Nguyễn Quang Lập's Blog, page 80

February 15, 2013

CẢM NGHĨ và NỖI LO

Nguyễn Huy Canh


cau-hoi-thiet-ke-website Nhân đọc bài “Thử tìm cơ chế đặc thù cho ban nội chính…” trên trang n/v Phạm Viết Đào của ông mang bút danh Trường Sơn nào đó, những suy nghĩ miên man về thực trạng của đất nước, về cấu trúc và bản chất của thế chế chính trị nước  nhà, và những quyết tâm đầy sắt đá của đảng trong cuộc chiến chống tham nhũng do ông Nguyễn Phú Trọng, người đứng đầu của đảng làm chủ thuyết, cứ chảy dài ra trong nỗi lo âu…


Tôi suy nghĩ về một số đời Tổng bí thư của đảng. Bắt đầu từ ông Lê Duẩn. Chẳng hiểu trong cuộc chiến tranh chống Mĩ và thống nhất đất nước, ông đã có những công trạng gì với dân, với đảng. Nhưng trong công cuộc xây dựng và chấn hưng đất nước, ông đã đẩy đất nước này vào thảm trạng vô chủ và đói nghèo đến quệt quệ bởi tư tưởng và phạm trù “làm chủ tập thể”, “chuyên chính vô sản” do mấy ông lí luận gia cao siêu của đảng nhưng lại mù lòa xui dại như ông Hoàng Tùng, Nguyễn Đức Bình…Trong ý nghĩa ấy, ông và những kẻ a tòng với ông là có tội với đất nước, với dân tộc đầy dũng cảm, thông minh và cần cù này.


Tổng bí thư Nguyễn văn Linh, trong cơn khốn cùng của đất nước vào những năm của thập niên 80 đã có được hành động đầy sáng tạo: quyết định đổi mới đất nước theo chủ thuyết không tuyên chiến, không xóa bỏ chế độ sở hưu tư nhân nữa. Về lí thuyết, đó chính là quá trình phục hồi Tồn Tại, lịch sử từ trạng thái vô chủ, vô thân sang hữu thân, hữu ngã, có chủ. Nhưng quá tiếc rằng ông chỉ sử dụng nó như một phương tiện-mà không nhìn thấy đây là cứu cánh của một học thuyết trị quốc mới-để cứu nguy, để hóa giải tình thế cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà ông đang tôn thờ


Tuy chỉ sử dụng nó như một công cụ tạm thời nhưng đất nước này cũng đã hồi sinh và phát triển mạnh mẽ. Trên cái nền kinh tế non trẻ, đầy sức sống mới cùng với tư duy hội nhập quốc tế ấy, ông Đỗ Mười đã thúc đẩy được sự phát triển của nền kinh tế thị trường tương đối đầy đủ với các thị trường thành phần và các bộ phận cấu thành nó; ông đã đẩy mạnh việc cổ phần hóa một loạt các doanh nghiệp nhà nước để lại ở thời kì bao cấp kéo dài. Đó chính là cơ sở cho sự phát triển nền kinh tế đất nước trong nhiều năm sau đó.Nhưng có thể do tuổi tác đã cao lại bị các nhà cố vấn chính trị với cái nhìn của những đầu óc cơ hội và nô bộc tham vấn, nên ông đã không nhìn thấy được tầm quan trọng có tính sống còn trong việc cần phải đổi mới từng bước cái cơ chế chính trị: “đảng lãnh đạo-nhà nước quản lí…” đầy tính đảng trị để thích ứng với một hiện thực đã biến đổi.


Nông Đức Mạnh xuất hiện trong vai trò người đứng đầu của đảng, có thể đây là lần đầu tiên trong tư cách ấy, ông đã có suy nghĩ về những hạn chế và hệ lụy của cái cơ chế chính trị nói trên đối với tiến trình hội nhập và phát triển của đất nước .Và ông đã đi đến quyết định hành động cải biến nó theo hướng dân chủ: xóa bỏ 2 ban của đảng-mà một thời, cũng từ những cấu trúc quyền lực này, ông Lê Đức Thọ một mình đã làm mưa làm gió-và hạn chế ở mức có thể sự can thiệp của đảng vào các công việc của nhà nước và chính quyền các cấp. Tôi cho rằng đây là một hành động mang tính lịch sử trong phạm vi nước nhà, và nó có ý nghĩa cũng chẳng kém gì so với công cuộc đổi mới nửa chừng mà ông Nguyễn Văn Linh đã làm.


Có thể rồi đây các nhà viết sử như ông Dương Trung Quốc sẽ phải nhắc đến ông như một sao sáng vụt lóe trên bầu trời chính trị VN.


Tiếc rằng việc làm sáng tạo có tính lịch sử này của ông đã không được ai nhìn nhận thấy ngoài mặt tiêu cực phái sinh của nó, thậm chí còn bị rất nhiều ý kiến bác bỏ, dèm pha như Trương Duy Nhất,Dương Đức Quảng, Minh Diện…khi đánh giá về ông!


Cái hạn chế trong hành động biến cải của ông chính là ở chỗ khi quyền lực của đảng bớt dần đi, ít can thiệp vào những công việc có tính ứng dụng của cơ quan lập pháp và hành pháp thì ông lại không định hình được tư tưởng cần trao quyền lực đó cho nhân dân, và quyền lực nhà nước cần phải được kiểm soát từ một hệ qui chiếu mới…


Tiếc rằng, ông Nguyễn Phú Trọng, với tư duy giáo điều, kinh viện được vun đắp từ trường “dòng” đã không thể nhìn thấy cái điều cần khắc phục, và nên phải tiếp nối sự nghiệp của người tiền nhiệm của mình, ông đã đi đến quyết định tái hiện lại một lịch sử đau đớn đã qua bằng việc tái lập 2 ban tw, và củng cố quyền uy của đảng.


Ôi ,bi kịch của lịch sử là ở chỗ nhiều người trong đảng không nhìn thấy đảng đang lâm nguy, cần phải “cứu chuộc” theo hướng dân chủ: tăng quyền lực cho nhà nước, và kiểm soát nó cũng bằng chính những bộ phận của quyền lực nhà nước và quyền lực của nhân dân thông qua Hiến pháp dân chủ, qua báo chí tự do và xã hội dân sự phát triển, thì lại ca ngợi, tung hô, hiến kế và quyết định gửi gắm chút niềm tin ít ỏi còn lại vào nó như ông Trường Sơn với bài viết sặc mùi nhà nước hóa đảng theo tư duy chuyên chính, đảng trị và cũ rích này.


Tôi có nghe ở đâu đó có lời nói rằng, nếu lịch sử lần đầu là một bi kịch, thì việc lịch sử tái diễn lại lần 2 sẽ là một tấn bi hài. Chẳng biết rồi đây danh ngôn này có vận vào lịch sử chính trị nước nhà nữa hay không…?


Ôi, có lẽ đất nước này còn quá nhiều trình tư duy như cái ông Trường Sơn này chăng? Nếu quả có như thế sẽ là mối lo ngại còn nặng hơn, nguy hiểm hơn nghìn lần hậu quả do tham nhũng đem lại cho đất nước này mà nhiều triệu người dân đang rất bức xúc, và căm ghét nó.


Sự căm ghét, bức xúc này của dân chúng đã không được các nhà lãnh đạo cao cấp của đảng đáp ứng theo cách tiếp tục sự nghiệp sáng tạo lịch sử của cựu Tbt Mạnh mà bằng phương pháp đẩy mạnh điều tra,xét hỏi, bắt bớ tù đày từ một uy quyền tối thượng để từ đó có thể làm trong sạch đảng và xã hội theo tâm lí của những người nông dân sản xuất nhỏ, và duy ý chí. Điều đó có thể rồi đây sẽ lại là điều đáng tiếc giống như cảm xúc sám hối mà cựu phó thủ tướng Vũ Khoan đã gặp phải trong những ngày đầu năm vậy.


Đầu năm tôi biết người ta chỉ nên đến với nhau bằng những lời chúc an khang, thịnh vượng. Một cảm nghĩ đầy nỗi lo âu và phê phán như thế này, quả thực, vẫn biết, chẳng hay tí nào…!


Ngày 5 tháng giêng. Xuân Qúi tị


Tác giả gửi QC


( Bài thể hiện quan điểm riêng của tác giả)



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 15, 2013 20:50

Hỏi đáp trực tuyến với Thủ tướng

Thái Bá Tân


imagesKính thưa ông thủ tướng,


Tôi đồng ý với ông,


Tham nhũng là quốc nạn,


Là con ma cà rồng.


 


Nó, tham nhũng, hút máu


Đất nước ta lâu nay.


Xin hỏi ông thủ tướng


Một vài câu thế này:


 


Ai là kẻ tham nhũng?


Chỉ những người có quyền.


Ai có cái quyền ấy?


Còn ai, ngoài đảng viên.


 


Vậy là rõ, chính đảng,


Đảng tham nhũng, đúng không?


Thế ai đánh tham nhũng?


Cũng là người của ông.


 


Vì công an, tòa án


Nhất thiết phải đảng viên.


Vậy là ông tham nhũng,


Rồi đánh ông, thật phiền.


 


Ông đã là thủ tướng,


Chắc hiểu đời, thông minh.


Xin hỏi: Ai có thể


Tự mình muốn đánh mình?


 


Đã bao giờ ông thấy


Một người có hai tay,


Tay phải chém tay trái?


Không thể có điều này.


 


Nói thế là ông hiểu.


Tôi là dân, thực lòng,


Ông nói thì cứ nói,


Nhưng tôi không tin ông.


 


Tôi nghĩ ông thừa biết


Chống tham nhũng cách nào,


Nhưng ông không muốn chống.


Cảm ơn và xin chào!


 


Hà Nội, 27. 7. 2012


Không tin nhau


Nước ta giờ nhiều cái,


Càng ngẫm càng thấy đau.


Và cái đau đớn nhất -


Con người không tin nhau.


 


Không tin nhau hàng xóm.


Không tin nhau làm ăn.


Cũng không tin nhau nốt


Nhà nước và nhân dân.


 


Mà niềm tin, ta biết,


Là đạo đức con người,


Là nền tảng xã hội,


Giúp ta sống ở đời.


 


Không lẽ ta, dân Việt


Có sẵn tính xấu này,


Và nó đã tồn tại


Suốt hàng nghìn năm nay?


 


Chắc chắn không phải thế.


Tôi sống đã đủ lâu


Để thấy sự giảm sút


Của lòng người tin nhau.


 


Nó chính là kết quả


Của giáo dục, tuyên truyền,


Của “lý tưởng”, khẩu hiệu


Sáo rỗng và vô duyên.


 


Ngập chìm trong giả dối,


Chẳng biết bám vào đâu,


Con người, để tự vệ,


Buộc phải không tin nhau.


 


Không tin nhau hàng xóm.


Không tin nhau làm ăn.


Cũng không tin nhau nốt


Nhà nước và nhân dân.


 


Thế đấy các bác ạ.


Nhiều cái lo ở đời.


Tôi lo miếng ăn một,


Mà lo cái này mười.


 


Lo cho đám con cháu


Thừa hưởng của cha ông


Cái đau này có thật.


Các bác có lo không?


Theo FB của TBT



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 15, 2013 19:22

Thấy Mạc Ngôn đoạt Nobel mà sốt cả ruột!

Dương Phương Vinh thực hiện


281466_400TP – Trong năm, nhà thơ nhà báo Trần Đăng Khoa hoạt động hết công suất trên VOV của anh và cả blog Lão Khoa. Ngày xuân, anh trải lòng về cái giải Nobel gây “sốt ruột và đau đớn”, cùng chuyện gẫu linh tinh khác nữa.


DPV: Vừa rồi đã có cuộc trò chuyện với anh xung quanh ngày tận thế. Vậy mà sau tận thế, vẫn có dịp tán gẫu với anh nhân Tết con rắn này Anh tuyên bố sẽ không bao giờ mua xe hơi vì nhiều lý do trong đó có lý do: Người ta lái xe đâm mình chết không sao, mình lái xe chẳng may đâm chết người, có mà ân hận cả đời. Anh cũng thương người ghê nhỉ?


TĐK: Thế thím tưởng chỉ có mỗi thím biết thương người sao? Còn lâu nhé. Nếu thím biết thương người thì đã chẳng có thời làm bao gã sống dở, chết dở. Còn ta, bao trùm lên mọi cảm giác là niềm kinh sợ.


Thực ra ta cũng đã định mua ô tô rồi đấy. Mua do nhiếp ảnh gia Dương Minh Long kích động. Ta đã tính mua. Nếu mình không lái thì vợ lái. Long đã đưa ta đi xem xe, đã nộp cả tiền học lái xe.


Thế rồi một anh bạn bảo, anh phải bỏ ngay cái việc đi xe máy. Không an toàn đâu. Có thể ngỏm bất cứ lúc nào. Mình ngồi trên ô tô như ngồi trong cái lô cốt bằng sắt. Nếu có húc nhau thì đứa khác chết. Cùng lắm bỏ ra 30 triệu lo đám tang là xong.


Ta rùng mình ghê rợn. Chả nhẽ tính mạng một con người chỉ có thế thôi sao ? Có lẽ không ít gã cũng có những ý nghĩ lạnh lùng rùng rợn như anh bạn này.


Bởi vậy tai nạn giao thông ở ta mới khủng khiếp như thế. Đã thành kẻ giết người rồi thì liệu còn có thể sống yên ổn được nữa không? Có nhiều tội ác tòa án có thể bỏ sót. Nhưng lương tâm thì sao? Làm sao trốn được chính mình ?


Ta quyết định chấm dứt ý đồ mua xe riêng, cũng không khuyến khích vợ đam mê những cái lô cốt di động bằng sắt ấy. Vả lại có xe cũng đâu có sướng. Để có một cái xe tử tế phải chi vài tỉ.


Dùng số tiền ấy đi taxi, bao giờ mới hết được. Mà sướng như vua vì được hầu hạ. Làm vua vừa đi vừa ngủ, hay làm người hầu đánh xe, vã mồ hôi vì mệt mỏi, căng thẳng thì ai sướng hơn ai ? Vả lại nuôi cái xe bây giờ khổ gấp vạn lần nuôi trâu bò.


Tiền thuế đường. Tiền bảo dưỡng. Tiền gửi xe. Tiền hệ lụy rải suốt dọc đường. Khổ nhục lắm. Rồi còn lo xây sát, rồi giữ gìn, nâng niu. Đâu phải mình cưỡi xe. Chính cái xe nó… cưỡi mình đấy. Dại. Ta quyết cưỡi xe chứ không để xe nó cưỡi mình.


DPV: Có lần anh bảo tôi “Thím ạ, thiên hạ sẽ không bao giờ để ta yên đâu. Mình muộn vợ, họ bảo mình có vấn đề giới tính, vấn đề tâm sinh lý. Mình lấy vợ rồi, họ bảo chắc gì đã có con. Mình có con, họ bảo chắc gì đã phải con của mình. Cứ thế”. Nghe thiên hạ đồn: Hồi học ở Nga, bạn cùng phòng có mang bạn gái về ngủ trong phòng anh cũng không hé mắt. Theo anh, cái căn tính ưa nhòm qua lỗ khóa nhà người khác và “hạnh phúc của kẻ khác là bất hạnh của ta” ở người Việt Nam mình, nhất là dân miền Bắc mình, đáng thương hay đáng giận?


TĐK: Đó cũng là điều ghê rợn, chứ không còn là chuyện thương hay giận nữa. Mình học được nhiều điều rất hay của thiên hạ. Và đức tính mình thích nhất ở họ là chuyện đâu bỏ đó. Không chõ mũi vào nhà người khác, nếu chuyện đó không có gì liên quan đến mình.


Tôi có thời gian dài học ở Nga. Ở nước Nga, một cặp tình nhân khỏa thân ôm nhau trong phòng, dù có mở toang cửa cũng chẳng ai nhòm, thậm chí họ còn tránh xa để không làm phiền cặp uyên ương ấy.


