Nguyễn Quang Lập's Blog, page 89

January 31, 2013

Từ đất mà ra

Nguyễn Vạn Phú
IMG_4309NQL: “Nếu chúng ta để cho tư nhân chiếm đất thành địa chủ, và để cho tư nhân chiếm đoạt, khai thác tài nguyên, trở thành tư sản, thì còn gì là Xã hội Chủ nghĩa, còn gì là Đảng Cộng sản nữa?!” Ai nói câu này? Xin thưa, đó là lời vàng ngọc của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói tại Lào Cai ngày 6/1/2013. Theo đó thì những kiến nghị về sửa đổi luật đất đai chỉ là nước đổ lá khoai.
Trường hợp 1: Doanh nghiệp A. viết một dự án rất thống thiết, xin địa phương cấp đất để xây nhà máy, hứa hẹn đem lại nhiều công ăn việc làm cho địa phương. Sau khi được cấp đất, doanh nghiệp này bèn xin chuyển đổi mục đích sử dụng đất, dùng phần lớn diện tích để “phân lô bán nền”. Người dân trước đó bị giải tỏa nhường đất để xây nhà máy nay khiếu kiện liên miên vì không chịu nổi sự bất công mất đất cho người khác làm giàu.
Trường hợp 2: Doanh nghiệp B. được cấp một mảnh đất với tổng giá trị 80 tỷ đồng. Ngay sau đó một thời gian doanh nghiệp này sang nhượng mảnh đất này cho một doanh nghiệp khác, có dây mơ rễ má với nhau, với giá được kê khống lên thành gần 600 tỷ đồng. Mảnh đất được dùng để thế chấp, vay tiền ở ngân hàng đến 300 tỷ đồng. Dù đất đóng băng, hai doanh nghiệp này vẫn đã hưởng những khoản lời khổng lồ còn ngân hàng ôm một cục nợ xấu.
Trường hợp 3: Công ty địa ốc C. lập dự án bất động sản, chi phí ban đầu bỏ ra chừng 100 tỷ đồng nhưng nhờ cơn sốt đất đai mấy năm trước định giá dự án đến 500 tỷ đồng. Bản thân dự án được thế chấp để vay vốn ngân hàng được đâu 300 tỷ đồng. Công ty này thu hồi ngay 100 tỷ đồng chi phí ban đầu, bỏ túi thêm 100 tỷ đồng tiền xem là lãi, còn 100 tỷ đồng đang xây dựng dở dang. Nay thị trường suy sụp, công ty bỏ mặc dự án cho ngân hàng; ngân hàng không thu hồi được nợ, cũng không dám xem nó là xấu vì như thế phải trích lập dự phòng rủi ro nhiều. Họ cứ tìm cách đảo nợ, nuôi dự án chờ bất động sản được cứu.

Đây chỉ là một vài ví dụ minh họa cho muôn vàn bi hài kịch mà nền kinh tế và người dân đang gánh chịu, tất cả cũng vì đất mà ra. Mặc dù những trường hợp này được công khai trên báo chí trong thời gian gần đây, thiết tưởng nó là loại chuyện ai cũng biết từ lâu. Vì sao không ai can thiệp?
Với địa phương, tiền sử dụng đất thu từ những dự án trên địa bàn là nguồn thu ngân sách béo bở, dễ kiếm, dễ thu, chiếm một tỷ trọng lớn trong ngân sách, không ai dại gì bỏ qua. Có dự án, có ký giấy tờ tức là có xin-cho, một mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng được khích lệ phát triển ở khắp mọi nơi.
Với ngân hàng, những năm chạy đua tăng trưởng tín dụng, nhất là những năm kích cầu bù lãi suất, họ không dại gì không cho vay nhất là khi cứ tưởng nắm chắc thế chấp là đất đai đang lên giá từng ngày là nắm đằng chuôi. Không loại trừ tín dụng ngân hàng còn đổ vào các công ty địa ốc sân sau của một số cổ đông lớn bất kể thiệt hại trong tương lai cho ngân hàng. Cuộc đua này làm nảy sinh tình trạng sở hữu chéo giờ vẫn còn là mớ bòng bong.
Với doanh nghiệp, một khi mức lợi nhuận từ hoạt động truyền thống không bao nhiêu, lại nóng ruột vì đồng nghiệp lao vào địa ốc đang thắng lớn, rất dễ bị cám dỗ đổ vốn vào địa ốc. Đây là một canh bạc đang làm nhiều doanh nghiệp thua trắng khi đồng tiền lãi ít ỏi của hoạt động chính phải gánh chi phí tài chính nặng nề từ những dự án địa ốc dang dở.
Chừng đó thực tế cũng đủ để mọi người phải thức tỉnh để ít nhất lần sửa Luật Đất đai sắp tới phải cân nhắc những điều khoản nhằm hạn chế tình trạng lợi dụng đất để thao túng nhiều hoạt động kinh tế.
Trước tiên, không ít thì nhiều, cố tình hay ngẫu nhiên, chính những bên tham gia, gồm doanh nghiệp, ngân hàng và chính quyền địa phương đã thay nhau đẩy giá đất lên cao, tạo ra bong bóng bất động sản. Cứ tưởng giá cao giúp thu được nhiều thuế, tăng lợi nhuận nhưng thật ra rốt cuộc giá cao gây thiệt hại cho tất cả. Chi phí làm ăn ở Việt Nam ngày càng lớn một phần do giá đất tăng vọt trong nhiều năm trước, không nhà đầu tư nghiêm túc nào chịu nổi.
Chuyện đó cũng chưa quan trọng bằng số phận của những người dân có đất bị thu hồi, đang chịu phần thiệt thòi nhiều nhất, đang cầm đơn đi khiếu kiện khắp nơi. Đây là nơi chất chứa mọi sự bất công của một thị trường méo mó, nhân danh phát triển để hưởng lợi trên lưng người dân. Áp lực xã hội, sự đổ vỡ về văn hóa, niềm tin đang là vấn đề gay gắt nhưng thường bị bỏ qua.
Phải sửa luật sao cho việc thu hồi đất của người dân là chuyện “vạn bất đắc dĩ” và không được dùng hai chữ “thu hồi”. Nếu có trưng mua đất của dân thì phải thương lượng với họ một cách sòng phẳng, quyền lợi của người có đất bị trưng mua phải được bảo vệ một cách chặt chẽ. Luật Đất đai 2003 quy định bốn trường hợp cụ thể Nhà nước “thu hồi” đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế gồm: “Đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế và các dự án đầu tư lớn theo quy định của Chính phủ” nhưng thực tế chính quyền địa phương nhiều lúc cứ mạnh tay thu hồi đất của dân chỉ để trao cho một doanh nghiệp nào đó. Hạn chế quyền thu hồi đất của chính quyền cơ sở để luật pháp khỏi bị lợi dụng là một bước khởi đầu cần thiết.
Cao hơn hết, nếu đất có chủ thật sự, tức người dân được trao quyền sở hữu mảnh đất họ đang sử dụng lâu dài và hợp pháp, phần lớn các câu chuyện lợi dụng đất nói trên đã không thể xảy ra. Ngược lại, lúc người dân được làm chủ thật sự mảnh đất của họ, đất sẽ sản sinh sự giàu có cho xã hội tương tự câu chuyện khoán 10 năm xưa. Chúng ta đã không thừa nhận “chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” cho nền kinh tế thì tại sao không áp dụng tinh thần này cho người nông dân vì đất chính là tư liệu sản xuất chủ yếu của họ. Hiến pháp đang được sửa đổi, bổ sung. Tại sao không nhân cơ hội này sửa điều 57 để không nói đất đai “là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu” nữa mà thừa nhận nhiều hình thức sở hữu đất đai, gồm cả sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước.
h138
9h30 sáng nay, ngày 31-1 chính quyền phường Dương Nội đề nghị quận Hà Đông ra quân đàn áp dân giữ đất. Lực lượng hơn 200 gồm dân phòng, đầu gấu, công an, thanh tra giao thông. Sau gần 1 tiếng với trống kẻng, hoả công, phân thối thì lực lượng đàn áp đã tháo chạy“. ( Theo BS)
 Theo blog NVP

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 31, 2013 01:08

Bản đồ tự do báo chí

 Web


Tổ chức quốc tế “Phóng viên không biên giới” lập bảng xếp hạng hàng năm về tự do ngôn luận ( tại đây). Bản đồ tự do báo chí căn cứ vào bảng xếp hạng trên. Phần bôi đen là những nước tự do báo chí bị bóp nghẹt, bôi đỏ là những nước đáng báo động về tự do báo chí.


