Nguyễn Quang Lập's Blog, page 96
January 22, 2013
Hiến pháp nên đề cập về Đảng thế nào?
Bùi Đức Lại (nguyên chuyên gia cao cấp Ban Tổ chức Trung ương)
Vấn đề Đảng lãnh đạo Nhà nước là một trong những vấn đề chính trị trung tâm, nhưng tiếc thay lại là chủ đề ít được đặt ra và trao đổi thẳng thắn, triệt để trong các cuộc thảo luận và diễn đàn chính thức.
Không phải vì ở đây “không còn chuyện gì để bàn” mà chủ yếu do tâm trạng e dè từ nhiều phía trước một vấn đề chính trị hệ trọng và nhạy cảm như vậy.
Thận trọng cân nhắc nhiều khía cạnh là rất cần, nhưng nếu quá nhấn mạnh tính hệ trọng của vấn đề, thậm chí xem tự thân nó là có tính “sống còn” thì sẽ khép lại mọi ý kiến thảo luận và cũng không đúng với thực tế.
Trước năm 1980, Hiến pháp nước ta không có điều khoản tương tự nhưng không vì thế mà vai trò lãnh đạo của Đảng không được xác lập hay hiệu quả lãnh đạo kém hơn thời kỳ sau đó; các đảng cộng sản cầm quyền trước đây ở Liên Xô và Đông Âu dù cố giữ hay buông bỏ điều tương tự trong hiến pháp nước họ thì cũng vẫn không tránh được thất bại. Như vậy, vấn đề không phải là có hay không điều khoản này, mà thực chất là ở chỗ chính đảng lãnh đạo phải đủ phẩm chất và năng lực để đảm đương sứ mệnh được ủy thác.
Trong nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thì nhân dân là chủ thể quyền lực. Vai trò Đảng lãnh đạo Nhà nước về bản chất là do nhân dân ủy thác cho Đảng. Sự ủy thác đó có thể được ghi nhận trong Hiến pháp thông qua thủ tục lập hiến. Vì vậy không thể đặt ra vấn đề Đảng lãnh đạo đứng trên, hay đứng ngoài Hiến pháp và pháp luật. Đảng lãnh đạo xây dựng Hiến pháp và pháp luật, nhưng một khi đã có Hiến pháp và pháp luật thì Đảng không những phải tôn trọng mà còn phải chịu sự điều chỉnh của Hiến pháp và pháp luật bình đẳng như mọi chủ thể chính trị khác. Điều lệ Đảng khẳng định “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” chính là sự khẳng định từ phía Đảng tinh thần đó.
Sự ủy thác đó là có điều kiện và có giám sát.
Đối với nhân dân và đất nước, điều kiện đó là “Đảng phải trung thành và đại biểu xứng đáng lợi ích của nhân dân và đất nước”.
Với tinh thần nói trên, điều khoản về Đảng trong Hiến pháp không nên thể hiện nguyên văn như Điều lệ Đảng. Không đưa vào điều khoản này những nội dung không thuộc đối tượng điều chỉnh trực tiếp của Hiến pháp và pháp luật (như tính chất giai cấp, nền tảng tư tưởng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động…của Đảng). Những nội dung đó chịu sự điều chỉnh của Điều lệ và các quy định nội bộ Đảng.
Trong sự hiểu biết hạn hẹp của mình, chúng tôi mạnh dạn nêu ra một phương án thể hiện điều khoản này như sau: “Nhân dân ủy thác cho Đảng Cộng sản Việt Nam vai trò lãnh đạo nhà nước. Đảng phải trung thành và đại biểu xứng đáng cho lợi ích của nhân dân và đất nước, chịu trách nhiệm trước nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Để thực sự giám sát thì cần sớm xây dựng Luật về Đảng và sự lãnh đạo của Đảng. Vấn đề này cần thiết đối với cả đất nước và Đảng.
Thực tế đã chứng minh rằng, nếu chỉ đơn thuần dựa vào giám sát nội bộ, tự cho phép mình đứng ngoài sự giám sát thực sự của nhân dân và luật pháp thì Đảng càng có nguy cơ suy thoái nhiều hơn. Thực tế trong hoạt động mấy năm qua của ban lãnh đạo đảng, của các cơ quan nhà nước và trong thực hành mối quan hệ giữa các chủ thể đó đã phát sinh không ít tình huống phải xử lý theo “lệ”, thiếu căn cứ luật pháp xác đáng. Điều đó càng chứng tỏ sự cần thiết của luật nói trên.
Đề nghị này không mới mà đã được nhiều tổ chức và công dân, kể cả cơ quan đảng, cán bộ lãnh đạo và đảng viên nêu ra từ nhiều năm trước, nhưng chưa có tiến bộ.
Nguyên nhân có phần vì những khó khăn không nhỏ khi phải xây dựng một luật chưa từng có tiền lệ và hình mẫu như luật này.
Nói cho cùng, nếu quả tình không thể xây dựng được Luật về Đảng và sự lãnh đạo của Đảng thì liệu có lý do gì chính đáng để bảo lưu một điều khoản về vấn đề này trong Hiến pháp?







Vì sao bản hiến pháp 1946 lại mang tính dân chủ?
Phạm Gia Minh
Từ xa xưa trong lịch sử các dân tộc chung sống trên mảnh đất Việt Nam đã hình thành nên những truyền thống mang nhiều nội dung dân chủ,đề cao tính nhân văn và giải phóng con người. Đạo Mẫu của tộc Việt đề cao vai trò người phụ nữ trong xã hội khác hẳn với một Trung Hoa phong kiến hà khắc, phi nhân tính. Hoặc như tập tục “phép vua còn thua lệ làng” cùng rất nhiều dẫn chứng được lấy từ văn học dân gian là những ví dụ sinh động đầy tính thuyết phục cho cái “ chất” yêu tự do, dân chủ của con người Việt Nam.
Vị trí đất nước ở ngã ba thủy lộ của Biển Đông và nằm giữa hai nền văn hóa lớn là Trung Hoa và Ấn Độ lại sớm tiếp xúc với giới thương nhân và các nhà truyền đạo Phương Tây một cách tự nhiên đã tạo cho chúng ta phong thái linh hoạt và lối tư duy “đón gió bốn phương ” để dễ dàg tiếp thu, nhưng cũng mau chóng đào thải những gì không phù hợp với cái cốt cách yêu tự do của mình.
Và chính những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm với biết bao hy sinh nhưng rất đáng tự hào là minh chứng hùng hồn nhất cho khát vọng độc lập, tự do của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Từ thời Lê Sơ nhà nước Việt Nam đã có bộ Luật Hồng Đức (1470- 1497) tiếp thu 200 điều từ bộ luật nhà Đường, 17 điều từ luật nhà Minh, trong đó có 178 điều chung đề tài với các bộ luật Trung Hoa nhưng lại khác hẳn về giải pháp. Đáng ghi nhận là có tới 328 điều luật không tương ứng với bất kỳ điều luật nào của Tàu(1). Quyền và địa vị của người phụ nữ trong xã hội được coi trọng và đặc biệt đã có sự phân định rõ ràng sở hữu đất đai của người dân (Tư điền/Tư thổ) với đất đai của nhà nước phong kiến (Công điền/Công thổ). Điều này được giới nghiên cứu đặc biệt đánh giá cao bởi lẽ ở chính nơi mà không gian ngột ngạt, trì trệ và toàn trị của mô thức phát triển kiểu Châu Á, nơi mà toàn bộ đất đai đều thuộc về vua chúa hay Hoàng Đế(2) lại có những ngoại lệ cho phép người dân sở hữu ruộng, đất, làm chủ mùa màng và chỉ phải đóng thuế. Đó là đặc điểm dân chủ hiếm có ở phương Đông phong kiến.
Trải qua hơn 20 năm bôn ba hải ngoại tìm đường giành độc lập cho dân tộc, Hồ Chí Minh đã tiếp thu nền văn minh phương Tây với những giá trị Tự do, Bác ái, Dân chủ, Bình quyền và nhận thức rằng đó chính là những đặc trưng phù hợp với khát vọng ngàn đời của người Việt. Bản tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra đời trong bối cảnh như vậy.
Đó là một bản hiến pháp chưa thể nói là hoàn hảo nhưng sự ra đời của nó KHÔNG BỊ BẤT CỨ THẾ LỰC BÊN NGOÀI NÀO ÉP BUỘC và hoàn toàn dựa trên ý nguyện xây dựng một xã hội dân chủ, tự do của một dân tộc sau bao năm bị giam hãm trong ý thức hệ Khổng giáo và ách cai trị của chủ nghĩa thực dân cũ.
Trong những lần tiếp xúc với Archimedes Patti, sĩ quan OSS – một tổ chức tiền thân của CIA, Hồ Chí Minh đã thẳng thắn thừa nhận rằng đối với ông mục tiêu tối thượng là giành độc lập cho dân tộc, còn chủ nghĩa cộng sản là phương tiện, là một cứu cánh để đạt mục tiêu trên (đại ý: trước hết tôi là người theo chủ nghĩa dân tộc, sau đó tôi mới là người theo chủ nghĩa cộng sản)(3). Những bức thư “cầu thân” mà Hồ Chí Minh gửi cho các Tổng thống Hoa Kỳ Roosevelt và Truman nếu được quan tâm đúng mức thì chắc chắn lịch sử đã đi theo hướng khác.
Viện trợ to lớn và toàn diện của khối Xô viết và Trung Quốc một mặt đã giúp Việt Nam giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, nhưng mặt khác đã biến Việt Nam thành bãi chiến trường giữa hai phe Tư bản và Cộng sản với bao hy sinh xương máu và hận thù giữa người Việt từng đứng ở hai bên chiến tuyến cho tới nay vẫn chưa được hóa giải. Đáng phải suy nghĩ hơn là con đường phát triển của đất nước đã bị ép theo những chuẩn mực và khuôn mẫu của các cường quốc cung cấp viện trợ là Liên Xô và Trung Quốc mà nếu xét về bản chất chế độ xã hội là những quốc gia toàn trị, thiếu vắng dân chủ.
“Cải cách ruộng đất” rồi “Chỉnh Phong” hay “chống nhân văn giai phẩm”, “chống xét lại” hay “Cách mạng văn hóa”, “ Xét thành phần, lý lịch” và “chống diễn biến hòa bình” “không Tây hóa” v.v…mang hơi hướng Bắc Kinh hoặc “cải tạo tư bản tư doanh”, “quốc hữu hóa”, “Hợp tác hóa nông nghiệp”, “công nghiệp hóa XHCN theo hướng đẩy mạnh công nghiệp nặng” v.v…theo mô hình “Tập trung – quan liêu bao cấp” nay đã hoàn toàn thất bại của Liên Xô khiến lòng người ly tán, tài nguyên bị hao kiệt nên đất nước sau nhiều năm vật vã buộc phải tìm lối ra và gần như phải xây dựng lại từ đầu nền kinh tế thị trường với bao mối liên hệ phong phú và tinh tế vốn đã một thời hưng thịnh từ mấy thế kỷ trước đây.
Tưởng rằng giành được độc lập thì dân tộc ta có cơ hội tiến nhanh tiến mạnh về phía trước thế nhưng ngay lập tức chúng ta chưa nhận thức hết được sự tụt hậu ngày một rõ nét về các quyền tự do và dân chủ trong xã hội nếu so với những thành quả đã đạt được thời Cách mạng Tháng Tám 1945 khiến xã hội Việt Nam ngày nay ngày một lún sâu trong cơn khủng hoảng sâu sắc và toàn diện.
Với bản Hiến pháp 1992 chịu ảnh hưởng của Hiến pháp Liên Xô 1977 rất nhiều quyền tự do, dân chủ trước đây đã bị teo dần(4).
Cũng chính vì Liên Xô đã thủ tiêu các quyền dân chủ, tự do của nhân dân đồng thời tăng cường đến mức tột đỉnh thể chế ĐẢNG TRỊ nên sự sụp đổ đã diễn ra(5) không cưỡng lại được ngay trong lòng bộ máy hùng hậu của ĐCS, quân đội, KGB (ủy ban an ninh quốc gia) và trong toàn bộ nền kinh tế Xô Viết khiến các đối thủ phương Tây cũng phải ngỡ ngàng.
Phải chăng chúng ta cũng muốn đi theo vết xe đổ đó?
Không, một ngàn lần không!
Dân tộc này đã đổ quá nhiều xương máu để có được nền độc lập trước các thế lực ngoại xâm và khát vọng của chúng ta là được cùng nhau chung tay xây dựng một Tổ Quốc Việt Nam Thống nhất, Dân chủ, Giàu mạnh, Độc lập,Tự do và Hạnh phúc. Không có ý thức hệ ngoại lai nào có thể làm vật cản mãi mãi trên con đường chúng ta đi khi chúng ta giữ vững nguyên tắc TRUNG THÀNH VỚI QUYỀN LỢI DÂN TỘC. Bản tính yêu tự do hình thành ngàn đời nay sẽ giúp các thế hệ con dân Đất Việt trong thế kỷ XXI này phải tự vượt lên chính mình, vứt bỏ mọi gông cùm của quá khứ để “sánh vai cùng bạn bè năm châu, bốn bể”(6).
Trong bối cảnh quốc tế ngày nay, chúng ta đang ở một vị thế thuận lợi hơn thời “Chiến tranh lạnh “ rất nhiều và không thế lực bên trong hay bên ngoài nào có thể ép buộc chúng ta đi chệch khỏi con đường phát triển độc lập, dân chủ theo xu hướng chung của nhân loại văn minh.
Việc sửa đổi Hiến pháp 1992 thiết nghĩ nên được tiến hành theo con đường sáng mà bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa năm 1946 đã khởi đầu.
Thăng long- Hà nội 22/1/2013
………………………………………..
(1) Wikipedia. Bộ luật Hồng Đức
(2) Phạm Gia Minh, “ Thoát Á mới có thể thoát thân”
http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-01-08-thoat-a-moi-co-the-thoat-than
(3) Archimedes Patti “Tại sao Việt Nam?” (Prelude to America’s Albatros) NXB Đà nẵng.
(4) Hoàng Xuân Phú.” Teo dần quyền con người trong Hiến Pháp”.Blog Hoàng Xuân Phú, 18/01/2013
(5) Kiến nghị về sửa đổi Hiến Pháp 1992. Bauxitvn.blogspot.com ngày 22/01/2013
(6) Hồ Chí minh. Di chúc







Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh: Không cần ghi điều 4 vào Hiến pháp
NQL:Khâm phục cụ Nguyễn Trọng Vĩnh quá, 98 tuổi hảy còn rất tỉnh táo và sáng suốt.
Chiều ngày hôm nay, 22.1.2013, Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, lão thành Cách mạng, 98 tuổi, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc từ 1974 – 1987, nguyên Bí thư tỉnh ủy các tỉnh Phúc Yên, Thái Bình, Thanh Hóa…đã đọc và ký tên vào Bản Kiến nghị Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đăng tải trên trang Bauxite VietNam hôm nay.
Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh ghi lên bên lề của Kiến nghị Sửa đổi Hiến Pháp 1992 đăng trên Bauxite VietNam như sau:
Về điều 4: Không cần ghi điều 4 vào Hiến pháp
Trong thời kỳ vận động cách mạng lật đổ ách thực dân Pháp giành lại độc lập tự do cho dân tộc, Đảng Cộng sản không có chút quyền hành nào, Không điều nào quy định cho Đảng được quyền lãnh đạo, thế mà Đảng vẫn lãnh đạo được dân, dân tự giác theo sự lãnh đạo của Đảng làm Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Trong 2 cuộc kháng chiến vì độc lập thông nhất Tổ quốc cũng vậy. Chỉ cần Đảng có chính nghĩa, trong sạch, thực sự vì nước, vì dân, thực thi dân chủ trong mọi lĩnh vực làm cho nước mạnh, dân giầu, thì tự khắc dân sẽ tự nguyện theo sự lãnh đạo của Đảng, Không cần ghi điều 4 vào Hiến pháp.

Về Sở hữu đất đai: Không tước đi cái quyền “sở hữu ruộng của người cày”
Trước đây, trong thời kỳ vận động cách mạng, Đảng đã nêu khẩu hiệu: “Người cày có ruộng” hợp với nguyện vọng tha thiết của nông dân, đã động viên được hàng triệu, hàng triệu nông dân thành sức mạnh to lớn cống hiến cho cách mạng thành công. Nay lại khẳng định “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” là tước đi cái quyền “sở hữu ruộng của người cày”, hóa ra Đảng đã phản bội lại khẩu hiệu đã hứa với họ hay sao?

Về lực lượng vũ trang: Điều 70 phải ghi là “Lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ Quốc Việt Nam”
Đối với bất kỳ quốc gia nào, lực lượng vũ trang sinh ra là để bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của đất nước ấy. Bất kỳ đảng phái nào lên nắm quyền, lực lượng vũ trang vẫn là lực lượng chung của dân của nước, không thuộc tổ chức hoặc cá nhân nào. Đối với nước ta cũng vậy, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, nó có nhiệm vụ phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc như lời Hồ Chủ tịch đã nói năm 1946: “Quân đội nhân dân Việt Nam trung với Nước, hiếu với Dân…”. Chúng tôi không đồng ý với điều 70 của dự thảo, và đề nghị phải ghi là: “Lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ Quốc Việt Nam”.

