Nguyễn Quang Lập's Blog, page 82
February 12, 2013
Đừng sợ. Viết thôi, cứ viết đi.
Miến Điện khởi sắc lễ hội văn học dưới bảo trợ Aung San Suu Kyi
Phạm Toàn dịch
Ngày hội văn chương Irrawaddy kéo dài ba ngày đã hội tụ được các nhà văn, nhà thơ, và các cựu tù chính trị Miến Điện trong nước và nước ngoài.
Đây là một ngày hội văn chương với một chút khác biệt. Trước hết, đối với nhiều người trong công chúng tới dự, ngay cả tên tuổi một số ngôi sao trên tờ quảng cáo cũng vẫn còn là một điều bí ẩn, chẳng biết rõ họ là ai. Thứ đến là, một số trong những tác giả cũng vẫn còn sợ rằng tác phẩm của mình bị kiểm duyệt. Thứ ba là, cả nước Miến Điện xưa nay chưa từng bao giờ được chứng kiến một ngày hội như thế này.
Những cuộc sinh hoạt tại Ngày hội văn chương Irrawaddy kết thúc hôm Chủ nhật được thực hiện bằng hai thứ tiếng, Miến Điện và Anh ngữ, và có nội dung đa dạng, từ những hội thảo về ảnh tân văn sang những cuộc thảo luận về chuyện kiểm duyệt và hành hung tại những cuộc đọc thơ hoặc chiếu phim.
Công chúng tới dự đều đứng để nghe các tù nhân chính trị kể về chế độ quân nhân cai trị Miến Điện kéo dài năm chục năm, hoặc để nêu ra các câu hỏi về việc làm cách nào cho đất nước sẽ lại có được những ngày vui lớn hơn thế này. Những mái lều bán sách cũ trải khắp trên những thảm cỏ khách sạn Hồ Inya, nhà tài trợ ngày hội này, trong lúc các nhà thơ và nhà văn tụ tập đông đúc quanh các bàn ăn picnic và thảo luận về nghệ thuật cùng văn chương.
Những câu chuyện quay đi quay lại trong ngày hội kéo dài ba ngày này luôn luôn xoay quanh nhà lãnh đạo đối lập và nhà Giải Nobel Aung San Suu Kyi — người đến ngày hội này trong vai nhà bảo trợ — và bà đã nói với công chúng tới dự rằng sách đã giúp bà tránh được nỗi cô đơn trong hai mươi năm bị quản chế tại gia, và bà nói đùa rằng, tuy nhiều người thấy bà dũng cảm đấy, song bà vẫn không đủ can đảm để hành động như cậu chàng Harry Potter.
“[Việc đọc sách] mang lại cho ta cơ may hiểu biết được những con người khác với ta có suy nghĩ ra sao, và những con người khác ta có những trải nghiệm gì,” bà nói. “Và đọc sách cũng giúp ta đương đầu với chính cuộc đời mình.”
Với nhiều người Miến Điện, ngày hội văn chương này là một sự thức tỉnh phi thường đối với một cung cách sống đã lẩn trốn khỏi quốc gia này trong nhiều thập niên.
“Nay chúng ta được gặp gỡ những nhà văn quốc tế, và nói lên điều gì chúng ta thực bụng nghĩ và chia sẻ những gì chúng ta thực sự am tường,” – đó là lời Shwegu May Hnin, 74 tuổi, một nhà văn chính trị can trường đã sống trong giam tù những năm đầu của thập niên 1990 – “ngày hội này thật tốt cho chúng ta.”
Thế nhưng không phải tất cả những vị khách mời quốc tế đều có tên tuổi trở thành quen thuộc ở Miến Điện, vì đây là một quốc gia bị cách ly khỏi thế giới bên ngoài khiến cho chỉ những bản văn đã được kiểm duyệt của các tác giả cổ điển lớn mới lọt được vào nhà trường.
“Miến Điện rõ ràng là rất yêu văn chương, thế nhưng Miến Điện cũng thiếu hẳn điều kiện để đến được với văn chương,” lời Jane Heyn, giám đốc điều hành ngày hội và là vợ đại sứ Anh quốc tại Miến Điện. “Lúc lập kế hoạch tổ chức ngày hội này, khi nghe tôi nhắc tới những tên tuổi như Jung Chang [tác giả cuốn sách “Những điều chưa biết về Mao Trạch Đông”, “Mao, The Untold Story” – ND thêm] và [nhà sử học – ND thêm] William Dalrymple, tôi bắt gặp những cặp mắt trố ra nhìn mình. Nhưng đó là những cặp mắt của những con người khát khao hiểu biết.”
Sự kiện ngày hội văn chương này khiến nhiều người nước ngoài lần đầu tiên mới được đọc hoặc được nghe về văn chương hoặc thơ ca Miến Điện.
Giải nhất tại Ngày hội văn chương được trao cho cậu học sinh Trung học 17 tuổi Aung Zin Phyo Thein, người viết truyện ngắn Đổi đời về cuộc chiến sắc tộc kéo dài ở vùng Kachin, trong đó có nói tới nạn mãi dâm, nạn rượu chè trong công việc khai thác mỏ.
“Tôi đã tận mắt thấy những điều tàn bạo xảy ra [ở nơi đây]. Điều đó xảy ra hàng ngày,” lời Aung Zin khi được hỏi vì sao anh chọn viết về chuyện xảy ra ở Kachin, một bang ở đó những người nổi dậy suốt 50 năm qua đã chiến đầu đòi được nhiều quyền tự trị hơn. “Thông thường khi chúng ta nghe đến chiến tranh, thì ta nghĩ tới Iraq và Afghanistan. Nhưng giờ đây, chiến tranh quá gần nơi chúng ta đang ở. Bây giờ chiến tranh là một thực tại của chúng ta. Và tôi đã chọn tập trung vào chuyện này, bởi vì trong chiến tranh hai phe thì đánh nhau còn bị chết thì bao giờ cũng là phe thứ ba.”
Trong khi Miến Điện mở cửa chậm nhưng mà chắc, thì thế giới bên ngoài cũng cần hiểu biết về đất nước này. Một tập thơ Miến Điện đương đại, Những khúc xương rồi sẽ reo mừng (Bones Will Crow), mới được xuất bản tại Anh quốc, còn tại Miến Điện thì đã bãi bỏ cơ quan kiểm duyệt hồi năm ngoái và đã giảm nhẹ một số trong những quy chế khắt khe đã buộc những nhà văn được yêu quý nhất của đất nước này vẫn còn đang phải sống sau song sắt nhà tù.
Song nhiều nhà văn và nhà thơ thành danh hơn cả của quốc gia vẫn bày tỏ nỗi sợ tiềm ẩn trong họ đối với chính phủ, trong đó có cả nỗi sợ rằng những quyền tự do mới có được sẽ vẫn có khả năng bị tước đoạt bất kỳ lúc nào.
“Tôi không sợ viết ra những gì tôi muốn lên tiếng, nhưng các vị biên tập và các nhà xuất bản vẫn sợ in thơ của tôi,” lời Saw Wai, một trong những nhà thơ tiếng tăm của Miến Điện, người đã bị bỏ tù năm 2008 vì đã chỉ trích chính phủ trong một bài thơ ám chỉ kín đáo nhân Ngày Valentine. “Ông tổng thống đã nói rằng chúng tôi nên tự do biểu đạt, nhưng việc thực thi quyền này thì vẫn còn rất kém. Nói cho thực lòng, tôi vẫn còn bị quá khứ ám ảnh.”
Nói cho thật đúng thì thế hệ trẻ của Miến Điện không chỉ cưỡi trên những ngọn sóng cải cách còn rất mới, mà họ đang còn trông đợi được nhiều hơn nữa.
“Tôi không muốn làm cho to chuyện, nhưng thực sự phải nói là không, tôi không sợ hãi,” lời Aung Zin khi được hỏi xem anh còn lo lắng chuyện kiểm duyệt nữa không. “Tôi là người đầu tiên được giải thưởng tại Hội văn chương Irrawaddy và … tôi muốn điều này trở thành chất xúc tác cho các nhà văn trẻ khác đang muốn cầm bút viết văn.
“Đừng sợ. Viết thôi, cứ viết đi.”








Chủ tịch Trương Tấn sang chúc Tết không nhắc tới Đảng
Toàn văn thư chúc Tết Quý Tỵ 2013 của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, khác hẳn thông lệ, đã không nhắc tới Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thư chúc Tết của Chủ tịch được đăng tải trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng ở trong nước và phát trên Truyền hình Trung ương lúc giao thừa.
Bức thư dài 400 chữ có một số điểm đáng chú ý, trước hết là vì nó không lặp lại cụm từ “toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đoàn kết một lòng” trong các bức thư của chủ tịch nước những năm trước đây.
Thay vào đó, ông Sang kêu gọi “Cả nước đồng lòng gắng sức, nhất định thành công”.
Năm nay, ông Trương Tấn Sang cũng không nhắc tới “sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” như trong thư năm ngoái.
Ông nói mục tiêu của người dân Việt Nam là “đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, quyết tâm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam yêu quý của chúng ta”.
‘Đất nước Việt Nam yêu quý’
Nếu so sánh với thư chúc Tết của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết hai năm trước đây, thì thư của Chủ tịch Trương Tấn Sang hoàn toàn không nhắc tới vai trò ‘dẫn đường’ của Đảng cộng sản, cũng như không có chữ Đảng, ngoại trừ hai từ ‘đồng chí’.
Thư của Chủ tịch Triết nhắc tới Đảng bốn lần.
Lời chúc Tết của ông Sang dường như lặp lại một số phát biểu gần đây của ông, trong đó ông nói “chúng ta phải biết hổ thẹn với tiền nhân’.
Theo ông Sang, năm mới Quý Tỵ 2013 là thời điểm “để thêm một lần nữa, mỗi gia đình, mỗi người Việt Nam chúng ta khắc sâu công ơn dựng nước và giữ nước của các bậc tiền nhân”.
”Biết bao mồ hôi, xương máu của các thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau kiên cường chiến đấu, hy sinh, lao động sáng tạo, hiến dâng cho Tổ quốc cuộc đời mình để đất nước được như ngày hôm nay.”
Ông kêu gọi người dân “kế thừa xứng đáng sự nghiệp rạng rỡ của cha ông”, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Dù ý tứ trong bức thư của ông chủ tịch ngoài ra không có gì đột phá, những sự thay đổi nói trên nhanh chóng được ghi nhận.
Một số người nhận xét đây là nỗ lực ‘khích lệ tinh thần dân tộc’ thay vì lặp lại giáo điều về Đảng Cộng sản như thường lệ.








Giá của trí thức
Hoàng Ngọc Cương
Người Việt còn chưa quen và chưa hợp với kiểu “tôi suy nghĩ tức là tôi tồn tại”. Nhưng không hẳn đó là điều dở. Suy nghĩ, hiển nhiên, là một biểu hiện của sự tồn tại, nhưng chỉ có hành động mới mang đến sự thăng hoa trọn vẹn cho sự sống. Nghĩ chỉ là một động từ trong muôn vàn động từ của ngôn ngữ loài người.
Nếu trí thức chỉ là tầng lớp tinh hoa, lớp váng mỡ, chiếm một vài phần trăm của xã hội thì tôi không thấy và không một lần ước mình rơi vào trong nhóm đó. Khoảng 70% học sinh tốt nghiệp phổ thông ở Canada học tiếp cao đẳng và đại học; tôi xếp mình vào đội ngũ lao động đông đảo đó. Kinh tế trí thức sẽ chỉ là bánh vẽ nếu không có dòng người lao động chính là trí thức thực thụ. Hầu như người lái taxi nào ở Montreal cũng sành ít nhất hai thứ tiếng Anh và Pháp thì ta gọi họ là lao động phổ thông hay trí thức? Trong cùng lúc đó, ở phần khác của quả địa cầu, rất nhiều người là GSTS, hay cử nhân tốt nghiệp khoa ngôn ngữ ra mà không xuyên qua nổi ít nhất một bức tường ngôn ngữ.
Nhưng dẫu trí tuệ là công cụ vạn năng của nền kinh tế trí thức, thì người trí thức vẫn phải luôn mang theo người nhiều hơn một công cụ lao động trong hành trang cuộc đời.
Cái giá và vai trò của người tri thức trong xã hội hiện đại là gì? Nobel kinh tế thì cũng loanh quanh một triệu đô trong khi cầu thủ, vận động viên có giá chuyển nhượng cả vài chục triệu. Mark Carney thống đốc ngân hàng Canada, được đánh giá là thống đốc suất sắc nhất thế giới mà lương bổng không quá triệu đô/năm. Nhưng giá của trí thức không chỉ ở cái xã hội trả trực tiếp cho họ mà ở cái xã hội nhận được nếu họ ở cương vị điều hành và quản lý. Thời Clinton là thời vàng son rực rỡ của nước Mỹ. Mark Carney cả mấy năm qua không cho phép một giọt khủng hoảng kinh tế thế giới nào tràn vào Canada. Còn hai năm nữa mới hết nhiệm kỳ ở Canada mà nước Anh, dẹp tuột tự ái dân tộc của mình xuống, chèo kéo ông sang làm thống đốc ngân hàng trung ương Anh Quốc từ mùa xuân năm sau.