Việt Nam xếp thứ 172 trong số 179, đứng trên trung Quốc một bậc. Nước Nga của ông Putin, thần tượng của nhiều người Việt Nam, xếp thứ 148/179. Điều đó giải thích vì sao bằng mẹo cứt gà, dựa vào sơ hở của luật pháp Nga, ông Putin đã lại tái đắc cứ tổng thống.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 31, 2013 00:10

January 30, 2013

Thư ngỏ gửi Bộ trưởng LĐ-TB-XH

Trần Đăng Tuấn


Em bé vùng cao và suất cơm thiếu chất mà nhà báo Trần Đăng Tuấn bắt gặp - Ảnh: Trần Đăng Tuấn

Em bé vùng cao và suất cơm thiếu chất mà nhà báo Trần Đăng Tuấn bắt gặp – Ảnh: Trần Đăng Tuấn


Thưa Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền,


Xin được nói thật với Bộ trưởng: liên quan đến bữa ăn của học sinh vùng cao, nếu cuộc rà soát không thật sự cặn kẽ, có thể rồi ngành này ngành kia đều báo cáo: chính sách hỗ trợ nhà nước nhiều, cơ bản là đã triển khai, tiền đã về đến đối tượng, dù có khó khăn nhưng tình hình ăn uống của các em không quá thiếu thốn như dư luận nêu…


Vài điều nhìn thấy, xin được chia sẻ với Bộ trưởng:


Lên vùng cao, chúng tôi không chỉ nhìn, mà còn ghi hình lại nhiều cảnh ăn uống của học sinh. Có đủ mọi cảnh: 1-Có những học sinh buổi trưa nhịn ăn vì không có gì mang theo đến lớp. Có những bé mầm non đến bữa thì cô giáo phải “véo” từ các nắm cơm của các em khác dồn lại để cho cháu ăn. 2- Có những học sinh không ăn cơm, mà ăn bí, ăn củ. 3- Học sinh có đủ cơm ăn, nhưng thức ăn là măng, muối riềng, muối ớt 4- Học sinh ăn cơm có chút thức ăn mang từ nhà là chút cá khô hay thi thoảng (rất hiếm) có miếng thịt.


Trong các cảnh trên, phải nói rằng cảnh thứ ba (có cơm nhưng không thức ăn nhiều dinh dưỡng) là phổ biến nhất  (nhân thể xin nói chính vì vậy, chương trình nhỏ của chúng tôi giúp các em lấy tên là “Cơm có thịt”, chứ không phải là “Ăn có cơm”. Dù rằng, xin nhắc lại, cảnh thiếu cả cơm vẫn có).


Riêng học sinh bán trú, bức tranh khác biệt: Trước khi tiền hỗ trợ của nhà nước đến, các em ăn cơm như cảnh thứ ba. Khi đã nhận được tiền hỗ trợ và có tổ chức nấu ăn tập trung, các em đã có chút thức ăn, nhưng cũng còn đạm bạc.


Tại sao chính sách hỗ trợ đã bao phủ phần rất lớn học sinh (học sinh nội trú, học sinh bán trú, mầm non 3, 4 và 5 tuổi, một số tỉnh có hỗ trợ cả học sinh ngoài diện hỗ trợ của chính phủ) mà các em đã rất lâu và nay còn ăn cơm không có thức ăn? 


Là do cách đưa tiền hỗ trợ về cho các em.


Thứ nhất, có quyết định của Thủ tướng nhưng triển khai rất chậm: ở những vùng Tây Bắc mà chúng tôi biết, Quyết định 85/2010/QĐ-TTg hỗ trợ học sinh bán trú phải một năm sau mới có thông tư liên bộ hướng dẫn, và tiền dĩ nhiên đến còn muộn hơn. Chủ trương hỗ trợ ăn trưa cho trẻ 5 tuổi theo Quyết định 239/QĐ-TTg thành hiện thực chỉ sau 2 năm. Tiền hỗ trợ trẻ mầm non 3, 4 tuổi theo Quyết định 60/2011/QĐ-TTg sau 13 tháng, đến hôm nay chỗ đã chi, chỗ chưa, vì có tiền nhưng chưa có hướng dẫn!


Nếu là tiền xây dựng công trình, thì tiền về muộn công trình được xây muộn. Nhưng trẻ con có đợi được như công trình đâu. Khi tiền đến thì trẻ mầm non đã lên lớp một, lớp hai, học sinh tiểu học, trung học đã về nghỉ hè. Tiền được truy lĩnh, và được trao cho phụ huynh. Bộ trưởng thừa biết “tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”, thành một bữa rượu liên hoan, hay hiếu hỷ, trả nợ… Vậy là ngân sách vẫn bỏ ra số tiền như dự trù, người (ngành) cấp phát báo cáo đã thực hiện xong nhiệm vụ giải ngân, nhưng còn đâu là mục tiêu tăng dinh dưỡng cho trẻ nhà nghèo có sức khỏe học trên lớp? Thiết tưởng hỗ trợ trẻ em phải như bố mẹ nuôi con, có bố mẹ nào nuôi kiểu no dồn đói góp như vậy?


Thứ hai: Các cụ dạy “của cho không bằng cách cho”. Khổ thay “của” ở đây là tiền nước, tiền dân, nhưng quyết định cách “cho” lại là những cấp quan chức ở giữa. Thưa thật với Bộ trưởng, tôi không hiểu nổi những quy định chi tiền kiểu này: trẻ học từ tháng 9 đến hết tháng 5, tiền ăn trưa chi hai đợt tháng 11 và tháng 4. Thử hỏi từ tháng 9 đến tháng 11, các thầy cô lấy tiền đâu để nấu ăn cho học sinh? Vâng, quả thật tôi đã gặp thầy cô lấy tiền túi ra tạm ứng, tôi cũng đã thấy các trường “cắm nợ” ngoài chợ. Nhưng chỉ ít nơi có thể làm thế và liệu chúng ta có thể đòi hỏi họ làm thế không? Còn tiền đợt tháng 4 thì nhiều khi đến học sinh đã nghỉ hè. Làm sao thầy cô giáo dám giữ lại qua hè để ứng cho năm học sau (vì danh sách học sinh mỗi năm một khác). Tôi muốn hỏi người đưa ra quy định này: ông (bà) có cho con ăn theo kiểu mỗi năm chi tiền hai lần không?


Thứ ba: Tôi khẳng định rằng hỗ trợ dinh dưỡng cho học sinh nhất định phải qua con đường nấu ăn cho các em ngay tại trường. Nếu phát thẳng không có gì đảm bảo nó thành cơm, rau, thịt cho các em. Ngay tại nơi mà dư luận xôn xao chuyện học sinh ăn thịt chuột, cũng theo báo chí thì trên đó mỗi học sinh có chế độ hỗ trợ 500.000 đồng/tháng. Nguyên do chắc cũng không ngoài cái “cách cho”.


Điều cuối cùng: Cũng là học sinh, cũng nghèo như nhau thôi, nhưng học sinh bán trú nhà xa, được hỗ trợ hằng tháng thì được ăn miếng cơm nóng có chút thức ăn. Còn học sinh nhà gần hơn, nhưng đủ xa để trưa vẫn phải ở lại lớp, thì mang cặp lồng cơm. Chúng tôi đã mở xem không biết bao nhiêu cặp lồng hoặc gói lá như thế và những gì trông thấy thật xót lòng. Xin nhà nước quan tâm đến “học sinh cặp lồng”. Hãy tiết kiệm các khoản chi khác để hỗ trợ cho tất cả trẻ nghèo miền núi. Và hãy tạo điều kiện để mọi tấm lòng yêu trẻ nghèo cùng nhà nước đến với các em. Làm như vậy được thì chuyện miếng ăn và tấm áo  cho các em không quá khó!


TĐT


Theo báo TN



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 30, 2013 23:48

“Kim Chi, cho tôi bắt tay bạn thật chặt nào!”

