Nguyễn Quang Lập's Blog, page 81

February 14, 2013

Quê choa thứ sáu ngày 15/2013

Cập nhật liên tục trong ngày


VM1 ‘Cần có luật về sự lãnh đạo của Đảng’


Ông Vũ Mão: “Tôi nhất trí việc trước khi dự thảo trở thành Hiến pháp chính thức phải để cho người dân phúc quyết. Dù chúng ta chưa chủ trương nhưng bây giờ làm vẫn là chưa muộn và có thể làm được. Làm việc này cũng là theo đúng tinh thần của Bác Hồ và theo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 1946 là trưng cầu ý dân về những vấn đề quan trọng và toàn bộ bản Hiến pháp. Quy định như vậy nhằm để người dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước trong việc thông qua Hiến pháp”.


imagesLời nói gói… buồn


Tối mùng 5 Tết Quý Tỵ (14-2-2013), VTV1 đưa tin Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng thăm huyện Thạch Thất (Hà Nội). Bản tin phát lại đoạn ông Trọng phát biểu trong cuộc tiếp xúc sáng cùng ngày với lãnh đạo và cán bộ Thạch Thất. 
 Nhắc lại chuyến thăm mới đây tại một số nước châu Âu, và đặc biệt là Vatican, ông Trọng cho rằng đây là một thành tích quan trọng trong đối ngoại. Ông lưu ý, đây là lần đầu tiên Vatican mời Tổng bí thư ĐCSVN thăm Vatican, và dương dương tự đắc: “mình phải như thế nào người ta mới mời chứ”(!).

373111_513382712014083_581802536_n Chiến tranh 17-2-1979-


Ngày 16-3-1979, Trung Quốc rút hết quân, cuộc chiến tranh ngắn ngủi mà Đặng Tiểu Bình tuyên bố để “dạy cho Việt Nam một bài học”, kết quả, theo các học giả phương Tây, Trung Quốc đã bị Việt Nam dạy cho bài học. Nhưng suy cho cùng thì điều quan trọng không nằm ở chỗ ai dạy mà là ai đã học được bài học từ lịch sử của mình.


anh_chinh_232 ‘Đánh cho nó biết nước Nam anh hùng có chủ’


Cách đây 224 năm, vào ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu 1789, vua Quang Trung cùng nghĩa quân Tây Sơn đã thần tốc ra Thăng Long đánh tan 29 vạn quân Thanh do Tôn Sỹ Nghị cầm đầu, làm nên chiến thắng vang dội Ngọc Hồi – Đống Đa, mở đường cho quân ta tiến thẳng vào giải phóng kinh thành Thăng Long, quét sạch quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi đất nước. Gò Đống Đa đã đi vào lịch sử như là một di tích lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam.

nghi Ai đã đẻ ra nghị Phước?


Bè bạn của ngu tôi biết tôi thích “tám”, tính tình thì bạn bảo tôi thuộc dân tàng tàng, nắng không ưa, mưa không chịu, mê mê tỉnh tỉnh nhưng hai hôm nay thì xin báo cáo tôi tỉnh ruội, nhờ nghị Hoàng Hữu Phước. Tàng, thần kinh, khùng, mát dây cỡ tôi thì chẳng là cái đinh gì so với nghị Phước tức thạc sĩ  “thương mại quốc tế–Em-Ai-Bi”(MIB–Mát-xtơ Inh in-téc-na-xô-nồn Bi-di-nét) oách chưa!


QNTuongdaiHoangSa Biển Đông ‘đánh thức’ tinh thần dân tộc của người Việt?


Mới đây, một ca sĩ mới nổi ở Việt Nam đã phải lên tiếng xin lỗi người hâm mộ sau khi vấp phải nhiều chỉ trích vì bị coi là quảng bá cho ứng dụng chat của Trung Quốc có sử dụng bản đồ hình lưỡi bò gây tranh cãi ở biển Đông. Trước đó, một người đẹp ở trong nước cũng bị ‘ném đá’ vì tuyên bố cô toàn dùng hàng Trung Quốc trong khi có nhiều lời kêu gọi tẩy chay hàng hóa của nước láng giềng phương bắc.


SDC14763 Anh em nhà nó.


Cách đây khá lâu, anh em nhà nó cũng thuộc loại “đại gia’, hùng cứ một phương và đương đầu với một “đại gia” khác. Hai đại gia này bên tám lạng, người nửa cân, tích trữ lương thực và những loại vũ khí hạng nặng sẵn sàng nếu có chiến tranh thì cùng tung ra. Thế nhưng chẳng bên nào dám mở màn chiến  tranh trước bởi họ cùng nghĩ thầm trong lòng nếu để chiến tranh xảy ra thì chẳng bên nào còn tồn tại cả và cùng bị hủy diệt.


VuDuyThong21 Thưa PGS TS Vũ Duy Thông, sức mạnh mùa xuân là sức mạnh gì?


Mình đã nghe nói nhiều về sức mạnh của Đảng, sức mạnh của nhà nước, sức mạnh của quân đội, sức mạnh của công an, sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của hệ thống chính trị, và cả sức mạnh của … thời đại, có cái hiểu, có cái thì không, nhưng còn sức mạnh mùa xuân thì quả nhiên mình chưa nghe thấy bao giờ. Mất mấy tiếng đồng hồ, mình cảm thấy thực sự bất lực, thậm chí hoang mang vì cứ loay hoay, loay hoay mà chẳng thể nào hiểu nổi cái gọi là “Sức mạnh mùa xuân” ấy là sức mạnh gì?


20130201154440_DFID-Lappin Chống tham nhũng không phải giấc mơ bất thành


Trong năm 2013, Chính phủ Việt Nam có 3 cơ hội quan trọng: Một là loại bỏ xung đột về lợi ích – chấm dứt tình trạng vừa đá bóng vừa thổi còi – để thiết lập một thể chế đối phó tham nhũng có thẩm quyền điều tra và truy tố độc lập.


Hai là tiếp tục phát huy tính minh bạch trong mọi lĩnh vực – điều mang tính quyết định đem lại sự thay đổi hữu hình và tích cực trong đời sống của nhân dân.


Thứ ba là đảm bảo phòng, chống tham nhũng luôn là trung tâm trong tất cả các luật và chính sách, mà trước mắt là sửa luật Đất đai để làm thị trường này minh bạch hơn, theo quy luật thị trường và cải thiện đời sống nhân dân.


ben-thangcuoc-huyduc-danlambaovn Đôi điều cạn nghĩ xin thưa chuyện


rong bài Từ hiệp định Paris đến “Bên thắng cuộc” tác giả Nguyễn Ngọc Giao đặt vấn đề để thảo luận: “Giải phóng dân tộc, đương nhiên. Nội chiến, không thể chối cãi. Chiến tranh ủy nhiệm, hiển nhiên. Nhưng ba yếu tố ấy, cái nào là quyết định? Cuộc chiến tranh 1945-75, tính chất cơ bản của nó là gì?”



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 14, 2013 15:03

Bức ảnh đẹp nhất ngày Valentine

66918_4821133765261_2119597079_n


Tình già thật đẹp biết bao/


Mai kia mình được phần nào hay chăng?



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 14, 2013 07:26

Sao được cho ra cái giống người!

Vũ Thị Phương Anh


Sao được cho ra cái giống người .

Sao được cho ra cái giống người


Nói là đầu Xuân thì không còn đúng nữa, vì hôm nay đã mùng 5 Tết. Mà đúng ra thì Tết chỉ có 4 ngày, 30 và mùng 1, 2, 3. Nhưng đối với tôi thì hôm nay vẫn là đầu Xuân, vì mấy ngày qua tôi không có ở nhà, mà đi xa cùng với gia đình. Và với tư cách là một người viết lách, những dòng viết đầu tiên của một năm mới dù sao cũng có chút gì đặc biệt.


Nhưng viết gì đây nhỉ? Đầu Xuân, lẽ ra phải viết những điều tốt đẹp, những mơ ước cho tương lai, nhưng trong đầu tôi lúc này lại chỉ toàn những suy nghĩ về một entry mới mà ông nghị nổi tiếng HHP viết vào ngày 30 Tết (9/2/2013). Nếu ai chưa đọc và có nhiều thì giờ thì xin vào đây (tại đây!) để đọc. Đó là một bài viết mà ông nghị Phước viết về một ông nghị khác là ông Dương Trung Quốc.


Tôi thì không biết gì về ông DTQ, cũng không có ấn tượng gì đặc biệt về ông (dù ông khá nổi tiếng với nhiều phát biểu liên quan đến những vấn đề lớn của đất nước với tư cách là nghị viên), còn những “kiến thức” mà ông Phước đã nêu trong bài viết tôi cũng không phải là chuyên gia nên sẽ không bình luận gì về nội dung bài viết ấy, nhưng cái cách mà ông Phước viết về ông DTQ quả thật tôi thấy thật khó chấp nhận.


