả trong ĐCSTQ thời kỳ « Cách mạng Văn hóa » vừa trải qua.
2) Trong Lời Nói Đầu Hiến pháp 1982 vẫn giữ lại những chỗ trình bày về vai trò của ĐCSTQ, chủ nghĩa Mác-Lê, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình … (nhưng Hiến pháp không nói gì về việc Đảng lãnh đạo như thế nào).
Các nhà soạn thảo Hiến pháp 1982 cho biết : hiện nay trong Hiến pháp của 110 quốc gia trên thế giới chỉ có 29 bản Hiến pháp có Lời Nói Đầu, trong đó 5 quốc gia có trình bày về ý thức hệ. Lời Nói Đầu chỉ thuật lại các sự thực lịch sử, vì thế sau này khi sửa đổi Hiến pháp thì các sự thực đó cũng không bị phủ nhận.
3) Điều 1 Hiến pháp đã nói Trung Quốc là quốc gia XHCN chuyên chính vô sản dựa trên cơ sở liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nói chuyên chính vô sản thì mọi người đã hiểu là chuyên chính do ĐCS lãnh đạo. Tư tưởng chỉ đạo ĐCSTQ hiện nay là lý luận Đặng Tiểu Bình và tư tưởng quan trọng « Ba đại diện » (ĐCSTQ trước sau đại diện cho yêu cầu phát triển sức sản xuất tiên tiến của Trung Quốc, cho phương hướng tiến lên của văn hóa tiên tiến Trung Quốc, cho lợi ích căn bản của nhân dân rộng rãi nhất của Trung Quốc ).
Tác giả gửi QC
………..
Tài liệu tham khảo :
1. 中华人民共和国宪法http://www.gov.cn/gongbao/content/200...
2. 宪法的变迁与党的领导(2012-10-06) http://blog.sina.com.cn/s/blog_53835a110101bc01.html
3. 关于党的领导:1982年宪法的重要修正 (2011-8-19)
http://wq.zfwlxt.com/newLawyerSite/BlogShow.aspx?itemid=c0755906-29e2-400c-b4be- 9f4400ce1604&user=10420
4. 论执政党在我国宪法文本中地位的演变http://www.law-lib.com/hzsf/lw_view.a...







Thư gửi hai gs Ngô Bảo Châu và Đàm Thanh Sơn
Nhờ bọ Lập đăng giùm
Nguyễn Long Việt
Kính gửi: GS Châu, GS Sơn và cộng sự
Tôi vừa nhân được tin là 2 bài viết của tôi (“Điều 4 là vấn đề của mọi vấn đề” và “Có dám đăng không?”) đã bị tháo gỡ xuống trên trang Cùng viết Hiến pháp. Tôi không biết được vì nguyên nhân gì?
“Cùng viết Hiến pháp ra đời nhằm tạo thêm một không gian đối thoại cho tất cả những người quan tâm đến việc sửa đổi Hiến pháp, để họ có thể cùng thảo luận về chủ đề này một cách nghiêm túc và dân chủ.”
Tôi sẵn sàng tranh luận với bất kỳ ai về bài viết của tôi. Tôi cũng không mạt sát, nói năng thô tục trong bài viết. Có thể, bởi vì tôi không muốn viết những lời hoa mỹ trong bài viết, bởi tôi muốn viết ý kiến như những người dân bình thường. (Tôi cố gắng viết, sử dụng từ ngữ như cách nói trên thực tế của người dân, chứ không sử dụng những lời từ các hội nghị).
Góp ý sửa Hiến pháp không phải dành cho Tạp chí nghiên cứu khoa học, mà các ý kiến nên để người dân có thể hiểu như ngôn ngữ ứng xử hàng ngày. Và người dân có thể sử dụng để bảo vệ quyền lợi của họ.
Xây dựng Hiến pháp là quyền của bất kỳ người dân nào, nên dù là ý kiến như: “tui thấy các ổng lãnh đạo kiểu chi mà dân tui phải đi làm thuê cho các nước láng giềng. Mấy ông quan chức thì lương có 5, 7 triệu mà nhà lầu, biệt thự, con cái đi du học. Con tui đi ra các nước, không thấy nước mô đưa bộ đội, công an cưỡng chế nhà dân. Bầu cử kiểu chi mà, trước bầu cử ai cũng biết là trúng rồi…”
Đó cũng là một ý kiến góp ý, và cũng có quyền bình đẳng như các ý kiến khác (miễn là không văng tục, không vu khống cho người khác). Còn góp ý mang tính xây dựng ư? Đó lại là thiên kiến qua một cái lọc (filter), như vậy đâu có phải là tranh luận dân chủ.
Tôi là người học luật, tính tình thẳng thắn, có sao nói vậy. Tôi có linh cảm một điều là, GS Châu, GS Sơn đang “bị lợi dụng”. Bị lợi dụng tên tuổi. Thứ nhất, việc trang “Cùng viết Hiến pháp” được sáng lập, có lẽ là chủ đích của “một số người nào đó” nhằm (1) đánh lạc hướng dư luận không quan tâm tới bản Dự thảo Hiến pháp do 72 nhân sĩ, trí thức đăng trên Boxitvn.net, mà quan tâm đến Cùng viết Hiến pháp đã qua kiểm duyệt (censorship); (2) các GS Châu, GS Sơn không quan tâm đến bản Dự thảo này, hay nói cách khác là không ký tên vào.
Bởi nếu 2 GS ký tên vào, sức lan tỏa rất lớn, đặc biệt là thế hệ trẻ những người luôn coi các GS như đỉnh cao trí tuệ Việt.
Tại sao lại bàn kiểm duyệt (censorship) ở đây? Bởi những người cộng sự của Giáo sư chưa thoát được sự “bám lề”, hay “sợ hãi”. Họ chỉ dám đóng góp “chút nước sơn” có chừng mực bởi họ còn “sợ” bị ảnh hưởng (con cái bị trù dập, gia đình bị sách nhiễu…). Nhưng cái đó không quan trọng lắm, mà cái lọc (filter) quan trọng hơn nữa là giới hạn kiến thức.
Tôi đã từng bảo là GS Nguyễn Đăng Dung được đánh giá là GS đầu ngành luật Hiến pháp Việt Nam, nhưng giới hạn của những bài viết của GS cũng chỉ trong khoảng của Hiến pháp Liên xô cũ chứ không phải là Hiến pháp các nước tiên tiến, dân chủ (Cũng giống như Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng là GS Triết học Mác – Lê nin chứ không phải là GS triết học nói chung).
Tôi có tham khảo qua về mấy bài viết về Hiến pháp Mỹ, hay tam quyền phân lập của GS Dung nhưng tôi thấy GS cũng chưa thực sự mang đến những giá trị đó. Có lẽ vì hạn chế về tiếng Anh, nên GS không thể hiểu 100% nội dung của từng câu chữ, mà GS chỉ viện dẫn các sách đã dịch qua một filter khác.