Thư nghệ sĩ Kim Chi  gửi nhà báo Võ Văn Tạo


KimChi1b“Tạo quí mến!
Lúc 5 giờ chiều qua, Hội Điện ảnh gặp mặt cuối năm ở Cung Văn hóa Hữu nghị Việt – Xô. Chị tới đó lúc 5 giờ 15, đã thấy rất đông rồi. Chị vừa xuống xe, ba, bốn bạn đi nhanh lại bắt tay.
 
Một anh đạo diễn nói: “Mình biết thế nào Kim Chi cũng tới, nên chờ ở đây để bắt tay …”. Một anh diễn viên cùng khóa 1: “Bữa biết chuyện lá thư của em, anh gọi điện cho Vũ Linh: “Tao có con em miền Nam là bạn cùng khóa, thật đáng nể… Tao tự hào về nó…”.
Tiếp đó, khá đông tới bắt tay, gọi chị là “người hùng”. Nhiều chị, nhiều bạn gái tới ôm hôn thắm thiết. Họ nói giống nhau: “Cảm ơn Kim Chi đã nói thay mọi người…”.
Một anh nói lớn, có ý cho mọi người nghe: “Kim Chi! Cho tôi bắt tay bạn thật chặt nào. Có đứa nó nói rằng bà Kim Chi đang tìm cách đánh bóng tên tuổi… Nhưng tôi gọi Kim Chi là anh hùng. Tôi rất ngưỡng mộ một người can đảm như Kim Chi…”.
Chị rất xúc động, người tâm huyết với đất nước còn rất nhiều. Chị chợt nghĩ, nếu ở những xứ sở văn minh, tự do thật sự, thì lời chị nói, việc chị làm là rất bình thường. Ở xứ mình, người ta quen cúi đầu, mọi người mới coi việc chị làm là can đảm, đáng nể…

Anh Lê Hiếu Đằng cùng bạn bè đến thăm

Anh Lê Hiếu Đằng cùng bạn bè đến thăm


Lúc vào hội trường, nhiều người tới bắt tay, đề nghị chụp ảnh cùng. Ngay lúc Chủ tịch hội đang đăng đàn, một bạn gái tới nói nhỏ với một nhà văn trẻ – ngồi ghế bìa cạnh chị: “Em vui lòng nhường chị ít phút chỗ này để chị chụp ảnh với chị Kim Chi…”. Vậy là máy ảnh cứ chớp lóe. Tới lúc tiệc đứng, nhiều người tìm tới bày tỏ ủng hộ, lại chụp ảnh…



Buồn cười là cũng có không ít ánh mắt lạnh lùng hình sự nhìn chị. Chị biết, đó là những người quen cúi đầu… He he… Thế mới kịch chứ!
Ra về, chị đến bắt tay đạo diễn Tự Huy. Anh nói:” Dũng cảm lắm! Nhớ đi đứng cẩn thận đấy. Chúng nó đang thù cô… Coi chừng cục đá vào đầu thì khổ…”. Đạo diễn Lê Đăng Thực nắm tay: “Cô em gái khiến anh mất bao thời gian lên mạng để tìm hiểu”. Anh vỗ vỗ má chị: “Gan thế!”…
Bạn bè trong Nam điện ra dặn: “Nhớ từ nay hạn chế ra đường, không ăn uống với người lạ, ốm đau không vào bệnh viện công…”. Buồn cười! Mình hành động là để được tự do, bây giờ lại MẤT TỰ DO? Đó là nghịch lý xứ mình!
Chia sẻ với em đôi điều thế sự. Chào em nhé. Chị thăm gia đình em và bạn bè cùng chí hướng…”.
Ngày 30/1/2003
Kim Chi
Theo blog BVB


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 30, 2013 20:00

Thưa Thủ tướng, chúng nó đang ở truồng!…

Mai Thanh Hải


521818_184189348371459_1111265784_nNói tụi lít nhít học sinh vùng cao biên giới (mà mình cứ quen mồm gọi là chúng nó) đói cơm, nhiều cán bộ cả Trung ương lẫn địa phương sẽ giãy nảy lên, bảo “nói bậy”, bởi tụi đi học, từ bé đến lớn đều được chế độ của Nhà nước.


Cái sự thiếu tý cơm hay cơm ăn với muối, với nước, với măng… có chăng là do “cơ chế chính sách”, “việc triển khai thực hiện”, khiến tiền về chậm, các cháu biết thịt thà – mì chính qua buổi “truy lĩnh” cuối năm mà thôi.


Và như thế, đừng trách Nhà nước!.


Ừ! Mà mình có trách đâu. Chính phủ mình đã lo hết thảy mọi thứ, từ các cháu cho đến người nghèo, cũng cứ danh sách – đầu người mà rót tiền, ấy chứ…


Nói chuyện ăn rồi, phải nói chuyện chuyện mặc, bởi cụm từ “ăn mặc” luôn đi cùng với nhau.


Đi miền núi mãi rồi, cũng quen với cách rách rưới – phong phanh của bọn trẻ. Nhưng cứ mùa đông, lên miền núi, nhìn chúng vẫn vậy chịu rét, mới giật mình lẩn thẩn: “Hình như, cũng chưa có 1 quy định nào về việc hỗ trợ cái mặc cho trẻ con, nhất là học sinh!”.


Hỏi cán bộ địa phương và giáo viên, ai cũng cười: “Cái bụng còn chưa no, lo gì cái da!”, khiến mình lại buồn nẫu…Nẫu nhất khi nhìn bọn lít nhít Mầm non cởi truồng lồng lộng, chim cò cứ phơi phới tung tăng. Nhiều người liệt ra cả đống nguyên nhân, như: Đồng bào quen vậy rồi; để thế cho… nó mát; chống tè dầm…


Nhưng với mình, nói thật là họa có điên, giời lạnh đến vài độ C mà vẫn để con phong phanh không quần không áo, để nhìn chúng tím tái – run rẩy?.. Chỉ có thể là thiếu thốn, đến mức không có tiền để mua đồ ấm cho con, không xin đâu được đồ cũ cho con, mới đành để thế…


309803_184189065038154_661556455_nDẫu biết, con trẻ vùng cao quen chịu khổ và cũng có sức đề kháng cao, nhưng rút cục chúng vẫn là đứa trẻ, là con người chứ chả phải siêu nhân – chiến binh chịu rét, nhịn đói làm tỷ điều siêu phàm vượt bậc…


Cứ qua quýt, lấp liếm theo cái kiểu “Ối Giời! Chúng nó quen rồi”, “Sức đề kháng tốt lắm. Đứa nào không chịu được, bị loại ngay từ khi mới sinh. Đứa nào sống, chấp mọi điều kiện”… nhưng thật ra, phải cắn răng lại mà chịu đựng đấy.


Chính thế, lên mấy Đồn Biên phòng vùng cao, mang quần áo cũ trẻ em lên, anh em Đội Vận động quần chúng quý lắm.


Chả là mỗi chuyến đi công tác xuống địa bàn, đồng bào rét quá, toàn bế con chặn bộ đội giữa đường, xin cái mũ cái áo của anh em. Không cho thì không đành mà cho thì rét lắm, suốt quãng đường vài ngày lăn lóc bản này bản khác, rừng này rừng khác…


Nếu có ít quần áo trẻ em trong ba lô, lúc ấy giở ra, thì còn gì bằng?..


Đại tá Phùng Tuấn, Phó Chính ủy Bộ đội Biên phòng Cao Bằng cứ đau đáu cảnh: Xe Uoat chở ông lên triển khai công tác đầu năm trên đơn vị, tụi trẻ con thấy xe ôtô cứ níu lấy, chìa tay xin áo; Lên Đồn, lại chứng kiến cảnh bà con run rẩy kéo đến cổng Đồn Biên phòng, kêu ời ời: “Đồn ơi! Rét lắm!”… và chính vì thế, bây giờ cứ sắp đến mùa rét, Đại tá Phùng Tuấn lại ký điện gửi có đơn vị, yêu cầu vận động chiến sĩ hết nghĩa vụ nhường lại, cán bộ mới phát quân trang thu gom, tất cả quần áo – chăn đệm – tất giầy.. tặng đồng bào, trước mùa rét…


Nhưng vẫn không đủ.


