Nguyễn Quang Lập's Blog, page 92
January 27, 2013
Đảng phải tự lột xác nếu không muốn bị lột xác
Xin nói ngay rằng, đầu đề trên tôi lấy từ một ý kiến “góp ý với Đảng” trên báo Lao Động Chủ Nhật cách đây 20 năm, lúc làn gió “Đổi mới” đang ào ào trên khắp đất nước (chưa bị Đảng chặn lại và cố thổi ngược sau đó). Lúc ấy, nhiều đảng viên cũng như trí thức các cỡ vẫn còn tin/hy vọng Đảng “đổi mới” thực sự và toàn diện.
Nhưng sau một lúc hoang mang trước khủng hoảng chính trị của cả phe XHCN và tạm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế nhờ đường lối tự do hóa, lại bấu chặt được vào kẻ thù chưa xa bỗng thành ra “bạn vàng” rất gần, Đảng trấn tĩnh lại và hạ quyết tâm chỉ đổi mới kinh tế, không đổi mới chính trị. Cho nên câu dự đoán táo bạo trên của một đảng viên tâm huyết tạm thời chưa đúng. Sau 20 năm, Đảng vẫn chưa bị lột xác, mà còn hăm hở lột xác ngày càng nhiều người bất đồng chính kiến.
Đến hôm nay, tình hình ra sao?
Đổi mới kinh tế sau 20 năm thu được một số thành tựu, nhưng đã nhanh chóng thụt lùi và lại đang ở đêm trước của cuộc khủng hoảng mới. Nguyên nhân chủ yếu: Đổi mới nửa vời, có tự do hóa (cho tư nhân kinh doanh) nhưng vẫn kiên trì “thành phần chủ đạo” kinh tế nhà nước. Kết quả đã biết trước: quả đấm “chủ đạo” này đấm thẳng như trời giáng vào nền kinh tế quốc dân.
Giờ Đảng lại phải sửa soạn cuộc “đổi mới” lần hai. Cũng vẫn tư duy cũ: chỉ đổi mới kinh tế (tiến thêm một bước: có thể không còn khẳng định “kinh tế nhà nước” là chủ đạo), còn chính trị thì đổi mới một cách rụt rè e thẹn (nhấn mạnh “trên giấy” quyền con người kèm theo đủ thứ ràng buộc để sẵn sàng tước bỏ trên thực tế,… nhưng vẫn khăng khăng “điều 4” hiến định sự độc quyền của Đảng).
Với tư duy ấy, kết quả những năm tới của đất nước cũng có thể biết trước: Nếu kinh tế nhà nước – tức sự độc quyền kinh tế – đã đấm nát nền kinh tế quốc dân, thì tới đây, độc quyền của Đảng trên lĩnh vực chính trị chắc chắn sẽ làm tan hoang toàn bộ đời sống xã hội vốn đang lao nhanh trên con đường băng hoại chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc.
Nếu 20 năm trước, Đảng quyết định biến kẻ thù cũ thành “bạn vàng” để bấu vào mà tồn tại, thì tình thế hôm nay không cho phép nữa! Thực tế đã chứng tỏ chính sự bấu víu này là nguyên nhân đẩy nhanh đất nước đến nguy cơ mất mát lãnh thổ, mất quyền tự chủ và nhiều hiểm họa khôn lường khác. Lòng dân đang hết sức bức xúc! Trước nguy cơ đánh mất tính chính danh của một đảng từng tự hào có công giành độc lập dân tộc, Đảng đang rất lúng túng tìm cách thoát ra nghịch cảnh “còn Đảng mất nước, còn nước mất Đảng”.
Là một người cầm bút từng chịu sự lãnh đạo của Đảng gần hết đời (không tự nguyện nhưng biết là chưa thể khác, chỉ cố gắng giữ gìn “chút lòng trinh bạch” bằng cách không vào Đảng và không nhận bất cứ bổng lộc nào của Đảng), tôi vẫn băn khoăn “nghĩ hộ” Đảng (vô duyên?) cách thoát ra an toàn (vì nó cũng sẽ an toàn cho toàn dân tộc). Nhiều Đảng viên ưu tú đã chân thành vạch lối ra cho Đảng, nhưng Đảng chưa chịu nghe mà còn sách nhiễu họ đủ điều. Đảng còn quá tự tin vào “chính quyền trên mũi súng” của mình, còn quá khinh thường lòng dân?
Nhưng với bản Kiến nghị Sửa đổi Hiến pháp 2013 vừa đây, mới mấy ngày đã thu được hàng ngàn chữ ký, trong đó lần đầu tiên có các cựu quan chức cao cấp và rất nhiều Đảng viên cỡ bự tham gia bất chấp mười mấy điều cấm mà Đảng ban hành, hồi chuông cấp báo đã rung lên! Triệt để và mạnh mẽ hơn hẳn Hiến chương 77 mở đầu cao trào dân chủ dẫn đến sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, Kiến nghị Sửa đổi Hiến pháp 2013 là dấu son lịch sử của cách mạng Việt Nam. Rất có thể nó sẽ dẫn đến một cuộc thanh trừng khủng bố khốc liệt, rất có thể hàng trăm người bị bắt, bị truy bức, bị đưa vào trại “phục hồi nhân phẩm” hoặc “nhà thương điên”, bị đụng xe, bị côn đồ hành hung… nhưng sẽ không gì cưỡng nổi ngọn triều dân chủ cuồn cuộn mà Kiến nghị đã phát động.
Vào lúc này, tôi bỗng nhớ đến câu góp ý với Đảng trên báo Lao Động Chủ Nhật cách đây 20 năm. Tôi muốn lấy lại câu ấy để nói với Đảng nhân ngày kỷ niệm Đảng Cộng sản ViệtNamra đời (3/2/1930 – 3/2/2013). Với tất cả sự chân thành. Vì nhớ đến những ngày tháng đẹp đẽ trong quá khứ của Đảng, với bao người con ưu tú đã hy sinh thân mình vì nền độc lập, vì nhớ đến lòng tin của bao nhiêu trí thức đã lựa chọn đi theo Hồ Chí Minh trong đó có cụ thân sinh ra tôi, vì nhớ đến những ngày tháng tanh xuân đẹp nhất của mình đã nghe lời kêu gọi của Đảng nguyện lên đường phục vụ công nông binh, vì lòng yêu mến nhiều người thầy, người anh, người bạn đã và đang là những đảng viên trung thực của Đảng. Vì tấm gương Myanmar trước mắt khi nhà độc tài và người đối lập bắt tay nhau xóa bỏ quá khứ hận thù để xây dựng một đất nước của tương lai.
ĐẢNG PHẢI TỰ LỘT XÁC NẾU KHÔNG MUỐN BỊ LỘT XÁC!
Mà trước mắt, hãy bước đi một bước nhỏ nhưng sẽ là bước nhảy vĩ đại: tự xóa bỏ “Điều 4” phi lý nực cười trong Hiến pháp. Nhân đây xin sửa câu nói thiếu thông minh của một người đồng tuế: “Bỏ điều 4 là tự sát” thành “Bỏ điều 4 là tự cứu”!
SG cuối tháng 1/2013
H. H.







“Quyền Bính” – vấn đề muôn thuở trong lịch sử Việt Nam hiện đại
Lê Mai
Thăng yên hạ mã bách thiên nan
Quốc thế như kim thực vị an
Nùng mạt, đạm trang, nhân tính cựu
Nguyên nhung bát thập bất tri nhàn
(Lên yên xuống ngựa khó muôn vàn
Thế nước hôm nay thực chửa an
Đậm, nhạt, mau, thưa người nếp cũ
Tám mươi lão tướng chẳng mong nhàn)
Tôi mở đầu vài cảm nghĩ về cuốn sách “Quyền Bính” (Tập 2 – Bên Thắng Cuộc, Huy Đức) bằng bài thơ của Tào Mạt: “Gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi bộ ứng khẩu làm ngay”. Năm 1991 ấy, tướng Giáp tròn 80 tuổi. Sau Đại hội VII ĐCSVN, ông Võ Nguyên Giáp – một đại công thần của chế độ, chính thức rời khỏi chính trường. Rồi những cuốn hồi ký nổi tiếng, rất có giá trị sử học của ông liên tiếp ra đời: Chiến đấu trong vòng vây, Đường tới Điện Biên Phủ, Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng…Nhưng, trong những cuốn hồi ký ấy, ông chỉ nói rất ít về bản thân mình.
Thì đây, “Quyền Bính” có một chương riêng về tướng Giáp. Tác giả đã cho chúng ta biết một câu nói rợn người đầy kinh hãi của Lê Đức Thọ qua lời kể của Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể Lê Duẩn: “Có lần ông Thọ nói ông còn để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm”. Than ôi! Một ông Đại tướng Tổng tư lệnh, người Anh Cả đầu tiên và duy nhất của quân đội, đã làm nên biết bao công tích, được thế giới ca ngợi, đã phạm “tội” gì mà Lê Đức Thọ dám đưa ra một lời kết án tai ác đến cỡ đó?
Trong Quân ủy Trung ương, ông Thọ chỉ là Phó Bí thư, cấp dưới của ông Giáp. Ông ta dĩ nhiên không phải là nhà quân sự chuyên nghiệp. Chiến lược, chiến thuật quân sự, điều quân đánh đông dẹp bắc là nhờ tài năng của các tướng lĩnh. Thế mà trong chiến dịch Quảng Trị (không chỉ chiến dịch Quảng Trị), “Lê Đức Thọ không hiểu bằng con đường nào, thường xuyên điện thẳng cho các sư đoàn không qua điện đài của Bộ Tổng Tham mưu, vừa để nắm tình hình vừa tự ý đôn đốc đánh. Kỳ quặc!”.
Lê Đức Thọ thường gọi ông Trần Bạch Đằng, một người cộng sản cấp tiến cực kỳ tài hoa, tiếng tăm lẫy lừng là “thằng trời đánh” – điều cay đắng là ông Đằng không bao giờ được vào Trung ương, dù có ông Lê Duẩn đỡ đầu. Chính Giáo sư Hồ Ngọc Đại cũng đã một phen hoảng hốt sau khi bố vợ mất, ông hỏi Đoàn Duy Thành, “Ba cháu mất rồi, liệu họ… có giết gia đình nhà cháu không?” (Làm người là khó – Đoàn Duy Thành). Quả thật, quyền bính – vấn đề muôn thuở trong lịch sử VN hiện đại.
