Nguyễn Quang Lập's Blog, page 84
February 7, 2013
Đừng vay nợ về để… tham nhũng!
Bùi Hoàng Tám
Vào những ngày cuối năm, người Việt thường có thói quen kiểm lại nợ nần, xem ai nợ mình thì đi đòi, mình nợ ai thì đem trả. Nếu chưa trả được thì nói lời xin khất. Chợt nhớ con số 1,33 triệu tỉ đồng nợ của các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước…
Cái con số 1,33 triệu tỉ đồng này tất nhiên là nhiều, rất nhiều rồi. Nhưng nó nhiều đến mức nào nhỉ? Hay nói cách khác, nếu như nó được in ra với mệnh giá 100.000 VND chẳng hạn, thì sẽ bằng như thế nào?
Chịu. Có lẽ chẳng mấy ai tính toán và tưởng tượng nổi.
Thế nhưng có một người đã giúp chúng ta có cơ sở để mường tượng. Đó là anh Hiệu Minh. Trên blog của mình, Hiệu Minh quy đổi 1,33 triệu VND ra tương đương với khoảng 60 tỉ USD rồi tính toán như sau: Chiều dài, rộng và bề dầy của tờ 1$, 5$, 10$, 20$, 50$ và 100$ hoàn toàn như nhau (0.0043″ dầy X 2.61″ rộng X 6.14″ dài). Nếu xếp những tờ 100$ lên nhau thì 60 tỉ đô la có chiều cao tương đương với… 65,5km? Bằng chiều dài từ Hà Nội đến gần địa giới Ninh Bình.
Bây giờ thì bạn chỉ cần nhân với tỉ giá 1USD = 20.855 VND (giá ngày 6/2/2013) là sẽ ra chiều dài của đoạn đường nếu qui ra tiền VND.
Để dễ tưởng tượng hơn, Hiệu Minh còn qui ra… phở. Theo tính toán của anh, nếu 90 triệu dân ta ăn phở, mỗi người 15 triệu đvn (25.000-30.000 đồng/bát), cũng được cỡ 500 – 600 bát. Nghĩa là gần cả năm liền, cả nước ta mỗi người mỗi ngày ăn gần hai bát phở.
Đấy là riêng món nợ của các “ông lớn” nhà nước. Còn tổng số nợ của Việt Nam là bao nhiêu? Theo tính toán của “Đồng hồ nợ công toàn cầu”, đến thời điểm 15 giờ ngày 17/1, tổng số nợ công của Việt Nam là 70.576.229.508 USD. Với dân số 89.539.016 người, trung bình mỗi người Việt Nam đang gánh số nợ tương đương 787,9 USD.
Số nợ này cao hay thấp? So với các cường quốc, số nợ này là rất thấp. Còn so với các nước trong khu vực, Việt Nam có mức nợ công tính theo đầu người cũng không cao. Con số này ở Indonesia là 917,69 USD/người, ở Philippine là 1213,74 USD/người, ở Thái Lan là 2640,8 USD/người trong khi ở Malaysia con số này lên tới 5936,87 USD/người.
Thật ra trong làm ăn, việc vay nợ là bình thường, thậm chí nợ càng nhiều càng tốt vì nó thể hiện anh đang làm ăn lớn. Những đại gia nợ một vài trăm tỉ VND được coi là “chuyện nhỏ” nếu như anh có số vốn gấp con số đó nhiều lần, tức là nợ “an toàn”. Các con số thống kê một số nước trên cũng cho thấy, quốc gia càng giàu thì nợ lại càng cao.
Vì vậy, vấn đề không phải là nợ bao nhiêu mà quan trọng hơn, đó là vay để làm gì và trả như thế nào. Nếu vay để mở rộng kinh doanh, sản xuất mang lại hiệu quả thì nợ là may, là tốt. Thế nhưng nếu vay nợ về mà chi tiêu lãng phí, đầu tư không hiệu quả, thậm chí để tham nhũng, thất thoát như những Vinashin, Vinalines thì đại nguy cho dân tộc.
Chỉ còn ít ngày nữa là cả nước bước sang năm Quý tị. Cầu mong cho năm mới làm ăn hiệu quả, nhất là đối với các “ông lớn” nhà nước…
Đừng bắt người dân è cổ trả nợ cho những sai lầm, thất thoát từ các “ông lớn”!
Xin đừng vay nợ về để tham nhũng!
Theo báo DT







Bây giờ ai còn nói đến bốn ngàn năm nữa!
Nguyễn Quốc Sơn
Sáng nay đã là ngày 27 tết Quý Tỵ rồi. Mình dắt cái xe đạp ra ngõ, đi lòng vòng trong khu phố để cảm nhận không khí đón Xuân mới của quê hương. Cuộc sống bây giờ tuy chưa sung túc, nhưng cũng ít người còn bị thiếu đói, nên mọi nhà đều có chú ý hơn về cuộc sống tinh thần. Đường làng ngõ phố rực rỡ kết hoa chăng đèn, nom khá đẹp mắt.
Khi đi qua một ngã tư đường, thấy ông chủ tịch phường cùng với mấy người đang chăng qua đường một khẩu hiệu lớn, dòng chữ vàng cắt vi tính nổi bật trên nền vải đỏ: “ Mừng Đảng – Mừng Xuân – Mừng đất nước đổi mới”.
Chẳng biết vì sao hôm nay mình lại ngứa mồm thế. Dựng xe bên vệ đường, mình xà vào góp chuyện:
- Có khi câu khẩu hiệu này bị lạc hậu rồi cũng nên. Hôm nay tôi đọc báo Quân đôi nhân dân Oline, thấy tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chúc tết xuân Quý Tỵ có đăng :” Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các đại biểu đã nâng cốc mừng Xuân, mừng đất nước, mừng Đảng ta…”. Điều đặc biệt là ông đã đưa mùa Xuân và đất nước lên trước Đảng…
Chưa kịp dừng lời, mình liền bị ông X., trước công tác ở phòng văn hóa thông tin huyện, nay chuyển sang công tác bên cơ quan thanh tra huyện, chặn lời:
- Ông nói vớ vẩn, làm gì có chuyện như thế? Ai dám cãi Bác Hồ? Ồng Trọng nói sao bằng lời Bác Hồ nói!
- Vậy Bác Hồ nói sao?- Tôi hỏi lại.
- Bác Hồ nói: “ Mừng Đảng rồi mới mừng Xuân”. Không ai to bằng bác Hồ cả. Đảng phải là nhất. Nếu không có Đảng thì làm gì có Việt Nam.
Tôi giật mình vì lời khẳng định trên:
- Ông nói thế là quá sai rồi! Đảng ta mới có 83 tuổi. Đất nước đã bốn ngàn năm. Nói như ông thì Vua Hùng Vương, bà Trưng bà Triệu, Thời Đinh Lý Trần Lê… đã có Đảng đâu!?…
Ông X. Tỏ ra quá vững vàng với lập luận của mình, cự lại tức thì:
- Có các ông không hiểu gì thì có! Bây giờ ai còn nói đến bốn ngàn năm nữa!
Tôi sợ quá, bèn dắt xe chạy vội, vừa đi vừa nói với lại:
- Là dân đen không dám cãi với cán bộ về chính trị. Em xin bó tay chấm com!
Mình xin bảo đảm là câu chuyện này có thật 100%. Có nhiều người cùng ở đó để làm chứng cho mình. Nếu ai không tin thì hãy liên hệ với mình nhé!