Khi tỷ lệ trí thức chiếm phần không nhỏ trong nhân lực lao động xã hội mà chỉ kỳ vọng nơi họ vai trò phản biện thì là phí phạm sức lao động và làm họ hỏng. Tư duy tốt phải được kiểm chứng qua những hành động xuất sắc. Trí thức luôn cần phải biết hành động và vì có trang bị công cụ lao động sắc bén là trí tuệ thì phải biết tìm ra phương án hành động mang đến kết quả tối ưu. Hành động thì thật muôn hình vạn trạng. Gặp nhiều giáo sư, tiến sỹ, kỹ sư… gốc Việt, tôi hỏi giờ này có còn dành đến 20% tinh thần và nghị lực sống của họ để… yêu nước Việt? Thật quí hóa, nhiều người bảo tôi: Bậy nào!!! Phải cỡ trên 70%! Vậy mà con họ nhiều cháu không nói sõi được vài câu tiếng Việt. Ở xã hội tư bản ít tiền là bất lực với không ít chuyện mà nhiều vị mang danh học nhiều vẫn thấy chẳng mấy xông xênh so với mặt bằng thu nhập của xã hội sở tại. Bên nhà, gặp nhiều quan chức bằng cấp quấn mấy vòng quanh mình mà ngay cả sức khỏe bản thân không biết đường lo, mới có mấy chục tuổi mà bụng phệ, cơ bắp nhẽo nhẹt; rồi luôn kêu ngay cả con mình còn khó dậy. Tôi luôn ngỡ ngàng chẳng nhẽ đấy là trí thức? Thật gian nan tìm đủ mọi cách tự trấn an mình rằng đấy là “nét đặc thù” của tri thức Việt?!
Nhiều diễn đàn Việt hôm nay đều diễn chung cảnh câu giờ và cầm chừng. Khi lạc bước vào nơi nhà hàng và sân khấu cùng kết hợp thì không nên kỳ vọng đón đợi có sản phẩm nào xuất sắc. Ngay cả có món nuốt trôi thật đi nữa cũng khó thưởng thức ở nơi nhiều huyên náo, om xòm. Càng phí thời giờ hơn khi ở khung cảnh đó mà còn cố rán ngồi gắng đợi một bản nhạc khả dĩ. Vẫn luôn bao trùm một không khí trông chờ! Chợ búa dẫu có họp nhưng các kẻ hà tiện cũng như các nhà thông thái sẽ không rơi ra một cắc thật khi chỉ thấy rặt tiền giả đang mặc sức lưu hành.
Các triều đại của Việt Nam thường không sáng nghiệp từ cái nôi văn minh-nơi có sẵn đông đảo kẻ sỹ- mà thường từ chốn hang cùng cốc thẳm nào đó kéo về. Cả mấy ngàn năm kẻ được mệnh danh là sỹ đã không mấy khi dám phất cờ mà còn luôn nghển cổ mong “được” thu dụng, chỉ nguyện ước “được” xếp vào làm tay chân, tôi mọi. Đến chặng xây dựng đất nước kẻ sỹ lại thường trông đợi tiếp vào may rủi của số phận (kỳ vọng vua sẽ sáng). Kỳ vọng gì và được gì thì không cần biết nhưng ít nhất đã tự đánh mất chính mình đến hai lần trong một đời.
Đáng trân trọng biết bao, trong việc hướng về Tổ Quốc, nếu bất kỳ ai đó đang thực sự bắt tay vào làm một cái gì đó thiết thực. Thật xúc động khi thấy họ xắn tay vào xây nhà máy, xây cầu, phòng học, khoan giếng, dậy học, chỉ bảo, tư vấn, hướng dẫn… và chắc chắn rằng họ có thể thúc thêm nhiều cơn gió ngọt hơn thế cho cánh diều vàng Việt Nam được bay bổng. Nếu chỉ xếp họ vào cái rọ phản biện cuội thì một lần nữa trong chuyện lễ bái họ không vượt qua cả cái bóng gù của cha ông thời phong kiến- chuyên nghề gập mình ngong ngóng có vua để thờ!
Ngày nay loài người đã có nhiều nghề và nhiều cửa hơn để sống và sống cho toại lòng!
Theo blog ĐT
…………………………………….
(Phạm Ngọc Cương sinh 1966 tại Hà Nội và bảo vệ Ph.D tại Moscow Russia. Ông hiện đang sinh sống và làm việc tại Toronto Canada)








February 11, 2013
Bên Thắng Cuộc: Một cuốn sách hay -1
Nguyễn Hưng Quốc
Tôi có cuốn Bên Thắng Cuộc của Huy Đức đã khá lâu nhưng mấy ngày vừa rồi mới có thì giờ để đọc. Ấn tượng chung: Thích.
Thích nhất là về tư liệu. Đã có nhiều người, Việt Nam cũng như ngoại quốc, viết về Việt Nam sau năm 1975 nhưng có lẽ chưa có cuốn sách nào bao quát nhiều khía cạnh và dồi dào tư liệu đến như vậy. Các cuốn sách khác, cho đến nay, dưới hình thức hồi ký hay biên khảo, thường chỉ tập trung vào một lãnh vực và từ một góc độ cụ thể nào đó. Bên Thắng Cuộc, ngược lại, hầu như đề cập đến mọi góc cạnh lớn, từ quân sự đến chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, từ tổ chức chính quyền tại Sài Gòn sau năm 1975 đến các chiến dịch đánh tư sản, các trại cải tạo, phong trào vượt biên, các nỗ lực “xé rào” về kinh tế, chính sách đổi mới, chiến tranh với Campuchia cũng như với Trung Quốc và các cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ đảng Cộng sản. Ở từng vấn đề, Huy Đức đều nêu lên thật nhiều chi tiết. Các chi tiết ấy thuộc hai loại chính: Một, lời kể của các chứng nhân được thu lượm qua các cuộc phỏng vấn hoặc qua các hồi ký – đã hoặc chưa xuất bản – của họ; và hai, các tài liệu đã được công bố đây đó, bằng tiếng Việt cũng như bằng tiếng Anh. Nguồn tài liệu thứ nhất được Huy Đức thực hiện với tư cách một nhà báo; nguồn thứ hai, với tư cách một nhà nghiên cứu. Tôi cho sự kết hợp giữa hai tư cách này là mặt mạnh nhất của Huy Đức đồng thời cũng là ưu điểm chính của cuốn Bên Thắng Cuộc: Thường, các nhà báo Việt Nam chỉ “tác nghiệp” theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa, dựa trên những gì mình nghe kể hoặc quan sát được; còn các nhà nghiên cứu thì lại thiếu thực tế, do đó, hoặc chỉ xào nấu từ các cuốn sách khác hoặc phải sa vào tư biện, tệ hại hơn nữa là tư biện kiểu Việt Nam: cứ lải nhải những luận điệu rặt mùi tuyên truyền, tức những luận điệu ai cũng biết, hơn nữa, biết là sai.
Trong Bên Thắng Cuộc, nguồn tài liệu từ sách vở chỉ có tính chất bổ sung, chủ yếu để cung cấp số liệu và mở rộng kích thước lịch sử, từ đó, tăng tính thuyết phục cho những vấn đề được đề cập. Ví dụ, nói về cuộc họp mặt với khoảng 100 văn nghệ sĩ tại Hà Nội của Nguyễn Văn Linh vào ngày 6 và 7 tháng 10 năm 1987, Huy Đức quay trở lại với thời Nhân Văn Giai Phẩm, hoặc xa hơn nữa, thời Trường Chinh viết “Đề cương văn hóa” năm 1943, thậm chí, một chút, về lịch sử báo chí Việt Nam trước đó. Nói về kinh tế thị trường (lần đầu tiên được đưa vào các văn kiện Đảng là năm 1991), anh quay trở lại vấn đề “lược sử kinh tế tư nhân” ở Việt Nam từ cuối thế kỷ 19, đặc biệt, đầu thế kỷ 20, dưới thời Pháp thuộc. Nói về các chính sách đối với người Hoa vào những năm 1978-79, anh quay lại quan hệ giữa Việt Nam (chủ yếu là miền Bắc) với Trung Quốc trong Hiệp định Paris năm 1954 cũng như trong suốt cuộc chiến tranh Nam Bắc thời 1954-75, bao gồm cả chuyện Hoàng Sa năm 1974, v.v.. Những tài liệu này, thật ra, không mới, nhưng chúng được trình bày một cách gọn ghẽ, sáng sủa và mạch lạc, làm cho vấn đề có thêm bề dày của lịch sử.
Nhưng mặt mạnh nhất của Huy Đức là ở tư cách nhà báo. Không những chỉ là người làm báo lâu năm, anh còn có ba đặc điểm mà không phải nhà báo kỳ cựu nào cũng có: Một, quan hệ rộng; hai, có tầm nhìn dài; và, ba, có cách làm việc khoa học.
Tôi gặp Huy Đức một lần ở Hà Nội, hình như là vào cuối năm 2002 hay đầu năm 2005 gì đó. Buổi sáng, tôi đang ngồi uống cà phê với nhà thơ Phan Huyền Thư và nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên thì anh và nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn đến nhập bọn. Phạm Xuân Nguyên giới thiệu Huy Đức với tôi: “nhà báo, đang làm ở tờ Thời báo Kinh tế Sài Gòn”. Lúc ấy, Huy Đức chưa có Osin blog, chưa có các bài bình luận chính trị được phổ biến rộng rãi trên internet, cho nên, thú thật, tôi không hề biết anh, kể cả cái tên. Mà Huy Đức cũng rất ít nói. Hôm ấy, anh chỉ ngồi nghe bọn tôi nói hươu nói vượn về chuyện văn chương và cười. Đến lúc Phạm Xuân Nguyên đọc một số bài ca dao mới chế giễu giới lãnh đạo Việt Nam, trong đó, có cả Hồ Chí Minh, cả bọn cười ngất, riêng Huy Đức thì lôi trong túi ra một cuốn sổ tay nhỏ và đề nghị Nguyên đọc lại, chầm chậm, cho anh chép. Sau đó, trong suốt buổi nói chuyện, cứ hễ bắt gặp một câu gì hay hay, một chi tiết gì thú vị, anh lại lôi sổ tay ra chép. Cung cách làm việc của anh khiến tôi để ý. Và nhớ mãi.
Nhiều người trong giới nhà báo có ưu điểm là biết rộng nhưng phần lớn lại mắc phải khuyết điểm là sa đà trong các sự kiện có tính chất giai thoại vụn vặt, cuối cùng, chỉ viết được những bài báo ngăn ngắn, đầy tính thời sự, để được đọc ngày hôm trước và bị quên lãng ngay vào ngày hôm sau. Huy Đức, khi theo dõi và ghi chép các tin tức hằng ngày, đã có tham vọng sử dụng cho một bức tranh toàn cảnh về sinh hoạt chính trị Việt Nam thời anh đang sống. Cuốn Bên Thắng Cuộc, gồm hai tập, “Giải phóng” và “Quyền bính”, như anh tiết lộ trong lời nói đầu, được hình thành trong 20 năm, chính là kết quả của tham vọng ấy.
Không phải nhà báo nào cũng có quen biết nhiều, đặc biệt trong giới lãnh đạo, như Huy Đức. Ở Việt Nam, để có được những quan hệ rộng rãi như thế, không những cần có tính cách thích hợp (quảng giao) mà còn có cả yếu tố “nhân thân” nữa: Sinh trưởng ở miền Bắc, vốn là sĩ quan, từng làm việc ở Campuchia với tư cách chuyên gia quân sự trong hơn ba năm trước khi về làm báo, anh có đủ điều kiện để được tin cậy. Chính vì thế, anh được báo Tuổi Trẻ giao trách nhiệm tường thuật các kỳ họp Quốc Hội, ở đó, anh có thể, ở “những thời điểm nóng bỏng nhất”, “vào tận phòng làm việc hỏi chuyện Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải” hoặc “đến nhà riêng, văn phòng làm việc của Tổng bí thư Đỗ Mười, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu… phỏng vấn”. Trong “Mấy lời của tác giả”, anh cho biết anh đã tiến hành “hàng ngàn cuộc phỏng vấn”; và theo “Lời cám ơn”, chúng ta được biết, trong số những người được anh phỏng vấn, ngoài các tên tuổi nêu trên, còn có Chủ tịch Nước Lê Đức Anh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết, Bộ trưởng Công an Lê Minh Hương, Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình, v.v.. Cả trăm người. Toàn những người lãnh đạo ở bậc cao nhất trong nước. Ngoài ra, anh còn phỏng vấn vợ họ, con họ và các thư ký riêng của họ nữa.