T Theo blog NXD







January 21, 2013
Nguyễn Tấn Dũng, kỳ vọng và thất vọng
Minh Diện
Ngày 16-5-2006 trong phiên khai mạc kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa 11, Thủ tướng Phan Văn Khải từ nhiệm trước một năm, nhường ghế cho Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kế nhiệm mình. Hơn một tháng sau, ngày 27-6-2006, ông Nguyễn Tấn Dũng trở thành tân Thủ tướng, sau 2 nhiệm kỳ liền làm Phó Thủ tướng Thường trực, phụ trách khối Tài chính – Ngân hàng và một số khu vực kinh tế Nhà nước khá quan trọng. Đó là cuộc chuyền giao quyền lực cơ quan hành pháp giữa nhiệm kỳ đầu tiên ở Việt Nam, mà hình ảnh ấn tượng nhất là cái bắt tay hình thức giữa một ông già thấp bé, cổ nghểnh, từng luống cuống làm rơi tờ giấy cẩm nang khi gặp Tổng thống Hoa Kỳ Geerge Bush ngày 21-6-2005, với một người trẻ tuổi, cao to, có nét phong độ.
Một năm sau, ngày 25-7-2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tái đắc cử, với số phiều gần như tuyệt đối 96,96%. Đến thời điểm đó Nguyễn Tấn Dũng là một Thủ tướng trẻ nhất Việt Nam.
Ông sinh ngày 17-11-1949, nhằm ngày 27 tháng 9 năm Kỷ Sửu, cung Càn, cầm tinh con trâu, mạng tích lịch hỏa, thường là tuổi của những người lãnh đạo bẩm sinh, có đặc tính thể hiện cái tôi mạnh mẽ, không chịu nhường nhịn ai, không cho ai cản đường, độc đoán chuyên quyền, bảo thủ cố chấp, không nghe lời khuyên chân thành mà dễ xiêu lòng vì nịnh nọt, tình tình dễ nổi nóng, nên có khi phá hỏng hình ảnh của mình.
Với một khuôn mặt đầy đặn, thường là tươi tắn, trang phục chỉn chu, nói năng lưu loát, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không bị lép khi đứng bên cạnh Thủ tướng các nước trong khu vực, thậm chí với các nguyên thủ quốc gia phương Tây. Ông có phong thái ngoại giao chững chạc, không luống cuống như người tiền nhiệm, cũng chưa có những câu nói hớ làm trò cười cho thiên hạ như “nhà hùng biện” Nguyễn Minh Triết.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tạo cho mọi người thấy một gương mặt lãnh đạo trẻ, năng động, và tự tin hơn.
Trong buổi lễ nhậm chức, Thủ tướng đã khẳng định sẽ đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững, nâng cao đời sống các tầng lớp nhân dân, điều hành một chính phủ trong sạch, thực thi dân chủ, công bằng, nếp sống văn minh. Ông bày tỏ quyết tâm phòng chống tham nhũng, một vấn đề bức xúc nhất, nan giải nhất mà người tiền nhiệm bó tay, và ông đặt cược sinh mạng chính trị của mình vào trận tuyến nóng bỏng này: “Tôi kiên quyết và quyết liệt chống tham nhũng. Nếu tôi không chống được tham nhũng tôi xin từ chức ngay!” (Phát biểu trong lễ nhận chức Thủ tướng chính phủ 27-5-2007).
Về tự do dân chủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị Quốc hội: “ Cần sớm có Luật biểu tình để nhân dân thực hiện quyền được ghi trong Hiến pháp” (Phát biểu trước Quốc hội ngày 25-11-2011). Ông khằng định dân chủ là nền tảng của một xã hội công bằng văn minh. Ông nói: Phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ rộng rãi, nhất là dân chủ trực tiếp, xây dựng xã hội đồng thuận, cởi mở ” (Trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội Dương Thị Bạch Mai 24-11-2010) .
Đối với chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố dõng dạc trước Quốc hội : “Chúng ta đã làm chủ ít nhất là từ thế kỷ 17 hai quần đào Hoàng Sa và Trường Sa. Đối với Hoàng Sa, năm 1956, Trung Quốc đưa quân chiếm đóng các quần đảo phía Đông, năm 1974 , Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ đảo Hoàng Sa trong sự quản lý của chính quyền Sài Gòn . Chính phủ Việt Nam cộng hòa đã lên tiếng phản đối, lên án việc này và đề nghị Liên hiệp quốc can thiệp. Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc đó, cũng đã ra tuyên bố phản đối hành vi chiếm đóng của Trung Quốc. Lập trường nhất quán của chúng ta là, quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, chúng ta có đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định vấn đề này” (Phát biểu trước Quốc hội ngày 25-11-2011).
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nổi bật như một ngôi sao sáng.
Nhiều người, trong đó có tôi kỳ vọng ở ông.
Thực tế thời kỳ đầu đắc cử, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã xứng đáng với kỳ vọng ấy.
Nhà phân tích chiến lược phát triển kinh tế Mỹ, nguyên Chủ tịch hội đồng quan hệ thương mại Hoa Kỳ – ASEAN, Ernest Bower, nhận xét: “Trong 200 ngày đầu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tạo cho mọi người thấy một khuôn mặt lãnh đạo trẻ năng động, quyết đoán, hành động kiên quyết hơn. Ông được giao nhiều quyến hành hơn và ông tin tưởng vào những quyết định của chính sách mà ông đưa ra. Ông đã làm cho thế giới có một cái nhìn khác về Việt Nam!”.
Đúng như vậy! Bằng nỗ lực của mình, Thủ tướng đã kêu gọi được nhiều nhà đầu tư vào Việt Nam, đưa vốn đầu tư nước ngoài cao nhất kể từ trước tới nay, bao gồm vốn đầu tư trực tiếp, và cả đầu tư chứng khoán. Những dự án quy mô vài trăm triệu đô la xuất hiện trên mặt báo, tạo ra không khí cạnh tranh sôi động, Việt Nam vượt lên 8 bậc về môi trường hấp dẫn đầu tư.
Về phòng chống tham nhũng, ông đã cố gắng minh bạch hệ thống hành chính, bớt đi sự mập mờ trong mối quan hệ xin cho, giao quyền cho chủ động cho địa phương và cấp dưới. Việc tiến hành điều tra, đưa ra xét xử vụ PMU 18, là quyết tâm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, bởi, ai cũng biết “nhóm lợi ích” ấy có ô che rất lớn là Tổng bí thư Nông Đức Mạnh. Kế đó Thủ tướng không ngần ngại xử lý vụ “ Đề án tin học hóa hành chính nhà nước 112” , một Phó chủ nhiệm văn phòng chính phủ đã phải vào tù.
Về ngoại giao, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã cải thiện đáng kể uy tín và hinh ảnh đổi mới của Việt Nam trên diễn đàn quốc tế. Ông phá vỡ khối băng dày 60 năm giữa Việt Nam và Vatican, một quốc gia nhỏ bé nhưng đầy quyền lực, là linh hồn của hơn một tỷ tín đồ thiên chúa giáo, trong đó Việt Nam có 6 triệu, là một trung gian quyền lực thế giới, bằng việc tiếp kiến Đức giáo hoàng Benisdico XVI ở Vatican.
Sự kiện Viêt Nam là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, việc tổ chức thành công Hội nghị APEC 14, và việc Việt Nam trở thành “Thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hiệp quốc” đánh dấu những mốc son hội nhập và nâng cao uy tín của Việt Nam trong đó có công lao của Thủ tướng.
Tháng 5-2007 Tạp chí World Business bình chọn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là 1 trong 20 nhân vật cải cách ở châu Á.
Trong hội nghị “ Diễn đàn kinh tế thế giới” nhóm họp tại Davos Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nằm trong nhóm lãnh đạo hạng A.
Đó là những điềm không thể phủ nhận.
Nhưng hình như có một quy luật, càng nóng nhanh càng mau nguội, ngôi sao càng chói sáng càng dễ mờ, bởi nguồn năng lượng cạn kiệt. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với nhiều bứt phá, muốn rút ngắn công việc một nhiệm kỳ 5 năm xuống 4 năm, nhưng có lẽ do “giục tốc bất đạt” ông bị va vấp quá nhiều trong giai đoạn tiếp theo.
Cuộc khủng khoảng kinh tế toàn cầu như một cơn sóng thần cuốn phăng cả những nền kinh tế hùng mạnh nhất. Việt Nam đã có quá trình hội nhập, nên cũng bị ảnh hưởng. Nhưng cùng hoàn cảnh, thậm chí hội nhập sâu hơn, tình hình chính trị và xã hội, cũng như môi trường khí hậu bất lợi hơn, nhưng các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, đã ứng phó thích hợp, nên đáy suy thoái nông và vượt thoát nhanh hơn.
Trái lại Việt Nam vũng xoáy suy thoái dường như không đáy, và không biết đến bao giờ mới vượt lên được?
Có nhiều nguyên nhân, nhưng sai lầm về hoạch định đường lối và điều hành chính sách kinh tế vĩ mô là nguyên nhân chính. Và sai lầm náy thuộc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Ông là Trưởng ban hoạch định kinh tế của Ban chấp hành trung ương đảng. Ông đã đề nghị ghi vào văn bản báo cáo trước Đại hội X: “Thúc đẩy việc hình thành tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có một số ngành chính, có nhiều chủ sở hữu, trong đó chủ sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối” .
Hệ lụy của nền kinh tế vĩ mô bắt nguồn từ quan điểm này.
Thực ra nó không mới, mà đã nhen nhúm từ những năm đầu thập kỷ 90, khi Đỗ Mười làm Tổng bí thư, và ông Võ Văn Kiệt làm Thủ tướng. Đỗ Mười sau khi thăm Hàn Quốc, đã nảy ra ý tường “Một nền kinh tế phát triển phải có những quả đấm thép!”. Để thực hiện ý tưởng Đỗ Mười, một nửa số Ủy viên Bộ Chính trị nhiệm kỳ đó, đã khăn gói sang Hán Quốc “tầm sư hoc đạo”, và cảm thấy choáng ngợp bởi mô hình Chealbot.
Ông Võ Văn Kiệt cũng tán thành, nhưng khá thận trọng, nên chỉ ban hành hành hai quyết định 90, 91, thành lập thí điểm tập đoàn kinh tế mạnh. Năm 1997, Phan Văn Khải thay ông Võ Văn Kiệt, nhút nhát hơn, nên 9 năm sau mới cho ra đời được 3 tập đoàn là: Tập đoàn công nghiệp than – Khoáng 26-12-2005, Tập đoàn bưu chính viễn thông 09-01-2006, Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Vinashin 15-05-2006. Ông Phan Văn Khải đã ký quyết định cho Vinashin vay 700 triệu đô la với kỳ vọng ngành đóng tàu Việt Nam ngoi lên hàng đầu thế giới.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với tư duy bứt phá, đầy nhanh tốc độ phát triển tập đoàn mạnh. Nhậm chức ngày 27-6 ngày 29-8-2006 ông ký quyết định thành lập Tập đoàn dầu khí, ngày 3-10, Tập đoàn cao su và, đến năm 2011 đã có 13 “quả đấm thép” đã ra đời.
Các tập đoàn với chức năng đa ngành nghề, nên mạng lưới tỏa rộng khắp mọi nơi, lại có quyền liên doanh liên kết, quyền độc lập hoạch định chiến lược phát triển và cấu trúc kinh tế nên không ai kiểm soát được. Hai ngành mà các tập đoàn hăng hái đầu tư nhất là bất động sản và ngân hàng. Các trụ sở ngân hàng thương mại cổ phần mọc lên như nấm, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chất đầy các ngăn tủ mỗi tập đoàn.
Trụ sở các tập đoàn hoành tráng mọc lên như ganh đua với tòa nhà chọc trời Petroland của Tập đoàn dầu khí, những ông chủ tập đoàn vừa khoác áo quan chức, đầy quyền uy, lại vửa khoác áo doanh nhân tha hồ buông thả, dưới một người, trên muôn người, xài tiềm xả láng.
Một tập đoàn ra đời vốn tự có nhiều lắm là trăm tỷ đồng, chủ yếu là nhà cửa đất đai của nhà nước, nên hầu như 100 % vốn hoạt động vay ngân hàng, dưới sự bảo trợ của chính phủ. Trên thế giới không có bất kỳ một tổ chức kinh tế nào được ưu ái như những tập đoàn kinh tế Việt Nam, được mệnh danh là vai trò chủ đạo nền kinh tế của đất nước, được nhà nước bao bọc từ A đến Z, như những đứa con cưng được nha mẹ chăm bẵm! Hầu như toàn bộ ngân sách dành cho phát triển kinh tế, cả nguồn vốn ODA, đều ném vào các tập đoàn , ngân sách cạn thì đi chính phủ bảo lãnh cho vay nước ngoài. Xin lấy ví dụ một tập đoàn điển hình là Vinashin.
Ngay khi thành lập, Vinashin đã sược vay 700 triệu đô la. Sau 4 năm hoạt động tập đoàn này vay thêm 80.000 tỷ nữa. Không biết họ làm ăn ra sao, nhưng khi nghe Chủ tịch Hội đồng quản trị Phạm Thanh Bình kêu than không được phát hành tín phiếu, Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng sửng cồ lên : “Ai không cho các anh làm tín phiếu?” . Và sau đó 10.000 tỳ đồng tín phiều chính phủ được bơm thẳng vào cái tàu không đáy Vinashin.
Ngày đó tôi được biết có người đã thẳng thắn can gián Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhưng ông tin Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng hơn.
Trước kia chính phủ có một bộ phận tư vấn kinh tế, đứng đầu là tiến sỹ Lê Đăng Doanh, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dẹp bỏ, thay các chuyên gia kinh tế bằng những chuyên gia luật pháp như thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, hình như đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong những quyết định về kinh tế và những quyết định mất lòng dân về tự do dân chủ?
Khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhậm chức, ông có trong tay 23 tỷ đô la vốn dự trữ, đó là số tiền không nhỏ, tích cóp được qua nhiều năm từ thuế của dân và tài nguyên của đất nước. Khi nền kinh tế lâm vào tình trạng thiểu phát, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tung ra một gói kích cầu 143.000 tỷ đồng tương đương 8 tỷ đô la. Nhưng nguồn tiền khổng lồ ấy chảy không đúng các mục tiêu, nên không có khu vực kinh tế nào được khởi sắc. Nó chỉ chỉ có ít tác dụng vào cuối năm 2009, rồi bị hụt hẫng ngay khi bước sang năm 2010.
Tiền dự trữ quốc gia bung ra làm bội chi ngân sách tăng vọt, và tình trạng bất ổn xuất hiện ngay từ khi nền kinh kế nhìn bề ngoài có vẻ còn hưng vượng.
Trước năm 2006 tổng đầu tư nhà nước lớn nhất không vượt quá 36 % GDP, năm 2007 tăng vọt lên 44% và 2008 lên 47%. Vốn đầu tư tăng vọt kéo theo tăng trường tín dụng , năm 2006 : 21,4%, 2007: 38,7% và đó là lực đẩy con tàu lạm phát tăng tốc .
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng muốn hãm phanh con tàu lạm phát bằng biện pháp nâng dự trữ bắt buộc của ngân hàng và thắt chặt chi tiêu, nhưng hình như đó chưa phải là một liều thuốc đúng, hơn nữa do sức mạnh quyền lực bị hạn chế, bị các nhóm lợi ích chi phối, nên không có tác dụng, tỷ lệ lạm phát từ 9,9 % năm 2008 leo lên 12,3 % năm 2009, rồi 16,2% năm 2010, 17,5% năm 2011 và 18,2% mấy tháng đầu năm 2012.
Lợi dụng đục nước béo cò, nhóm lợi ích tài chính ra tay đục khoét ngân hàng, bẻ gãy xương sống của nền kinh tế! Tiền từ ngân hàng nhà nước tuồn cho ngân ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng này chuyền tiền qua ngân hàng kia, tạo ra cái “đèn cù ngân hàng” loanh quanh “kinh doanh tiên ftệ”, ăn lãi suất chênh lệch. Lãi suất huy động hạ cực thấp bóp chẹt dân, lãi suất cho vay lại tùy sự thỏa thuận. Những gói kích cầu hàng chục ngàn tỷ đống tiếp theo trở thành miếng mồi béo bở cho các nhóm lợi ích. Những Nguyễn Đức Kiên, Trần Xuân Giá chưa phải là trùm của băng nhón tội phạm này, và Thống đốc Nguyễn Văn Bình không phải vô can khi để cho các băng nhóm thâu tóm ngân hàng!
Ngày 25-5 -2012, Thủ tướng ban hành Nghị định 24 , là cú đòn quyết định hạn chế lạm phát, ổn định thị trường vàng nói riêng, giá cả nói chung, nhưng đó lại là một cú sốc gây phản ứng trái chiều.
Bức tranh kinh tế Việt Nam tôi đã mô tả trong bài viết trước, nay chỉ xin ghi lại tấm biểu đồ tăng trường kinh tế Việt Nam, tôi nghĩ đây cũng là “tấm biểu đồ sụt giảm uy tín của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng”: Năm 2002 : 7,08%; 2003: 7,34 %; 2004: 7,79 %; 2005: 8,44 %; 2006: 8,38 %; 2007: 8,23 %; 2008: 6,31 %; 2009: 5,32 %; 2010: 6,78 %; 2011: 5% và năm 2012 chỉ còn 5,03 %.
Nhưng sa sút về kinh tế, chưa hẳn đã là nguyên nhân chính làm mọi người thất vọng về Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Sự thất vọng lớn hơn vế ông là những quyết định, lời nói và việc làm của ông không nhất quán. Hâu fnhư việc gì, ở đâu ông vẫn cố gắng nói hay, nói cho lọt tai người khác, diễn đạt khúc chiết, hứa ngon hứa ngọt, nêu quyết tâm cao, việc gì cũng “quyết liệt”, nhưng nhiều vấn đề sau khi “quyết” là bị “liệt” luôn. Nói hay, làm dở, nói mạnh nhưng không làm là đặc điểm nổi bật của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã được dư luận đúc kết.
Ông nói phát huy quyền làm chủ rộng rãi, nhưng ông lại ký chỉ thị 37: “ Kiên quyết không để tư nhân hóa dưới mọi hính thức, không để bất kỳ tổ chức, cá nhân nào lợi dụng, chi phối báo chí phục vụ lợi ích riêng”. Ông lên án Trung Quốc chiếm biển đảo Việt Nam nhưng ngay sau đó lại đồng tình cho chính quyến thành phố Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh đàn áp và vu cáo người biểu tình là gây rối ! Ông nói như đinh đóng cột là không chống được tham nhũng sẽ từ chức ngay, nhưng khi thất bại, thì không nói lại một lời với dân cho phải đạo, cho có trước có sau!
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng quá dễ dãi trong ban phát chức tước quyền hành cho ba người con của mình. Nhẽ ra với cương vị một người đứng đầu chính phủ ông phải biết tự kiềm chế cái tiểu tiết để giữ cái đại cục, như Khổng từ nói: “Đừng đừng để con dê béo che mất trái núi!”.
Người ta đã nói đi nói lại lời trần tình của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại kỳ họp Quốc hội, tôi cho đó là lúc ông nói thật nhất, bởi nếu không, ông sẽ có một cách nói khác.
Tuy nhiên từ đó tôi nghĩ, nếu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rộng lượng với dân, với người khác, như rộng lượng với bản thân, với vợ con, anh em nội ngoại của mình thì dù ông có là X, là Y gì đi nữa, ông vẫn dành được tình cảm của nhiều người. Đáng tiếc việc hành xử của ông trong vụ án tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ, và mới đây nhất, cho công bố bản kết luận của Thanh tra chính phủ về sai phạm đất đai của thành phố Đà Nẵng, gây nhiều phản cảm. Hình như điều này ứng vào tính cách của người tuổi Kỷ Sửu, mà tôi đã trình bày ở trên: “Không nghe lời khuyên chân thành lại dễ xiêu lòng bời lời nịnh nọt, và dễ nổi nóng nên có khi phá hỏng hình ảnh của mình”! Hai nhiệm kỳ Đại hội IX và X Đảng đã gần như khoán trắng, giao quá nhiều quyền cho Chính phủ. Gần 20 năm giữ trọng trách như Phủ Chúa ở Ba Đình, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lúc đầu có những biểu hiện đem lại sự kỳ vọng không chỉ trong nước mà còn có cảm tình với một số chính khách trên thế giới. Nhưng từ năm 2012, ông đã làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước phải thất vọng.
Nhân ngày 22-12-2012 ông Ba Dũng đã xem vở “Lời thề thứ Chín”. Ba điều quan trọng nhất trong lời thề ấy là “Kính trọng dân, bảo vệ dân, giúp đỡ dân”, tôi hy vọng ông Ba Dũng không quên điều đó.
M.D
Theo blog BVB