Khi báo Nhân dân giới thiệu dâm thư và phim kinh dị
Phạm Thị Hoài
Báo Nhân dân không ai đọc, nhiều người nghĩ thế. Tôi cho rằng họ sai. Độc giả của tờ báo đầu đàn chính thống này là một tầng lớp đặc biệt, trước hết gồm các đảng viên, tức những người thuộc giai cấp cầm quyền chính trị; sau nữa đến bản thân giới truyền thông, vì cùng với Thông tấn xã Việt Nam, Đài Phát thanh và Đài Truyền hình, tờ Nhân dân thuộc bộ tứ định hướng tuyên giáo cho toàn bộ giới truyền thông còn lại [i]; và cuối cùng, ít nhất là những người từ nhiều lí do khác nhau quan tâm đến khí hậu chính trị Việt Nam: Họ phải xem dự báo thời tiết. Với trên 200.000 bản in phát hành đến tận các chi bộ, trang Nhân dân Điện tử và ước chừng không ít hơn nửa triệu độc giả chốt tại nhiều mắt xích quan trọng của chuỗi quyền lực chính trị và truyền thông, ảnh hưởng của tờ Nhân dân đủ lớn để không thể bị coi đơn giản là giấy lót nồi. Vai trò dẫn đường cho dư luận dòng chính của tờ Nhân dân về cơ bản không khác vai trò của một tờ như New York Times – sự khác nhau giữa hai bên ở cơ chế vận hành của vai trò đó không đặt ra trong bài này.
Dù khí hậu tinh thần về đại cục không thay đổi đáng kể, theo cảm nhận của tôi, thời tiết văn hóa ở Việt Nam đã bớt khắc nghiệt hơn nhiều so với một, hai thập kỉ trước. Những năm 90, thật khó hình dung một tác phẩm như Lolita nằm đàng hoàng trên các rạp sách ở Việt Nam. Khi ấy tập truyện ngắn của tôi do Nhà xuất bản Hà Nội ấn hành bị thu hồi vì lí do “mang tính kích dục”. Gần hai mươi năm sau, báo Nhân dân dành cho Lolita những lời thiện cảm và không quên cảquảng cáo cho bộ phim cùng tên của đạo diễn Stanley Kubrick. Tôi nhớ đến lời tuyên bố của tác giả Lolita, nhà văn Nga lưu vong Nabokov, rằng ngoài một phương châm cực kì đơn giản và dễ nhớ thì ông không quan tâm đến chính trị. Phương châm đó như sau: tất cả những gì có lợi cho “bọn Đỏ” – chỉ những người cộng sản – thì ông chống và tất cả những gì bất lợi cho “bọn Đỏ” thì ông theo. Tôi thấy mừng vì thế giới thời tôi sống hơi phức tạp hơn một chút so với phương châm đó. Nhưng còn gì đáng thích thú hơn việc cơ quan ngôn luận đầu não của một Đảng Cộng sản trước sau vẫn cứng rắn và giáo điều trong ý thức hệ lại khen ngợi tác phẩm từng bị coi làscandal đồi trụy của một nhà văn ghét cộng sản đến đào đất đổ đi.
Song thế chưa phải là hết. Tờ Nhân dân còn sẵn sàng cho những bất ngờ khác, đáng sửng sốt đến mức tinh thần chính thống cũng phải khâm phục sự đột biến sinh học của chính mình. Giữa năm ngoái, tờ báo này đăng một bài giới thiệu cuốn Fifty Shades of Grey, cũng với nhiều thiện cảm, thậm chí có thể gọi là thán phục. Với cách phiên âm tên nước ngoài độc nhất vô nhị của mình, ban biên tập còn đóng chứng nhận sản phẩm “chỉ có ở báoNhân dân” cho bài quảng cáo đó.
Đứng cách Lolita một lịch sử văn học mênh mông, cuốn 50 sắc thái xám không hề là một scandal, dù nó trưng bày mu và mồng, mông và mồn như ở quầy bán thịt trong siêu thị và cung cấp đủ tinh trùng để phun ướt đẫm nhiều trang sách. Nó đơn giản là một cuốn dâm thư có thành công thương mại khổng lồ nhờ hội được nhiều may mắn của hoàn cảnh ra đời. Tôi cũng góp phần mình vào thành công đó, bằng cách mua đến 5 cuốn tặng năm người bạn, những phụ nữ vừa tròn tuổi 50.
Không lâu nữa, cả bộ ba tập 50 sắc thái xám của Nhà xuất bản Lao Động và Công ti Alphabooks sẽ được phát hành chính thức tại Việt Nam. Độc giả Việt đã trưởng thành. Báo Nhân dân không hề yêu cầu dâm thư phải đóng góp vào việc “bồi dưỡng lí tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức, tình cảm, cảm thụ thẩm mĩ cho con người”. Mới đây tờ báo này còn có lời ca ngợi hiện tượng điện ảnh thế giới “nổi bật”, bộ phim kinh dị Mẹ Ma (Mama). Phim này đang được chiếu trên toàn quốc.
Khi báo Nhân dân giới thiệu dâm thư và phim kinh dị thì Việt Nam đã bước vào thời đại văn hóa giải trí và thương mại. Tôi không có gì phản đối điều đó. Thay được toàn bộ nền văn hóa tuyên truyền bằng văn hóa giải trí thuần túy thì phúc của chúng ta còn lớn lắm. Tác hại của nghệ thuật giải trí cũng thua xa của nghệ thuật tầm phào. Tôi thích xem 007 hơn những bộ phim lên gân mà nhẽo nhợt của nền điện ảnh nghiêm túc Việt Nam, thích đọc Harry Potter hơn những bài thơ gửi một thoáng tâm hồn cao thượng, nhạy cảm, sâu sắc, nhân ái vào một thế chấp vẩn vơ nào đó. Đọc Harry Potter, ít nhất tôi được biết rằng ở tuổi 82 khả kính, tổ chức chính trị khuynh loát toàn bộ xã hội Việt Nam bỗng tuân theo kịch bản hành động của một bộ truyện phù thủy dành cho trẻ em. Tôi thấy một nhân vật bước thẳng từ hư cấu ra hiện thực. Kẻ mà ai cũng biết (You-Know-Who) nhưng không được phép nêu tên (He-Who-Must-Not-Be-Named): Đồng chí X ra đời từ đồng chí Voldemort, nguyên mẫu của ông trùm đỏ là vị chúa tể đen hắc ám (The Dark Lord).
Song quê hương yêu dấu của tôi sẽ không còn là nó, nếu ở đó có một cái gì mà lí trí bình thường có thể nắm bắt. Ở đó sự cởi mở thì khác thường, sự khắc nghiệt thì phi thường, và bình thường là tất cả những ấm ớ hội tề còn lại. Trong khi bộ phim bạo lực mới toanh với diễn viên cơ bắp và Cựu Thống đốc California Arnold Schwarzenegger được duyệt thì Đấu trường sinh tử (The Hunger Games) bị cấm. Trong khi Thông tấn xã Việt Nam ca ngợi màn trình diễn “vô cùng đặc sắc và bất ngờ” với vài mảnh vải che thân của ca sĩ Mỹ Beyonce ở Super Bowl thì Nghị định 79 đem cái vung “thuần phong mĩ tục và truyền thống văn hóa dân tộc” đậy lên da thịt của sao Việt. Và thời tiết văn hóa Việt Nam tưởng đã thoáng đãng hơn nhiều lại thản nhiên chìa ra bộ mặt nghiệt ngã của nó, khi những ngày qua chúng ta vĩnh biệt một nghệ sĩ lớn, nhạc sĩ Phạm Duy. Gần trọn một thế kỉ, ông đã sống và minh họa giai đoạn đau thương, chia cắt và phức tạp nhất trong lịch sử nước Việt từ nhiều chỗ đứng. Chỗ cuối cùng mà ông chọn và để nằm xuống là chỗ kiên quyết chỉ dành cho ông 1/10 sự thừa nhận sự nghiệp, dù ông đã bày tỏ thiện chí tới mức như tỏ tình, tới mức như cầu xin. Số tác phẩm được cấp phép của một nghệ sĩ nổi tiếng khác, Trịnh Công Sơn, đã mất từ hơn mười năm nay, còn ít hơn nữa.
Cho nên tín hiệu khác thường từ việc thả luật sư Lê Công Định trước thời hạn cùng lắm chỉ ngang giá trị với việc báo Nhân dân giới thiệu dâm thư và phim kinh dị. Vài ngày trước, cũng chính quyền ấy kết án cho 22 người phần lớn đã cao tuổi, vì khu du lịch sinh thái mà họ chung lưng tạo dựng bị coi là căn cứ địa để lật đổ chính quyền và học thuyết chống đối của họ là sấm Trạng Trình.







Đừng xúc phạm thiên hạ nữa!