Với lại, GS cũng là đảng viên, cũng là thành viên của Mặt trận Tổ quốc VN nên GS cũng phải bị đè trên mình nhiều áp lực. Ngoài ra, trong số Ban biên tập hay khởi xướng cũng không ít người là Đảng viên trung thành.
Do vậy, những bài viết như của tôi chẳng hạn, kêu gọi không quy định Điều 4 để người dân Việt Nam có được quyền bầu cử như các nước láng giềng, dân chủ trên thế giới, lại qua một cái filter như thế thì tôi nghĩ, bị tháo xuống là đúng thôi.
Nhân tiện đây, tôi cũng không trách các vị trong Ban biên tập bởi ở Mỹ có câu ngạn ngữ rất hay: “We can’t teach an old dog new tricks” (Tôi không dịch câu này ra tiếng Việt, bởi tôi không muốn áp đặt ý chí của mình cho người khác, mỗi người có một cách hiểu).
Nếu việc sửa đổi Hiến pháp lần này vẫn tiếp tục quy định Điều 4 thì đó là một sự thất bại, đành phải chờ thế hệ trẻ. Và điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta bỏ lỡ một cơ hội chuyển đổi từ độc tài (độc đảng sinh ra độc tài) sang dân chủ (dân chủ đa đảng luôn đi kèm với nhau, chứ không bao giờ có dân chủ một đảng). Và tôi cũng lo rằng không chuyển giao trong hòa bình thì sẽ phải chuyển giao trong bạo lực. Tôi không muốn điều đó xảy ra, nhưng đó là một tất yếu.
Việt Nam có đặc thù riêng?
Chỉ có thể trở thành lãnh đạo Việt Nam từ 3 triệu đảng viên? Trong số khoảng 87 triệu dân chả lẽ không ai xứng đáng làm lãnh đạo? (ngay cả làm chủ tịch xã, huyện?). 87 triệu dân không là đảng viên vô dụng đến thế sao?
Khoan bàn về đúng sai của lịch sử, cứ cho là Đảng CSVN lãnh đạo từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nhưng hồi xưa có các đảng khác cạnh tranh, và vì hồi xưa có cụ Hồ trong đảng CSVN. Nhưng có phải lúc nào cũng có cụ Hồ đâu? Đến giờ, không có cụ Hồ trong đảng nữa (mà chỉ có đồng chí X, Y chẳng hạn) thì phải mở rộng cho toàn thể nhân dân ứng cử, bầu cử để tìm lấy cụ Hồ?
Tôi cũng xin có một kiến nghị nữa là: Một khi trang Cùng viết Hiến pháp thành lập, thì trang cũng nên hồi âm người gửi bài (trả lời…) như một dạng của trách nhiệm giải trình (accountability), không nên như cách các cơ quan hành chính Việt Nam. Người dân hỏi, không biết bao giờ mới trả lời.
Và GS Châu cũng thấy được điều đó khi GS ký kiến nghị trả tự do cho Phương Uyên rồi. Tiện đây, tôi cũng nói thêm một chút là: Ở Việt Nam, tôi đố người nào ra đường mặc áo có dòng chữ “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam” mà không bị chính quyền sách nhiễu (như một số bloggers nói rằng: Hèn mạt đến thế sao?).
Tôi là người làm việc trong “phòng kính” nhưng cuộc sống luôn theo sát với người dân nên tôi biết điều đó.
Xin chân thành cảm ơn Quý vị,
Nguyễn Long Việt
Tác giả gửi QC







Không dễ chút nào, lời cuối
Ba Sàm
Tiếp theo bình luận sáng qua liên quan cuộc “chỉnh đốn” của ĐCSVN, trong đó có câu hỏi: liệu các nhân vật vốn xưa nay “kiên định lập trường” Mác-Lê, đi đầu là ông TBT, có nắm lấy ngọn cờ cải cách dân chủ, để tranh thủ lòng dân, thay vì để cho ông Thủ tướng phất, hòng tái diễn màn “thoát hiểm” ngoạn mục?
Nếu chỉ theo dõi bề nổi thông qua báo chí gần đây, để trả lời phần nào cho câu hỏi trên thì có thể thấy đang có những “tiếng kèn ngập ngừng”, trong đó khá rõ hiện tượng vừa mạnh dạn cho đăng tải những bài đặt thẳng ra vấn đề về Điều 4 và luật về đảng, nhưng cũng có những bài chỉ trích với nội dung ít gay gắt về ý nguyện muốn bỏ nó. Tại sao “ngập ngừng”? Lại có mấy giả thiết:
1- Sợ thằng “bạn vàng” phương Bắc “thổi còi”. Đây là yếu tố có lẽ quan trọng nhất, trả lời cho bao nhiêu câu chuyện nhiều năm qua về một VN luôn đi sau TQ. 2- Nội bộ đang có những khác biệt quan điểm, đang có những thăm dò nhau. 3- Đã có sự thống nhất cao trong BCT cần phải có thay đổi căn bản trong Hiến pháp, trước hết là về vai trò của ĐCSVN. Vẻ ngoài “ngập ngừng” chỉ là chuyện nhỏ.
Chính giả thiết thứ 3 này cũng để trả lời cho câu hỏi trên, đó là những người “kiên định lập trường” không thể tự thay đổi, họ cần có sự thống nhất cao độ trong toàn bộ ban lãnh đạo. Làm được điều này, họ cũng hóa giải được mối mâu thuẫn nổi lên chưa giải quyết được qua cuộc “chỉnh đốn”, chống tham nhũng.
Có nghĩa, bằng việc nhất trí phải cải cách chính trị, trước mắt tận dụng việc sửa Hiến pháp, họ sẽ “hạ nhiệt” được đòi hỏi của nhân dân và cán bộ đảng viên là phải nhanh chóng đưa ra kết quả của cuộc “chỉnh đốn” đảng, phải có ngay kẻ chịu trách nhiệm cao nhất cho tình trạng kinh tế nước nhà mấy năm qua. Ý nghĩa thứ hai, cũng rất quan trọng, là bằng sự thống nhất cao độ đó, được nhân dân hậu thuẫn, họ sẽ đủ sức mạnh đương đầu với hành động lấn lướt của Trung Quốc, kẻ luôn tìm mọi cách phân hóa nội bộ ban lãnh đạo ĐCSVN để dễ bề đè đầu cưỡi cổ.
Có điều, một khó khăn rất lớn cho giả thiết thứ 3 ở trên, là thế lực của những kẻ ngấm ngầm làm tay sai cho Bắc Kinh trong nội bộ ĐCSVN.







Bài cúng ông Táo của bọ Lập

Tín chủ chúng con là: …Bọ Lập………Ngụ tại: Việt Nam ………………………….
