Nguyễn Quang Lập's Blog, page 100
January 16, 2013
60 tỷ đô la có nhiều không?
Hiệu Minh
Tin tức cho hay, tổng nợ phải trả của các doanh nghiệp nhà nước ở thời điểm này là hơn 1,33 triệu tỷ đồng, tức hơn 60 tỷ đôla.
Đây là con số gây chấn động được đưa ra tại Hội nghị Chính phủ với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì hôm thứ Tư 16/1 tại Hà Nội.
Nhiều bạn tự hỏi, số tiền 60 tỷ trên có nhiều không. Việc này tùy vào bạn đang đứng ở chỗ nào trên trái đất.
Hoa Kỳ có GDP (nominal) năm 2012 là 15 ngàn tỷ đô la, Việt Nam có khoảng 138 tỷ. 60 tỷ tương đương với hơn một nửa GDP của Việt Nam.
Doanh thu của Starbucks hàng năm khoảng 10 tỷ đô la và lãi khoảng hơn 1 tỷ. Như vậy tương đương với 60 năm làm việc của Starbucks với 150 ngàn nhân viên. Với người Mỹ thì không nhiều.
Dân thường ta thì sao. Nếu chia đều số tiền 60 tỷ đô la trên cho 90 triệu dân, mỗi người được 666$ (15 triệu đồng VN), chia cho dân số Mỹ 305 triệu, mỗi người được 197$.
Mỗi xuất McDonald (Big Mac) khoảng 5$ bao gồm bánh mỳ kẹp thịt, coca cola uống mệt nghỉ và gói khoai tây chiên. Với số tiền trên toàn dân Mỹ có thể sống được khoảng 40 ngày, không cần làm gì, mỗi ngày hai bữa fast food nhòe.
Nếu 90 triệu dân ta ăn phở, mỗi người 15 triệu đvn (25.000-30.000 đồng/bát), cũng được cỡ 500 bát. Nghĩa là gần cả năm liền, cả nước ta mỗi ngày hai bát phở, không phải một nắng hai sương, ra đồng cầy cấy.
Chiều dài, rộng và bề dầy của tờ 1$, 5$, 10$, 20$, 50$ và 100$ hoàn toàn như nhau (0.0043″ dầy X 2.61″ rộng X 6.14″ dài).
Nếu xếp những tờ 100$ lên nhau thì 60 tỷ đô la có chiều cao tương đương với 65,5km.
Xếp nghiêng toàn tờ 100 $ bằng đoạn đường từ Hà nội về chỗ Phủ Lý giáp Ninh Bình. Nếu xếp tờ 10$ thì ngang đoạn Hà Nội – Huế.
Một tỷ người hiện dưới mức nghèo (thu nhập 1$/ngày) trên hành tinh thì có thể sống trong 60 ngày.
Quả đấm thép của Việt Nam ảnh hưởng mạnh như thế đó.







Đừng như những con vẹt
Bùi Văn Bồng

Thấy khách đến nhà, nó vội hót lên: “Tất nhiên”. Khách chửi nó là đồ ngu, nó cũng gật cái đầu có lông ngũ sắc rất sặc sỡ: “Tất nhiên”. Khách bảo: “Vặt lông mày bây giờ”, nó cũng: “Tất nhiên”. Ông chủ có lúc bí tiền, đem con vẹt ra chợ bán. Có một ông khách sộp đến mua. Chủ hàng giới thiệu: “Ông mua đi, hơi đắt một chút, nhưng con vẹt của tôi khôn lắm, hỏi cái gì nó cũng biết”. Khách hàng nhìn như xoáy vào con vẹt, hỏi: “Đúng không mày, cái gì mày cũng biết hả?”. Con vẹt phát âm: “Tất nhiên”. Ông khách mừng quá, đồng ý mua với giá cao. Ông chủ khoái chí nhét tiền vào túi.