Người làm chính trị, nắm quyền bính, điều quan trọng nhất là để lại tiếng thơm trong sử sách. Tôi xin lưu ý, một Giáo sư người Mỹ sau khi nghiên cứu về Mao Trạch Đông đã kết luận, cuộc đời ông ta làm được 31 việc nhưng có tới 20 việc liên quan đến việc hủy hoại tinh thần và đạo đức con người!
Quan sát sự vận hành quyền bính tại VN cho thấy, dường như không ít nhà lãnh đạo cao cấp ghen tỵ với tài năng và vinh quang của tướng Giáp, họ muốn hạ bệ uy tín cực lớn của ông trong đảng và dân chúng. Đến như ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, thay vì bác bỏ bản báo cáo sai sự thật của Nguyễn Đức Tâm về vụ Sáu Sứ, ông lại chỉ đạo điều tra hai ông Võ Nguyên Giáp và Trần Văn Trà; thay vì minh oan cho ông Giáp và ông Trà sau khi biết kết quả điều tra, ông và Bộ Chính trị lại im lặng “đáng sợ”.
Có nhà nghiên cứu cho rằng, ông Võ Nguyên Giáp là điển hình của một tài năng không được phát huy hết trong một xã hội mà sự vận hành quyền lực tập trung vào tay một số người, lại thiếu công cụ để khống chế, kiểm soát quyền lực ấy. Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến tham nhũng tuyệt đối và quyền lực tuyệt đối cũng sẽ dẫn đến tha hóa tuyệt đối.
Đúng như tác giả Huy Đức nhận xét, ông “mưu lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ, năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, Tướng Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, Tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi thanh gươm trận của ông”.
Thêm một điểm cần lưu ý, đó là ông Võ Nguyên Giáp đã xử lý mẫu thuẫn “địch – ta” khác hẳn việc xử lý mẫu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Xử lý mẫu thuẫn “địch – ta” là xử lý mâu thuẫn đối kháng, một mất một còn – chiến tranh là như thế. Song, xử lý mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân thì phải khác. Ông Trần Bạch Đằng từng nói: “Đành rằng làm chính trị là phải thủ đoạn. Nhưng làm chính trị thì cũng phải có tình nghĩa, bạn bè chứ”. Chỉ có điều, đối thủ chính trị của các ông không nghĩ và làm như vậy.
Quyền bính (quyền hành) và quyền lực đều có điểm chung là quyền định đoạt mọi công việc và sức mạnh để đảm bảo thực hiện quyền ấy. Quyền lực đồng nghĩa với sức mạnh và như vậy, kẻ mạnh nắm quyền lực sẽ thống trị và chi phối kẻ yếu. “Quyền Bính” đã làm nổi bật tư duy và quyền lực của nhiều nhà lãnh đạo cao cấp VN, của tập thể, của cả chế độ, trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, con người và tư tưởng; sự vận hành và chi phối của quyền lực, kết quả của việc thực thi quyền lực. Có thể nói, “Quyền Bính” đã cho chúng ta thấy sự vận hành quyền lực ảnh hưởng như thế nào đến tương lai đất nước và dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử VN hiện đại.
Anh Doan Tran, một người bạn thân của tôi ở Hoa Kỳ, rất am hiểu văn hóa và lịch sử VN – người đã gửi tặng tôi ấn bản điện tử “Quyền Bính” ngay sau khi phát hành, bằng một sự liên tưởng và tinh tế hiếm có, nhận xét: “Hãy lưu ý hình bìa cuốn sách với chiếc xe hơi Lada, dây điện, đèn tín hiệu giao thông rồi đọc chi tiết này trong cuốn sách để thấy sự thú vị:
“Khi nhậm chức, Nguyễn Văn Linh vẫn sử dụng một chiếc xe hơi hiệu Lada của Liên Xô đã cũ thay vì tiêu chuẩn của Tổng bí thư phải là “Volga đen” hoặc Toyota. Theo ông Bùi Văn Giao, trợ lý của Nguyễn Văn Linh: “Ông không biết rằng, để Lada có thể chở Tổng bí thư, Văn phòng phải gắn thêm máy lạnh. Vì tải thêm máy lạnh mà tuổi thọ của những chiếc Lada này bị giảm đi rất nhanh, cứ sau một hai năm là phá luôn giàn máy. Một lần ông Linh đi công tác về tỉnh, chiếc máy lạnh tự chế phát nổ. May mà khi đó, ông Linh đang ngồi trong phòng họp còn chiếc xe thì đậu ngoài sân”.
Phải chăng, đưa “cái lạnh” của tư bản vào “cái nóng” của xã hội chủ nghĩa, nó sẽ “trung hòa” và “bộ máy” sẽ vận hành tốt hơn? Không phải! Trên thực tế, làm như vậy “bộ máy” bị hỏng nhanh hơn và tệ hơn nữa – nó phát “nổ” rất nguy hiểm. Không thể “lắp ghép” một cách tùy tiện, bởi nó không thể tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh, dù gắn cho nó cái “đầu” hay cái “đuôi” gì đi nữa (“đuôi” định hướng XHCN chăng – một gợi ý!). Tri thức nhân loại đã kết tinh hàng ngàn năm, sao người ta không tiến cùng văn minh thời đại, mà lại “sáng tạo” ra con đường đi mới chưa có tiền lệ trong lịch sử và than ôi, sự “sáng tạo” đó đã cho kết quả nhãn tiền rồi!
Cũng như “Giải Phóng”, “Quyền Bính” – dù khách quan đến đâu, chúng ta vẫn nhận thấy tác giả tiếp tục dành cho ông Võ Văn Kiệt nhiều thiện cảm. Anh Doan Tran cho rằng tác giả dường như “thần tượng hóa” ông Kiệt – tôi nghĩ nhận xét đó hơi quá. Dù sao, cách sử dụng quyền lực và việc nắm quyền bính của ông Kiệt được nhiều người ủng hộ, dù ông Tố Hữu bóng gió: “Sáu Dân muốn làm vua Saigon”.
Ông Võ Văn Kiệt có cách giải quyết mâu thuẫn về chính trị khá hay. Đã một lần ông nói với người lãnh đạo văn nghệ: “Ở Sài Gòn nếu đòi hỏi người xứng đáng theo tiêu chuẩn chính trị để đóng Hai Bà Trưng thì chỉ có Bà Định; đóng Lênin thì chỉ có Bác Tôn thôi. Các anh cứ mời các vị ấy đóng xem thử có ai đi coi không?”. Lại một lần khác, khi họp Bộ Chính trị để thông qua việc chọn BHP làm đối tác thăm dò dầu ở mỏ Đại Hùng, Nguyễn Hà Phan phản đối: “Đồng bào miền Nam chắc chắn không một ai đồng tình chọn Úc làm đối tác khai thác dầu khí vì bọn Úc đã từng đưa quân vào tàn sát đồng bào ta”. Ông Võ Văn Kiệt liền đứng dậy: “Nếu nói như Sáu Phan thì tôi đề nghị Bộ Chính trị nên chọn Lào đầu tư. Mỹ là kẻ thù mới đánh ta; Pháp đô hộ 80 năm; Nhật khiến cho 2 triệu người chết đói; Úc, Hàn theo Mỹ mang quân sang… Không có nước nào có công nghệ tốt lại không có dính líu vào một ‘tội ác’ nào đó”.
Đọc “Quyền Bính” và “Giải Phóng”, chúng ta nhận thấy có một điểm nổi bật nữa là tính tự trọng của nhiều nhà lãnh đạo cao cấp thời ấy. Họ dám làm và dám chịu trách nhiệm. Các ông Trường Chinh từ chức Tổng bí thư, Lê Văn Lương ra khỏi Bộ Chính trị, Hồ Viết Thắng bị kỷ luật do sai lầm của cải cách ruộng đất. Ông Linh cũng đã phải một lần ra khỏi Bộ Chính trị. Ông Kiệt xé rào, đổi mới. Ông Trần Phương quyết định từ chức sau vụ “giá – lương – tiền” cho dù ông không phải là người chịu trách nhiệm chính. Ông Lê Duẩn thấy rằng, sau vụ “giá – lương – tiền”, Tố Hữu không còn khả năng làm Tổng bí thư, dù đã được chọn vào hàng ngũ kế cận. Và thực tế, tại Đại hội VI, Tố Hữu thậm chí không được bầu vào Trung ương.
Phải thừa nhận, thời ấy đa số các nhà lãnh đạo cao cấp không được đào tạo bài bản, song họ rất có trình độ, chỉ bằng tự học. Còn gần đây và hiện nay thì sao? Không ít người gần như “mất trí” vì ham mê quyền bính: dấu bệnh để mong làm Chủ tịch nước, dấu bệnh để làm Thường trực Ban bí thư, sợ ra khỏi Bộ Chính trị thì chết không nhắm được mắt…Rồi một Tổng bí thư hai nhiệm kỳ mà Phó Ban Tổ chức Trung ương nhận xét trình độ chỉ tầm cỡ cán bộ cấp huyện, một Thủ tướng mà chỉ mới nghe tên thôi, người dân đã lắc đầu ngán ngẩm. Liệu đất nước có thể phát triển sánh vai với thế giới nếu vấn đề quyền bính được vận hành như thế?
Rốt cuộc, ai là người có quyền lực nhất? Nhà tương lai học người Mỹ, Alvin Toffler, trong tác phẩm Thăng trầm quyền lực, đã phân tích rất sâu sắc về quyền lực. Bạo lực, của cải và tri thức là ba đỉnh của một tam giác quyền lực. Bạo lực chủ yếu dùng để trừng phạt, làm người ta khiếp sợ nhưng là nguồn quyền lực ít linh hoạt nhất. Đọc Bên Thắng Cuộc (“Giải Phóng” và “Quyền Bính”), chúng ta đã rõ nhân vật nào, thời nào ưa sử dụng nguồn quyền lực bạo lực nhất.
Của cải được dùng vừa trừng phạt lại vừa ban thưởng và có thể được chuyển thành nhiều nguồn khác, là một công cụ quyền lực rất uyển chuyển. Đọc Bên Thắng Cuộc cũng như quan sát tình hình hiện nay, chúng ta đã rõ nhân vật nào, thời nào ưa sử dụng và sử dụng hết sức “thành công” nguồn quyền lực của cải nhất.