Hôm nay là ngày 23 tháng Chạp, tín chủ chúng con thành tâm, sắp sửa hương hoa vật phẩm, xiêm hài áo mũ, kính dâng Tôn thần. Thắp nén tâm hương tín chủ con thành tâm kính bái. Chúng con kính mời ngài Đông Trù Tư Mệnh Táo phủ Thần quân hiển linh trước án thụ hưởng lễ vật.
Phỏng theo lệ cũ, ngài là vị chủ, ngũ tự Gia Thần, soi xét lòng trần, Táo quân chứng giám.
Trong năm sai phạm, các tội lỗi lầm, cúi xin Tôn thần, gia ân châm chước. Ban lộc ban phước, phù hộ toàn gia, trai gái trẻ già, an ninh khang thái.
Dãi tấm lòng thành cúi xin chứng giám.
Vừa rồi nhân sĩ trí thức hạ giới đã có kiến nghị sửa đổi hiến pháp ( tại đây), đến nay đã có 2.178 chữ kí, nhưng xem chừng cũng chỉ là nước đổ đầu vịt.
Vậy xin Táo quân chuyển tới Ngọc Hoàng bốn lời thỉnh nguyện:
Một là xin Ngọc Hoàng chỉ thị các cụ nhà con bỏ điều 4 ra ngoài Hiến pháp
Hai là xin Ngọc Hoàng chỉ thị các cụ nhà con rằng quân đội chỉ bảo vệ Tổ quốc và nhân dân, không bảo vệ một ai khác
Ba là xin Ngọc Hoàng chỉ thị cho các cụ nhà con bỏ sở hữu ( đất đai) toàn dân, chuyển về chế độ đa sở hữu.
Bốn là xin Ngọc Hoàng chỉ thị các cụ nhà con đổi tên nước thành Việt Nam dân chủ cộng hòa, hoặc tốt nhất là Cộng hòa Việt Nam.
Cúi xin Ngọc Hoàng đèn giời soi xét, hỗ trợ chúng con. Nhược bằng các cụ nhà con bất tuân ý chỉ của Ngọc Hoàng thì xin Ngọc Hoàng muốn xử các cụ nhà con thế nào thì xử.
Nói nhỏ Ngọc Hoàng: Các cụ nhà con sợ bị chuyển công tác lên Thiên đình làm việc lắm đấy!
Đa tạ Ngọc hoàng!
- Phục duy cẩn cáo!







Góp ý cho dự thảo sửa đổi hiến pháp 1992
Công dân Nguyễn Thị Từ Huy
Văn bản này được soạn thảo nhằm đáp ứng lời kêu gọi của Quốc hội về việc đóng góp ý kiến cho Dự thảo sửa đổi hiến pháp 1992 (từ đây được viết tắt là Dự thảo). Ở đây chúng tôi phát triển các ý căn bản đã trình bày tại Hội thảo phụ nữ trí thức và doanh nhân góp ý dự thảo sửa đổi hiến pháp 1992, do Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tổ chức ngày 1/2/2013 tại thành phố Hồ Chí Minh.
Chúng tôi xuất phát từ quan niệm chung về hiến pháp:
Ý nghĩa của hiến pháp, lý do khiến cho một dân tộc phải có hiến pháp, đó là nó nhằm bảo vệ quyền con người và các quyền tự do công dân, chống lại sự lạm dụng có thể xảy ra của những người nắm giữ các quyền lực. Những quy định về tổ chức nhà nước và sự phân quyền của các bộ phận lập pháp, hành pháp, tư pháp nhằm đảm bảo cho các quyền con người và tự do công dân được thực hiện một cách tốt nhất. Vì thế mà mệnh đề đầu tiên (tôi nhấn mạnh) của“Lời nói đầu” tức cũng là của toàn bộ Hiến pháp nước Cộng hòa Pháp là: “Nhân dân Pháp trịnh trọng tuyên bố cam kết thực hiện Quyền Con Người”. Vì thế mà trong điều 1 của hiến pháp nước này (được đặt riêng, trước tất cả các chương) có quy định rằng “nước Pháp phải đảm bảo sự công bằng trước pháp luật cho tất cả mọi công dân không phân biệt nguồn gốc, chủng tộc hay tôn giáo”. Vì thế mà điều XVI của “Bản tuyên ngôn về quyền con người và quyền công dân năm 1789”, được đưa vào như một phần của Hiến pháp Cộng hòa Pháp, nói rõ: “MỌI XÃ HỘI trong đó các Quyền con người không được đảm bảo, sự phân lập các Quyền lực [lập pháp, hành pháp, tư pháp] không được xác định, thì không hề có Hiến Pháp (tôi nhấn mạnh)”. Điều này giải thích tại sao thời phong kiến không có hiến pháp mặc dầu có luật pháp. Nó cũng giải thích tại sao hiến pháp chỉ có thể ra đời cùng với cách mạng dân chủ tư sản. Chỉ trong thể chế dân chủ quyền con người mới được đảm bảo.
Cũng vì thế mà hiến pháp đúng nghĩa phải là sản phẩm của toàn thể nhân dân. Hiến pháp là cam kết của tất cả mọi người trong xã hội về những quy định chung cần phải thực hiện và tôn trọng. Không một ai, không một tổ chức nào được áp đặt ý chí của cá nhân mình, của nhóm mình, của tổ chức mình lên toàn xã hội. Vì thế hiến pháp phải được toàn thể nhân dân thông qua. Nếu hiến pháp không thông qua trưng cầu dân ý, không được toàn thể nhân dân thông qua, nếu hiến pháp chỉ là kết quả bị áp đặt bởi ý chí của một bộ phận nhỏ trong xã hội, thì hiến pháp sẽ đánh mất toàn bộ ý nghĩa của nó.
Trên cơ sở quan niệm chung đó về hiến pháp, tôi phân tích một số chi tiết sau đây của Dự thảo:
1. Về “Lời nói đầu”: Lời nói đầu không nên quá dài dòng như trong Dự thảo và chỉ được đề cập đến một chủ thể duy nhất là nhân dân Việt Nam. Bởi vì trong khái niệm “nhân dân Việt Nam” đã bao hàm toàn bộ những người Việt Nam, dù đứng ở cương vị nào, làm công việc gì, tham gia đoàn hội hay đảng phái nào. Tham khảo các nước khác, chẳng hạn Pháp hay Hoa Kỳ, cũng thấy rằng trong lời mở đầu của hiến pháp chỉ có một chủ thể duy nhất là nhân dân: “nhân dân Pháp”, “nhân dân Hợp chúng quốc”. Lời nói đầu chỉ cần đề cập đến chủ thể nhân dân là đủ, vì chủ thể đó đã bao hàm hết tất cả mọi chủ thể khác trong xã hội. Đó mới đúng là tinh thần của một hiến pháp của dân, do dân, và vì dân. Lời nói đầu của Dự thảo quá dài, với những tuyên dương công trạng không đúng chỗ. Điều đó làm mất ý nghĩa của hiến pháp. Bởi vì hiến pháp phải là nơi không được thể hiện bất kỳ sự thiên vị nào. Người soạn thảo hiến pháp phải đứng từ vị thế của nhân dân. Những người soạn thảo hiến pháp và những người có trách nhiệm đảm bảo cho hiến pháp được thực thi, cần tự nhìn mình từ góc độ là một phần của nhân dân.