Nhiều đôi ôm nhau, hôn nhau trong toa tầu điện ngầm, có ai để ý đâu. Đấy là cõi riêng của họ. Chỉ có họ ngự trị. Nếu có người nhìn thì chỉ là người Việt mình thôi. Đấy là một hành động rất man rợ mà chúng ta không tự biết. Ta học được của người Nga rất nhiều bài học ở bên ngoài giáo trình đại học như thế thím ạ.


Hồi ấy ta ở chung phòng với ông bạn Nga Ivan Navichxki. Ta đã viết khá nhiều về ông bạn mắt xanh mũi lõ này. Riêng có một chuyện ta không viết mà không hiểu tại sao thím lại biết? Đấy là chuyện riêng của Ivan.


Anh bạn có cô bồ trẻ. Chàng cứ băn khoăn. Ta bảo: Các bạn cứ thoải mái. Đừng quan tâm đến tớ làm gì. Mất vui. Cứ coi như tớ không có mặt trong căn phòng này. Thế là họ lên tiên. Còn ta nằm quay mặt vào tường và… đọc sách. Hai cái giường kê sát nhau. Nhưng đó là hai thế giới hoàn toàn riêng biệt. Cả hai xứ sở đều tự do tuyệt đối.


Nhưng cũng có một bài học rất hay của người Nga mà ta không học được. Sự kém cỏi này làm ông bạn Ivan rất …khinh bỉ ta.


Sự việc bắt đầu từ buổi ximêna tác phẩm của Nhina Rubacova, một cô bạn Nga rất đẹp. Thơ cô bé rất ngộ: Những quả đồi khỏa thân/ Nằm mê man như những người đàn bà/ Trong lúc chúa trời đang táy máy. Rồi Những con quạ/ Nhìn ta/ Bằng con mắt nghĩa địa/ Sỏi đá rì rầm/ Hiện tại của tôi là tương lai của bạn. Thơ ấy cũng không đến nỗi quá dở. Hay là đằng khác. Nhưng bè bạn chê dữ quá. Chỉ có mỗi ta khen.


Nhưng ta không khen thơ mà khen cô ấy đẹp. Ta còn nói với lũ đầu gấu đang xỉa xói cô ấy rằng: “Các bạn hãy nhìn lại đi. Có phải Natasa vừa bước từ trang sách của L. Tonxtoi ra không? Không! Natasa còn có vết chủng đậu mờ mờ ở cánh tay, còn nàng tiên cá này tinh khôi, không có khiếm khuyết gì cả. Cái nhược điểm lớn nhất của Nhina là không có nhược điểm gì”. Mọi người vỗ tay còn cô bé mặt đỏ bừng rạng rỡ.


Tưởng chỉ là chuyện vui. Ai ngờ tối ấy, Nhina gõ cửa phòng ta. Dạo ấy, nhà thơ Chế Lan Viên vừa gửi sang tặng ta tập thơ Hàn Mặc Tử do tỉnh Nghĩa Bình in, ông tuyển chọn và viết tựa.


Ta giới thiệu với Nhina về Hàn Mạc Tử và còn bảo: “Đây là B. Pasternac của Việt Nam đấy”. Rồi ta đọc một bài thơ bằng âm tiếng Việt để cô bé nghe nhạc điệu, rồi dịch ý một bài thơ bốn câu. Nhina bảo: “Sao giống thơ cổ điển Trung Quốc thế?”. Mình bảo, không phải thơ của chúng tớ giống thơ Đường Trung Quốc đâu, mà thơ Đường bắt chước thơ chúng tớ đấy.


Cả các công trình lăng tẩm, đền đài ở Huế cũng vậy, họ toàn bắt chước chúng tớ để xây dựng Tử Cấm thành, bắt chước chúng tớ nhưng lại xây trước chúng tớ đến cả mấy trăm năm.


Thế mới đểu chứ. Cô bé cười ngặt nghẽo. Ivan về giơ một ngón tay lên, làm một cử chỉ rất kỳ quặc, chỉ có ma mới hiểu, rồi anh bạn ôm chăn mền ra ngoài phòng.


Mình chẳng hiểu gì cả. Rồi đêm ấy, không thấy Ivan về. Mình lại thấy Nhina ôm chăn mền sang trải trên chiếc giường của Ivan.


Rồi cô bé tắt điện trút bỏ quần áo chui vào chăn. Mình lại tưởng phòng cô bạn có khách, nên phải sang ngủ nhờ giường Ivan. Thế là bọn mình lại tiếp tục chõ miệng sang giường bên trò chuyện. Rồi mình ngủ lúc nào chẳng biết nữa.


Sáng hôm sau, Ivan “khinh bỉ” mình ra mặt: “Mày là một thằng nhà thơ rất tốt nhưng là một thằng đàn ông vô cùng tồi tệ. Mày không phải là đàn ông”. Bây giờ, nghĩ lại, vẫn còn thấy bàng hoàng. Đúng là mình kinh tởm thật!


DPV: Nghe nói anh hâm mộ Mạc Ngôn nhiệt liệt. “Phong nhũ phì đồn”, “Đàn hương hình” quả là kiệt tác. Nhưng anh đã đọc diễn từ nhận giải Nobel của ông ấy chưa, cứ gọi là dở kinh khủng, con tằm nó ăn lá dâu nhả ra tơ và kể những chuyện không đáng. Thế mới biết không ai “oách” được toàn phần?


TĐK:Có người viết rất hay nhưng nói rất dở. Có người viết dở nhưng nói rất hay. Có người viết hay mà nói cũng tuyệt. Mạc Ngôn ở dạng thứ nhất. Và thế là tuyệt vời rồi.


Nhà văn Nguyễn Khải bảo: Tinh hoa nhà văn là ở các trang văn. Còn ngoài đời, chúng tôi chỉ là những cái bã. Nói vậy, nhưng Nguyễn Khải cả trong văn và ngoài đời đều rất thông minh. Ông nói gì cũng ấn tượng, hấp dẫn.


Nguyễn Minh Châu ngược lại. Ông viết rất hay nhưng nói lại vụng. Ông bảo, nhiều lúc lão Khải giễu mình, mình tức lắm. Nhưng mình nghĩ được câu phản đòn thì lão đã bàn sang chuyện khác từ tám hoánh nào rồi.


Bảo Ninh cũng vậy. Anh viết tuyệt vời, nhưng nói cũng cứ dấp dính, biểu hiện của một tư duy rối rắm, không hề mạch lạc. Mình thích những nhà văn viết hay nhưng lại ngơ ngác ở ngoài đời. Sắc quá, lưỡi nhọn như lưỡi rắn, rợn chết đi được.


Còn Mạc Ngôn thì ta mê ông ấy từ rất lâu rồi. Cách đây hơn chục năm, nhà văn Ngô Thị Kim Cúc có phỏng vấn ta, hỏi ta đang đọc cuốn gì. Ta cũng đã thưa với chị ấy rằng, tôi đọc rất nhiều. Ngày nào cũng đọc. Dù bận mấy cũng không bỏ đọc. Nhưng chỉ có Mạc Ngôn là đáng đọc thôi.


Ở thời điểm ấy, anh có hai cuốn dịch sang ta đều vào loại rất hay. Cuốn Báu vật của đời (Phong nhũ phì đồn) còn có đôi chút cường điệu, chứ Đàn hương hình thì nhuần nhuyễn từ đầu đến cuối. Không còn nghi ngờ gì nữa, Mạc Ngôn là một trong những nhà văn lớn nhất của hành tinh này ở chính thời điểm này.


Mạc Ngôn lại là một nhà văn còn rất trẻ. Anh cùng trang lứa với chúng tôi. Đọc anh, không biết các nhà văn khác thế nào, chứ ta thì ta sốt ruột lắm. Sốt ruột và đau đớn. Tại sao cũng da vàng mũi tẹt như mình mà lão làm được nhiều việc lớn như thế, mà mình cứ bi bét mãi.


Trong một cuộc hội thảo về tiểu thuyết, có nhà văn bảo: “Rồi chúng ta sẽ có những Mạc Ngôn”. Ta không tin. Không phải vì nhà văn chúng ta kém tài, mà vì chúng ta thiếu một cái gì đó. Cái đó Mạc Ngôn có mà chúng ta không có. Cái đó nằm ngoài tầm tay chúng ta.


Ngô Thị Kim Cúc tỏ ra băn khoăn: “Hiện nay ở ta hình như đang có một hiệu ứng Mạc Ngôn. Nhiều cây bút bắt chước Mạc Ngôn, trước đây thì bắt chước Marquez”.


Ta có nói với nữ nhà văn rằng, tôi không phải kẻ vọng ngoại. Xin bạn lưu ý cho điều ấy. Và cả anh em nhà văn mình nữa, nếu họ có tiếp thu những tinh hoa của nhân loại thì cũng nên xem là điều bình thường và nên khuyến khích chứ đừng vội quy kết.


Tuy thế, học được cái hay của thiên hạ cũng không dễ đâu. Tôi có đọc cuốn tiểu thuyết của một nhà văn cũng chưa phải là già. Cuốn sách này nghe đồn có vấn đề, đang bị đề nghị cấm.


Tôi đọc và thấy nó chẳng có tội vạ gì cả. Nó chỉ có tí nhược điểm là… không hay. Thế thôi. Nhiều trang sa vào dung tục và đọc cứ thấy bẩn bẩn.


Tôi kêu thì tác giả bảo: “Ông đã đọc Mạc Ngôn và Marquez chưa? Mạc Ngôn toàn vú vê. Marquez toàn cởi truồng. Bà Hồ Xuân Hương của ta cũng đâu có kém”. Tôi thật sự kinh ngạc. Hóa ra ông bạn chẳng hiểu gì Mạc Ngôn và cũng không biết gì về các bậc tiền bối.


Quả trong Trăm năm cô đơn của Marquez có nhân vật là một cô bé quanh năm cởi truồng. Cô cởi truồng từ khi còn bé cho đến lúc thành một thiếu nữ xinh đẹp. Đó là một vẻ đẹp thánh thiện, trong vắt, đến nỗi chẳng ai để ý đến việc cô cởi truồng.


Thế rồi một buổi trưa, cô đang tắm thì có tiếng động ở khe liếp phía sau. Cô quay lại. Có một ánh mắt đàn ông đang nhìn trộm. Thế là cô sợ quá, vội đưa tay che ngực rồi co người bay vút lên trời qua kẽ ngói thủng ở trên nóc nhà tắm.


Cái chi tiết người bay qua kẽ ngói này quả là phi lý, nhưng người đọc lại không thấy phi lý, thậm chí lại có cảm giác rất thật. Đây là cái thật cao hơn cả sự thật.


Khi bị nhìn trộm, vẻ đẹp của cô bé không còn trong vắt, thánh thiện nữa, nó đã bị nhuốm bẩn mất rồi. Không có chỗ nương náu thì cái đẹp ấy phải “biến” thôi.


Toàn bộ những chi tiết cởi truồng kia chỉ là sự chuẩn bị cho cú bay ngoạn mục này. Ông bạn tôi dường như chỉ học được mỗi phép cởi truồng và cứ tưởng cởi truồng là Marquez. Nhầm. Tinh hoa của Marquez chính là cái phép bay qua kẽ ngói thủng kia cơ.


DPV: Ngày Tết, người ta thường nhâm nhi mấy câu thơ. Anh có bài thơ xuân nào…


TĐK: Ta chỉ có thơ nịnh vợ, nhưng lại tặng bà hàng xóm. Thím thử đọc chơi nhé:


THƠ XUÂN DÂNG VỢ


Tặng một bà hàng xóm


 


Những đóa hoa rừng đẹp nhất


Đều tàn theo gió, theo mưa


Riêng em, một nhành tím biếc


Cứ tươi xinh suốt bốn mùa


 


Hương sắc ngàn xuân tụ lại


Bừng trong da thịt em đây


Thảo nào mà ngài phỗng đá


Cũng còn rạo rực, ngất ngây…


 


Đến cả lão Khoa nghễnh ngãng


Oai phong như bác…cóc già


Phen này khéo lão hóa bướm


Rập rình chao lượn quanh hoa…


DPV: Khiếp, lão Khoa mà hóa bướm…


TĐK: Thì bướm cũng có nhiều loại. Có bướm nâu, bướm chúa, rồi còn có cả bướm ma nữa chứ. Đời thế mới vui. Nếu tẻ nhạt thì ta với thím treo cổ từ lâu rồi. Chả còn hào hứng ngồi tán toàn những chuyện phiếm như thế này nữa…


Theo báo TP



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 15, 2013 18:17

Hiến pháp CHXHCN Việt Nam: một vài đối chiếu

Phạm Vĩnh Cư

1277712861_luat 020Hiện giờ, Quốc hội nước ta đang lấy ý kiến của nhân dân về bản dự thảo Hiến pháp năm 1992 ( sửa đổi 2013). Sau khi đọc kỹ bản dự thảo ấy và nhận thấy về nhiều mặt nó chưa đáp ứng ý nguyện của cá nhân tôi cũng như của rất nhiều công dân khác của nước ta, tôi đã ký tên vào bản “ Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992” gồm 7 điểm, hiện đang được công luận hưởng ứng. Tôi cũng đã tìm hiểu bản “ Dự thảo Hiến pháp 2013” do một số chuyên gia luật trong nước soạn thảo và thấy đây là một trong những dự thảo hiến pháp “dân lập” đáng được bàn thảo rộng rãi. Nhằm cung cấp thêm tư liệu cho cuộc thảo luận tối cần thiết ấy, theo gợi ý của một vài bạn bè, tôi viết bài này đưa ra vài đối chiếu các bản Hiến pháp nước ta với các bản Hiến pháp của hai nước xã hội chủ nghĩa đàn anh ảnh hưởng nhiều đến lịch sử hiện đại của nước ta: Liên Xô xưa kia và Trung Quốc ngày nay. Xin trình bày theo thứ tự 7 điểm kiến nghị tôi đã ký tên.



     Về Lời nói đầu và Điều 4 của Chương I

Như mọi người đều biết, Hiến pháp của từng quốc gia có thể có hoặc không có Lời nói đầu. Thí dụ, Hiến pháp Liên Xô ( LBCHXHCNXV) có hiệu lực từ 1936 tới 1977 không có Lời nói đầu mà không ai cho đó là một thiếu sót. Vấn đề ở chỗ Lời nói đầu trong Hiến pháp có cần thiết hay không và có tính thuyết phục hay không của sự thật và công lý, có tính chuẩn xác hay không của văn bản luật gốc của Nhà nước pháp quyền (các Nhà nước chuyên quyền không cần đến Hiến pháp!). Về nhiều phương diện, Hiến pháp là chân dung tự hoạ của một quốc gia, một dân tộc, để cho không chỉ người dân quốc, mà cả thế giới xem ngắm và đánh giá. Hiến pháp hiện hành của CHND Trung Hoa rõ ràng còn xa mới hoàn hảo, nhưng những lời mở đầu ở đấy gây ấn tượng: “Trung Quốc là một trong những nước có lịch sử lâu đời nhất thế giới. Nhân dân tất cả các dân tộc Trung Hoa bằng những nỗ lực chung đã kiến tạo nên một nền văn minh rực rỡ và có truyền thống cách mạng vẻ vang” (1). Xác thực, chặt chẽ, khó phủ nhận.


Nhưng khi ta đọc trong Lời mở đầu Hiến pháp hiện hành của ta: “Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc lên truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, bất khuất của dân tộc và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam”, thì trong óc ta lập tức nổi lên một loạt câu hỏi: có thể viết một cách khác không, đoạn văn này có nêu bật được những gì là đặc điểm đặc thù của nước ta, dân tộc ta hay là những gì ta khẳng định về mình, người các nước khác cũng có thể nói như thế về nước họ, dân tộc họ? Trên trái đất này, có dân tộc nào, nhân dân nào mà lại không lao động cần cù, sáng tạo, không xả thân chống ngoại xâm, không xây dựng nên nền văn hoá mà trong đó đoàn kết và nhân nghĩa được coi trọng? Khoe làm gì những cái mà ai ai, hoặc đại đa số, đều có? Thêm nữa: “Trải qua mấy nghìn năm lịch sử”. Nếu có ai hỏi chúng ta: thế các vị có chính xác mấy nghìn năm lịch sử? thì chúng ta sẽ không trả lời được, vì khoa học chưa xác định được chính xác tuổi của lịch sử nước ta (lịch sử, chứ không phải tính cả cận sử và tiền sử !) Thế thì tại sao lại không viết một cách giản dị, khó bắt bẻ: “Trải qua nhiều thế kỷ lịch sử. Viết thế sẽ không oai? Nhưng trong luật pháp giữa cái có vẻ oai với cái không thể bắt bẻ dứt khoát phải chọn cái thứ hai.