Tuy vậy, tri thức mới là nguồn quyền lực cơ bản và linh hoạt nhất, vì một người có tri thức có thể tránh được những thử thách đòi hỏi sử dụng bạo lực hay của cải và có thể thuyết phục được những người khác để hoàn tất những ý định mình mong ước. Tri thức tạo ra quyền lực có phẩm chất cao nhất. Đọc Bên Thắng Cuộc, chúng ta đã rõ nhân vật nào thường sử dụng nguồn quyền lực tri thức nhất. Nếu nhân vật ấy sử dụng nguồn quyền lực bạo lực, chắc chắn lịch sử VN hiện đại đã khác rồi.
Và một khi quyền lực được tạo ra từ quyền mưu hay từ những yếu tố khác thay vì tri thức thì quyền lực đó không thể bền vững, khiến cho những người nắm quyền lực kiểu đó trở nên đáng sợ – ngay cả với bạn bè, đồng chí, người thân của họ. Lịch sử hiện đại VN không thiếu thí dụ minh họa điều này.
“Quyền Bính” – vấn đề muôn thuở trong lịch sử VN hiện đại. Một xã hội chỉ có thể phát triển tốt khi “quyền bính” được cân bằng, không bị lũng đoạn hoặc tập trung vào trong tay một số người – cũng tức là phải tạo ra một tam giác đều quyền lực trong đó ba đỉnh của nó chính là bạo lực, của cải và tri thức.
Để kết thúc, tôi xin nhìn đôi nét tổng quát về Bên Thắng Cuộc. Điểm mạnh của “Quyền Bính” cũng như “Giải Phóng” là nhiều tư liệu, vừa trực tiếp, vừa gián tiếp, được thể hiện bởi một nhà báo lão luyện – công trình mang phong cách báo chí. Tuy nhiên, tác giả Bên Thắng Cuộc tái hiện một giai đoạn lịch sử VN hiện đại nhưng tư liệu gốc chiếm tỷ trọng không nhiều lắm, chỉ có một số bức điện, một số báo cáo, một số biên bản, một số nghị quyết, còn chủ yếu sử dụng các hồi ký và phỏng vấn nhân chứng. Đối với những người am hiểu, còn rất nhiều sự kiện lịch sử VN cực kỳ quan trọng, song có thể vì lẽ này, lẽ khác chưa được tác giả đề cập. Vì vậy, tính đầy đủ và chính xác của nó chắc rằng còn phải thảo luận nhiều. Các Phụ lục cuối mỗi tập sách không có gì đặc biệt, chưa tương xứng với nội dung phong phú và những vấn đề rất lớn mà bộ sách đặt ra. Và, tác giả chỉ nêu các sự kiện lịch sử nhưng không phân tích, không bình luận làm cho bộ sách thiếu hẳn tính “hàn lâm” – đó không hẳn là một phương pháp tốt nhất?
Dẫu sao, Bên Thắng Cuộc thực sự là một công trình rất đáng đọc, rất đáng tìm hiểu, rất đáng suy ngẫm, với tất cả ý nghĩa đầy đủ của nó. Đọc Bên Thắng Cuộc, chúng ta càng hiểu thêm nhận xét “có một lịch sử như nó diễn ra và một lịch sử như nhà sử học viết ra”. Thử hỏi, đến nay, đã có công trình nào phản ánh đầy đủ, trung thực và hấp dẫn lịch sử VN hiện đại do các nhà sử học VN “nổi tiếng” thể hiện? Cho nên, chúng ta không đòi hỏi tác giả Bên Thắng Cuộc, song chúng ta có quyền hy vọng…







Âm nhạc của Phạm Duy làm cho người Việt gần nhau hơn
Vĩnh biệt người nhạc sĩ tài hoa đã làm cho cuộc sống của tôi (và nhiều triệu người Việt Nam) phong phú hơn. Xin có lời thành thật chia buồn cùng gia đình của Nhạc sĩ.
Nguyễn Văn Tuấn
Mới nhận được tin từ anh ĐH, phóng viên báo Thanh Niên, cho biết Nhạc sĩ Phạm Duy vừa qua đời vào lúc 14:30 tại phòng cấp cứu Bệnh viện 115. Ông thọ 93 tuổi. Thế là người nhạc sĩ thiên tài đã ra đi về cõi vĩnh hằng, tiếp theo những người bạn của ông như Văn Cao, Hữu Loan, Trịnh Công Sơn, Hoàng Cầm, v.v. Mới hôm nào mình chúc ông thọ 100 tuổi, thế mà bây giờ thì, nói theo chính lời nhạc của ông, nghìn trùng xa cách, người đã đi rồi. Dù Phạm Duy đã tắt thở, nhưng âm nhạc của ông thì chưa tắt và sẽ không tắt, và do đó, ông chưa chết. Qua âm nhạc, Phạm Duy đã đóng góp một phần tích cực trong việc làm cho người Việt xích lại gần nhau hơn.
Tên người nhạc sĩ đại tài và những lời ca của ông đã đi vào tâm trí tôi từ hồi nào chẳng hay. Nhớ cách đây trên dưới 10 năm, phóng viên Trần Nguyên (lúc đó còn làm cho tạp chí Khám Phá) trong một lần phỏng vấn, hỏi tôi thích bài nhạc hay câu nhạc nào nhất, tôi nói ngay đó là bài Tình ca của Nhạc sĩ Phạm Duy, trong đó có câu Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, Tôi yêu bác nông phu đội sương nắng bên bờ ruộng sâu, và Tôi yêu đất nước tôi, nằm phơi phới bên bờ biển xanh. Viết ra một cách tự nhiên, không cần suy nghĩ gì cả. Thế mới biết có những câu hát đã đi vào máu xương mình hồi nào mà không hay.
Viết về Phạm Duy và nhạc của ông thì chắc phải cần đến nhiều luận án và nhiều sách. Trong 40 năm qua đã có nhiều tác giả, Việt Nam và nước ngoài, viết về sự nghiệp và những dòng nhạc của ông. Trung tâm nhạc Thuý Nga đã thực hiện hẳn hai chương trình nhạc chủ đề Phạm Duy, cũng là một cách vinh danh người nhạc sĩ số 1 của Việt Nam. Ở trong nước cũng đã có hàng loạt chương trình văn nghệ giới thiệu những tác phẩm của ông. Trong tương lai, chắc chắn sẽ có nhiều chuyên gia tiếp tục khai thác kho tàng nhạc của ông và cuộc đời đầy theo vận nước nổi trôi của ông.
Riêng tôi cũng có vài kỉ niệm nhỏ với ông. Năm 1997, trong một chuyến công tác bên Mĩ, một người bạn (anh NH) rủ tôi đến thăm ông ở Midway City, nơi mà ông gọi là “Thị trấn giữa đàng”. Lúc đó ông đang soạn trường ca minh hoạ Kiều. Ông nói một cách hào hứng về tác phẩm này, và hi vọng rằng ông sẽ phổ biến ở Việt Nam. Năm 2005, ông quyết định về sống bên Việt Nam. Thực ra, ông đã có ý định về sống bên nhà rất lâu rồi, chứ không phải chờ năm 2005 mới đi đến quyết định đó. Ông vẫn cho rằng ông phải ở Việt Nam mới có cảm hứng để sáng tác nhạc Việt Nam. Mười năm sau, trong một chuyến công tác bên nhà, tình cờ nói chuyện với một anh bạn là giám đốc bệnh viện tôi mới biết Nhạc sĩ Phạm Duy đang nằm điều trị trong bệnh viện của anh! Thế là chúng tôi kéo nhau đi thăm ông. Mười năm sau mà ông vẫn còn nhớ tôi. Hôm đó, ông rất vui vẻ khi có nhiều người đến viếng thăm. Ông còn chỉ một người đến thăm nói đùa rằng bà này là người tình của tôi! Ngay hôm đó, ông cũng có một người bác sĩ cá nhân chăm sóc cho ông khi về nhà.
Với tôi, một người trưởng thành cùng những ca khúc của ông, tôi xem Phạm Duy là một thiên tài về âm nhạc. Ông sáng tác hơn 1000 bài hát, một gia tài nghệ thuật đồ sộ ít ai sánh kịp. Không chỉ số lượng, mà còn phẩm chất âm nhạc của ông đáng để người đời sau chiêm nghiệm. Không như những nhạc sĩ khác, Phạm Duy sáng tác đủ thể loại: từ tình ca, thiếu nhi ca, đạo ca, tục ca, ngục ca, Hoàng Cầm ca, Bích Khê ca, Hàn Mặc Tử ca, đến những trường khúc để đời như Con Đường Cái Quan và Kiều. Hình như chưa có một nhạc sĩ Việt Nam nào có sức sáng tác “khủng” như ông. Cũng chưa có một nhạc sĩ nào có thể chuyển hoá hàng trăm bài thơ thành những ca khúc bất hủ. Thật vậy, có những bài thơ chẳng ai biết đến nhưng đến khi qua tay của phù thuỷ âm nhạc thì trở nên nổi tiếng và để đời, như Thuyền viễn xứ và Kỉ vật cho em. Khả năng phổ thơ thành nhạc của Phạm Duy chỉ có thể nói là thần tài.
Tôi có hẳn một thư viện nhạc của ông. Có thể nói không một ngày nào tôi không nghe nhạc của Phạm Duy. Có những bài đã đi cùng tôi từ thời thiếu niên đến bây giờ, từ dân ca đến tình ca. Không thể nào kể hết những ảnh hưởng của âm nhạc Phạm Duy đến đời sống tinh thần của cá nhân tôi. Nghe tin ông qua đời tôi thấy như mình mất một điểm tựa.
Cái tài và âm nhạc của Phạm Duy còn cảm hoá cả những người không hẳn cùng chính kiến với ông. Cách đây vài năm, trong một lần nói chuyện với một giáo sư y khoa ở Hà Nội, người từng là đồng chí của ông trong thời kháng chiến nhưng không hài lòng về việc Phạm Duy “dinh tê”, vị giáo sư này đưa ra một nhận xét đơn giản: đó là một thiên tài. Vị giáo sư đó còn nói thêm rằng âm nhạc của Phạm Duy là một tài sản của văn hoá Việt Nam.