2. Nếu quan niệm chung cho rằng hiến pháp là một văn bản được lập ra nhằm bảo vệ quyền con người thì điều 4 của Dự thảo hiến pháp sẽ không cho phép mục đích này được thực hiện. Vì quyền con người chỉ được đảm bảo bởi các nguyên tắc dân chủ. Mặc dù Dự thảo xác định Việt Nam là một nước dân chủ, nhưng các nguyên tắc dân chủ không thể thực hiện được khi chỉ có một lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo và điều hành xã hội. Nếu những người soạn thảo hiến pháp chịu nhìn thẳng vào thực tế sẽ thấy rõ như vậy. Như nhiều người đã phân tích, điều 4 tạo mâu thuẫn với nhiều điều khoản khác trong hiến pháp, sẽ không cho phép những điều khoản khác được thực hiện, vì nó mâu thuẫn với nền tảng của hiến pháp, mâu thuẫn với tinh thần của hiến pháp và mục đích của hiến pháp. Khi các nguyên tắc dân chủ không thể thực hiện được, khi quyết định chỉ nằm trong tay một thiểu số, khi tất cả đều vận hành theo phương thức áp đặt, thì việc quyền con người bị xâm phạm là điều không thể tránh khỏi. Nếu mục đích của hiến pháp là phòng ngừa sự lạm dụng của những người có quyền lực thì điều 4 lại tạo hậu thuẫn cho những người nắm quyền lập pháp, tư pháp và hành pháp có điều kiện để lạm dụng các quyền mà họ có trong tay, đặc biệt khi tam quyền không phân lập, bị chi phối và bị kiểm soát bởi một quyền lực lãnh đạo duy nhất. Bản thân việc thực hiện bản sửa đổi hiến pháp lần này rất nhiều khả năng sẽ là một ví dụ chứng minh cho điều đó. Sau khi hiến pháp 2013 được công bố, nếu điều khoản này vẫn được duy trì, thì ta sẽ thấy chắc chắn quyền con người sẽ càng bị vi phạm nặng nề hơn nữa. Hiện nay, chúng ta đã không thể phủ nhận được rằng quyền con người luôn là một vấn đề khiến Việt Nam gặp khó khăn trong nhiều hoạt động ở phạm vi quốc tế. Bởi theo đánh giá của thế giới chúng ta là một trong những nước vi phạm nhân quyền nặng nề nhất. Làm sao phủ định được điều đó? Không thể phủ định được thực tế và cũng không thể phủ định được rằng sự vi phạm quyền con người đã bị quy định từ trong hiến pháp cùng với điều khoản về quyền lãnh đạo của một đảng duy nhất. Và như thế, vì không hướng tới bảo vệ quyền con người nên hiến pháp không còn là hiến pháp nữa.
3. Về khoản 2 của điều 15 trong Dự thảo: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khoẻ của cộng đồng”. Khoản 2 này, nếu không thêm vào mệnh đề: “những lý do này được xác định cụ thể trong bộ luật” thì rất có thể sẽ vô hiệu hóa khoản 1 của điều 15: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền con người, quyền công dân được nhà nước và xã hội thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Khoản 1 này là quy định cốt lõi nhất về quyền con người trong Dự thảo. Nhưng quy định này sẽ bị vô hiệu hóa khi khoản 2 không định nghĩa thế nào là lý do quốc phòng, an ninh quốc gia? Đây rất có thể là những lý do mơ hồ muốn diễn giải như thế nào cũng được và trở thành chỗ dựa để vi phạm quyền con người. Nếu lấy quyền con người là mục đích tối cao của một hiến pháp đích thực, thì khoản 2 của điều 15 trong Dự thảo lại tạo cơ sở để vi phạm mục đích đó. Một hiến pháp không thể nào lại có thể có những điều khoản mâu thuẫn đến như vậy được.
4. Điều 22 của Dự thảo bỏ mất một ý quan trọng của điều 71 Hiến Pháp 1992: “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp tội phạm bắt quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật”. Cần phải khôi phục lại điều này, nếu không quyền con người sẽ tha hồ bị vi phạm, sẽ bị vi phạm nặng nề. Vì lúc đó bất kỳ ai cũng sẽ bị bắt mà không cần lý do, không cần các thủ tục pháp lý. Lúc đó sẽ không thể nào có một nhà nước pháp quyền, và công dân sẽ hoàn toàn không được bảo vệ.
Trong khi đó Hiến pháp Mỹ quy định cụ thể: “Quyền của con người được đảm bảo về cá nhân, nhà cửa, giấy tờ và tài sản khỏi mọi sự khám xét và bắt giam, quyền này sẽ không được vi phạm. Không một lệnh, trát nào được cấp nếu không có lý do xác đáng căn cứ vào lời tuyên thệ hoặc sự xác nhận, đặc biệt cần miêu tả chính xác địa điểm khám xét, người và đồ vật bắt giữ”.
5. Điều 26 của Dự thảo quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”. Liên quan đến nội dung về tự do ngôn luận, hiến pháp Cộng hòa Pháp có hai điều: “Không ai bị đối xử tàn tệ vì quan điểm của người đó, ngay cả các quan điểm tôn giáo, miễn là việc trình bày các quan điểm đó không gây ra đổ vỡ hòa bình được thiết lập bởi luật pháp”. “Tự do trao đổi suy nghĩ và ý kiến là một trong những quyền quý giá nhất của con người (tôi nhấn mạnh). Vì thế, bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự do; tuy nhiên, họ sẽ chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy định của pháp luật”. Vì sao nước Pháp quan niệm rằng tự do trao đổi suy nghĩ và ý kiến lại là một trong những quyền quý giá nhất của con người? Vì đó là thứ tự do tạo điều kiện cho con người phát triển hết tất cả các năng lực của mình. Bởi vì tư duy là một năng lực mà chỉ con người mới có. Quốc hội và Ủy ban Dự thảo cần đối diện với thực tế để thấy rằng, mặc dù Hiến pháp 1992 quy định công dân có quyền tự do ngôn luận, nhưng quyền đó đã không được thực thi trên thực tế. Những cáo buộc của quốc tế về sự vi phạm nhân quyền ở Việt Nam chủ yếu liên quan đến vấn đề tự do ngôn luận.