22017_184189168371477_1042658337_n Cái Chương trình “Áo ấm biên cương” be bé của tụi mình, mỗi lần triển khai ở địa bàn nào đấy, ngoài số quần áo – khăn ủng đúng theo số lượng học sinh (mà nhà trường, Biên phòng, chính quyền thống nhất, báo về), lúc nào cũng lủng lẳng 1 bao hàng gọi là dự trữ, cũng toàn quần áo, để quàng thêm cho những đứa trẻ rách áo, cởi truồng đứng bơ vơ bên đường hoặc không có trong danh sách, đứng ngoài thèm khát nhìn các bạn được nhận quần áo mới…


Nhìn chúng nó cởi truồng giữa mùa đông, xót xa lắm. Có cảm giác như vùng đất ấy, con người ấy trở lại thời hồng hoang, chỉ vỏ cây – áo lá che thân.


Và quan trọng hơn, cảm giác như nòi giống cứ bị lụi bại đi bởi chim cò tím tái, thông thống giữa gió lạnh, từ bên kia biên giới kèn kẹt thổi sang…


Lo được cái ăn rồi, nhưng căn cơ gì mà không lo thêm cái mặc, cho chính tương lai của đất liền, của vùng biên ải…


Không biết Thủ tướng của mình, đã bao giờ được chứng kiến những cảnh này chưa?..

*****

Hình ảnh ghi lại từ những chuyến đi của Thành viên Chương trình “Áo ấm biên cương” và trên một số trang xã hội của đồng nghiệp: xomnhiepanh.com; otofun.net; phuot.net…

————————————————————————————————————









































Theo blog MTH



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 30, 2013 19:00

Giáo sư bị bịt miệng

Đông A


Giáo sư vật lý nổi tiếng thế giới Đàm Thanh Sơn

Giáo sư vật lý nổi tiếng thế giới Đàm Thanh Sơn


Giáo sư Đàm Thanh Sơn, nhà khoa học nghiên cứu vật lý nổi tiếng trên thế giới ( Xin bấm vào đây để biết về gs Đàm Thanh Sơn), có gửi ý kiến góp ý bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp tới trang web Dự thảo online của Quốc hội. Ông có ý kiến ở hai điều của bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp: điều 42 giữ nguyên quy định về “Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí” và điều 70 về “Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ dân chủ, cùng toàn dân xây dựng đất nước”, bỏ quan điểm “tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam”. Điểm đáng nói ở đây là trang web Dự thảo online của Quốc hội đã bỏ ý kiến thứ 2 của Giáo sư Đàm Thanh Sơn về điều 70, chỉ đăng ý kiến của ông về điều 42. Giáo sư Đàm Thanh Sơn đã gửi thư nhiều lần tới người quản trị của trang mạng Dự thảo online hỏi về phần ý kiến góp ý của ông bị cắt bỏ nhưng cho đến nay ông vẫn chưa nhận được thư trả lời.


Ôi, cái gọi là góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp và “không có gì cấm kỵ” là thế đấy.


Toàn văn góp ý của gs Đàm thanh Sơn


Thư dưới đây đã được chuyển đến trang “Dự thảo online” (duthaoonline.quochoi.vn) của Văn phòng Quốc hội vào ngày 22/1/2013. Sau đó một đoạn ngắn (về Điều 42) được đăng trong phần “Ý kiến người dân” (xem ở đây), còn lại bị cắt bỏ đi. Tôi đã nhiều lần email hỏi những người quản trị trang mạng về phần còn lại của bức thư, nhưng tới nay tôi vẫn không nhận được trả lời.


Do không muốn góp ý của mình xuất hiện ở dạng đã bị cắt xén nên tôi đăng lại toàn bộ ở đây. Bức thư có phạm vi hạn chế, chỉ nói đến một số thay đổi trong bản Dự thảo mà tôi thấy làm cho chất lượng của Hiến pháp giảm đi rất nhiều. — Đàm Thanh Sơn.


Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp (22/1/2013)

Kính gửi ông Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Uỷ ban dự thảo, sửa đổi Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


Đồng kính gửi ông Uông Chu Lưu, Phó chủ tịch Uỷ ban dự thảo, sửa đổi Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


Về việc: Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


Tôi, Đàm Thanh Sơn, xin bày tỏ sự trân trọng với công sức của các ông và các thành viên của Uỷ ban trong việc viết Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Tôi rất vui mừng khi thấy Điều 1 của bản này khẳng định Việt Nam là một nước dân chủ. Trên tinh thần đóng góp xây dựng, tôi có hai đề nghị sau về bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp:


1) Điều 42 (sửa đổi, bổ sung điều 59): tôi đề nghị giữ nguyên nội dung điều 59 của Hiến pháp hiện hành (bản 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001).


Lý do: Điều 42 trong bản dự thảo chỉ quy định “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập”, bỏ nhiều quy định có trong điều 59 của bản Hiến pháp hiện hành, đặc biệt là quy định “Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí”, một điều Việt Nam đã cam kết khi tham gia Công ước về quyền trẻ em của Liên Hiệp Quốc.


2) Điều 70 (sửa đổi, bổ sung điều 45): tôi đề nghị giới hạn đến mức tối thiểu những sửa đổi trong điều này. Cụ thể, tôi đề nghị:


“Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ dân chủ, cùng toàn dân xây dựng đất nước”.


Tôi đề nghị như vậy vì những lý do chính sau đây:


a) Trong điều 70 của dự thảo có quy định “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân”. Còn điều 45 của Hiến pháp hiện hành quy định “Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân”. Theo tôi, các lực lượng vũ trang của Việt Nam phải tuyệt đối trung thành với đất nước và nhân dân Việt Nam, do đó quy định như trong Hiến pháp hiện hành là đủ. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ là một bộ phận của nhân dân Việt Nam, do đó đặt cụm từ “Đảng cộng sản Việt Nam” lên trước hai từ “Tổ quốc” và “nhân dân” như trong dự thảo là không hợp lý.


b) Tương tự, điều 70 của dự thảo còn quy định một trong những nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang là “bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân”. Điểm này cũng không hợp lý vì các từ “Đảng” và “Nhà nước” được đặt lên trước “nhân dân”.


c) Ngoài ra, điều 70 của dự thảo đưa “thực hiện nghĩa vụ quốc tế” vào thành một nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang. Theo tôi, các lực lượng vũ trang Việt Nam chỉ có thể hoạt động ở nước ngoài trong những trường hợp rất hãn hữu, và chỉ khi các hoạt động đó phục vụ nhiệm vụ “bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”, đã quy định ở trước. Tôi e rằng việc đưa “thực hiện nghĩa vụ quốc tế” vào Hiến pháp sẽ làm xấu đi hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, có thể gây hiểu nhầm là Việt Nam không tôn trọng nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.


Cám ơn sự chú ý của các ông và của Uỷ ban.


Kính thư,


Đàm Thanh Sơn.