Tôi nghĩ vị giáo sư đó nói không quá đáng chút nào. Nhạc Phạm Duy đi cùng năm tháng với vận nước. Trong một lần trả lời phỏng vấn đài RFA, ông nói rằng “Tôi đưa ra một câu nói thôi: ‘Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi’ đất nước bơ vơ, nó rối bù đi thì tôi phải khóc thôi. Lúc nào mà đoàn kết thì tôi cười theo. Khóc cười theo mệnh nước. Cái xã hội mình nó rối tung lên như vậy thì làm sao mà mình …. thành thử tôi nghĩ rằng vấn đề là … Các anh yêu tôi thì nói là tôi có sự nghiệp hơi đầy đủ, hơi lớn một tí đấy, nhưng mà riêng tôi thì tôi thấy cho đến giờ phút này thì tôi hoàn toàn thất bại. Bởi vì đất nước đã thống nhất rồi mà lòng người thì không thống nhất, thành thử đại khái nếu mà tôi có chết đi thì tôi hãy còn gần như là tôi không được thỏa mãn.”
Ông rất quan tâm đến chuyện hoà hợp hoà giải dân tộc, cũng là vấn đề thời sự hiện nay. Theo ông, âm nhạc là một phương tiện để làm cho người Việt xích lại gần nhau sau thời chiến. Thế nhưng trớ trêu thay sau 1975 thì nhạc của ông bị cấm đoán, thậm chí nhiều sách nhạc còn bị đem đi đốt. Mãi đến nay, dù ông đã về quê và tham gia biểu diễn nghệ thuật trong nước, mà số tác phẩm của ông được bổ biến một cách nhỏ giọt. Có một bài mà tôi nghĩ rất đáng làm ca khúc của dân tộc, đó là bài Việt Nam – Việt Nam với những lời ca kiêu hùng nhưng cũng dễ làm xúc động lòng người:
Việt Nam Việt Nam nghe từ vào đời
Việt Nam hai câu nói trên vành môi
Việt Nam nước tôi
Việt Nam Việt Nam tên gọi là người
Việt Nam hai câu nói sau cùng khi lìa đời
Việt Nam đây miền xanh tươi
Việt Nam đem vào sông núi
Tự do công bình bác ái muôn đời
Việt Nam không đòi xương máu
Việt Nam kêu gọi thương nhau
Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu
Việt Nam trên đường tương lai,
Lửa thiêng soi toàn thế giới
Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời
Tình yêu đây là khí giới,
Tình thương đem về muôn nơi
Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người
Việt Nam Việt Nam
Việt Nam quê hương đất nước sáng ngời
Việt Nam Việt Nam muôn đời
Bất cứ người Việt có chính kiến gì hay ở chiến tuyến nào cũng có thể xích lại gần nhau hơn khi cất tiếng ca lên bài hát đó. Khi được Mặc Lâm của RFA hỏi về bài này, ông giải thích: “Anh nhớ lại từng chữ từng câu trong bài ‘Việt Nam! Việt Nam!’. Tại sao đầu đề lại hai chữ ‘Việt Nam! Việt Nam!’? Bởi vì nước Việt Nam mình bị chia làm hai, thành hai thứ ‘Việt Nam – Việt Nam’. Bây giờ chỉ có một Việt Nam thôi thì tốt hơn. Trong khi đó tôi xưng tụng một nước Việt Nam như vậy, trong đó thì ‘tình yêu đây là khí giới’ mà, hai bên vẫn còn nghi kỵ nhau, vẫn chưa bắt tay nhau. Thành thử vấn đề là lòng người chưa thống nhất mà đất nước thống nhất rồi.”
Phạm Duy cũng quan tâm đến vai trò của nghệ thuật và tôn giáo trong quá trình hoà giải dân tộc. Trong một lần trả lời phỏng vấn trên Thuý Nga Paris by Night, ông phát biểu rằng chỉ có tôn giáo và nghệ thuật mới cứu vãn dân tộc ra khỏi tình trạng bế tắc hiện nay. Nói như anh bạn tôi, Hoàng Nguyên Nhuận, rằng “Tôn giáo và nghệ thuật không cướp chính quyền lịch sử. Tôn giáo và nghệ thuật chỉ hóa giải những cuồng vọng lịch sử, tạo những nhịp cầu chuyển hoá cho hận thù thành yêu thương, ngộ nhận thành thông cảm, tác hại thành xây dựng, xa cách thành cận kề. […] Nhưng tôn giáo cũng có thể là cái thắng của lịch sử, cũng như nghệ thuật vẫn có thể là yếu tố thức tỉnh những mê mờ cuồng vọng của ý thức hệ bất cứ màu sắc nào. Phải chăng với ý nghĩa đó mà Phạm Duy đã nghĩ rằng tôn giáo và nghệ thuật phải giữ vai trò tích cực trong việc tái dựng quê hương đổ nát cùng quẩn?” Phạm Duy đã đóng góp một phần cho nghệ thuật qua âm nhạc của ông, và đó cũng là một cách làm cho người Việt Nam gần nhau hơn.
Vĩnh biệt người nhạc sĩ tài hoa đã làm cho cuộc sống của tôi (và nhiều triệu người Việt Nam) phong phú hơn. Xin có lời thành thật chia buồn cùng gia đình của Nhạc sĩ.
N.V.T
Nhạc sĩ Phạm Duy thời tham gia kháng chiến
Nhạc sĩ Phạm Duy và Nhà thơ Hữu Loan (Phạm Duy phổ bài thơ Màu tím hoa sim thành bài nhạc Áo anh sứt chỉ đường tà bất hủ)
Nhạc sĩ Phạm Duy và Nhà thơ Hoàng Cầm
Nhạc sĩ Phạm Duy trên giường bệnh những ngày cuối đời (nguồn: phamhongphuoc.net)







“Chúng ta” cứ nhăn răng cười hoài
Đào Tuấn
30% công chức “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về”- Con số 30% vô tích sự, lần này, là lời khẳng định của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc. “Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”- ông nói. Với 2,8 triệu công chức đang hưởng lương, thì 30% vô tích sự sẽ cho ra một con số cực lớn những người nhăn nhở lĩnh lương trên tấm lưng còm đồng bào.
Với phát biểu của Phó Thủ tướng, căn bệnh “nhăn nhở hưởng lương”, hóa gia, ở tầm cỡ quốc gia chứ không chỉ còn là “chuyện nhỏ” ở một địa phương, như Đồng Tháp nữa. Nhắc lại, báo Tuổi trẻ có lần dẫn lời Chủ tịch tỉnh Đồng Tháp nói đến con số 30% “có mặt chỉ để lãnh lương”. Chưa tính đến “30% chỉ cầm chừng” khác.
Về bản chất, câu chuyện 30% đang chứng tỏ hiện thực là những người dân đang đóng thuế để nuôi báo cô những người không làm gì cả.
Đây rõ ràng là một sự lãng phí, bất công, và nhẫn tâm. Nhẫn tâm với sự nhẫn nại đến kinh ngạc của người dân, đôi khi chỉ mong nhận một nụ cười mỗi độ bất đắc dĩ phải đến cửa quan. Lãng phí với đồng lương còm chưa bao giờ “đủ sống” mà những đồng nghiệp của họ tháng tháng vẫn phải nhận để đối phó với lạm phát mà chỉ riêng tháng này đã lên tới 1,25%. Và bất công đối với những đồng nghiệp trẻ. Những người, nói như Giám đốc Sở Nội vụ TP HCM Đặng Công Luận “làm việc hết sức hiệu quả, bằng nhiều lần các chuyên viên chính, nhưng chế độ của họ lại rất thấp, trong khi đó những chuyên viên chính chả làm được bao nhiêu nhưng lại vẫn hưởng chế độ cao, đã thế lại giữ khư khư cái chức (dân gian gọi là cái ghế) làm cho lớp trẻ không phát triển được”.
Nhưng con số 30% “công chức cắp ô”, nhưng sự lãng phí, còn có một hàm nghĩa khác. Nói như cựu Phó Chủ tịch Thường trực UBND TP Nguyễn Thành Tài : Tôi thấy chúng ta nghèo nhưng sử dụng nhân lực rất sang. Điển hình trong lĩnh vực khoa học công nghệ, tôi nghe 70% cán bộ có trình độ sau ĐH làm công tác quản lý cũng băn khoăn. Họ đã được đào tạo chuyên môn sâu nhưng không làm nghiên cứu khoa học mà đi làm quản lý thì vài năm kiến thức rơi rụng, quá lãng phí.
Giám đốc Sở Đặng Công Luận phát biểu: Ở các nước bộ máy họ rất tinh gọn, họ quản lý nguyên cả nhà ga xe điện mà thấy có vài người. Còn riêng hầm Thủ Thiêm chúng ta có một đoạn mà tốn gần cả trăm biên chế.
Cựu Phó Chủ tịch Nguyễn Thành Tài: Chúng ta phê phán thái độ của công chức đối với dân vô cảm rồi đặt camera quan sát. Nhưng đó chỉ là vấn đề cảm xúc thôi. Có camera thì công chức tiếp dân sẽ cười tươi với dân nhưng cười hoài mà nhu cầu của dân không giải quyết được thì cũng vô nghĩa.
Còn Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng chế độ công chức của chúng ta hiện nay vẫn nặng tính bao cấp. Ông khẳng định nếu chúng ta không đổi mới chế độ công vụ, công chức thì sẽ thất bại trước nền kinh tế thị trường.
Tất cả đều có một điểm chung. Đó là chủ thể trách nhiệm, cũng là bắt đầu, bằng hai chữ “Chúng ta”.
Hôm qua, lại thêm một vụ lùm xùm quanh chuyện vị Hiệu trưởng trường Cao đẳng Y, một quan chức thuộc về phạm trù “chúng ta”. Ông này bị tố tuyển con dâu vào cơ quan theo “ngạch phục vụ”, nhưng sau đó chị này chĩnh chện ngồi ghế “kế toán trưởng”.
Thưa “chúng ta”, ở đây, có một câu hỏi chưa ai giả nhời: Sao “Chúng ta” không thẳng tay “tinh giản” 30% công chức “cắp ô” này đi, “cho nước nó trong”.
Hình như bởi 30% đó cũng là “Chúng ta” cả.