6. Điều 38 của Dự thảo xóa bỏ các trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà nước đối với người lao động được quy định ở điều 55 và 56 của Hiến pháp 1992. Như vậy sẽ không còn các chính sách và chế độ bảo hộ lao động, người lao động có thể bị đối xử như thế nào cũng được.
7. Điều 41 của Dự thảo xóa bỏ hầu hết các nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà nước trong lĩnh vực y tế được quy định trong điều 39 và điều 61 của Hiến Pháp 1992. Cần khôi phục lại các trách nhiệm và các nghĩa vụ đó, nếu không xã hội của chúng ta sẽ là một xã hội vô nhân đạo nhất hành tinh.
8. Điều 42 của Dự thảo xóa bỏ tất cả các trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà nước đối với nền giáo dục quốc dân đã được quy định rõ trong điều 59 của Hiến pháp 1992. Cần khôi phục lại các trách nhiệm và nghĩa vụ này. Nếu không nền giáo dục đang hết sức khủng hoảng này sẽ còn tồi tệ hơn nữa và sẽ không thể hình dung hết hậu quả.
9. Điều 47 của Dự thảo: “Tội phản bội Tổ Quốc là tội nặng nhất”. Thế nào là tội phản quốc? Và tại sao nặng nhất? Nếu không xác định rõ thế nào là tội phản bội tổ quốc thì điều luật này cũng có nguy cơ, một mặt trở thành cái cớ cho sự vi phạm nhân quyền, mặt khác sẽ dung túng cho những kẻ thực sự phản bội tổ quốc. Hiến pháp Hoa Kỳ nêu rõ: “Tội phản quốc chống lại Hoa Kỳ bao gồm hành vi gây chiến tranh tấn công nước này hoặc ủng hộ kẻ thù, trợ giúp và úy lạo chúng. Không một ai bị phán quyết về tội phản quốc, trừ phi có hai người làm chứng về hành vi phạm tội hoặc có sự thú tội công khai trước tòa”.
10. Điều 58 của Dự thảo sửa đổi, bổ sung điều 18 của Hiến pháp 1992. Quan điểm quan trọng nhất của việc sửa đổi hiến pháp 1992, được nêu trong “Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992” của Ủy ban Dự thảo sửa đổi hiến pháp, ở mục 2.1 là: “Phải dựa trên cơ sở tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật có liên quan”. Theo tôi đây là một quan điểm rất đúng. Bởi vì phải căn cứ trên thực tế, căn cứ vào vào những vấn đề nảy sinh khi thi hành hiến pháp, để lấy cơ sở cho sự sửa đổi hiến pháp. Điều 18 của Hiến pháp 1992 đã làm nảy sinh quá nhiều bất cập trong thực tế, tạo ra bao nhiêu bi kịch cho người dân, tạo ra những bất ổn trong lòng xã hội. Tiếp tục duy trì điều luật này về đất đai sẽ tiếp tục taọ ra những bất công trầm trọng. Trong khi đó hiến pháp phải là văn bản tạo cơ sở đảm bảo sự công bằng cho tất cả mọi người. Ở đây tôi chỉ nói từ góc độ tinh thần hiến pháp, còn những hậu quả khác đã được phân tích rất nhiều.
11. Điều 70 của Dự thảo đã được nhiều người nêu ý kiến vì sự bất cập không thể phủ nhận của nó. Hiến pháp là của nhân dân, của tất cả những người có cùng chung Tổ quốc. Chính Dự thảo cũng không thể bác bỏ được điều này. Vì thế không thể đi ngược lại tinh thần của Hiến pháp, quân đội chỉ có thể bảo vệ Tổ quốc và nhân dân mà thôi. Điều 12 của Bản tuyên ngôn nhân quyền và quyền công dân 1789 ghi rõ: “Đảm bảo các quyền con người và của công dân cần tới các lực lượng công [cảnh sát, quân đội v.v..]. Những lực lượng này, do đó, được thành lập để phục vụ mục đích chung, và không phải để sử dụng riêng cho mục đích của những người mà công chúng tín nhiệm giao phó quyền lãnh đạo lực lượng”.
Quốc hội cần phải nhìn thấy trước rằng, nếu bảo vệ Tổ quốc và nhân dân trở thành nhiệm vụ thứ yếu của quân đội Việt Nam thì không những quyền con người có nguy cơ bị vi phạm, mà cả an ninh quốc gia cũng có thể sẽ không được đảm bảo một cách chắc chắc.
Cá nhân tôi không thể nhận xét hết tất cả các điều khoản trong Dự thảo, một công việc đòi hỏi công sức của toàn dân.
Nhận xét chung của tôi là, với Dự thảo lần này, nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà nước trong việc đảm bảo quyền con người bị giảm thiểu thái quá. Trong khi đó nhiều điều khoản taọ cơ sở cho sự vi phạm quyền con người. Không chỉ đơn giản là vi phạm quyền con người, mà nó còn tạo cơ sở cho bất công, cho sự bất ổn của xã hội, và sự bấp bênh của an ninh quốc gia. Quốc hội cần cân nhắc.
Nếu lấy điều XVI của “Bản tuyên ngôn về quyền con người và quyền công dân năm 1789” (mà tôi trích dẫn ở đầu văn bản) làm quy chiếu thì Dự thảo mà chúng ta đang bàn luận ở đây sẽ không được các dân tộc khác coi là hiến pháp. Nguy cơ là khi Dự thảo được thông qua và trở thành Hiến pháp thì xã hội của chúng ta sẽ trở thành một xã hội “không hề có Hiến pháp”. Vậy Quốc hội và Ban soạn thảo có nên cân nhắc lại về công việc mà mình đang làm hay không? Trách nhiệm của quý vị đối với cộng đồng sẽ rất nặng nề khi là tác giả của một bản hiến pháp nhưng lại không phải là hiến pháp như vậy. Chúng ta không ai tránh được sự phán xét của lịch sử. Nhưng điều quan trọng hơn, không phải là bị phán xét hay không, mà chúng ta cần hình dung hậu quả mà hành động của mình sẽ gây ra cho cả cộng đồng trong đó mình tồn tại. Nếu một bản hiến pháp sẽ đẩy cả cộng đồng xuống vực thẳm thì mỗi người chúng ta cũng ít hoặc không có cơ may ở lại được trên bờ vực.
Điều quan trọng là phải có một bản hiến pháp thực sự, một bản hiến pháp bảo vệ được quyền con người và chống lại một cách hiệu quả nguy cơ quyền lực bị lạm dụng bởi những người nắm giữ nó.
Hiện nay có một bản Phác thảo (tôi dùng từ này để phân biệt nó với Dự thảo của Quốc hội) do 72 trí thức Việt Nam chấp bút, với ý thức và trách nhiệm công dân của họ. Quốc hội cần ghi nhận và tham khảo bản Phác thảo hiến pháp này. Trong đó sẽ có một số thay đổi căn bản. Đó là những thay đổi không thể thiếu, những thay đổi bắt buộc phải có, nếu muốn xây dựng một hiến pháp thực sự, một hiến pháp đúng với tinh thần hiến pháp.