Đó là câu chuyện ngụ ngôn con vẹt ở nước Nga xa xôi. Chuyện ở xứ Việt ta, lại thế này: Ông Bảy Nhị giật mình vì hiện tượng con vẹt. Tôi được nghe câu chuyện do Ts. Tô Văn Trường kể lại: Ông Bảy Nhị, nguyên Chủ tịch kỳ cựu của UBND tỉnh An Giang kể lại rằng, một đoàn cán bộ Trung ương về An Giang, rất sâu sát cơ sở, làm việc có trách nhiệm và hăng hái. Sau khi làm việc ở tỉnh, về huyện, rồi về xã, lại gặp cả đảng viên thường ở xóm, ấp. Hỏi về chuyện gì, thấy các cán bộ, đảng viên từ tỉnh xuống tận cơ sở đều nói rất giống nhau. Không thấy ai nói khác.
Trước khi rời An Giang, ông trưởng đoàn cán bộ Trung ương khen: “Công nhận ở Đảng bộ An Giang có tính thống nhất rất cao, hỏi từ trên xuống dưới, thấy vấn đề gì cũng thấu đáo, thống nhất từ dưới lên trên”. Lúc đó, ông Bảy Nhị cũng mừng thầm. Nhưng đoàn đi rồi, nghĩ lại lời khen đó, ông Bảy Nhị mới chợt giật mình: “Thôi chết, không khéo mình đang chỉ đạo, điều hành cả một “lũ vẹt”. Cán bộ, đảng viên đã rất “ngoan Đảng” nói không sai với những phổ biến của trên. Trên đã nói sao, đi học tập, bối dưỡng, tập huấn về, cứ y nguyên thế mà phát ra, không ai dám nói khác. Dù họ có nghĩ thật đến mấy, thực tế có khác đến mấy, nhưng khi phát ngôn, họ đều nhất nhất nói đúng với ý chỉ đạo của cấp trên, đặc biệt là với các đoàn kiểm tra xuống, với nhà báo, phải phát ngôn đúng như hướng dẫn. Thế thì nguy, ai mà nắm được thực trạng, thực tế, nắm đúng bản chất thực tế, thực trạng để giải quyết”. Khi đó, với cương vị đang là Phó Bí thư, Chủ tịch UBND tỉnh, ông Bảy Nhị đã biết giật mình đúng cái việc, cái chuyện phải giật mình, Vậy cũng mừng.
Mừng bởi vì có những người lãnh đạo như anh Bảy Nhị, rất cần và tôn trọng sự chân thực, cần cái vốn có trong tâm tư, nguyện vọng, suy nghĩ của mỗi người. Cuộc sống trong mỗi chúng ta, làm gì có ai giống ai. Từ nhìn nhận, xem xét, đánh gia một vần đề gì đó, bên cạnh sự thống nhất chung, nhận diện chung, còn có cái riêng, mỗi người có cách ghi nhận tầm mức, đặc tả, phân tích vấn đề khác nhau. Vậy mới là xã hội. Ngay trong gia đình cũng vậy, ruột thịt đấy, nhưng đâu phải ai cũng như ai, kể cả anh chị em sinh đôi. Và ngay trong mỗi con người cũng vậy, luôn luôn có diễn biến tự mâu thuẫn thực thể. Tức là mọi sự, kể cả nhận thức, đâu phải lúc nào cũng y hệt nhau. Đó là quy luật của phép biện chứng, đứng im chỉ là tạm thời, vận động là liên tục. Tư tưởng con người là đồ thị biến thiên không ngừng, luôn luôn mở theo hình xoáy trôn ốc. Tư duy con người là hình nón, đâu phải hình que? Cái duy lý, duy ý chí, rập khuôn, khô cứng cũng là do nếp quen không mang tính cách mạng, là trên nói sao, dưới phải nghe vậy, rồi nói cho dưới nữa cùng phải như vậy. Thế nên, đi đâu, đến đâu, gặp ai, tình huống, bối cảnh nào cũng nói một kiểu không đổi, thì là con vẹt chứ còn gì (?!). Tuy là xã hội đã tiến tới thời đại văn minh, hiện đại, nhưng cái lối ngu trung từ thời phong kiến xa xưa cũng từ đó xuất hiện trở lại và tồn tại. Thật là tai hại, kìm hãm sự phát triển tự nhiên, hạn chế năng động, khó đổi mới.