Chicago, Hoa Kỳ


 Theo blog ĐA



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 30, 2013 17:28

Mất ăn mất ngủ vì Bắc Triều Tiên

Nguyễn Đại
imagesNhư lời ông đại tá – PGS – TS Trần Đăng Thanh (*) thì ta phải học tập Bắc Triều Tiên (BTT): “có vũ khí nguyên tử làm thế giới mất ăn mất ngủ”. Tôi không hiểu làm cho người khác mất ăn mất ngủ thì có gì hay mà phải học! Không biết có ông bố nào dạy con “mày phải học thằng ăn trộm, ăn cướp có nghề, nó làm cho nhân dân mất ăn mất ngủ!” không. Nói như ông Thanh sao hồi trước ta không học luôn Polpot, Hitle vì làm TG mất ăn mất ngủ cho nó tiện. Trong khi bao nhiêu nước có rất ít sức mạnh quân đội mà họ vẫn sống văn minh, sống đàng hoàng, giàu có thì không học. Có sức mạnh quân đội để… canh giữ cho hòa bình thế giới thì còn đáng học, chứ ai lại đi học thằng Chí Phèo làm cả làng Vũ Đại mất ăn mất ngủ bao giờ!
 Tuy nhiên, có một thực tế là những người có lương tri đang mất ăn mất ngủ vì chuyện ăn thịt người ở BTT. Cách đây vài chục năm, Mao Trạch Đông đã đưa nhân dân Trung Quốc vào hoàn cảnh phải ăn thịt người trong thời kỳ đại nhảy vọt thì nay đến phiên BTT.
Câu chuyện Triều Tiên là một thực tiễn rõ nét nhất về sự khác biệt giữa dân chủ và độc tài. Cùng con người, cùng tố chất, cùng hoàn cảnh địa lý, thế mà kinh tế chênh lệch khủng khiếp. Nam Triều Tiên (NTT) là nền kinh tế lớn nằm trong TOP 10 thế giới, thu nhập bình quân đầu người trên 25.000 USD, GDP khoảng 900 tỷ USD. Bắc Triều Tiên (BTT) thì đang đối diện với nạn đói, thu nhập bình quân đầu người khoảng 1.000 USD và GDP khoảng 20 tỷ USD.
Nếu như những “tuyên truyền viên” còn có lý do cho rằng miền nam Việt Nam giàu hơn miền bắc là do “tiền của Mỹ” thì chắc hẳn chẳng còn lý do gì cho câu chuyện Triều Tiên nói trên. “Do NTT được Mỹ đầu tư ư?” Thì nước nào muốn phát triển chẳng cần đầu tư! Có chính sách tốt, có kinh tế thị trường lành mạnh thì người ta mới đầu tư! Mà BTT cũng được Trung Quốc đầu tư đấy chứ. “Do BTT bị cấm vận ư?” Thế tại sao người ta cấm vận? Rừng rú, mọi rợ, tàn ác thì có quốc gia văn minh nào dám đến gần. Nói “nghèo do cấm vận” chẳng khác gì tự thú “tao khốn nạn nên người ta lánh xa tao”. “Do đổ tiền làm tên lửa hạt nhân ư?” Dân thì đói nhăn răng còn anh thì vét cạn tiền chơi tên lửa! Y như Liên Xô thời trước. Mỹ làm ra 10 đồng, chi 3 đồng vô vũ khí và lên mặt trăng. Liên Xô làm ra 3 đồng, chi luôn 3 đồng vô vũ khí và lên mặt trăng cho không thua kém bọn tư bản. Lên tới mặt trăng thì đất nước tan rã.
Như trên đã nói, BTT và NTT chỉ khác nhau ở một thứ là chế độ chính trị, còn lại các điều kiện khác là như nhau. Cả 2 có điểm xuất phát như nhau tính tại thời điểm 1953 – năm kết thúc nội chiến, văn hóa như nhau, trí tuệ như nhau. Quái lạ là ở BTT, điều kiện chính trị… ưu việt hơn NTT nhiều:
-        Được trang bị chủ nghĩa Mác – Lê nin vô địch, sau đó phát triển thành chủ nghĩa Chủ Thể
-        Có một người cầm lái vĩ đại là Kim Nhật Thành, vĩ đại đến nỗi trở thành chủ tịch vĩnh viễn.
-        Nếu nói về ổn định chính trị thì chẳng có quốc gia nào bì lại với BTT. Kim ông nắm quyền đến chết truyền ngôi cho Kim cha. Kim cha nắm quyền đến chết truyền ngôi cho Kim con hiện nay. Không hề có cạnh tranh, quyền lực cha truyền con nối, rất ổn định.
-        Có sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của một đảng duy nhất đỉnh cao trí tuệ là Đảng Lao Động Triều Tiên.
-        Có một sự đoàn kết nhất trí cao độ. Có khoảng 100 đầu sách ca ngợi Kim ông, 70 đầu sách ca ngợ Kim cha. Bầu cử quốc hội ở BTT luôn đạt 99% phiếu ủng hộ ứng cử viên… duy nhất thuộc Đảng Lao Động.
-        Đặc biệt ưu việt internet, điện thoại di động bị cấm cho nên nhân dân không bị nước ngoài đầu độc. Người dân yêu thương lãnh tụ còn hơn cha mẹ của mình. Lãnh tụ chết là kéo nhau ra ngoài đường khóc tè le toét loét. Thậm chí lãnh đạo chưa chết, đi thăm trường học, giáo viên và học trò cũng khóc hu hu.
-        Không chỉ nhân dân, đến cả trời đất cũng thương yêu lãnh tụ. Sự ra đời của Kim Chính Nhật tại núi Paektu đã được báo trước bởi một con chim nhạn, và một điềm triệu là sự xuất hiện của một cầu vồng đôi bắc qua núi cùng một ngôi sao mới trên bầu trời.
Nói chung, thể chế chính trị của BTT là cực kỳ ưu việt. Còn NTT thì chỉ có một thể chế bình như hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có. Đó là nền chính trị đa đảng, nhân dân trực tiếp bầu ra Tổng Thống (dân chủ không tập trung). NTT khác BTT chỉ có thế và giàu có gấp 40 lần BTT.
Có những điều khó giải thích đến độ phải dùng đến tâm linh. Tại sao đất nước BTT nghèo đói thì giải thích được. Nhưng người dân BTT có tội tình gì với trời đất mà phải khốn nạn đến thế để cha con họ Kim giàu sụ (tài sản khoảng 4 tỷ USD) thì đúng là chịu!
Quả là BTT làm thế giới mất ăn mất ngủ.
Nguyễn Đại – 30/1/2013
Theo blog HNC
………….

(*) học hàm, học vị rất cao!



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 30, 2013 16:16

Hậu họa cú mắc lừa số 13

Trần Quang Cơ


HoiucTranQuangCoBắc Kinh triệu tập cuộc họp Thành Đô một cách rất trịch thượng. Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy chỉ báo trước có 5 ngày, yêu cầu ngày 2-9-1990 phải có mặt ở Thành Đô, lại là ngày Quốc khánh chẵn của Việt Nam. (Tân Hoa Xã).


                  Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đã nhận định về cuộc họp Thành Đô đầu tháng 9-1990 rằng: “một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã bắt đầu!”. Một lời than não nề. Một lời cảnh báo đến vẫn nay còn có giá trị.
 Sau chiến tranh biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc những năm 1976 -1979, rồi chiến sự ở Campuchia kéo dài đến cuối năm 1988, mối quan hệ Việt Nam và Trung Quốc vốn dĩ phức tạp từ xa xưa, khi bạn, khi thù, đến đây lại có bước ngoặt, từ chiến tranh quyết liệt, từ đối đầu chuyển sang bình thường hóa, rồi từ bình thường hóa chuyển nhanh sang tình hữu nghị «16 chữ vàng» và «láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt», trên thực tế là phía lãnh đạo Việt Nam chịu sự phụ thuộc về nhiều mặt đối với thế lực bành trướng nước lớn.
                  Thái độ này được các nhà trí thức yêu nước và bà con ta gọi là thái độ “hèn với giặc, ác với dân”, từ sự kiện Thành Đô đến nay đã kéo dài 22 năm.
                  Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự lừa ta. Ta đã tự tạo ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ Chủ nghĩa xã hội, thay thế Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xã hội thế giới, chống lại hiểm họa “diễn biến hoà bình” của chủnghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu.
 
                 Ngay sau khi ở Thành Đô về, ngày 05/09/1990 anh Linh và anh Mười, có thêm anh Thạch và anh Lê Đức Anh đã bay sang Nông Pênh thông báo lại nội dung cuộc gặp cấp cao Việt-Trung với BCT Campuchia. Để thêm sức thuyết phục Nông Pênh nhận Thỏa thuận Thành Đô, anh Linh nói với lãnh đạo Campuchia:
                 Phải thấy giữa Trung Quốc và đế quốc cũng có mâu thuẫn trong vấn đề Campuchia. Ta phải có sách lược lợi dụng mâu thuẫn này. Đừng đấu tranh với Trung Quốc đến mức xô đẩy họ bắt tay chặt chẽ với đế quốc. “Lập luận này được Lê Đức Anh mở rộng thêm: “Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.
                Nhưng câu trả lời của Heng Somrin thay mặt cho lãnh đạo CPC, vẫn là: “Phải giữ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của chúng ta. Những vấn đề nội bộ liên quan đến chủ quyền CPC phải do các bên CPC giải quyết”. Về “giải pháp đỏ”, Nông Pênh nhận định ý đồ của Trung Quốc không muốn 2 phái cộng sản ở Campuchia hợp tác với nhau gây phức tạp cho quan hệ của họ với Sihanouk và với phương Tây. Vì vậy chúng tôi thấy rằng khó có thể thực hiện giải pháp đỏ vì giải pháp đỏ trái với lợi ích của TQ. Mặc dù ban lãnh đạo Campuchia đã xác định rõ thái độ như vậy, song Lê Đức Anh vẫn cứ cố thuyết phục bạn:
                Ta nói giải pháp đỏ nhưng là giải pháp hồng, vừa xanh vừa đỏ. Trước mắt không làm được nhưng phải kiên trì. Ta làm bằng nhiều con đường, làm bằng thực tế. Các đồng chí cần tìm nhiều con đường tiếp xúc với Khơ-me đỏ. Vấn đề tranh thủ Khơ-me đỏ là vấn đề sách lược mang tính chiến lược…Nên kiên trì tìm cách liên minh với Trung Quốc kéo Khơ-me đỏ trở về … Ta đừng nói với Trung Quốc là làm giải pháp đỏ, nhưng ta thực hiện giải pháp đỏ. Có đỏ có xanh, nhưng thực tế là hợp tác 2 lực lượng cộng sản.
 