Chúng tôi mới thử “bắt bẻ” một mệnh đề trong Dự thảo Hiến pháp sửa đổi đang lấy ý kiến của dân. Mặc dù sự chẻ từng câu từng chữ như thế là hết sức cần thiết cho các văn bản luật pháp, xin dừng lại ở đây để đi vào thực chất những vấn đề cần bàn thảo.


Cái đã nhiều năm gây sự không đồng tình của công luận nước ta không phải là việc Hiến pháp hiện hành trong Lời nói đầu ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ giành độc lập và thống nhất đất nước – đây là một thực tại lịch sử không thể phủ nhận. Nhưng sau gần bốn thập kỷ xây dựng hoà bình với quá nhiều kết quả hai mặt, quá nhiều vấn đề hóc búa đang nổi cộm, với những nguy hoạ đang đe doạ vận mệnh của đất nước đòi hỏi tập hợp trên nguyên tắc bình đẳng tất cả mọi lực lượng xã hội để cùng nhau giải quyết, khắc phục và ngăn ngừa mà Hiến pháp vẫn một mực quy định vị trí lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chia xẻ với ai của một chính đảng thì là điều cần tranh luận đến cùng cho ngã ngũ phải trái. Ở đây, khía cạnh vấn đề chúng tôi quan tâm đặc biệt là: Điều 4 Chương 1 trong Hiến pháp hiện nay của ta là sản phẩm quốc nội hay du nhập từ đâu đó, nếu du nhập thì nó có mâu thuẫn hay không với nguyên tắc chủ quyền của nhân dân và có phù hợp hay không với những điều kiện lịch sử cụ thể của nước nhà? Không khó trả lời: đây là sự học tập thiếu sáng tạo, thiếu cân nhắc Điều 6 của Hiến pháp LBCHXHCNXV năm 1977. Điều luật này quy định: “Đảng CSLX là lực lượng lãnh đạo và hướng dẫn xã hội Xô viết, là hạt nhân hệ thống chính trị của xã hội ấy, của các tổ chức Nhà nước và xã hội [...]. Được trang bị bằng học thuyết Mác – Lênin, Đảng CS quyết định phương hướng chung phát triển xã hội, đường lối của chính sách đối nội và đối ngoại của LBCHXHCNXV…


Điều hiến định này, không có trong ba bản Hiến pháp Xô viết trước đó, quả là một “sáng tạo” của giới lãnh đạo Liên Xô những năm 60 – 70 thế kỷ trước, đứng đầu là ngài Brezhnev – một nguyên thủ tài trí thua xa những người tiền nhiệm. Hai Hiến pháp thời Lênin (ông là một luật gia có bằng!) không nói gì về Đảng Cộng sản mà chỉ quy định chủ quyền của nhân dân lao động mà đại diện là các Xô viết. Điều này dễ hiểu: thời ấy, còn hoạt động một số chính đảng không đối lập với chính quyền Xô viết. Ngay sang thời Stalin – lãnh tụ độc tôn của một đảng độc tôn – Hiến pháp 1936 (có hiệu lực đến tận 1977) trong điều 126 (!) vẫn nói một cách khá thận trọng, mềm mại: “[...] Các công dân LBCHXHXV được bảo đảm quyền tập hợp thành các tổ chức xã hội: các công đoàn, tập đoàn hợp tác, các tổ chức thanh niên, thể thao và quốc phòng, các hiệp hội văn hoá, kỹ thuật và khoa học, còn những công dân tích cực và giác ngộ nhất từ hàng ngũ giai cấp công nhân, nông dân lao động và trí thức lao động thì tự nguyện hợp thành Đảng CS Liên Xô là đội tiên phong của nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh nhằm xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, và là hạt nhân lãnh đạo (chúng tôi nhấn – PVC) của tất cả tổ chức của nhân dân lao động, cả các tổ chức xã hội lẫn Nhà nước”. Dẫu sao thì xã hội vẫn đi trước, Nhà nước đi sau, không mâu thuẫn với tư duy pháp quyền của thế giới văn minh! Vào thời hoàng kim của hữu nghị Việt – Xô, chúng ta đã noi gương quá trớn ông anh cả. Vừa mới thu về một mối giang sơn dưới danh nghĩa nào của Mặt trận Dân tộc giải phóng, nào của Liên minh Các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình…, trong lúc còn tồn tại sờ sờ hai đảng Dân chủ và Xã hội đã có công không nhỏ trong sự nghiệp chung mà các nhà lập hiến của ta đã vội vàng không rào trước đón sau ghi vào Hiến pháp 1980: “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội. Tuyên cáo sắt đá như thế mà không buồn tham khảo Hiến pháp của ông anh hai, lúc ấy thù địch với ta đấy, nhưng vẫn chung một hệ thống chính trị – xã hội thoát thai từ cách mạng dân chủ nhân dân. Trong khi đó thì ông anh này rõ ràng tỏ ra cẩn trọng và biết điều hơn ông cả (vì thế mà trường thọ nhiều hơn!)


Luật cơ bản của CHND Trung Hoa trước kia cũng như hiện nay chỉ khẳng định vai trò lãnh đạo xã hội của Đảng Cộng sản trong khuôn khổ Mặt trận thống nhất dân chủ nhân dân bao gồm nhiều chính đảng và tổ chức quần chúng. Lời nói đầu của Hiến pháp 1954 nêu rõ: “Trong cuộc đấu tranh vĩ đại nhằm thành lập nước CHND Trung Hoa, nhân dân nước ta đã thành lập từ các giai cấp dân chủ, các đảng và đoàn thể dân chủ và các tổ chức nhân dân một Mặt trận thống nhất dân chủ nhân dân rộng rãi, đứng đầu là Đảng CSTQ. MTTNDCND ở nước ta sẽ tiếp tục đóng vai trò của mình trong sự động viên và đoàn kết nhân dân cả nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ quá độ. Các đảng dân chủ nói trên (tất cả có tám, trong đó có phái tả của Quốc dân Đảng) ngay trong những năm hỗn loạn nhất của “cách mạng văn hoá” vẫn không bị giải tán, còn từ 1978 thì trở lại hoạt động ngày một năng nổ, được pháp luật bảo vệ và khuyến khích. Xin dẫn một đoạn khá dài từ Lời nói đầu Hiến pháp 1982 của TQ (với nhiều tu chính sau này, lần cuối cùng vào 2004):


Trong sự nghiệp xây dựng CNXH cần phải dựa vào công nhân, nông dân và trí thức, đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết. Trong quá trình cách mạng và xây dựng đất nước lâu dài dưới sự lãnh đạo của Đảng CSTQ đã hình thành một Mặt trận yêu nước thống nhất rộng rãi của các đảng dân chủ và các tổ chức nhân dân khác nhau, tập hợp tất cả những người lao động XHCN, những người tổ chức sự nghiệp CNXH, những người yêu nước ủng hộ CNXH và những người yêu nước ủng hộ thống nhất Tổ quốc. Mặt trận thống nhất ấy sẽ tiếp tục được củng cố và phát triển. Hội nghị nhân dân chính trị hiệp thương Trung Quốc (HNNDCTHT) một tổ chức rộng rãi đại diện cho MTTN – trong quá khứ đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị và xã hội ( chúng tôi nhấn – PVC) trong các quan hệ hữu nghị đối ngoại, trong cuộc phấn đấu thực hiện hiện đại hoá XHCN, bảo vệ sự thống nhất và đoàn kết của cả nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng CSTQ hệ thống hợp tác đa đảng và hiệp thương chính trị ấy sẽ tồn tại và phát triển lâu dài” (chúng tôi nhấn – PVC.) Câu cuối cùng trong đoạn vừa dẫn được đưa vào Hiến pháp TQ năm 1993. Sẽ là không thừa khi nhớ lại rằng vài năm trước đó ở nước ta, Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội đã tuyên bố giải thể vì sự không cần thiết nữa. Trong Hiến pháp Trung Quốc 1954 cũng như 1982 không hề có một điều khoản nào quy định vị trí một mình lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng CSTQ.


Hơi khác ta phải không và khác cả ông anh cả đã qua đời chỉ mười bốn năm sau khi ban hành bằng Hiến pháp quyền độc trị của một chính đảng?


“Mọi quyền lực đều nguy hiểm, quyền lực tuyệt đối nguy hiểm tuyệt đối”, không biết nhà cầm quyền TQ có thấm nhuần chân lý cổ xưa này không, nhưng trong lập hiến thì họ không áp đặt chế độ độc đảng, trong thực tiễn thì họ tỏ ra biết tập hợp quanh mình nhiều phần tử tinh hoa dân tộc, có khả năng đóng góp đắc lực cho phát triển đất nước, nhờ đó mà Trung Quốc ngày nay đã trở thành một cường quốc (và sắp trở thành một siêu cường) cả thế giới phải nể sợ.


Báo chí quốc tế cùng với giới Trung Hoa học xác nhận: ở Trung Quốc, ít nhất trong ba thập kỷ gần đây, HNNDCTHT không phải là tổ chức hữu danh vô thực và các đảng dân chủ ở đây cũng không phải là những cây cảnh thuần tuý. Thua xa Đảng CS về số lượng đảng viên, các chính đảng này, tập hợp chủ yếu các giới kinh doanh, trí thức, nhân sĩ, đang đóng vai trò thấy được trong đời sống của nước này. Theo một tài liệu rất mới và đáng tin cậy của Nga – bộ “Bách khoa thư văn minh Trung Hoa” – các đảng dân chủ ở nước này không chỉ giữ số ghế đáng kể trong các cơ quan quyền lực Nhà nước, mà một đại diện của họ gần đây, thời Giang Trạch Dân, trong một nhiệm kỳ trọn vẹn đã đảm nhiệm chức Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ, còn trong Viện Hàn lâm khoa học TQ hiện nay thì quá một nửa viện sĩ chính thức là đảng viên các đảng dân chủ và như vậy, trong các hoạt động chính trị – xã hội, họ phát ngôn thay mặt các chính đảng của mình. Để so sánh, ở Liên bang Xô Viết xưa kia, trong Viện Hàn lâm khoa học cũng có nhiều Viện sĩ không là đảng viên ĐCSLX, nhưng họ chỉ là những công dân ngoài đảng, không đại diện cho ai hết ngoài cá nhân mình. Thành thử khi một nhà bác học vĩ đại như A.S. Sakharov, tuyệt không thù địch với CNXH mà chỉ mong muốn cho nó có được bộ mặt con người, lên tiếng đòi thực hiện nghiêm chỉnh những quyền con người mà Nhà nước Xô viết đã chính thức công nhận, thì ông lập tức bị nhà đương cục cô lập, không cho làm khoa học, lưu đày nhiều năm mà không một lực lượng xã hội nào cất tiếng nói bênh vực ông. Một trí thức lớn khác – nhà văn A.I. Solzhenitsyn – còn bị đối xử tồi tệ hơn, bị tước quốc tịch và trục xuất ra nước ngoài, để rồi khi thời cuộc đối thay cả hai người đều trở thành niềm tự hào của dân tộc Nga.


Bằng ấy minh chứng từ hai nước XHCN lớn nhất, thiết nghĩ là đủ để cùng với những chứng cứ rút từ thực tại nước ta, yêu cầu nhất thiết phải xét lại một cách cơ bản Điều 4 trong Hiến pháp hiện hành vì sự sinh tồn và phát triển vững mạnh của đất nước. Đảng CSVN sẽ chỉ có lợi nếu chối từ vị trí độc tôn, thiết lập hệ thống hợp tác và kiểm soát lẫn nhau với các tổ chức chính trị xã hội cùng một tôn chỉ. Theo thiển kiến của tôi, một việc có thể làm ngay là để cho hai đảng Dân chủ và Xã hội hoạt động trở lại. Danh chính ngôn thuận thì họ mới chỉ tuyên bố ngừng hoạt động, chứ đã giải thể đâu? Còn trong Hiến pháp sửa đổi thì cần thừa nhận một cách vô điều kiện, cùng với các quyền con người khác, quyền của mọi công dân được lập hội. Học tập nước anh em vĩ đại liền núi, liền sông, trong Lời nói đầu của Hiến pháp có thể xác định vai trò lãnh đạo xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam trong khuôn khổ Mặt trận yêu nước thống nhất, với nhiều tổ chức chính trị hợp tác và kiểm soát nhau. Chỉ có như thế thì mới thực hiện được quyền của nhân dân giám sát hoạt động của Đảng CS mà Dự thảo hiến pháp sửa đổi hứa hẹn.


2. Về quyền con người và các quyền và nghĩa vụ công dân


Pháp quyền khác với Pháp luật ở tính công bằng tuyệt đối của nó, còn tính công bằng ấy thì toát ra từ sự thừa nhận vô điều kiện những quyền tự nhiên, không thể tước bỏ của mọi con người trên hành tinh này. Những quyền con người ấy được đúc kết trong Tuyên bố nhân quyền 1948 của Liên Hợp Quốc – một thành quả ngời sáng của văn minh loài người. Hàng chục quốc gia trong thế giới ngày nay lấy sự bảo đảm quyền con người làm mục đích cho những hoạt động lập hiến và lập pháp của mình. Hiến pháp Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946, ra đời trước Tuyên ngôn nói trên, lại thấm nhuần tinh thần của nó, hơn hẳn Hiến pháp LBCHXHCNXV cả 1936 lẫn 1977. Quả thật, trong khi Hiến pháp 1946 của ta công nhận một cách vô điều kiện những quyền cơ bản của con người như tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài (Điều 10), thì Hiến pháp Liên Xô có hiệu lực từ 1936 đến 1977 chỉ bảo đảm 4 quyền tự do: ngôn luận, xuất bản – báo chí, hội họp và mít tinh, diễu hành và biểu tình với điều kiện chúng phải “đáp ứng hợp với lợi ích của nhân dân lao động và mục đích củng cố chế độ XHCN” (điều 125), còn tự do tín ngưỡng thì được quy định cùng với “tự do tuyên truyền chống tôn giáo” (điều 124), có nghĩa là các công dân được theo tôn giáo này hay tôn giáo kia nhưng không được quyền tuyên truyền cho tôn giáo của mình, còn Nhà nước thì tha hồ phỉ báng, xuyên tạc, bài trừ tôn giáo. Điều 50 và 52 của Hiến pháp LBCHXHCN 1977 lặp lại điều 124 và 125 của Hiến pháp 1936. Điều 51 công nhận quyền các công dân hợp thành các tổ chức xã hội” nhưng lại với điều kiện phải “phù hợp với những mục đích xây dựng CSCN”. Tự do sáng tạo khoa học, công nghệ và nghệ thuật cũng được bảo đảm nếu “phù hợp với mục đích xây dựng CSCN”. Rốt cuộc các công dân Xô viết thực chất không được hưởng một quyền dự do nào tương xứng với phẩm giá con người chứ không phải vật nuôi của họ! Tất cả đều bị đặt dưới mục đích duy trì chế độ chính trị – xã hội hiện hữu.


Đáng tiếc, Hiến pháp CHXHCN Việt Nam 1980 (điều 67-68) đã học tập những thủ đoạn mở ra rồi khép lại của hai nước đàn anh để hạn chế gắt gao quyền cơ bản của con người bằng những điều kiện mập mờ và võ đoán: “Phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân,Không ai được lợi dụng  các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của nhân dân, Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước. Dự thảo Hiến pháp sửa đổi hiện nay (Điều 25-26) về thực chất vẫn giữ nguyên các quy định của Hiến pháp 1980.