Tháng trước, ngồi uống cà phê với một vị đương chức là Phó Ban tuyên giáo thành ủy. Tôi hỏi: “Cái vấn đề (này, kia) hôm trước ngồi mấy anh em thân thiết, ông nói khác, tại sao trong hội nghị không thấy ông nói ra được những cái hay như thế?”. Nhà Tuyên giáo nói: “Anh ơi, đó là chuyện nói ở bàn trà, nó thật lòng như thế, nhưng nói ở Hội nghị, với bàn dân thiên hạ phải nói theo chỉ đạo của trên. Nếu như nói trật, có mà gay”.
Tôi hỏi: “Gay, là sao?” Vị cán bộ nọ nhìn quanh quất trước, sau, rồi mới nói: “Nói phải đúng như chỉ đạo, nói sai bị phê bình đấy, mà còn dọa cách chức hoặc điều chuyển việc khác”…
Lần này, lại đến tôi giật minh. Ô, hóa ra Đảng ta vẫn đặt ra đường hướng là làm cách mạng phải sâu sát thực tế, đi sát cơ sở, nắm bắt kịp thời mọi diễn biến và những phát sinh mới từ trong thực tiến. Qua đó cần biết tự chủ phát huy nội lực, tự thân vận động, nỗ lực chủ quan của mỗi người là rất cần thiết, khuyến khích và đề cao sáng tạo ở mỗi con người, mỗi cơ sở. Nghị quyết, chủ trương là vạch đường, chỉ lối, còn đi thế nào, làm cách nào cho có hiệu quả, đạt chất lượng cao thì mọi người (mỗi thực thể cá nhân, mỗi ngành, địa phương, cơ sở) phải biết phát huy sảng kiến, mạnh dạn sáng tạo, lấy hiệu quả, chất lượng cuối cùng làm trọng. Đó cũng là Nghị quyết, là đường lối của Đảng, chứ có khác gì đâu?
Tại sao tư duy và phát ngôn của cán bộ, đảng viên ta lại bị rơi vào sự “khung kín”, bị rập khuôn, máy móc như thế? Đi họp, dự các hội nghị lại ít tập trung theo dõi, không vận hóa tư duy, lười suy nghĩ đóng góp ý kiến (nhiều vị thậm chí cũng không bết nên góp ý kiến thế nào). Họ cứ ngồi, hỏi thì nói mỗi hai từ quen thuộc: “Nhất trí”, cần thì giơ tay biểu quyết, cho xong việc. Họp xong, về không lắng đọng được bao nhiêu, không cần suy nghĩ nhiều, lo việc khác cần hơn, mọi việc đã có bộ máy cơ quan, có các trợ lý, có văn phòng. Nếu có cán bộ nào hỏi: “Làm như thế liệu có được không anh?” - “Tât nhiên, cứ thế mà làm”. Đi họp như thế quả là việc nhẹ nhàng. Xem ra, con vẹt, dạy sao, chỉ biết phát ngôn như vậy, khó mà hơn được. Chẳng lẽ miệng con người mà lại không hơn được mỏ vẹt?
Có ông cán bộ cấp Trung ương, trong các cuộc đi thăm, đi dự hội nghị, dự các lễ lạt ở các tỉnh, thành, đến các Bộ, ngành, ở đâu cũng phát biểu rất chuẩn, không cần chính: “Chúng ta phải luôn nhớ lời Bác dạy: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Đúng như vậy, nhưng có gì mới đâu. Các cháu học sinh tiểu học đã thuộc lòng câu nói quý báu đó, cũng như chân lý rồi. Mọi người dân ai cũng thuộc nhằm lòng. Thế mà từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau, ở đâu ông ta cũng nói vậy. Suốt nhiện kỳ vị quan khách ấy giữ chức, đài truyền hình cũng tường thuật y nguyên vậy hàng trăm lần, bạn xem đài cũng phát phì cười: “Biết ngay mà, thể nào ông ta cũng nói câu ấy, không khác được”. Thấy ở dưới nhiều người cười, ông ta tưởng hay, cứ cái đà đó nói hoài.