Có mỗi một điều khẳng định không phải hình như hình nhiếc gì cả: “Chúng ta”, không phải là nhân dân, những người hàng ngày, đều như vắt chanh, đóng thuế để nuôi “chúng ta”.







Dinh- lắc Xin- vắt chị là ai?

Người bạn nghịch ngợm thời niên thiếu của mình hôm qua bảo: Mày về tra Google xem Dinh-lắc Xin-vắt cho ra những kết quả nào nhé.
Mình về gõ y chang như thế vào cái cửa sổ của trang Google, enter một cái thật to, thì rất bất ngờ: những kết quả đều chỉ ra rằng đây là tên gọi của những tờ báo “nhớn” của nước ta, gọi tên đương kim Thủ tướng Thái Lan Yingluck Shinawatra.
Ôi, tên gọi của vị nữ Thủ tướng xinh đẹp kiều diễm của Thái Lan, người mà mình rất ngưỡng mộ cả về tài năng và nhan sắc, lại bị biến thành những âm thanh ngô nghê và khô khốc như thế sao?
Có lẽ mấy tay nhà báo xứ ta tinh nghịch thế nào đó, chứ làm sao lại gọi là Xin-vắt? Xin vắt là xin vắt cái gì, vắt cam, vắt chanh hay là vắt … sữa?
Nhưng cũng không loại trừ, đây là cách phiên âm tiếng nước ngoài của một số tờ báo nhớn, vì mình thấy một số tờ chuyên phiên âm theo kiểu như thế.

Rõ ràng, cách phiên âm như thế là chỉ có ở Việt Nam, vừa hiện đại lại vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Nó hết sức đặc biệt, và cũng cực kỳ ấn tượng. Duy chỉ có điều khi đọc theo cách phiên âm này, cần phải cẩn thận vì nếu không may gặp phải làn gió độc, lơ mơ là bị méo miệng suốt đời.
Kể lại kết quả tra Google cho anh bạn, hắn cười khè khè rồi bảo: Ấy là ông còn chưa biết, bên Ru-ma-ni toàn cu không à, có một đồng chí tên là Xê-ra-tau-xét-cu nữa.
Nghe mà kinh! Nhưng mình vẫn mơ được sang thăm cái xứ sở Ru-ma-ni này, để được diện kiến đồng chí Xê-ra-tau-xét-cu một lần xem sao.







Người đẹp đêm giao thừa
Năm 1982 quân chủng phòng không điều mình từ Quảng Ninh về Đà Nẵng làm trợ lý kĩ thuật trung đoàn 275 đóng quân ở Phước Tường. Để lấy lòng anh em trong Ban kĩ thuật mình hay kể chuyện tán gái, ba hoa khoác lác mình tán gái như thần. Anh Phúc đồng hương với mình, nói mi có giỏi tán con Huế thử coi. Mình hỏi Huế mô? Anh nói con Huế y tá ở trạm xá sư đoàn, con ni xinh hết chê. Cả sư đoàn bó tay rồi đó, mi tán được tao mới tin chuyện mi kể.
Mình tót đi ngay, lấy cớ đi thăm mấy ông lính trung đoàn bộ đang điều trị ở đó. Đi một vòng ba dãy nhà trạm xá không thấy. Đang lơ ngơ nhìn hết phòng nọ phòng kia chợt thấy một cô gái bưng cái rá đầy khế đi tới, đoán ngay đó là Huế, công nhận xinh, không phải xinh hết chê như anh Phúc nói nhưng cũng rất xinh. Mình vờ như không thấy, đụng ngay vào Huế làm cái rá văng ra. Cô gái kêu lên, nói ui, đổ hết khế của người ta rồi. Mình rối rít xin lỗi, vội vàng nhặt khế rơi cho Huế.
Huế nhìn mình lom lom, nói nghe giang hồ đồn đại có ông trung úy đẹp trai vừa về Hai bảy lăm, có phải anh không? Biết cô ta muốn hỏi thằng Quân đẹp trai có số ở trung đoàn bộ nhưng mình phớt lờ, tay vuốt tóc miệng cười cười, nói vì khiêm tốn anh không trả lời. Cô cười ré, nói tự tin gớm bay và bỏ chạy. Mình chạy theo chặn lại, nói bài một rứa đã xong chưa để anh sang bài hai? Huế ngơ ra một lúc mới hiểu, cô lại cười ré, nói rứa mà bài một a? Lại bỏ chạy, cái mông tròn loảy ngoảy trông rất thích.
Mình biết Huế thuộc loại khó tán, con gái xinh đẹp thông minh gặp trai không làm bộ kiêu kì, trái lại thân thiện vồn vã ngay từ đầu, loại đó rất khó tán. Muốn tán được phải mất nhiều thời gian, không thể ăn ngay được. Về đơn vị mình làm bộ bỉu môi với anh Phúc, nói xời, tưởng thế nào, rứa mà xinh hết chê, tán tỉnh làm chi mất thời giờ. Anh Phúc xoa đầu mình, nói thôi đi chú em, không kham nổi thì nói cha cho rồi. Mình tức, vênh mặt lên, nói được rồi, nếu anh thích thì xong ngay.
Vừa lúc có lệnh lên đội văn nghệ sư đoàn tập tành chuẩn bị đi hội diễn Quân chủng, mình có cơ hội gần trạm xá sư đoàn. Mình mượn cái xe đạp Diamond của thằng Nghị, nói mày cho tao mượn một tháng, xong “chiến dịch” tao trả mày. Thằng Nghị ok liền, nói mày tán được con Huế tao tặng mày luôn cái xe. Anh Phúc ném cho mình cái áo bay Liên Xô, mốt số dách thời này, nói tao cũng rứa, mi tán được con Huế tao cho mi luôn cái áo.
Tối đó mình mặc cái áo bay của anh Phúc mò tới trạm xá thử màn “ khai đao” xem thế nào. Vừa ngồi xuống ghế chưa kịp uống chén nước, Huế đã tủm tỉm nhìn mình, nói anh mặc cái áo anh Phúc vừa hè. Mình giật mình đánh thót mặt mày tái dại, nói sao em biết. Huế lật cổ áo, nói anh phúc nhờ em thêu chữ Phúc đây này. Mình cố giữ cái mặt trơ, nói ừ, anh Phúc kẹt tiền bán lại cho anh. Huế tủm tỉm không nói gì, rõ là cô ta không tin, xong om màn “ khai đao”.
Sáng sau thấy Huế xách giỏ đi bộ ra cổng sư bộ, mình xách xe thằng Nghị vọt theo, nói Huế đi đâu anh chở đi. Huế lắc đầu nói không, em chỉ ra đầu chợ Phước Tường. Cô nhìn cái xe rồi ngước lên nhìn mình, nói anh Nghị quí anh gớm hè. Mình hỏi sao. Huế làm bộ thật thà, nói anh Nghị cho anh mượn xe chứ em mượn mãi anh Nghị có cho mô. Mình lại cố giữ cái mặt trơ gật gù, nói tại thằng Nghị nó nhờ anh làm mối em cho nó. Huế cười phì, nói em tưởng anh nhờ xe ni làm mối em cho anh chớ. Mình biết đã phơi bụng lấm lưng rồi bèn nhăn răng cười chắp tay vái vái, nói anh tính tán em nhưng thua rồi, anh xin đầu hàng vô điều kiện. Huế tròn xoe mắt nhìn mình, nói ôi rứa a, tiếc hè. Chừng như không nhịn được cô ôm bụng cười hi hi hi, nói ôi ôi em muốn chết mất thôi.
Mình quay về đơn vị, hầm hầm ném áo, xe cho anh Phúc thằng Nghị, nói mẹ, các ông chơi đểu. Anh Phúc thằng Nghị cười lăn lóc, mình càng chửi hai lão càng cười, nói tiền ít muốn hít l. thơm đáng kiếp mi chưa. Từ đó mình cạch không bén mảng đến trạm xá sư đoàn nữa, Huế héo cũng quên luôn.
Cuối năm, còn mấy ngày nữa là tết, Trung đoàn tổ chức một đoàn hơn chục sĩ quan lên thùng xe tải đi xuống các tiểu đoàn kiểm tra sẵn sàng chiến đấu. Mình đứng cuối thùng xe tải cùng với anh Cường thượng uý. Xe lên dốc cầu Nguyễn Văn Trỗi thì chết máy. Mình và các sĩ quan trẻ dóng mỏ xuống trêu mấy em xinh đẹp đi qua đi lại. Xe nổ máy được, thằng lái xe vào số gấp giật mạnh một cái, mình và anh Cường rơi xuống, đập đầu đường nhựa, ngất xỉu cả hai. Anh Cường nhẹ hơn chỉ rách da đầu, trật khớp khuỷu tay, mình vừa rạn hộp sọ vừa rạn xương bả vai phải nằm yên một chỗ, ăn có người đút ỉa có người chùi rất khổ.
Mình được đưa vào viện quân y 107, nằm phòng cấp cứu ba ngày mới chuyển ra phòng điều trị. Ngủ một giấc cho tới trưa, mở mắt bỗng thấy Huế đứng cạnh. Mình hơi ngạc nhiên, nói sao em biết anh nằm đây? Cô nói không, em trực phòng này mà. Em chuyển về đây nửa năm rồi. Hi hi đúng là duyên kì ngộ.
Phòng bệnh có bảy thương bệnh binh nặng, phải nằm liệt giường. Việc của Huế là cho uống thuốc, tiêm và bón cơm cho cả phòng. Đến bữa ăn Huế chạy vòng cả bảy người, đút cho người này một thìa lại chạy sang đút cho người khác một thìa, rất mệt. Huế dỗ ăn như dỗ con nít, nói ăn nì ăn nì.. một miếng nữa thôi… một miếng nữa… giỏi giỏi. Mặt mày tươi rói cô tay vỗ miệng nói ăn đi ăn đi… ngoan ngoan giỏi giỏi.
Anh em trong phòng ai nấy miệng mồm đắng ngắt chả buồn ăn nhưng thương Huế ai cũng ăn cho bằng hết. Hễ ai ăn xong trước Huế vỗ tay reo to, nói hoan hô hoan hô, anh của em giỏi lắm. Bây giờ mỗi lần nhớ lại cứ ứa nước mắt. Chỉ có viện quân y mới có những y tá như Huế chứ bệnh viện dân sự thì còn lâu.