Ví dụ, liệu có thể tin rằng một ông đại biểu quốc hội có học hành tử tế, luôn nhắc mọi người rằng mình có bằng thạc sĩ, bản thân đã từng là thầy giáo và vẫn thường xuyên nhắc lại thời gian làm nghề giáo của mình một cách tự hào, lại có thể viết được đoạn dưới đây một cách vô cùng “lưu loát” và đầy thích thú như thế này không:


Dương Trung Quốc hoàn toàn không biết rằng mại dâm bao gồm đĩ cái, đĩ đực, đĩ đồng tính nữ, đĩ đồng tính nam, và đĩ ấu nhi. Dương Trung Quốc hoàn toàn không biết rằng khi “công nhận” cái “nghề đĩ” để “quản lý” và “thu thuế”, thì phát sinh … nhu cầu phải có trường đào tạo nghề đĩ thuộc các hệ phổ thông đĩ, cao đẳng đĩ, đại học đĩ; có các giáo viên và giáo sư phân khoa đĩ; có tuyển sinh hàng năm trên toàn quốc cho phân khoa đĩ; có chương trình thực tập cho các “môn sinh” khoa đĩ; có trình luận văn tốt nghiệp đĩ trước hội đồng giảng dạy đĩ; có danh sách những người mua dâm để tuyên dương vì có công tăng thu nhập thuế trị giá gia tăng cho ngành công nghiệp đĩ; có chính sách giảm trừ chi phí công ty hay cơ quan nếu có các hóa đơn tài chính được cấp bởi các cơ sở đĩ, đặc biệt khi cơ quan dùng vé “chơi đĩ cái” tặng nam nhân viên và vé “chơi đĩ đực” cho nữ nhân viên nào ưu tú trong năm tài chính vừa qua; ban hành quy định mở doanh nghiệp cung cấp đĩ, trường dạy nghề đĩ, giá trị chứng chỉ văn bằng đĩ trên cơ sở so sánh giá trị nội địa, khu vực, hay quốc tế; và có các hướng dẫn về nội dung tờ bướm, tờ rơi, bảng quảng cáo ngoài trời, quảng cáo bên hông xe buýt và trên thân máy bay, cũng như quảng cáo online về đĩ, tập đoàn đĩ lên sàn (chứng khoán), v.v. và v.v.


Cũng vậy, liệu có thể tin rằng một đại biểu quốc hội đương nhiệm lại có thể nói về các bậc tu hành của các tôn giáo một cách phỉ báng và hỗn xược như thế này không:


Nay thiên hạ trong cơn u u minh minh tối tối sáng sáng của thời Mạt Pháp lúc tôn giáo suy đồi, sư sãi ngứa ngáy nhảy cà tưng cà tưng trên nóc ô-tô rống loa kích động chống lại chính quyền, linh mục điên loạn gào thét co giò đạp đổ vành móng ngựa giữa chốn pháp đình uy nghiêm khiến ngay ngoại bang cũng phải giật mình cười chê còn Tòa Thánh cũng buộc phải ngó lơ, chân lý lung lay, tà mỵ huyễn hoặc hoành hành dù nhấp nha nhấp nhổm rúc chui cống đấy cống này blog nọ blog kia cũng rống loa rao truyền sứ điệp …


Và cuối cùng, ai có thể chấp nhận việc một đại biểu quốc hội đương nhiệm lại có thể viết trên blog cá nhân của mình những lời vô cùng thô lỗ và xách mé về một ông nghị khác như thế này không:


Dương Trung Quốc quê quán tỉnh Bến Tre, sống ở Hà Nội, trình độ học vấn: tốt nghiệp đại học môn Sử, tự dưng có danh xưng “Nhà Sử Học” trên trời rơi xuống, không rõ do tự xưng hay do thuộc hạ tung hê, ắt do ở Việt Nam và trên thế giới chỉ có “Thạc sĩ” và “Tiến sĩ” mới được gắn học vị vào tên, chứ “tốt nghiệp đại học” (tức “Cử nhân”) hay “tốt nghiệp phổ thông” (tức “Tú tài”) thì theo quy định bất thành văn của thời hiện đại không được nêu ra kèm theo tên họ, nên tức mình đau mẩy phải áp cụm từ “nhà sử học” vào tên để cho có với người ta chăng.


Tôi không rõ ông Phước đã được chọn vào làm đại biểu quốc hội ra sao, nhưng chắc chắn là tôi đã không chọn ông ta làm đại diện cho mình. Và với những lời lẽ ông Phước viết hôm nay trên blog cá nhân để bình phẩm một người thật, việc thật, cùng là đại biểu quốc hội cùng khóa với mình, thì tôi cho rằng ông Phước đã tự chứng minh rằng hoặc ông là người có vấn đề về tâm thần, hoặc nếu không thì cũng có vấn đề về tư cách, và không xứng đáng làm đại biểu quốc hội đại diện cho người dân Việt Nam. Không hiểu có cách nào để một người dân Việt như tôi có ý kiến chính thức về việc này không nhỉ?


Tự nhiên tôi nhớ đến mấy câu thơ chúc Tết của Tú Xương


Bắt chước ai ta chúc mấy lời:

Chúc cho khắp hết ở trong đời,

Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước,

Sao được cho ra cái giống người .


Rồi lại nhớ đến mong ước của tôi cho nền giáo dục VN trong năm tới: chú trọng vào việc dạy người. Vâng, chỉ mong được như thế cho năm mới!


Theo blog AV



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 14, 2013 00:00

February 13, 2013

Thơ cho ngày Valentine

Ngô Minh
too_much_love_will_kill_you1
em có yêu không ?
lần đầu ta thầm hỏi
cỏ trả lời dưới ngón tay thon

em có yêu không ?
lần thứ hai ta hỏi
gió trả lời qua khoảng lặng im

em có yêu không?
lần thư ba ta hỏi
đêm trả lời – một ánh sao buông

em có yêu không?
suốt đời ta mãi hỏi
biển trả lời
ghềnh đá sóng tung…

2

hãy lắng nghe
bắt đầu từ tiếng khóc
ta đã sinh ra

hãy lắng nghe
gửi lại đời tiếng nấc
ta sẽ đi xa

hãy lắng nghe
những vòng quay trái đất
ngày nối đêm qua

hãy lắng nghe tiếng guốc em vào ngõ
nhịp điệu nào
vang trái tim ta?


3
em qua trong đời tôi
ta qua trong cuộc đời
hoàng hôn con sóng nhỏ
mong vỗ niềm xa khơi

tôi qua trong đời em
ta qua trong cuộc đời
chợt dừng trên cát bỏng
thương cỏ vàng chơi vơi

mong chờ nào hóa đá trên cao
sợi thừng nào xe tới mai sau
câu lý cầm tay qua đèo qua núi
nửa trái sim lòng ấm đến bạc đầu

âm vang trong lòng nhau
âm vang trong cuộc đời
là gừng cay muối mặn
đọng mỗi ngày, em ơi

4
cơn mưa dầm mùa đông cho ta
áo ướt rồi khô nhưng miền lạnh giá
chín trong đời như vị quả chua

cơn khát ran mùa hạ cho ta
giọt nước cuối con đường cát bụi
thấm trong đời như vị mật hoa

đã cho ta năm tháng đường xa
những câu thơ như vỏ sò vỏ ốc
nơi bờ bãi dập vùi lăn lóc
với tiếng em tiếng biển trong lòng…

Theo blog NM



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 13, 2013 18:24

Tai họa đến từ những người im lặng

Huy Đường


questionNăm xưa Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh từng nhiều lần nói về « sự im lặng đáng sợ » khi ông thấy phía chính quyền không có phản hồi về các ý kiến phàn nàn của công luận. Bây giờ lại là lúc nên nói về « sự im lặng đáng sợ » của phía ngược lại — tức của công luận, nhất là của giới trí thức vốn có nghĩa vụ cao quý làm người phản biện xã hội.


Nhìn lại đợt Quốc hội tổ chức lấy ý kiến của nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, có thể thấy một nửa thời gian đã trôi qua nhưng hầu như dư luận chưa đóng góp được bao nhiêu. 9 ngày nghỉ Tết Quý Tỵ cùng với nỗi lo toan về cái Tết đã lấy đi mất sự quan tâm tới công việc hệ trọng này trong ngót 2 tháng trời trước và sau Tết. Hàng ngày lướt qua các báo điện tử, mục « « Đọc nhiều nhất » thấy hầu hết mọi người chỉ quan tâm đến những chuyện sinh hoạt ăn chơi, tình dục, chuyện riêng của các « sao » làng giải trí, chẳng thấy mấy báo đăng tin về sửa đổi Hiến pháp.


Không phải các báo không nhận được ý kiến đóng góp sửa đổi Hiến pháp — phần lớn đó là những ý kiến ngược chiều — nhưng tòa soạn chỉ chọn đăng các ý kiến thuận chiều. Duy nhất có tờ Người Lao động mạnh dạn đưa tin về việc một nhóm nhân sĩ tới gặp chính quyền trao Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp, còn các báo khác đều « im lặng đáng sợ » trước tin tức này, dù cả nước ai cũng đã biết.


Gần đây nhất, Tiền phong online đăng bài  « Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực » của GS.TS Lê Hồng Hạnh, Viện trưởng Viện Khoa học Pháp lý, phê phán tình trạng nhiều đại biểu Quốc hội và chính khách chưa hiểu bản chất của Hiến pháp, chưa hiểu rằng nhân dân có quyền hiển nhiên được phúc quyết Hiến pháp. Ông Hạnh đã động chạm tới một vấn đề căn bản của quyền dân chủ : Dân mới là người trao quyền cho Nhà nước (gồm Quốc hội và Chính phủ), chứ không phải Nhà nước được trao cho nhân dân quyền này quyền nọ.


Điều 75 Hiến pháp sửa đổi sai ngay ở chỗ quy định Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp. Thực ra chỉ nhân dân mới có quyền làm Hiến pháp, cụ thể Ban Soạn thảo Hiến pháp phải do dân chọn ra từ đại biểu các tầng lớp nhân dân, các nhân sĩ trí thức có tài đức, các nhà pháp luật, nhà ngôn ngữ học. Quốc hội ta với cách đề cử và bầu cử hiện nay không thực sự đại diện cho số đông nhân dân, lại càng không thể có quyền làm Hiến pháp.