Kịch bản này được dàn dựng công phu và rất “nghiệp vụ” nhưng chỉ được có mấy hôm sau “cái kim trong bọc” đã lòi ra khi nguyên văn lá thư của mẹ Hùng được đăng tải công khai trên mạng và nhiều người đã trực tiếp gặp mẹ Hùng.
Nghiệp vụ của ngành công an có thể gọi là vô tận, riêng trong việc bắt người cũng rất “phong phú”. Việc bắt kẻ đang phạm tội quả tang (cướp giật, hành hung,…) thì đơn giản chỉ cần nhân viên có chút sức khỏe, võ thuật…là “hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”. Truy bắt các tội tinh vi như buôn hàng quốc cấm, trộm cướp, lừa đảo, giết người…tuy cũng phức tạp nhưng “chính danh”, được nhân dân hưởng ứng, tôn vinh. Tuy nhiên, việc bắt những đối tượng “tuyên truyền chống nhà nước,âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân..” (thực chất là bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền) hoặc kiện, tố cáo quan trên, biểu tình chống láng giềng “cùng ý thức hệ”…thì thuộc loại “nhậy cảm” bị dân chúng phản đối nên khi bắt họ cũng cần những kịch bản làm sao để không ổn ào gây bất an trong xã hội, trên thế giới, mất “uy tín” nhà cầm quyền. Thế nhưng, hình như kịch bản bắt các loại “tội phạm tế nhị” này của công an khó sáng tác, kho kịch bản đã cạn kiệt?
Khi công an Sài thành bắt TS Cù Huy Hà Vũ thì ban đêm ập vào phòng trọ lục lọi gậm giường, sọt rác vớ hai chiếc bao cao su “đã qua sử dụng” vốn đầy rẫy ở các nhà nghỉ để bắt TS Vũ. Nghiệp vụ này làm nhà văn Võ Thị Hảo “ô nhục hứng” làm bài “hịch” (nhái theo bài “Hịch tướng sĩ”) “Vụ án hai bao cao su dùng rồi…cáo” đăng trên mạng “tôn vinh” thứ bèo nhèo, nhơ nhớp, tanh tưởi…trở thành “đặc sản’ của VN vô cùng quý, đêm đêm các nhà nghỉ, khách sạn “lấy đèn soi” thu lượm không bỏ sót một cái nào để bảo quản sử dụng…ghi một “dấu son” vào lịch sử ngành tư pháp VN.
Ở vụ “Điếu cày” CA dùng kịch bản bắt Nguyễn Văn Hải lý do trốn thuế rồi khám xét nhà, máy tính thu những bài viết “ tuyên truyền chống nhà nước XHCN…” nhập kho. Ông Hải bị đi tù do trốn thuế trước. Sau khi Điếu cày hết hạn tù thì khui tài liệu thu từ trước ra xử cho đi tù tiếp về tội “chính thức”…
Tưởng sau vụ này phải tạm thay kịch bản khác cho khỏi nhàm thì đến lượt anh em luật sư Lê Quốc Quân, (Lê Đình Quản, Lê Quốc Quân) CA lại dùng luôn kịch bản y như với vụ Điếu Cày.
Cứ cho là Điếu cày Nguyễn Văn Hải, anh em nhà Lê Quốc Quân có trốn thuế thật nhưng có đáng bắt giam? Ngoài ai cũng biết khối kẻ X,Y,Z rõ ràng làm thất thoát của dân hàng trăm nghìn tỷ đồng, làm nền kinh tế đất nước khánh kiệt, nhân dân điêu đứng…nhưng CA còn chưa tìm ra, tôi xin báo cáo trước bàn dân thiên hạ và toàn bộ ngành công an ba vụ không lớn mà tôi đang “thụ lý” nhưng đáng bắt giam gấp nghìn lần vụ anh em nhà Lê Quốc Quân: Ông nguyên hiệu trưởng, chủ tịch HĐQT đương nhiệm trường THPT dân lập Lômônôsốp (ở khu Mỹ Đình 2 Từ Liêm Hà Nội) Nguyễn Phú Cường từ năm 2006-2009 dấu nhiều nguồn thu trốn thuế 1.394.858.431 đ (một tỷ ba trăm chín tư triệu, tám trăm năm tám nghìn, bốn trăm ba mốt VN đồng) đã bị CBNV tố cáo, công an, cục thế HN vào cuộc, tháng 1/2011 ông mới kê khai nộp thuế “ bổ sung”, hợp lý hóa các khoản thu chịu nộp phạt hơn 663 triệu đ, bỏ qua 8.566.381.000 (hơn 8 tỷ đ) doanh thu dịch vụ đưa đón học sinh “chưa tính” thuế. Đặc biệt, ông Cường còn khai khống thêm 11 tỷ đ hòng chiếm đoạt tiền của các cổ đông trong việc chuyển giao cơ sở hạ tầng từ TCT HUD cho nhà trường mà không có chứng từ hợp lệ, tăng khống giá thực phẩm từ 125-300% bòn rút bữa ăn của các cháu trong thời gian dài…Tất cả những “phi vụ” phạm pháp tinh vi, trắng trợn, nhẫn tâm này đều được chứng minh bằng chứng cứ xác đáng, được gần 30 bài báo của hàng chục tờ báo “lề phải” như Lao Động, Thanh Tra, Pháp luật…đăng tải công khai.
Thế nhưng, trong cả thời gian dài điều tra, dân tố cáo, kiến nghị rất nhiều lần nhưng công an Hà Nội vẫn cố tình bao che một cách trơ trẽn cho ông Cường. Công văn 1143/TB-PC 46 ngày 23/10/2011 của công an Hà Nội do ông Lê Hồng Sơn ký ngang nhiên khẳng định: “CA Hà Nội thấy ông Nguyễn Phú Cường không có dấu hiệu vi phạp pháp luật hình sự”. Sau công văn này, CBNV của trường lại có đơn không đồng ý với kết luận của công an với bằng chứng vi phạm luật hình sự không thể chối cãi thì ông này lại có công văn số 294/TB-PC 46 ngày 9/1/2012 ngang nhiên trả lời người tố cáo: “Tuy nhiên, ngoài những tài liệu trước đây thì…không cung cấp thêm được tài liệu chứng cứ nào khác”…
Còn cần tài liệu nào nữa khi nhiều khoản thu được dấu nhẹm không nộp thuế nhiều năm liền, khi bị tố cáo, công an vào cuộc mới khai ra xin “nộp bổ sung” có ngày, giờ tố cáo, ngày giờ công an, cơ quan thuế điều tra, ngày giờ nộp phạt có bằng chứng hẳn hoi rõ ràng vi phạm điều 161 bộ luật hình sự về trốn thuế sao lại phải cần tài liệu nào nữa? Được bao che, dung túng, ông Cường liên tục dùng quyền hành trù dập người tố cáo hiệu trưởng Lê Tiến Dũng “lên bờ, xuống ruộng” ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, hoạt động của trường Lômônôxốp.
Ở ngay Quận Long Biên tôi ở có thửa đất 75, 77 Nguyễn Sơn ở nút ngã tư với đường Nguyễn Văn Cừ đều là đất do DN nhà nước quản lý, sử dụng. Năm 2010 TP thực hiện mở rộng giải phóng cái nút mà chiều nào cũng bị tắc là công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội. Là đất nhà nước nhưng phường Gia Thụy, quận Long Biên đã “nhầm lẫn” bồi thường thửa đất số nhà 77 (chưa “ăn” đến thửa 75) có diện tích hơn 600 m2 cho hai người thuê đất 6,7 tỷ đ và 180 m2 đất “cuỗm” của nhà nước cỡ hơn 20 tỷ đ. Một vụ nữa: Quận Long Biên thu hồi đất của dân ngoài phạm vi cho phép của dự án làm đường từ QL1B đi khu đô thị Việt Hưng có dấu hiệu tham nhũng 440 tỷ đồng… Các phi vụ mờ ám, trắng trợn “có tổ chức” này bị hàng chục bài báo “lề phải” đăng tùm lum nên công an không thể không biết nhưng các quan quận Long Biên, phường Gia Thụy…liên quan vẫn chẳng hề hấn gì, thường xuyên nhắc nhở CBNV phải “học theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”…
Thế mà theo thông báo, luật sư Lê Quốc Quân “trốn thuế” (cứ cho là chính xác đi) có hơn 437.500.000 đ, cơ quan thuế tự nhiên “ngắc ngứ” không làm nhiệm vụ thanh tra khi đã có quyết định như thể…để dành việc cho CA và Lê Quốc Quân – người công khai tranh đấu cho dân chủ, quyền con người mà đảng luôn “tôn vinh” – bị bắt giam về tội trốn thuế.
Người công tâm không thể nghĩ khác: Đây chỉ là “kịch bản” của chính quyền muốn bắt, trừng phạt những người phạm cái tội “không thể nói ra” nên lý do bắt cứ loanh quanh. Lê Quốc Quân bị bắt giam với kịch bản lặp lại y chang vụ bắt “Điếu cày” và rồi đây lại đi tù với hai “cấp” tội? Nên nhớ, hiện nay hàng ngàn người đang góp ý với đảng phải sửa hiến pháp trả quyền con người cho dân, yêu cầu bỏ điều 4…còn mạnh mẽ hơn những gì Lê Quốc Quân viết trước đó. Nếu sau đây Lê Quốc Quân lại bị tù về tội “trù bị” (trốn thuê) hay “chính thức” (tuyên truyền chống nhà nước) thì đều hết sức phi lý, vô liêm…
Cứ kloanh quanh kiểu này tới đây có lẽ CA lại dùng chiêu “trốn thuế” hoặc giả người đi đường va chạm rồi sửng cồ khiêu khích làm to chuyện để công an khác đến “tóm” kẻ muốn bắt hay lại khui kho bao cao su cũ ra sài?…Phải chăng những người này chỉ “phạm tội” thương dân, yêu nước nên nhà cầm quyền mới phải vin vào những cái cớ bắt giam lố bịch, khi xử họ nói là công khai nhưng không cho dân vào dự sợ bị phản đối áp đảo?…
Lừa dối người chưa biết là tiểu nhân, nói dối điều ai cũng biết là xúc phạm thiên hạ…
Thiết nghĩ, ngành CA nên “hiện đại hóa” ngành sản xuất kịch bản, đào tạo hoặc thuê nhiều nghệ sĩ giỏi sáng tác kịch bản bắt các đối tượng kiểu Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày, Lê Quốc Quân, Lê Anh Hùng…đang mỗi ngày một đông đảo để đỡ quay vòng vài kịch bản quá cũ xúc phạm thiên hạ.
NĐA
Theo blog NTT