Nguyễn Bá Thanh đả Tàu
Hoàng Lịch lược ghi
NQL: Đã xuất hiện nhiều giai thoại vui về ông Nguyễn Bá Thanh, cho thấy đa số dân chúng yêu mến ông. Chưa biết thực hư câu chuyện này ra sao nhưng mà vui.
Những ngày đầu năm 2013, khi giới truyền thông trong và ngoài nước bắt đầu “dậy sóng” theo “hiện tượng Nguyễn Bá Thanh”- Ủy viên TW Đảng, Trưởng Ban Nội chính TW, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng thì dư luận rõ hơn về bản lĩnh quyết đoán, dám nghĩ dám làm…của vị bí thư nổi tiếng này. Nhưng ít ai lại biết rằng, đằng sau cá tính nổi trội đó của vị tân Trưởng ban Nội chính TW còn là một con người tinh tế, mưu trí và góc cạnh trong công tác đối ngoại, lắm lúc làm cho đối phương rơi vào “bẫy” việt vị…
Một trong những sự kiện mà vị Bí thư Đà Nẵng đã làm cho phái đoàn ngoại giao cấp cao của Trung Quốc phải “dở khóc, dở cười” chính là tình huống khi Đà Nẵng đón tiếp phái đoàn do ông Vương Gia Thụy- Trưởng Ban liên lạc Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc dẫn đầu làm việc tại Đà Nẵng. Lúc này, Đà Nẵng chủ động bố trí cho phái đoàn của ông Thụy ở tại một khách sạn trên tuyến đường Trường Sa và tổ chức Hội nghị tại đó(Trường Sa, tên quần đảo của Việt Nam khẳng định chủ quyền và Trung Quốc đang tranh chấp)…khi ông Thụy phát hiện ra địa điểm tổ chức quá “nhạy cảm” và la làng đòi thay đổi nhưng thành phố giải thích là hết chổ nên phái đoàn Trung Quốc đành phải miễn cưỡng chấp nhận.
Bên lề Hội nghị, ông Nguyễn Bá Thanh không quên tận dụng thời cơ hiếm hoi này để nói về chủ quyền biển đảo của Việt Nam đối với vị lãnh đạo cơ quan đối ngoại TW của ĐCS Trung Quốc đầy quyền thế này, rồi thẳng thắn đề nghị: Tôi (ông Thanh-PV) với anh(ông Thụy) bỏ hai chức vụ ra đề nói chuyện với tư cách bạn bè quen biết và nói chuyện theo văn hóa Á Đông, ông chịu không?
- Vương Gia Thụy hỏi lại: “Thế văn hóa Á Đông là gì?”
- Nguyễn Bá Thanh trả lời và ví von: Ông còn hỏi câu đó làm gì. Văn hóa Á Đông là trong gia đình hai anh em mâu thuẫn, thì người anh sẽ luôn nhường cho người em hết, chứ không hề hơn thua…
- Vương Gia Thụy: Tôi không hiểu rõ các đồng chí, trước Mỹ xâm lược gây bao nhiêu đau thương tan tác ở đây(Việt Nam), giờ Mỹ đưa Tàu sân bay đến, các đồng chí vẫn ra nâng cốc chúc mừng là tôi không hiểu nỗi..?
Nguyễn Bá Thanh: Xem ra tình báo Hoa Nam của các anh hóa ra cũng yếu quá..?!
- Vương Gia Thụy: Yếu ra sao?
- Nguyễn Bá Thanh: Đại sứ quán Mỹ có đến đây (Đà Nẵng- PV) mời tôi đi nhưng tôi đâu có đi. Tôi chỉ đạo cử các lãnh đạo cấp Sở ra với họ tí chứ lãnh đạo có ai đi đâu?
- Vương Gia Thụy: Hảo, hảo (Tốt, tốt-PV), có gì thì anh em trong nhà nói chuyện chứ làm gì phải quốc tế hóa ầm ĩ lên thì lý lẽ là sao?
- Nguyễn Bá Thanh: Thực ra nhà có hai anh em nhưng khốn nổi là ông anh “hơi” tham quá, thằng em chỉ chỗ này thì thằng anh bảo của ổng, chỗ kia thì của tao, chỗ khách thì cũng của tao nốt… nên nó tức quá mới gọi “hàng xóm” đến để chứng giám cách xử sự của anh có được không chứ không phải gọi đến để đánh nhau..! Đến đây, ông Thanh không quên nhắc thêm: “Tôi nói cho ông biết, nhà phải có cái hiên, cái sân rồi mới tới cái gì đó… nhưng ông(Trung Quốc- PV) vẽ cái đường lưỡi bò chi mà ôm sát cái bức tường không còn hiên nữa chứ đừng nói sân…thế thì ai chịu nổi(?) Ở Đà Nẵng ni chỉ cần mấy người bơi giỏi thì sải mấy sải là tới đường lưỡi bò của ông ngay thì ông giải thích kiểu chi…(?)
Tranh thủ lúc này, ông Thanh không quên “ngăm” ông Thụy: “Ông nói lại với ông Đào( Hồ Cẩm Đào- PV), bữa sau nếu đến một lúc nào đó mà thế hệ con cháu chúng tôi theo Mỹ mà chống lại Trung Quốc thì có lỗi của các ông…vì do ông đẩy nó tới chỗ đó! Ông nhớ đừng nhầm lẫn nghe, đừng nghĩ theo Mỹ, theo Nga…không ảnh hưởng đến chúng ta…ông không nhận thức điều đó là ông trả giá đắt thôi, bởi sau này tên lửa mang đầu đạn hạt nhân nó đặt ở Lạng Sơn chĩa thẳng vào nhà ông thì khi đó ông mới giật mình..?”
- Vương Gia Thụy “khích” lại: “Sao họ không đưa ông(Thanh-PV) vào Bộ ngoại giao để công tác nhỉ…”
- Nguyễn Bá Thanh: Con người tôi không có khả năng ngoại giao..!
(Trích lược thuật nội dung câu chuyện mà ông Nguyễn Bá Thanh kể lại lúc nhận Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp sử học Việt Nam” do GS. Phan Huy Lê- Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam trao tặng vào ngày 19-8-2012 tại Đà Nẵng).
Theo FB Trần Thanh Hùng, đầu đề của QC