Lẽ ra, cũng nói về đoàn kết, rất cần, nhưng khi đến mỗi nơi có hoàn cảnh, đặc điểm riêng, phải chỉ ra cần đoàn kết ở chỗ nào, thống nhất về vấn đề gì, làm thế nào để đoàn kết tốt hơn và từ đoàn kết phat huy sức mạnh. Có những địa phương nội bộ đang đoàn kết, đâu cần phải nói điều đó. Nhưng cái “chất vẹt” trong ông ta cũng còn di chứng đâu đó, nên ông ta không nói thế, cho là điều trọng yếu không thể thiếu khi phổ truyền nghị quyết Đảng, thể hiện tiếng nói lãnh đạo, chắc ngoài ra không biết nên nói gì. Mà thậm chí có hiểu cơ sở đượcmấy mà biết nói gì để đi vào cuộc sống, đi vào lòng người?
Lại có những nhà giáo suốt đời dạy ở trường chính trị, giáo án soạn cả mấy chục năm trước, thuộc lòng, nói không cần nhìn sách vở mà cứ vanh vách. Ngay như những câu kinh điển của các triết gia, của các lãnh tụ, nhà cách mạng nổi tiếng ông ta nói không sai một chữ. Học viên nghe mà phục thầy, giỏi thế, những câu mình học trần thân khó thuộc mà ông ta nói giỏi thật. Nhưng lớp nào, khoa nào, ở đâu cũng vậy, giảng và thuyết có mở ra được gì mới đâu. Lớp trước tiếp thu sao, lớp sau học lại đúng bài như thế. Nếu cần minh chứng từ thực tế, và nếu hỏi trong thực tế có chuyện như thế, khác lý luận như thê, ông giải thích sao? Thầy giáo giỏi kia đành bó tay, không biết giải thích, phân tích thế nào.
Thế mà năm nào ông ta cũng là giáo viên dạy giỏi, còn được nhân vinh danh Nhà giáo ưu tú, cứ thế theo thời hạn được tăng lương ngon lành. Hết việc về nhà lo việc riêng, nghỉ ngơi, đi chơi, không cần đọc báo, ít nghe đài, ti vi mở ra thì phim hay mới xem. Nhàn hạ lắm. Đời được thế là lên hương. Ôi, thật tai hại cái bệnh giáo điều, sách vở. Thế nên, bài bản lý luận trở thành thứ lương khô, lúc nào, ở đâu cũng đem ra xài được.
Nhắc lại, ông Bảy Nhị nói đúng quá, chuyện gì mà cán bộ, đảng viên từ trên xuống dưới đều đồng loạt nói giống nhau thì báo động sự đứng im trơn lì của một khung hệ thống chính trị kém vận động, thiếu năng động, ít sáng tạo. Mà đó lại chính là nguyên nhân tạo ra động thái gò ép, bắt buộc kiểu “dậm chân tại chỗ” như tập điều lệnh đội ngũ của anh lính binh nhì, trái ngược hoàn toàn với nhu cầu của động lực phát triển xã hội. Tự do tư tưởng, nói thẳng nói thật, quyền bộc lộ chính kiến của mỗi con người trong nền tảng xã hội đã mang bản chất tốt đẹp tự do, dân chủ, mà vẫn khó như vậy sao?
Theo blog BVB







Bàn thêm về bài viết của học giả Lý Thành
Phạm Gia Minh
Trong bài chuyên luận được chuẩn bị khá công phu[1] đăng vào thời điểm trước Đại hội lần thứ 18 ĐCS Trung Quốc, học giả Lý Thành (Cheng Li) từng giảng dạy tại Đại học Thanh Hoa – Bắc Kinh và hiện là Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc ở Viện Brookings, Washington đã tổng kết 3 đặc điểm lớn của Trung Quốc ngày nay:
1. Lãnh tụ yếu nhưng phe phái trong ĐCS lại mạnh
2. Chính phủ yếu nhưng các nhóm lợi ích lại mạnh
3. Đảng yếu đi trong tương quan với sự trưởng thành của nhân dân và đất nước.
Mổ xẻ để hiểu thấu đáo những kết luận về một ĐCS lớn nhất hành tinh hiện nay chắc hẳn có ý nghĩa thực tiễn quan trọng.