Tết đến khi nào chẳng biết, thân nằm liệt giường còn mong gì tết nhất. Các bác sĩ, y tá thăm khám bệnh cũng không ai nói năng gì về tết, họ sợ bệnh binh buồn, sợ luôn cho chính họ. Chẳng ai sung sướng gì khi phải bám trụ bệnh viện ba ngày tết. Huế chắc cũng vậy, vẫn nói cười líu lo suốt ngày nhưng mình biết Huế rất buồn, đôi mắt tròn xoe của Huế lóng lánh nước mắt
Chiều ba mươi tết, khi Huế bón cho mình ăn, mình nhìn thấy trong mắt cô có một giọt nước mắt sắp rơi ra. Mình nói em nhiều năm không về quê ăn tết à. Huế lắc đầu nói mô có, chỉ năm nay là không được về. Năm nay tự nhiên thương bệnh binh ùn ùn kéo về, cả bệnh viện không ai được về ăn tết. Mình cười trêu Huế, nói mới một cái tết xa nhà đã khóc, lêu lêu. Huế cười buồn, nói anh không biết mô. Mình hỏi chuyện gì cô lắc đầu, nói anh ăn đi đã rồi em kể. Mình nói kể đi đã anh mới ăn. Huế khẽ thở dài, nói cả sư đoàn ai cũng bảo em kiêu, không phải mô, tại em có người yêu rồi. Huế dừng lại nhìn ra cửa sổ hồi lâu, nói hai nhà đã định tết này làm lễ ăn hỏi, không ngờ em phải ở lại.
Huế định nói thêm nhưng nghẹn lại suýt khóc, cô ngẩng phắt lên, nói thôi thôi. Cô vội bón cơm cho mình, nói … măm măm.. mau mau… giỏi giỏi, lại chạy sang người bón cơm cho người khác, nói măm măm… mau mau… giỏi giỏi, đôi mắt sáng trưng nụ cười tươi rói. Mình quá tiếc đã không gặp Huế sớm hơn.
Nửa đêm Huế bưng suất ăn giao thừa cười từ ngoài cửa ngoài cười vào, nói trời ơi ngủ cả rồi à, mau dậy ăn giao thừa. Mọi người tỉnh ngủ xuýt xoa khen bệnh viện tổ chức ăn giao thừa cho thương bệnh binh, thật quá chu đáo. Anh chàng bị sắn độc cắn, cái chân phù to như cột đình, nằm cạnh giường mình đột nhiên đề xuất, nói bữa ăn giao thừa phải đặc biệt tí chút. Huế hát cho bọn anh nghe mấy bài rồi tụi anh tự ăn, không cần em bón. Huế cười tươi, nói thật không. Mọi người nhao nhao, nói thật thật, Huế hát đi. Huế hát, thật không ngờ cô hát thật hay. Mọi người khen ngợi rần rần, nói hát nữa Huế ơi!- Múa nữa Huế ơi!-Đúng rồi đúng rồi, vừa múa vừa hát Huế ơi!
Huế hát bài Cô gái Sầm Nưa, vừa hát vừa múa lăm vông lượn quanh bảy anh em trong phòng như nàng Bạch Tuyết lượn quanh bảy chú lùn. Bỗng pháo giao thừa nổ, Huế khựng lại, đứng ngẩn ngơ nhìn ra cửa, nói giao thừa rồi, giao thừa rồi các anh ơi. Huế bỗng trào nước mắt, cô ngồi sụp xuống khóc nấc lên. Không ai hiểu vì sao, chỉ có mình là hiểu.
Ngoài kia tiếng pháo vang vang khắp nơi mọi chốn, râm ran kéo dài không dứt.







January 26, 2013
Tên anh còn mãi với Hoàng Sa
Đặng Nam
Hình ảnh ông Đặng Công Ngữ – chủ tịch UBND huyện đảo Hoàng Sa – cúi đầu chào quan khách, đặc biệt cúi đầu chào trước bảy “nhân chứng Hoàng Sa”, tại cuộc triển lãm giới thiệu “Các tư liệu liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa” vào ngày chủ nhật rồi tại Bảo tàng Đà Nẵng đã khiến nhiều người chứng kiến xúc động.
Bức ảnh ngay sau đó được lan truyền trên Facebook và gây ấn tượng mạnh trong cộng đồng mạng. Hơn 50 trang Facebook cá nhân đã xin được chia sẻ lại tấm hình ấy và rất nhiều comment trong số ấy đã để lại với ý ngợi khen ông chủ tịch UBND huyện đảo bởi hành động rất văn hóa: Cúi đầu.
Với tôi, đó là một thời khắc hết sức ý nghĩa khi mà cái cúi đầu của một vị quan chức Đà Nẵng diễn ra đúng sau một ngày của kỷ niệm đau buồn 39 năm về trước – Hoàng Sa bị Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm rồi đồn trú trái phép từ đó đến nay.
Đây không phải là lần đầu tiên ông chủ tịch huyện Hoàng Sa Đặng Công Ngữ tổ chức tiếp xúc, gặp gỡ các nhân chứng mà theo lời ông nói: “Vào ngày này của 39 năm về trước, họ đã có mặt trên đảo, đã chứng kiến và đã giáp mặt với kẻ thù. Và chính họ chứ không ai khác đã đau đớn khi thấy Hoàng Sa bị mất về tay Trung Quốc”. Rất nhiều lần trước đó, UBND huyện Hoàng Sa đã mời các nhân chứng đến gặp gỡ, nói chuyện cũng như đề nghị họ kể lại những câu chuyện mà họ đã sống và trải nghiệm trên đảo. Nhưng cái cúi đầu lần này của ông Ngữ khi phía trước ông là hàng trăm ống kính báo đài cùng hàng nghìn ánh mắt đã khiến cộng đồng mạng “like” mạnh.
Trên trang mạng xã hội Facebook có rất nhiều ý kiến bình luận về bức ảnh. Có comment cho rằng: đó là cái cúi đầu tri ân các nhân chứng sống – những người đã không ngại đổ máu để cố giành lại đảo nhưng bất lực. Còn với cá nhân tôi, cái cúi đầu của ông Ngữ là cái cúi đầu trước những vong linh đã ngã xuống vì Hoàng Sa của 39 năm về trước.
Trong số bảy nhân chứng có mặt hôm khai trương triển lãm có ông Nguyễn Văn Cúc (hiện sống ở Sơn Trà, TP Đà Nẵng). Là người đã ba lần ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ và lần cuối cùng, chính mắt ông Cúc đã chứng kiến toàn bộ quần đảo Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc… Kết cục, ông cùng đồng đội bị bắt, dẫn giải qua tận Hong Kong…, mãi hơn một tháng sau mới được trao trả. Ông Cúc tâm sự đã thấy ấm lòng thật sự trước cái cúi đầu của ông chủ tịch UBND huyện Hoàng Sa.
Chỉ là một khoảnh khắc chưa đến năm giây ngay sau bài phát biểu được cho là hùng hồn nhất về Hoàng Sa của ông Đặng Công Ngữ từ trước đến nay, nhưng ông Ngữ đã để lại một ấn tượng phải nói là rất đẹp trong lòng những ai có mặt hôm đó. Và tôi cũng tin rằng với những ai ở vị trí của ông Ngữ vào hôm ấy sẽ có một hành động như vậy. Một hành động đúng mực để tưởng nhớ về những người từng “Lao thẳng vào tàu giặc cướp/Tên anh còn mãi với Hoàng Sa” (thơ Trần Mạnh Hảo).







Chống tham nhũng là đồng minh của dân chủ
Hà Đình Sơn
Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi (Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005).
Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).
Chế độ độc tài là một thể chế nhà nước chuyên quyền mà ở đó nhà nước được cai trị bởi một cá nhân: kẻ độc tài (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).
Xã hội Việt Nam thiếu dân chủ; dân chủ là mục tiêu, là nhu cầu sống còn của đất nước hiện nay. Nhưng kẻ thù của dân chủ lại chính là chế độ độc tài. Phương pháp đấu tranh loại bỏ chế độ độc tài được nhân loại văn minh ngày nay lựa chọn là đấu tranh bất bạo động.
Chế độ độc tài đẻ ra tham nhũng. Tham nhũng chính là “lý tưởng” thật của chế độ độc tài. Tham nhũng là chất keo gắn kết của chế độ độc tài. Ngược lại không có chế độ độc tài thì không thể tham nhũng tràn lan, nhưng tham nhũng lại làm xói mòn và dẫn đến hủy diệt chế độ độc tài. Đây chính lý do giải thích một mâu thuẫn là tại sao chế độ độc tài cũng kêu gọi chống tham nhũng, nhưng chỉ chống nửa vời vì không còn tham nhũng thì cũng không còn chế độ độc tài. Tham nhũng và chế độ độc tài là hai mặt của “sinh vật ký sinh” trong xã hội. Nên thường một người mới lên làm lãnh đạo thì đều tuyên bố sẽ tuyên chiến với tham nhũng, nhưng trong đó chỉ có 20% là thật tâm còn đến 80% là giả dối. Do tách rời lợi ích của số ít với lợi ích của toàn dân, lợi ích của đất nước nên dẫn đến: chống ngoại xâm thì lo mất bạn; chống tham nhũng thì sợ thù oán. Trong cuộc chiến chống tham nhũng sẽ phân định ai là vì thể chế độc tài ai là vì lợi ích nhân dân.
Người chống tham nhũng thật sự là người dám tin vào nhân dân, dựa vào nhân dân, minh bạch hoạt động nhà nước và lấy đó là nguồn lực chính để chống tham vì mục tiêu dân chủ hóa đất nước. Chống tham nhũng mà không dựa vào nhân dân là không thể và chỉ là dối trá; hậu quả nguy hiểm là thất bại: hoặc thỏa hiệp, trở thành đồng bọn với tham nhũng hoặc ngả làm tay sai bán nước để duy trì lợi ích.