Những ý kiến trên đây là của một công dân Việt Nam chưa bao giờ có ý định sống và làm việc ở một nơi nào khác hơn là Việt Nam, chưa bao giờ thôi mong muốn rằng có thể tự hào khi là công dân Việt Nam, chưa bao giờ thôi mơ ước rằng một ngày nào đó Việt Nam có thể bình đẳng với các nước khác trên thế giới.
Tp Hồ Chí Minh, ngày 1/2/2013
N.T.T.H.
(Văn bản này đã được gửi tới văn phòng Quốc hội qua thư điện tử)







Táo mắc táo
Đào Tuấn
NQL: Cuối cùng người ta cũng cấp phép cho Táo quân ra lò thôi, nhưng chắc chắn vì những cắt xén nó sẽ là món lẩu nhạt hoét.
Cuối năm Mão, Trước khi làm Táo Giao thông, nghệ sĩ Chí Trung từng “nói chuyện” với Bộ trưởng Đinh La Thăng: “Anh ơi, ngại quá, bọn em làm hài thì phải phê phán, có phê phán điều gì khiến anh không vui mong anh thông cảm cho”. “Anh Thăng bảo tôi anh em cứ thoải mái mà làm- Chí Trung trả lời báo chí “Nếu mà anh ấy sai, dư luận chẳng buông tha, ngược lại, anh ấy đúng, thì mọi người đều nhìn thấy chứ chẳng đợi chúng tôi phải khen. Tôi hỏi tiếp, có cần phải cho anh xem kịch bản trước? Anh Thăng nói không cần, hãy cứ thoải mái làm”.
Theo kế hoạch, năm đó, Táo Giao thông sẽ… tự tử tại thiên đình vì không thể nào kiểm soát nổi tình trạng giao thông. Chả nhớ sau cuộc “nói chuyện” và “đèn xanh” của Bộ trưởng Thăng thì Táo Giao thông có tự tử tại thiên đình!. Chắc là không. Vì tự tử rồi thì giờ làm gì còn Táo Giao thông nữa.
Từ năm 2003, khi Táo quân xuất hiện trên sóng VTV, lập tức nó trở thành một thứ đặc sản của truyền hình được số đông nhân dân đón nhận. Chẳng có gì khó lý giải. Bởi những câu chuyện hài thâm thúy nói đúng nỗi lòng người dân, phản ánh đúng những gì họ đang bức xúc. Và cơ bản, đó là những tiếng cười châm biếm không né tránh, dù “cười từ vai trở xuống”.
Năm nay, Chí Trung vẫn tiếp tục vào vai Táo Giao thông. Theo những gì anh bật mí trên facebook và với báo chí, Táo năm nay vẫn sẽ là tiếng cười châm biếm quanh những vấn đề nổi cộm trong đời sống xã hội ở nhiều lĩnh vực như kinh tế, giao thông… Chuyện kinh tế trì trệ, lương thưởng không tăng, vàng miếng không nguyên đai nguyên kiện thì không được đổi hay hàng hiệu được nhập từ… Quảng Tây nhưng gắn mác Ý. Điệu nhảy Gangnam Style của Hàn Quốc từng gây sốt trên toàn thế giới cũng được biến tấu thành “Hoang mang Style”, và để miêu tả sự biến động của nền kinh tế Việt Nam. Riêng táo giao thông, tất nhiên, không thể “thoát” với màn châm biếm thể hiện qua những chiếc ghế “chính chủ”.
Ngần đó vấn đề dân sinh bức xúc, dân không chờ đợi mới là lạ. Có thể nhìn thấy dễ dàng sự chờ đợi của đông đảo người dân khi hầu hết các bài báo “bật mí”, thậm chí liên quan tí chút đến chương trình Táo năm nay đều nằm trong top tin bài được nhiều người đọc nhất.
Thế mà hôm qua, báo chí tràn ngập những dòng tin “Dừng phát hành đĩa táo quân 2013”; “Phản cảm, táo quân 2013 bị tuýt còi”…
Đây là những đoạn chích trong văn bản của Cục Nghệ thuật biểu diễn “Qua phản ánh của dư luận, chương trình Táo quân 2013 không phù hợp phong tục tập quán, nhất là trong 30 phút đầu của chương trình…xét thấy đây là chương trình nghệ thuật có sự quan tâm của đông đảo công chúng cả nước nên rất cần thẩm định nội dung trước khi cấp phép”.
Báo chí dẫn lời Phó Trưởng phòng quản lý biểu diễn Nguyễn Thành Nhân cho biết ông nhận được phản ánh, tỏ ra rất bức xúc trước màn tung hứng có phần phản cảm của hai nhân vật Nam Tào – Bắc Đẩu trong đó có đoạn Bắc Đẩu đi phẫu thuật thẩm mỹ để trở thành nữ bằng cách đặt “cái đó” lên ghế rồi dùng dao cắt phăng.
Phản cảm. Từ ngữ nghe thật lạ.
Không phù hợp. Điều đó nghe cũng thật buồn cười.
Bởi phản hay không, phù hợp hay không thì nó cũng là những thực tế, thậm chí những bất công từ cuộc sống.
Thật tình cờ. Đây cũng là những từ ngữ mà cơ quan kiểm duyệt của Trung Quốc đã sử dụng khi thẳng tay cắt bỏ 3 đoạn trong kiệt tác hollyoow Skyfall, sự cắt bỏ mà chính dư luận Trung Quốc gọi là “hủy hoại” bộ phim.
Một cơ quan văn hóa cần bảo vệ các giá trị văn hóa. Điều đó đúng. Nhưng việc cắt bỏ không thể nhân danh những “phản ánh, tỏ ra rất bức xúc”, có thể chỉ của một cá nhân nào đó mà đoạn về “đẩu pín” có khi chỉ là cái cớ.
Mong là Táo quân sau kiểm duyệt năm nay sẽ không phải là món khó nuốt khiến người ta xem xong mắc táo.







Tin hay không tùy bạn
Minh Diện
NQL: Hình như tác giả nhắc đến vụ án ma tuy rúng động Đất nước cách đây 16 năm? Nếu đúng vậy ta có thể đoán được Vũ Xuân, Vũ Hải là ai
Tòa sơ thẩm tuyên bản án tử hình.
Bây giờ hắn ngồi đó, trên chiếc ghế băng, giữa hai chiến sỹ công an mang quân hàm thượng sĩ. Thật trớ trêu, mấy tháng trước hai người này so với hắn chỉ là lính lác! Hắn từng đeo lon đại úy chứ đâu phải tầm thường? Một đại uy vai vế chứ không phải đại úy bình thường.