Vẩn vơ phố cổ
Mình có mười năm sống ở phố cổ Hà Nội. Nhà mình ở phố Lò Sũ, con phố chỉ chừng vài trăm mét, từ đó ra hồ Hoàn Kiếm cũng chỉ vài trăm mét. Sáng nào mình cũng chạy ba vòng quanh Bờ Hồ rồi lững thửng vòng quanh các phố quanh đấy hưởng cái tinh mơ Hà Thành hoặc đi bộ chừng vài trăm mét đến phố Lý Quốc Sư rủ Lê Thiết Cương đi ăn phở, ở đấy có quán phở ngon nổi tiếng. Xong lại đi bộ chừng vài trăm mét nữa đến phố Nhà Chung rủ Nguyễn Việt Hà ra góc sân Nhà Thơ Lớn uống cà phê tán phét. Phố cổ Hà Nội như một ngôi làng cổ, nhà này đến nhà kia chỉ cần đi bộ, xa lắm cũng chỉ một cuốc xích lô .
Đôi khi mình cùng cùng Phạm Xuân Nguyên đi bộ đến Cà phê Lâm phố Nguyễn Hữu Huân, quán cà phê nổi tiếng Hà Thành ngày xưa, nơi danh sĩ Bắc Hà vẫn thường tụ bạ. Cà phê Lâm bây giờ vẫn ngon, cái ngon xưa cũ, ai sành cà phê mới thấm. Mình chẳng sành cà phê, ngồi ở đấy chỉ để nhớ ngày xưa Văn Cao, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên… đã từng ngồi ở đấy.
Vào quán cà phê Lâm không phải để nói, một người một ly cà phê phin, một điếu thuốc cứ thế mà trâm ngâm, chẳng ai nói với ai. Từ nhà mình đến Cà phê Lâm chỉ vài trăm mét, hầu như ngày nào mình cũng đến Cà phê Lâm ngồi một mình cả tiếng đồng hồ, chỉ ngồi im thế thôi, chẳng nghĩ ngợi gì. Ấy là cái thú của những ai có tâm trạng như Thi Hoàng: “ Có những buổi chiều không biết cất vào đâu”.
Có lần mình gặp Trịnh Công Sơn ở đấy, anh cũng cà phê một mình. Anh nói mỗi lần ra Hà Nội dù bận rộn thế nào mình cũng tới Cà phê Lâm, chỉ đến một mình không cùng ai. Không phải để nhớ các danh sĩ Bắc Hà như Lập, chủ yếu để hưởng cái thú trầm ngâm của dân phố cổ Hà Thành.
Bây giờ mình mới để ý nhiều đến những gì gọi là cá tính dân phố cổ, ấy là tĩnh, thong thả và trầm ngâm. Dân phố cổ vốn là dân Kẻ Chợ xưa, ra mặt ngoài xởi lởi ồn ào, chạy ngược ngước xuôi, nói năng bặm trợn, khi thu vào phía trong ngõ phố người ta thèm biết bao nhiêu cái tĩnh cái thong thả, và trầm ngâm cũng từ nỗi thèm khát ấy mà ra.
Mình đọc được một tài liệu nào đó nói rằng kiến trúc phố cổ bắt đầu từ kiến trúc ba gian, bố trí thành nhiều lớp cách nhau bằng một sân nhỏ. Khi con cái lớn lên, ngôi nhà ấy phát triển theo chiều cao và chiều sâu, có nhà sâu tới hàng trăm mét. Sau này các ngôi nhà lớn ấy trở thành một xóm dân cư , mỗi ngõ là một xóm. Cái xóm thiếu sáng thiếu khí ấy tuồng như nằm dưới đáy cuộc sống, tĩnh lặng và bí mật. Cái sân nhỏ xưa trở thành giếng trời, dân trong xóm chung nhau cái giếng ấy như ở thôn quê dân trong xóm chung nhau một cái giếng làng vậy. Ấy là nơi giao tiếp của cả xóm, rồi ai nấy thu về góc riêng nhà mình, tĩnh lặng và bí mật.
Phố cổ Hà Thành mặt ngoài là phố thị, mặt trong là làng quê. Vào ngõ thấy yên tĩnh lạ thường, ai nấy khép kín trong ngôi nhà nhỏ của mình, đi nhẹ nói khẽ. Người trong xóm ít ai nói chuyện ồn ào, chào nhau bằng nụ cười bằng mắt, thế là quá đủ. Ở phố cổ nhiều xóm không có ngõ. Muốn vào nhà phía trong phải thông qua nhà ngoài. Khách khứa đi qua nhà ngoài cứ thế mà đi, khỏi cần chào hỏi. Người nhà cũng ít ai hỏi đi đâu đấy, vào đấy làm gì. Nếu khách đi qua nhà người ta cứ nhìn ngắm lung tung, chào hỏi linh tinh thế nào cũng bắt gặp cái nhìn khinh khỉnh khó chịu. Có lẽ những va chạm do chật chội, những giao tiếp nặng tính xã giao không thích hợp với văn hóa làng vốn là hồn cốt của phố cổ nên người phố ghét sự vồn vã đãi bôi dù hàng ngày họ phải dùng nó mỗi khi nháo ra mặt ngoài kiếm sống.
Tạo hóa đã cho phố cổ một khoảng lặng lớn ấy là Bờ Hồ. Dân phố cổ ra đấy để ngồi mình ngắm mặt hồ phẳng lặng, chẳng ai ra đấy để tụm năm tụm ba nói chuyện ồn ào, cái đấy dành cho khách vãng lai. Nhiều người đi lại thong thả quanh hồ, chỉ đi một mình với vẻ trầm ngâm rất chi là dân phố cổ, ít ai cặp đôi cặp ba vừa đi vừa nói chuyện như khách vãng lai. Thế mới biết dân phố cổ thèm yên tĩnh biết nhường nào, thèm và sợ mất đi yên tĩnh và thong thả ngàn năm tạo hóa đã dành cho họ.
Cho nên nhiều khi mình cứ nghĩ vẩn vơ, rằng giá phố cổ Hà Thành không có ô tô xe máy, cả xe đạp xích lô cũng không, sự nháo nhác ồn ào người và xe chen chúc chẳng những chèn ép tâm tính phố cổ mà còn phá vỡ kiến trúc tĩnh ngàn năm ông bà mình để lại.
Mình cứ nghĩ vẩn vơ, rằng mình và hầu hết những ai bây giờ về phố cổ không phải muốn về nơi phố xá ồn ào mà muốn về ngôi làng- phố chợ, một siêu thị cổ xưa, ấm áp và thân thiện. Dân Việt cổ xưa đi chợ cũng là đi chơi, bán mua là phụ rong chơi là chính, vậy thì tại sao chính quyền lại đổ lên lên phố cổ trách nhiệm của một trung tâm thương mại?
Ép cũng chẳng được. Cùng với thời gian phố cổ đã dần tước bỏ tính thương mại để lấy lại vẻ đẹp văn hóa ngàn năm của nó. Hàng Than chẳng còn than, Hàng Tre chẳng còn tre, Hàng Bạc Hàng Gai Hàng Chai Hàng Thùng… chẳng còn dấu vết hàng hóa mang tên chúng. Không bán mua không ra chợ nhưng mình cứ nghĩ vẩn vơ, rằng chợ Đồng Xuân chắc rồi cũng sẽ rủ bỏ nốt trách nhiệm thương mại để trở thành cái chợ làng cổ xưa, nơi người ta đi chợ như đi hội.
Ừ, mình cứ nghĩ vẩn vơ rằng bảo tồn phố cổ là trả về cái tĩnh cái thong thả cái trầm ngâm đất Thăng Long ngàn năm trước, bên một Hà Nội hiện đại ồn ào náo nhiệt và gấp gáp. Sao cho khi đã mệt mỏi với những ồn ào náo nhiệt của Hà Nội hiện đại, người ta có thể về với Thăng Long xưa, yên tĩnh và thong thả trên những nẻo đường thiêng, đất tiên tổ nghìn năm trước. Cho tất cả những ai chưa có điều kiện trở về ngôi làng cũ của mình để hưởng thụ cái tĩnh cái thong thả cái trầm ngâm ngàn vàng khôn chuộc, người ta có thể rảo bước về phố cổ.
Mình nghĩ vẩn vơ vậy đó, chẳng biết có đúng không?
NQL







Tôi muốn hét vang lên hai tiếng: Cảm ơn!
Thư cảm ơn của nhà báo Trần Đình Chính, tác giả bài thơ ” Ở hai đầu nỗi nhớ”