Các quyền và nghĩa vụ công dân ghi trong Hiến pháp 1980 của ta về thực chất không thay đổi cho đến nay, cũng là bước thụt lùi so với Hiến pháp 1946. Nếu nói riêng về các nghĩa vụ thì Điều 4-5 Hiến pháp VNDCCH 1946 chỉ quy định: “Mỗi công dân Việt Nam phải: bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng Hiến pháp, tuân theo pháp luật, đi lính” (theo ngôn ngữ hiện nay là thực hiện nghĩa vụ quân sự). Rõ ràng, ngắn gọn và đầy đủ. Trong khi ấy thì Dự thảo Hiến pháp sửa đổi hiện nay chứa đựng một loạt quy định không có nội dung chặt chẽ, tạo điều kiện cho nhà chức trách vi phạm quyền con người. Thí dụ: “Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất. Khái niệm “Trung thành với Tổ quốc” có hàm nghĩa quá rộng và thuộc về lĩnh vực đạo đức nhiều hơn là pháp quyền. Còn những hành vi nào là phản bội Tổ quốc? Không hề xác định. Về điểm này thì luật pháp hiện hành của nước ta thua xa luật pháp của cả Liên Xô lẫn Trung Quốc.


Hiến pháp Liên Xô 1936 quy định khá rõ nội hàm của khái niệm phản bội Tổ quốc, đó là: phản bội lời thề, chuyển sang phía Kẻ thù, phương hại sức mạnh quân sự của Nhà nước, làm gián điệp (điều 133). Những tội ấy bị luật pháp trừng trị nghiêm ngặt. Còn Hiến pháp 1977, trước ý thức pháp quyền đã trưởng thành của các công dân nước này, chỉ dám tuyên bố: “Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất trước nhân dân” (không phải trực tiếp trước pháp luật!). Hiến pháp CHND Trung Hoa hiện hành thì, rất nghiệt ngã về nhiều mặt, lại không dùng đến khái niệm “phản bội Tổ quốc”. Thay vì, người ta quy định: “Công dân CHND Trung Hoa có nghĩa vụ bảo vệ an ninh danh dự và những lợi ích của Tổ quốc, không được có những hành vi phương hại an ninh, danh dự và lợi ích của Tổ quốc” (Điều 54) Dẫu sao thì cũng có nội dung xác thực hơn Luật cơ bản của ta phải không?


Một thí dụ nữa. Điều 49 trong Dự thảo Hiến pháp sửa đổi đã gộp vào làm một những quy định rất khác nhau về tính chất và đẳng cấp: nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật + nghĩa vụ tham gia bảo vệ an ninh quốc gia + nghĩa vụ tham gia bảo vệ trật tự, an toàn xã hội + nghĩa vụ chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng. Chấp hành Hiến pháp và pháp luật quả là một nghĩa vụ công dân, nhưng nghĩa vụ ấy không bãi bỏ quyền của các công dân phản đối những điều luật mà họ cho là không hợp lý, không dân chủ. Còn bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự và an toàn xã hội là nhiệm vụ của các tổ chức nhà nước đặc biệt (quân đội, công an), tại sao tất cả các công dân, mỗi người bận bịu với bao công việc của mình, lại có nghĩa vụ tham gia nếu không thì pháp luật sẽ trừng trị à? Lại còn  nghĩa vụ “chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng. Nếu những quy tắc ấy lạc hậu cần cải tiến hay khắc phục thì sao? Luật pháp của cả Liên Xô xưa kia cũng như Trung Quốc ngày nay trong trường hợp này dùng từ “tôn trọng”. Tôn trọng khác hẳn với chấp hành răm rắp!


Chưa hết “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập”. Nghe thì văn minh và sang trọng đấy nhưng rỗng nội dung và đầy những kẽ hở cho sự vi phạm pháp quyền. Nghĩa vụ học tập ở tuổi nào, học cái gì và đến trình độ nào? Không quy định cụ thể thì việc một ai đó không theo học lớp chính trị nào đó hay không dự buổi phổ biến một quyết định nào đó của đảng cầm quyền hay Nhà nước cũng có thể quy thành tội phải bị trừng trị. Ở đây chúng ta đã sao chép nguyên văn điều 46 Hiến pháp hiện hành của CHND Trung Hoa. Hiến pháp Liên Xô năm 1936 rồi 1977 thì tuyên cáo quyền học tập của mọi công dân cùng với quy định mọi thanh thiếu niên phải học hết trung học phổ thông. Có vẻ đi đầu thiên hạ đấy, nhưng chính dựa vào điều luật này mà nhà đương cục Xô viết đã kết tội nhà thơ lớn Iosif Brodski (sau này được giải Nobel) vì đã bỏ học giữa cấp hai rồi sau đó không có công ăn việc làm ổn định (tức là vi phạm một nghĩa vụ công dân khác – lao động!) để đày ải ông, và chỉ sự phản đối mãnh liệt của dự luận quốc tế mới giúp ông lấy lại được tự do, để rồi sau đó bị cưỡng chế lưu vong. Không được xác định thật hợp lý và chặt chẽ thì các quyền và nghĩa vụ công dân có thể trở thành những cạm bẫy nguy hiểm thế đấy!


3. Về chế độ sở hữu nói chung và sở hữu đất đai nói riêng.


Như ta biết, Liên Xô – nhà nước XHCN cổ điển – trong các văn bản lập hiến chỉ thừa nhận ba hình thức sở hữu: nhà nước (hay là toàn dân) tập thể và cá nhân (không phải tư nhân), trong đó sở hữu nhà nước được quy định là hình thức sở hữu XHCN cơ bản. Đất đai, các tài nguyên dưới đất, nước, rừng là “sở hữu đặc quyền của Nhà nước (Hiến pháp 1977, điều 11). Nhà nước cấp đất cho các nông trang tập thể sử dụng vô thời hạn. Quá trình tập thể hoá nông thôn và xoá bỏ giai cấp kulak ở LBXV, được ca ngợi đến thế, trong thực tế là quá trình tước đoạt đất đai của nông dân và thủ tiêu cái tầng lớp nông dân thông minh, cần cù, tháo vát nhất. Mất đi những người chủ yêu mến và chăm sóc mình, đất không sinh sản nữa. Kết quả là nước Nga, trước cách mạng nuôi sống một nửa châu Âu bằng bột mì của mình, dưới chính thể Xô viết, ngay vào thời “chủ nghĩa xã hội phát triển”, có hẳn một Bộ Thu mua lương thực mà vẫn phải hàng năm nhập khẩu hàng triệu tấn ngũ cốc, trong khẩu phần hàng ngày của người công dân Xô viết thiếu hơn 40% chất đạm động vật cần thiết. Hậu quả tai hại của việc huỷ bỏ sở hữu tư nhân về đất đai trong vòng hơn 70 năm sẽ còn ảnh hưởng lâu dài đến các thế hệ người Nga. Nhưng hiện nay, khi đất đã được trả lại cho người canh tác, nước Nga lại bắt đầu xuất khẩu lương thực.


Thành quả của công cuộc tập thể hoá nông thôn ở CHND Trung Hoa cũng không khả quan hơn. Sau thất bại ê chề của các “công xã nhân dân” bị quân sự hoá, hiện nay với chế độ sở hữu Nhà nước và tập thể về đất đai được Hiến pháp quy định, Trung Quốc không phải là nước dư dật lương thực thực phẩm; nông thôn nước này ở trong tình trạng thê thảm, hàng chục triệu người làm ruộng bỏ đất đi kiếm ăn khắp nơi, làm nảy sinh rất nhiều vấn đề xã hội.


Nông thôn nước ta, nơi 90-80% dân ngàn đời sinh sống, cũng từng trải qua những thập kỷ điêu đứng. Để kinh tế đất nước phát triển vững chắc, cần bỏ ngay sự bắt chước ông anh cả đã chết sớm và đi trước ông anh hai trả lại quyền sở hữu tư nhân cho những người canh tác đất.


4. Về các tổ chức Nhà nước.


Sẽ mất nhiều thời gian so sánh chi tiết hệ thống các tổ chức Nhà nước của ta với hệ thống tương tự ở Liên Xô xưa kia và Trung Quốc hôm nay. Điều tôi muốn tất cả các công dân nước ta lưu ý đặc biệt là ở ta, giống hệt ở hai nước đàn anh, ngoài bộ máy Nhà nước chính danh còn có những bộ máy khác, phi Nhà nước nhưng lại tiêu tốn một phần rất không nhỏ (thường không được công bố) của ngân sách nhà nước, đứng đầu là bộ máy của đảng cầm quyền rồi đến của các tổ chức chính trị – xã hội khác: Mặt trận TQ, Đoàn TNCS, Liên hiệp Công đoàn, Liên hiệp Phụ nữ, các hội sáng tác v.v… Hoạt động của các bộ máy ấy là một gánh nặng vô lý cho dân. Thành thử Hiến pháp sửa đổi phải quy định: tất cả các tổ chức phi Nhà nước hoạt động tự túc. Thứ hai, để cho bộ máy Nhà nước hoạt động hiệu quả và ít tốn kém, cần thiết lập hệ thống thi cử – sát hạch công chức nghiêm ngặt – hệ thống ấy có cội rễ lâu đời trong lịch sử nước nhà và hiện giờ vẫn tồn tại với tư cách một hệ thống pháp định ở CHND Trung Hoa (học tập Đài Loan) và người Trung Quốc xem nó là một đặc điểm đáng tự hào của nền văn minh của họ. Không có một hệ thống thi cử – sát hạch hữu hiện và một loạt biện pháp khác thì bộ máy Nhà nước càng ngày càng trở nên cồng kềnh và tốn kém cho dân, như ở nước Nga hiện nay, nơi hiệu quả làm việc của 15 công chức chỉ bằng hiệu quả hoạt động của 1 công chức ở Pháp!


5. Về lực lượng võ trang


Việc Dự thảo Hiến pháp sửa đổi vẫn quy định Lực lượng võ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành trước hết với Đảng Cộng sản Việt Nam, rồi mới đến Tổ quốc và nhân dân là một sáng tạo độc nhất vô nhị của chúng ta. Chương 5 Hiến pháp Liên Xô 1977 chỉ quy định: “Vì mục đích bảo vệ các thành quả XHCN, lao động hoà bình của nhân dân Xô viết, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia đã được xây dựng Lực lượng võ trang LBCHXHCNXV và thiết lập nghĩa vụ quân sự phổ thông. Nghĩa vụ trước nhân dân của Lực lượng võ trang LBCHXHCNXV là bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN luôn luôn ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm sự đánh trả lập tức bất kỳ một kẻ xâm lược nào”. Còn điều 55 Hiến pháp Trung Quốc hiện hành thì tuyên bố: “Bảo vệ Tổ quốc và đẩy lùi xâm lược là bổn phận thiêng liêng của từng công dân CHND Trung Hoa. Việc phục vụ trong quân đội và tham gia dân quân theo pháp luật quy định là nghĩa vụ danh dự của các công dân CHND Trung Hoa. Cả hai điều hiến định ấy đều hợp lý, hợp tình, không mang dấu ấn đảng trị. Sự cần thiết xoá bỏ trong Hiến pháp Việt Nam sự quy định lực lượng võ trang phải trung thành với Đảng cộng sản và bảo vệ Đảng là hiển nhiên.


6. Về trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp


Ở các quốc gia dân chủ hiện đại quyền lập hiến là của toàn dân chứ không phải của Quốc hội. Không chỉ Hiến pháp mà bất cứ một thay đổi nào quan trọng trong Hiến pháp người ta cũng đưa ra trưng cầu ý dân, để cho dân phúc quyết. Thí dụ như việc rút ngắn nhiệm kỳ Tổng thống từ 7 năm xuống 5 ở Pháp hay kéo dài nhiệm kỳ Tổng thống từ 4 lên 6 năm ở Nga gần đây.


Việc trong Hiến pháp LBCHXHCN xưa kia và CHND Trung Hoa ngày nay không có những điều hiến định tương tự là khuyết điểm quan trọng của hai Luật cơ bản ấy.


7. Về thời hạn góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp


Việc Hiến pháp của một nước bị thay đổi và sửa đổi xoành xoạch thể hiện sự không chín muồi, kém phát triển của hệ thống pháp quyền nước ấy. Để khắc phục tình trạng này, cần tổ chức những cuộc toàn dân góp ý cho các Dự thảo Hiến pháp mới hoặc Hiến pháp sửa đổi một cách nghiêm chỉnh, chặt chẽ, với sự phản ánh đầy đủ trên các phương tiện thông tin đại chúng. Dự thảo Hiến pháp cuối cùng của Liên Xô, trước khi Xô viết tối cao thông qua, được công bố cho toàn dân thảo luận trước đó nửa năm. Như vậy, ít nhất về hình thức, một nguyên tắc dân chủ được tuân thủ. Ở nước ta hiện nay, việc nới rộng thời hạn lấy ý kiến của nhân dân về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi do Quốc hội công bố đồng thời khuyến khích các công dân đề xuất các dự thảo khác để cùng bàn thảo là việc không thể không làm.


Hà Nội, ngày 3 tháng 2 năm 2013


P.V.C.


Theo BVN


………………………………………….


Chú thích


(1) Tất cả các đoạn trích từ Hiến pháp Trung Quốc đều được dịch từ bản Nga ngữ



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 15, 2013 16:33

Quê Choa thứ bảy ngày 16/02/2013

Cập nhật liên tục trong ngày


image108 Lời kêu gọi của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp trước cuộc chiến biên giới Việt-Trung 1979


Cuộc xâm lược quy mô lớn vào nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã làm cho tập đoàn phản động Trung Quốc lộ rõ nguyên hình. Chúng là bọn phản bội lớn nhất của thời đại, phản cách mạng, phản chủ nghĩa Mác – Lê nin. Chúng là một “bầy quạ đội lốt công”, đã vứt bỏ cái mặt nạ giả danh cách mạng. Cuộc chiến tranh xâm lược nước ta thực chất là một bộ phận của chiến lược bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của chúng, của chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, đồng thời là một bộ phận của chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc quốc tế.


vnm_2013_1839136 Cảnh giác với bước xâm lấn Biển Đông kiểu mới của Trung Quốc


Thời gian gần đây, Trung Quốc ngày càng lộ rõ tham vọng độc chiếm Biển Đông. Để đạt được mục đích này, Trung Quốc đã đi bằng nhiều con đường, từ những bước đi hung hăng trên biển đến những động thái đầy khiêu khích trên mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao… Giờ đây, Trung Quốc còn tìm cách xâm lấn Biển Đông bằng một hình thức mới rất tinh vi mà ít ai ngờ tới.


3_1824 Nghị Phước đòi “Anh hóa” tiếng Việt


Chuyện hy hữu này chắc rằng chỉ riêng “nhà ngôn ngữ học đại tài với ‘học hâm cao’ Hoàng Hữu Phước mới có thể


Do trong hơn 20 năm qua tôi thường ngỏ ý với học trò và nhân viên về vấn đề Tên Tiếng Anh Cho Người Việt, nay nhận được lời nhắc nhở và đề nghị tuy chỉ mới của một nhân viên còn nhớ chuyện ngày xưa, tôi cũng muốn nêu lại vấn đề này như một đề xuất đúng thời điểm tuyệt vời vài chục năm mới có một lần này


535552_557073767649756_247676742_n Đầu năm, từ lễ hội suy nghĩ về văn hóa và tâm thế xã hội


Sau những ngày Tết Nguyên đán, trống hội đã gióng lên. “Bao nhiêu trống với chiêng tưng bừng vui rộn rã. Bao nhiêu phướn với hoa quay cuồng đến ngợp trời”. Mùa lễ hội đã bắt đầu! Bao nhiêu những bãi đất trống trước cửa đình đã lại náo động trong những ngày hội xuân rộn rã. Ba tháng ăn chơi bắt đầu. Những cuộc sát phạt trên các chiếu bạc từ làng quê đến phố thị ăn theo mùa lễ hội cũng đã bắt đầu khởi sự…


images Hồ Cương Quyết, André Menras: Để thay thế một bản báo cáo gửi bạn bè


Trong dịp tết, tôi đã thay mặt họ, trao 385 triệu đồng cho 50 gia đình ngư dân Bình Châu và Lý Sơn (Quảng Ngãi), 30 học bổng (sáu tháng) cho con em ngư dân nghèo. Thông điệp mà các bạn ấy gửi về không thể rõ ràng và thắm thiết hơn : « Bà con ngư dân !Bà con không cô đơn, chúng tôi ở bên cạnh bà con. Bà con hãy bám biển, bám đảo, hãy tiếp tục chiến đấu vì gia đình, vì quê hương, tổ quốc. Chúng tôi rất tự hào vì bà con ».