Chắc chắn không có một nhà báo hay nhà biên khảo nào ở hải ngoại, kể cả người ngoại quốc – vốn vừa ít bị nghi ngờ vừa được các trung tâm nghiên cứu lớn tài trợ để có thể bỏ ra năm bảy năm thu thập tài liệu cho một cuốn sách – có thể tiếp cận được đến chừng ấy người trong giới lãnh đạo Việt Nam. Ở trong nước, làm được điều ấy, cũng không phải dễ. Nhìn từ góc độ xuất bản, có lẽ Huy Đức là người đầu tiên. Điều này trở thành một thế mạnh đầu tiên của cuốn sách: Đó là chuyện kể từ những người trong cuộc của “bên thắng cuộc”. Tính chất “trong cuộc” ấy đã tạo nên những đặc trưng về thể loại và thẩm mỹ của cuốn sách.
Trong cái gọi là đặc trưng thẩm mỹ ấy, tôi chỉ xin tập trung vào một điểm: sự hấp dẫn.
Phải nói ngay: hiếm có cuốn sách về chính trị nào hấp dẫn như cuốn Bên Thắng Cuộc. Điều đó có thể thấy qua những tiếng ồn nó gây ra trong mấy tháng vừa qua. Lâu lắm rồi, giới cầm bút Việt Nam hầu như hoàn toàn bất lực trong việc gây ồn. Hầu hết sách báo được xuất bản ở trong nước cũng như ở hải ngoại, đặc biệt ở hải ngoại, đều rơi vào im lặng. Không phải chỉ là chuyện hay hay dở. Mà chủ yếu ở tâm lý quần chúng: dửng dưng. Cuốn Bên Thắng Cuộc, ngược lại, ngay từ lúc mới ra mắt ở hải ngoại, là đã gây ồn ào ngay. Kẻ bênh người chống, bên nào cũng xôn xao và lên tiếng ỏm tỏi trên mọi diễn đàn, từ trên giấy đến trên mạng. Những tiếng ồn ấy khiến cả những người chưa đọc cuốn sách, hoặc có khi, không có ý định đọc cuốn sách, cũng quan tâm, thậm chí, như ở California, xuống đường biểu tình đòi… đốt sách!
Mà Bên Thắng Cuộc hấp dẫn thật. Đọc, chúng ta biết được rất nhiều chuyện, từ những chuyện lớn liên quan đến chính sách đến những chuyện nhỏ, có khi nhí nhách nữa, liên quan đến đời sống hàng ngày của một số người. Lớn, ví dụ, những toan tính đằng sau các chính sách hay chiến dịch có ảnh hưởng đến sinh mệnh cả hàng chục triệu người; những thay đổi trong tính cách của Lê Duẩn: từ một cán bộ hay hy sinh cho người khác đến một lãnh tụ chuyên quyền và độc đoán; trong thái độ của Trường Chinh: từ một người giáo điều và bảo thủ đến một người đi đầu trong phong trào đổi mới; trong chủ trương của Nguyễn Văn Linh: từ một người đổi mới đến một người phản-đối-mới. Cũng có thể xem là lớn mối quan hệ giữa các lãnh tụ với nhau, như giữa Lê Duẩn với Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp và Lê Đức Thọ; giữa Nguyễn Văn Linh với Võ Văn Kiệt, những chi tiết liên quan đến cái chết của Đại tướng Lê Trọng Tấn vào tháng 12 năm 1986 vốn, theo lời Huy Đức, bị “lịch sử phi chính thống […] xếp vào hàng nghi án” (“Giải phóng”- GP, tr. 151)… Còn nhỏ thì nhiều hơn, có khi lôi cuốn người đọc hơn, chẳng hạn, chuyện vào ngày 30/4/1975, trong Dinh Độc Lập không hề có chiếc máy ghi âm nào để thu lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh (GP, tr. 23); chuyện các sĩ quan Bắc Việt đầu tiên vào chiếm Dinh không dám bước vào thang máy vì thấy nó giống cái… hòm và họ sợ bị nhốt luôn trong đó (GP, tr. 22); chuyện khuya ngày 5/7/1967, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh bị mệt, được đưa vào bệnh viện Quân y 108 để cấp cứu, nhưng vừa đến nơi thì ông “phát ra một tiếng kêu ‘ặc’ rồi mặt và toàn thân tím ngắt”; mấy tiếng đồng hô sau, ông mất… (“Quyền bính” – QB, tr. 64) Có một số chuyện không biết là lớn hay nhỏ, như chuyện khi Hiệp định Geneva được ký kết, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trưởng đoàn Bắc Việt, không hề biết sông Bến Hải nằm ở đâu (vì tất cả đều đã được Trung Quốc quyết định giùm!) (GP, tr. 52); chuyện Tôn Đức Thắng, Chủ tịch nước, vốn là thợ cơ khí, nhiều lúc rảnh và buồn quá, lật “chiếc xe đạp của ông ra sửa để giết thời gian” (GP, tr. 120); chuyện Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng, biết trước vụ tổng tấn công hồi Tết Mậu thân chỉ có một ngày (QB, tr. 67); chuyện khi đón tiếp Tổng thổng Bill Clinton trong chuyến thăm Việt Nam năm 2000, “Bộ Chính trị đã thống nhất là không được cười” (QB, tr. 137), v.v..
Nhiều chuyện có thể đã được người này người nọ kể đâu đó rồi. Nhưng theo chỗ tôi biết, chưa có nơi nào các chuyện thuộc loại ấy được tập trung với mật độ dày đặc như trong cuốn Bên Thắng Cuộc. Trang nào cũng đầy ắp chi tiết. Có những chi tiết không dễ gì tìm được ở những nơi khác, ví dụ: Ở Sài Gòn, trước tháng 4/1975, có bao nhiêu đảng viên Cộng sản nằm vùng? – 735 người! (GP, tr. 27) Cũng ở Sài Gòn, sau tháng 4/1975, có bao nhiêu người ra trình diện để “được đi học tập cải tạo”? – Có 443.360 người, trong đó, có 28 tướng, 362 đại tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sĩ quan cấp uý, 35.564 cảnh sát, 1.932 nhân viên tình báo các loại, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền, và 9.306 người trong các đảng phái bị xem là “phản động’ (GP, tr. 29), v.v..
(Còn tiếp)
……………………………………..
***
Chú thích: Số trang trong phần chú thích ghi theo bản “Smashworlds Edition” của Bên Thắng Cuộc.








Kiến nghị lên trời và sự tích nước Chai
Người Buôn Gió
Ngày xưa ngày xưa ở một nước giáp biển Đông, có tên là nước Chai.
Năm ấy nước Chai loạn, kinh tế, chính sự, chủ quyền mọi thứ đều be bét. Bởi thế triều đình mới sửa hiến pháp gọi là có thay đổi chút ít từ trên cao, ngõ hầu trấn an dân chúng.
Đám nhân sĩ, trí thức lựa dịp ấy, mới làm tờ sớ trình một bản hiến pháp mới có sửa đổi dựa trên bản hiến pháp cũ. Sớ được đưa đi bốn phương để thỉnh bá tánh.
Sớ đưa ra công chúng hàng ngàn người ký đồng tình, triều đình vội vã họp lại nghị luận. Các quan trách nhau rằng.
- Vội bày ra trò đó làm chi, không khéo bọn hủ nho lợi dụng làm xằng.
Quan khác nói.
- Giờ uy tín triều đình đã không còn trong bá tính, kêu góp ý sửa chứ đã sửa cái gì đâu mà phải lo. Cứ kệ cho chúng góp ý để khách quan. Dao kia ta nắm đằng chuôi, có gì phải sợ.
Quan nọ nói.
- Đúng, cho chúng kiến nghị lên trời là hết chuyện.
Các quan nhìn lại thì ra đại thần bộ Học họ Đường, tên chữ là Thế Hoang. Đường Thế Hoang người trấn Sơn Nam Hạ mặt mỏng, mắt rắn. Mới được cất nhắc làm đại thần nghị sự, giỏi nghề bẻ chữ, lái câu, phao tin , đồn tiếng. Tài của Hoang giỏi đến nỗi từng đem con hươu ra Đại Học Quốc Đường, gọi bọn nho sinh lại nói rằng đó là ngựa. Đám nho sinh tin đến nỗi thi nhau là bài phú, bài vè để vịnh con ngựa có gạc.
Bây giờ các quan xúm lại hỏi Đường Thế Hoang cách nào để kiến nghị của bọn nho sĩ không tới khắp dân chúng mà lại bay lên trời. Hoang đáp.
- Cứ theo lệ cũ, tổng hợp mọi biện pháp đấu tranh, phòng ngừa mà làm. Thứ nhất sai bọn dư luận viên cũng làm kiến nghị, kiến nghị thật nham nhở như cho đồng tính lấy nhau, kiến nghị lập nền quân chủ, kiến nghị lập giáo chủ…bọn hủ nho kiến nghị một bản thì quân ta trà trộn trong đám dân, đám sĩ kiến nghị cả mười bản, cốt sao đòi hỏi thật phi lý. Sau đó ta cho người phê phán là có quá nhiều kiến nghị không ra đâu vào đâu, thiếu ý thức xây dựng, không thực tế….
Bước song song ta cho người ký tên vào bản kiến nghị của bọn hủ nho, sau cho kẻ đó lên công chúng nói ăn năn hối lỗi , kiểu như là nhận thức thấy kém, chủ quan, vội vã nên đã ký vào kiến nghị. Nay thấy nói nhiều kiến nghị không thực, tế, thiếu xây dựng. Lấy làm hối hận muốn rút lui.
Cùng đó ta cho công sai toả khắp nơi ngăn cản việc dân chúng ký kiến nghị của bọn hủ nho, chúng không có điều kiện để thu thập chữ ký. Muốn thu thập chúng phải in nhiều tờ, cho người đi nhiều nơi. Chúng lấy đâu ra người, nếu kẻ nào đến đâu mở điểm thu thập chữ ký. Công sai đến gô cổ về phủ, hỏi về ai soạn bản kiến nghị, ai cấp giấy, in ở đâu. mở điểm thế này đã xin phép triều đình chưa, có biết vi phạm sắc lệnh 83 của tể tướng không.. chúng trả lời xong từng ấy câu hỏi mà khôn ngoan không phạm tội gì thì cũng hết thời hạn triều đình thu thập kiến nghị. T
Quan đại thần Hoang ngừng nói, đưa mắt nhìn quanh hỏi các quan.
- Bổn quan chỉ có vài kế sách ấy, xin các quan chỉ bảo thêm.
Các quan đều nghiêng mình vái lạy nói.
- Triều ta thật có phúc mới được đại quan, Gia Cát Lượng chỉ tính đến 2 kế sách, nay ngài tính đến gấp mấy lần. Cứ thế này kiến nghị của bọn hủ nho chỉ có nước hoá vàng mà gửi lên trời.
Về sau hiếp pháp chả có gì thay đổi, cãi nhau , dèm nhau một chập rồi phần thắng vẫn thuộc về bên nắm quyền. Bấy giờ dân chúng mới nhận ra quan lại nước mình chả ai mọc râu trên mặt cả. Bởi vậy họ tự đặt nước mình là nước Chai.








Không nên quá kì vọng vào Ban nội chính
Phạm Xuân Cần
Gần đây khi Ban Nội chính Trung ương được tái lập, không ai bảo ai hầu như mọi người dân đều mong chờ, tin tưởng Ban Nội chính Trung ương sẽ làm nên chuyện, sẽ đánh tan bọn tham nhũng, trả lại sự trong lành cho xã hội. Sự tin tưởng ấy càng có cơ sở và tăng lên khi người được trao thượng phương bảo kiếm là ông Nguyễn Bá Thanh, một quái kiệt miền Trung đang được nhân dân mến mộ. Bản thân tôi có hy vọng, nhưng quả thật không tin tưởng và kỳ vọng gì nhiều, vì mấy lí do sau đây:
1. Ban Nội chính chỉ là cơ quan tham mưu cho BCH Trung ương mà trực tiếp là Bộ Chính trị, không có thẩm quyền xử lí trực tiếp. Mọi quyết định cuối cùng vẫn là Bộ Chính trị.
2. Trong hệ thống hiện nay không phải chúng ta thiếu thiết chế chống tham nhũng, thậm chí ngay trong Đảng Uỷ ban kiểm tra Trung ương có thẩm quyền rất lớn được Điều lệ Đảng quy định hẳn hoi, nhưng tình trạng “vạch ra để đấy” vẫn là một thực tế. Ngay Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng trước đây không phải thiếu thẩm quyền, nhưng thử hỏi đã làm được gì?
3. Ai cũng hô hào chống tham nhũng nhưng xem ra trong hệ thống không có lòng căm thù tham nhũng cần thiết. Người căm thù tham nhũng chỉ là dân chúng và những người không có điều kiện tham nhũng. Trong hệ thống khi có tham nhũng người ta dành cho người tham nhũng nhiều sự cảm thông chia sẻ hơn là căm ghét. Thậm chí người ta lại tìm cách săm soi xem kẻ nào đã tiết lộ bí mật nội bộ. Vì vậy chống tham nhũng luôn là câu chuyện ngoài mình, ngoài đơn vị, địa phương mình.