Nhà báo Trần Đình Chính
Thưa bạn đọc Blog Quê Choa, Blog Hiệu Minh!
Tôi là Trần Đình Chính, tức Trần Hoài Thu, tác giả bài thơ Ở hai đầu nỗi nhớ, đã được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc, được nhiều người yêu thích.
Bài thơ vừa được doanh nhân Nguyễn Xuân Hàn, Tổng giám đốc MASECO (TP Hồ Chí Minh) hỏi mua bản quyền với giá 300 triệu đồng. Sau khi lời chào bán bản quyền bài thơ được đăng trên Blog Quê Choa, (của nhà văn Nguyễn Quang Lập), Blog Hiệu Minh; và được trang web TTXVH của anh BaSam điểm hàng ngày trước mỗi thông tin mới.
Câu chuyện xung quanh bài thơ có quá nhiều nỗi bất ngờ nhưng cũng là nhiều may mắn với số phận tôi.
Bắt đầu từ việc, nhà báo Kim Dung (hiện làm việc tại Tuần Việt Nam- báo VietNamNet) có bài viết “Ở hai đầu nỗi nhớ” trên Blog Hiệu Minh. Bài viết của chị đăng tải trên blog, giữa lúc sức khỏe tôi sa sút, và phải nghỉ làm việc ở báo Nhân Dân ba năm nay, do mắc nhiều bệnh tật: Suy thận, tiểu đường, mắt rất kém…
Bất ngờ, tôi nhận được quà và nhiều lời thăm hỏi, động viên chia sẻ của các bạn đọc Blog Hiệu Minh. (Bao gồm: 100 USD của bác Ngô Thế Minh –ở Mỹ, 400 nghìn đồng của bác Như Nguyệt; và 600 nghìn đồng của chị Kim Dung). Điều đó, khiến tôi vô cùng cảm động: Mạng ảo nhưng tình người rất thật.
Về chế độ chính sách: Sau ba năm nghỉ làm việc, nhưng được hưởng cả thu nhập, bắt đầu từ tháng 1/2013 này tôi chỉ còn được hưởng 75% lương (khoảng 3,6 triệu đồng), mà mỗi tháng tiền thuốc men của tôi cần đến 12 triệu. Dù trước đó, khi tôi nghỉ, báo Nhân Dân cũng đã quyên góp được 65, 5 triệu đồng. Một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động (Cục Quản lý lao động ngoài nước- Bộ TB, LĐ & XH) đã ủng hộ tôi 112 triệu đồng.
Do phải chạy thận nhân tạo, và cần tiền chữa các bệnh khác, tôi nghĩ đến việc phải bán bản quyền bài thơ, một việc bất đắc dĩ nhưng không còn cách nào khác.
Điều bất ngờ nữa, sau khi lời chào bán bản quyền bài thơ của tôi đăng trên Blog Quê Choa, trên Blog HM, và trên trang web TTXVH của anh BaSam, tôi còn nhận được nhiều sự ủng hộ, chia sẻ, động viên bằng tài chính của các bạn đọc mà tuy không biết tên, nhưng tấm lòng của các bác, các anh chị em xa gần đã nói lên tất cả.
Đây cũng là sáng kiến của nhà văn Nguyễn Quang Lập, điều đó khiến gia đình tôi hết sức xúc động.
Đến thời điểm này, tôi đã nhận được nhiều sự ủng hộ, giúp đỡ chí tình của các bác các anh chị em là bạn đọc của các blog, là bạn đọc của các tờ báo Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, báo Tiền Phong, báo GDVN, báo Tuổi trẻ và Đời sống, báo Dân Việt…khi đọc được thông tin chào bán bản quyền bài thơ.
Gia đình tôi đã nhận được số tiền gần 7 triệu đồng, là tiền ủng hộ của các bạn đọc gửi vào số tài khoản đứng tên Phương Anh, vợ tôi.
Các số tài khoản đó là:
+ 500 nghìn đồng, từ TK 0701131034466002
+ 50 nghìn đồng, từ TK 0701130198532001
+ 300 nghìn đồng từ TK 0801130610608001.
+ 500 nghìn đồng, Người gửi Lưu Minh Phước.
+ 500 nghìn đồng của Hà Linh (Nhật Bản) nhờ Hoàng Tuấn Hưng gửi
+ 2000.000 đồng (chị Phạm Tâm Hiếu- báo Khoa học và Tổ quốc)
+ 1000.000 đồng (bác Trần Thanh Vân)
+ 1000.000 đồng (bác Đào Kiến Quốc)
+ 500 nghìn đồng (bác Nguyễn Thị Bích Nga)
+ 500 nghìn đồng từ TK 1101130720334001.
Tôi xin được cảm ơn nhà báo Kim Dung, nhà văn Nguyễn Quang Lập, Bloger Hiệu Minh, anh BaSam, những người đầu tiên làm cầu nối cho việc chào bán bản quyền.
Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam (VCPMC) đã rất quan tâm giúp đỡ tác giả về luật pháp khi chuyển nhượng tác phẩm bài thơ “ở hai đầu nỗi nhớ” cho công ty MASECO; đồng thời anh chị em trong Trung tâm còn ủng hộ tôi 10 triệu đồng.
Mặc dù, tác giả bài thơ Ở hai đầu nỗi nhớ chưa ký hợp đồng ủy thác quyền cho VCPMC, nhưng bài thơ này đã được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc và nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đã là thành viên của VCPMC. Do vậy, khi thu tiền sử dụng (tiền bản quyền) bài hát Ở hai đầu nỗi nhớ từ các đơn vị sử dụng, VCPMC phân chia tỷ lệcho tác giả nhạc 7/10 và tác giả lời 3/10. VCPMC đã chuyển toàn bộ số tiền thuđược trong 10 năm qua của bài thơ này ngay lập tức tới nhà thơ Trần Hoài Thu,đồng thời sẽ ký hợp đồng bảo vệ quyền tác giả cho bài thơ suốt cuộc đời tác giảcộng với 50 năm sau cho những người được tác giả trao thừa kế. Nếu bài thơ được bán độc quyền cho cá nhân hoặc tổ chức thì tổ chức hoặc cá nhân đó sẽ được độc quyền quyền tác giả trong thời gian độc quyền theo quy định trong hợp đồng giữa cá nhân và tổ chức với nhà thơ Trần Hoài Thu. Các tổ chức cá nhân nắm giữ quyềnđộc quyền đó có thể ủy thác lại toàn bộ hoặc một phần quyền cho VCPMC quản lý và khai thác.
Đặc biệt, ngay sau khi bản quyền bài thơ được doanh nhân Nguyễn Xuân Hàn hỏi mua, tôi vẫn tiếp tục nhận được nhiều sự giúp đỡ chí tình khác:
- Chị Thanh Hiếu cùng chồng là những lao động bình thường ở Đà Nẵng, đang nuôi hai con nhỏ và phải thuê nhà trọ để ở cho biết, đọc báo Tuổi trẻ và Đời sống, hay tin tôi bị bệnh trọng, chị rất thương cảm. Chị nói: Tôi không giàu về tiền bạc, nhưng tôi biết có một vị bác sĩ giỏi là người thân của tôi. Tôi đã điện thoại cho anh ấy gọi đến anh để giúp anh cách điều trị sao cho có hiệu quả nhất. Một lời mách bảo nhẹ nhàng chỉ thế thôi, đã làm tôi thật sự thấy ấm lòng.
-Bác Lâm Bình (phường Quan Hoa quận Cầu Giấy Hà Nội) trước đây làm việc ở Đài truyền hình Việt Nam nay đã nghỉ hưu, giới thiệu có phương cách chữa bệnh của tôi một cách khá hiệu quả. Bác nhận lời sẽ chữa bệnh miễn phí cho tôi nếu tôi hàng ngày đến nhà bác để thực hiện phương pháp điều trị này. Tôi đã nhận lời và đang thực hiện việc điều trị đó.
-Tôi cũng nhận được điện thoại của một người phụ nữ, tên là Thủy (Tiền Giang) thông báo rằng sẽ hiến cho tôi một quả thận và sẵn sàng hiến cả giác mạc nữa. Dì Thủy đề nghị tôi cung cấp thông tin về nhóm máu để khớp nối việc hiến thận.
- Bác sĩ Nguyễn Hồng Hải (đã về hưu), đang sinh sống tại số nhà 125 đường Xô Viết Nghệ Tĩnh (phường 17, quận Bình Thạnh, TPHCM), gọi điện hỏi thăm tình trạng bệnh của tôi. Ông cho biết, khi còn công tác tại bệnh viện, ông có thời gian làm việc và kết thân với một số bác sỹ người Úc. Họ tặng ông chiếc máy chạy thận nhân tạo, trị giá 25.000 USD. Nay ông quyết định sẽ tặng lại chiếc máy này cho tôi.
Ông đề nghị tôi tìm một trung tâm chạy thận nhân tạo tư nhân để hợp tác vận hành chiếc máy. Ngoài việc chạy thận miễn phí cho tôi, trung tâm này có thể sử dụng máy chạy thận cho người khác để tạo thêm thu nhập.
Tiền thu được từ khai thác chiếc máy sẽ được chia theo tỷ lệ: Trung tâm 60%, tôi 40%. Bác sỹ cho biết, 40% tôi được hưởng tính ra khoảng 12 triệu đồng mỗi tháng. Như vậy, hằng tháng, tôi sẽ có một khoản ổn định là 12 triệu để mua nhiều loại thuốc khác phục vụ cho việc điều trị (ông là bác sĩ khoa nội nên hiểu rất rõ sự tốn kém đối với bệnh nhân chạy thận nhân tạo muốn tồn tại).
Đây là sự giúp đỡ và sáng kiến khiến tôi rất cảm động. Bác sỹ tặng cả máy 25.000 USD, lại còn chỉ cho cách tạo thu nhập ổn định, lâu dài để chữa bệnh. Tôi đã nhờ con gái đi tìm hiểu thông tin xem có trung tâm nào giúp được theo gợi ý của bác sĩ Hồng Hải không. Được thì tốt biết mấy.
-Ông Huỳnh Văn Rô, (xã Trí Bình, huyện Châu Thành, Tây Ninh) đã gọi điện cho biết, ông chữa bệnh tiểu đường và suy thận bằng thuốc nam và ấn huyệt, đã chữa khỏi cho nhiều người. Nay ông muốn đón tôi vào chữa bệnh, ăn, ở miễn phí tại Tây Ninh… Do điều kiện sức khỏe tôi không thể bào Tây Ninh được, nên ông Huỳnh Văn Rô đã gửi thuốc ra Hà Nội cho tôi.
-Một thông tin mới nhất tôi cũng muốn thông báo đến các bác, các anh chị em: Chiều ngày 17/1, phóng viên báo Tiền Phong cho biết: Đại diện Ngân hàng Đại dương (OSeanBank) thông qua báo Tiền Phong muốn gặp tôi trong một ngày gần nhất để thảo luận phương pháp giúp đỡ tôi như thế nào cho hiệu quả nhất trong việc điều trị bệnh tật. Cụ thể phương cách đó như thế nào tôi sẽ thông tin đến các bạn sau.
Ngày 16 và 17/1 đối với tôi là những ngày thực sự cảm động và hạnh phúc, vì được sống trong tình thương yêu của rất nhiều người có tấm lòng nhân hậu. Bên cạnh nhận được nhiều sự giúp đỡ, sẻ chia của mọi người, tôi cũng thấy thấm thía nỗi khổ của bệnh nhân chạy thận, tiểu đường.
Bệnh nhân cũng khổ, nhưng có khi người vợ, người mẹ… có chồng, con bị bệnh cùng đi chăm sóc, nuôi dưỡng ở bệnh viện trường kỳ ngày này qua tháng khác, còn khổ hơn nhiều. Bệnh nhân chạy thận không hẹn ngày về, “xuất viện là ra đi”. Còn tiểu đường thì phải “sống chung” thôi. Người nghèo, không có bảo hiểm mà bị bệnh này, coi như sống kiếp trời đầy ở trần gian. Mình có chút “thơ ca, hò vè” may mắn được nhiều người biết đến, quan tâm, chứ người nghèo khổ vô vàn.
Từ trong tư duy và thực tế cuộc sống tôi nghĩ rằng mình may mắn được khỏi bệnh, thì tôi sẽ lập Quỹ vì những người bệnh tiểu đường và bệnh thận… Tôi sẽ gom tất cả những sự ủng hộ, đóng góp mà mọi người dành cho để chia sẻ với những người cùng cảnh ngộ, nhất là những bệnh nhân nghèo.
Tôi đã từng viết trên báo Nhân Dân rằng: Cái đáng giá nhất mỗi người để lại trần thế là tưởng như là bạc vàng nhưng lại hóa ra không phải. Cái đáng giá nhất mỗi người để lại trần thế chính là tình yêu thương con người đối với nhau. Vì thế tôi muốn hét lên rằng: Tôi muốn Cảm ơn các bạn! Cảm ơn các bạn! Cảm ơn các bạn!
Trần Đình Chính







January 20, 2013
Đà Nẵng phản pháo: Thanh tra không nên ‘làm ảnh hưởng đến phong trào cách mạng’
Sông Lam