  hoinghithanhdo1 Nguyễn Văn Linh bồi thêm:
               - Xin các đồng chí chú ý lợi dụng mâu thuẫn, đừng bỏ lỡ thời cơ, TQ muốn đi với Mỹ, nhưng Mỹ ép TQ nên TQ cũng muốn có quan hệ tốt với Lào, Việt Nam và Campuchia. Nếu ta có sách lược tốt thì ta có giải pháp đỏ.
Theo báo cáo của Đại sứ Ngô Điền, thái độ của bạn CPC đối với ta từ sau Thành Đô đổi khác. Về công khai, bạn cố tránh tỏra bị lệ thuộc vào Việt Nam. Trên cơ sở tính toán về lợi ích của mình, bạn tự quyết định lấy đối sách, không trao đổi trước với ta, hoặc quyết định khác với sự gợi ý của ta trên nhiều việc.
 
Nhìn lại, trong cuộc gặp Thành Đô, ta đã bị mắc lỡm với Trung Quốc ít nhất trên 3 điểm:
- Trung Quốc nói cuộc gặp Thành Đô sẽ đàm phán cả vấn đề CPC và vấn đề bình thường hoá quan hệ, nhưng thực tế chỉ bàn vấn đề Campuchia, còn vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước Trung Quốc vẫn nhắc lại lập trường cũ là có giải quyết vấn đề Campuchia thì mới nói đến chuyện bình thường hoá quan hệ hai nước;
- Trung Quốc nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp Cố vấn Phạm Văn Đồng, nhưng đó chỉ là cái “mồi” để kéo anh Đồng tham gia gặp gỡ cấp cao.
- Trung Quốc nói giữ bí mật việc gặp cấp cao hai nước, nhưng ngay sau cuộc gặp hầu như tất cả các nước đã được phía Trung Quốc trực tiếp hay gián tiếp thông báo nội dung chi tiết bản Thoả thuận Thành Đô theo hướng bất lợi cho ta.
 
             Ngày 07/09/1990 BCT đã họp thảo luận về kết quả cuộc gặp cấp cao Việt-Trung và cuộc gặp cấp cao Việt-CPC sau đó, và quyết định ngay hôm sau Đỗ Mười gặp đại sứ TQ thông báo lại lập trường của Nhà Nước CPC; đồng thời thông báo với Liên Xô, Lào như đã thông báo với CPC. Nếu có ai hỏi về công thức 6+2+2+2+1, nói không biết.
            Báo Bangkok Post ngày 19/9/90 trong bài của Chuchart Kangwaan đã công khai hoá bản Thỏa thuận Thành Đô, viết rõ Việt Nam đã đồng ý với Trung Quốc về thành phần HĐDTTC của Campuchia gồm 6 người của Nhà nước Campuchia, 2 của Khơ-me đỏ, 2 của phái Son San, 2 của phái Sihanouk. Thành viên thứ 13 là Hoàng thân Sihanouk giữ chức chủ tịch Hội đồng. Còn Lý Bằng trong khi trả lời phỏng vấn của Paisai Sricharatchang, phóng viên tờ Bangkok Post tại Bắc Kinh, ngày 24/10/1990, đã xác nhận có một cuộc gặp bí mật giữa lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam hồi đầu tháng 9 và cho biết kết quả cuộc gặp đã được phản ánh qua cuộc họp giữa các bên Campuchia ngày 10/9/90 tại Jakarta. Trong khi nói không biết chắc phía Việt Nam đã cố gắng thuyết phục Nông Pênh đến đâu, Lý nhận định là Hà Nội chắc chưa làm đủ mức. Điều đó có thể thấy được qua việc Nông Pênh đã có“một thái độ thiếu hợp tác (uncooperative)”.
 
               Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự lừa ta. Ta đã tự tạo ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ Chủ nghĩa xã hội, thay thế Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xã hội thế giới, chống lại hiểm họa “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó đã dẫn đến sai lầm Thành Đô cũng như sai lầm “giải pháp đỏ”, v.v…
                 Sau Thành Đô, trong Bộ Chính trị đã có nhiều ý kiến bàn cãi về chuyến đi này. Song mãi đến trước Đại hội VII, khi BCT họp (15-17/05/1991) thảo luận bản dự thảo “Báo cáo về tình hình thế giới và về việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VI và phương hướng tới”, cuộc gặp cấp cao Việt Nam-Trung Quốc ở Thành Đô mới lại được đề cập tới khi dự thảo báo cáo của Bộ Ngoại giao có câu “có một số việc làm không đúng với các Nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn đề Campuchia”. Cuộc họp này có mặt đầy đủ tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, cố vấn Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công, các ủy viên BCT Đỗ Mười, Võ Chí Công, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Cơ Thạch, Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ, Nguyễn Đức Tâm, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ Nguyên, Đoàn Khuê, Nguyễn Thanh Bình.
                  Anh Tô nói:
               - Có thời giờ và có cơ hội đem ra kiểm điểm những việc vừa qua để nhận định sâu hơn thì tốt thôi. Sau chuyến đi Thành Đô, tôi vẫn ân hận về thái độ của mình. Nói là tự kiểm điểm thì đây là tự kiểm điểm. Tôi ân hận ở hai chỗ. Lúc ở Thành Đô, khi bàn đến vấn đề Campuchia, người nói trước là anh Linh. Anh Linh nói đến phương án hoà giải dân tộc Campuchia. Sau đó Lý Bằng trình bày phương án “6+2+2+2+1” mà Từ Đôn Tín khi đàm phán với anh Cơ ở Hà Nội đã ép ta nhận song ta bác. Anh Linh đã đồng ý (nói không có vấn đề). Lúc đó có lẽ do thấy thái độ của tôi, Giang mời tôi nói. Tôi nói tôi không nghĩ phương án 13 này là hay, ý tôi nói là không công bằng… Tôi ân hận là lẽ ra sau đó đoàn ta nên hội ý lại sau bữa tiệc buổi tối. Nhưng tôi không nghĩ ra, chỉ phân vân. Sáng sớm hôm sau, mấy anh em bên Ban Đối Ngoại và anh Hồng Hà nói nhỏ với tôi là cốt sao tranh thủ được nguyên tắc “consensus”, còn con số không quan trọng. Tôi nghe hơi yên tâm, nhưng vẫn nghĩ có hội ý vẫn hơn. Sau đó, Trung Quốc đưa ký bản Thoả thuận có nói đến con số 13… Tôi phân vân muốn được biết nội dung trước khi ta hạ bút ký. Nếu như đoàn ta trao đổi với nhau sau phiên họp đầu, sau khi Lý Bằng đưa ra công thức 6+2+2+2+1 thì có thể ta có cách bàn thêm với họ. Hai là trước khi ký văn bản do chuyên viên hai bên thỏa thuận, các đồng chí lãnh đạo cần xem lại và bàn bạc xem có thể thêm bớt gì trước khi ký. Nghĩ lại, khi họ mời tổng bí thư, chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ta sang gặp tổng bí thư và chủ tịch Quốc vụ viện, họ lại mời thêm tôi. Tôi khá bất ngờ, không chuẩn bị kỹ. Anh Mười cho là họ mời rất trang trọng cơ hội lớn nên đi. Nhưng đi để rồi ký một văn bản mà ta không lường trước hậu quả về phản ứng của bạn CPC, rất gay gắt. Tôi hiểu là bạn khá bất bình, thậm chí là uất nhau. Cho là ta làm sau lưng, có hại cho người ta.
                   Anh Linh:
                   - Anh Tô nhớ lại xem. Không phải tôi đồng ý, tôi chỉ nói ta nghiên cứu xem xét và cuối cùng đặt vấn đề thông báo lại Campuchia… Bây giờ tôi vẫn nghĩ thế là đúng. Tôi không thấy ân hận về việc mình chấp nhận phương án 13… Vấn đề Campuchia dính đến Trung Quốc và Mỹ. Phải tínhđến chiến lược và sách lược. Phải tiếp tục làm việc với Campuchia về chiến lược, phải có nhiều biện pháp làm cho bạn thấy âm mưu của đế quốc Mỹ chống phá chủ nghĩa xã hội ở Châu Á, cả ở Cuba. Nó đã phá Trung Quốc qua vụ Thiên An Môn rồi, nay chyển sang phá ta… Trung Quốc muốn thông qua Khơ-me đỏ nắm Campuchia. Song dù bành trướng thế nào thì Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa.
                        Anh Thạch:
                    – …Về chuyện Thành Đô, Trung Quốc đã đưa cả băng ghi âm cuộc nói chuyện với lãnh đạo ta ở Thành Đô cho Nông Pênh, Hun-xen nói là trong biên bản viết là hai bên đồng ý thông báo cho Campuchia phương án 6+2+2+2+1, nhưng băng ghi âm lại ghi rõ là anh Linh nói “Không có vấn đề gì”. Tôi xin trình bày để các anh hiểu nguyên do con số 13 là từ đâu? Tại Tokyo tháng 6/1990, Sihanouk và Hun-xen đã thỏa thuận thành phần SNC gồm 2 bên ngang nhau = 6+6. Từ Đôn Tín sang Hà Nội, ép ta nhận công thức 6+2+2+2+1 không được. Đến cuộc gặp Thành Đô, Trung Quốc lại đưa ra. Khi ta sang Nông Pênh để thuyết phục bạn nhận con số 13 với nguyên tắc làm việc theo “consensus” trong SNC, anh Hun-xen nói riêng với tôi: chúng tôi thắng mà phải nhận số người ít hơn bên kia (bên ta 6, bên kia 7) thì mang tiếng là Campuchia bị Việt Nam và Trung Quốc ép. Như vậy dù là “consensus” cũng không thể thuyết phục nhân dân Campuchia được. Chỉ có thể nhận 12 hoặc 14 thành viên trong Hội đồng Dân tộc Tối cao. Phải nói là Nông Pênh thắc mắc nhiều với ta. Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ đều cho ta biết là Trung Quốc đã thông báo cho họ đầy đủ về Thoả thuận Thành Đô, và nói họ là lãnh đạo Việt Nam không đáng tin cậy, Trung Quốc đã sử dụng Thành Đô để phá quan hệ của ta với các nước và chia rẽ nội bộ ta.
                   Hôm sau, BCT họp tiếp, anh Mười nói: Ta tán thành Sihanouk làm chủ tịch Hội đồng Dân tộc Tối cao, Hun-xen làm phó chủ tịch, lấy nhất trí trong Hội đồng Dân tộc Tối cao làm nguyên tắc. Đây không phải là một nhân nhượng… Nếu có anh Thạch đi Thành Đô thì tốt hơn…
                     Anh Tô:
                 - Vấn đề chủ yếu không phải là thái độ của ta ở Thành Đô như anh Mười nói, mà là kết quả và tác động đến bạn Campuchia đánh giá ta như thế nào? ở Thành Đô điều ta làm có thể chứng minh được, nhưng Campuchia cho là ta giải quyết trên lưng họ.Vì vậy mà tôi ân hận. Tôi ân hận về sau này sẽ để lại hậu quả.
                        Anh Mười:
               - …Với tinh thần một người cộng sản, tôi cho là ta không sai. Bạn Campuchia nghĩ gì ta là quyền của họ. Với tinh thần một người cộng sản, ta không bao giờ vi phạm chủ quyền của Campuchia.
 