Nhưng giờ hắn là một tử tội. Khuôn mặt no nê, vênh váo trước kia, giờ tóp lại, dài ngoẵng ra, miệng vêu vao, cặp mắt thâm quầng.
Hắn nhìn xuống hai cổ tay bị còng, rồi ngẩng lên nhìn ra khoảng sáng cửa sổ. Ngoài kia là tự do, là hơi thở cuộc sống, là những gì thuộc về quá khứ của hắn. Hắn tự hỏi liệu mình có hy vọng quay về cái quá khứ huy hoàng? Ngôi nhà khang trang, chiếc xe sang trọng, nghênh ngang, vênh váo trong bộ sắc phục công an kinh tế có quyền hạch sách kết tội người khác, có thể đi bất cứ đâu, ăn uống bất cứ thứ cao lương mỹ vị gì mình muốn, lên giường với những cô gái chân dài nuột nà!
Không, dù giàu óc tưởng tượng hắn cũng không dám mơ tới điều đó. Chỉ vài lạng ma túy đã lãnh án tử hình, hắn ôm trong người mấy kg Heroin thoát chết sao được. Nhưng hắn vẫn nuôi hy vọng tòa phúc thẩm sẽ được giảm xuống chung thân.
Hắn lại ngẩng mặt nhìn ra cửa sổ. Ngoài kia, không xa lắm hắn có một người anh em đồng hương, đó niềm hy vọng của hắn!
Vũ Xuân nuốt nước bọt, cố nhớ lại những gì vừa sảy ra trong phiên tòa.
Luật sư hỏi hắn:
- Nhờ ai anh được chuyển công tác từ một huyện biên giới về Hà Nội?
– Thưa, nhờ đại tá Vũ Hải !
– Anh có thể nói rõ hơn được không?
– Dạ ! Vũ Hải đã viết thư giới thiệu tôi với người phụ trách cơ quan C., đề nghị nhận tôi. Nhờ lá thư đó tôi đã chuyển từ Tây Trang về Hà Nội.
– Nhờ đâu mà anh đi chung xe với một lãnh đạo và lợi dụng chiếc xe đó chở ba bánh Heroin từ biên giới về Hà Nội?
- Dạ thưa, nhờ Vũ Hải!
– Vũ Hải quan hệ với anh tế nào?
– Dạ thưa chúng tôi là anh em đồng hương!
– Vũ Hải giúp anh, anh có giúp gì Vũ Hải không?
– Dạ có qua lại !
– Cụ thể qua lại thế nào?
– Dạ ! Khi Vũ Hải làm nhà tôi cho anh mượn 60 cây vàng bốn số chín, sau đó cho anh 15.000 đô la Mỹ.
– Anh có nghĩ đó là hành vi hối lộ không?
– Dạ không! Chúng tôi là anh em!
Vũ Xuân tự hỏi mình khai như vậy đã đúng bàn bài chưa? Có đủ tác động Vũ Hải không ?
Vũ Xuân đã giấu nhẹm mối quan hệ với Vũ Hải trong suốt quá trình điều tra, hy vọng Vũ Hải sẽ giải thoát cho mình. Nhưng Vũ Xuân không nhận được bất kỳ tín hiệu giải cứu nào, nên trong phiên sơ thẩm y đã quyết định hé ra ra như vậy. Vũ Xuân muốn rung cây nhát khỉ, buộc Vũ Hải phải cứu mình, cũng là cứu anh ta.
Thực ra, 60 cây vàng và 15.000 đô la mới chỉ là một phần tài sản Xuân đã ăn chia cho Vũ Hải từ lợi nhuận buôn ma túy.
Mới mùng hai tết vừa qua, Xuân sang chúc tết vợ chồng Vũ Hải với món quà đầu năm là phong bao 50.000 đô la Mỹ.
Hôm ấy, Xuân lái xe chở vợ chồng Hải về quê. Cả phố huyện trố mắt nhìn, xôn xao bàn tán. Cái phố huyện nghèo ấy bao nhiêu người đi bộ đội, thanh niên xung phong, công an. Ngày hòa bình, điểm lại hy sinh quá nửa. Những người sống sót quay về hai bàn tay trắng, kiếm miếng ăn đổ máu con mắt. Có người còng lưng vỗ gạch thuê, gánh than thuê, có người lên Hà Nội bán sức lao động ở chợ người bờ đê Yên Phụ. Người anh cùng họ Vũ với Xuân, hai sáu tuổi quân, mười ba năm lăn lộn chiến trường B, nghỉ hưu cấp bậc thiếu tá, sinh bốn đứa con cả bốn dị dạng, vì di chứng chất độc da cam anh bị nhiễm ở Tây Nguyên. Lương thiếu tá không đủ ăn, anh đẩy chiếc xe ba gác ra lò gạch xin sỉ than về nghiền ra, trộn với cát, xi măng làm gạch lốc, bán kiếm tiền. Mỗi viên gạch trộn đẫm mồ hôi lời được hai trăm đồng. Phòng thuế đến hỏi giây phép kinh doanh, không có, làm biên bản phạt và đình chỉ kinh doanh, anh cãi, công an tới còng tay…
Những người thành đạt như Hài, như Xuân đếm trên đầu ngón tay. Hai người tỏ ra cao ngạo, vác mặt lên, nhìn mọi người bằng nửa con mắt.
Xuân lái xe hơi sang chúc tết bố mẹ Vũ Hải, dù đoạn đường chưa quá ba trăm mét. Xuân móc ví mừng tuổi bố mẹ Hải mười triệu toàn tiền năm trăm ngàn đồng vẫn còn niêm ngân hàng. Những người chứng kiến như nổ con ngươi mắt. Ở thị trấn này hiếm khi nhìn thấy tờ giấy năm trăm ngàn, càng ít thấy số tiền lớn như thế. Đồng tiền của họ kiếm được nhàu nát ướt đẫm mồ hôi! Họ đâu biết chiếc xe hơi sang trọng của Xuân từng chở ma túy, những đồng tiền nguyên nếp kia từ những cơn phê thuốc điên loạn, làm tan cửa nát nhà bao người, từ cái chết trắng.
Vũ Xuân vênh váo, lên mặt, lên chức bằng chính những đồng tiền ấy. Hắn từng bỏ ra một lần năm, sáu ngàn đô la bao nhậu, bao gái cho các sếp là chuyện thường. Nhất là đối với Vũ Hải, Xuân không tiếc thứ gì. Tuần nào vợ chồng Xuân cũng qua nhà Vũ Hải tiệc tùng. Vợ Hải cũng là sỹ quan công an, tham chức, tham tiền không kém chồng.
Mới cách đây không lâu, vợ Vũ Hải nói với Xuân, phài lo cho Vũ Hải đợt đề bạt sắp tới, vừa làm nhà kẹt tiền. Lập tức Xuân chạy đi mua cặp rươu Chivas 25, và bỏ phong bao 20. 000 đô la cho vợ Vũ Hải. Cầm tiền vợ Vũ Hải nói với Xuân : “Anh em chú lo cho nhau còn hơn ruột thịt!”.