Một góc Đà Nẵng
NQL: Cứ theo ý tứ mà suy, nói như bác Trần Hữu Dũng, thì Đà Nẵng kết tội Thanh tra chính phủ là ” phản cách mạng”, hi hi. Muốn biết Thanh tra chính phủ làm ăn ra răng, xin đọc thêm bài “Dòng chảy ngược VDB” ( Tại đây)
Phản bác mạnh mẽ kết luận của Thanh tra Chính phủ, Đà Nẵng, trên Cổng thông tin điện tử TP Đà Nẵng, cho rằng, thanh tra giúp chỉ ra khiếm khuyết của lãnh đạo chứ ‘không phải quy kết thiếu tính thuyết phục, làm ảnh hưởng đến phong trào cách mạng của Thành phố’.
Đà Nẵng cho biết đang ‘chủ động’ mời Bộ KH&ĐT, Bộ TN&MT, Bộ Tài chính vào làm việc, cũng như đang làm việc với Đoàn công tác của Bộ Công an.
Theo Cổng thông tin điện tử TP Đà Nẵng, Thanh tra Chính phủ kết luận gây thất thu ngân sách 3.434.254.712.950 đồng là không có cơ sở, thiếu tính thuyết phục.
‘Kết luận này làm ảnh hưởng rất lớn đến phong trào cách mạng của Thành phố và quá trình thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 16/10/2003 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước’, Đà Nẵng tuyên bố.
Theo đó, trong hơn 16 năm qua, với sự nỗ lực, cố gắng của Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân Thành phố và sự hỗ trợ giúp đỡ của Trung ương, Đà Nẵng đã có những thay đổi toàn diện về bộ mặt đô thị, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện và nâng cao, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Thành phố đã tập trung thực hiện hiệu quả các chương trình mang tính nhân văn như Chương trình “thành phố 5 không” với mục tiêu “Không có hộ đặc biệt nghèo, không có học sinh bỏ học, không có người lang thang xin ăn, không có người nghiện ma túy trong cộng đồng, không có giết người để cướp của”; Chương trình “thành phố 3 có” với các mục tiêu “có nhà ở, có việc làm và nếp sống văn minh đô thị”, xây dựng thành phố môi trường…. Đấy là những tiền đề để Thành phố tiếp tục xây dựng thành trung tâm phát triển, là một trong những Thành phố đầu tàu trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tham gia tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế của miền Trung. Cái quý nhất là Đà Nẵng đã tạo được sự đồng thuận cao của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội trong việc thực hiện các chủ trương của Thành phố.
“Lâu nay Đà Nẵng cũng được Trung ương đánh giá là nơi có phong trào tốt, có những cách làm mới, hiệu quả”.
“Thanh tra là để chỉ ra những khiếm khuyết trong quá trình lãnh đạo nhằm rút kinh nghiệm để làm tốt hơn chứ không phải quy kết thiếu tính thuyết phục, làm ảnh hưởng đến phong trào cách mạng của Thành phố”, thông cáo của người đứng đầu chính quyền TP Đà Nẵng nhận định.
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 1930/VPCP_VI ngày 19/11/2012 thì hiện nay, UBND thành phố đang làm việc với Đoàn Công tác của Bộ Công an và đã chủ động có Công văn số 475/UBND-NCPC ngày 16/01/2013 đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sớm sắp xếp thời gian vào làm việc với Thành phố để xác minh làm rõ theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, thông báo của Đà Nẵng cho hay.







Sức khỏe lãnh đạo VN qua “Bên thắng cuộc”
Nguyễn Văn Tuấn
Mấy hôm nay đọc cuốn Bên thắng cuộc của Huy Đức rất thú vị, nhất là tập II (Quyền bính). Đọc chưa xong, nhưng tôi chú ý đến đoạn tác giả viết về tình trạng sức khỏe của các lãnh đạo Đảng CSVN. Đọc đoạn này mới biết một thông tin quan trọng: người Tàu nắm giữ thông tin về sức khỏe của lãnh tụ cao cấp VN còn hơn cả các bác sĩ Việt Nam. Thật là khó hiểu!
Thông thường các thông tin về sức khỏe lãnh tụ thường được giữ kín, không tiết lộ ra ngoài. Ở Mĩ, mãi đến năm 1955, người ta mới cho giới báo chí tiếp cận vài thông tin về sức khỏe của các tổng thống và lãnh đạo. Sau này thì chúng ta biết rằng những thông tin đó không còn là bí mật nữa (hay bí mật mà chúng ta không biết). Nhưng trong thế giới xã hội chủ nghĩa thì những thông tin về bệnh tật của lãnh tụ được giữ kín. Tuy nhiên, Huy Đức đã tiết lộ qua Chương 19 (Đại hội VIII) trong cuốn Bên thắng cuộc vài thông tin rất thú vị. Chương 19 có đoạn nói cái chết của ông Lê Mai và Nguyễn Đình Tứ (những chữ nghiêng là trích từ sách, và chữ thường là ghi chú của tôi):
Trước Đại hội VIII, ứng cử viên sáng giá cho chức Bộ trưởng Ngoại giao, ông Lê Mai, bị mất đột ngột; ngay sau bầu cử, một tân ủy viên Bộ Chính trị, ông Nguyễn Đình Tứ, cũng đột tử trước khi nhận chức [473]. Cái chết của ông Tứ đã làm thay đổi chút ít phương thức tiến hành đại hội. Cho dù quy trình nhân sự vẫn được làm kỹ trong thời gian trù bị, nhưng từ Đại hội IX, chỉ khi đại hội chính thức khai mạc việc bỏ phiếu mới được tiến hành. Ngoài hai trường hợp chết bất ngờ này, chuyện sức khỏe Trung ương trước và sau Đại hội VIII cũng diễn ra đầy kịch tính.
Còn tướng Lê Đức Anh thì bị đột quị:
Ch ỉ m ấ y tháng sau Đ ạ i h ộ i, T ướ ng Lê Đ ứ c Anh b ị đ ộ t qu ỵ . Ông b ị xu ấ t huy ế t não khá n ặ ng. Thông tin v ề b ệ nh tình c ủ a T ướ ng Anh đ ượ c gi ữ kín tuy ệ t đ ố i. H ơ n ba tháng sau, khi b ắ t đ ầ u h ồ i ph ụ c, b ằ ng m ộ t ý chí t ạ i v ị s ắ t đá, T ướ ng Lê Đ ứ c Anh quy ế t đ ị nh v ẫ n xu ấ t hi ệ n trên truy ề n hình và đài phát thanh đ ọ c l ờ i chúc m ừ ng năm m ớ i.
Giám đốc Quân y viện 108, Bác sỹ Vũ Bằng Đình, nói: “Chúng tôi phải hộ tống ông từ bệnh viện ra phòng thu. Ống kính chỉ quay nửa người nên dân chúng không biết ông vẫn ngồi trên giường bệnh. Các bác sỹ nấp phía sau sẵn sàng cấp cứu”.
Đọc đoạn này làm tôi nhớ đến năm 1919, sau khi tổng thống Woodrow Wilson bị tai biến mạch máu não, ông được các quan chức Nhà trắng khuyên phải để râu để che lấp phía trái của mặt bị teo lại vì cơn bệnh. Chẳng những thế, văn phòng ông làm việc mỗi khi khách đến thăm được điều chỉnh ánh sáng sao cho mờ mờ để che dấu khuyết tật của ông. Tương tự, bệnh bại liệt (polio) của tổng thống Roosevelt và bệnh Addison của tổng thống Kennedy cũng được các quan chức Nhà trắng dấu kín, không tiết lộ cho công chúng biết.
Nhưng điều khó hiểu là bác sĩ VN không nắm được phác đồ điều trị của bác sĩ Tàu:
Theo Bác s ỹ Vũ B ằ ng Đình, sau khi đ ọ c xong l ờ i chúc năm m ớ i, ông Lê Đ ứ c Anh v ề nhà, t ừ đây, ông đ ượ c m ộ t ê-kip bác s ỹ ng ườ i Trung Qu ố c tr ự c ti ế p chăm sóc trong giai đo ạ n h ồ i ph ụ c. Các bác s ỹ Vi ệ t Nam hoàn toàn không bi ế t phác đ ồ đi ề u tr ị mà các bác s ỹ Trung Qu ố c dùng cho T ướ ng Lê Đ ứ c Anh.
Ông Đỗ Mười thì có lúc mắc bệnh tâm thần và phải đi China đề điều trị:
Người Trung Quốc còn nắm giữ không ít bí mật về sức khỏe của các nhà lãnh đạo Việt Nam. Giữa thập niên 1990, thỉnh thoảng, bị cánh nhà báo chặn lại khi vừa bước từ toilet ra, Tổng Bí thư Đỗ Mười, với quần quên kéo khóa, leo lên chiếc bàn nước nhỏ đặt phía sau Hội trường Ba Đình, ngồi xếp bằng vui vẻ chuyện trò với dân báo chí. Nhiều khi cao hứng, ông nói: “Tôi đã từng bị thần kinh đấy”. Không phải ông nói đùa, theo ông Nguyễn Văn Trân, Bí thư Trung ương Đảng khóa III, người từng hoạt động với ông, có thời gian ông Đỗ Mười bị bệnh thần kinh, gần như không thể làm việc, có lúc lên cơn, ông phải dùng một cây gậy múa cho hạ nhiệt, có lúc người ta thấy ông Đỗ Mười một mình leo lên cây… Năm 1963, ông đã phải đi Trung Quốc chữa bệnh tới mấy năm mới về Việt Nam làm việc [474].
Qua chương này tôi mới biết vài lãnh đạo VN thời đó giấu bệnh hoặc không chịu nhận mình mắc bệnh:
Từ trước Đại hội VIII, khi công việc cơ cấu nhân sự bắt đầu, theo ông Nguyễn Văn An, người có trách nhiệm nắm hồ sơ các nhà lãnh đạo, kể cả các hồ sơ về sức khỏe, trong Bộ Chính trị xuất hiện một số “ông giấu bệnh”. Ông Lê Xuân Tùng, sau khi bị tai biến, một chân gần như bị liệt vẫn khẳng định là đang rất khỏe. Ông Lê Minh Hương giấu bệnh tiểu đường nặng. Ông Đoàn Khuê giấu bị ung thư hạch. Ông Đào Duy Tùng bị ung thư nhưng vẫn bám giữ chức Trưởng Ban Văn kiện của Đại hội cho đến khi bị tế bào ung thư lan lên não.
Tổ trưởng Tổ Biên tập Văn kiện Hà Đăng kể: “Trong nhiều cuộc họp, cả trong một vài cuộc tiếp xúc, thấy anh (Đào Duy Tùng) có những lúc lim dim, chừng như lơ đãng… Sau Hội nghị Trung ương 10, Tổ Biên tập Văn kiện chúng tôi họp lại trên cơ sở tiếp thu những ý kiến của Trung ương, sửa chữa lần cuối bản Dự thảo Báo cáo chính trị. Tôi thay mặt Tổ trình bày nội dung và cách sửa. Anh vẫn lim dim. Và khi tôi trình bày xong, anh đặt một vài câu hỏi, lại chính là những điều tôi vừa nói” [475]. Tháng 5-1996, “ứng cử viên tổng bí thư” Đào Duy Tùng xuống Hải Phòng dự đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố, đang phát biểu thì bị đột quỵ rồi từ đó, như đã nói, ở trong tình trạng hôn mê sâu cho đến khi qua đời [476].
Tin vào thuốc Bắc:
Ông Nguyễn Văn An kể: “Khi chuẩn bị nhân sự chủ chốt, ông Lê Đức Anh vẫn giới thiệu Đoàn Khuê làm chủ tịch nước và Thường vụ không có ai phản đối. Tôi gặp anh Đỗ Mười nói Đoàn Khuê bị ung thư đấy, anh Mười nói: Đoàn Khuê nói với tao, uống tam thất nó tan hết rồi mà. Đoàn Khuê còn vạch bụng cho tao xem. Tôi bảo: thưa anh, theo chuyên môn thì đấy là khối u nó chạy chứ không phải tan đâu ạ”.
Dứt khoát không chịu điều trị:
Theo Giáo sư Vũ Bằng Đình, viện trưởng Quân y 108 kiêm phó chủ tịch Hội đồng Bảo vệ sức khỏe Trung ương: “Chúng tôi phát hiện Đoàn Khuê bị ung thư hạch rất sớm. Sau khi bí mật hội chẩn trên cơ sở các mẫu xét nghiệm mà không cho biết là của ai, tất cả các chuyên gia trong nước đều khẳng định đấy là ung thư hạch. Tôi đích thân trên dưới mười lần đến năn nỉ ông vào bệnh viện. Biết khi ấy ông Lê Đức Anh đang giới thiệu Đoàn Khuê kế vị, tôi trấn an ông: nếu anh đồng ý để chúng tôi chữa trị kịp thời thì anh không những có thể sống thêm một thời gian dài mà còn có sức khỏe để đảm đương những nhiệm vụ quan trọng hơn. Nhưng ông Đoàn Khuê vẫn phủ nhận kết quả hội chẩn và chỉ thị cho tôi phải báo cáo Hội đồng Bảo vệ sức khỏe Trung ương là ông chỉ bị viêm hạch”.
Nhưng bác sĩ nhất định báo cáo bệnh án:
Trước khi Quốc hội khóa IX nhóm họp để chuẩn bị nhân sự cao cấp, theo Đại tá Vũ Bằng Đình, Tướng Lê Khả Phiêu, với tư cách là ủy viên thường vụ Thường trực Bộ Chính trị, cùng với Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Nguyễn Văn An yêu cầu Viện 108 báo cáo sức khỏe của cả hai vị tướng Lê Đức Anh và Đoàn Khuê. Ông Đình nói: “Tôi và bác sỹ Nguyễn Thế Khánh cùng ký vào bệnh án, bí mật báo cáo lên Bộ Chính trị”.
và bác sĩ bị mất chức chỉ vì dám báo cáo bệnh của lãnh đạo:
Theo ông Nguyễn Văn An: “Sau khi anh em đưa cho tôi bệnh án của Đoàn Khuê: ung thư gan giai đoạn ba, chỉ có thể kéo dài cuộc sống không quá một năm, họp Thường vụ Bộ Chính trị, tôi đưa vấn đề sức khỏe ra, ông Đoàn Khuê vẫn cãi. Tôi phải công bố bệnh án”. Đoàn Khuê đập bàn tuyên bố: “Tôi là người khỏe mạnh, chúng nó phá. Tôi sẽ cho hai thằng đó nghỉ”. Đại tá Vũ Bằng Đình nhớ lại: “Cả tôi và anh Lê Thi, bí thư Đảng ủy Viện 108, nhận được quyết định nghỉ ngay lập tức”. Không chỉ “lỡ cơ hội” trở thành nguyên thủ quốc gia, bệnh tình Đoàn Khuê tiến triển xấu từng ngày. Cuộc sống của ông chỉ còn sáu tháng thay vì một năm như dự đoán. Ngày 16-1-1998, Tướng Đoàn Khuê chết.
Đọc qua những trích dẫn trên đây, dễ dàng thấy Đảng CSVN rất coi trọng vấn đề sức khỏe của lãnh đạo. Điều này thì chắc chẳng có gì đáng ngạc nhiên vì có sức khỏe tốt mới làm lãnh đạo được. Nhưng ngạc nhiên là Đảng có hẳn một ban bảo vệ sức khỏe cho lãnh đạo. Tôi không rõ các nước như Mĩ, Canada, và Âu châu có ban này hay không, nhưng ở Úc thì không có. Thủ tướng Úc khi mắc bệnh vẫn đi chữa bệnh ở các bệnh viện như mọi người, và họ cũng không giấu diếm bệnh trạng với công chúng. Tại sao để cho Tàu nắm thông tin về tình hình sức khỏe của lãnh đạo Việt Nam?
Đoạn trích dẫn trên còn cho thấy làm bác sĩ cho mấy lãnh đạo xem ra là một nguy cơ. Đến nỗi chỉ đơn giản báo cáo bệnh của các vị lãnh đạo mà bị mất chức. Ở các nước phương Tây, bác sĩ ra y lệnh và bệnh nhân, dù là thủ tướng, phải tuân thủ; còn ở VN, bệnh nhân lãnh đạo ra lệnh ngược lại cho bác sĩ! Chẳng biết các bệnh nhân này có hành xử như thế với các bác sĩ Tàu hay không?
Chú thích:
[473] Ngày 27-6-1996, trong phiên trù bị, Đại hội Đảng lần thứ VIII đã bầu Giáo sư Nguyễn Đình Tứ, một nhà vật lý tên tuổi, vào Trung ương và ngay sau đó, được Trung ương đưa vào Bộ Chính trị. Sẽ không có gì để thường dân xầm xì nếu như ông Nguyễn Đình Tứ không bị tai biến và đột ngột chết vào lúc 20 giờ ngày hôm sau, 28-6-1996, ngày mà về công khai, Đại hội VIII mới bắt đầu khai mạc. Và theo chương trình làm việc được công bố cho người dân thì mãi tới ngày 30-6-1996, đại hội mới bắt đầu bầu cử. Thế nhưng, Cáo phó do Ban Chấp hành Trung ương đưa ra vẫn phải công bố ông Nguyễn Đình Tứ là ủyy viên Bộ Chính trị. Những người trong hệ thống thì không có gì bất ngờ, nhưng thường dân ngay tình thì không hiểu tại sao một người chết vẫn được Đảng bầu vào hàng ngũ mười chín người quyền lực nhất.
[474] Ông Đặng Quốc Bảo xác nhận, ông đã từng đi Trung Quốc chữa bệnh cùng ông Đỗ Mười mấy năm trời. Trong tiểu sử tóm tắt của ông Đỗ Mười, có một khoảng trống từ năm 1961 đến 1967 không nêu chi tiết chức vụ và công việc.
[475] Tuyển tập Đào Duy Tùng II, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2008, trang 634.