Trong một chế độ độc tài không thể nào sinh ra một con người có quá khứ hoàn toàn trong sạch, không có chút tham nhũng. Hãy xếp lại quá khứ của mọi cá nhân để vì cuộc đấu tranh hiện tại và vì tương lai, xem tất cả những cá nhân, tổ chức chống tham nhũng đều là đồng minh của dân chủ, nhân dân phải ủng hộ họ. Ai chống tham nhũng mà dựa vào nhân dân, dám minh bạch là người chống tham nhũng thực sự và là người của nhân dân, của đất nước. Xã hội không nên chỉ đặt niềm tin và trông chờ ở một cá nhân mà thay bằng việc ủng hộ, sát cánh và giám sát những hành động của họ. Độc lập dân tộc, tự do dân chủ không thể van xin mà có, mà phải đấu tranh giành giữ.
Hà Nội, ngày 26/01/2013
H. Đ. S.







Cứ cái kiểu này rồi không tâm thần cũng hóa thành tâm thần hết.

Lê Anh Hùng (người vung nắm đấm) trong đoàn biểu tình
Hai hôm nay, công luận xôn xao lên chuyện Lê Anh Hùng bị cưỡng bức vào trại tâm thần. Gọi là trại tâm thần cho dễ hiểu và cho đúng trường hợp của Lê Anh Hùng, chứ thực ra nó có tên là có cái tên mỹ miều là “Trung tâm bảo trợ xã hội II” thuộc Sở Lao động-Thương binh & xã hội Hà Nội tại Ứng Hòa.
Nghe cái tên chính thức sao mà nhân đạo vậy. Ấy vậy mà người được “bảo trợ” lại kinh hoàng. Bạn bè của người được “bảo trợ” cũng kinh hoàng luôn.
Việc đưa một người tâm thần vào trại, về danh nghĩa là nhân đạo. Nhưng trong trường hợp Lê Anh Hùng thì lại là phi nhân đạo. Nó có những điều bất thường mà ai cũng dễ nhận ra.

Blogger Lê Dũng viết trên blog Bùi Thị Minh Hằng:
Hà hà, nghe có vẻ rối rắm nhưng lại rất lộ liễu. Công an vào doanh nghiệp đòi gặp anh Hùng/đưa đi đâu đó/đưa vào TT bảo trợ xh tận Ứng Hoà/có ngay quyết định của phòng lao động thương binh xh quận Thanh xuân/có đơn của bà mẹ tám chục tuổi (ký vào trưa hôm nay, sau khi anh Hùng được đưa vào TT hơn nửa ngày )xe biển xanh của công an có mặt tại TT để “đề nghị” mẹ anh Hùng ký vào đơn được đưa con mình vào nhờ TT khám bệnh, chăm sóc/há há, đệch mịa cái vở kịch xứ mình nó dàn dựng sao thô thiển thế? vậy có ai tin nổi không thưa mấy bố luật sư, nhà báo, trí thức trí ngủ?
Ngưng trích.
Đủ thấy cái sự “nhân đạo” này nó rất chi là bất thường.
Giá như đơn thư của dân mà được giải quyết nhanh nhẹn rốt ráo như thế thì làm gì có cảnh dân oan suốt ngày diễu trên đường phố Hà Nội gõ cửa các cơ quan Nhà nước, ăn chực nằm chờ ở vườn hoa. Làm gì có chuyện đi kiện 10, 20 năm mà vẫn cứ phải theo đuổi, bất chấp hiểm nguy như bị đánh, bắt nhốt vào trại thậm chí bị tù đày.
Vậy Lê Anh Hùng là ai?
Là người đã 70 lần viết đơn tố cáo mấy vị to nhất nước tới các cơ quan tất nhiên là cũng to nhất, gửi đơn trực tiếp cho ông Dương Trung Quốc, đại biểu quốc hội về những việc tày đình.
Tôi đọc chỉ biết vậy vì vụ này nó kinh quá. Nhưng từ mấy hôm nay thì số người biết tới vụ này đã nhảy vọt thành con số khổng lồ. Rõ dại. Mà chưa chắc đã là dại, vì chuyện vô lý quá thì người ta hay giải thích bằng những mưu đồ. Mưu đồ trong chuyện này là gì người ta đoán theo hai hướng, một là nhằm vô hiệu hóa đơn tố cáo của Hùng, hai là cho Hùng chẳng qua chỉ là nạn nhân, là ruồi muỗi khi trâu bò húc nhau mà thôi. Ấy là tôi đọc trên mạng, thấy thiên hạ bàn tán như thế.
Chẳng ai tin là Lê Anh Hùng bị tâm thần vì cái sự ban cho anh được vào “trung tâm bảo trợ” do lòng “nhân đạo” nó lạ quá. Lạ hơn cả vụ 2 bao cao su ở khách sạn Mạch Lâm ngày nào. Việc lừa hoặc dọa một bà già để ký vào cái giấy xin vào trại đã làm sẵn không có gì khó.
Đến trại tâm thần tìm hiểu tình hình, Lã Việt Dũng kể:
Hôm qua vào Trung tâm bảo trợ xã hội hỏi về việc của Lê Anh Hùng, giám đốc trung tâm bảo đưa anh Hùng vào đây theo yêu cầu của mẹ anh ấy và của phòng LĐ-TBXH quận Thanh Xuân. Mình hỏi:
- Thế lúc vào đây anh ấy có biểu hiện tâm thần gì không? Có gây nguy hại gì cho xã hội không?
- Không, anh ấy bình thường
- Trước khi nhận anh ấy vào, các anh có giám định gì không?
- Không, chúng tôi chỉ làm theo đơn và theo yêu cầu của trên
- Một người bình thường, đang có công ăn việc làm ổn định thì bị bà mẹ 70 tuổi lôi đi đưa vào trại, vậy bà ấy tâm thần hay anh Hùng tâm thần? Các anh đã giám định bà ấy chưa?
- Không, chúng tôi chỉ làm theo yêu cầu của gia đình và của cấp trên!!!
Hôm nay hỏi ra mới biết, họ bắt anh ấy trong lúc làm việc đưa vào trại giam trước một ngày, hôm sau họ đánh một chuyến xe toàn an ninh đưa bà ấy vào thăm, rồi ép bà làm đơn xác nhận.
Ngưng trích.
Lê Anh Hùng tham gia đều đặn 4 cuộc biểu tình chống thằng “bạn vàng” trong năm vừa rồi. Lần nào tôi và Hùng cũng gặp gỡ, nói chuyện với nhau. Hùng ít nói, nhỏ nhẹ và khúc chiết, đặc biệt là thái độ khiêm tốn, không có gì tỏ ra mình “nguy hiểm” như ta thường thấy ở một vài người mới làm được vài việc con con, không luyên thuyên như những kẻ tâm thần. Hùng tham gia đá bóng hàng tuần trong đội NO-U FC. Tiếp xúc với Hùng, ai cũng quí tính cách của anh.
Hùng viết khá sắc sảo. Anh còn là dịch giả của một số cuốn sách về kinh tế thương mại. Tôi đọc bài của Hùng, nhận thức thêm được nhiều từ kiến thức chính trị, kinh tế của anh. Tôi rất nể khả năng tư duy của Hùng.
Nhưng một vài trang mạng chỉ đăng những bài bàn luận của anh chứ những lá đơn tố cáo kia tuyệt nhiên không ai dám động tới. Có lần gặp Hùng trong khi biểu tình, Hùng bảo những lá đơn tố cáo của cháu là thật và cháu chịu trách nhiệm cá nhân. Thế mà cháu gửi chỗ nọ chỗ kia không thấy ai đăng cả. Sao mọi người không nêu lên cho công luận biết. Tôi bảo: “Đơn tố cáo của cậu kinh bỏ mẹ, họ không dám đăng là phải. Tớ cũng hãi (khi nói thế, tôi đã thú nhận là mình cũng hèn).
Nhưng mấy hôm nay, chẳng cần trang nào đăng mà người ta nô nức tìm các bài viết của Hùng mà đọc, há mồm, tròn mắt kinh ngạc. Nhưng họ không nghi ngờ. Điều này có vẻ đang diễn ra theo đúng kịch bản theo hướng đoán thứ hai.
Cứ như những gì biết khi tiếp xúc với Hùng, đọc những gì Hùng viết, tôi phải khẳng định, nếu Lê Anh Hùng bị tâm thần thì tôi còn tâm thần nặng hơn. Tôi nghĩ thế và lo lắng: việc mình bị cưỡng bức vào trại tâm thần không phải là điều không thể. Có điều là đe dọa, ép buộc vợ tôi ký đơn xin cho tôi vào trại tâm thần cũng là điều không thể. Tuy nhiên, đơn của người nhà đâu phải là điều kiện tiên quyết để đưa một người nào đó vào trại tâm thần, nếu họ muốn. Cứ cái kiểu này rồi không tâm thần cũng hóa thành tâm thần hết. Kể cả ai thần kinh vững cũng chỉ cần thêm liều thuốc tiêm.







Ngôn ngữ nghị trường – chuyện nhỏ mà không nhỏ
Trịnh Hữu Long
Chuyện xưng hô trong các cuộc tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội cũng như ngôn ngữ tại nghị trường chứa đựng nhiều sự nhầm lẫn về tư cách và địa vị của những người tham gia.
Từ cách gọi “đồng chí”
“Đồng chí” là một danh từ phổ biến trong sinh hoạt nghị trường ở Việt Nam và gần như trở thành từ xưng hộ cửa miệng trong các giao tiếp công việc.
Đơn cử, ngày 12-11-2012, Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng phát biểu trong kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII: “Về sửa Nghị định 84 như chúng tôi đã báo cáo, Thủ tướng Chính phủ mà trực tiếp là hai đồng chí Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải và Vũ Văn Ninh vào cuộc họp tháng 7 vừa qua đã nghe Bộ Tài chính và Bộ Công thương, Bộ Khoa học và Công nghệ báo cáo việc thực hiện Nghị định 84. Qua nghe tình hình báo cáo hai đồng chí Phó Thủ tướng đã có kết luận”.
Hoặc phát biểu ngày 15-11 của đại biểu Bế Xuân Trường (tỉnh Bắc Kạn): “… Đảng lãnh đạo quân đội trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt, đồng chí Tổng bí thư là Bí thư Quân ủy Trung ương, điều này đã được ghi trong Điều lệ Đảng. Còn đồng chí Chủ tịch nước trên cơ sở lãnh đạo tập thể, phát huy vai trò của cá nhân, chịu trách nhiệm trước tập thể về nhiệm vụ này, như vậy nội hàm của Chủ tịch nước với lực lượng vũ trang là gì?”.