Khi được điều chuyền từ Tây Trang về Hà Nội, Xuân đưa cho Hải 40.000 đô la chưa kể rượu, thuốc, sâm nhung.
Tất cả đều từ những bánh Heroin buôn lậu mà ra.
Tội ác tạo ra tiền, tiền tạo nên mối quan hệ khăng khít giữa Vũ Xuân và Vũ Hải, mối quan hệ ấy tạo ra tội ác, tội ác tạo ra tiền! Cái vòng soáy tội lỗi đó làm băng hoại thể chế và xã hội.
Xuân không ngu ngơ, ít hiểu biết về tác hại của ma túy. Ngược lại, Xuân hiểu cặn kẽ hơn mọi người sự nguy hiểm của cái chết trắng, thừa biết mình buôn bán ma túy là tội ác tày trời. Nhưng đã bị cuốn vào đường dây tội ác đó không thể thoát ra được. Ma túy không chỉ tạo nên những con nghiện ? Nguy hiểm hơn, nó tạo nên những băng đảng tội ác bất chấp tất cả vì mãnh lực của đồng tiền!
Người ta nói tiền càng đếm càng thiếu! Khi bị đồng tiến làm chủ, sai khiến con người trở nên quay quắt, dã man, mù quáng. Xuân là một kẻ như vậy.
Khi còn là một sỹ quan công an nghèo, Xuân ao ước có chiếc xe Dream. Vì “giấc mơ” ấy, Xuân nhắm mắt cho lọt lưới một tên buôn lậu ma túy. Xuân tự hứa đó là lần đầu, cũng là lần cuối. Nhưng, Xuân không thể dừng lại được. Tiếng sột soạt, và mùi thơm của những xấp tiền mới rợi hút Xuân vào lần thứ hai, thứ ba…và không có điềm dừng.
Biết nguy hiểm rình rập, Xuân tìm chỗ che chắn, và Xuân đã tìm được Vũ Hải, người đồng hương đầy tham lam, thủ đoạn. Hải thửa biết Xuân làm gì, lấy tiền ở đâu, Hải hứa anh em sống chết đùm bọc nhau với Xuân bên những xấp tiền Xuân kiếm được từ buôn lậu ma túy. Bây giờ Hải còn nhớ lời hứa ấy không, Hải sẽ cứu thằng em bằng cách nào ?
Xuân lại nuốt ngụm nước bọt đắng chát vào cái cổ họng đang khô cháy, ngẩng mặt nhìn qua cửa sổ.
Chiếc xe bịt bùng lùi đít t, hai chiến sỹ công an đầy Vũ Xuân lên. Vũ Xuân vẫn cố ngoái đầu nhìn xem có thấy Vũ Hải, hay một ám hiệu nào chứng tỏ Vũ Hài quan tâm tới hắn? Khi con người ta chìm ngập trong tuyệt vọng thì cũng là lúc khát khao hy vọng!
Tia hy vọng ấy đến với Vũ Xuân khi phiên tòa phúc thẩm sắp mở. Hắn nhận được lời nhắn: “Đừng bẻ cọc nếu không muốn chết đuối, tuyên án chưa hẳn đã chết!”.
Mấy đêm liền Vũ Xuân không ngủ, thao thức, trăn trở. Niềm hy vọng tắt ngúm, giờ lóe sáng. Vũ Xuân hiểu lời nhắn kia là mệnh lệnh, hắn phải rút lại những lời khai về mối quan hệ với Vũ Hải trong phiên tòa sơ thẩm, và hắn sẽ được cứu sống bằng hoãn thi hành án.
Trước, quan hệ với Vũ Hải, Xuân có ô che chắn buôn lậu ma túy, bị bắt, Xuân hy vọng được giải thoát, bị toà sơ thẩm tuyên án tử hình, Xuân hy vọng Vũ Hải tác động rút xuống chung thân. Bây giờ, sau những hy vọng và thất vọng, chỉ còn lại một tia le lói trong đầu Xuân là hoãn thi hành án.
Luật sư bào chữa cho Vũ Xuân hỏi:
– Anh còn nhớ những lời khai của anh ở phiên tòa sơ thẩm không?
– Thưa còn nhớ!
– Anh có tái xác nhận đó là sự thật?
Một phút, hai phút trôi qua, lời nhắc nhở: “ Đừng bẻ gãy cọc nếu không muốn chết” vang lên bên tai Vũ Xuân. Hắn nuốt nước miếng đánh ực, và nói :
– Tôi xin rút lại lời khai đó!
Vị luật sư sững sờ hỏi lại:
– Anh nói lại một lần nữa được không?
– Thưa tôi xin rút lại lời khai đó!
Vị luật sư cố nén thở dài, xin chấm dứt chất vấn. Tình tiết cuối cùng ông hy vọng có thể làm giảm bớt tội, kéo dài sự sống cho thân chủ của mình, đã bị chính anh ta phủ nhận. Lời khai trước và sau, một khoảng cách ngắn ngủn giữa hai phiên tòa, là sự sâu thẳm của cái chết!
Tòa tuyên y án tử hình Vũ Xuân. Hắn tỏ ra bình tĩnh vì nhớ lời dặn cùa Vũ Hải: “Tuyên án chưa hẳn đã chết!”.
Ngay hôm sau Vũ Xuân viết đơn xin ân xá gửi lên Chủ tịch nước hy vọng đó là thủ tục cuối cùng để được sống. Vũ Xuân không ngờ đó là lần hy vọng và cũng là tuyệt vọng cuối cùng của mình. Trước và sau chẳng ai ra tay cứu hắn !
Hình như cỏ chưa kịp xanh trên nấm mộ Vũ Xuân, Vũ Hải được đề bạt lên cấp chức cao hơn.
Và tết năm sau, Vũ Hải cũng về thị trấn ăn tết, trên chiếc xe hơi sang trọng hơn, một người em kết nghĩa khác lái. Người em kết nghĩa mới này có làm những phi vụ “nặng đô” như Vũ Xuân không? Và anh ta có biết rằng “cái cọc” trong chiếc xe bóng lộn đó sẽ đâm thủng tim mình bất cứ lúc nào! Còn cái cọc cứ dài thêm, nhọn sắc hơn. Có điều, chẳng ai còn lạ, lần này có “mối mới’ rồi, CÁI CỌC không qua chúc tết bố mẹ người em kết nghĩa Vũ Xuân.
Cuối năm tôi lại kể một chuyện buồn. Tôi không bắt mọi người tin là có thật, tin hay không tùy bạn!
Chuẩn bị sang năm mới xin kính chúc các bạn An Khang Thịnh Vượng, và muốn vậy hãy tránh xa những kẻ như Vũ Xuân, Vũ Hải.
M D
Theo blog BVB







Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