Quyền dân chủ nằm trong tay nhân dân. Nó không phải là thứ Nhà nước « lưu kho » rồi ban phát dần cho dân tùy theo tình hình dân chúng và tùy thuộc vào sự hảo tâm của mình. Thực hiện thực sự « dân chủ rộng rãi » theo Di chúc của Bác Hồ thật là việc vô cùng khó khăn. Lâu nay « dân chủ » đã trở thành một từ nhạy cảm.


Dù sao những ý kiến phát biểu như trên còn quá ít. Dư luận phổ biến trong nhân dân hiện nay cho rằng việc góp ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 chỉ là chuyện dã tràng xe cát. Ý kiến đã ít nhưng các ý kiến ngược chiều thì bị bỏ qua, không báo nào đăng. Việc Quốc hội bố trí lấy ý kiến (về Hiến pháp) vào 3 tháng trước sau Tết đã để lộ ý đồ muốn nhanh chóng kết thúc một chuyện đã rồi.


Ngay cả những người được gọi là  trí thức cũng cho rằng chẳng nên góp ý về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, vì mọi chuyện đã được « trên » thu xếp xong từ lâu. Thậm chí có người « cá » : Nhất định là Dự thảo sửa đổi Hiến pháp sẽ được « thông qua » với chút ít sửa đổi nho nhỏ mà thôi, đừng hy vọng có thay đổi gì cơ bản. Có người tâm sự : Mình cũng muốn viết bài góp ý đấy, nhưng thấy vợ bảo : « Không ai chống được Trời đâu nhé ! Tôi không mang cơm tù cho ông được đâu ! », thế là lại thôi.


Nhà báo lão thành Hữu Thọ rất thích trích dẫn câu nói ông cho là của Albert Einstein : « Tai họa không đến từ kẻ xấu mà đến từ những người im lặng ». Còn có một câu nói khác : « Im lặng là đồng ý ». Vì thế sự im lặng ấy tuy chỉ là yên phận thủ thường nhưng dù sao vẫn là một tai họa. Giáo sư Ngô Bảo Châu từng nói: “Không có phản biện, xã hội đã chết lâm sàng”. Phải chăng xã hội ta đã chết lâm sàng trong vấn đề sửa đổi Hiến pháp ?


Khi đa số im lặng trước một vấn đề quan hệ tới vận mạng của dân tộc thì đa số đó có thể mang lại tai họa cho dân tộc ! Đặc biệt khi tình trạng này xuất hiên trong giới trí thức vốn có nghĩa vụ thức tỉnh dân tộc, thì tai họa họ đem lại càng lớn và càng đáng sợ !


Theo Cùng viết hiến pháp



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 13, 2013 16:10

Quê Choa thứ năm ngày 14/2/2013

Cập nhật liên tục trong ngày


1277712861_luat 020 Vì một bản Hiến pháp của nhân dân


Để thực hiện được thì trước hết Hiến pháp phải quy định rõ về những vấn đề, chủ trương, quyết sách nào phải đưa ra trưng cầu ý dân. Do đó quy trình trưng cầu ý dân phải được luật hóa. Biểu tình cũng vậy, là một hình thức dân chủ trực tiếp để người dân biểu lộ chính kiến của mình (ủng hộ hoặc phản đối) với những chủ trương hoặc để giải quyết một tình hình đặc biệt của đất nước. Tôi cho rằng trong hoàn cảnh hiện nay, chúng ta hoàn toàn có thể đặt ra và đưa những quy định như vậy vào cuộc sống và thực hiện thì chỉ có tốt mà thôi. Nếu không những ấm ức, bức xúc của người dân sẽ bị dồn nén lại, trở thành nguy cơ rất lớn cho sự bất ổn của đất nước.


48167_486889628014625_1396071495_n Đèn lồng đỏ sao vàng


Cứ thắc mắc suốt: Sao những người sản xuất đèn lồng ở Việt Nam không sản xuất loại đèn đặc trưng, giá rẻ và chất lượng để đuổi cổ đèn lồng Trung Quốc đỏ vàng như thể nhà thổ, tuyên truyền những câu chữ sặc mùi chính trị kích động, khỏi những căn nhà – hè phố?”…


Câu hỏi đã được giải đáp khi chạy dọc QL5, đến Trạm Thu phí số 2 (xã An Hưng, huyện An Hải và phường Quán Toan, quận Hồng Bàng, TP. Hải Phòng), gặp những ngôi nhà cũng đỏ rực đèn lồng, nhưng tịnh không 1 chữ Tàu mà vàng chói ngôi sao 5 cánh trên nền đỏ…


dat-cau-hoi Làm sao cho người Việt tin nhau?


Khi bản hợp đồng đạo lý của xã hội bị xé rồi, rất khó tái lập. Phá nó dễ, xây dựng lại rất khó. Nhưng không phải vì khó mà chúng ta không bắt đầu ngay. Phải thiết lập một chế độ tự do dân chủ, quyền tư pháp độc lập, xã hội công dân phát triển, mọi người có quyền tự do hội họp, tự do phát biểu. Cứ như thế, trong một vài thế hệ, sẽ không ai cần đặt câu hỏi: Tại sao người Việt không tin nhau?


130125161008_vietnam_philippines_304x304_getty


Lần đầu tiên Việt Nam đã có phản ứng chính thức về việc Manila đưa Trung Quốc ra Tòa trọng tài quốc tế để phân xử về yêu sách đường chín đoạn của nước này trên Biển Đông.


 Tuy nhiên, phản ứng chính thức của Việt Nam không phải do người phát ngôn Bộ Ngoại giao đưa ra như thông lệ mà là phát biểu của một vị cấp phó của Ủy ban biên giới quốc gia vốn cũng là một cơ quan thuộc Bộ Ngoại giao.


120924152328_dieucay_304x171_vtv_nocreditKêu gọi trả tự do cho các cây viết mạng


Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam vừa đưa ra danh sách 32 công dân mạng bị tạm giữ hay tù đày và kêu gọi thả họ vô điều kiện.


 Ủy ban này, vốn là thành viên của Hiệp hội Quyền con Người Quốc tế, nói án tù cho những người dùng mạng internet để bảy tỏ chính kiến ở mức từ hai tới 16 năm tù giam.


Họ nói chỉ riêng từ tháng 1/2012 tới tháng 1/2013, 22 blogger và công dân mạng đã bị kết án tổng cộng 133 năm tù và 65 năm quản chế.


090424012409_hoangsamap_466


Khu vực biển quần đảo Hoàng Sa “chưa cho thấy có khám phá dầu mỏ, khí và cũng chưa thấy có dấu hiệu tài nguyên dự trữ nào”, theo báo cáo đầu năm 2013 của Cơ quan Quản lý Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ (EIA). Báo cáo cũng viết, “các bằng chứng cho thấy phần lớn tài nguyên tập trung ở bãi Cỏ Rong phía Đông Bắc quần đảo Trường Sa”, khu vực mà cả Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam cùng tuyên bố chủ quyền.


 Chứng cứ địa chất cho thấy khu vực quần đảo Hoàng Sa “cũng không có tiềm năng rõ ràng nào về khí hydrocarbon”.


h319Ðòi cho bằng được tự do, công bằng, quyền căn bản của con người không thể xem là một cái tội”


Khi đã biết nhiều người bị kết án tù chỉ vì họ lên tiếng phản đối chế độ, thì tôi mới hiểu câu nói: “Ðòi cho bằng được tự do, công bằng, quyền căn bản của con người không thể xem là một cái tội”


Tôi không được vinh dự biết đến những con người mà dưới mắt chính quyền họ là những tội đồ, nhưng trong con mắt của nhiều người khác (trong đó có tôi) thì họ là những con người cấp tiến. Họ đã không chịu khom lưng quỳ gối, sẵn sàng đánh đổi tự do của mình cho một tương lai tươi đẹp hơn cho nhiều người. Trong số họ, có người vẫn trong ngục tù, có người đã mãn hạn, và tôi luôn dành cho họ một sự cảm phục, mến thương.


2012-03-04 vnhsts.blogspot.com - Cuộc Chiến Biên Giới Việt-Trung 2-1979 7 Thần chiến thắng


NGÀY MƯỜI BẢY THÁNG HAI này, ba mươi tư năm đã trôi qua – thời gian đúng bằng ba cuộc chiến tranh trước đó, nhưng dư âm cuộc chiến biên giới Việt – Trung, dù ngắn ngủi song hết sức ác liệt, vẫn còn day dứt mãi trong lòng người VN. Cho dù ai đó muốn lãng quên nó đi hòng xóa nhòa mọi dấu vết cuộc chiến, bởi “lãng quên đâu có màu” nhưng lịch sử thì không quên, dân chúng VN càng không thể quên – ngay trong những ngày đầu xuân này.


questionmark10 Đảng viên, dân chúng quyền gì? Đành bó tay!


Tự diễn biến ngay trong nội bộ, tự mình làm đảng tan rã là nó phải tan rã, kêu dân, kêu đảng viên cứu? Khi có nguy cơ, góp ý xây dựng không thèm nghe, lại bị quy chụp chống đối. Đến lúc xảy ra “biến” rồi thì hô cứu. Cứu thế nào được? Vô lý ầm ầm. Khoanh tay à? Có mà bó tay



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 13, 2013 15:54

Phản biện và trí thức trùm chăn

Phạm Xuân Nguyên


pxnguyen-05Tạo Hóa cho con người ta không ai giống ai, khác nhau cả về hình dáng, tâm tính, suy nghĩ. Do vậy, trước mỗi sự kiện, hiện tượng, vấn đề có những cách nhìn nhận khác nhau, có những ý kiến khác nhau là chuyện thường, có thể nói đó là một bản tính tự nhiên. Tự nhiên mà giống nhau cả thì còn gì là tự nhiên.