Theo Lý Thành thì dư luận xã hội TQ cho rằng những người đứng đầu của ĐCS TQ thế hệ sau lại kém thế hệ trước cả về bản lĩnh quyết đoán, sức thu hút, thuyết phục quần chúng và độ sắc sảo trí tuệ. Sau thế hệ Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình…đến thế hệ Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương rồi Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào và gần đây nhất là Tập Cận Bình thì đồ thị năng lực và sức thuyết phục quần chúng cứ đi xuống khiến cho hình ảnh của các lãnh đạo cao cấp cứ mờ nhạt dần trong công chúng.
Trước khi sụp đổ, ở Liên Xô cũng diễn ra quá trình tương tự. Sau Lenin, Stalin, một thế hệ các nhà cách mạng lừng lẫy, là Khrusov yếu bản lĩnh hơn rồi sau đó là Bregienhev trì trệ và sùng bái cá nhân, Andropov thông minh, cương trực nhưng ốm yếu nên mất sớm, Trernhenco – một ông già bạc nhược và cuối cùng là Gorbachov cùng Elsin là những đại diện “hậu sinh khả úy” đóng vai trò đọc lời điếu cho 73 năm tồn tại của ĐCS Liên Xô.
Một đảng chính trị luôn đề cao tính chiến đấu và sức mạnh từ kỷ luật và sự ủng hộ từ nhân dân nhưng vì sao thực tế lại cho thấy xu hướng ngược lại?
Câu trả lời dễ dãi nhất là “đổ” cho sự phá hoại của các thế lực thù địch và những “diễn biến hòa bình” khác nhau. Thiết nghĩ, đó là một thái độ lười biếng và vô trách nhiệm.
Nhưng có lẽ phương hướng nghiêm túc hơn phải là thành khẩn nhìn vào các khiếm khuyết nội tại mang tính hệ thống để tìm ra nguyên nhân và giải pháp hữu hiệu.
Trong tự nhiên cũng như đời sống xã hội, đấu tranh sinh tồn mạnh được yếu thua là quy luật muôn đời mang tính bao trùm. Thế hệ đầu tiên của các ĐCS là những người dám đương đầu với gian khó, nguy hiểm và biết quy tụ, dẫn dắt quần chúng bằng thực tài của mình. Nói nôm na là họ đã vượt qua sự chọn lọc tự nhiên khắt khe nhiều khi mang tính một sống một chết nên có bản lĩnh cao cường và xứng đáng được ghi nhận như những hình tượng để lại dấu ấn lịch sử. Tuy nhiên mặt trái của chiếc huân chương này lại là xu hướng sùng bái cá nhân, chuyên quyền độc đoán của chính các “anh hùng dân tộc” đó.
Có lẽ nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng trên là nguyên tắc “tập trung dân chủ” trong sinh hoạt của các ĐCS có từ thời Lê nin, vốn hữu hiệu trong đấu tranh bằng bạo lực cách mạng khi có chiến tranh nhưng chưa hẳn đã phù hợp khi phát triển hòa bình.
Thiếu một chính quyền trung ương và sự tập trung quyền lực đủ mạnh và sáng suốt thì không một quốc gia nào có thể thịnh vượng và yên bình, thế nhưng hình như các quốc gia phát triển ngày nay đã đi tới sự tập trung đó qua con đường “dân chủ tập trung” chứ không phải ngược lại như một số ĐCS đã chủ trương.
“Tập trung dân chủ” có thể hay trên lý luận nhưng trong thực tế lại khó tạo ra không gian cởi mở để phát hiện người tài, ý tưởng độc đáo, sáng tạo trong nội bộ đảng và rộng hơn là cả xã hội. Cứ theo con đường đó, sức sáng tạo trong đảng cứ thui chột dần, thế hệ cán bộ lãnh đạo sau thường được cất nhắc theo sự “giới thiệu hoặc tiến cử” của các yếu nhân thuộc thế hệ tiền nhiệm nên không thể đại diện cho trí tuệ và tư cách của đa số đảng viên. Đó là chưa kể đến vấn nạn mua, bán chức quyền trong một bầu không khí thiếu minh bạch và dân chủ sẽ dẫn tới những méo mó, quái thai làm suy yếu chính cơ quan đầu não của bất kể đảng chính trị và quốc gia nào.