373111_513382712014083_581802536_n Cuộc Chiến 1979 và Hoàng Sa


Tôi công bố bài viết này không chỉ vì sắp đến ngày 17-2 mà còn vì, muốn lưu ý, “người Trung Quốc làm gì cũng có tính toán”, không nên đặt cuộc chiến tranh 17-2 ra ngoài âm mưu Biển Đông. Bản Giốc, Tục Lãm… giờ đã xong; nhưng, Hoàng Sa, Trường Sa thì vẫn đó.


Ngày 7-2-1979, tại Tokyo, khi ngầm thông báo với báo chí một chiến dịch “trừng phạt” Việt Nam, Đặng Tiểu Bình giải thích: “Hiệp ước mà Việt Nam và Liên Xô ký kết có tính chất đồng minh quân sự. Việt Nam đã mở cuộc xâm nhập vũ trang vào Campuchia và đang khiêu khích ở biên giới Trung Quốc”. Tuy nhiên, nguyên nhân thực sự của cuộc chiến tranh mà Đặng Tiểu Bình thực hiện 10 ngày sau không đơn giản chỉ là những gì được nói ra trong lời tuyên bố ấy.


Sao được cho ra cái giống người .

Sao được cho ra cái giống người .


Lăng Tần Hoàng Hữu Phước – Vì Việt Nam, vì Hoa Kỳ, vì thế giới, tôi đã dồn tiền bạc.


Tôi Hiến Kế Liên Hoành Cho Saddam Hussein


Việc George W. Bush ngày 29/01/2002 tuyên bố liệt Iran, Iraq và Triều Tiên thành trục liên minh ma quỷ (axis of evil) là một cơ hội bằng vàng để thực hiện kế sách Liên Hoành, hình thành một khối trục mới Neo-Axis của sức mạnh liên kết phòng thủ, tự vệ, bảo vệ sự bình an cho nhân dân các nước  Neo-Axis, duy trì thăng bằng cán cân quân sự cần thiết cho thế giới, vốn khác với khối trục Đức-Ý-Nhật gây chiến tàn khốc cho nhân loại.


4a Đây là cái gì chứ không phải phản biện !


Trao đổi với Thanh Niên chiều 15.2, Phó chủ tịch QH Uông Chu Lưu cho biết ông chưa có điều kiện tìm hiểu rõ thực hư sự việc ĐBQH Hoàng Hữu Phước viết trên blog cá nhân về ĐB Dương Trung Quốc, song theo quan điểm của ông Lưu, việc  ĐBQH trao đổi mà lại có tính chất mạt sát nhau, xúc phạm nhau là hoàn toàn không nên. “Anh có thể phát biểu chính kiến quan điểm của anh với những lập luận, lý lẽ thuyết phục, có văn hóa, xây dựng nhưng không thể thóa mạ, xúc phạm nhau”, Phó chủ tịch QH nói.


Ông đồng thời cho biết, trong các nội quy của kỳ họp của QH, quy chế về hoạt động của ĐBQH cũng đều cấm các ĐBQH xúc phạm, thóa mạ lẫn nhau, không chỉ trong kỳ họp mà cả hoạt động của ĐB giữa hai kỳ họp. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có quy định chế tài xử lý hành vi này


vnm_2013_1833731


Khi những quy định, đề xuất bị … “ném đá”

Phạt chủ sử dụng ô tô, xe máy không chính chủ; ghi tên cha mẹ trên chứng minh thư nhân dân; đề xuất thu phí hạn chế phương tiện cá nhân và tang lễ chỉ có 7 vòng hoa…. là những quy định, đề xuất bị ném đá nhiều nhất trong năm qua. Những năm gần đây, không ít chủ trương, chính sách được đề xuất hoặc ban hành bị dư luận phản đối, dẫn đến không đi vào cuộc sống thực tiễn … Không ít văn bản, khi vừa đưa vào thực thi đã bị Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật – Bộ Tư pháp ‘tuýt còi’.


VM1 Bánh vẽ của đồng chí Vũ Mão


Thưa ông nguyên Chủ tịch Văn phòng Quốc hội đồng thời cũng là đảng viên trung thành của đảng CS, nếu chúng… ông có chút nhận xét sâu sắc và có tư duy về Nhà nước pháp quyền thì ngay lập tức đã không thể có cái “sự lãnh đạo của Đảng” (Đảng viết hoa tức là duy nhất, danh từ riêng) và từ đó đã và sẽ không phải, không cần có cái gọi là Luật về sự lãnh đạo của Đảng. Bây giờ và sắp tới, nếu các ông bày ra cái “luật về đảng lãnh đạo” thì ai (con người làm nên cơ chế) kiểm soát việc thi hành luật đó. Nếu không phải cũng là đảng viên các ông!?

nguyen-van-binh-0 Về Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Nguyễn Văn Bình


Disclaimer: Tôi chưa từng gặp ông Nguyễn Văn Bình và không có bất kỳ quyền lợi hay interest nào ở NHNN, ngoại trừ mong muốn nó tốt lên. Tôi viết bài phân tích này với tư cách một người ngoài cuộc có chút chuyên môn (và cặp mắt “cú vọ” :-) ) nhân đọc bài phỏng vấn có tính chất PR của ông Bình. Thông tin sử dụng trong bài này lấy từ các websites có links bên trên vào thời điểm tháng 2/2013.


130129230936_john_kerry_464x261_afp_nocredit



Tân Ngoại trưởng Mỹ John Kerry được dẫn lời nói Mỹ hoàn toàn ủng hộ việc Philippines tìm giải pháp cho tranh chấp lãnh thổ tại tòa quốc tế. Theo ông del Rosario, ông Kerry tỏ ra rất tán thành Unclos và là một trong những người mạnh mẽ ủng hộ cho công ước này tại Thượng viện Mỹ.


“Ngoại trưởng Kerry là động lực cho một nghị quyết của Thượng viện nhằm giải quyết tranh chấp ở biển Tây Philippine (Biển Đông) một cách hòa bình.”


ben-thangcuoc-huyduc-danlambaovn Tại sao BÊN THẮNG CUỘC?


Giữa trăm triệu ngàn tài liệu ngổn ngang lưu trữ và chọn lọc, Huy Đức đã chọn thủ pháp sắp xếp của nghệ thuật collage như thế nào để cuộc sống của hàng triệu triệu sinh mệnh lênh đênh trong lên ghềnh xuống thác của người Nam, kẻ Bắc, người thắng, kẻ thua, người chính, kẻ tà trong dòng sinh mệnh hợp lý và bất hợp lý của những trò chơi của quyền lực và chính trị, trong bóng tối và dưới ánh sáng, bỗng hiện lên rõ ràng, dưới ánh sáng của chiếc đũa thần Huy Đức hươ lên một vòng chói lọi… Và đi tới đâu, ánh sáng thần của chiếc đũa ấy cũng soi rọi đến từng ngõ ngách, hóc hẻm của mỗi tâm tình, mỗi thân phận, mỗi nỗi đời trong vòng nhiễu nhương quay tít trong cuộc đảo điên chính trị Việt Nam, trên dưới, trong ngoài, muôn ngàn áp lực của chính cuộc thế giới, và nghĩa là của cả trái đất này, và là của những kiếp người trong khúc quanh khốc liệt của một giai đoạn lịch sử Việt.


images Bàn về sự bất ngờ trong cuộc chiến biên giới Việt – Trung


Từ hòa bình chuyển sang chiến tranh, có nghĩa là xã hội có một sự chuyển trạng thái đột ngột. Tất nhiên, nó sẽ xuất hiện rất nhiều dấu hiệu khác thường lưu tâm các nhà lãnh đạo. Các dấu hiệu đó có thể diễn ra một cách lớp lang, có thứ tự, có quy luật nhưng cũng có thể diễn ra một cách hỗn độn, khó hiểu, khó nắm bắt. Điều đó càng đòi hỏi các nhà lãnh đạo phải thực sự sáng suốt, nhạy bén nắm bắt tình hình, tìm ra quy luật mới có thể chủ động đối phó có kết quả.


Không có gì khó khăn hơn là dự đoán trước thời điểm nổ ra một cuộc chiến tranh. Lịch sử đã cho thấy điều đó.


130215110316_propaganda_loudspeaker_vietnam_464x261_afp


Việt Nam có tên trong “Danh sách Nguy hiểm” các quốc gia có xu hướng đi xuống trong tự do báo chí trong năm 2012 do Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ) công bố.


 CPJ, tổ chức độc lập có trụ sở chính tại New York chuyên cổ súy cho tự do báo chí và bảo vệ quyền lợi cho giới phóng viên, lập danh sách dựa trên các tiêu chí như nhà báo bị thiệt mạng, cầm tù, luật pháp cấm đoán, kiểm duyệt, hoặc thiếu biện pháp trừng phạt đối với các vụ tấn công báo chí và nhà báo bị buộc phải nghỉ việc.


questionmark10 Tại sao vậy?


Dân Việt Nam dễ tính lắm. Ai làm chủ tịch nước, ai làm Thủ tưởng cũng được miễn là bào đảm cho dân có đời sống vật chất và tinh thần ổn định, tức là có cơm ăn áo mặc, con cái họ được học hành tử tế và có thể nối dõi xứng đáng. Đất nước trường tồn, nhân dân “vạn đại”, chứ “quan thì nhất thời” thôi. Ai có thể nối mãi đời làm quan, mà quan không có dân thì quan với ai ?


Có ánh sáng ban ngày thì mới biết bóng tối ban đêm. Chuyện đơn giản. Dân Việt Nam ta trong thời điểm này có lẽ “không cần” và “không chịu nổi” “một bộ phận không nhỏ” lãnh đạo, làm quan, tham nhũng, nhũng nhiễu dân chúng…làm khổ dân



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 15, 2013 16:22

Đạ̣i biểu Quốc hội Dương Trung Quốc nói về việc bị Nghị Phước công kích

110722125416_duongtrungquoc304Trong một hành động chưa có tiền lệ, Đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phước viết bài công kích gay gắt sử gia Dương Trung Quốc trên blog của mình.


Bài viết với lời lẽ nặng nề, gọi ông Quốc là “ăn nói hồ đồ, xằng bậy”, “hấp tấp, hiếu chiến, háo thắng”…


BBC đã hỏi chuyện đại biểu Dương Trung Quốc về bài viết này.


Đại biểu Dương Trung Quốc: Tôi cũng có theo dõi, kể cả qua BBC và một vài trang mạng nữa, các ý kiến của anh Hoàng Hữu Phước, đại biểu TP HCM.


Quan điểm của tôi là Quốc hội Việt Nam tuy chưa có khái niệm đối lập, nhưng sự khác biệt trong ý kiến thì càng ngày càng nhiều và sinh hoạt Quốc hội cũng khuyến khích chuyện này.


Bởi vì qua các khác biệt, các tranh luận, phản biện, chất lượng những quyết định của Quốc hội sẽ tốt hơn.


Vì thế, những vấn đề mà anh Phước nêu lên, tôi nghĩ, mang ra diễn đàn Quốc hội sẽ thích hợp hơn.


Viết trên trang mạng, blog riêng của anh ấy thì tôi không bình luận, chỉ có điều tôi cũng theo dõi ý kiến phản hồi của độc giả [trên các trang mạng và blog của ông Phước], mà tôi quan tâm hơn là ý kiến của cá nhân anh Phước.


Phản hồi của cử tri [của ông Phước] thế nào thì để họ nói hay hơn tôi, nhất là cử tri của một thành phố lớn, nhiều trí thức, là những người đã bầu ra anh Phước.


Đối với tất cả các đại biểu Quốc hội, tôi đều giữ sự tôn trọng. Ý kiến nào xác đáng thì tôi sẵn sàng lắng nghe, nhưng những ý kiến [nặng tính công kích cá nhân] như của anh Phước thì quả là không đáng quan tâm.


BBC: Khi đọc bài viết ông có cảm thấy sốc không ạ, vì quả thực những ngôn từ mà ông Hoàng Hữu Phước sử dụng cũng hiếm thấy trên các blog thông thường, mà đây lại là blog mà ông Phước dùng để giao lưu với cử tri của ông ấy ạ?


Đại biểu Dương Trung Quốc: Không, tôi không sốc gì cả. Đương nhiên trong lòng cũng có một vài suy nghĩ.


Tôi cũng chỉ nghĩ là ngày Tết đang vui vẻ, gần gũi bạn bè, gia đình, đọc cái blog đó nó như ăn phải hạt sạn. Nhưng tôi sẽ không nhè ra đâu mà sẽ nuốt vào trong bụng đấy.


Mình sống trong môi trường này thì mình cũng phải làm quen dần đi nhưng phải giữ được thái độ của mình trước sau như một.


Tôi là một tiếng nói độc lập, mong rằng có thể tiếp tục đóng góp tốt hơn cho đời sống xã hội và phát triển của đất nước tôi.


BBC: Tất cả các đại biểu Quốc hội ở Việt Nam đều phải qua bầu cử ạ, tức là phải được cử tri bỏ phiếu bầu. Vậy liệu sự khác biệt giữa các đại biểu, như giữa ông và ông Hoàng Hữu Phước chẳng hạn, có gợi ra băn khoăn gì về quá trình bầu chọn người đại diện cho nhân dân?


Đại biểu Dương Trung Quốc: Có lẽ tôi không bình luận, vì cơ chế của quốc gia nó đang như thế. Cần coi đây là hiện thực đang tồn tại, ta chấp nhận nó và ta làm nó thay đổi dần dần thôi.


BBC: Thưa, trong kỳ họp Quốc hội sắp tới, ông nghĩ mình sẽ phản ứng thế nào khi gặp ông Hoàng Hữu Phước?


Đại biểu Dương Trung Quốc: Cũng bình thường như một trong mấy trăm người thôi. Có vấn đề gì anh ấy nêu lên ở Quốc hội mà cần trao đổi, hay là ở các diễn đàn, thì tôi sẵn sàng.


Nói có đầu có đũa, có đi có lại, và để mọi người cùng lắng nghe, cùng chia sẻ.


BBC: Nếu có lời kêu gọi bãi nhiệm ông Hoàng Hữu Phước vì các phát ngôn của ông ấy thì ông có ủng hộ không ạ?


Đại biểu Dương Trung Quốc: Tôi xin phép không bình luận. Mọi cái đều có cơ chế của nó, nguyện vọng của người dân cũng cần được tôn trọng.


Cứ để tự nhiên, thì chắc qua cái này mỗi người cũng rút ra được điều gì đó


BBC cũng đã tìm cách liên lạc với ông Hoàng Hữu Phước để hỏi thêm ý kiến ông nhưng chưa được trả lời.




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 15, 2013 06:21

February 14, 2013

Chủ tịch Trương Tấn Sang khẳng định hệ thống chính trị của chúng ta ” Không dám nói lên sự thật”

Trần Mạnh Hảo


images448974_Chu-tich-2Sự thật sẽ giải thoát anh em


(Lời Kinh Thánh)


Trên báo Sài Gòn giải phóng online ngày 13-02-2013, trong bài : “Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: Vũ khí của chúng ta là dám nói lên sự thật” có đoạn viết như sau:


“Khi nghe bà Phan Thị Tươi giới thiệu chồng mình – ông Hoàng Thái Lai, đã nghỉ hưu nhiều năm nay, hiện là Bí thư Chi bộ khu phố 2, phường Thảo Điền (quận 2), Chủ tịch nước hỏi: “Đồng chí có gửi gắm gì không?”. “Tôi mong mỗi cán bộ lãnh đạo hãy làm đúng những gì đã nói”. “Đúng, làm đúng những gì đã nói đang là thách thức rất lớn đối với chúng ta hiện nay” – Chủ tịch nước chia sẻ.