Và khi con người hợp thành xã hội thì lại lẽ tự nhiên là không có một vấn đề xã hội nào được đồng thuận tuyệt đối, được đồng thuận ngay từ đầu, mà luôn phải chịu sự tranh luận, xem xét, xoay ngang đảo ngược, tóm lại là phải chịu sự “phản biện” của mọi thành phần xã hội. Trí thức là thành phần xã hội có tri thức và hiểu biết, có năng lực nhận thức và xét đoán khoa học, có tính cách độc lập và tư cách phát ngôn.


Hai chữ “phản biện” dùng cho trí thức là đúng lắm. Phản biện đây là theo tinh thần hoài nghi khoa học trước mọi vấn đề, là chỉ tin khi đã được thuyết phục bằng lý tính, là tranh luận bàn bạc trong không khí tự do dân chủ thực sự để cùng nhau tìm ra sự thật và chân lý. Phản biện là bác bỏ để chấp nhận, không phải là “nói ngược” cho sướng miệng, cho hả tức giận, càng không phải là để tạo cớ nổi tiếng. Phản biện đúng là một vai trò quan trọng, không thể thiếu của trí thức, cả trong lĩnh vực chuyên môn và cả trong các vấn đề xã hội.

Tên gọi “trí thức trùm chăn” không phải bây giờ mới có. Nó là để chỉ một bộ phận trí thức quay lưng lại thực tại xã hội, nhắm mắt bịt tai trước những vấn đề bức xúc, cấp thiết của nhân quần, chỉ quẩn quanh trong tháp ngà khoa học, cho rằng mình chỉ cần làm tốt công việc chuyên môn là đủ, không cần dính dáng gì đến chính trị, thời sự. Loại trí thức này thường bộc lộ vào những thời điểm lịch sử có nhiều biến động lớn, trong các phong trào cách mạng xã hội sôi động, khi cần tiếng nói và hành động của tầng lớp trí thức như những phần tử tinh hoa của xã hội thúc đẩy sự vận động của đời sống theo hướng tích cực.


Nhưng ngay cả vào những thời điểm quyết liệt, khủng hoảng nhất, bộ phận “trí thức trùm chăn” vẫn không phải là tiêu biểu, vẫn có nhiều trí thức dám dấn thân và xả thân cho đất nước. Thành công của cách mạng và kháng chiến ở nước ta hơn nửa thế kỷ qua là có phần đóng góp quan trọng của các trí thức dấn thân đó. Đáng buồn hiện nay “trí thức trùm chăn” như có vẻ nhiều lên, hoặc không thì cũng là “số đông im lặng”, thụ động. Nguyên nhân có cả ở tư cách “kẻ sĩ” của trí thức ngày nay yếu ớt và cả ở một xã hội dễ trùm chăn ru ngủ trí thức.

Sự xuất hiện của hai từ “phản biện” không chỉ trong lời lẽ thông thường mà cả trong các văn kiện chính trị cho thấy giới trí thức, ở những đại diện dũng cảm của mình, đã không cam chịu đánh mất vai trò như đã nói trên của mình. Họ lên tiếng tại nhiều diễn đàn công khai và chính thức, họ viết các kiến nghị, các tâm thư, các yêu cầu gửi các cấp chính quyền, họ viết báo viết mạng bày tỏ ý kiến chính kiến của mình, tất cả đều căn cứ vào một điều hiến định là “tự do tư tưởng, tự do ngôn luận”. Xã hội đã quen dần và chính quyền đã chịu dần sự phản biện của trí thức. Tuy nhiên, để nói tới một phong trào phản biện sôi nổi, nghiêm túc, có người nói và người nghe, có phản và có biện, nói thẳng và nói thật, tiếp thu và trao đổi, bình đẳng và khách quan, thì quả thực những người trí thức dũng cảm vẫn đang là đơn độc.


Trí thức thụ vốn tự bản chất không hèn, nhưng có một cái sợ khiến họ phải hèn, hoặc tự làm hèn. Kể ra trí thức bị hèn vì sợ thì không còn là trí thức đúng nghĩa nữa. Nhưng vậy thì đội ngũ trí thức bao năm qua xây dựng mà không đúng nghĩa là trí thức thì lỗi do đâu? Câu hỏi này tôi nghĩ cần phải được phản biện mạnh mẽ. Dịp này cả nước đang thảo luận góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, một điều tôi muốn đề xuất là: những gì đã được hiến định (như quyền biểu tình, quyền lập hội, quyền tự do tư tưởng, ngôn luận) thì phải nhanh chóng cụ thể hóa thành luật để nhà nước và nhân dân thi hành, và không ai được có quyền vi hiến. Khi đó tôi tin phản biện xã hội của mọi tầng lớp nhân dân, nhất là của giới trí thức, sẽ là một công cụ đắc lực phát triển xã hội.


Theo blog ĐT



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 13, 2013 06:10

Hãy xem hãy mở mắt ra và cấm kêu la

NGUYỄN  TẤN  CỨ


mcGiả đối gần như thường trực trên những phương tiện truyền thông

Những món ăn bội thực nhàm chán lây nhây trớ tráo đến lợm người

Những khuôn mặt dưa hành không thể dưa hành hơn vì quá chán ngán

Những nhan sắc không thể nào dâm đãng hơn

không thể dày mặt vì quá gợi tình


Như một thứ bánh chưng truyền hình trên Ti vi

Cùng với nhiều nhát cắt dọc ngang

đang được trưng bày trên mâm com ngày tết

Đang được trình diễn bởi những kẻ buôn dưa lê

Có nghề đã được mài dao quanh năm không bao giờ ngơi nghĩ

Như một gánh hát sơn đông đang phèn la giữa đình làng quê mộc

Như một mớ thuốc cao đơn đang hoàn tán hát ca

Cho một đàn cừu cô đơn đang nằm bệnh

Chờ mong được lột da chăn dắt suốt cuộc đời


Giả dối gần như là tự nhiên bởi những live show ghi hình cực Net

Những cuộc trực tiếp thâu đêm trên những sân khấu Truyền hình

Những cuộc đối thoại triền miên ngu ngu nhạt phèo như củ kiệu

Những xuất hiện để lấy tiếng lên gân không cần ai phải biết

Cũng không cần ai phải ghé mắt xem

Vì đã phải cùng nhau tung hứng ngất trời


Các bạn cứ việc xem thoải mái và quên đi

những cơn đau sau một mùa ăn chơi lút cán

Hãy cứ ruổi rong cùng với Phóng viên chúng tôi

Trên những cung đường hoang sơ của núi rừng từ Nam chí Bắc

Chúng tôi phục dựng lên những cuộc chơi của những ngày xưa

Cùng với những màn hát ca cồng chiêng giữa núi rừng giá lạnh

Chúng tôi là những kẻ đem niềm vui lãng quên

cho những âu lo đang đè nặng đất Nước nầy


Hãy cùng với chúng tôi

những Game Show tràn ngập

Những chương trình rất công phu

được đổi màu như tắc kè thay áo

Hãy xem hãy mở mắt ra cấm kêu la

Hãy quên đi những tiếng rên than

của những cánh đồng Nông Dân đang kêu thét

Hãy cùng với chúng tôi vui xuân và quên hết

Nhưng âm mưu đang ngày đêm rình rập

trên Biển Đông từng phút từng ngày…


Theo blog HNC, đầu đề của QC



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 13, 2013 00:40

February 12, 2013

Lê Khả Phiêu & Bill Clinton

Nguyễn Ngọc Chính

Tổng thống Clinton bắt tay người dân Hà Nội

Tổng thống Clinton bắt tay người dân Hà Nội


Sen tàn cúc lại nở hoa



Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân
 
Hai câu Kiều của Nguyễn Du chắc hẳn một số người Việt Nam cũng không biết đến. Thế nhưng, câu thơ đó đã được Tổng thống Bill Clinton trích dẫn trong bài phát biểu tại bữa tiệc chiêu đãi quốc khách của Chủ tịch nước Trần Đức Lương nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam từ ngày 17 đến 19/11/2000 .

Theo tôi, quả là một thiếu sót lớn khi trong cuốn Bên Thắng Cuộc Huy Đức không nói đến những chi tiết bên lề chuyến viếng thăm lịch sử của ông Clinton, vị Tổng thống thứ 42 của Hoa Kỳ (1993-2001) tại Hà Nội và Sài Gòn.
 
Tổng thống Clinton đã thi vị hóa mối bang giao Hoa Kỳ – Việt Nam qua thơ Kiều, ông ví von: “Những hình ảnh băng giá của quá khứ đã bắt đầu tan và những phác thảo về nột tương lai ấm áp chung đã bắt đầu hình thành. Chúng ta hãy cùng nhau tận hưởng mùa xuân mới”
 
Không chỉ “lẩy” Kiều, bài diễn văn của Clinton còn khiến cử tọa ngạc nhiên vì sự hiểu biết khá sâu sắc của ông về văn chương và lịch sử Việt Nam. Ông nhắc đến Nguyễn Trãi như “nhà chính trị người Việt vĩ đại” (the great Vietnamese statesman) của hơn 500 năm về trước để dẫn ý “sau những năm chiến tranh, chỉ có cuộc sống là tồn tại” (after so many years of war, only life remains).
 