Tại các nước phát triển, tuy chưa phải là hoàn hảo nhưng việc bầu chọn, ứng cử, tranh cử được tiến hành công khai, nhiều nơi là trực tiếp nên có nhiều cơ hội chọn được người tài, đủ uy tín cao cho bộ máy lãnh đạo của các đảng chính trị và quốc gia. Vậy liệu có nên tiếp tục dị ứng với cách tranh cử và bầu chọn theo kiểu “tư sản” đó giống như cách đây hơn 20 năm chúng ta còn chống đối quyết liệt kinh tế thị trường? (Việc bàn về nội hàm của kinh tế thị trường định hướng XHCN xin được thực hiện trong một dịp khác.)
Khi các lãnh đạo chủ chốt không phải là những nhân vật xuất chúng nhất, uy tín nhất, bản lĩnh nhất thì lẽ dĩ nhiên họ phải “dựa dẫm” vào các nhóm hậu thuẫn cho họ. Tình trạng phe phái trong đảng cũng hình thành từ đây.
Đã “dựa dẫm” thì phải nghe theo không nhiều thì ít và phải “chiều lòng” phe hậu thuẫn cho mình bằng những chính sách mang lại lợi ích vật chất và chính trị cụ thể. Các nhóm lợi ích cũng từ đây mà ra đời và kỷ luật đảng dù có chặt chẽ đến mấy cũng ắt bị tùy tiện nới lỏng và chỉ còn là các quy định phần nhiều mang tính hình thức và không có tác dụng “ tâm phục, khẩu phục” đối với đảng viên thường và đông đảo quần chúng. Thực chất chúng chỉ còn là những khẩu hiệu rỗng tuếch và phản cảm.
Với cơ cấu tổ chức và quản lý theo lãnh thổ và ngành trong các nền kinh tế XHCN, các nhóm lợi ích cũng hình thành theo nguyên tắc “đồng hương, vùng miền” và ngành kinh tế. Chẳng phải ngẫu nhiên mà ở Trung Quốc có nhóm lợi ích “thủy điện”, nhóm “đường sắt” nhóm “kế hoạch hóa gia đình” và nhóm “Đoàn Thanh niên”, nhóm “Thượng Hải”“ v.v…Và tất nhiên vắng bóng nhóm lợi ích mang tên gọi NHÂN DÂN.
Lãnh đạo cao cấp càng yếu thì phe phái trong đảng càng lộ liễu, những nhóm lợi ích trong bộ máy công quyền càng có cơ hội nở rộ và liên kết với nó là các băng nhóm xã hội mang tính mafia càng ngang ngược lộng hành. Vụ Bạc Hy Lai ở Trùng Khánh là một ví dụ thuyết phục nhưng thật đau xót cho quần chúng nhân dân.
Với đội ngũ lãnh đạo và cơ chế tuyển chọn thiếu tính cạnh tranh dân chủ và minh bạch, kỷ luật đảng ngày một bị buông lỏng và chỉ còn mang tính hình thức, sự liên hệ máu thịt với nhân dân bị các lợi ích phe nhóm làm tiêu tán thì sức sống của bất kỳ đảng chính trị nào cũng phải ngày một suy tàn. ĐCS Liên Xô đã bị cáo chung cũng không ngoài quy luật này.
Sau những sửa sai thời “Cách mạng văn hóa” TQ đã từng bước áp dụng kinh tế thị trường cho phép tư nhân được kinh doanh tự do hơn và mở cửa hội nhập quốc tế mạnh mẽ nên sức sống dồi dào của đất nước hơn 1 tỷ dân được khai phóng tạo nên bước tiến ngoạn mục chỉ sau có hơn 20 năm. Tuy vậy khu vực kinh tế nhà nước mặc dù nắm nhiều tài nguyên, vốn liếng nhưng hiệu quả còn khá thấp và triết lý kinh doanh bao trùm ở đây vẫn là dựa trên quyền lực chính trị và thân quen chứ không phải là hiệu quả. Tham nhũng trong hàng ngũ các đảng viên có chức quyền đã đạt tầm cỡ khủng khiếp. Trong môi trường xã hội ngột ngạt và bất bình đẳng như vậy, không phải ngẫu nhiên mà có tới gần nửa số triệu phú TQ có ý định rời bỏ đất nước.[2]
Ở Trung Quốc tuy có tới hơn 80 triệu đảng viên ĐCS nhưng sức mạnh thực sự của nó vẫn đang là một sự hồ nghi bởi đảng chưa thể thắng được quốc nạn tham nhũng, bè phái, dối trá và suy đồi đạo đức. Trong báo cáo chính trị của nguyên TBT Hồ Cẩm Đào tại Đại hội ĐCS TQ lần thứ 18 đã nhắc tới những vấn nạn đó như mối đe dọa nghiêm trọng sự tồn vong của đảng trong tương lai gần. Điều này cũng phù hợp với nhiều đánh giá của các học giả nổi tiếng TQ mà tác giả Lý Thành đã trích dẫn.