Câu chuyện của niềm tin

Gần mười hai năm học tập và làm việc ở nước ngoài, tôi có bạn bè mới, thầy cô mới, đồng nghiệp mới. Trong công việc không có định kiến, không có phân biệt. Tất cả diễn ra trong một sự trung thực và cởi mở hồn nhiên. Hồn nhiên đến mức ngạc nhiên. Tôi chìm đắm trong bầu không khí dân chủ, bình đẳng và tinh thần tự do học thuật. Tôi thấy mình được tôn trọng, và ý thức được mình có quyền được người khác tôn trọng.
Tôi phải làm đủ thứ giấy tờ nhưng không bao giờ thấy những con dấu đỏ. Chỉ cần một chữ ký cá nhân là đủ, một cuộc điện thoại, một lá email là xong. Không ai hạch sách, không ai đòi kiểm tra, không ai đòi công chứng bản gốc.
Tôi lên tàu điện: không có người soát vé. Họ tôn trọng chúng tôi, và tin chúng tôi. Thỉnh thoảng họ có đi kiểm tra định kỳ thì cũng rất lịch sự, không gây cho mình cảm giác khó chịu.
Tôi ra siêu thị: không ai bắt tôi phải gửi đồ trước khi vào mua hàng. Không ai kiểm tra chúng tôi khi ra. Họ tôn trọng chúng tôi, và tin chúng tôi.
Tôi và một người bạn đi mua bảo hiểm xe. Điều khoản cho biết, nếu mất xe thì sẽ được đền xe mới. Bạn tôi hỏi: nếu chúng tôi bán xe rồi báo mất thì sao? Nhân viên bảo hiểm ngạc nhiên mất một lúc lâu mới nghĩ ra được câu trả lời: tôi tin các anh không làm thế.
Lần đầu tiên tôi cảm nhận được sự tin tưởng mang tính hệ thống. Một sự tin tưởng cá nhân mạnh mẽ lan tỏa trong toàn xã hội. Chữ Tín được xác lập mà không cần sự có mặt của các loại công chứng bản gốc, chứng thực, xác nhận…
Tôi vỡ ra: À, ra thế. Họ giàu mạnh vì họ tin ở con người.
2. Mười hai năm sau tôi trở về. Nhiều cái như xưa. Nhiều cái hơn xưa. Nhưng cũng nhiều cái tệ hơn xưa.
Tôi làm thủ tục nhận đồ mình gửi cho mình. Tên tôi đây. Địa chỉ tôi đây. Hộ chiếu của tôi đây. Vậy sao mà rắc rối đến vậy? Sao phải xác nhận? Sao phải chứng minh? Sao phải công chứng bản gốc?
Tôi có làm gì đâu, chỉ là nhận đồ mình gửi cho mình thôi mà sao phức tạp như vậy. Lẽ ra tôi chỉ chờ ở nhà, đúng hẹn công ty vận chuyển sẽ mang đồ đến. Tôi chỉ cần ký xác nhận là xong.
Tôi được giải thích ở Việt Nam mọi thứ cần phải đúng quy trình chứ không đơn giản như vậy.
Tôi ngẫm ra: Càng nhiều dấu đỏ, càng ít niềm tin.
3. Tôi đưa gia đình đi siêu thị Big C Long Biên. Niềm vui khi thấy một siêu thị bề thế, nhộn nhịp vừa mới nhen lên thì gặp ngay một chuyện ngỡ ngàng: Tất cả những ai muốn vào siêu thị đều phải gửi đồ bên ngoài. Con gái tôi có một túi khoác nhỏ để đựng mấy thứ lặt vặt cũng phải niêm phong rồi mới được mang theo.
Vì sao vậy? Chúng tôi hỏi thì chỉ nhận được câu trả lời: Đây là quy định!
Quy định gì? Quy định không được tin nhau.
Câu chuyện có lẽ sẽ chỉ là một phiền toái buồn, nếu không có chuyện sau khi thanh toán, tất cả khách hàng lại bị kiểm tra một lần nữa, và hóa đơn phải được đóng dấu đỏ “đã thanh toán” thì mới được nhân viên an ninh cho ra ngoài.
Chúng tôi tự hỏi: chuyện quái quỉ gì đang xảy ra vậy? Quầy thanh toán có hai nhân viên kiểm tra và tính tiền. Từ quầy thanh toán ra đến cửa ra này chỉ chừng 2 mét, lại không có hàng hóa gì bày bán trên đoạn đường 2 mét đó. Vậy cớ sao phải kiểm tra lại? Cớ sao phải đóng dấu vào hóa đơn thì mới được ra?
Vợ tôi phản ứng dữ dội: Nếu kiểm tra mà không tìm thấy sai sót nào thì các anh có xin lỗi chúng tôi không? Nhưng chúng tôi chỉ nhận được một câu trả lời lạnh lùng: Đây là quy định.
Tôi nhìn những người xếp hàng chờ kiểm tra và đóng dấu hóa đơn. Tất cả đều kiên nhẫn và ngoan ngoãn. Họ có thể làm gì trên đoạn đường dài 2 mét đó để phải chịu cảnh khám xét?
Tôi lặng lẽ quan sát. Rất nhiều người lớn tuổi. Lịch sử như phảng phất qua bộ quân phục cũ. Một vài nụ cười cầu hòa dù chủ nhân không làm gì sai. Một vài ánh mắt lấm lét không có lý do. Nhiều gương mặt cam chịu và chờ đợi cảnh được khám xét.
Tôi cố gắng tìm lý do để biện minh cho việc làm kỳ quái đó, nhưng không thể.
Tôi rút ra kết luận: Nhiều người Việt không tin người Việt. Nhiều người Việt không hiểu rằng mình có quyền phải được người khác tôn trọng.
4. Chúng tôi ra về, nhưng vẫn ám ảnh câu hỏi: Vì sao người Việt không tin nhau? Phải chăng chúng ta đã quen sống trong một sự cảnh giác thường trực đến độ thành phản xạ có điều kiện?
Tôi bất giác nhớ đến mớ giấy tờ đỏ choét những con dấu công chứng sao y bản gốc. Tôi tự hỏi: Tôi và triệu người quanh tôi đã mất bao nhiêu thời gian cho những thứ này?
Tôi thở dài: càng nhiều dấu đỏ, càng ít niềm tin.
Tôi tự hỏi: Phải chăng đang có một cuộc “khủng hoảng niềm tin”?
Và khi nào thì người ta không tin nhau?
Rõ ràng là khi có sự dối trá. Người ta không tin nhau khi cần phòng tránh sự dối trá.
Vậy là đang có một sự dối trá phổ biến, đến mức một đoạn đường 2 mét và được kiểm soát chặt chẽ cũng trở nên đáng ngờ.
Và chúng ta đã mất biết bao nhiêu thời gian và nguồn lực để cảnh giác, phòng tránh, đương đầu với sự dối trá này?
Không ai thống kê định lượng, nhưng chắc hẳn là rất nhiều. Nhiều đến mức có thể làm cho đất nước ta kiệt quệ. Kiệt quệ vì luôn phải cảnh giác, đề phòng.
5. Việt Nam đang rất cần một sự quy tụ nguồn lực để phát triển. Nhưng quy tụ làm sao khi cả xã hội sống trong tâm trạng cảnh giác thường trực, lúc nào cũng nơm nớp đề phòng? Quy tụ làm sao khi sự giả dối đã trờ thành một lối sống của xã hội? Quy tụ làm sao khi niềm tin giữa người với người đã trở nên cạn kiệt?
Việt Nam đang rất cần hội nhập, rất cần làm bạn với thế giới bên ngoài. Nhưng hội nhập làm sao khi luôn nhìn thế giới bên ngoài với con mắt thù địch nghi ngờ? Làm bạn làm sao khi không có lòng tin vào đối tác của mình?
Đất nước đã thống nhất nhưng lòng người chưa thống nhất. Di sản của mấy mươi năm chiến tranh quá đỗi nặng nề. Trong này kinh tế khó khăn. Ngoài kia Biển Đông nổi sóng. Một cuộc hòa giải, để sau đó thực sự có một sự hòa hợp Nam Bắc, trong ngoài là cần thiết hơn bao giờ hết. Muốn vậy cần xóa bỏ mọi nghi kỵ lẫn nhau giữa mọi tầng lớp xã hội.
***
Nhiều học giả đã gọi niềm tin là một thành phần quan trọng của vốn xã hội. Khi niềm tin cạn thì vốn xã hội cũng cạn theo. Mà cạn vốn thì làm sao phát triển?
Theo TS







Vì sao tôi ký?
Trần Đức Tuấn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
NQL: Tâm sự một cán bộ Viện kiểm sát nhân dân tối cao khi ông quyết định kí vào bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992 của 72 nhân sĩ trí thức của cả nước.
Cuối cùng, tôi cũng đã góp “một viên gạch?” vào một sự kiện hết sức có ý nghĩa đối với Quốc gia, đó là vừa gửi mail ký tên ủng hộ Bản kiến nghị do 72 nhân sỹ, trí thức khởi xướng. Một việc làm ý nghĩa nhất mà tôi làm được cho đất nước đến thời điểm hiện nay. Với nội dung bức thư như sau:
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các nhân sỹ, trí thức đã nghĩ cho tương lai dân tộc, nhân dân, đứng lên khởi xướng bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp đầy ý nghĩa. Qua nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, tôi đánh giá rất cao chất lượng của Bản kiến nghị và Bản hiến pháp mẫu do các nhân sỹ, trí thức soạn thảo. Tôi thấy bản Hiến pháp mẫu này có giá trị không thua kém gì những bản Hiến pháp của các nước dân chủ trên thế giới như Mỹ, Pháp, Đức…
Vì vậy, tôi viết đơn này xin ký tên ủng hộ Bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992 do 72 nhân sĩ, trí thức khởi xướng. Mong quý Ban biên tập ghi đầy đủ như sau:
“Trần Đức Tuấn, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, hiện đang học Thạc sỹ Luật học tại Đại học Victoria, New Zealand.”
Tôi hy vọng rằng, mặc dù chỉ một chữ ký rất nhỏ bé, nhưng nhờ những sự nhỏ bé đó, mới tạo nên được lớn lao, và điều đó cũng thể hiện được trách nhiệm của một công dân nước Việt Nam. Theo đánh giá của tôi, nếu bản Kiến nghị được chấp thuận, chúng ta có quyền hy vọng vào một tương lai Việt Nam tốt đẹp.
Ngoài ra, tôi nghĩ rằng đó là nghĩa vụ mà tôi phải làm. Tôi không muốn sau này, khi tôi 80 tuổi, con cháu tôi hỏi tôi: “Trước đây, các trí thức của Việt Nam mình có một bản Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp, thế cụ có ký không?”
Nếu tôi trả lời “Không”. Chúng tiếp tục hỏi tôi: “Tại sao?” Tôi biết trả lời thế nào?
Giả sử tôi trả lời:
1. Vì ông không biết?
Chúng bảo là các trang mạng đưa tin, đến các bác nông dân, công nhân, sinh viên, các cụ già ở quê không có internet còn biết, chả lẽ cụ lại vô dụng thế sao? Đến bản Hiến pháp là văn bản quan trọng nhất của quốc gia, mà cụ cũng không quan tâm thì cụ quan tâm cái gì?
2. Vì ông thấy chất lượng của bản kiến nghị không cao.
Chúng bảo là, đến người nông dân đọc còn biết được Bản kiến nghị có chất lượng rất cao, huống chi cụ là người đã học Đại học luật trong nước, rồi cũng đi nước này nước khác học sau đại học. Chả lẽ cụ đi học cho vui thế sao? Nghe bảo là cụ được đi học theo học bổng nhà nước, tiền của dân đóng thuế đó cụ. Cụ có thấy mình đã “đốt” tiền oan của dân đó không?
3. Cụ biết nhưng sợ người ta trù dập, không cho thăng tiến trong tương lai, biết đâu lại mất sổ hưu.
Chúng cười mỉa, tuy không nói vì sợ ông cụ bảo hỗn nhưng ngẫm chả lẽ mình lại là cháu của một ông hèn đến thế sao, chỉ biết nghĩ đến quyền lợi bản thân, không thèm nghĩ đến sự hưng thịnh quốc gia, và hậu quả là bây giờ mình lại xin visa đi làm thuê cho các nước láng giềng, bởi hồi đó có những người như cụ mình. Thế mà cụ cũng bày đặt dạy dỗ tôi thành người tử tế? Rồi chúng viện dẫn một câu nói của ông Nguyễn Trường Tộ: ““Biết mà không nói là bất nhân, nói mà không nói hết là bất nghĩa”.
Bọn trẻ tiếp tục dồn ông cụ vào chân tường bằng câu nói nổi tiếng của Albert Einstein: “The world is a dangerous place to live; not because of the people who are evil, but because of the people who don’t do anything about it”.
Ông cụ bần thần… thì vì cái sổ hưu.