4. Trên thực tế những nước minh bạch và ít tham nhũng nhất lại chính là những nước không có…Ban nội chính!








February 10, 2013
Về bài ” Niềm tin” của ông Hà Đăng
Tâm Sự Y Giáo

Niềm tin tên trộm
Đúng ngày Mùng 1 Tết, tình cờ tôi được đọc bài Niềm tin của ông Hà Đăng trên Tuần Việt Nam. Trong bài, thấy ông Hà Đăng “khoe” rằng ông đã 65 năm tuổi Đảng, đã từng dự Hội nghị Paris 1973. Có lẽ tác giả Hà Đăng chính là ông Hà Đăng – nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Văn hóa tư tưởng Trung ương ?
Nhưng, cho dù ông Hà Đăng từng giữ chức vụ to như thế, trong một lĩnh vực rất thiêng liêng là mặt trận tư tưởng văn hóa, thì với tư cách là một dư luận viên, tôi vẫn buộc lòng phải đặt một dấu hỏi cực to về bài viết của ông: Ông viết bài này với mục đích gì?
Tiêu đề bài viết là Niềm tin. Trong bài viết, ông đã chia sẻ với độc giả về niềm tin của ông trong cuộc đời, nếu tôi không nhầm, là niềm tin vào Đảng. Ông khẳng định trong bài viết của mình: “tôi vẫn nghiệm ra rằng chỉ có giữ trọn niềm tin vào Đảng, hành động theo Đảng thì tự mình mới đứng vững được”.
Và để chứng minh cho luận điểm này, ông đã dẫn ra những câu thơ của Tố Hữu, những lời dặn dò của đồng chí Tô (Phạm Văn Đồng) khi ông được kết nạp Đảng năm 1947, câu Kiều mà anh Sáu Lê Đức Thọ đọc trong thời gian Hội nghị Paris 1973…
Ông tin vào Đảng? Ô kê, dư luận viên là tôi rất nhiệt liệt hoan nghênh ông. Tuổi Đảng của tôi chỉ mới được 4 năm, chưa bằng số lẻ của 65 năm tuổi Đảng của ông. Nhưng có lẽ ông không hiểu được rằng tôi đang có một niềm tin vào Đảng mãnh liệt như thế nào đâu. Nói không phải khoe: Trong giới trẻ bây giờ chẳng mấy ai được như tôi đâu ông ạ.
Và cũng chính vì điều ấy, chính vì niềm tin và tình cảm vô cùng thiêng liêng ấy của tôi, tôi buộc lòng phải thưa với ông rằng trong bài viết của ông có hai chỗ cực kỳ nhạy cảm, nếu không muốn nói rằng đó là những tử huyệt vô cùng nguy hiểm. Cứ đọc đến hai chỗ này là bầu máu nóng trong con người tôi lại dâng lên ngùn ngụt. Bực quá, giận quá, căm thù quá !
Thôi thì để tôi lấy hơi thở, bình tĩnh trở lại để thưa với ông, hai chỗ ấy là hai chỗ như sau:
Thứ nhất, trong bài viết, không biết vô tình hay cố ý, ông đã tiết lộ một sự kiện vô cùng nhạy cảm: “Ngày 27-11-1972, sau những phiên họp mật kéo dài một tuần với Kissinger mà chưa ngã ngũ, nhân ngày nghỉ, cố vấn Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thủy sao thăm Đoàn miền Nam tại Verie lơ Buy xông”.
Vào thời điểm đó, hiệp định Paris chưa được ký kết. Chính quyền Sài gòn vẫn là kẻ thù của ta. Phái đoàn miền Nam ở đây là phái đoàn nào, Cộng hòa miền Nam Việt Nam hay là Việt Nam Cộng hòa? Sao ông không nói thẳng, viết thẳng cho nó rõ ràng ra, lại viết ỡm ờ hết sức nguy hiểm là “Đoàn miền Nam”?
Nhưng cái điều thứ nhất này cũng mới chỉ là tép riu, không bằng một phần trăm của cái điều thứ hai dưới đây.
Thứ hai, Ông mở đầu một cách rất hấp dẫn, lôi cuốn và cũng rất chi là gây hồi hộp. Ông cũng đã rất công phu trong phần mở đầu, đến nỗi nếu toàn bộ là 7 phần, trọng tâm là 3 phần thì mở đầu cũng chiếm tới 3 phần, chỉ 1 phần là dành cho kết luận.
Bài viết của ông có thể khẳng định là viết về niềm tin của ông đối với Đảng. Nhưng thật oái oăm, ông lại lai dắt, lại ví dụ để mở đầu bằng “niềm tin của một tên trộm”.
Để tôi dẫn ra những câu ông viết để chứng minh cho ông nhá: “Mỗi khi anh ta (tức là tên trộm) trở về, Hasan đều hỏi: Có trộm được gì không?”, và anh ta đáp: “Hôm nay thì chưa, nhưng ngày mai tôi sẽ cố, có thế lắm chứ” Hasan chưa bao giờ thấy tên trộm ấy trong tình trạng tuyệt vọng, anh ta luôn hạnh phúc. Nhiều năm sau, có lúc Hasan rơi vào tình trạng tuyệt vọng, nghĩ rằng phải chấm dứt tất cả những điều vô nghĩa của cuộc sống. Nhưng sau đó, ông chợt nhớ đến tên trộm, kẻ hằng đêm vẫn quả quyết “Ngày mai tôi sẽ làm được, có thể lắm chứ”. Thông điệp Hasan nhận được từ tên trộm, nói đúng hơn, từ cuộc sống, mà ông rút ra thành triết lý sống là không được đánh mất niềm tin và đừng bao giờ tuyệt vọng”.
Ông viết như thế là có dụng ý, ẩn ý, hàm ý gì ? Ông định ám chỉ ai, ám chỉ điều gì, thưa ông Hà Đăng ? Thật tình tôi cho rằng chỉ có ông Trời mới biết ông có ý định ngầm ví von, so sánh điều gì đó hay không khi dùng niềm tin của một tên trộm để mở đầu cho bài viết vể chủ đề cực kỳ nghiêm túc và vô cùng thiêng liêng là niềm tin về Đảng ?
“Tên trộm luôn hạnh phúc” ư ? Nói thế chẳng khác nào chỉ cho lớp trẻ chúng tôi rằng muốn có hạnh phúc thì cứ việc đi … ăn trộm ?
Niềm tin của tên trộm ở đây là “ngày mai tôi sẽ làm được”, tức là sẽ tiếp tục ăn trộm của thiên hạ một cách thành công. Vậy mà ông dám gọi đó là “thông điệp từ cuộc sống”, rồi lại tôn nó thành “triết lý sống” ư ?
Ông đã mở đầu bài viết về niểm tin vào Đảng bằng niềm tin của một tên trộm . Đây chính là tử huyệt mà các thế lực thù địch rất dễ dàng sử dụng đề chống phá niềm tin chúng ta, ngay cả khi chúng ta chẳng có niềm tin vào bất cứ điều gì. Thật là vô cùng nguy hiểm, cực kỳ nguy hiểm !
Đã từng là Trưởng ban tư tưởng văn hóa trung ương, ông thừa hiều sức mạnh của ngôn ngữ có khi bằng cả đạo quân triệu người chứ? Và hẳn là ông có biết tới bài học nhãn tiền vừa giáng xuống đôi vai gầy và cái đầu xxx của Đại tá Phó Giáo sư Tiến sĩ Nhà giáo ưu tú Trưởng khoa Học viện Quân sự Trần Đăng Thanh ?
Với tinh thần trách nhiệm vô cùng cao cả, ý thức cảnh giác cách mạng hết sức cao độ, với tư cách là một dư luận viên gương mẫu, nhiệt tình, tôi yêu cầu ông Hà Đăng khẩn cấp hạ bài báo này xuống, đưa về làm kỷ niệm.
Và tôi cũng chân thành đề nghị ông hãy nghiêm túc soi lại bản thân mình với tinh thần phê và tự phê một cách thực sự cầu thị, xem đây là một bài học quí giá, cho dù người dạy cho ông bài học này chỉ là một dư luận viên trẻ tuổi chưa ai biết như tôi.
Mong ông bình tĩnh, bình thản, bình ổn và bình tâm !
Dư luận viên VO VĂN VE








Quê choa ngày mồng 2 tết
Ðức Giáo Hoàng Benedict thứ 16 loan báo sẽ từ chức. Ðức Giáo Hoàng đưa ra thông báo hôm nay, thứ Hai. Trong một tuyên bố, Ðức Giáo Hoàng nói rằng ngài sẽ từ chức ngày 28 tháng 2 này.
Ðức Giáo Hoàng nói rằng ngài đã “xét đi, xét lại” lương tâm về quyết định này.
Phản biện độc lập làm cho trí tuệ của toàn xã hội được nâng lên
Có thể có nhiều định nghĩa về trí thức. Theo tôi, trí thức là người có trình độ văn hóa cao, có kiến thức chuyên môn, và không bị ràng buộc vào (hoặc có ý thức tránh xa) những lợi ích phát sinh từ quan hệ với lãnh đạo chính trị hoặc từ sự thay đổi của các chính sách. Nếu hiểu như vậy thì rõ ràng sự phản biện xã hội của trí thức đối với các vấn đề của đất nước là vô cùng quan trọng.
Chuyện bây giờ mới kể về “Vua Mèo” – Vương Chí Sình
Là thủ lĩnh của vùng cao nguyên đã Đồng Văn, vàng, bạc nhiều vô kể nhưng “Vua Mèo” – Vương Chí Sình, lại có lối sống rất giản dị, chan hòa cùng người dân. Được Bác Hồ kết nghĩa làm anh em nên ông nguyện một lòng theo Đảng, trước khi mất, ông đã trăng trối lại cho con, cháu đem rất nhiều vàng, bạccủa mình tích cóp được để hiến tặng cho Nhà nước.
Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực
“Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực, cả quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế. Không một ông vua, không một chính phủ nào có thể tồn tại nếu không có dân”- GS.TS Lê Hồng Hạnh, Viện trưởng Viện Khoa học Pháp lý trao đổi nhân việc lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Internet và ngoại giao Việt Nam
Trước hết là bản tin viết sai tên của bà Bộ trưởng Ngoại giao. Bản tin viết “Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hilary Clinton”, nhưng tên đầy đủ của bà là “Hillary R. Clinton” (chú ý có hai mẫu tự “l” nhé). Điều thú vị là bản tin dùng từ “Ngoại trưởng”, vốn là một cách gọi thời Việt Nam Cộng Hòa. Tôi tự hỏi tại sao không là “Bộ trưởng Bộ ngoại giao Hoa Kĩ”? Nói gì thì nói, việc viết sai tên của một nhân vật quan trọng là một thiếu sót khó chấp nhận được trong quan hệ quốc tế.
Hiến pháp Nhật Bản hiện đại đã ra đời như thế nào?
Sau những buổi bàn thảo quyết liệt vào tháng 3/1946, phía Nhật Bản cuối cùng đã chấp nhận dự thảo hiến pháp do phía Mỹ soạn, sau vài sửa đổi nhỏ. Tướng Whitney còn nói rằng nếu nội các Nhật không có khả năng đưa ra một quyết định thích hợp, tướng MacActhur sẽ đem bản dự thảo này ra trưng cầu dân ý.
“Ba chàng ngự lâm”:Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười- tam nhân thành hổ
-Đầu thập niên 1990, khi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đang có những nỗ lực vận động quốc tế để bảo vệ thành trì xã hội chủ nghĩa, ông Võ Văn Kiệt đến Davos và bắt đầu nhận thấy khoảng cách giữa chủ nghĩa xã hội mà ông chứng kiến ở Đông Âu và “tư bản giãy chết” mà Marx nói là một chặng đường xa xôi. Ông Võ Văn Kiệt cũng nhận thấy, chế độ đang có những bế tắc mà “xé rào” cuối thập niên 1970 hay “đổi mới” của thập niên 1980 là không thể nào tháo gỡ được…
Đọc thơ Bùi Giáng, người ta nghĩ ông chỉ có những tình yêu viễn mộng. Ít ai biết ông đã có một người vợ đẹp và những bài thơ tình hay nhất của ông là dành cho vợ. Người phụ nữ ấy chỉ sống với ông trên đời có 3 năm.
Tháng 7.2012, tôi trở lại thăm quê nhà ông – làng Thanh Châu (xã Duy Châu, Duy Xuyên, Quảng Nam). Ghé thăm nhà thờ tộc Bùi, được người phụ nữ chăm lo hương khói nơi đây cho xem gia phả của tộc. Qua câu chuyện, tôi khẳng định một điều mới mẻ: Nhà thơ Bùi Giáng đã có vợ.