                         Anh Thạch:
                        – Họp Bộ Chính trị để kiểm điểm, tôi xin được nói thẳng. Có phải khi đi Thành Đô, anh Đỗ Mười có nói với tôi là hai ông anh nhận hơi sớm. Anh Linh nhận công thức 13 và anh Tô “consensus” (nguyên tắc nhất trí).
                         Anh Võ Văn Kiệt:
                   - Trong thâm tâm tôi, tôi không đồng ý có anh Tô trong đoàn đi Thành Đô. Nếu có gặp Đặng thì anh Tô đi là đúng. Tôi nói thẳng là tôi xót xa khi biết anh Tô đi cùng anh Linh và anh Mười chỉ để gặp Giang và Lý, không có Đặng. Mình bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy.
                    Vốn là người điềm đạm, song anh Tô có lúc đã phải phát biểu: Mình hớ, mình dại rồi mà cũng còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, còn được hay không thì không sao. Cùng lắm là nói cái lý đó, nhưng tôi không nghĩ như vậy là thượng sách. Tôi không nghĩ người lãnh đạo nên làm như vậy.
                   Thỏa thuận Việt Nam-Trung Quốc ở Thành Đô đúng như anh Tô lo ngại đã để lại một ấn tượng không dễ quên đối với Nông Pênh. Trong phiên họp Quốc hội Campuchia ngày 28/2/1991, Hun-xen phát biểu:
                   “Như các đại biểu đã biết, vấn đề Hội đồng Dân tộc Tối cao này rất phức tạp chúng ta phải đấu tranh khắc phục và làm thất bại âm mưu của kẻ thù nhưng bọn ủng hộ chúng không ít đâu. Mặc dù Hội đồng đã được thành lập trên cơ sở 2 bên bình đẳng nhưng người ta vẫn muốn biến nó thành 4 bên theo công thức 6+2+2+2+1, và vấn đề chủ tịch làm cho Hội đồng không hoạt động được”.
                  Tôi còn nhớ khi tiếp tôi ở Nông Pênh, ngày 28/9/1990, Hun-xen đã có những ý khá mạnh khi nói về thoả thuận Thành Đô: Khi gặp Sok An ở Băng Cốc hôm 17/9, TQ dọa vàđòi SNC phải công nhận công thức mà VN và TQ đã thỏa thuận. Nhưng Nông Pênh độc lập. Sok An đã nói rất đúng khi trảlời TQ là ý này là của VN không phải của Nông Pênh.
                     Cuộc hội đàm Thành Đô tháng 9/1990 hoàn toàn không phải là một thành tựu đối ngoại của ta, trái lại đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về đối ngoại. Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đoàn ta đã hành động một cách vô nguyên tắc, tưởng rằng thoả thuận như thếsẽ được lòng Bắc Kinh nhưng trái lại thỏa thuận Thành Đô đã làm chậm việc giải quyết vấn đề Campuchia và do đó chậm việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, uy tín quốc tế của ta bị hoen ố.
                  Việc ta đề nghị hợp tác với Trung Quốc bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc Mỹ, thực hiện giải pháp đỏ ở Campuchia là không phù hợp với Nghị Quyết 13 của Bộ Chính Trị mà còn gây khó khăn cho ta trong việc đa dạng hóa quan hệ với các đối tượng khác như Mỹ, phương Tây, ASEAN và tác động không thuận lợi đến quan hệ giữa ta và đồng minh, nhất là quan hệ với Liên Xô và Campuchia. Trung Quốc một mặt bác bỏ những đề nghị đó của ta, nhưng mặt khác lại dùng ngay những đề nghị đó để bôi xấu ta với các nước khác nhằm tiếp tục cô lập ta, gây sức ép với ta và Campuchia.
                  Cùng với việc ta thúc ép Nông Pênh đi vào giải pháp đỏ, việc ta thỏa thuận với Trung Quốc về công thức HĐDTTC tại Thành Đô là không phù hợp với nguyên tắc nhất quán của Đảng ta là không can thiệp và không quyết định các vấn đề nội bộ của Campuchia, làm tăng mối nghi ngờ vốn có của bạn Campuchia đối với ta, đi ngược lại chủ trương tăng cường và củng cố mối quan hệ của ta với Campuchia và Lào…
Theo blog BVB


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 30, 2013 07:30

Cái chết của một người nghệ sĩ

Nguyễn Hưng Quốc


A6A359EC-E570-424C-A335-33410D718AC5_w268_r1_cx5_cy0_cw81Tôi nghe tin nhạc sĩ Phạm Duy qua đời, trước tiên, từ một người bạn, sau đó, qua các bản tin trên báo chí. Cảm giác của tôi, thoạt đầu, là dửng dưng; sau đó, là sự ngạc nhiên về sự dửng dưng của mình.