Ngậm ngùi đưa tiễn đạo diễn Hải Ninh về trời
Đạo diễn, NSND Hải Ninh qua đời sáng 5/2, thọ 82 tuổi. Lễ viếng và đưa tang ông được cử hành ngày 7/2 tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Đông đảo nghệ sĩ, đồng nghiệp và người mến mộ đạo diễn Hải Ninh đã cùng gia đình tiễn đưa ông về nơi an nghỉ cuối cùng.

NSND Trà Giang mếu máo sau khi nhìn mặt đạo diễn nổi tiếng lần cuối. Bà là một trong những nữ diễn viên thành danh nhờ phim của NSND Hải Ninh. Vai Dịu trong “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” đã đem lại cho Trà Giang giải thưởng Nữ diễn viên chính xuất sắc tại LHP Quốc tế Matxcơva năm 1973.
NSND Trà Giang nắm tay chia buồn với đạo diễn Phạm Nhuệ Giang – con dâu của NSND Nguyễn Hải Ninh.

Bà rơi nước mắt ôm chầm lấy Nhuệ Giang. Đạo diễn Nhuệ Giang là vợ của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân – con trai thứ hai của NSND Hải Ninh.

“Trong nỗi đau thương vô hạn, em xin vĩnh biệt anh – người nghệ sĩ đã cùng em trải qua những ngày gian khổ để thực hiện những bộ phim thời chiến tranh…”, Trà Giang viết trong sổ tang.

NSND Lan Hương nổi tiếng từ năm 10 tuổi với bộ phim để đời “Em bé Hà Nội” của đạo diễn Hải Ninh. Trong sổ tang, chị viết: “Bác Hải Ninh ơi, thế là một phần quan trọng của bộ phim “Em bé Hà Nội” đã ra đi. Buồn và vô cùng thương tiếc bác. Cảm ơn bác đã đặt cho cháu viên gạch nghệ thuật đầu tiên này. Xin thương tiếc và vĩnh biệt bác”.

Đứng trong dòng người đến viếng, Lan Hương lau nước mắt đưa tiễn vị đạo diễn bậc thầy.
NSND Như Quỳnh (trái) và NSƯT Minh Châu (phải) kính cẩn trước linh cữu.

Vợ chồng NSND Lê Khanh – đạo diễn Phạm Việt Thanh.
NSƯT Chiều Xuân chia buồn với gia quyến.
Vợ chồng Chiều Xuân – Đỗ Hồng Quân ghi sổ tang. Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân viết: “Vô cùng thương tiếc NSND Hải Ninh – người bạn lớn của giới văn học nghệ thuật, giới âm nhạc Việt Nam. Sự nghiệp nghệ thuật của Ông còn mãi trong tâm trí và tình cảm của đồng nghiệp!…”.
Vợ chồng NSƯT Đỗ Kỷ – Lan Hương đến viếng.
![18-jpg_1360217236[1364086253].jpg](https://i.gr-assets.com/images/S/compressed.photo.goodreads.com/hostedimages/1382154507i/5703452._SY540_.jpg)
Đạo diễn – NSƯTVương Đức.
![1-jpg_1360217236[1364086253].jpg](https://i.gr-assets.com/images/S/compressed.photo.goodreads.com/hostedimages/1382154507i/5703453.jpg)
Nghệ sĩ Hoàng Thắng – người đóng vai Đặng Lân trong bộ phim dã sử “Đêm hội Long Trì” do Hải Ninh đạo diễn.
![3-jpg_1360217236[1364086253].jpg](https://i.gr-assets.com/images/S/compressed.photo.goodreads.com/hostedimages/1382154507i/5703454.jpg)
Diễn viên, NSƯT Trần Lực.
NSƯT Trọng Trinh.
![8-jpg_1360217236[1364086253].jpg](https://i.gr-assets.com/images/S/compressed.photo.goodreads.com/hostedimages/1382154507i/5703456.jpg)
Đạo diễn – NSND Đặng Nhật Minh viết: “Vô cùng thương tiếc NSND Nguyễn Hải Ninh, cây đại thụ của điện ảnh Cách mạng Việt Nam…”.
Nhạc sĩ Quốc Trung.
NSND Hoàng Dũng chia buồn với anh em đạo diễn Nguyễn Thanh Vân.
Các đồng nghiệp, bạn bè buồn đau trước sự ra đi của NSND Hải Ninh.
![28-jpg[1364086253].jpg](https://i.gr-assets.com/images/S/compressed.photo.goodreads.com/hostedimages/1382154507i/5703462._SY540_.jpg)
Nhà thơ Hữu Thỉnh ghi sổ tang.
Diễn viên, NSƯT Bùi Cường và Quốc Tuấn.
![32-jpg[1364086253].jpg](https://i.gr-assets.com/images/S/compressed.photo.goodreads.com/hostedimages/1382154507i/5703464.jpg)
Điếu văn tiễn đưa linh hồn NSND Nguyễn Hải Ninh khiến nhiều người xúc động.
February 6, 2013
Ba câu hỏi dành cho nguyên Trưởng ban Biên giới Chính Phủ