“Sau khi lắng nghe những phát biểu nói lên kỳ vọng của các thành viên trong gia đình GS-TS Phan Thị Tươi, Chủ tịch nước nói: “Từ trước đến nay, chúng ta có “cái bệnh” rất lớn là không dám nói lên sự thật. Hôm nay nghe đồng chí bí thư chi bộ khu phố nói, tôi thấy đấy là sự thật, một sự thật ở ngay trong dân. Chắc chắn người dân đã gửi gắm rất nhiều vào đồng chí bí thư, nên hôm nay tôi mới nghe được gửi gắm của dân mong muốn mỗi cán bộ, đảng viên phải làm đúng những gì đã nói. Đây là tiếng nói của lòng dân, Đảng hiểu dân nói mới là thước đo niềm tin chính xác nhất. Nhiều cán bộ không muốn nghe sự thật và không dũng cảm nói lên sự thật là vì lợi ích…” ( hết trích – chữ in đậm do TMH nhấn mạnh).


Có lẽ, từ ngày Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) nhảy ra cướp chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim ngày 19-8-1945, chưa từng có một vị lãnh tụ nào dũng cảm đứng ra nói với toàn thể đồng bào trong ngoài nước về CÁI BỆNH RẤT LỚN của những người cộng sản là CĂN BỆNH DỐI TRÁ (tức: “ không dám nói lên sự thật”) như ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang trong dịp tết Quý Tị này như vừa dẫn: “CHÚNG TA CÓ “CÁI BỆNH RẤT LỚN LÀ KHÔNG DÁM NÓI LÊN SỰ THẬT”


Xin xem định nghĩa đại từ CHÚNG TA trong từ điển: “Chúng ta: Bản thân mình cùng với người đối thoại: Chúng ta đi đâu bây giờ, vì tương lai con em chúng ta” (Đại từ điển tiếng Việt –NXB Văn hóa – Thông tin- 1999, trang 400)


Như vậy, hàm nghĩa từ CHÚNG TA nơi câu nói của chủ tịch nước Trương Tấn Sang bao gồm chính ông và vợ chồng người đảng viên ông đến thăm, nói rộng ra là chính chủ tịch nước và tất cả mọi người Việt Nam đọc báo đều cùng mắc cái  bệnh rất lớn là bệnh dối trá này. Nhưng đa số nhân dân đâu có cơ hội để mắc bệnh này, vì họ, tức nhân dân, tức người dân thường, tức tư nhân không có quyền ngôn luận, tức không có quyền ra báo.


Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam, người tự xưng là đày tớ của nhân dân mới có quyền phát ngôn trên 700 tờ báo nói, báo viết, báo hình mà thôi. Cho nên từ “chúng ta” trong nội hàm của câu nói trứ danh này của ông Trương Tấn Sang chính là nhằm nói rằng: hệ thống cầm quyền, hệ thống chính trị tức Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang mắc CÁI BỆNH RẤT LỚN LÀ KHÔNG DÁM NÓI LÊN SỰ THẬT. Mà không dám nói lên sự thật chính là “cái bệnh rất lớn” là nói dối vậy.


Nếu câu nói này (chúng ta có cái bệnh rất lớn là không dám nói lên sự thật) phát ra từ một người bất đồng chính kiến thì chắc sẽ bị công an bắt giam vì điều 88: tuyên truyền nói xấu chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng khi câu nói RẤT CHÍNH XÁC này phát ra từ miệng vị chủ tịch nước Trương Tấn Sang lại là một vấn đề không nhỏ, không phải nói để chơi. Đó là nhận thức quan trọng nhất mà một lãnh tụ Đảng Cộng sản Việt Nam – ông Trương Tấn Sang – đã dũng cảm nói lên sự thật rất đáng buồn rằng: hệ thống cầm quyền của những người cộng sản là một hệ thống thiếu trung thực, lấy sự dối trá làm bản chất.


Ai ai trong thế kỷ thứ 21 này cũng đều biết chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản của C.Marx và F. Engel bắt nguồn từ chủ nghĩa xã hội không tưởng của các nhà triết học tiền Mác-xít: Saint Simon, Charles Fourier, Robert Owen… là những hệ thống xã hội không tưởng, ảo tưởng, không có thật, bịa đặt… Một xã hội xã hội chủ nghĩa tiến tới thiên đường cộng sản là một xã hội phi lý, phi nhân – nơi chỉ có cái thiện mà không có cái ác, chỉ có cái tốt mà không có cái xấu, chỉ có cái thật mà không có cái giả, tức là một xã hội phi biện chứng. Trong xã hội giả tưởng đó, người ta sống theo nguyên tắc vô cùng phi lý: làm theo năng lực (có  hạn) hưởng theo nhu cầu (vô hạn). Trong xã hội bịa đặt phi biện chứng đó, nhà nước bị triệt tiêu, biên giới Việt Nam và Trung Hoa bị xóa bỏ (tất nhiên Việt Nam sẽ thành quận huyện của Tàu, đó là xã hội cộng sản hay sao?). Ở Cái xã hội bịa đặt khủng khiếp có tên là xã hội chủ nghĩa, xã hội cộng sản ấy, quyền tư hữu bị xóa sổ, cá nhân bị xóa sổ, nhân tính bị xóa sổ, gia đình bị xóa sổ, quốc gia bị xóa sổ, tôn giáo bị xóa sổ, cái riêng bị xóa sổ, đất nước bị xóa sổ, dân tộc bị xóa sổ…


Liên Xô sau 74 năm đi tìm cái xã hội chủ nghĩa không tưởng mà tìm mãi không thấy, chỉ thấy cả đất nước rộng bằng một phần sáu địa cầu biến thành trại tập trung với máu và nước mắt, với gần 100 triệu người bị giết hại vì lý thuyết đấu tranh giai cấp duy ác Mác – Lê…  Nay Liên Xô đã quay lại con đường tư bản chủ nghĩa để đi cùng đường với nhân loại…


Trung Quốc đã từ bỏ chủ nghĩa xã hội dã man từ năm 1978 để xây dựng xã hội theo mô hình tư bản, mô hình thị trường; nhưng vẫn mạo danh xã hội chủ nghĩa để đỡ bẽ mặt vì Trần Độc Tú, Cù Thu Bạch, Mao Trạch Đông đã sai lầm vô hạn khi áp dụng chủ thuyết duy ác Mác-Lê vào Trung Quốc. Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc cuối năm 2012 đã không còn nhắc đến Mác-Lê-Mao… Đảng Cộng sản Pháp trong đợt đại hội cách đây mấy ngày, đã good bye cờ búa liềm là cờ của nước Liên Xô trước đây…


Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo từ năm 1986 đã chôn chủ nghĩa xã hội để xây dựng chế độ tư bản nhưng vẫn còn giữ cái đuôi dối trá rất vô nghĩa là “ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA”…


Mùa tết năm nay, qua lời thú nhận của chủ tịch nước Trương Tấn Sang về hê thống xã hội cộng sản của ông và các ông vốn là một hệ thống dối trá “KHÔNG DÁM NÓI LÊN SỰ THẬT” chính là cuộc thay đổi tư duy đáng trân trọng của giới lãnh đạo Việt Nam…


Khi cả thế giới đều biết chủ nghĩa xã hội kiểu quốc tế ba của Mác-Lê là một chủ nghĩa ảo, một học thuyết bịa đặt , dối trá từng giết hại hàng trăm triệu người trên thế giới thì khi đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta lại phải mang cả khối dối trá trên mình, liệu có trung thực, có đúng đắn hay không: “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM”. Chủ nghĩa xã hội = sự không có thật, chẳng lẽ quốc hiệu của ta lại ra thế này ư: CỘNG HÒA KHÔNG CÓ THẬT VIỆT NAM”?


Từ sự nhận thức trên mang tính cách mạng của chủ tịch nước Trương Tấn Sang, chúng tôi hy vọng Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ nhanh chóng từ bỏ những khái niệm dối trá, chủ nghĩa dối trá để trở về cùng đường với dân tộc và nhân loại.


Chúng tôi xin trích hai đoạn ngắn trong bài viết của mình năm 2010: “Chỉ có sự thật mới giải phóng con người, giải phóng văn học và đất nước” (là tham luận của TMH trong đại hội nhà văn Việt Nam, nhưng không được phép đọc, đã post lên mạng trước đại hội) làm phần kết của bài viết này:


Nếu Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam thử một lần hợp tác với đất nước, với dân tộc Việt Nam mở HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG CHỐNG GIẶC NÓI DỐI để tìm ra con đường cứu nguy dân tộc đang trên đà suy vong, thì công này của quý vị rất lớn. Ông cha chúng ta đã đánh thắng giặc Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh… để bảo tồn đất nước. Tất cả các thứ giặc trên cộng lại cũng không ghê gớm bằng giặc nói dối đang tàn phá Tổ quốc ta, giống nòi ta. Lần này, nếu nhân dân ta không vùng lên đáng tan BỌN GIẶC CÓ TÊN LÀ DỐI TRÁ, chắc chắn đất nước ta sẽ bị kẻ thù phương Bắc nuốt chửng, như mấy nghìn năm trước chúng đã nuốt toàn bộ các dân tộc Bách Việt từng định cư lâu dài phía nam sông Dương Tử….


….Một kẻ nói dối, một dân tộc nói dối “lộng giả thành chân”, là một kẻ, một dân tộc không có tự do, không có độc lập, không có dân chủ, không có chân lý và lẽ phải… Khi một kẻ, một dân tộc phải núp vào sự dối trá để tồn tại, kẻ đó, dân tộc đó là một kẻ yếu, một dân tộc yếu đang trên đường suy vong. Chỉ có kẻ mạnh, kẻ tự tin, kẻ có liêm sỉ, có đạo đức mới không sợ sự thật, dù là sự thật đau đớn nhất, khủng khiếp nhất mà thôi”.


Từ nhận thức rằng hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống “KHÔNG DÁM NÓI LÊN SỰ THẬT”, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đi một bước cách mạng đột phá, đưa Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp cận dần sự thật để dám từ bỏ cái chủ nghĩa dối trá là chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi xin chép lại lời của đại văn hào Pháp V. Hugo để tặng ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, những người đã dám dũng cảm cứu nguy dân tộc bằng cách chôn chủ nghĩa xã hội từ năm 1976 (chủ nghĩa Marx thực chất là một chủ thuyết về kinh tế) để xây dựng kinh tế thị trường- kinh tế tư bản : “CÁCH MẠNG LÀ CUỘC TRỞ VỀ TỪ CÁI GIẢ ĐẾN CÁI THẬT”.


Sài Gòn 15-02-2013


Theo ABS



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 14, 2013 23:49

Yêu nước, thật giản dị, có nghĩa là phải biết xấu hổ trước đã.

Đào Tuấn


ilovevnCuộc vật lộn thường nhật với câu chuyện áo cơm khiến chúng ta không bao giờ tự đặt ra và trả lời những câu hỏi về thứ tình cảm thiêng liêng, xuất hiện có khi như một luồng điện chạy dọc sống lưng mỗi độ chúng ta đặt tay lên ngực trái và hát “Đoàn quân Việt Nam đi…” trên một sân vận động nào đó ngập tràn màu cờ tổ quốc.

Nhưng yêu nước cũng chẳng phải điều gì quá xa vời, không thể định nghĩa.

Ở Sài Gòn, một chàng trai đã có sáng kiến in bản đồ Việt Nam với khẳng định độc lập chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lên phong bào lì xì ngày tết. Chuyện rất đơn giản khi chàng trai chứng kiến, và thấy khó chịu với chỉ “toàn là phong bao lì xì hàng Trung Quốc với những nội dung ngôn ngữ và hình ảnh văn hóa Tàu”. Anh nói anh thấy buồn. Bởi trong ngày tết truyền thống, đến cái phong bao mừng tuổi trẻ con mà “cũng phải lệ thuộc vào hàng Tàu”.

Ở phường Đằng Giang, Hải Phòng, chính quyền ra thông báo đề nghị không treo đèn lồng do “nước ngoài” sản xuất có các dòng chữ khẳng định chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông. “Hiện trên thị trường thành phố đang có bán đèn lồng do nước ngoài sản xuất, trong đèn lồng có viết chữ nước ngoài nội dung tuyên truyền trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước”- văn bản viết, và khuyến cáo người dân “không mua đèn lồng do nước ngoài sản xuất”. Bản thông báo, được kèm các tờ rơi in các chữ tiếng Trung trên đèn lồng và phiên dịch sang tiếng Việt. Đó là các từ Tam Sa, Nam Sa (Trường Sa) và Tây Sa (Hoàng Sa).

Ở nhiều nơi trên đất nước này, như khắp nơi trên thế giới, có những cô gái mở những cửa hàng “No China”, kiên quyết nói không với hàng Trung Quốc kém chất lượng mà bài học rành rành là những chiếc áo ngực lạ, chứa chất lạ.

Trên facebook, cơn giận dữ của cộng đồng mạng bùng nổ khi phát hiện những ngôi sao người Việt quảng cáo cho wechat, một ứng dụng trên smartphone ngấm ngầm đưa “Đường lưỡi bò” vào bản đồ.

Cũng ngay trước tết, GS nổi tiếng Nguyễn Lân Dũng đặt câu hỏi: Một nước 90 triệu dân mà cho đến nay chưa làm được 1mg nào chất kháng sinh, vitamin, hormone và hàng loạt thuốc chữa bệnh thông thường khác. Người bệnh phải mua thuốc ngoại với giá ngày càng cao. Các mặt hàng thiết yếu khác cũng như vậy. Vào siêu thị thấy quá vô lý khi ta phải nhập cả đũa, cả tăm, cả bông ngoáy tai…

Tự làm phong bao lì xì Việt Nam; mở những cửa hàng “No China”. Đó không phải là “bài Trung”. Khuyến cáo người dân dùng đèn lồng trong nước. Phản đối câu chuyện vô lý phải bỏ ngoại tệ nhập cả bông ngoáy tai. Đó không phải là “tẩy ngoại”.

Phát biểu của vị Giáo sư lừng lẫy; Văn bản của ông Chủ tịch phường và việc làm giản dị của những người trẻ tuổi, không thể gọi khác hơn: Đó chính là những hành động yêu nước.

Năm 2012, lần đầu tiên sau 19 năm Việt Nam xuất siêu hàng hóa, dù với giá trị khiêm tốn 284 triệu USD. Nhưng cũng trong chính con Rồng này, thâm hụt thương mại với Trung Quốc cũng lên đến mức kỷ lục: 16,7 tỷ USD. Chúng ta đang chứng kiến một cuộc đổ bộ chưa từng thấy của hàng hóa Made in China, qua cả những thống kê nhà nước và luồn lách khắp dải biên giới qua cái gọi là “tiểu ngạch”. Mà đó đâu phải là phi thuyền hay tàu ngầm. Đó là cuộc đổ bộ của những chiếc “bông ngoáy tai”, của “đũa”, “tăm” và “phong bì lì xì”.

Yêu nước, thật giản dị, có nghĩa là phải biết xấu hổ trước đã.


Theo blog ĐT



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 14, 2013 20:40

Biên Giới Tháng Hai

Huy Đức


19791Tháng Hai, những cây đào cổ thụ trước cổng đồn biên phòng Lũng Cú, Hà Giang, vẫn chưa có đủ hơi ấm để đâm hoa; những khúc quanh trên đèo Tài Hồ Sìn, Cao Bằng, vẫn mịt mù trong sương núi. Sáng 7-2 nắng lạnh, vợ chồng ông Nguyễn Văn Quế, 82 tuổi, nhà ở khối Trần Quang Khải 1, thị xã Lạng Sơn, ngồi co ro kể lại cái chết 30 năm trước của con trai mình, anh Nguyễn Văn Đài. Năm ấy, Đài 22 tuổi. Ông Quế nói: “Để ghi nhớ ngày ấy, chúng tôi lấy Dương lịch, 17-2, làm đám giỗ cho con”. Năm 1979, vào lúc 5giờ 25 phút sáng ngày 17-2, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ Phong Thổ, Lai Châu, tới địa đầu Móng Cái.