Tôi là một ông già 79 tuổi, đi theo Đảng từ lúc chưa đến 18 tuổi, được học chính trị và làm công tác báo chí cách mạng gần 40 năm, cuộc sống đã dạy tôi nhiều điều cơ bản. Những người lãnh đạo phát triển của dân tộc đó phải xứng đáng với vai trò lịch sử giao cho họ, phải rất công tâm, rất trí tuệ, trung thực và “công bộc” thật sự. Chứ còn cái “định hướng xã hội chủ nghĩa” chưa bao giờ có trong hiện thực thì gắn vào cho vui thôi.
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..
Quê choa ngày mồng 1 tết
Trí thức trùm chăn rất đáng khinh bỉ
Câu hỏi thực dễ trả lời nhưng khó nói, bởi vì ta chưa có môi trường cho phản biện phát triển. Trí thức muốn phản biện phải bước qua sợ hãi. Có 50% trí thức nước ta không dám bước qua sợ hãi, 49,9999% trí thức không dại gì phản biện, họ cần vinh thân phì gia hơn là phản biện. Chỉ còn 0,00001% trí thức dám bước qua sợ hãi để phản biện. Đó là một thực tế đáng xấu hổ.
Chúng ta giống nhau hơn là chúng ta tưởng
Chúng ta có nhiều thứ chung hơn là chúng ta tưởng, cho dù chúng ta ở bên nào : bên bị đạp vào mặt hay bên đạp lên mặt người khác, bên phải vào tù vì can đảm dám nói lên sự thật hay bên phải bịa ra những bản án kết tội những người vô tội. Dù chúng ta là những dư luận viên hay là những người cầm bút để phản biện thì hàng ngày có thể chúng ta vẫn đi trên cùng những con đường dưới cùng những hàng cây, thở cùng một loại không khí, uống cùng một nguồn nước, ăn cùng những thực phẩm như nhau. Con cái chúng ta có thể chơi đùa trong cùng một công viên, có thể đến cùng một trường học, có thể sẽ được dạy dỗ bởi những người thầy cất tiếng nói phản biện vì mong muốn một tương lai tốt đẹp cho học sinh sinh viên của họ. Một vài người thầy trong số đó, như Đinh Đăng Định, đã chấp nhận chịu bất công, chịu bị trừng phạt với hy vọng rằng con cái của chúng ta, con cái của chính các dư luận viên có một xã hội công bằng hơn, nhân văn hơn, có những trường học tiến bộ hơn, chất lượng hơn và không phải đi nước khác để tị nạn giáo dục.
“Bên thắng cuộc” và dư luận: Những cực đoan vẫn còn đó… nhưng không còn đe doạ được ai
Có lẽ chưa có một cuốn sách tiếng Việt nào đã được đón đọc rộng rãi, gây nhiều dư luận vừa tương phản từ rất đồng thuậnđến rất chống đối như cuốn sách này của Huy Đức. Bài này không trực tiếp nói về nội dung cuốn sách như một bài phê bình, điểm sách, mà tập trung nói về dư luận ấy.
Đảng và chính quyền đang tung chiến dịch kêu gọi toàn dân góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến Pháp 1992. Nhưng qua nội dung bản dự thảo và những ý kiến được phát biểu trên cả báo lề phải cũng như lề trái cho tới nay, người ta thấy việc sửa hiến pháp sắp tới sẽ khó thỏa mãn nguyện vọng của nhân dân. Có ba lý do để các chuyên gia pháp lý nghĩ như vậy :
1- Thời hạn ba tháng góp ý quá ngắn.
2- Đảng và chính quyền chưa tỏ thực tâm sửa đổi (incentive problem).
3- Cán bộ pháp lý cao cấp của Đảng và chính quyền chưa cho thấy đầy đủ kiến thức pháp lý để thực hiện cải tổ (knowledge problem).
Ông đã chứng tỏ lý tưởng của ông là quá tầm thường và ông tưởng người nghe cũng tầm thường như ông. Ông mang điều này ra dụ dỗ, đe dọa là một điều sỉ nhục đối với họ. Tôi xin nói thẳng với ông thế này: Tôi là một người lính về hưu. Nếu có một biến cố nào đó đem lại tương lai tươi sáng cho dân tộc, cho đất nước mà tôi mất đi nguồn lương từ bảo hiểm xã hội thì tôi sẵn sàng. Tôi tin rằng có rất nhiều người cũng sẵn sàng như tôi
Làm sao tin Đảng CSVN thưc sự muốn thay đổi?
Hãy thử nhìn qua những gì chính quyền Miến Ðiện của Tổng Thống Thein Sein đã làm chỉ trong vòng hai năm qua, đã khiến thế giới thật sự tin rằng họ muốn thay đổi. Còn nhà nước VN thì từ người dân trong nước cho đến các nước dân chủ tiến bộ trên thế giới, đã quá mất lòng tin cũng như đã quá thuộc “bài” của họ. Cứ khi nào cần thương lượng một điều gì đó với Hoa Kỳ, với thế giới thì lại đem tự do, sinh mạng của một vài tù nhân chính trị ra đổi chác.
Trí thức Việt Nam đang trở lại chính mình
Người viết bài này biết rằng đến nay phần đông trí thức Việt Nam vẫn dửng dưng và thậm chí coi những người dấn thân là “điên”, là “dở hơi”. Người viết bài này cũng đã từng nhận được giọng cười vừa mỉa mai vừa thương hại của nhiều người. Họ luôn bảo: “Có ai nghe đâu. Đấy rồi xem!”. Nhưng chúng tôi nghĩ khác. Xin lấy câu nói của Trương Định ngày xưa để bày tỏ: “Triều đình Huế không nhìn nhận chúng ta, nhưng chúng ta cứ bảo vệ Tổ quốc chúng ta”. Thấy lẽ phải thì cứ làm, phải làm, nên hư lại là chuyện khác.
Dân: gốc nước, Dân: trí tuệ mọi thời
Để dũng cảm mổ xẻ sự thật đau lòng, sự yếu kém của lãnh đạo, điều hành, để có thể biết ta biết người, hiểu thời hiểu thế, hiểu nước hiểu dân. Để bừng ngộ kế sách mới vượt qua hung hiểm, giữ vững độc lập, chủ quyền, hưng thịnh quốc gia, chăm sóc sức dân.
Bộ máy lãnh đạo quốc gia tỉnh ngộ về đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế, coi trọng và khoan thư sức dân; hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, chính sách; làm sạch, tăng tư cách và hiệu quả hoạt động của toàn đội ngũ công bộc dân nuôi…Tư duy được điều chỉnh thuận với chiều phát triển. Thành bại những năm sau còn tùy thuộc vào tổ chức hành động thật lòng biến ý chí thành cơm áo.
Tôi vô cùng cảm phục và tự hào khi chứng kiến hình ảnh bà con nông dân Văn Giang, Dương Nội, Tiên Lãng, Vụ Bản và nhiều nơi khác đã đấu tranh giữ đất quyết liệt. Sự bất mãn đã đến mức căm thù cháy bùng lên sau bao nhiêu năm âm ỉ.Đặc biệt có những người đã dũng cảm “bước qua nỗi sợ hãi”, uy lực không khuất phục được họ. Có những người bị giải ra tòa mà đàng hoàng như thày giáo lên lớp, khí khái không khác gì Trần Bình Trọng, Cao Bá Quát, Nguyễn Thái Học ngày xưa. Đó là những người tự nguyện cháy lên thành ngọn đuốc.
Nhưng, nếu người Việt ta muốn tự chế được “món” dân chủ, pháp trị thật, muốn tính tình trở nên trọng lẽ công bằng hơn tình huynh đệ, muốn có tinh thần luôn coi khinh lợi ích của đảng phái, phe nhóm trước lợi ích quốc gia, muốn tâm khảm mình chuộng hữu lí hơn xúc cảm, muốn bình tĩnh được trước mọi ý kiến trái ngược với mình và muốn thường trực căm ghét thói mị dân, giả hiệu thì người (trí thức) Việt không thể không chịu khó xắn tay tìm hiểu và siêng năng thù tạc các món ngoại lai khó nuốt, nhưng thuộc những tri thức nền của dân chủ, pháp trị.
Viên chức và nhà buôn- hai nét tính cách “người Hà Nội”
So với các vùng làng quê với cư dân ổn định, đời nọ nối đời kia ở yên một chỗ, thì đô thị là nơi cư dân biến động thường xuyên. Một bộ phận đáng kể di dân là những người tới đô thị làm viên chức. Nhưng làm viên chức ở đô thị không phải là nghề có thể “truyền” lại cho con cháu như nghề nông ở làng quê. Khi lương viên chức không đủ nuôi gia đình, người đang làm viên chức đã phải tính kế làm thêm, buôn bán thêm. Đến đời con đời cháu, nếu không tìm được việc làm trong nghề viên chức như cha mẹ, chắc chắn những đứa con sẽ làm những nghề buôn bán gì đó để tiếp tục sống ở đô thị chứ rất ít khi quay về quê cha làm nghề nông.
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….
Quê choa ngày 30 tết
NQL: Để tiết kiêm thời gian post bài, giảm thiểu việc copy anh paste, Quê choa thử nghiệm trang Chiếu rượu quê choa, nếu thấy tiện ra năm sẽ làm tiếp. Trang tin này liên tục cập nhật, hễ có bài nào đáng đọc đều được đưa lên.
… nhưng cái ác hành hoành, người tốt, người có đạo đức, vốn là rường cột của xã hội họ lại phải lui về thúc thủ, bàn quan. Bởi vì nếu can thiệp họ sẽ gặp tai họa, gặp rắc rối. Chúng ta vẫn biết những câu chuyện về những nhà báo viết về chống tiêu cực phải vào tù, chúng ta biết những người viết ca khúc chống Trung Quốc bị bắt. Còn những người làm thất thoát hàng trăm tỷ đồng chẳng bị sao cả, có chăng cũng chỉ đi tù sơ sơ. Điều đó làm xã hội đang đi xuống chứ không phải đi lên. .
rắn …rắn… rắn…
giật thót xuân
giao thừa lo rắn cắn
Liệu Việt Nam có thể cải cách?
Việt Nam đang đứng trước ngã ba đường chính trị đầy mâu thuẫn. Ranh giới giữa các hoạt động được coi là có thể chấp nhận và bất hợp pháp còn vẫn khó xác định.
Ngay cả theo các tiêu chuẩn gần đây tại Việt Nam, bản án chung thân hôm thứ Hai vừa rồi đối với ông Phan Văn Thu quả là một bản án đầy khắc nghiệt.
Không dừng lại diệt ” sâu chúa” mà phải truy phá ” cái ổ” đẻ ra ” sâu”
Nhìn cách bài binh bố trận, với chiến thuật biển người, bằng đấu pháp kèm người, phân lô trách nhiệm từng khu vực, nhiều ý kiến lạc quan hy vọng: Có khả năng lần này có khi bắt tóm được “sâu chúa” tham nhũng đây; có điều nếu lần này có bắt được “ sâu chúa “, đem nhúng nước sôi và vô hiệu nó, không tạo ra những đường dây lũng đoạn thì ngẫm cho cùng vẫn là cung cách cò con, “ đánh cờ nước một”, trăm bó đuốc chỉ để túm được mỗi một con ếch…Bởi đàn sâu không phải do “ sâu chúa” sinh ra giống như “ mối chúa”, “ ong chúa”…chỉ cần diệt được con chúa thì tự khắc đàn ong, đàn mối tự
Sự biến hóa của Dân Chủ và Độc tài trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Chúng tôi e ngại rằng, nếu không viết thư ngỏ này cho Giáo sư, thì ngay những lời lẽ thể hiện sự thành tâm góp ý của Giáo sư cũng có thể được sử dụng cho một mục đích nào đó khác hơn.Và như thế thì tai hại khôn lường không chỉ cho danh tiếng của giáosư mà còn là hậu họa cho dân,cho nước. Vì lý do đó , một nhóm nhỏ nhà khoa học, chuyên gia về Ngôn ngữ, Toán,Vật lý, Điện tử…đều là những người hâm mộ và yêu mến Giáo sư, đã đọc kỹ ý kiến của Giáo sư, và ủy nhiệm tôi thay mặt cả nhóm gửi thư ngỏ này đến Giáo sư và mọi người quan tâm. Thư ngỏ này gồm hai phần. Phần đầu là nói về phép biến hóa Dân chủ- Chuyên chính (Độc tài) trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Nội dung phần này là ghi lại ý kiến của nhiều chuyên gia nói trên phân tích , luận giải. Còn tôi chỉ là người biên tập lại. Phần sau, Vĩ thanh, là chút ý kiến của riêng tôi , một nhà báo, chia sẻ với Giáo sư.
Ăn gì mà nói bậy thế hở ông Dô-éo ?