Không thể “làm ngơ” với mặt trận truyền thông chứng lý Biển Đông (Bài 1)
“Thành lập một bảo tàng số tập hợp chứng lý về Biển Đông là nhu cầu tất yếu, vô cùng cần thiết trong giai đoạn hiện nay”- Đó là khẳng định của TS Trần Công Trục, Nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ khi đề xuất công bố ý tưởng này với Infonet. (http://infonet.vn/Thoi-su/Khong-the-lam-ngo-voi-mat-tran-truyen-thong-chung-ly-Bien-Dong-Bai-1/57860.info)
- 5 lý do cần có kho tư liệu số về chứng lý Biển Đông (bài 2)
Như Infonet đã đưa tin, chúng ta không thể làm ngơ với mặt trận truyền thông chứng lý Biển Đông, từ thực tiễn và yêu cầu của cuộc đấu tranh chủ quyền, TS Trần Công Trục tiếp tục nêu ra 5 lý do cần có Bảo tàng số về chứng lý Biển Đông. (http://infonet.vn/Thoi-su/5-ly-do-can-co-kho-tu-lieu-so-ve-chung-ly-Bien-Dong-bai-2/58095.info)
Và đây là ba câu hỏi dành cho nguyên trưởng ban biên giới Trần Công Trực:
Theo Fb Nguyễn Hồng Kiên
Chuyện Hiến Pháp
5 Xu
Khi trang mạng “Cùng Viết Hiến Pháp” của GS Châu và GS Sơn ra đời, tôi cũng không ý thức được giá trị của trang web này ngay với cá nhân mình. Lúc đầu thì theo thói quen, thấy trang web có giá trị thì hì hụi đi phát tán. Sau thì tranh thủ những lúc trong máu không có cồn (đang tất niên hội hè miên man) đọc các bài viết trên đấy.
Bỗng giật mình nhận ra, lần duy nhất trong đời mà tôi học một thứ gọi là văn bản luật, là cái hôm thi bằng lái xe.
Còn thì không thể nhớ ra dù chỉ một lần được học, hay được giảng, hoặc thậm chí là được giới thiệu về hiến pháp trên lớp học.
Thậm chí, cũng chưa một lần có ý định tự tìm cái bản hiến pháp của nước mình về rồi tự đọc.
Bỗng ngộ ra rằng, cái gì mà không có thực chất, chỉ là hình thức, thì sự tồn tại của nó có cũng như không.
Bỗng vì lý do gì đó, hiến pháp của nước mình bất ngờ không còn tồn tại, thì mọi thứ vẫn hoạt động bình thường, chả có gì suy chuyển.
Thế thì tức là nếu làm ngược lại, sửa nó cho thật hay, thì cũng chẳng suy chuyển được cái gì.
Chuyện Hiến pháp tự nhiên tréo nghoe ra như vậy, đành phải ôm sách về nhà tự nghiên cứu.
Không rõ từ nguyên chữ Hiến-Pháp trong tiếng Việt là gì, nhưng rất may là sách có nói chữ Constitution, là do chữ Constitutio của chữ Latin, đi qua tiếng Pháp, rồi mà thành. Chữ này có nghĩa là quy tắc (regulations and orders).
Về lý thuyết, ở một số nước, Hiến pháp là bộ luật gốc, từ đó tạo sinh ra nhà nước, mô hình và cách thức vận hành cái nhà nước ấy. Ở những nước này Hiến pháp là tối quan trọng.
Nhưng lại có những nước mà ở đó nhà nước, nếu thích, có thể tự soạn và ban hành hiến pháp bất cứ lúc nào. Tất nhiên là ở những nước như vậy, Hiến pháp không có vai trò gì cho lắm.
Hiến pháp không tự nhiên sinh ra, mà phải có ai đó viết. Hiến Pháp cũng không phải là một văn bản tập hợp các quy tắc gốc vô hồn, mà đằng sau nó phải có tinh thần, có chủ thuyết của những người lập ra hiến pháp. Hay nói theo kiểu Steve Jobs, Hiến Pháp là một sản phẩm mà đằng sau nó có triết lý (philosophy) của người làm ra nó. Philosophy có gốc là hai chữ Hy Lạp: philein và sophian. Chữ philein nghĩa là ước vọng, sophian là cái chân-thiện. Hiến-Pháp tốt đương nhiên phải có đạo lý sâu rộng ở phía sau văn bản ngữ nghĩa.
Bản Hiến pháp được coi là mẫu mực của thế giới, cũng đồng thời là hiến pháp thành văn đầu tiên, là hiến pháp Hoa Kỳ. Đây cũng là bản hiến pháp ngắn gọn nhất thế giới khi chỉ có 7 điều và 27 tu chính án (7 điều và 27 điểm sửa chữa bổ sung).
Bản Hiến pháp Hoa Kỳ ra đời năm 1787 và tồn tại đến tận bây giờ.
Chủ thuyết của Hiến pháp Hoa kỳ, như GS Wendy N Duong tóm tắt ở bài viết “Tổng quan về Hiến pháp Hoa Kì” rất đơn giản: (i) phân quyền lực (mối quan hệ giữa ba nhánh của chính phủ), (ii) chủ thuyết liên bang (mối quan hệ giữa chính phủ quốc gia trung ương và chính phủ các tiểu bang), (iii) cơ chế toà án bảo hiến ( cơ chế mà qua đó Hiến pháp được hiểu, áp dụng và tôn trọng), và (iv) Bản Tuyên ngôn Quyền (nói lên mối quan hệ giữa chính phủ và cá nhân).
Về chủ thuyết phân ba nhánh của Hiến Pháp Hoa Kỳ, nếu diễn giải nôm na thì: Lập Pháp là Quốc Hội gồm hai viện Thượng và Hạ không được phép hoạt động đơn phương. Hành pháp là Tổng thống. Tư Pháp là hệ thống tòa án liên bang. Trong đó có Tòa án tối cao liên bang, do chính Hiến Pháp tạo sinh ra để diễn giải và thực hành Hiến Pháp (vai trò như tòa án bảo vệ hiến pháp).
Nhân đây, cũng xin phép nhắc một chút về mốc thời gian: Năm 1787 là năm ở Mỹ bản Hiến pháp Mỹ ra đời, thì ở vùng đất gọi là VN bây giờ, đang là lúc Nguyễn Huệ đang đánh nam dẹp bắc loạn lạc binh đao. Năm 1787 là năm Nguyễn Huệ kéo quân về đánh Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn. Nước Việt Nam ngày nay, lúc đó chưa hình thành (tiền thân của nước Việt Nam hiện đại, đến năm 1802 mới xuất hiện).
Còn Hiến pháp của Việt Nam đang được góp ý sửa đổi, ra đời năm 1992, chủ thuyết là Nhà nước thống nhất (không phân chia quyền lực). Điều này ghi rõ trong Điều 2 của Hiến pháp.
Mặc dù nước ta có tới mấy ngàn năm văn hiến, nhưng nhìn vào thời điểm Hiến pháp Mỹ ra đời và so với lịch sử cận đại của Việt Nam, lại có thể thấy rằng chúng ta sinh sau đẻ muộn hơn nhiều.
Cho nên việc học hỏi cách người Mỹ làm ra bản Hiến pháp của họ là một việc nên làm và chả có gì phải xấu hổ khi bắt chước họ cái cách làm ra hiến pháp.
Việc bắt chước này, tất nhiên không phải là sự bắt chước máy móc, hoặc nhắm mắt sao chép hiến pháp Hoa kỳ. Bởi chính Alexander Hamilton, một trong những người tham gia kiến tạo bản Hiến Pháp Hoa Kỳ, có nói rằng: “Tôi đồng ý với Montesquieu rằng mỗi chính quyền cần phù hợp với một quốc gia, như mỗi cái áo phù hợp với một cá nhân. Điều kỳ diệu ở Philadelphia có thể sẽ là điều tồi tệ ở Paris và trở nên lố bịch ở Saint Petersburg”.
Montesquieu là cha đẻ của tam quyền phân lập, là chủ thuyết đằng sau Hiến Pháp Mỹ. “Điều kỳ diệu ở Philadelphia” là cách các sử gia Mỹ gọi Hiến pháp Mỹ, do Hội nghị lập hiến diễn ra ở Philadenphia và kết quả của hội nghị này chính là bản Hiến pháp Mỹ.
Nước Mỹ giành độc lập vào ngày 4 tháng 7 năm 1776. Trong những năm đầu, chính quyền non trẻ của Mỹ hoạt động dựa vào sự hợp tác của các bang đầu tiên tham gia cách mạng, dưới một thỏa ước chung gọi là Articles of Confederation (Các điều khoản hợp bang). Cái “Các điều khoản hợp bang” này chính là hiến pháp đầu tiên của Mỹ (được phê duyệt năm 1781).
Lúc này nước Mỹ rất yếu, nghèo nàn, chính phủ kiệt quệ, không có hành pháp, không tòa án tối cao, không quân đội liên bang mà chỉ có quân đội tiểu bang, uy tín quốc tế bằng số không. Kinh tế suy thoái lao dốc, tiền tệ lạm phát, loạn lạc bên trong, ngoại bang đe dọa bên ngoài.
Nhưng những nhà lãnh đạo nước Mỹ lúc đó không yếu ớt. Năm 1787, khi tình hình đất nước khủng hoảng sâu sắc, một vài trong số họ, vốn là công thần lập quốc, thấy cần phải có một Hiến pháp mới để thay đổi nhà nước Mỹ và thay đổi tương lai của nước Mỹ. Họ đã vận động tổ chức Hội nghị Lập hiến. Từ Hội nghị lập hiến này đã cho ra đời bản Hiến pháp Mỹ. Bản Hiến pháp Mỹ này đã làm thay đổi nước Mỹ, biến nước Mỹ thành siêu cường, và cũng rõ ràng đã góp phần làm thay đổi cả thế giới.
Như vậy, sau hơn 200 năm, việc sửa đổi Hiến pháp năm 1787 đã và vẫn đang là một việc cực kỳ quan trọng đối với vận mệnh của nước Mỹ.
Năm 1787, tức là khá lâu sau khi Mỹ giành độc lập, mới có Hội nghị lập hiến này. Hội nghị diễn ra tập trung. Các đại biểu của các tiểu bang phải tự đi xe ngựa về Philadenphia, tự ăn tự ngủ suốt mấy tháng liền trong thời gian họp.