Clinton còn nhắc đến Hồ Xuân Hương nhân sự kiện cuốn sách Những bài thơ 200 năm tuổi về bà vừa được xuất bản tại Hoa Kỳ bằng tiếng Anh, tiếng Việt và thậm chí cả bằng nguyên bản chữ Nôm. Ông cũng nói đến hiện tượng chiếc áo dài truyền thống Việt Nam đã là nguồn cảm hứng cho các nhà thiết kế thời trang nổi tiếng thế giới như Armani và Calvin Klein.

Điều mà hầu hết báo chí quốc tế chú ý đến cuộc viếng thăm Việt Nam của Tổng thống Clinton là những bài diễn văn của ông. Trong buổi nói chuyện với các sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội, ngày 17/11/2000, được truyền hình trực tiếp, ông đã mở đầu bằng những lời lẽ thân mật:
 
“… I was given a Vietnamese phrase; I am going to try to say it. If I mess it up, feel free to laugh at me: Xin chào các bạn!” (Tôi được dạy một câu tiếng Việt, tôi sẽ cố gắng nói câu đó, các bạn cứ cười thoải mái nếu tôi nói sai: Xin chào các bạn). Quả nhiên sinh viên cười và vỗ tay. Họ cười có lẽ vì được nghe tiếng Việt lơ lớ của ông nhưng họ vỗ tay vì cảm thấy hãnh diện khi một vị Tổng thống Hoa Kỳ lần đầu tiên nói tiếng Việt.
 
Clinton cũng tạo được sự gần gũi với giới trẻ khi ông nhắc đến Trần Hiếu Ngân, nữ vận động viên Taekwondo, huy chương bạc Olympic Sydney 2000, và cũng là người Việt Nam đầu tiên đoạt huy chương tại Thế vận hội. Ông còn nhắc đến các cầu thủ nổi tiếng của Việt Nam: Lê Huỳnh Đức và Nguyễn Hồng Sơn.
 
Phải nói tài hùng biện của Bill Clinton đã chinh phục cảm tình của cử tọa. Lúc thì dí dỏm, khi lại rất nghiêm trang. Nhắc lại lời của Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, Pete Peterson, về chuyện quá khứ và tương lai của mối bang giao Việt Nam và Hoa Kỳ, ông nói: “We cannot change the past. What we can change is the future” (Chúng ta không thể thay đổi quá khứ. Điều mà chúng ta có thể thay đổi là tương lai).
 
Tạp chí Newsweek, ngày 27/11/2000, bình luận: “Getting over the past and making history seem to be the two things on Clinton’s agenda these days” (Vượt qua quá khứ và tạo nên lịch sử là hai điều trong chương trình hành động của ông Clinton trong thời gian này).
 

Hillary Clinton và con gái Chelsea với chiếc nón lá Việt Nam

Hillary Clinton và con gái Chelsea với chiếc nón lá Việt Nam


Newsweek ám chỉ thời gian ngắn ngủi trước khi nhiệm kỳ của ông Clinton chấm dứt vào năm 2001 mà tiếng Anh gọi là thời kỳ “lame duck” (vịt què). Nội các “vịt què” (lame-duck cabinet) của ông sẽ bàn giao vào ngày 20/01/2001, chỉ hơn 2 tháng sau chuyến thăm Việt Nam.




Bên Thắng Cuộc (Phần II, Chương 20: Lê Khả Phiêu và ba ông cố vấn) nói đến cuộc viếng thăm chính thức của Bill Clinton dưới một cách nhìn khác. Theo Huy Đức, có hai thái độ đón tiếp trái ngược nhau: trong khi giới lãnh đạo dè dặt, chừng mực trong các nghi lễ tiếp đón thì người dân Việt lại đón Clinton một cách thân thiện, cởi mở.
 
“Bill Clinton và tùy tùng tới sân bay Nội Bài lúc 11 giờ đêm ngày 16/11/2000. Điều ngạc nhiên là vị tổng thống của quốc gia mà chính quyền đang coi như kẻ thù lại được hàng ngàn người dân Hà Nội và các địa phương lân cận đứng chờ trong đêm lạnh dọc hai bên đường cao tốc Thăng Long – Nội Bài.
 
Dường như cảm kích trước sự chào đón đó, Tổng thống Clinton đã bật đèn trong khoang xe của mình để vẫy tay đáp trả người dân Hà Nội. Dân chúng cũng đã chen chúc đến khu Văn Miếu để nhìn thấy Bill Clinton. Hai hôm sau, khi rời Hà Nội đến Sài Gòn cũng vào lúc mười một giờ đêm, Bill Clinton lại được người dân đứng chờ và reo hò khi thấy ông xuất hiện từ sân bay Tân Sơn Nhất.
 
Trong khi đó, Bộ Chính trị đã phải tính đến từng nụ cười, cái bắt khi đón vợ chồng Tổng thống Mỹ. Thủ tướng Phan Văn Khải kể, khi tiếp Clinton, ông đã không cười và bàn tay  thì chỉ đưa ra nhẹ mà không nắm lại. Ông Nguyễn Đức Hòa, trợ lý của ông hỏi: “Người ta đã sang tận đây, tiếc gì anh không nở một nụ cười với họ?”. Ông Khải nói: “Không được đâu mày ơi, Bộ Chính trị đã thống nhất là không được cười”
 
Trước đó vào tháng 6/2005, Thủ tướng Phan Văn Khải trở thành nhà lãnh đạo Cộng sản đầu tiên thăm chính thức Washington. Chuyến đi của ông Khải gây chú ý đặc biệt và người ta không khỏi bàn tán khi trước báo giới, ngồi bên cạnh một ông Bush đầy tự tin, ông Khải tỏ vẻ bối rối, tay cầm tờ giấy để trả lời báo chí.
 

Ông Khải thừa nhận: “Quan hệ với Mỹ dễ dàng hơn nhiều so với Trung Quốc. Tôi hội đàm hết sức thoải mái với Tổng thống G. W. Bush và Bill Clinton trước đây nhưng đúng là tôi ngại báo chí. Chỉ cần báo chí đưa không đúng một câu nói của mình thì sẽ có vấn đề ngay với Bộ chính trị. Sang Mỹ nhưng thực ra chúng tôi phải lo đối nội nhiều hơn đối ngoại”.




Cuộc nói chuyện của Clinton với sinh viên cũng được Bên Thắng Cuộc kể lại theo hướng khác: “Một ngày trước khi Tổng thống Bill Clinton nói chuyện với sinh viên ở trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Tướng Nguyễn Chí Trung, trợ lý của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã mấy lần xuống “quán triệt” với Ban Giám đốc các nghi thức, khi nào thì đứng dậy, khi nào vỗ tay… Thay vì theo kịch bản, sinh viên đã vỗ tay gần như liên tục ở các đoạn đầu”.
 
Clinton nói với sinh viên Việt Nam: “Theo kinh nghiệm của chúng tôi, giới trẻ sẽ có nhiều niềm tin hơn vào tương lai nếu họ có tiếng nói trong việc định hướng tương lai, trong việc lựa chọn các nhà lãnh đạo chính phủ của họ và có một chính phủ có trách nhiệm đối với những người dân mà chính phủ phục vụ”.
 
Mặc dù nhấn mạnh “chúng tôi không tìm cách và cũng không thể áp đặt những ý tưởng này”, Bill Cliton giải thích: “Chỉ có các bạn mới quyết định xem có nên chăng tiếp tục mở cửa thị trường, mở cửa xã hội của mình và củng cố nền pháp trị. Chỉ có các bạn mới quyết định liên kết như thế nào giữa tự do cá nhân và nhân quyền trên nền tảng giàu mạnh của bản sắc quốc gia Việt Nam”.
 

Bill Clinton chụp hình kỷ niệm với nhân viên Phở 2000

Bill Clinton chụp hình kỷ niệm với nhân viên Phở 2000


Diễn văn của Clinton cũng dẫn thêm một câu chuyện mà ít người biết đến: hơn 200 năm trước, Thomas Jefferson đã cố gắng để đưa các giống lúa Việt Nam về trồng trong trang trại của ông ở Virginia. Jefferson là tác giả của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 của nước Mỹ. Bản tuyên ngôn mà Clinton nói là đã “vang vọng trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập 1945” của Việt Nam.



 
Bill Clinton cũng nhắc đến bức tường bằng đá màu đen Vietnam Veterans Memorial tại Washington D.C, nơi ghi tên những người Mỹ chết trong chiến tranh Việt Nam. Ông nhắc đến điều mà các cựu binh Mỹ gọi là “mặt sau của bức tường”, đó là “sự hy sinh lớn lao” (staggering sacrifice) của ba triệu người Việt Nam thuộc hai miền Nam – Bắc.

Cuối buổi chiều 18/11/2000, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu chào đón Tổng thống Bill Clinton bằng một bài phát biểu dài. Sau lời mở đầu theo thủ tục, ông Lê Khả Phiêu bắt đầu bày tỏ chính kiến của mình:
 
“Tôi đồng ý với Ngài là chúng ta không quên quá khứ, không làm lại được quá khứ. Vấn đề quan trọng là hiểu cho đúng thực chất cái quá khứ ấy. Cụ thể là hiểu cho đúng thực chất cuộc kháng chiến chống xâm lược mà chúng tôi đã phải tiến hành…
 
Việt Nam có đem quân đi đánh Hoa Kỳ đâu mà Hoa Kỳ lại đem quân sang đánh Việt Nam? Cuộc kháng chiến chống xâm lược của chúng tôi là giành độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc và đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cho nên đối với chúng tôi, quá khứ không phải trang sử đen tối, đau buồn và bất hạnh”.
 