Phê phán nạn ăn thịt động vật hoang dã quí hiếm thì chẳng sai nhưng lấy đó làm cái cớ để xuyên tạc dân tộc khác thì quá ư hồ đồ, có phải vì vậy mà nói rằng thói quen ăn thịt của người Việt khiến họ hung hăng hơn các dân tộc láng giềng như Lào, Campuchia hay các nước Đông Nam Á chủ yếu ăn cơm(?!). Có bao giờ ông ghé mắt xem bữa ăn bình thường của một gia đình Việt nào đó để uốn lưỡi bảy lần trước khi “phán” ngu.
Chúng ta đón mùa Xuân về với niềm tin tưởng là ngày đó không xa. Phục hồi một nếp sống thuần hậu, ngay thẳng, chánh trực; sống lại các giá trị đạo lý của Chu An, Nguyễn Ðình Chiểu; Phan Châu Trinh; chúng ta sẽ trở về trước bàn thờ, trong ngôi nhà cũ của tổ tiên. Ngày về sắp đến rồi. Cái gì tới chỗ cùng cực, sẽ phải thay đổi. Cả nước đang rạo rực chờ biến chuyển. Cả dân tộc đang trở về nhà, lòng náo nức như một thi sĩ sắp được về sau “Mười năm mặt sạm soi khe nước – Ta hóa thân thành vượn cổ sơ.” Trong lòng thi sĩ vẫn tràn ngập niềm vui:
Tướng Quắc hội ngộ thi sĩ Việt Chiến: Còn lại rượu và thơ
Bốn năm sau ngày ra tù, bước sang tuổi 60, Nhà báo Nguyễn Việt Chiến bất ngờ hội ngộ Tướng Phạm Xuân Quắc tại quê hương ông ở Thanh Hà, Hải Dương. Cuộc hội ngộ bất ngờ này, khiến cả hai có số phận lao lý trong vụ án PMU 18 mừng mừng, tủi tủi..
Giáo sư Lưu Lệ Hằng không chỉ ghi dấu bằng những giải thưởng cao quý mà họ của bà còn được đặt tên cho một thiên thạch.
Người phụ nữ nhỏ nhắn này đang theo đuổi một hành trình không mệt mỏi để khám phá vũ trụ bao la. Khoảng 20 năm trước, Giáo sư David C.Jewitt từng đánh giá về cộng sự Lưu Lệ Hằng như sau: “Siêu sao là một mỹ từ xứng đáng để miêu tả bà ấy. Bà ấy đang xây dựng nên những cầu nối trong một lĩnh vực hiện cần khai phá”.
Việt Nam đừng ‘an toàn thụ động’
Với thế và lực hiện nay, chúng ta đừng giữ tư tưởng “an toàn thụ động”. Mạnh dạn hơn, bản lĩnh hơn chúng ta sẽ được nhiều hơn – nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên bàn về bản lĩnh hội nhập của Việt Nam.
Người cán bộ ngoại giao cũng là chiến sĩ trên đấu trường ngoại giao mà trách nhiệm cao cả nhất là bảo về quyền lợi cho tổ quốc, cho dân tộc. Bài học của Chủ tịch Hồ Chí Minh “dĩ bất biến, ứng vạn biến” vẫn còn nguyên giá trị. Làm thế nào để vận dụng linh hoạt, sáng tạo những thứ mình đang có trong tay để đem về lợi ích tốt nhất cho dân tộc.
Trong bài viết mới công bố của mình trên mạng Internet với tựa đề ” Bấm Hiến pháp nào cho Việt Nam?,” Giáo sư Dũng lưu ý mười nguyên lý mà một bản Hiến pháp cần tôn trọng và thể hiện là pháp trị, logic, nhân quyền, xã hội, bảo vệ, dân chủ, phân quyền – kiểm soát lẫn nhau, minh bạch, tự quản, hòa bình và trung lập.
Ông cho rằng về mặt bản chất, hiến pháp Việt Nam là một “hiến pháp Đảng trị” chứ không phải là dân chủ hay luật trị vì theo ông “dân không được bầu ra lực lượng lãnh đạo cao nhất (Đảng) và Đảng không chịu sự kiểm soát thực sự nào từ phía nhân dân.”
“Thấy những lĩnh vực của đất nước còn yếu kém thì xót xa, xấu hổ lắm”
Ngày 8/2, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã có buổi trả lời phỏng vấn Đài Truyền hình Việt Nam: “Mỗi lần tiếp xúc với nhân dân lúc nào tôi cũng thấy người dân hớn hở, vui vẻ, bắt tay, lúc nào cũng động viên là phải cố gắng mà thấy chạnh lòng nhất là khi nhớ lại những lĩnh vực của đất nước còn khó khăn, thậm chí còn yếu kém so với các nước xung quanh và thế giới thì mình thấy xót xa lắm, xấu hổ lắm”, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nói.








Từ Hiệp định Paris đến “Bên Thắng Cuộc”
Nguyễn Ngọc Giao *
Và cứ như thế, mấy thế hệ liên tiếp đã phải ăn cháo lú lịch sử, không biết gì về những trang sử kì vĩ và đầy đau thương của dân tộc mình, những trang sử đã góp phần thúc đẩy dòng chảy của lịch sử nhân loại thế kỉ XX
Hiệp định Paris “về kết thúc chiến tranh và lập lại hòa bình tại Việt Nam” đã được kí kết ngày 27 tháng giêng năm 1973 tại đại sảnh đường Trung tâm Quốc tế Hội nghị ở đại lộ Kléber. Cách Khải hoàn môn vài trăm mét, tòa nhà này thường được người dân Paris gọi bằng cái tên lịch sử là Hôtel Majestic. Trong Thế chiến lần thứ hai, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng, Khách sạn Majestic trở thành trụ sở của bộ tư lệnh quân đội Đức quốc xã. Sau ngày giải phóng, Bộ ngoại giao Pháp sử dụng cơ ngơi này làm trung tâm hội nghị quốc tế. Trong gần năm năm trời, từ ngày 13.5.1968 đến ngày 27.1.1973, hội trường là nơi diễn ra cuộc thương lượng chính thức giữa Việt Nam và Mĩ. Hơn một tháng sau ngày kí kết Hiệp định Paris, Khách sạn Majestic cũng là nơi họp Hội nghị quốc tế về Việt Nam với sự tham gia của tổng thư kí Liên Hợp Quốc Kurt Waldheim và phái đoàn đại diện của 12 chính phủ (4 bên tham gia Hội nghị Paris : Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Hoa Kì, Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời CHMNVN, Việt Nam Cộng Hòa ; 4 đại cường thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ : Pháp, Anh, Liên Xô, Trung Quốc ; 4 nước thành viên Ủy ban giám sát quốc tế : Ba Lan, Canada, Hungary, Indonesia). Gần 20 năm sau, đây cũng là nơi diễn ra Hội nghị quốc tế về Campuchia (1991).
Ngày nay, Majestic lại trở thành khách sạn, một trong mấy “palace siêu hạng” của Paris, nhưng đã đổi chủ. Cũng như đội bóng đá PSG (đội này vừa sắm David Beckham), chủ nhân là người vương quốc dầu hỏa Qatar. Bốn mươi năm đã trôi qua, số người Việt Nam ra đời sau ngày 27.1.1973 dễ lên tới hai phần ba dân số Việt Nam. Từ đó, bao nhiêu biến cố đã dồn dập xảy ra : ngày giải phóng miền Nam (đối với cả triệu người là ngày “mất nước”, hay “quốc hận”), cải tạo xã hội chủ nghĩa, trại “cải tạo”, chiến tranh với Pol Pot, chiến tranh với Trung Quốc, liên minh Washington – Bắc Kinh bao vây, cấm vận, thuyền nhân, khủng hoảng, rồi đổi mới, mở cửa, tự do hóa về kinh tế, thối nát tham nhũng tràn lan, đàn áp chính trị, khối Liên Xô sụp đổ, khấu đầu với Trung Quốc, khủng hoảng toàn diện về kinh tế, xã hội, chính trị… , cái mốc Hiệp định Paris 1973 bị đẩy xa vào quá vãng, hai trong bốn bên ký kết Hiệp định — Chính phủ cách mạng lâm thời CHMNVN và Chính phủ Việt Nam cộng hòa — đã biến mất trên bản đồ chính trị địa lý Việt Nam.
Điều đáng quan ngại, thậm chí bi thảm, là Việt Nam trở thành một dân tộc không có ký ức lịch sử, ít nhất về lịch sử một trăm năm gần đây. Thử hỏi chín mươi triệu người Việt Nam, ai muốn tìm hiểu lịch sử thế kỉ XX của nước mình, thì kiếm đâu ra sách ? Tủ sách sử học Việt Nam đã có những công trình giá trị về khảo cổ học, về thời Lý, Trần, Lê. Nhưng từ thời Nguyễn trở lại đây, tuyệt nhiên không. Cách đây hơn bốn năm, Hội sử học Việt Nam đã tổ chức hội thảo về nhà Nguyễn tại Thanh Hóa. Cho đến nay, báo chí “lề phải” vẫn không được nói tới cuộc hội thảo khoa học này, chỉ vì những mặt tích cực của nhà Nguyễn được nêu lên ở hội thảo không phù hợp với “đánh giá của Đảng về nhà Nguyễn”. Lịch sử Việt Nam thế kỉ XIX và XX là vùng cấm đối với giới sử học người Việt, là vùng “khai thác độc quyền” (nói cho chính xác : độc quyền không cho khai thác) của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng. Hệ quả của quy định này là : sách giáo khoa lịch sử chỉ sao chép những câu kinh kệ của “sử đảng”, nghĩa là một cách viết sử bóp méo, đầy lỗ hổng (chỉ cần đọc những trang “sử” ấy về ĐCS Đông Dương và Nquyễn Ái Quốc từ năm 1930 đến đầu năm 1941). Hệ quả của hệ quả : một học sinh có suy nghĩ, một độc giả có chút ít tinh thần phê phán, chỉ có thể rút ra một kết luận, là “không thể tin được” những thứ sử sách chính thống ấy (mặc dù trong đó không thiếu những khẳng định đúng đắn tuy sơ lược), và nguy hại hơn nữa, chỉ cần nhẹ dạ một chút, là sẵn sàng tin những khẳng định ngược lại. Và cứ như thế, mấy thế hệ liên tiếp đã phải ăn cháo lú lịch sử, không biết gì về những trang sử kì vĩ và đầy đau thương của dân tộc mình, những trang sử đã góp phần thúc đẩy dòng chảy của lịch sử nhân loại thế kỉ XX.
Giữa chốn mịt mù ấy, hai tập “Giải Phóng” và “Quyền Bính” của Bên Thắng Cuộc (BTC) mà nhà báo Osin Huy Đức xuất bản qua mạng đã nhanh chóng đi tới (nếu không tới mắt thì tới tai) hàng trăm ngàn, có lẽ cả triệu, người Việt Nam, từ nam chí bắc, từ Orange County đến Tokyo, Melbourne, qua Washington DC, Paris, Berlin, Moskva… với tốc độ và khả năng quảng bá của internet. Đây không phải là một công trình nghiên cứu sử học (những ai phê phán nó vì nó không phải là tác phẩm sử học, chẳng qua là cố ý đâm giáo vào cối xay gió), mà một pho sử liệu, chứng từ trung thực, phong phú, đồ sộ, mà chưa bao giờ một nhà sử học hay một nhà báo điều tra, đã thu thập, phỏng vấn, ghi chép được, liên quan tới thời gian phần tư cuối của thế kỉ XX. Đó là thời gian mà đất nước, xã hội và mỗi con người Việt Nam (còn sống) đã trải qua những đổi thay ghê gớm, sâu sắc, dư chấn của những cuộc “động đất lịch sử” ấy bây giờ vẫn chưa dứt mà vẫn còn sẽ tiếp tục. Cho nên, sự đánh giá BTC sẽ dao động giữa hai thái cực : một mặt là “ngợp” trước những thông tin chưa từng thấy hoặc rất ít người biết, mặt khác là “thất vọng” hay “mong mỏi” những tác phẩm của tác giả hay của người khác về những giai đoạn, những sự việc mà BTC chưa đề cập. Đây là tôi chỉ nói tới nhận định của người đọc muốn khách quan tiếp nhận công trình này. Còn phản ứng của độc giả, phản ứng thiện cảm (với ít nhiều bảo lưu) của tuyệt đại đa số, cũng như phản ứng Pavlov của các “dư luận viên” mà nhà nước đang huy động để “đánh Huy Đức” và của các chuyên gia “chống cộng tới chiều” đã tổ chức biểu tình ở Khu Bolsa, lại là một chủ đề khác, đối tượng của một điều tra xã hội học, mà nếu làm được, sẽ giúp chúng ta hiểu thêm rất nhiều về não trạng Việt Nam ngày nay. (xin xem bài của Hòa Vân : Bên Thắng Cuộc và dư luận).