Có 74 đại biểu được triệu tập nhưng chỉ có 55 người có mặt. Trong số 55 người này chỉ có 39 người cuối cùng ký vào bản Hiến pháp mới.
Để bắt đầu, họ bầu ra một người rất có uy tín làm Chủ tịch hội đồng lập hiến: đó là tướng George Washington, vị tổng tư lệnh trong cuộc chiến với đế quốc Anh để dành độc lập cho Hoa Kỳ hơn 10 năm trước đấy. Bộ óc soạn thảo Hiến pháp Mỹ trong hội nghị lập hiến, và sau đó là các tu chính án (được biết với tên Tuyên ngôn nhân quyền) là của một ngôi sao trẻ 36 tuổi tên là James Madison. Ông này sau cũng làm tổng thống Mỹ (tổng thống thứ 4).
Như vậy, có thể học được một điều, là Hiến pháp cần một hội nghị lập hiến nghiêm túc, có người đứng đầu là một cá nhân có uy tín. Còn bộ óc soạn thảo, trong quá trình làm việc, sẽ tự xuất hiện.
Hội nghị Lập hiến họp kín, có các thư ký, có các chủ tọa, và thực tế là cãi nhau như mổ bò từ suốt 25 tháng 5 đến tận 24 tháng 7 mới đạt được một cái mà sau này gọi là Đại Thỏa Hiệp (Great Compromise): tức là chọn được một phương án chủ đạo từ các phương án (Virginia Plan, New Jersey Plan). Virginia Plan chính là một phiên bản sơ khởi quan trọng để soạn thảo Hiến pháp Mỹ. Đằng sau Virginia Plan là chủ thuyết dựa vào tư tưởng của các triết gia và chính trị gia: Montesquieu, Locke và Coke (hai tác giả đầu đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam).
Điều thứ hai có thể học hỏi ở đây, là rất cần các debate trực diện, mệt mỏi, trí tuệ và tốn thời gian. Đồng thời cũng cần các version khác nhau của Hiến pháp, với các chủ thuyết khác nhau, để các phe tranh cãi dùng để biện luận. Hiến pháp 1992 và dự thảo sửa đổi cũng có thể sẽ là một Plan tốt. Hiến pháp mà nhân dân “cùng viết hiến pháp” đề xuất, cũng cõ thể là một Plan tốt nữa. Đấy là chưa nói đến các bản Hiến pháp 1946 và hai bản Hiến pháp của Việt Nam Cộng Hòa (1956 và 1967).
Điều thứ ba có thể học hỏi, là cuối cùng phải có một cái Đại Thỏa Hiệp, chốt lại các điểm quan trọng nhất, có giá trị vững bền nhất, được đồng thuận cao nhất. Còn nếu ai cũng chỉ thấy mình đúng, cái mình viết ra, cái mình đề xuất là xuất sắc nhất, thì chắc chắn bản Hiến pháp có ra đời thì cũng rất ít giá trị.
Đến ngày 24 tháng 7, một tiểu ban gồm 5 đại biểu được giao cho viết soạn thảo Hiến pháp chi tiết.
Đến mùng 6 tháng 8 năm 1787 thì viết xong. Từ lúc đó đến mùng 10 tháng 9 các vị lại cãi nhau như mổ bò, nhưng lúc này là trên từng điều khoản.
Như vậy việc soạn thảo hiến pháp Mỹ, do các bộ óc lớn, am hiểu sâu sắc về chính trị, triết và luật, rất là gian nan như vậy. Trong đó có James Madison, lúc này mới có 36 tuổi, và trước khi tham gia hội nghị lập hiến đã bỏ vô cùng nhiều thời gian để nghiên cứu các trước tác từ cổ chí kim tính đến lúc đó.
Sau khi có bản Hiến pháp cuối cùng và được hội nghị lập hiến ký kết, bản hiến pháp này còn phải được các tiểu bang thông qua bằng cách bỏ phiếu ở từng tiểu bang. Việc này cũng rất gian nan do bị nhiều thế lực chống đối kịch liệt.
Các ông James Madison, Alexander Hamilton và Jay viết một loạt bài báo, nay được biết với tên Federalist Papers (Luận cương Người liên bang) để bẻ hết các lập luận của phe chống-liên bang. Madison cũng hiểu là cần các tu chính án thêm vào (về nhân quyền) thì các tiểu bang mới chịu thông qua, cho nên ông vận động ác liệt cho 12 tu chính án đầu tiên. Nay 10 trong số 12 tu chính án này được biết đến với tên Bill of Rights (Tuyên ngôn Nhân quyền).
Sau khi Hiến pháp được các tiểu bang thông qua, đến 30 tháng 4 năm 1789 thì Hoa Kỳ có tổng thống đầu tiên do bầu cử, chính là George Washington.
Với Federalist Papers, quá trình soạn thảo Hiến pháp Mỹ đã vô tình đẻ ra một tác phẩm được coi là chủ thuyết của chính quyền liên bang (nhận xét của John Stuart Mill) và là cuốn sách cho mọi chính khách của bất cứ nước nào (nhận xét của Alexis Tocqueville) và ngày nay được coi là cuốn sách lớn ngang với Cộng Hòa (Plato), Chính trị luận (Aristotle) và Leviathan (Hobbles). (Ngoại trừ Leviathan, và Federalist Papers, các cuốn sách được nhắc đến trong paragraph này đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam).
Các cuộc tranh luận cãi vã đều được thư ký hội nghị và đặc biệt là James Madison ngồi ghi chép kỹ lưỡng. Những người tham gia soạn thảo Hiến pháp của các nước khác, sau này đều phải tham khảo các ghi chép này, cũng như đọc Luận cương Liên Bang và bản gốc (chưa sửa đổi) của Hiến pháp Mỹ. Các nhà soạn thảo Hiến pháp của Việt Nam có lẽ cũng không nên làm những người ngoại lệ. Tài liệu về Hội nghị lập hiến Hoa kỳ có rất nhiều. Bản tiếng Việt có thể tham khảo là cuốn “Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào” của Nguyễn Cảnh Bình. Đây là điều thứ tư cần học hỏi.
Thế rồi, dù có học hỏi đến thế nào, thì câu hỏi cũng vẫn sẽ là“Điều kỳ diệu ở Philadelphia” trở thành “Điều kỳ diệu ở Hà Nội” được không, sẽ tùy thuộc vào tầm nhìn, tư tưởng và sự cởi mở đầu óc của những người tham gia lập hiến.
Về chuyện Đảng. Hiến pháp Mỹ không đề cập gì tới đa nguyên hay đảng phái gì. Các chính đảng ở Hoa Kỳ hiện nay đều sinh sau đẻ muộn so với Hiến pháp Mỹ.
Về chủ thuyết, phải chăng chủ thuyết Nhà nước thống nhất (điều 2) và vai trò của Đảng cầm quyền (điều 4) của Hiến pháp Việt Nam vẫn có thể có Great Compromise với Hiến pháp tam quyền phân lập của Hoa Kỳ?
Phải chăng vẫn có cách để một Hiến pháp do nhà nước tạo ra, mà sau này hiến pháp ấy vẫn có thể tạo sinh vận hành ngược được nhà nước?
+ Hiến pháp sửa đổi sẽ mở ra cách để đưa mô hình Nhà nước vận hành bằng nghị quyết của TW Đảng cầm quyền thành Nhà nước pháp quyền? Sẽ có một giải pháp nào đó để “nghị viện hóa” hoạt động của TW Đảng: ví dụ biến TW Đảng thành Thượng viện, nơi các Thượng nghị sỹ là TW Ủy viên đến từ địa phương và nội các. Và Tổng bí thư làm chủ tịch thượng viện. Ở đó các Thượng nghị sỹ – TW ủy viên có nhiệm kỳ 6 năm, được bầu 2 năm một lần, một phần ba được bầu lại, hai phần ba lưu nhiệm. Còn Quốc hội hiện nay trở thành Hạ viện, hai năm thay đồng loạt một lần. Sẽ đến lúc nào đó, các thượng nghị sỹ có thể đến từ một đảng bất kỳ, hoặc không từ đảng phái nào, mà hiến pháp sẽ không cần phải sửa đổi. Hay lúc đó chủ tịch thượng viện không nhất thiết phải là tổng bí thư nữa. (Xem Hiến pháp Hoa Kỳ kèm chú thích).
+ Hiến pháp sửa đổi sẽ đón nhận vào trong mình tinh thần chủ nghĩa hợp hiến? Chủ nghĩa hợp hiến (constitutionalism) hay còn gọi là Hiến pháp trị có nghĩa là quyền lực của những người lãnh đạo và của các cơ quan chính quyền phải được hạn chế. Chủ nghĩa hợp hiến, như một chủ thuyết về chính trị hay về luật pháp, nói về một chính quyền mà nhiệm vụ trước hết là nhằm phục vụ cho toàn thể mọi người và bảo vệ quyền cá nhân. Sẽ có giải pháp khả thi nào đó để đặt vào tay Chủ tịch nước quyền lực của tòa án tối cao, trong đó có nhữn thẩm phán tối cao do chính chủ tịch nước đương nhiệm hoặc các chủ tịch nước nhiệm kỳ trước bổ nhiệm, giống như tổng thống mỹ bổ nhiệm thẩm phán tối cao và các vị thẩm phán này không về hưu. Để tòa án tối cao này làm tòa bảo hiến, diễn giải và thực thi hiến pháp. (Xem Hiến pháp Hoa Kỳ kèm chú thích).
Tất cả những điều này không một cá nhân, một nhóm người nào có thể tự nghĩ ra được. Vẫn phải cần một hội nghị lập hiến chính thống, nghiêm túc, mà ở đó những nhà lập hiến ngồi với nhau, tranh luận với nhau và cùng viết. Để bản Hiến pháp mà họ viết ra khôngchỉ là một bản hiến pháp lời hay ý đẹp, mà còn phải viết để làm sao ngay khi nó được thông qua, nó sẽ lập tức đi vào cuộc sống, thực sự vận hành nhà nước và xã hội, và tất nhiên là nó sẽ tồn tại cả vài trăm năm mà rất ít cần sửa đổi.