“Quan tòa” thứ năm
Ba Sàm
Về cuốn sách Bên Thắng Cuộc, tiếp lời hẹn sáng qua, xin bàn về loại “quan tòa” thứ năm đang xử án tác giả Huy Đức. Họ chính là các vị TBT của những tờ báo PLTP, DV, SGGP, TT, CATP, … đang tham gia vào “phiên xử” này. Tại sao nói họ “kinh khủng và đáng lên án”? Bởi không đơn giản họ là những “quan tòa” nấp sau cánh gà, mà họ còn đang “bắn” vào lưng đồng đội …
Cách đây chừng 5 năm, trong cuộc trò chuyện với một nhà báo cao niên về nỗi thống khổ mà tờ tạp chí của ông luôn phải chịu đựng vì hay bị “soi” và đe nẹt, chúng tôi đã bàn tới một “chiến thuật”, gọi là “giàn hàng ngang mà tiến”. Đó là các báo muốn cố gắng xông pha vào một số vấn đề được coi là “nhạy cảm” chính trị, thì nên nhìn nhau, thống nhất cùng nhau mà thực hiện, hơn là cứ mạnh ai nấy xông lên. Có như vậy thì mới đỡ bị “bắn” hạ một cách đơn độc. Có lẽ nhiều lãnh đạo các báo cũng thừa hiểu và từng cố gắng làm điều này. Ví như vụ TS Cù Huy Hà Vũ kiện thủ tướng, chỉ thị trong giao ban rằng chỉ trang web chính phủ đưa tin thôi, nhưng hàng loạt báo đài đã cùng “vi phạm”. Thế là không dễ xử lý với từng đó kẻ “tội đồ”. Gần đây là vụ đưa tin Trung Quốc “cắt cáp” tàu Bình Minh 2. Không biết có phải vì nhiều nơi “vi phạm”, khó xử lý cả, hay Ban Tuyên giáo cũng đã phải nghĩ lại trước dư luận trái chiều rất mạnh, mà tới giờ chưa thấy thông báo kỷ luật.
Phải kể lại chuyện này vì muốn các nhà báo hình dung lại khái niệm mình là thứ “quyền lực thứ Tư”, đang cùng nhau chiến đấu trên mặt trận chống lại những tiêu cực xã hội. Rất cần kề vai sát cánh, đoàn kết, chung lòng.
Làng báo cũng như độc giả quá biết Huy Đức – Ô sin là ai. Ông, cùng với tờ SGTT của mình, hay những báo khác trước đây ông tham gia, không những từng có những bài báo sắc sảo, mạnh mẽ đấu tranh cho phát triển xã hội, mà còn mở blog riêng, cố gắng “lách” trong cả rừng kiểm soát khắt khe. Không dừng ở đó, ông đã tận dụng lợi thế của một nhà báo, không bỏ phí tư liệu thu thập được bao năm ròng khi tác nghiệp, để bước qua lãnh địa sử học, đóng góp cho xã hội một bộ tài liệu vô giá. Nên có thể đánh giá cuốn “Bên thắng cuộc” là một tác phẩm báo chí độc đáo của một nhà báo giỏi và đầy tâm huyết.
Tất cả những phản ứng của độc giả ít nhất là qua trang blog này đã chứng tỏ sự ủng hộ của quần chúng lớn tới đâu đối với cuốn sách. Chưa kể tới bao nhiêu vị trí thức, nhân sĩ, giới văn nghệ, cán bộ, đảng viên … ở ngoài đời, đã thể hiện thái độ háo hức và trân trọng đến thế nào đối với nó.
Thế nhưng, các đồng nghiệp đứng đầu các tờ báo nói trên đã làm gì? Có phải họ ẩn nấp phía sau, rồi bằng các phiên tòa lưu động là tờ báo của mình, được họ tùy ý sử dụng, để “bắn” vào lưng đồng đội Huy Đức đang tiến lên đơn độc hay không? Sợ dư luận lên án và muốn đánh lừa độc giả, họ sử dụng những bài viết cố kiếm cách lập luận quanh co, ngụy biện, chụp mũ, đặc biệt là chỉ một chiều, không có phản hồi, tranh luận từ nhiều phía, hầu như không có dẫn chứng cụ thể, để nhồi vào phiên tòa mà họ hoàn toàn kiểm soát. Làm vậy, không những họ đang bắn vào lưng đồng đội, mà còn bắn bằng … “súng giảm thanh”, với những viên đạn “bọc đường tẩm thuốc độc”, bắn vào không chỉ đồng nghiệp Huy Đức.







Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