Đất nước Trung Hoa ngày hôm nay đã giàu có hơn trước, người dân hiểu biết hơn nhờ Internet và giao lưu hội nhập quốc tế nhưng ĐCS TQ dường như chưa tiến kịp với thời cuộc có lẽ do những trì hoãn trong cải cách thể chế chính trị. Nhận xét của học giả Lý Thành về năng lực của ĐCS TQ yếu đi( một cách tương đối ) trong một đất nước Trung Hoa ngày một trưởng thành hơn về nhận thức và tiềm lực kinh tế là như vậy và điều này ẩn chứa những mầm mống của khủng hoảng xã hội sâu sắc trên diện rộng.
Phương châm hành động “ Đổi mới hay là chết” đang trở nên cấp bách với những ai có tầm nhìn và còn đủ sáng suốt trong ĐCS TQ
Thăng long-Hà nội 15/1/201







Nhìn lại hai trận đánh lớn trên biển Đông
Đăng trọn 2 kì
Lê Mai
NQL: Đối với tôi, kẻ nào đang tâm bán rẻ Tổ quốc, hoặc để yên cho ngoại bang xâm lược, dù dưới bất kì chiêu bài nào,
kẻ đó là ngụy
I. Theo thiển nghĩ của tôi, bất cứ trận đánh nào có ý nghĩa bảo vệ chủ quyền đất nước, dù xét về quy mô tác chiến, lực lượng tham chiến hay vũ khí sử dụng hạn chế, vẫn phải được coi là trận đánh lớn. Trên ý nghĩa đó, hai trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19.1.1974 và Trường Sa ngày 14.3.1988 giữ VN và TQ là hai trận đánh lớn trên biển Đông.
Mà trận đánh lớn thực sự, bởi ngay từ đầu, lãnh đạo cao nhất của hai bên đã nắm rất vững tình hình và trực tiếp hoặc gián tiếp chỉ huy trận đánh Hoàng Sa. Hiển nhiên, trận hải chiến Hoàng Sa không phải là một sự xung đột cục bộ ngẫu nhiên mà là một trận đánh mang tầm vóc quốc gia, đã được TQ trù tính kỹ.
Về phía VNCH, trong các ngày 16 và 17.1.1974, Tổng thống Thiệu lúc này đang đi kinh lý miền Trung đã được báo cáo toàn bộ tình hình Hoàng Sa và sự khiêu khích của TQ. Tổng thống trực tiếp viết: “Chỉ thị cho Tư lệnh Hải quân Vùng Một: Tìm cách ôn hòa mời các chiến hạm Trung Quốc ra khỏi lãnh hải Việt Nam. Nếu họ không thi hành thì được nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này. Nếu họ ngoan cố thì toàn quyền sử dụng vũ khí để bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa”. Những người trực tiếp chỉ huy trận đánh từ Đà Nẵng là Đề đốc Lâm Ngươn Tánh và tướng Hồ Văn Kỳ Thoại.
Phản ứng của Tổng thống Thiệu rất nhanh chóng, quả đoán, chỉ thị phát ra rất rõ ràng, thái độ rất kiên quyết vì “sự vẹn toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa”. Nói gì thì nói, đó là phẩm chất cần có của một người đang nắm trong tay quyền chỉ huy quân đội. Làm sao chúng ta có thể hiểu nổi khi chủ quyền quốc gia bị đe dọa mà quân đội lại tự trói tay mình, tuyên bố không can dự, đứng ngoài các tranh chấp trên biển, cho đó là tranh chấp dân sự nên không tham gia?