Trong khuôn khổ bài viết ngắn này, tôi sẽ không làm được việc nào trong hai việc kể trên (nhận định về tác phẩm, phân tích phản ứng công chúng). Chỉ xin đề cập tới một vấn đề, liên quan tới Hiệp định Paris và cuốn sách BTC mà kỉ niệm 40 năm và xuất bản lại trùng hợp trong thời gian. Vấn đề ấy cũng là nền tảng cho phần lớn các cuộc tranh luận và sự mâu thuẫn giữa các lập trường. Đó là : tính chất cuộc chiến tranh Việt Nam (dù ta quy định thời gian là 1945-1975, hay 1955-1975, hay 1960-1975). Chiến tranh giải phóng, nghĩa là chiến tranh giành độc lập, thống nhất ? Hay nội chiến (Quốc Cộng) ? Hay chiến tranh ủy nhiệm (War by Proxy) nằm trong bối cảnh thế giới Chiến tranh lạnh ?
Thật ra, trong một cuộc đối thoại bình tĩnh hay khi ta bình tâm tự vấn, chắc ít ai phủ nhận một trong ba yếu tố kể trên (chiến tranh giải phóng, chiến tranh ủy nhiệm, nội chiến), nhưng khi bàn tới bản chất của từng yếu tố, và nhất là quan hệ tương tác của ba yếu tố ấy (cái nào là chính, là quyết định…) thì chắc chắn là mỗi người một ý (có khi ý kiến của một người cũng thay đổi theo thời gian). Ngày nào chưa có một cuộc thảo luận thật sự, trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau đi tìm sự thật, thì khó xác định và “khoanh” lại những khác biệt không thể hóa giải. Và chỉ có ý muốn chung là xây dựng trong sự tôn trọng khác biệt mới cho phép chúng ta vượt qua những khác biệt để đi tới tương lai.
Trong tinh thần ấy, xin nêu lên một vài suy nghĩ và nhận định, nhằm đóng góp vào cuộc thảo luận chung :
Chiến tranh giải phóng 1945-1975 ?
Giải phóng gắn liền với tự do, người chiến thắng năm 1975 lại là cộng sản, nên dễ hiểu là nhiều người dị ứng với cụm từ “chiến tranh giải phóng” mà từ khước mọi cuộc đối thoại. Chính xác phải nói “chiến tranh giải phóng dân tộc”, đối tượng của sự giải phóng là dân tộc, mục tiêu của nó là chấm dứt sự thống trị của nước ngoài. Chiến tranh giải phóng thắng lợi, dân tộc tự do, nhưng người dân không nhất thiết được tự do : điều này đã từng thấy trong nửa sau thế kỉ XX tại các nước thuộc địa, trong đó có nước ta. Phân biệt tự do cho dân tộc và tự do cho công dân, chúng ta mới bình tĩnh đọc câu nói ý nhị của Huy Đức trong lời mào đầu tập 1 : “Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975 — ngày nhiều người tin là Miền Bắc đã giải phóng Miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là Miền Bắc”. Tác giả chơi chữ, nhờ đó mà nhiều người hả hê, không ít người bực bội, nhưng đằng sau sự chơi chữ là một sự thật khó chối cãi (chỉ lấy một thí dụ cụ thể : tự do báo chí ở Sài Gòn (mặc dầu chính quyền Thiệu chuyên nghề “hốt cắt đục”) đã biến mất sau ngày 30.4.75, về sau đã nhen nhúm một chút trên báo chí cả nước, bắt đầu từ những tờ báo Thành phố như Tuổi Trẻ). Tất nhiên, điều này không liên quan tới nền độc lập dân tộc mà chúng ta cần trở lại để bàn về bản chất cuộc chiến tranh.
Có người thừa nhận rằng cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) là chiến tranh giải phóng dân tộc chống lại cuộc tái chiếm có tính chất thực dân chủ nghĩa của quân đội Pháp, nhưng cuộc chiến tranh sau 1955 là nội chiến Nam Bắc, dù không phủ nhận vai trò và sức nặng của Hoa Kỳ trong cuộc chiến này.
Cả hai vế đều có chỗ không ổn. Đúng là chiến tranh 45-54 là chiến tranh giải phóng, nhưng ta không nên quên rằng khi Điện Biên Phủ được giải phóng, hai bên chiến tuyến phần lớn là người Việt Nam : bên chiến thắng là Quân đội Nhân dân Việt Nam (có cố vấn người Trung Quốc, nhưng họ chỉ là cố vấn, và không có vai trò quyết định : ngày 25 tháng giêng 1954, khi Võ Nguyên Giáp quyết định “rút pháo ra”, ông đã cưỡng lại ý kiến của đoàn cố vấn Trung Quốc), bên thất trận 2/3 là người Việt, 1/3 người Âu Phi. Vũ khí và trang bị của bên thất trận là của Mĩ, vũ khí bên thắng trận là của Liên Xô (qua Trung Quốc), Trung Quốc và… Mĩ (hơn một nửa vũ khí thả dù sau ngày 13.3.54 rơi vào tay kháng chiến). Còn cuộc chiến tranh thứ nhì, có yếu tố nội chiến (chúng tôi sẽ phân tích ở một phần dưới), nhưng khách quan mà nói, vai trò của Hoa Kì liên tục từ 1950 đến sáng ngày 30 tháng tư 1975 không thể chối cãi là vai trò của một siêu cường, muốn quyết định số phận của Việt Nam, thông qua những chính quyền mà họ đã tạo dựng và khi cần thiết thì trừ khử, bãi bỏ hay bỏ rơi (mà Mĩ bỏ thì chỉ có rơi, không thể gì khác).
Do đó, cuộc chiến tranh 1945-1975, dù có yếu tố chiến tranh ủy quyền, chiến tranh ý thức hệ, và nội chiến, vẫn liên tục từ đầu chí cuối, là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mà mục tiêu tối hậu là độc lập dân tộc, thống nhất quốc gia. Thừa nhận điều đó không có gì sỉ nhục đối với những người ở “bên thua cuộc” nếu lí do khiến cho họ đứng bên này chiến tuyến, chống lại những người chống lại ngoại bang, là lý tưởng tự do, dân chủ thực sự, điều mà rõ ràng Đảng cộng sản Việt Nam, cho đến hôm nay, chưa hề mang lại. Phủ nhận điều đó, sợ rằng bản thân những người tuyên bố ra lời cũng không thuyết phục được chính mình, mà mãi mãi hận thù “Việt cộng cướp nước”, oán hận “Mỹ bỏ rơi”.
Nội chiến ?
Đối với quan điểm tuyên truyền “chính thống” của Đảng Cộng sản Việt Nam, “nội chiến” là một điều cấm kị. “Hai mươi năm nội chiến từng ngày”, câu hát của Trịnh Công Sơn đã khiến cho tác giả nhiều phen điêu đứng sau 1975, cho đến nay vẫn bị cấm. Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu là tay sai của Pháp và Mỹ, họ được sử dụng để phục vụ cho chính sách của Pháp, rồi của Mỹ, rồi khi nào họ không phục vụ như ý nữa, thì bị loại bỏ không thương tiếc, dù khi bị loại bỏ rồi, sẽ có những hậu quả tiêu cực ngoài ý muốn (trường hợp Ngô Đình Diệm). Điều đó khó ai phủ nhận, nhưng với bộ máy tuyên truyền, họ phải được mô tả như những tay sai đơn thuần, những con rối không xương sống. Lối tuyên truyền đơn sơ thô bạo đó sẽ phản tác dụng khi nó gặp phải những thực tế mà nó không thể lí giải. Sự kháng cự của Nguyễn Văn Thiệu trước ngày khai mạc Hội nghị Paris (cuối năm 1968, đầu năm 1969), hay cuối năm 1972, khi hai phái đoàn Lê Đức Thọ – Xuân Thủy và phái đoàn Kissinger đã đi tới thỏa thuận về văn bản Hiệp định Paris, bỗng nhiên được nhìn nhận như bằng chứng của sự “dũng cảm” (chữ dùng của Huy Đức). Tất nhiên rồi, “dũng cảm” không phải là thuộc tính độc quyền của “ông chủ” (khỏi cần kể ra đây những thí dụ về những ông chủ thiếu dũng cảm) : tay sai có thể dũng cảm phi thường khi thấy ông chủ bỏ rơi.
Nói chuyện nghiêm chỉnh hơn : ý thức hệ quả nhiên đã chia rẽ hàng ngũ những người Việt Nam mong muốn độc lập, trong đó có ý thức hệ “quốc-cộng”. Tôi để hai chữ “quốc-cộng” trong ngoặc kép, vì hai lẽ : tuyệt đại đa số, nếu không nói là tất cả, những người Việt Nam cộng sản là những người quốc gia chủ nghĩa (nhiều khi quá khích), còn trong hàng ngũ những người tự nhận hay được xếp là “quốc gia”, những người phản quốc hơi bị nhiều. Khó ngược dòng thời gian để kết án ai là người bắt đầu chạy theo ý thức hệ, bỏ quên quyền lợi quốc gia. Người chống cộng thường đổ thừa cho “chủ nghĩa cộng sản ngoại lai”, quên rằng nếu chủ nghĩa cộng sản được du nhập vào Việt Nam sau năm 1920 (khi Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp, tháng 12.1920), thì chủ nghĩa chống cộng đã được du nhập vào nước ta vài năm trước đó (ai không tin, cứ tìm đọc tạp chí Nam Phongtừ năm 1917).
Xung đột ý thức hệ và nội chiến tồn tại khi ở hai bên chiến tuyến có sự tham gia của những bộ phận quan trọng của dân tộc hay giai cấp, đẳng cấp, với những chính kiến đối chọi nhau. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ năm 1945 ở Nam Bộ và từ cuối năm 1946 trên toàn quốc, không hề có yếu tố nội chiến (mặc dầu đã có những cuộc thanh trừng, tàn sát lẫn nhau giữa các phe phái). “Nam Kỳ tự trị” năm 1946, “Quốc gia Việt Nam” năm 1948 (với lá cờ vàng ba sọc đỏ) không đại diện cho ai khác hơn là thế lực thực dân và vài nhúm chính khách bị dư luận quốc dân khinh miệt. Vậy thì nội chiến ở Việt Nam bắt đầu bao giờ và như thế nào ? Sẽ cần những công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc để làm sáng rõ vấn đề, nhưng ở đây và bây giờ, người viết bài này muốn khẳng định, với tất cả tinh thần trách nhiệm : từ chính sách mao-ít của Đảng cộng sản Việt Nam sau năm 1950.
Với chủ trương quy định thành phần giai cấp một cách thô bạo (có thể nói : lưu manh, ít nhất trong cách thực hiện) trong cuộc chỉnh huấn quân đội, chỉnh đảng, rồi cải cách ruộng đất, ĐCSVN đã đi ngược lại chính sách đoàn kết dân tộc chống thực dân đế quốc, xua đẩy sang hàng ngũ đối phương các thành phần trung phú nông, tiểu tư sản, tư sản, nhân sĩ, trí thức…
Chính đường lối “tả khuynh” theo kiểu Stalin và Mao thực hiện từ năm 1951 này đã “bưng mâm bầy cỗ” cho Mĩ một cơ sở xã hội rộng rãi mà họ chưa từng dám mơ ước : gia đình một ông quan chỉ được tiếng “chống Pháp” vì Pháp đã không chọn mà chọn người khác làm thượng thư bộ Lại, bỗng trở thành nguyên thủ một “quốc gia” với đầy đủ những thành phần xã hội thượng lưu và trung lưu mà phần lớn (nếu không nói là đa số) đều ngả về “phe kháng chiến” nhưng lại bị chính kháng chiến xua đẩy !
Trong những người, năm 1955-56 ở Sài Gòn, không thấy được điều này, may thay, có ông Ngô Đình Diệm. Với tầm nhìn bảo thủ của một ông quan xa lạ với thế kỉ XX (với cả xu hướng đổi mới của Giáo hội Công giáo dẫn tới Công đồng Vatican II), xa lạ với xã hội Việt Nam, ông tổng thống của “đệ nhất cộng hòa” đã tự cưa chân ngai vàng của mình, đàn áp những người kháng chiến, đàn áp cả những giáo hữu Nam Bộ thuộc xu hướng tự do… Ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam sở dĩ đã tập hợp được khá rộng rãi các thành phần xã hội ở miền Nam, liên kết được với phong trào Phật tử, khơi dậy được phong trào đô thị… có thể nói chính là nhờ chính sách ngu muội của các chính quyền Sài Gòn hơn là nhờ sự sáng suốt của Đảng cộng sản.