Ông Lê Khả Phiêu nói tiếp: “Bà bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ trong một lần gặp tôi có hỏi: chủ nghĩa xã hội có tồn tại được không? Tôi nói: không những tồn tại mà chủ nghĩa xã hội sẽ tiếp tục phát triển thắng lợi…
 
Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước, quan hệ thương mại với hơn 150 nước. Đảng chúng tôi có quan hệ với hơn 180 đảng cộng sản, cánh tả, đảng cầm quyền… Trong quan hệ quốc tế ngày nay, mọi quốc gia, dân tộc đều cần hợp tác để cùng phát triển. Chúng tôi tôn trọng sự lựa chọn, cách sống và chế độ chính trị của các dân tộc. Chúng tôi cũng đòi hỏi các nước tôn trọng chế độ chính trị, sự lựa chọn của dân tộc chúng tôi”.
 
Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu kết thúc bài phát biểu “chào mừng” tổng thống đầu tiên của nước Mỹ đến Văn phòng Trung ương Đảng: “Chúng tôi quý trọng nhân dân Mỹ, cảm ơn nhân dân Mỹ đã ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Thấy hình ảnh cháu Chelsea, tôi chạnh nhớ cháu Emily  con gái của Morrison  và mẹ cháu cũng đã từng sang thăm Việt Nam. Đó là biểu tượng đẹp của tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước”.

Phát biểu đáp từ của Bill Clinton được lược thuật trên báo Nhân Dân ngày 19/11/2000: “Về cuộc chiến tranh ở Việt Nam, nhiều người ở Hoa Kỳ không nhất trí với nhau về chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ và về bản chất cuộc chiến tranh. Nhiều người, trong đó có Đại sứ Peterson của chúng tôi, đã tưởng rằng họ sang chiến đấu để giúp cho người Việt Nam được tự do và tự quyết. Ngày nay, tôi thấy rất thú vị là đã có một nước Việt Nam thống nhất và tiến bộ”.
 
Sau này, trong cuốn hồi ký My Life, Bill Clinton viết: “Lê Khả Phiêu cố gắng sử dụng hành động phản đối chiến tranh Việt Nam của tôi để cáo buộc những gì Mỹ đã làm là hành vi đế quốc. Tôi đã rất giận dữ nhất là khi ông ta nói vậy trước sự có mặt của Đại sứ Pete Peterson, một người đã từng là tù binh chiến tranh.
 
Tôi nói với nhà lãnh đạo Việt Nam rằng khi tôi không tán thành các chính sách đối với Việt Nam, những người theo đuổi nó cũng không phải là đế quốc hay thực dân, mà là những người tốt chiến đấu chống cộng sản. Tôi chỉ Pete và nói, ông đại sứ không ngồi sáu năm rưỡi trong nhà tù ‘Hà Nội Hilton’ vì muốn thực dân hóa Việt Nam”


Ông Phan Văn Khải nhớ lại: “Ông Phiêu nói như thời chiến tranh làm cho họ [người Mỹ] rất khó chịu. Ông ấy muốn tỏ rõ thái độ của một chính quyền cộng sản. Nhưng, ông Phiêu không hiểu tình hình thế giới giờ đây đã khác. Phe xã hội chủ nghĩa đã tan rã. Vấn đề là mối quan hệ giữa hai quốc gia, chúng ta cần Mỹ. Nếu người Mỹ không vào thì những công ty lớn trên thế giới không có ai vào cả”.
 

Theo Tổng thống Bill Clinton, giữa ông và Thủ tướng Phan Văn Khải đã xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp trong lần gặp ở Auckland (New Zealand), khi đó ông Khải cũng nói là ông cảm kích trước việc Bill Clinton đã từng phản đối chiến tranh Việt Nam. Clinton nhớ lại: “Khi tôi nói: những người Mỹ phản đối hay ủng hộ cuộc chiến tranh đó đều là người tốt. Ông Khải nói: tôi hiểu”.




Cũng trong cuốn hồi ký My Life, Clinton đưa ra nhận xét, dường như những người mà ông gặp ở Việt Nam, chức vụ càng cao thì ngôn ngữ càng “sặc mùi” cộng sản theo kiểu cũ. Ông mô tả chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh: “Võ Viết Thanh ăn nói như những thị trưởng năng nổ ở Mỹ mà tôi biết. Ông khoe về việc cân đối ngân sách, cắt giảm chi tiêu, và nỗ lực lôi kéo thêm các nhà đầu tư nước ngoài”. Đối với Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Bill Clinton nhận xét: “Chỉ kém giáo điều hơn Lê Khả Phiêu một chút”.
 

Tác giả Huy Đức cho rằng ông Phiêu có “lý do đối nội” khi cố tình làm mất lòng Bill Clinton chỉ vì muốn được lòng các nhân vật khác trong nội bộ Đảng Cộng sản. Nhưng sau này, điều oái ăm đã xảy ra, chính những người mà ông nghĩ sẽ hài lòng với thái độ cứng rắn trước Tổng thống Mỹ lại sử dụng điều đó để chống lại ông.




Vào Sài Gòn, Tổng thống Clinton đã nói chuyện với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam tại Cảng Container Quốc tế (Vietnam International Container Terminals – VICT), một liên doanh giữa Singapore và Việt Nam. Ông lên tiếng ca ngợi những tiến bộ tích cực trong công cuộc đổi mới về kinh tế và xã hội của Việt Nam trong thập niên vừa qua.
 
Theo Clinton, Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ sẽ tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư đến Việt Nam nhiều hơn. Ông tuyên bố chính phủ Hoa Kỳ sẽ dành một khoản tín dụng 200 triệu đô-la để hỗ trợ các dự án đầu tư của Mỹ vào Việt Nam.
 
Nhân dịp này, Clinton cũng đề cao vai trò của những người Việt tại nước ngoài. Theo ông, họ đầu tư vào Việt Nam không những bằng tiền bạc mà còn với cả tấm lòng. Nước Mỹ vui mừng khi giúp họ trở về làm ăn, cũng xin cám ơn chính phủ và nhân dân Việt Nam đã chào đón họ tại quê nhà.
 
Và có lẽ cũng để ủng hộ việc kinh doanh của người Mỹ gốc Việt tại Sài Gòn, Tổng thống Bill Clinton, phu nhân Hillary, con gái Chelsea cùng đoàn tùy tùng đã dùng bữa trưa tại Phở 2000, góc đường Lê Lai, bên hông chợ Bến Thành. Đây là mạng lưới các tiệm Phở 2000 tại Sài Gòn do Alain Huỳnh Trung Tấn từ Hoa Kỳ về kinh doanh. Kể từ đó, Phở 2000 có thêm khẩu hiệu “Phở for the President”.
Theo blog NNC








 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 12, 2013 18:50

Bên Thắng Cuộc: Một cuốn sách hay-2

Nguyễn Hưng Quốc


ben-thangcuoc-huyduc-danlambaovnVề thể loại của Bên Thắng Cuộc, có hai khía cạnh cần chú ý: phương pháp nghiên cứu và cách trình bày.

  Về phương pháp, Huy Đức thu thập tài liệu chủ yếu qua các cuộc phỏng vấn, “hàng ngàn cuộc phỏng vấn”, một phương pháp gắn liền với ngành khẩu sử (oral history), một lối viết thịnh hành ở Tây phương từ khoảng cuối thập niên 1960, và trở thành một ngành học ở các đại học Tây phương từ cuối thế kỷ 20. Khẩu sử khác lịch sử. Khác, trước hết, ở nguồn tài liệu: với lịch sử, chủ yếu là các văn bản viết; với khẩu sử, chủ yếu là các lời kể của những người trong cuộc hoặc chứng nhân được thu thập qua các cuộc phỏng vấn. Khác nữa, ở đối tượng: với lịch sử, đó là các tài liệu lịch sử, nói cách khác, lịch sử là lịch sử trên lịch sử; với khẩu sử, đó là ký ức, hoặc ký ức cá nhân hoặc ký ức tập thể. Khác, cuối cùng, còn ở tính chất, như là hệ quả của hai cái khác ở trên: trong khi văn bản viết là những gì đã được công bố, nghĩa là, thứ nhất, thuộc về công chúng; thứ hai, với những mức độ khác nhau, được xác minh, do đó, được xem là ít nhiều đáng tin cậy; các lời kể trong các cuộc phỏng vấn, ngược lại, gắn liền với từng cá nhân, xuất phát từ kinh nghiệm riêng, chúng có thể bị khúc xạ, bị biến dạng, thậm chí, được “viết lại” theo những thay đổi trong tâm lý của người kể. Nói cách khác, trong khi lịch sử là những gì đã được chọn lọc khá kỹ, khẩu sử thường là những vật liệu thô; trong khi những người viết sử như những người làm việc trong các tiệm kim hoàn, những người viết khẩu sử như những người làm việc với vỉa quặng trong các hầm mỏ.