 

Tính tôi vốn sợ cái chết, máu me cũng như bất cứ cái gì liên quan đến cái chết. Ngay cả khi xem phim hay tivi, thấy những cảnh máu me chết chóc là tôi quay mặt đi. Dự đám tang, điều tôi sợ nhất là nhìn gương mặt của người chết trong quan tài. Nếu tránh được, bao giờ tôi cũng tránh. Và bất cứ cái chết nào của người thân quen cũng đều để lại trong tôi những dư âm thật nặng nề. Cái chết của những người trong giới văn nghệ, những người tôi đã tiếp xúc hoặc thường đọc lại càng gây ấn tượng mạnh, thường làm tôi nghĩ ngợi trong nhiều ngày, nhiều tháng, có khi, nhiều năm. Cảm giác chung là, bao giờ tôi cũng thấy một chút sững sờ, rồi hoang mang. Với tôi, nghệ sĩ nào cũng chết trẻ. Có chết lúc đã trên 70, 80, hoặc ngoài 90 như Phạm Duy, vẫn là chết trẻ. Có lẽ lý do chính là, nhìn qua lăng kính của tác phẩm, bao giờ tôi cũng thấy họ trẻ trung, thậm chí, trẻ thơ, đặc biệt với các nhà thơ.

 

Nhưng tại sao nghe tin Phạm Duy mất, tôi lại vẫn dửng dưng?

 

Thú thực, đến bây giờ, lúc ngồi viết những dòng này, tôi vẫn không hiểu được. Chắc chắn không phải vì tôi xa lạ với ông, ghét ông hay khinh thường ông. Không phải. Về phương diện cá nhân, tôi gặp Phạm Duy vài lần. Có thời gian, lúc tôi còn ở Pháp và lúc ông mới xuất bản một số tập trong bộ hồi ký của ông, ông hay gọi điện thoại cho tôi. Có lần, gọi từ Mỹ, ông kể huyên thuyên về tình bạn của ông với nhà thơ Quang Dũng , điều được ông kể tỉ mỉ trong cuốn hồi ký ông viết sắp xong. Nổi hứng, ông đọc cho tôi nghe cả mấy trang về Quang Dũng trong cuốn ấy. Tôi hiểu hậu ý của Phạm Duy: Ông muốn tôi viết cái gì đó về bộ hồi ký của ông. Tôi khéo léo thoái thác. Sau đó, tôi qua Úc sống. Một dịp qua Úc, ông đến nói chuyện ngay trong trường đại học nơi tôi đang dạy, và ngày hôm sau, rủ tôi đi ăn sáng. Chuyện trò vẫn vui vẻ. Rồi thôi. Gặp nhau ít, nhưng ấn tượng của tôi về Phạm Duy rất tốt đẹp.

 

Vậy mà, nghe tin ông mất, tôi vẫn dửng dưng. Tại sao?

 

Vì tôi ít quan tâm đến âm nhạc ư? Cũng có thể. Trong các loại hình nghệ thuật, sau văn học, lãnh vực tôi cảm thấy gần gũi nhất là hội họa. Còn âm nhạc, với tôi, là một cái gì xa lắc. Tôi không hiểu, và thú thực, tôi cũng không thích, nhất là nghe các ca khúc. Tuy nhiên, tôi vẫn không nghĩ đây thực sự là lý do. Không thích, nhưng, thật ra, tôi vẫn nghe. Với Phạm Duy, tôi nghe từ nhỏ. Nhiều bản nhạc của Phạm Duy vẫn ám vào tôi. Có khi không nhớ cả bài, tôi vẫn nhớ từng câu; có khi không nhớ cả câu, tôi vẫn nhớ vài chữ, thường thì gắn liền với một giọng ca nào đó, để, khi đọc hay khi viết, đụng đến chữ ấy, tôi lại nghe vang lên trong đầu, trong lỗ-tai-bên-trong của tôi, âm hưởng ngân vang hay dìu dặt của một tiếng hát từ nhạc của Phạm Duy.

 

Vậy thì tại sao tôi lại dửng dưng?

 

Tôi lờ mờ nhận ra một lý do: Tôi không nghĩ là ông đã chết. Tôi không tin là ông đã chết. Mà thật, với một nghệ sĩ lớn như Phạm Duy, cái chết vật lý chỉ là một cái chết giả. Sự sống thực sự của một nghệ sĩ không nằm trong thể xác. Mà là ở tác phẩm. Bao giờ tác phẩm còn được đọc, được nghe, được ngắm, người nghệ sĩ vẫn còn sống. Để nói về nghệ sĩ và tác phẩm của họ, chúng ta hay dùng hai chữ “bất tử” và “bất hủ”. “Bất hủ” là điều kiện của “bất tử”: Bắt chước cách nói của Phạm Quỳnh khi bàn về mối quan hệ giữa Truyện Kiều và tiếng Việt cũng như vận mệnh của dân tộc Việt Nam, chúng ta cũng có thể nói: Tác phẩm còn thì người còn…

 

Cho đến nay, dường như chưa ai hoài nghi về tài năng âm nhạc của Phạm Duy; chưa ai phủ nhận những giá trị lấp lánh trên cả ngàn ca khúc mà ông sáng tác. Nhưng không phải ai cũng thanh thản thưởng thức những tác phẩm ấy. Nhiều người, rất nhiều người vẫn thấy có cái gì lấn cấn khi nghe đến nhạc Phạm Duy. Chính quyền ở trong nước vẫn không quên những bài hát chống cộng của ông trước đây nên dù ông đã lớn tuổi và đã về nước sống hẳn, họ vẫn tìm mọi cách để ngăn chận những tác phẩm ấy. Giấy phép cho các tác phẩm của ông chỉ được cấp một cách dè dặt. Trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại, quyết định về nước của Phạm Duy gây không ít bất mãn. Từ cả hai phía, nơi nào cũng thấy ít nhiều bị Phạm Duy phản bội. Ở đây, tôi không bàn đến chuyện cảm giác ấy đúng hay sai. Tôi không kết án hay bênh vực cho Phạm Duy. Tôi chỉ ghi nhận một sự kiện: chính những cảm giác ấy đã ngăn cản việc người ta tiếp cận với nhạc Phạm Duy.

 

Bây giờ Phạm Duy đã qua đời. Tất cả những nghi ngờ, bất đồng hay bất mãn sẽ dần dần chìm vào quên lãng. Con người thật của Phạm Duy sẽ không còn án ngữ trước khối lượng tác phẩm đồ sộ và nguy nga của Phạm Duy. Một lúc nào đó, nghĩ đến Phạm Duy, người ta sẽ không còn nhớ đến những chuyện đi kháng chiến rồi dinh tê, chuyện vào miền Nam rồi vượt biên hay chuyện sống ở Mỹ rồi quay về Việt Nam; người ta cũng không còn nhớ những câu phát biểu nhiều khi rất tùy hứng và tùy tiện của ông. Lúc ấy, nghĩ đến Phạm Duy, người ta chỉ nghĩ đến những bài hát do ông sáng tác.

 

Lúc ấy, tôi nghĩ, ông mới sống thật cuộc sống của ông. Một cuộc sống thật vĩ đại.


Theo VOV



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 30, 2013 05:00

Ông Nguyễn Bá Thanh: Người ta làm sai thì từ chức, mình làm sai thì nhơn nhơn

imagesÔng Nguyễn Bá Thanh nói hơi khó nghe, nhưng cái băng này thì nghe rất rõ. Lần đầu tiên nghe ông Thanh nói chuyện, thật là vui. Vui nhất là đoạn này: “Ông tưởng ông ngon lắm đấy, ông tưởng họ kính nể, họ chắp tay, họ bái phục ông á? Người ta làm sai thì từ chức, mình làm sai thì nhơn nhơn, tỉnh queo, không có vấn đề gì. Biểu anh từ chức thì ảnh không từ.” Hi hi, người ta đồn cuộc chiến Ba- Bá nghe cũng có lý.




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 30, 2013 03:00

Nguyễn Quang Lập's Blog

Nguyễn Quang Lập
Nguyễn Quang Lập isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Quang Lập's blog with rss.