Theo bản gỡ băng thảo luận tại hội trường Quốc hội sáng 12-11 được Văn phòng Quốc hội công bố, có 41 lần từ “đồng chí” được các đại biểu cũng như quan chức Chính phủ sử dụng. Thậm chí tại phiên làm việc của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội sáng 24-4, từ này cũng được sử dụng đến 154 lần.
Vậy từ “đồng chí” có từ bao giờ và ý nghĩa của nó ra sao? Trong tiếng Anh, “đồng chí” là comrade, về ngữ nghĩa có thể hiểu là người bạn, đồng nghiệp hoặc đồng minh. Theo từ điển Wikipedia, những từ có ý nghĩa tương tự được những người theo phong trào xã hội chủ nghĩa ở châu Âu sử dụng từ giữa thế kỷ XIX nhằm thay thế cho các từ truyền thống thời đó như Mister (quý ông), Miss (quý cô), Missus (quý bà) trong cách xưng hô. Lần đầu tiên từ comrade xuất hiện trong tiếng Anh với nghĩa tương tự là trên tạp chí Justice (Công lý), xuất bản năm 1884.
Từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 2006 của Viện Ngôn ngữ học định nghĩa “đồng chí” là “người cùng chí hướng chính trị, trong quan hệ với nhau”, “từ dùng trong Đảng Cộng sản để gọi đảng viên”, “từ dùng trong xưng hô để gọi một người với tư cách là đảng viên cộng sản, đoàn viên một đoàn thể cách mạng hoặc công dân một nước xã hội chủ nghĩa”. Đây cũng là cách hiểu và cách sử dụng phổ biến của từ này trên thế giới.
Với ý nghĩa như vậy, việc sử dụng từ “đồng chí” ở diễn đàn Quốc hội là không hợp lý. Chỉ cần nhìn vào tỉ lệ biểu quyết các dự án luật ở Quốc hội là biết họ không “cùng chí hướng” với nhau, khi luôn có một tỉ lệ từ vài phần trăm đến vài chục phần trăm số đại biểu có ý kiến khác với phần còn lại. Có những vấn đề gây tranh cãi tại Quốc hội như dự án bauxite Tây Nguyên, dự án điện hạt nhân, dự án đường sắt cao tốc. Có dự án được thông qua hoặc bị bác bỏ. Bên cạnh đó, Quốc hội có một tỉ lệ đáng kể đại biểu là người ngoài Đảng, chiếm khoảng 10% vào thời điểm công bố kết quả bầu cử. Vì vậy, dùng ngôn ngữ chính trị của Đảng với họ là không hợp lý. Mặc dù tìm kiếm sự đồng thuận là bản chất của hoạt động chính trị, nhưng diễn đàn Quốc hội là nơi thảo luận, tranh luận giữa những người được dân bầu để tìm ra các quyết sách đúng cho đất nước. Đã là thảo luận, tranh luận thì bao giờ cũng có những quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Đại biểu Quốc hội hay đảng viên?
Sự nhầm lẫn giữa diễn đàn Quốc hội với các diễn đàn khác cũng xảy ra trong nhiều trường hợp khác, đặc biệt là các cuộc tiếp xúc cử tri. Nó cũng không chỉ xảy ra với các đại biểu Quốc hội, mà còn xảy ra với các cử tri.
Tại nhiều cuộc tiếp xúc cử tri, các tấm pa-nô, áp-phích đều “nhiệt liệt chào mừng đồng chí bí thư”, “nhiệt liệt chào mừng đồng chí chủ tịch”. Trong các phát biểu, các chức danh này cũng được sử dụng, thay vì gọi đúng tư cách của họ là đại biểu Quốc hội.
Ngày 1-12-2012, cử tri Nguyễn Khắc Thịnh (phường Giảng Võ – Hà Nội) đã chất vấn đại biểu Quốc hội Nguyễn Phú Trọng tại cuộc tiếp xúc cử tri: “Nghị quyết Trung ương 4 nói một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái. Xin đề nghị Tổng bí thư làm rõ một bộ phận không nhỏ ấy nằm ở đâu?”.
Tại nhiều cuộc tiếp xúc cử tri khác, những cụm từ như “kính thưa đồng chí Chủ tịch nước”, “đề nghị Thủ tướng Chính phủ”, “xin đồng chí Bí thư”,… được nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
Điều này phản ánh một sự nhầm lẫn cơ bản về tư cách của người tiến hành tiếp xúc cử tri. Đứng trước các cử tri khi đó, không có ai là Tổng Bí thư, không có ai là Chủ tịch nước, không có ai là Thủ tướng, và không có ai là Bí thư. Họ chỉ có một tư cách duy nhất là đại biểu Quốc hội, đi gặp cử tri để báo cáo kết quả làm việc, trả lời các chất vấn và lắng nghe ý kiến của cử tri. Ít khi thấy có ai đó gọi họ cho đúng danh phận là đại biểu Quốc hội Nguyễn Tấn Dũng, đại biểu Quốc hội Trương Tấn Sang, đại biểu Quốc hội Lê Thanh Hải,…
Thể hiện bản chất của hệ thống chính trị
Thói quen xưng hô nói trên không đơn thuần là vấn đề giao tiếp. Nhìn vào lịch sử và bản chất hệ thống chính trị Việt Nam, chúng ta thấy rằng cách xưng hô này phản ánh những vấn đề đáng lưu ý hơn nhiều.
Sự nhầm lẫn về tư cách đại biểu Quốc hội và tư cách quan chức của Đảng có căn nguyên chính trị và căn nguyên lịch sử. Hệ thống chính trị ở miền Bắc Việt Nam kể từ năm 1954 và trên cả nước từ 1975 do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Điều này diễn ra trên thực tế và được thể chế hóa tại các bản Hiến pháp 1980 và 1992. Điều này dẫn đến hai hiện tượng: Đảng làm thay Nhà nước và các quan chức bên phía Nhà nước cũng đồng thời là quan chức bên Đảng.
Trong thời kỳ 1954-1975, các quyết sách lớn đều trực tiếp từ Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, chứ không phải đến từ Chủ tịch nước hay Hội đồng Quốc phòng hay Bộ Quốc phòng. Lịch sử ghi nhận Nghị quyết 15 tháng 1-1959 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã vạch ra phương pháp đấu tranh thống nhất đất nước, chứ không phải một đạo luật hay sắc lệnh nào do Quốc hội hay Chủ tịch nước ban hành. Cho đến 1975, các quyết định liên quan đến chiến trường cũng được quyết định bằng các nghị quyết của Bộ Chính trị. Các nghị quyết này được trực tiếp phổ biến đến các chiến trường.
Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, tình trạng Đảng làm thay Nhà nước tiếp tục diễn ra. Hai quyết định quan trọng về kinh tế thời kỳ đó là Khoán 100 và Khoán 10, thực chất là Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13-1-1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị tháng 4-1988 về khoán trong nông nghiệp.
Cho đến cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước, hoạt động lập pháp của Quốc hội mới bắt đầu thể hiện rõ hơn vai trò của mình trong đời sống chính trị, với việc thông qua nhiều đạo luật quan trọng như Bộ Luật Hình sự (1985), Luật Hôn nhân và Gia đình (1986), Luật Đất đai (1987), Luật Đầu tư Nước ngoài (1987),… và dần dần thể chế hóa các quyết định chính trị của Đảng.
Cho đến nay, nhiều quan chức Chính phủ khi bị chất vấn tại Quốc hội đã trả lời rằng “vấn đề này đã báo cáo với tổ chức Đảng” để né tránh vấn đề và né tránh trách nhiệm. Bên cạnh đó, có đến 90% số đại biểu Quốc hội đồng thời là đảng viên. Tất cả những đặc điểm này của hệ thống chính trị khiến cho ranh giới giữa diễn đàn của Đảng và diễn đàn Quốc hội trở nên mờ nhạt, dễ phát sinh sự nhầm lẫn, tâm lý “phiên phiến”.
Mặt khác, việc cử tri gọi các đại biểu của mình là Chủ tịch nước, Thủ tướng, là Bộ trưởng, là Chủ tịch cũng thể hiện một hiện tượng khác, đó là một người vừa là đại biểu Quốc hội, vừa là quan chức hành pháp. Điều này khiến cho nhiều người đặt câu hỏi: Các vị ngồi ở diễn đàn Quốc hội với tư cách gì?
Cần rạch ròi tư duy
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra sự rạch ròi cần thiết phải có trong quan hệ giữa Đảng và chính quyền, cũng như sự rạch ròi cần thiết giữa các nhánh quyền lực trong nội bộ chính quyền. Đó là Đảng không bao biện, làm thay Nhà nước vì vi phạm nguyên tắc pháp quyền, đó là đại biểu Quốc hội không được kiêm nhiệm chức danh hành pháp vì lý do xung đột lợi ích.
Nguyên tắc pháp quyền chỉ cho phép ý chí chính trị của các cá nhân, đảng phái được thực thi trên thực tế thông qua các cơ quan dân cử như Quốc hội, Hội đồng Nhân dân và không được can thiệp vào các quyết định của chính quyền. Điều này được các lãnh đạo Đảng nhắc đến nhiều lần, tuy nhiên hiệu quả thực thi còn là điều phải đánh giá thận trọng.
Mặt khác, sự phân công, phân nhiệm giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong thiết kế bộ máy nhà nước chúng ta hiện nay còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Khi là một đại biểu của dân, có nghĩa là người đó phải dùng quyền lực được dân trao cho để tác động và giám sát việc thực thi pháp luật của các quan chức hành pháp và tư pháp. Vậy thì hóa ra vị Bộ trưởng kiêm đại biểu Quốc hội sẽ phải tự giám sát chính mình, đồng thời, khi ngồi ở diễn đàn Quốc hội, có lúc ông ta là đại biểu Quốc hội, có lúc lại là Bộ trưởng. Ông ta sẽ đứng về phía ai, Chính phủ hay Quốc hội trong phiên chất vấn của mình?
Rõ ràng sự nhầm lẫn về cách xưng hô không chỉ là vấn đề giao tiếp, mà còn phản ánh sự thiếu rạch ròi trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, và giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam sẽ khó có thể thực hiện được, nếu không giải quyết triệt để vấn đề này.







Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