Quốc nạn loạn chức danh, học vị và danh hiệu ở Việt nam
Nhạc sĩ Đặng Hữu Phúc
Tôi xin được bắt đầu bài viết này bằng một câu chuyện có thật xảy ra ở TP Hồ Chí Minh vào năm 1995. Chuyện như sau: Trong một chuyến đi bằng đường hàng không, do trục trặc, nghệ sỹ Piano lớn của thời đại chúng ta là Vladimir Ashkenazy đã phải dừng lại ở TP HCM hai ngày.
Tất nhiên một nghệ sỹ lớn như Ashkenazy khó lòng mà không bị phát hiện ra trong thế giới nhiều thông tin này. Và ông đã được mời tổ chức một buổi hoà nhạc nho nhỏ cho những người hâm mộ. Với sự khiêm tốn vốn có ở những người vĩ đại, ông chỉ muốn biểu diễn ở phòng nhỏ trong Nhạc viện TPHCM và chủ yếu dành cho một công chúng hẹp, trong giới nhà nghề .Việc này tất nhiên được nhạc viện TP chú ý ngay và họ muốn biến chuyến thăm bất đắc dĩ này quảng cáo thêm cho uy tín của nhạc viện.
Người lãnh đạo nhạc viện lúc đó là một Giáo sư, Tiến sỹ, nghệ sỹ Nhân dân đã dẫn đầu một nhóm giáo sư, tiến sỹ của nhạc viện TPHCM đón tiếp Ashkenazy.
Trong buổi tiếp, sau khi trân trọng giới thiệu với Ashkenazy từng thành viên của ta với đầy đủ chức danh, học vị, thì việc mà phía ta muốn hỏi ông ta, để đưa vào Programe (tờ in chương trình) và giới thiệu khi biểu diễn là : Ashkenazy là gì ? Thạc sỹ, tiến sỹ, giáo sư hay là gì gì hơn thế nữa ? Và câu trả lời là : Tôi chỉ là Ashkenazy.
Tưởng khách không hiểu. Chủ lại hỏi lại và gợi ý thêm cho dễ hiểu hơn : chắc một nghệ sỹ lớn như ông thì phải có tham gia giảng dạy, vậy khi đó chức danh và học vị của ông là gì? Câu trả lời vẫn không thay đổi : Tôi chỉ là Ashkenazy.
Ô hay! lạ cái ông này, cỡ như ông ta ít nhất cũng phải có một chức danh gì chứ? hay ông ta giấu? Và cuộc gặng hỏi vẫn tiếp tục. Tuy vậy, truy mãi, cuối cùng, dù đông người, ta đã phải chịu thua một mình ông, vì câu trả lời vẫn chỉ có thế, dù đã được pha thêm chút khó chịu :
Tôi chỉ là Ashkenazy!
2. Một cuộc chạy đua chức danh trên toàn quốc
Ta tự hào về chế độ ưu việt Xã hội chủ nghĩa (mà hiện nay chỉ có người dân ở một số ít nước được hưởng là: Triều Tiên, Cu ba, Lào và Trung Quốc) mọi người đều bình đẳng. Nhưng thực chất thì người ta đang dựa theo chức quyền để phân chia đẳng cấp, quyền lợi, tất nhiên chức càng cao, bổng lộc càng lớn. Lúc sống đã vậy, tận tới lúc chết chôn ở đâu cũng có tiêu chuẩn dựa theo chức tước. Vì thế cả xã hội đều trọng chức quyền. Mà muốn có chức quyền thì cần có bằng cấp, cộng thêm danh hiệu Đảng viên, là người ta có thể tiến thân, có thể trở thành lực lượng lãnh đạo với nhiều bổng lộc mà không cần phải có thực lực. Đó là nguyên nhân sâu xa đã và đang dẫn đến việc nhiều kẻ cơ hội đổ xô đi săn bằng cấp bằng mọi giá. Đua bằng cấp, chức danh chứ không đua tài năng. Bởi đua tài năng, cuộc đua dưới ánh mặt trời, thì khó hơn nhiều, dễ lộ chân tướng và dễ bị thua. Bao nhiêu sức lực, thời gian và tiền bạc đáng ra để tập trung làm chuyên môm, làm nghề thì lại bị phung phí vào các cuộc đua tranh lấy bằng cấp. Nhìn vào con đường để trở thành thạc sỹ, tiến sỹ hiện nay ở nước ta đã bị biến chất. Nhiều người có lòng tự trọng không khỏi ngại ngùng và muốn lánh xa.
Bản thân bằng cấp và chức danh chân chính, lương thiện thì rất có ích cho xã hội. Trước kia, số giáo sư, tiến sĩ ở ta không nhiều, nhưng đó là những tên tuổi như: Đào Duy Anh, Tôn Thất Tùng, Nguyễn Mạnh Tường… Còn ngày nay thì đúng là “Ta tự hào đi lên. Ôi Việt Nam” giáo sư nhiều đến mức có thể “Ra ngõ gặp giáo sư”. Với thực trạng này thì nền học thuật của nước nhà có nguy cơ trở thành Hữu danh, Vô thực.
Trong lĩnh vực biểu diễn âm nhạc chuyên nghiệp, để chơi đàn, hát, làm được concert thì khó quá, muốn thế phải rèn luyện hàng ngày, phải hy sinh rất nhiều mà lại không oai bằng rẽ ngang đi làm tiến sỹ, đơn giản hơn, chóng được thăng chức với nhiều bổng lộc hơn. Kết quả là: mục đích cuối cùng và duy nhất của âm nhạc là tiếng đàn, tiếng hát, những buổi concert và viết những tác phẩm âm nhạc chuyên nghiệp thì dần dần không còn ai làm, thay vào đó là rất nhiều Tiến sỹ âm nhạc ra đời. Có được cái bằng Tiến sỹ, phần lớn không ai chơi đàn và hát nữa. Tiền của nhân dân bỏ ra đào tạo họ để mang lại tiếng đàn tiếng hát cho đời đã trở thành vô ích vì sai mục đích. Trồng lúa thì lại thu hoạch khoai
3. Các danh hiệu, giải thưởng, câu chuyện cười ra nước mắt
Định kỳ một hai năm gì đó, ta có những đợt phong tặng danh hiệu Nghệ sỹ ưu tú, Nghệ sỹ Nhân dân và trao tặng các giải thưởng Nhà nước và giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Việc này không phải do người Việt Nam ta nghĩ ra, mà do chúng ta học tập từ Liên Xô cũ. Họ phong nghệ sỹ Công Huân, nghệ sỹ Nhân dân, giải Xtalin, giải Lê nin về văn học nghệ thuật ( ví dụ Giao Hưởng số 11 của Shotstakovich được giải Xtalin năm 1953 vv…). Sau khi Liên Xô tan vỡ, họ đã bỏ thói quen đã có từ hàng chục năm này. Rất nhiều cách tổ chức dập theo kiểu Liên Xô cũ như : nền kinh tế có kế hoạch, hành chính bao cấp, phân phối theo tem phiếu v.v… ta đã bỏ. Nhưng không hiểu vì sao cái thói quen trao những danh hiệu và giải thưởng văn học nghệ thuật học từ họ thì ta lại vẫn duy trì, bởi nó là một phần đồng bộ trong tư duy cấu thành chế độ bao cấp, cơ chế xin cho??? Lịch sử dân tộc ta đã chứng minh bằng máu và nước mắt một quy luật là : những chính sách dập khuôn theo ngoại bang sớm muộn rồi cũng gây những hậu quả xấu, thậm chí là những thảm hoạ dân tộc.
Về việc phong danh hiệu nghệ sỹ, hãy để chính những nghệ sỹ, bằng tài năng, họ làm nên tên tuổi riêng của mình (như Ashkenazy) thì nó mới có giá trị thực, bền lâu và duy nhất. Không ai có thể ghen tỵ với ai được, vì không ai giống ai. Hàng ngàn nghệ sỹ tài năng, thì sẽ có hàng ngàn cái tên khác nhau, có giá trị khác nhau, giống như vườn hoa với muôn hoa, muôn màu khoe sắc, chứ không phải chỉ có 2 loại hoa Ưu tú và Nhân dân. Mà muốn được hưởng các danh hiệu này, phải làm đơn xin, cùng sự “vận động” để được phong (ban) tặng từ trên xuống. Trong hoàn cảnh đất nước ta tệ nạn xã hội tràn lan. Khó có thể tránh khỏi nhiều sự tiêu cực trong sự ban tặng danh hiệu, nếu vẫn giữ kiểu cơ chế ban phát như cũ.
Về việc trao giải thưởng Nhà nước và giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT, đây cũng là một kiểu cơ chế xin cho với những thành phần Ban giám khảo hoàn toàn được chỉ định từ trên, với những tiêu chí chấm giải tuỳ hứng. Người xin trao giải cũng phải làm đơn và “vận động”. Riêng trong ngành nhạc đã xảy ra những câu chuyện cười ra nước mắt xung quanh việc trao giải thưởng này. Điển hình là trong đợt đua tranh phong tặng năm 2006 (đây nên là đợt phong tặng cuối cùng) cả nước đều biết tới những chuyện “đồng nghiệp tương tàn” mà báo chí gọi là “cơn điạ chấn trong làng nhạc”. Nếu ta lại cứ tiếp tục trao giải thì không ai có thể khẳng định rằng những cơn “địa chấn” sẽ không trở thành “động đất”!
Nói tóm lại: Nhà nước ta nên bỏ lối tư duy kiểu dập theo Liên Xô cũ này!
4.Kết
Hãy để cho mọi người đánh giá tài năng và giá trị con người qua công việc. Dù anh có độn vào trước cái tên của anh hàng trăm danh vị đi nữa mà sản phẩm anh làm ra cho xã hội không có, hoặc tồi, hoặc có hại, thì khác nào gỗ mục được sơn son thếp vàng? Một xã hội lành mạnh và có tương lai, là một xã hội biết tôn trọng những tài năng và những giá trị thực, bất kể họ có hay không có bằng cấp danh vị cao, tiền của nhiều, chức tước lớn.
Đối với người làm nghề nhạc chuyên nghiệp, thì đó là tiếng đàn, tiếng hát của người biểu diễn và tác phẩm của người sáng tác. Anh hãy tự hào về điều đó, và hãy gắn nó với cái tên cha sinh mẹ đẻ, chứ không phải là những thứ bằng cấp, danh hiệu (mà ở nước ta hiện nay của rởm nhiều hơn thật) và chức vụ quản lý anh đang có, đó chỉ là những thứ son phấn nhất thời. Bảng giá trị tưởng như là chân lý đơn giản và hiển nhiên này lại đang bị lật ngược. Nguyên nhân chủ yếu là do bệnh thành tích, cơ hội, trọng bằng cấp, trọng chức quyền. Nó đang làm tê liệt trí tuệ Việt Nam. Phải chăng nó là một trong ba loại giặc đang đe doạ sự tồn vong của dân tộc mà Hồ Chí Minh đã nói, đó là: Giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm? Với tiềm năng trí tuệ thế này, rồi dân tộc Việt nam ta sẽ đi đến đâu? “Một dân tộc dốt, là một dân tộc yếu” (Hồ Chí Minh)
Là một người hoạt động trong nghề nhạc, tôi thấy cần phải viết bài này chỉ vì trách nhiệm công dân, với mong muốn nền học thuật nước nhà -nhất là âm nhạc- ngày càng trở nên lành mạnh và thực chất hơn. Tôi không nhằm vào bất cứ ai và cũng mong đừng ai giật mình bởi tôi luôn luôn kính trọng sâu sắc những Giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ chân chính. Tuy không nhiều, nhưng họ có lương tri và trình độ chuyên môn thực sự. Tôi chắc rằng những người này sẽ ủng hộ những ý kiến trên của tôi.
Vì chúng ta đã nói dối quá nhiều và quá lâu rồi, nên những lời nói tử tế bây giờ lại trở nên hài hước. Tuy vậy -dù chỉ nhỏ bé như con Dã Tràng- tôi vẫn muốn nói rằng : Đừng sợ thay đổi vì chỉ nghĩ tới quyền lợi của bản thân, hãy nghĩ tới một tương lai tốt hơn cho tất cả. Đừng sợ ánh sáng, sợ thuốc đắng và sự thật.
Để kết bài viết này tôi xin mượn một câu Kiều của : [Giáo sư, tiến sỹ] Nguyễn Du (xin tạ tội với bậc tiền nhân vì sự xúc phạm này) : “Mượn màu son phấn đánh lừa con đen”*
Tác giả
…………….
*Chữ “Con đen” ở đây được hiểu là những người dân bình thường







Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