 

Tuy nhiên, về bản chất, lịch sử và khẩu sử giống nhau ở khá nhiều điểm. Thứ nhất, chúng đều là những hình thức diễn ngôn về quá khứ (discourse about the past) chứ không phải bản thân quá khứ. Quá khứ là những gì đã qua và đã biến mất. Diễn ngôn về quá khứ là những tự sự được xây dựng để tái tạo lại quá khứ ấy nhằm đáp ứng một nhu cầu trong hiện tại. Thứ hai, là diễn ngôn, cả lịch sử lẫn khẩu sử đều có tính chất chủ quan, hoặc của một người hoặc của một nhóm người. Thứ ba, do tính chất chủ quan ấy, cả lịch sử lẫn khẩu sử đều luôn luôn được viết lại. Mỗi thời đại hoặc mỗi thế hệ đều cảm thấy có nhu cầu tái cấu trúc ký ức và diễn dịch lại quá khứ, do đó, bao giờ cũng tìm cách viết lại những gì các thế hệ đi trước đã viết.

 

Về cách trình bày, Bên Thắng Cuộc có tính chất báo chí hơn là lịch sử. Có hai điểm khác nhau căn bản giữa báo chí và lịch sử: Thứ nhất, trong khi lịch sử nặng về phân tích, báo chỉ nặng về miêu tả; thứ hai, trong việc sử dụng tài liệu, kể cả tư liệu lấy được từ các cuộc phỏng vấn, yêu cầu cao nhất đối với lịch sử là mức độ khả tín, nghĩa là cần được đối chiếu và xác minh cẩn thận; với báo chí, là tính chất tươi ròng của tài liệu; và vì tính chất tươi ròng ấy, nhiều lúc chưa chắc chúng đã chính xác, hoặc nếu chính xác, chưa chắc đã có ý nghĩa tiêu biểu đủ để phản ánh thực chất của vấn đề.

 

Nhìn Bên Thắng Cuộc như một tác phẩm báo chí dựa trên phương pháp khẩu sử, chúng ta dễ dàng chấp nhận một số khuyết điểm vốn rất dễ thấy trong cuốn sách.

 

Thứ nhất, về phương diện cấu trúc, đặc biệt ở tập 2, “Quyền bính”; ở đó, thứ nhất, quan hệ giữa các chương không theo một trật tự logic nào cả; thứ hai, giữa các chương cũng không có sự cân đối cần thiết: có một số chương được viết kỹ và nhiều chi tiết (ví dụ về Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt) hơn hẳn các chương khác (ví dụ về Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh). Lý do khá dễ hiểu: Huy Đức không hoàn toàn làm chủ nguồn tư liệu của mình. Với những người anh tiếp cận được dễ, anh viết sâu; với những người ở xa, anh viết cạn. Vậy thôi.

 

Thứ hai, về vấn đề tư liệu. Huy Đức phỏng vấn rất nhiều người, nhưng không phải TẤT CẢ mọi người ở mọi phía; hơn nữa, anh chưa tiếp cận được những nguồn tài liệu mật của Bộ Chính trị nên nhiều vấn đề vẫn khiến người đọc hoang mang. Trong số đó, có hai vấn đề lớn nhất: Một, việc cuối năm 1967, Hồ Chí Minh thường xuyên sang Trung Quốc dưỡng bệnh và Võ Nguyên Giáp thì được cử đi Hungary. Nhiều người cho đó là một cách nghi binh nhằm che giấu ý đồ tổng tấn công vào Tết Mậu Thân. Huy Đức, theo lời kể của một số người, cho hai người bị đưa đi “an trí” để Lê Đức Thọ ra tay thâu tóm quyền lực. Cách giải thích như vậy lại làm nảy sinh nhiều vấn đề khác: chẳng hạn, tại sao Lê Duẩn và Lê Đức Thọ lại tung ra cuộc đấu đá nội bộ ở vào một thời điểm quan trọng, lúc họ cần đoàn kết và tập trung nhất cho một trận chiến quyết liệt như vậy? Hai, Huy Đức cho giới lãnh đạo Việt Nam, trong những năm 1976 và 1977, không đánh giá đúng mức sự thù nghịch của Pol Pot đối với Việt Nam và từ đó, tầm vóc của cuộc chiến tranh chống Việt Nam do Pol Pot phát động, và đầu năm 1979, hoàn toàn bất ngờ trước cuộc tấn công của Trung Quốc vào biên giới phía Bắc Việt Nam (GP, tr. 76); tuy nhiên, trước đó, anh lại kể, từ cuối năm 1977, trong chuyến thăm Cần Giờ, Lê Duẩn đã trả lời thắc mắc của một số đảng viên trong huyện ủy: “Các đồng chí hỏi đúng vào một tình hình cả nước đang quan tâm. Chúng tôi đau đầu lắm, ngủ không được. Không phải là vấn đề Khmer Đỏ mà là vấn đề ai ở đằng sau Khmer Đỏ, đằng sau Pol Pot. Ta đã đưa đại quân đâu, bọn nó làm sao chống ta nổi, nhưng ta đánh nó, Trung Quốc đánh ta thôi.” (GP, tr. 72-3) Biết thế mà vẫn “bất ngờ” là sao?

 

Thứ ba, quan trọng nhất, nhiều chương chỉ có tính chất tự sự nhưng lại thiếu hẳn tính chất phân tích, do đó, tuy hấp dẫn, chúng không giải thích được gì cả. Ví dụ, trong tập “Giải phóng”, Huy Đức viết về Lê Duẩn khá dài, nhưng phần lớn đều tập trung vào cuộc sống và tính cách của ông: Ông có hai vợ, một ở miền Bắc và một ở miền Nam; lúc ở miền Nam, ông nổi tiếng về nhiệt tình và năng lực làm việc không biết mệt mỏi, lúc ra miền Bắc, ông lại nổi tiếng là thích nói chuyện lý thuyết, và khi nói chuyện, có thói quen hay ngắt lời người khác. Nhưng có những điểm quan trọng nhất lại không được phân tích: Một, tại sao Hồ Chí Minh lại tin cậy Lê Duẩn đến độ giao ngay cho ông chức Tổng Bí thư ngay sau khi ông mới ra Hà Nội như vậy? Lúc ấy, chung quanh Hồ Chí Minh, ngoài Trường Chinh vốn đã bị mang tiếng sau vụ cải cách ruộng đất, có rất nhiều tay chân thân thiết, kể cả hai người được ông và nhiều người khác yêu mến: Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng? Hai, tại sao, từ miền Nam mới ra Bắc, hầu như hoàn toàn đơn độc, chỉ trong vòng mấy năm, Lê Duẩn đã có thể thao túng toàn bộ guồng máy đảng Cộng sản, lấn át quyền hành của tất cả mọi người, kể cả Hồ Chí Minh, như vậy? Ông sử dụng các biện pháp gì để xây dựng vây cánh và quyền lực một cách nhanh chóng và hiệu quả như vậy? Ba, tại sao một người nổi tiếng quyền biến và, đến lúc chết, vẫn có uy tín rất lớn, không những ở miền Bắc mà còn trên cả thế giới, như Hồ Chí Minh, lại đành nhẫn nhục chịu đựng cảnh bị Lê Duẩn tước đoạt quyền hành mà không hề tìm cách kháng cự như vậy? Đó là những vấn đề giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam hiện đại không thể không đặt ra.

 

Những khuyết điểm trên có thể được chấp nhận hoặc bỏ qua nếu chúng ta đọc Bên Thắng Cuộc như một tác phẩm tường thuật về tình hình chính trị của một thời đại. Mang tính báo chí, Bên Thắng Cuộc gần với khẩu sử hơn lịch sử. Tự bản chất, khẩu sử là ký ức. Với ký ức, quan trọng nhất là câu chuyện chứ không phải phân tích. Mà các câu chuyện trong Bên Thắng Cuộc thì không những hấp dẫn mà còn đa dạng vô cùng. Tính chất đa dạng ấy làm cho bức tranh Huy Đức mô tả trở thành đa diện. Nhìn từ góc độ ấy, chúng ta sẽ thấy có khi ngay cả những chi tiết nhí nhắt nhất cũng có thể hữu ích. Ví dụ, lời tâm sự của bà Nguyễn Thụy Nga (trong sách có lúc viết tên lót là Thụy, lúc lại viết là Thị), người “vợ miền Nam” của Lê Duẩn, về chồng bà: “Trong tình yêu anh cũng như con nít” (GP, tr. 117). Câu ấy, tự nó, không tiết lộ được điều gì cả. Thì có người đàn ông nào, trong tình yêu, lại không giống con nít? Nhưng nó vẫn giúp người đọc, khi nhìn lại Lê Duẩn, thấy ở ông, ngoài hình ảnh một nhà lãnh đạo cuồng tín, thủ đoạn và độc đoán, còn có một khía cạnh khác: một con người. Những cách nói năng kiểu “thằng này, thằng nọ” của Nguyễn Văn Linh, cũng vậy, đều tiết lộ một cá tính. Đối với người bình thường, cá tính thường bị loại trừ từ góc độ nghề nghiệp. Nhưng với các chính khách, đặc biệt khi chính khách ấy nắm giữ vai trò lãnh đạo, cá tính lại được chú ý vì nó ảnh hưởng đến chính sách, từ đó, đến đường lối chung, và cũng từ đó nữa, đến cả vận mệnh của đất nước.

 

Bên Thắng Cuộc hay, rất hay, nhưng cũng giống như mọi cuốn tường thuật hay khẩu sử, nó là một cái gì dở dang. Nó là một khối quặng chưa được tinh chế. Nó cung cấp cho người đọc cả hàng ngàn câu chuyện từ cả mấy trăm người kể khác nhau để người đọc, hoặc các sử gia sau này, so sánh, diễn dịch, phân tích và/hoặc tổng hợp lại để thành một bức tranh hoàn chỉnh hơn.