Nói như vậy có cường điệu lắm không ? Tôi chỉ xin nêu ra hai thí dụ để bảo vệ cho luận điểm này : một điều may thay không xảy ra, và một điều không may đã xảy ra. Điều không xảy ra : đầu năm 1967, đại tướng Nguyễn Chí Thanh, bí thư Trung ương cục Miền Nam, đã có chủ trương phát động “cải cách ruộng đất toàn diện và triệt để” (với ý đồ dễ đoán : phát huy sức mạnh của nông dân, chủ lực của cách mạng, chuẩn bị tổng tấn công năm 1968). Những cán bộ Ban nông thôn (xem hồi kí của ông Nguyễn Thành Thơ) và những người như ông Trần Bạch Đằng kiên quyết phản đối, Cụ Hồ gửi điện vào “can chú Thanh”, cuối cùng tướng Thanh đã từ bỏ ý nghĩ này. Một ý nghĩ rất “triệt để mao-ít”. Các nhà văn chính trị dự tưởng (politique fiction) có thể hình dung ra tình hình Việt Nam sau cuộc “cải cách ruộng đất triệt để và toàn diện” ở miền Nam năm 1967 với hơn nửa triệu quân Mĩ, Úc, New Zealand. Còn điều đã xảy ra (khi đất nước vắng bóng quân đội Mĩ) : xin mời độc giả tìm đọc những chương về “cải tạo công thương nghiệp” do ông Đỗ Mười trực tiếp tiến hành với sự ủy nhiệm của tổng bí thư Lê Duẩn, với những hệ quả như thế nào.
Chiến tranh ủy nhiệm, ý thức hệ ?
Chiến tranh Việt Nam bị lồng vào cuộc chiến tranh lạnh, đối đầu hai khối tư bản và cộng sản, diễn ra trên bình diện thế giới từ năm 1947 trở đi, là điều hiển nhiên, không cần bàn cãi. Việc tham chiến của Mĩ ở Việt Nam từ năm 1950 đến năm 1975 không có mục đích thực dân, gắn liền với sự khai thác tài nguyên của Việt Nam, điều đó cũng rõ ràng không kém. Mỹ nhảy vào Việt Nam, kiên quyết biến miền Nam thành “tiền đồn thế giới tự do” đứng trên quan điểm đối đầu quốc tế, ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản Xô-Trung mà họ coi Hồ Chí Minh là “tay sai” (“agent” của cộng sản quốc tế). Khi Robert McNamara phát hiện ra sai lầm của mình thì Hoa Kì đã thất trận. Khi Kissinger (tháng 2 năm 1973) trông thấy bốn câu thơ “Nam quốc sơn hà…” của Lý Thường Kiệt ở Viện bảo tàng lịch sử Hà Nội, thì mấy tuần trước đó, ông ta đã phải ký tắt vào Hiệp định Paris, thừa nhận “độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam” (ông ta cũng đủ dí dỏm để, đứng trước câu thơ Lý Thường Kiệt, thốt ra lời bình : “Ô, đây là điều 1 Hiệp định Paris”).
Vậy thì, về phía Mỹ, dùng Quốc gia Việt Nam, Việt Nam cộng hòa, hay ồ ạt đưa đại quân sang Việt Nam (dù ông Diệm cưỡng lại) là để đánh Liên Xô, đánh Trung Quốc. Trong ý nghĩa này, chiến tranh Việt Nam là “chiến tranh ủy nhiệm”, “chiến tranh ý thức hệ”.
Về phía đối phương, hiển nhiên, lực lượng chống Mĩ không thể đánh Mĩ nếu không có sự viện trợ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc. Và khi Việt Nam thắng Mĩ, người hưởng lợi là cả Liên Xô lẫn Trung Quốc, nhất là Trung Quốc. Điều đó cũng rõ ràng.
Sai lầm, nếu có, là nghĩ rằng chiến tranh Việt Nam do xung đột quyền lợi giữa các cường quốc, người Việt Nam (cả hai phe) là những con bài được “ủy nhiệm” để phục vụ cho quyền lợi và chịu sự chỉ huy của nước ngoài.
Điều đó đúng cho một bên, thiết tưởng không cần phải chứng minh. Nhưng lầm to, nếu nghĩ nó đúng cho cả bên kia. Các công trình nghiên cứu (ít nhất của các tác giả quốc tế) cho thấy : khi Đảng CSVN quyết định tiến hành chủ trương “bảo vệ và xây dựng miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, phải trầy trật lắm, họ mới tranh thủ được sự ủng hộ (hay đúng hơn, không phản đối) của Liên Xô, và cũng phải khôn khéo ghê gớm, họ mới làm chủ được nhịp độ, cường độ cuộc đấu tranh võ trang ở miền Nam (hơn một lần, nó không “ăn giơ” với tính toán của Mao Trạch Đông mà mục tiêu là hạ bệ Moskva và móc ngoặc với Mĩ). Ít người biết hơn, là : sau Hiệp định Paris, toàn bộ vũ khí sử dụng để đánh bại quân lực VNCH đều đã được tích lũy từ trước, Liên Xô không hề giúp thêm vũ khí thiết bị nào, còn tìm cách ngăn cản. Câu nói của Mao với Phạm Văn Đồng năm 1974 “chổi ngắn không thể quét xa” không chỉ là một lời nói suông).
Yếu tố quyết định
Giải phóng dân tộc, đương nhiên. Nội chiến, không thể chối cãi. Chiến tranh ủy nhiệm, hiển nhiên. Nhưng ba yếu tố ấy, cái nào là quyết định ? Cuộc chiến tranh 1945-75, tính chất cơ bản của nó là gì ?
Thật ra, nếu đồng ý với nhau về cả ba yếu tố, với nội dung của từng yếu tố như kể trên, thì cuộc tranh luận xem yếu tố nào quyết định, mỗi yếu tố đã tác động lên hai yếu tố kia như thế nào, cũng rất quan trọng, nhưng không ngăn cản sự thông hiểu nhau (trong sự bất đồng).
Thành thực mà nói, người viết bài muốn đưa ra một tiêu chí để xem xét sự tương tác giữa ba yếu tố. Đó là : nhìn lại lịch sử cuộc chiến tranh, từ mùa thu 1945 đến mùa xuân 1975, đâu là nơi quyết định các lựa chọn chiến lược, các biện phát tác chiến, các cuộc tổng tiến công ?
Xét từ góc độ ấy, cuộc chiến tranh đã mở đầu từ những quyết định ở Paris và Hà Nội. Khi cuộc chiến tranh lần thứ nhất kết thúc, quyết định đã được lấy từ Moskva, Bắc Kinh, Việt Bắc một bên, và từ Washington DC, London, Paris, thể hiện ở Genève ngày 21.7.1954. Còn toàn bộ cuộc chiến tranh lần thứ nhì, từ năm 1955 đến đêm 29.4.1975, hai trung tâm quyết định, và chỉ có hai trung tâm đó thôi, là Hà Nội và Washington DC.
Hiệp định Paris được ký kết tại đại sảnh đường Khách sạn Majestic sáng ngày 27 tháng giêng 1973 sau gần năm năm thương lượng, chủ yếu là giữa phái đoàn VNDCCH và phái đoàn Hoa Kỳ. Hơn một tháng sau, ngày 2 tháng 3, cũng tại phòng hội nghị đó, diễn ra Hội nghị quốc tế về Việt Nam, với ông Tổng thư ký LHQ Kurt Walheim, thêm bốn tứ cường (nghiã là đầy đủ ngũ cường đã quyết định ở Geneve năm 1954) và bốn nước thành viên của Ủy ban quốc tế giám sát. Hội nghị long trọng chỉ họp một ngày là xong, mục đích duy nhất là để tổng thư ký LHQ và 12 ngoại trưởng ký vào bản “Định ước quốc tế”, tức là đơn thuần “chứng giám” sự thỏa thuận Viêt-Mĩ. Thời Geneve, cái “thế chiến quốc” ở Genève năm 1954 đã qua rồi.
Từ Hiệp định Paris đến kết cuộc
Cần nói gì thêm sau ngày 27.1.1973 ? Trong khuôn khổ bài viết này, có lẽ chỉ cần nêu hai điểm :
Hiệp định không thể có số phận nào khác hơn là số phận hai năm sau của nó, nghĩa là mục tiêu của nó chỉ có thể thực hiện thông qua một phương thức không do nó quy định. Thật vậy, Mĩ kí kết Hiệp định chỉ cốt để có thể rút hết quân và đón hết tù binh Mĩ một cách an toàn. Một giải pháp chính trị (hai bên miền Nam thương lượng, thành lập chính phủ ba thành phần) không thể đạt được khi mà đối với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, đó là bản án tử hình chính trị. Không những thế, trong việc này, Mĩ và Thiệu thống nhất quyền lợi với nhau : một chính phủ liên hiệp, một cuộc bầu cử tự do, sự tham gia của cộng sản trong một chính quyền dân cử là một điều tối kị, ô nhục hơn cả một chiến thắng quân sự của cộng sản. Không đời nào nước Mĩ của Nixon-Kissinger chấp nhận một chính quyền “cộng sản” thành lập qua bầu cử. Không đời nào có thể để cho một Salvador Allende xuất hiện ở Dinh Độc Lập. Không phải ngẫu nhiên mà chưa đầy 8 tháng sau, Mỹ đã lật đổ tổng thống Chile và đẩy đất nước này vào một thảm họa kéo dài hơn hai thập niên. Cùng lắm, Mỹ có thể ngậm quả bồ hòn là sự sụp đổ của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu thông qua thất bại quân sự, sau một “khoảng thời gian vừa phải” (a decent interval). Hai năm, trong ngôn ngữ cynic của Kissinger, là một thời gian “decent”.
Người ta có thể phản biện : nếu chính quyền ông Thiệu chịu thi hành Hiệp định chăng nữa, nếu một chính quyền ba thành phần được thành lập đi nữa, thì chẳng chóng thì chầy, cộng sản cũng làm một cú đảo chính như ở Tiệp Khắc năm 1947 chứ sao ? Bằng chứng là, sau ngày 30.4, cứ xem cộng sản đối xử ra sao với thành phần ba, cứ xem chính sách “cải tạo” thế nào ! Lý luận này không phải không có cơ sở (ông Đỗ Mười chắc không phản đối), nhưng hơi bị yếu, ở một điểm : cái có thể sẽ xảy ra không bao giờ biện minh cho một điều đã xảy ra. Vả lại, một quá trình diễn ra trong hòa bình, trong tự do ngôn luận (tương đối) là một trường học cho mọi lực lượng trong một xã hội chưa bao giờ có dân chủ thực sự.
Vả lại, đây là một tranh cãi vô bổ. Có ích hơn, đối với mọi người Việt Nam, bất cứ ở đâu, đang gần trời hay gần đất, là : cùng nhau tìm hiểu sự thật lịch sử, nhận thức những yếu tố khách quan đã chi phối lịch sử dân tộc, ghi nhận khác biệt trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau, để tìm ra mẫu số chung. Cho một nước Việt Nam độc lập, chủ quyền, dân chủ và tự do.
Trong cuộc tìm hiểu ấy, Bên Thắng Cuộc là một đóng góp quan trọng và dũng cảm của nhà báo Huy Đức.
Berlin, 8.2.20
…………………………………….
Ghi chú: GS Nguyễn Ngọc Giao, từng là Phó Tổng thư ký Hội người Việt Nam tại Pháp, tham gia phiên dịch cho Phái đoàn VNDCCH tại Hội nghị Paris về Việt Nam.








Mùng 1 Tết năm Quý Tỵ nói về kẻ thù đất nước
Bùi Chí Vinh
Năm 1978 hồi xưa tôi đánh giặc ngoại xâm bằng súng
24 tuổi vác AK đi kiếm bọn Tàu
24 tuổi bỏ Thành Đoàn đâm đầu đi lính
Bọn Tàu vẫn còn nguyên còn tôi bị nhốt quân lao
Hồi đó tôi đa tình và hào khí ngất cao
Đọc thơ trước hàng ngàn hồng binh như tráng sĩ
3 thằng Sáu Quốc, Bảy Dũng, Hai Long cùng cắt máu ăn thề
3 thằng vất sau lưng chính trị
Năm 1979 xác Sáu Quốc ở mặt trận Kampuchea không tìm thấy
Năm 1980 Bảy Dũng vô kỷ luật ở tù
Năm 1981 tôi lãnh đủ hồ sơ loại ngũ
Giấc mộng anh hùng trở thành ác mộng đạp xích lô
Kể từ đó tôi sống bằng Thơ
Thơ tình, thơ du côn, thơ bại trận
Tôi làm thơ để trả nợ giang hồ
Trả nợ cho những thằng bị bắn
Tôi trả nợ cho những thằng bị bán
Tuổi thanh xuân bị bán giữa chợ đời
Bọn “quan chức con buôn” không một ngày cầm súng
Ngồi phòng máy lạnh hậu phương gác cẳng duyệt thơ tôi
Năm 1978 hồi xưa đốt cuốn “Sông Đông Êm Đềm” chơi
Thiêu cháy nhân vật lãng tử Grigori rồi ra trận
Cái chết xem nhẹ hơn lông hồng
Làm thơ thua xa siết cò súng
Năm nay 2013 tự nhiên mê tập bắn
Bia bắn giờ đây là bọn xâm lược cường hào
Bia bắn giờ đây là lũ tay sai bán nước
Thèm bắn một lần xuyên thấu tận ngàn sau !
Mùng 1 Tết Qúy Tỵ
Theo DL








Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