 “Những đôi mắt”


 Hôm ấy, ông Quế không có nhà, vợ ông, bà Dự, bị dựng dậy khi bên ngoài trời hãy còn rất tối. Bà nghe tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn. Bà Dự đánh thức các con dậy, rồi 4 mẹ con dắt díu nhau chạy về xuôi. Tới ki-lô-mét số 10, đã quá trưa, bà rụng rời khi hay tin, anh Đài đã bị quân Trung Quốc giết chết. Anh Đài là công nhân đường sắt, thời điểm ấy, các anh đương nhiên trở thành tự vệ bảo vệ đoạn đường sắt ở Hữu Nghị Quan. Anh em công nhân trong đội của Đài bị giết gần hết ngay từ sáng sớm. Đài thuộc trong số 3 người kịp chạy về phía sau, nhưng tới địa bàn xã Thanh Hòa thì lại gặp Trung Quốc, thêm 2 người bị giết. Người sống sót duy nhất đã báo tin cho bà Dự, mẹ Đài.


 Cùng thời gian ấy, ở bên núi Trà Lĩnh, Cao Bằng, chị Vương Thị Mai Hoa, một giáo viên cấp II, người Tày, mới ra trường, cũng bị giật dậy lúc nửa đêm rồi theo bà con chạy vào hang Phịa Khóa. Hàng trăm dân làng trú trong hang khi pháo Trung Quốc gầm rú ở bên ngoài, rồi lại gồng gánh theo nhau vào phía Lũng Pùa, chạy giặc. Chị Hoa không bao giờ có thể quên “từng đôi mắt” của dòng người gồng gánh ấy. Giờ đây, ngồi trong một cửa hàng bán băng đĩa trên phố Kim Đồng, thị xã Cao Bằng, chị Hoa nhớ lại: “Năm ấy, tôi 20 tuổi. Tôi nghĩ, tại sao mình lại chạy!”. Chị quay lại, sau khi thay quần áo giáo viên bằng bộ đồ chàm vì được những người chạy sau cho biết, rất nhiều người dân ăn mặc như cán bộ đã bị quân Trung Quốc giết chết. Từ trên đồi, chị Hoa thấy quân Trung Quốc gọi nhau ý ới và tiến vào từng đoàn.


 “Cuộc Chiến 16 Ngày”


29-5 Ngày 15-2-1979, Đại tá Hà Tám, năm ấy là trung đoàn trưởng trung đoàn 12, thuộc lực lượng Biên phòng, trấn ở Lạng Sơn, được triệu tập. Cấp trên của ông nhận định: “Ngày 22 tháng 2, địch sẽ đánh ở cấp sư đoàn”. Ngay trong ngày 15, ông ra lệnh cấm trại, “Cấp chiến thuật phải sẵn sàng từ bây giờ”, ông nói với cấp dưới. Tuy nhiên, ông vẫn chưa nghĩ là địch sẽ tấn công ngay. Đêm 16-2, chấp hành ý kiến của Tỉnh, ông sang trại an dưỡng bên cạnh nằm dưỡng sức một đêm bởi vì ông bị mất ngủ vì căng thẳng sau nhiều tháng trời chuẩn bị. Đêm ấy, Trung Quốc đánh.


 Ở Cao Bằng, sáng 16 tháng 2, tất cả các đồn trưởng Biên phòng đều được triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh, sáng hôm sau họ tìm về đơn vị triển khai chiến đấu khi Trung Quốc đã tấn công rồi. Sáng 17-2, Tỉnh Cao Bằng ra lệnh “sơ tán triệt để khỏi thị xã”; đại đội 22 của thị xã Cao Bằng được trang bị thêm 17 khẩu súng chống tăng B41. Ngày 18-2, một chiếc tăng Trung Quốc có “Việt gian” dẫn đường lọt tới Cao Bằng và bị tiêu diệt. Nhiều nơi, chỉ khi nhìn thấy chữ “Bát Nhất”, người dân mới nhận ra đấy là tăng Trung Quốc. Đại tá Hà Tám công nhận: “Về chiến lược ta đánh giá đúng nhưng về chiến thuật có bất ngờ”. Tuy nhiên, Đại tá Hoàng Cao Ngôn, Tỉnh đội trưởng Cao Bằng thời kỳ 17-2, nói rằng, cho dù không có bất ngờ thì tương quan lực lượng là một vấn đề rất lớn. Phần lớn quân chủ lực của Việt Nam đang ở chiến trường Campuchia. Sư đoàn 346 đóng tại Cao Bằng nhiều năm chủ yếu làm nhiệm vụ kinh tế, thời gian huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trở lại chưa nhiều. Lực lượng cầm chân Trung Quốc ở tuyến một, hướng Cao Bằng, chủ yếu là địa phương quân, chỉ có khoảng hơn 2 trung đoàn.


 Trong khi, theo tài liệu từ Trung Quốc, chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc sử dụng tới 6 sư đoàn; ở Lạng Sơn 3 sư và Lào Cai 3 sư. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng cường cho hướng Cao Bằng 1 sư đoàn và 40 tăng; Lạng Sơn, một sư và 40 tăng; Lào Cai, 2 trung đoàn và 40 tăng. Lực lượng Trung Quốc áp sát Biên giới vào ngày 17-2 lên tới 9 quân đoàn chủ lực. Ngày 17-2, Trung quốc tiến vào Bát xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng Đăng; 24-2, Trung Quốc chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc đánh vào thị xã.


 Thế nhưng, bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị Biên giới đã nhanh chóng tổ chức chiến đấu. Theo cuốn “10 Năm Chiến Tranh Trung Việt”, xuất bản lần đầu năm 1993 của NXB Đại học Tứ Xuyên, quân Trung Quốc đã gọi con đường tiến vào thị xã Cao Bằng của họ là những “khe núi đẫm máu”. Đặc biệt, tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua đèo Tài Hồ Sìn, cũng đã khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Những người dân Biên giới cho đến hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân của ta cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư đoàn 346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đòn vu hồi. Từ Campuchia, sau khi đuổi Pol Pốt khỏi Phnompênh, hai quân đoàn tinh nhuệ của Việt Nam được điều ra phía Bắc. Ngay sau khi Quân đoàn II đặt những bước chân đầu tiên lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Rì; Chủ tịch Nước ra lệnh “Tổng Động viên”… ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân về nước.


 Lào Cai, Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn… bị phá tan hoang. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công trình, ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Nếu như, ở Bát Xát, Lao Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Thì, tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đã giết 43 người, gồm 21 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pốt. Mười người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối.


 Lặng Lẽ Hoa Đào


images Ngồi đợi ông Nguyễn Thanh Loan, người trông giữ nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang, chúng tôi nhìn ra xa. Tháng Hai ở đây mới là mùa hoa đào nở. Nghĩa trang có 1680 ngôi mộ. Trong đó, 1600 mộ là của các liệt sỹ hy sinh trong cuộc chiến tranh từ ngày 17-2. Ở Vị Xuyên, tiếng súng chỉ thật sự yên vào đầu năm 1990. Năm 1984, khi Trung Quốc nổ súng trở lại hòng đánh chiếm hơn 20 cao điểm ở Thanh Thủy, Vị Xuyên, bộ đội đã phải đổ máu ở đây để giành giật lấy từng tấc đất. Rất nhiều chiến sỹ đã hy sinh, đặc biệt là hy sinh khi tái chiếm đỉnh cao 1509. Ông Loan nhớ lại, cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở về, từng túi tử sỹ xếp chồng lên nhau. Trong số 1600 liệt sỹ ấy, chủ yếu chết trong giai đoạn 1984, 1985, có người chết 1988, còn có 200 ngôi mộ chưa xác định được là của ai. Sau khi hoàn thành việc phân giới cắm mốc, cái pháo đài trên đỉnh 1509 mà Trung Quốc dành được và xây dựng trong những năm 80, vẫn còn. Họ nói là để làm du lịch. Từ 1509, có thể nhìn thấu xuống thị xã Hà Giang. Năm 1984, từ 1509 pháo Trung Quốc đã bắn vào thị xã.


 Trên đường lên Mèo Vạc, sương đặc quánh ngoài cửa xe. Từng tốp, từng tốp trai gái H’mông thong thả cất bước du xuân. Có những chàng trai đã tìm được cho mình cô gái để cầm tay. Một biên giới hữu nghị và hòa bình là vô cùng quý giá. Năm 1986, vẫn có nhiều người chết vì đạn pháo Trung Quốc nơi đoạn đường mà chúng tôi vừa đi, nơi các cô gái, hôm nay, để cho các chàng trai cầm tay kéo đi với gương mặt tràn trề hạnh phúc.


 Quá khứ, rất cần khép lại để cho những hình ảnh như vậy đâm chồi. Nhưng cũng phải trân trọng những năm tháng đã thuộc về quá khứ. Tháng Hai, đứng ở bên này cửa khẩu Chi Ma, Lạng Sơn, nhìn sang bên kia, thấy lừng lững một tượng đài đỏ rực mà theo các sỹ quan Biên phòng, Trung Quốc gọi là “ đài chiến thắng”. Trở lại Lạng Sơn, những chiếc xe tăng Trung Quốc bị quân và dân ta bắn cháy hôm 17-2 vốn vẫn nằm bên bờ sông Kỳ Cùng, giờ đã được bán sắt vụn cho các khu gang thép. Ở Cao Bằng, chúng tôi đã cố nhờ mấy người dân địa phương chở ra kilomet số 3, theo hướng đèo Tài Hồ Sìn, tìm tấm bia ghi lại trận đánh diệt 18 xe Trung Quốc của tiểu đoàn đặc công 45, nhưng không thấy. Trở lại Tổng Chúp, phải nhờ đến ông Lương Đức Tấn, Bí thư Chi bộ, nguyên huyện đội phó Hòa An, đưa ra cái giếng mà hôm 9-3-1979, quân Trung Quốc giết 43 thường dân Việt Nam. Ông Tấn cũng chính là một trong những người đầu tiên trở về làng, trực tiếp đỡ từng xác phụ nữ, trẻ em, bị chặt bằng búa, bằng dao rồi quăng xuống giếng. Cái giếng ấy bây giờ nằm sâu trong vườn riêng của một gia đình, không có đường đi vào. Hôm ấy, anh Tấn phải kêu mấy thanh niên đi theo chặt bớt cành tre cho chúng tôi chụp hình bia ghi lại sự kiện mà giờ đây đã chìm trong gai tre và lau lách.


 Theo FB của Huy Đức


………………………………………


 Bài đăng trên Sài Gòn Tiếp Thị ngày 9-2-2009, bản đưa lên báo online bị  rút xuống ngay trong buổi sáng.





 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 14, 2013 18:38

Nghị Phước lại loạn ngôn

Bùi Văn Bồng
430041_10151104992663359_1881741336_nTrên trang web mang tên rất Tây: http://www.emotino.com – tôi đã đọc khá kỹ một số bài viết của ông Hoàng Hữu Phước, đại biểu Quốc hội (QH) khóa XIII. Ông đại biểu (ĐB – gọi nôm na là nghị) Phước dường như cũng tự hiểu rằng ít người biết đến mình. Cho nên ông ta cũng có chiến thuật nổ ngược chiều gây ấn tượng. Ai cũng còn nhớ, năm ngoái ông bô bô phát biểu trước QH là phải dẹp bỏ Luật Biểu tình, rằng: “VN ta không cần Luật Biểu tình, vì trình độ dân trí còn thấp” (!?).
 

Ông cũng tinh ranh thật. Quả nhiên sau phát nổ lùm bùm của ông là cả nước, và cả thế giới đã biết đến ông. Khi mà người ta biết cả, thì tôi cũng buộc phải biết đến ông (dù ngoài ý muốn), và phải mất công “tự nghiên cứu” để phần nào có thể hiểu thêm về ông. 

Để làm gì? Trước hết là thử tìm hiểu xem thiên hạ đồn đại rằng ông mắc “hội chứng thần kinh có vấn đề” có đúng thế không? Tôi vẫn nghi đằng sau đó có chuyện gì? Chẳng lẽ một nghị sĩ xứ ta như ông Phước mà lại đến mức ấy.  Tôi cũng nghĩ là ông bị oan, bị người ta ghét vì một lý do gì đó mà châm chọc ông với một cách áp đặt rất tréo ngoe. Tôi có băn khoăn: Đại biểu QH đâu đến nỗi thế, dân thường canh nông không ra khỏi lũy tre làng còn biết đúng-sai, phải-trái. Huống hồ ông đã có bằng thạc sĩ tu nghiệp tận xa xôi quốc ngoại. Thứ hai, tôi cũng muốn tìm hiểu xem những “tư tưởng ái quốc” của ông nó thiết tha, chân thành, cao siêu và hoàn mỹ đến cỡ nào? Bởi ông là 1 trong 4 nhân vật tự ứng cử vào QH, mà ông chưa phải đảng viên. Thế nên, cứ coi ông là hiện tượng khác biệt.


Tôi đã khá kỹ, nhưng chưa hết các bài trong trang web của ông. Với những lối bài viết lẩu xà bần của ông, nếu không có gì gấp thì cứ từ từ mà đọc, đỡ phát bệnh. Là vì đọc ngay từ bài đầu tiên tôi đã chán ngấy lên tận cổ, suýt bị choáng rồi. Đó là bài đưa trong chuyên mục rất kêu, kêu gấp mấy lần thùng rỗng, là : “Luận về những vấn đề thời đại”.  Thế kia đấy. Cái chuyên mục toàn là “luận”, mà chỉ có những nhân vật tầm cỡ uyên bác uyên thâm, chuyên sâu lâu năm mới dám “Kêu Gào” như thế. Nhưng thôi, ông thích thế thì kệ ông. Trong chuyên mục này tôi đọc bài “Luận về đa đảng”, do ông post lên mạng công khai trước binh dân thiên hạ vào ngày 13/02/2011, với một đường LINK ít dấu chéo sau đây:  http://www.emotino.com/bai-viet/18997/da-dang. Ông lập trang chủ lấy tên trang blog cá nhân là: hhphuoc.blog.com, nhưng khi muốn đọc các bài viết thì tự nó lật sang trang khác, diện dẫn truyền băng thông rộng và mạnh hơn, với cái tên: http://www.emotino.com – cách tạo trang mạng này rất khác người, không biết ông cố tình “lật cánh” địa chỉ vào trang websize như thế có mục đích định gạt ai hoặc đánh lạc hướng chuyện gì không?      Thấy lạ. Ông  tung bài lên trang web “nhà” cứ như ông là nhà ngôn ngữ học thực thụ. Ông như nhà sử học. Ông như chính trị gia có hạng.. Ông như nhà kinh doanh đại tài. Ông như nhà tổ chức, nhà hùng biện… tức ông tự coi mình như là thầy thiên hạ, khoe danh mọi thứ “nhà”. Trên trang web cá nhân, ông có hẳn một chuyên mục “Luận về ngôn ngữ” (nói chung, ông khoái chữ “Luận”, nhiều chuyên mục đêu có chữ “Luận” đứng “TOP”).


          Và bây giờ, dẫu như ông có phải khó chịu, miễn cưỡng để đọc bài này, thì coi như tôi nêu vài ý kiến nhỏ về “văn phong thạc sĩ” của ông. Ví dụ như: Ngay phần đầu bài “Luận về đa đảng”, ông viết: “…Thế nhưng, vấn đề đa đảng sẽ cứ mãi được phóng viên nước ngoài lập đi lập lại trong những ngày tháng năm sắp đến, cũng như sẽ mãi được các nhóm chống Cộng khai thác để công kích Việt Nam, còn những người Việt ít làm việc trí óc thường dễ bị phân vân trước các khích bác…”.
             Tôi không nghĩ nhiều về nội dung của mấy câu này. Chỉ biết rằng ông khoe tài ngôn ngữ, có năng lực phản biện, nên tôi chỉ nói về chính tả, từ ngữ mà thôi. Trong đoạn văn trên, ông sai chính tả mấy chỗ liền (chấm, phảy câu văn của ông thì khỏi bàn, bài nào, đoạn nào cũng thấy tùm lum… 
               Diễn đạt các vế dẫn trong một câu khác, lối viết của ông đã gây phản cảm cho người đọc.  Bà con ta hay nói nôm na là “cái thứ ăn nói vụng về, mất công lôi cả con cà con kê”. Ông viết là “những người Việt ít làm việc trí óc thường dễ bị phân vân”. Câu này ông phân biệt đối xử với những ai, ám chỉ ai? Những người mà ông mới đưa ra với cái giọng điệu khinh rẻ, miệt thị đó là ai? Và liệu rằng trong đó có những người lao động chân lấm tay bùn, do nghèo nàn mà phải chịu nghèo chữ, có ai là cử tri may mắn của ông không. Thạc sĩ đừng nên viết quá vội mà người ta bảo ông hấp tấp, nông cạn đấy.
          Ông lại tự khoe mẽ, nhưng vẫn  đại vô duyên với lối diễn đạt như câu này: “… những người hay chuyển đến tôi nhiều bài viết chống cộng ở hải ngoại do thích nghe tôi phản pháo mà họ cho là dễ hiểu dễ nhớ khó cãi khó chống”.  Câu này khỏi bàn, vì kéo dài thêm bài viết không cần thiết và cũng tránh bớt mỏi tay gõ phím, nhưng ông diễn đạt như mớ rác nới rãnh ngõ bị gió thổi tung bụi mù, rối bòng bong.