 

Ở trên (bài số 1), tôi có viết điều tôi thích nhất ở Bên Thắng Cuộc là tư liệu. Vậy điều kế tiếp? Đó là quan điểm. Một số người ở hải ngoại, chỉ nhìn vào mấy dòng lý lịch trích ngang của Huy Đức, thấy anh đã từng là bộ đội, lại là sĩ quan, đã lên tiếng phê phán và tố cáo anh, dù có khi chưa hề đọc trang nào trong cuốn sách. Đó chỉ là một nhận định vội vã và đầy thành kiến. Trong lời nói đầu tập “Giải phóng”, Huy Đức cho biết cuốn sách của anh là “công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật”. Dĩ nhiên, chúng ta biết, “sự thật” là một khái niệm rất mơ hồ. Và tương đối. Nhưng cách hiểu về cái gọi là “sự thật” ấy của Huy Đức, theo tôi, rất đơn giản nhưng chính xác: Chúng là những gì khác hẳn với “những thông tin được cung cấp bởi nhà trường và bộ máy tuyên truyền” ở Việt Nam. Theo đuổi mục tiêu ấy, không thể nói lúc nào Huy Đức cũng thành công. Đó là điều dễ hiểu. Ai cũng vậy thôi. Có điều tôi cho là đáng khen ngợi nhất ở anh là anh có thiện chí và cố gắng.

 

Thiện chí và cố gắng ấy thể hiện ngay ở nhan đề cuốn sách: Bên Thắng Cuộc. Tại sao không phải là “thắng trận” hay “chiến thắng” như hai cách nói khác thông dụng hơn? Tôi nghĩ đó là một lựa chọn. “Thắng trận” chỉ thuần về quân sự. Nhưng đề tài Huy Đức muốn trình bày không phải chỉ là quân sự. Còn “chiến thắng”? Trong chữ “chiến thắng”, ngoài ý nghĩa “thắng”, còn có hai nét nghĩa phụ khác, đi kèm, đến từ chữ “chiến”: chính nghĩa và vinh quang. Không ai dùng chữ “chiến thắng” để nói về kẻ đi đánh lén người khác, chẳng hạn. Chữ “thắng cuộc” hoàn toàn không có những hàm ý như thế. Đánh bài: thắng cuộc. Cá cược: thắng cuộc. Dùng chữ “bên thắng cuộc”, Huy Đức, một mặt, tước bỏ các huyền thoại chung quanh từ “chiến thắng” vốn thường được sử dụng, mặt khác, xem chiến tranh, tự bản chất, như một ván bài về quyền lực. Vậy thôi. Trong ván bài, việc thắng thua tuỳ thuộc may rủi chứ không dính dáng gì đến chuyện chính nghĩa hay không chính nghĩa.

 

Trong tập “Quyền bính”, ở chương “XVII: Tam quyền không phân lập”, khi nói về những sự thay đổi Hiến pháp ở Việt Nam, Huy Đức viết: “Hiến pháp 1992, vì thế, đã không tiếp cận được những mô hình nhà nước tiến bộ để trở thành nền tảng cho Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền.” (QB. 90) Xin lưu ý: chữ “tiến bộ” đằng sau chữ “nhà nước” và đằng trước cụm từ “nhà nước pháp quyền” ở câu trên hoàn toàn trái ngược với cách hiểu về chữ “tiến bộ” mà giới truyền thông Việt Nam thường sử dụng.

 

Trong giới lãnh đạo Việt Nam, rõ ràng Huy Đức tỏ ra ưu ái đặc biệt với hai người: Võ Nguyên Giáp và Võ Văn Kiệt. Nhưng ngay cả như vậy, ở cả hai, Huy Đức đều nhận thấy những khuyết điểm căn bản của họ: trung thành một cách dại dột. Phê bình như thế, Huy Đức thấy được một vấn đề thuộc về bản chất của chế độ. Bản chất được anh viết trong lời nói đầu tập “Quyền bính”: “Hệ thống chính trị, trải qua nhiều thế hệ, càng về sau lại càng có ít khả năng khắc phục sai lầm.” Nhưng nếu nó không có khả năng tự khắc phục sai lầm thì sao? Ai sẽ đảm nhận trách nhiệm ấy? Câu trả lời nằm trong những điều Huy Đức chưa nói hết: Có thể là bất cứ ai, nhưng chắc chắn là không phải từ “hệ thống”.

 

Đó chính là lý do chính khiến báo chí trong nước xúm vào đánh cuốn Bên Thắng Cuộc.

 

Dĩ nhiên, Bên Thắng Cuộc không tránh khỏi khuyết điểm. Chả có cuốn sách nào không có khuyết điểm cả. Vấn đề chỉ là nhiều hay ít. Ở cuốn Bên Thắng Cuộc, theo tôi: Ít. Điều thú vị là, hầu hết các sai lầm của anh đều liên quan đến văn học. Trong chương “XI: Campuchia” của tập “Giải phóng”, anh nhận định: “Cảnh giác với người Trung Hoa là điều đã có từ trong máu người Việt Nam. Nhưng, trong lịch sử nghìn năm kháng cự để tồn tại với ‘thiên triều’, chưa có triều đại nào lại công khai xác định Trung Quốc là ‘kẻ thù truyền kiếp và lâu dài’ trong các văn kiện chính thức như thời Tổng bí thư Lê Duẩn.” (GP, tr. 160). Sai. Huy Đức quên trong Bình Ngô đại cáo (1428) của Nguyễn Trãi có câu này: “Kẻ thế thù đâu thể đội trời chung”  (Niệm thế thù khởi khả cộng đái / 念 世讎 豈 可 共 戴). Thế thù: Kẻ thù truyền kiếp. Trong “chương XII: Cởi trói” của cuốn “Quyền bính”, nhân nhắc đến các dấu mốc lớn trong  lịch sử báo chí Việt Nam, anh viết : “Thơ Mới, cuối thập niên 1930” (QB, tr. 11).  Sai. Thời điểm ra đời của Thơ Mới là đầu chứ không phải cuối thập niên 1930. Trong vòng chưa tới 10 năm, Thơ Mới đã đi hết một chặng đường. Cũng trong chương ấy, anh trích bài “Vòng trắng” của Phạm Tiến Duật như sau: “Khói bom lên trời thành những vòng đen / Và dưới mặt đất sinh ra bao vòng trắng / Tôi với bạn đi trong im lặng / Khăn tang trên đầu như một số không” (QB, tr. 18). Sai nhiều chỗ. Nguyên văn bài thơ ấy là:

 

Khói bom lên trời thành một cái vòng đen

Trên mặt đất lại sinh bao vòng trắng

Tôi với bạn tôi đi trong im lặng

Cái im lặng bình thường đêm sau chiến tranh.


Có mất mát nào lớn bằng cái chết

Khăn tang vòng tròn như một số không

Nhưng bạn ơi, ở bên trong vòng trắng

Là cái đầu bốc lửa ở bên trong.

 

Ngay cả mấy câu thơ của Nguyễn Duy được trích làm đề từ cho cuốn sách cũng sai:

 

Suy cho cùng trong mỗi cuộc chiến tranh

Bên nào thắng thì nhân dân đều bại.

 

Nguyên văn của Nguyễn Duy như sau:

 

Ta mặc niệm trước Angkor đổ nát

đá cũng tàn hoang huống chi là kiếp người


Đá ơi

xin tạc lại đây lời cầu chúc hoà bình!


Nghĩ cho cùng

Mọi cuộc chiến tranh

Phe nào thắng thì nhân dân đều bại…


(In trong tập Quà tặng, nxb Văn Học, 1990, tr. 78)

 

“Nghĩ” khác với “suy”, “mọi” khác với “mỗi”, và “phe” khác với “bên”.

 

Cũng như “bên thắng cuộc” khác với “bên chiến thắng”.

 

Một điều cuối cùng: Không ít người cho chọn cách tiếp cận từ phía những người thắng cuộc như Huy Đức là một chọn lựa đầy thiên vị, từ đó, bức tranh anh muốn phác họa sẽ bị lệch lạc theo. Theo tôi, không đúng. Thứ nhất, trong mọi lịch sử, những người “thắng cuộc” – xưa là vua chúa, sau này, giới cầm quyền – bao giờ cũng nằm ở vị trí trung tâm, cần được nghiên cứu nhất, bởi chính họ, một cách tích cực hay tiêu cực, quyết định diện mạo của một thời đại và số phận của một dân tộc. Thứ hai, vấn đề không phải lệch lạc hay không. Vấn đề chỉ là ở mức độ. Không có một cuốn sách nào, kể cả lịch sử, chính xác hoàn toàn. Thậm chí, các nhà hậu hiện đại chủ nghĩa còn hoài nghi cái gọi là lịch sử nói chung: Họ xem lịch sử như một biểu hiện của đại tự sự (grand narrative), một tham vọng đạt đến cái nhìn bao quát toàn bộ sự thật và thực tại: Với họ, đó là điều bất khả. Hơn nữa, họ xem lịch sử bao giờ cũng gắn liền với một quan điểm và một góc nhìn nhất định: lịch sử (history) là chuyện của ông-ấy, của một gã nào đó (his-story). Chứ không có một lịch sử chung nhất cho mọi người.

 

Bên Thắng Cuộc là một tác phẩm hay nhưng dĩ nhiên, như mọi cuốn sách khác, không hoàn hảo. Cái không hoàn hảo ấy cần được hoàn thiện dần dần. Bằng những tác phẩm khác. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên. Và càng không đáng phản đối.


Theo blog NHQ



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 12, 2013 15:10

Nguyễn Quang Lập's Blog

Nguyễn Quang Lập
Nguyễn Quang Lập isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Quang Lập's blog with rss.