Sao được cho ra cái giống người .

Sao được cho ra cái giống người .


Cái này mới độc, mới cần nói, không nói không được. Ông viết cái kiểu “vơ đũa cả nắm”, mà sai đường lôi, chính sách của Đảng, nhất là chủ trương trọng dụng nhân tài, kêu gọi đầu tư, khuyến khích, vận động mọi người VN trong nước và Việt kiều ở nước ngoài đem tài trí, sức lực, vốn liếng tham gia vào công cuộc đổi mới đất nước. Và với đoan văn này ông cũng cố tình nói sai với chính sách của Đảng, Nhà nước và Chính phủ hiện nay nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực từ nhiều hướng, nhiều hệ, nhiều chương trình đạo tạo. Ông viết một đoạn dài ngoằng như bắn súng liên thanh nổ loạn xạ ầm chéo bên tai người ta:  “…Nhân dân Việt Nam không bao giờ cho phép Đảng Cộng Sản Việt Nam đặt sinh hoạt chính trị sống còn của đất nước Việt Nam vào tay những kẻ vô danh tiểu tốt chỉ có hai thứ lận lưng là (a) tấm bằng thạc sĩ hay tiến sĩ của đại học Mỹ và (b) tiền tài trợ của Mỹ và những nước tương cận mưu toan xóa sổ Đảng Cộng Sản Việt Nam để ăn cướp thành quả cách mạng mà chỉ riêng Đảng Cộng Sản Việt Nam tạo dựng nên”.



Bây giờ, đọc những “áng văn thạc sĩ” của nghị Phước, càng thấy rõ ông quá loạn ngôn. Nhưng mà, đọc bài “Luận về đa đảng” của nghị Phước có 3.000 ký tự, nếu cứ soi chính tả, tu từ học, cú pháp, ngữ nghĩa… thì không thể nào phê bình cho xuể. Ít có câu hành văn trôi chảy.

                                             *        *        *
Điều cần nói hơn trong bài này, rất cần phải nói cho đúng, cho rõ  để may ra có thể góp phần nào đó giải oan cho cụ Phan Bội Châu, mà ông nghị Phước đã thẳng tay chụp cho cái tội bán nước (!?). Hơn nũa, tôi cũng có mộ ý nghĩ hữu hảo muốn qua đây thêm một ý kiến “cử tri góp ý với đại biểu QH”. Tức là thế này: Ông nghị Phước ơi, ông viết cái gì tùy ở ông, nhưng ông đừng thóa mạ nhà cách mạng Phan Bội Châu, ông đừng xuyên tạc, bóp méo lich sử.
Ông dám viết một cách tự nhiên đến mức thẳng đơ:  “…Việt Nam hoàn toàn khác: tất cả các phe nhóm và đảng phái chính trị đều hoặc làm tay sai cho Pháp hay Nhật hay Hoa hay Mỹ, hoặc tự bươn chải chỉ biết dùng nước mắt bạc nhược cố tìm “đường cứu nước” (như Phan Bội Châu khóc lóc với Lương Khải Siêu khi nhờ Lương Khải Siêu giới thiệu với Nhật xin giúp kéo quân sang Việt Nam đánh Pháp), mà không biết mình rất có thể đã “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi về dày mả tổ”, mở đường cho sự quan tâm của Quân Phiệt Nhật tàn bạo đánh chiếm và giết chết nhiều triệu người Việt Nam…phải nhờ Lương Khải Siêu ban phát cho lời khuyên can mới hiểu ra sự nguy hiểm của lời yêu cầu Nhật đem quân đến Việt Nam giúp đánh Pháp, và tất cả đều chống Cộng…nên việc “đòi quyền lợi” hay “đòi quyền tham chính” của tất cả các cá nhân, tất cả các phe nhóm chính trị bên ngoài Đảng Cộng Sản Việt Nam là điều không tưởng, vô duyên, khôi hài và bất công, nếu không muốn nói là hành vi bất lương của kẻ cướp muốn thụ hưởng quyền lực chính trị trong khi đã không có bất kỳ công sức đóng góp nào cho Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngoài sự chống phá ngay từ bản chất”.
          Trời đất! Nghị Phước ơi! Tôi đâu có ngờ ông vác cái bằng “thạc sĩ” ở đâu về nhét ngăn kéo mà ông chẳng hiểu gì về lịch sử dân tộc, cũng như điều kiện, hoàn cảnh, tình thế đất nước qua từng giai đoạn, từng thời điểm lịch sử. Ông cũng không hiểu tí nào về những cụm từ như: “hoàn cảnh lúc đó”, “ bối cảnh lịch sử”, “ý thức tìm đường cứu nước”, và phổ biến hiện nay người ta hay dùng trên bình diện phân tích  thời luận là “xu thế thời đại”…Ông ở thành phố Hồ Chí Minh, hoặc đến các đô thị khác, ông không nhìn thấy những đường phố mang tên Phan Bội Châu lừng lững à? Ông viết như thế, mà tự không thấy mình mang tội “đại phạm thượng” và hỗn láo với Cụ Phan hay sao? Và chứng tỏ ông cũng không biết gì về mối quan hệ của cụ Phan Bội Châu với nhà canh tân Lương Khải Siêu. Chỉ một đoạn văn ngắn mà ông xúc phạm cả hai danh nhân vốn là “chính trị gia có tư tưởng và việc làm canh tân vì dân vì nước thời đó.  Mà cụ Phan Bội Châu bỗng dưng không đâu bị ông kéo vào bài đa đảng thì cũng thật là oan ức cho hương hồn của Cụ. Sao ông mắc chứng loạn ngôn quá quắt đến nỗi bị lẫn lộn người yêu nước với kẻ bán nước? Ông bị lú lẫn thế nào mà quên phắt câu thơ trong bài Theo chân Bác của Tố Hữu: “Phan Bội Châu, câu thơ dậy sóng” (!?)
          Ông biết được bao nhiêu về Lương Khải Siêu? Và mối quan hệ, cùng sự phối hợp giúp nhau trên cơ sở cùng chung quan điểm canh tân thời đó giữa Cụ Phan với Lương Khải Siêu? Sao ông dám viết rất liều rằng: “…nhờ Lương Khải Siêu ban phát cho lời khuyên can mới hiểu ra sự nguy hiểm của lời yêu cầu Nhật đem quân đến Việt Nam giúp đánh Pháp, và tất cả đều chống Cộng…”. Làm gì có trang chính sử nào ghi như thế? Thông tin này ông lấy ở đâu ra mà lại đem cột nó vào bài viết để thóa mạ Cu Phan vốn chẳng có tội tình gì với ông? Ông hãy nghe những thông tin và sử liệu thực sự tin cậy như sau:
           Lương Khải Siêu (1873 – 19290, tự: Trác Như, hiệu: Nhiệm Công, bút hiệu: Ẩm Băng Tử, Ẩm Băng Thất chủ nhân. Ông là nhà tư tưởng và là nhà hoạt động chính trị Trung Quốc thời cận đại. Ông cùng với thầy là Khang Hữu Vi thuộc phái Tân Học, muốn canh tân, đổi mới đất nước, cải biến xã hội. Hai thầy trò đã đè xướng biến pháp. Khang Hữu Vi liền tranh thủ vận động được 1.300 sĩ tử cùng ký tên vào Bức thư vạn chữ (Vạn ngôn thư) của mình, đề nghị Hoàng đế không phê chuẩn điều ước Mã Quan với Nhật và cần làm gấp cuộc Biến pháp Duy tân (nói vắn là biến pháp). Trong khi đó, Lương Khải Siêu cũng đã thảo thư với nội dung tương tự, kèm theo chữ ký của 190 cử nhân tỉnh Quảng Đông.
Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu được Hoàng Đế Quang Tự cho mời vào cung. Khi nghe hai ông trình bày chủ trương Biến pháp xong, Hoàng đế tỏ ý rất đồng tình. Công cuộc Biến pháp bắt đầu bằng hàng loạt các sắc lệnh của Hoàng đế, như mở trường học, làm đường sắt, cải cách chế độ thi cử, giảm biên chế các tổ chức hành chính, luyện tập quân đội theo lối mới, v.v…Trong khoảng chưa đầy ba tháng, hơn một trăm đạo chiếu được ban ra, làm cho cả trong triều lẫn ngoài tỉnh xôn xao. Đúng là “toàn biến” và “tốc biến” như khẩu hiệu đã đề ra. Lúc này Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu đều được Hoàng đế phong chức Kinh khanh để có điều kiện lo cho công việc.
Cuộc Biến pháp đang tiến hành, thì vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của phái thủ cựu (sử gọi là Hậu đảng), mà người đứng đầu là Từ Hi Thái Hậu. Bà ban lệnh cấm sĩ dân dâng thư, phế bỏ cục Quan báo, đình chỉ việc lập học hiệu, dùng lại lối văn tám vế để chọn kẻ sĩ, bỏ khoa thi đặc biệt về kinh tế, bỏ các tổng cục nông công thương, cấm hội họp, cấm báo quán, cấm biểu tình, tụ hội và cho truy nã các Chủ bút (nhất là Lương Khải Siêu). Để tránh họa truy nã của Từ Hy Thái Hậu, Lương Khải Siêu phải chạy lánh sang Nhật Bản…
          Nhưng, chuyện này dài lắm, nay chỉ thêm một đoạn là Lương Khải Siêu đã giúp Phan Bội Châu viết cuốn “Việt Nam vong quốc sử”. Có chuyện Phan Bội Châu khóc. Nhưng cái khóc của cụ Phan Bội Châu không đơn thuần như nghị  Phước đã xuyên tạc, không phải khóc do yếu đuối , đớn hèn, người mau nước mắt thì đau giám đi ra nước ngoài tìm cchs cứu nguy dân tộc? Là người yêu nước ai mà không động lòng trước cảnh nước mất nhà tan, cả dân tộc bị rơi vào ách nô lệ? Hơn nữa, gặp Lương Khải Siêu, biết là có đường hướng cho cách mạng Việt Nam, cụ Phan đã khóc. Cũng giồng như: “Luận cương đến với Bác Hồ. Và Người đã khóc / Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê-nin” ( Người đi tìm hình của nước- Chế Lan Viên). Đó là lẽ thường tình. Cớ gì mà trong bài viết ông lại đưa nước mắt Cụ Phan từ đời xưa để chê bai, diễu cợt như thế!
             Về giá trị của cuốn “Việt Nam vong quốc sử “ thì dân ta ai cũng biết rồi. Nhưng với nghị Phước, tôi phải trích ra đây những nhận xét xác đáng về công lao cũng như ý nghĩa việc sang Nhật của Cụ Phan, để mong “ông nghị” đừng tái phạm sai lầm. Một sai lầm quá lớn là xuyên tạc lịch sử.  Đây, ông nghị Phước nếu chưa đọc, thì mời đọc; nếu bị quên, thì rất nên đọc lại:
          1_ Khoảng đầu năm 1945, Phan Bội Châu viết “Việt Nam vong quốc sử”, sau đó được Lương Khải Siêu đề tựa và in giúp. Thư cục Quảng Trí (Thượng Hải, Trung Quốc) ấn hành lần đầu tiên vào tháng 9 năm 1905. Năm sau (1906) sách được tái bản, và chỉ tính đến năm 1955, tác phẩm đã được in thêm 3, 4 lần nữa.
2_ Theo David Marr, thì Việt Nam vong quốc sử là tác phẩm tiêu biểu cả một thời kỳ trong phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam.
3_ Trong bài  Việt Nam vong quốc sử – Một tác phẩm tiêu biểu của Phan Bội Châu, tác giả Hồ Song viết:
“Trong công tác tuyên truyền cách mạng của Phan Bội Châu, Việt Nam vong quốc sử được coi là tác phẩm mở đầu và tiêu biểu nhất của ông…Với những điều mắt thấy tai nghe, lần đầu tiên ông đã dựng lên một bản cáo trạng khá toàn diện và có chiều sâu về tội ác của thực dân Pháp ở Việt Nam…Lên án chủ nghĩa thực dân Pháp, dụng ý của Phan Bội Châu không phải là làm cho người đọc hướng về nội tâm bi phẫn, mà là thúc giục họ đứng lên hành động cứu nước. Vì vậy, ông thuật lại những tấm gương hy sinh anh dũng của những chí sĩ đã bỏ mình vì nước từ buổi đầu chống xâm lược đến thời kỳ ứng nghĩa Cần Vương””…
4_ Trong Phan Bội Châu niên biểu, tác giả kể: “Thượng tuần thánh 8., ông (Phan Bội Châu) đến Quảng Đông (Trung Quốc), vào thăm Lưu Vĩnh Phúc,  nhân tiện để yến kiến ông Nguyễn Thiện Thuật là Tham tán Tam Tuyên ngày trước. Đã hơn mười năm nay, ông Thuật nghiện thuốc phiện, nhưng sau khi đọc xong chương trình Duy Tân hội và cuốn Việt Nam vong quốc sử, ông đã đập bàn đèn và tiêm móc, rồi nói to với ông Phan rằng: Các anh là bọn hậu tiến còn lo nghĩ thế này, có lẽ nào tôi cứ sống mãi ở trong vòng đen tối hay sao. Rồi từ đó, ông Thuật quyết chí cai nghiện thuốc phiện”.
5_ Nhà phê bình văn học Hoài Thanh: “Chỉ vì đọc Phan Bội Châu mà hàng nghìn thanh niên đã cắt tóc bím, vứt hết sách vở văn chương, nghề cử tử, cùng cái mộng công danh nhục nhã gắn trên đó; lìa bỏ làng mạc, nhà cửa, vợ con, rồi băng ngàn lội suối, bất chấp mọi nỗi đói thiếu, nguy hiểm, khổ sở để qua Xiêm, qua Tàu, qua Nhật mà học hỏi, mà trù tính việc đánh Tây. Đó là một thành công vĩ đại. Trong tác dụng ấy của văn thơ Phan Bội Châu, có Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư đóng góp một phần rất quan trọng”. 
              Ở Việt Nam, dưới thời Pháp thuộc, tác phẩm này được coi là một trong số những “yêu thư, yêu ngôn”, bị chính quyền lúc bấy giờ cấm lưu hành và tàng trữ. Tuy nhiên, ngay khi in xong, sách vẫn được bí mật đưa về, nhưng chỉ được phổ biến trong một phạm vi hẹp. Năm 1907, sách Việt Nam vong quốc sử được dùng làm tài liệu học tập của trường Đong Kinh nghĩa thục.
              Hiện nay, sách Việt Nam vong quốc sử in lần đầu chỉ còn một bản duy nhất và đang được cất giữ tại Thư viện trường Viễn Đông bác cổ (nay là Thư viện Viện Thông tin Khoa học xã hội (ở Hà Nội), mang ký hiệu A. 2559. 
   Vậy, ta nói nghị Phước cố tình xuyên tạc lịch sử có phải là vu khống, làm oan sai cho ông ta hay không? Và thêm nữa, bởi  cái bênh huênh hoang, khoác lác, khoe mẽ, cao ngạo,  phớt đời nên đã mắc trọng tội phạm thương khi quân.
       Theo blog B.V.B

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 14, 2013 15:11

Nguyễn Quang Lập's Blog

Nguyễn Quang Lập
Nguyễn Quang Lập isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Quang Lập's blog with rss.