Cùng lúc đó, tại Trung Nam Hải, Mao Trạch Đông đang thẩm duyệt báo cáo khẩn cấp của Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh về hoạt động của hải quân VNCH tại khu vực Hoàng Sa. Mao nhanh chóng phê chuẩn: “Trận này không thể không đánh”. (Năm 1979, Đặng cũng lại nói về cuộc xâm lược VN: “Trận này không thể không đánh”). Diệp Kiếm Anh liền triệu tập Đặng Tiểu Bình, bắt tay vào việc bố trí hành động quân sự nhằm đánh chiếm Hoàng Sa của VN.
Đặng Tiểu Bình là người vốn có uy vọng rất cao trong quân đội TQ, trực tiếp chỉ huy trận đánh Hoàng Sa – trận hải chiến trên biển đầu tiên với nước ngoài của TQ. Ông ta là người có nhiều ân oán đối với VN và lịch sử sẽ không quên các vết nhơ này trong sự nghiệp của ông ta.
Đặng vừa được khôi phục công tác sau mấy năm đi lao động cải tạo ở Giang Tây. Cuối năm 1973, Mao Trạch Đông triệu tập cuộc họp Bộ Chính trị tại phòng đọc sách của mình. Mao phán:
- Nay tôi mời đến một quân sư, tên là Đặng Tiểu Bình. Ông này có nhiều người sợ, nhưng làm việc tương đối quả đoán. Ra một thông báo làm Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên quân ủy. Tôi nghĩ phải thêm một Bí thư trưởng cho Bộ Chính trị, song ông không cần cái danh hiệu đó mà Tổng tham mưu trưởng kia. Tôi xin tặng ông hai câu: trong nhu có cương, trong bông có kim, bên ngoài hòa khí một chút mà bên trong là cả một công ty gang thép.
Bối cảnh của trận đánh là bấy giờ, Hiệp định Pari mới được ký kết gần một năm. Hoa Kỳ với chiến lược toàn cầu mới: rút ra khỏi Nam VN, hòa hoãn với LX, đột phá quan hệ với TQ, khai thác sự đối đầu Xô – Trung. Dĩ nhiên VNCH không còn là ưu tiên trong chiến lược của họ nữa. Viện trợ sút giảm và Tổng thống Thiệu đã phải kêu gọi quân đội “đánh theo kiểu con nhà nghèo”. Thêm nữa, Hoa Kỳ đã đi đêm với TQ, bỏ mặc Hoàng Sa cho TQ tấn công. Điều này đã được lịch sử chứng minh. Hoàng Sa – một vị trí ở phía Đông VN có giá trị rất lớn về quân sự, kinh tế không nằm ngoài dã tâm của TQ.
Như vậy, có thể thấy, âm mưu đen tối chiếm toàn bộ Hoàng Sa của TQ đã nung nấu từ rất lâu, chỉ chờ thời cơ là họ ra tay hành động. Chỉ cần nhìn vào sự bố trí lực lượng sau đây của Quân ủy Trung ương TQ là rõ:
- Cử tàu 396, 389 của đại đội tàu quét mìn số 10 thuộc căn cứ Quảng Châu và tàu 271, 274 đại đội săn tàu ngầm số 73 căn cứ Du Lâm trong 2 ngày 17, 18 phải có mặt ở vùng biển phụ cận cụm đảo Vĩnh Lạc, Hoàng Sa để làm nhiệm vụ tuần tra.
- Lệnh cho quân khu Nam Hải cử 4 trung đội vào đóng trên 3 đảo Tấn Khanh, Tham Hàng, Quảng Kim.
- Căn cứ Quảng Châu cử tàu 281, 282 của đại đội săn tàu ngầm số 74 vào gần cụm đảo Vĩnh Lạc làm nhiệm vụ cơ động.
- Đặt sở chỉ huy trên biển trên tàu 271 thuộc đại đội săn tàu ngầm số 73.
- Để phối hợp hành động của hải quân, Quân khu Quảng Châu lệnh cho Trung đoàn 22 không quân thuộc Hạm đội Nam Hải cử 2 phi đội máy bay chiến đấu, bay trinh sát tuần tra trên bầu trời cụm đảo Vĩnh Lạc, đồng thời yêu cầu không quân thuộc quân khu Quảng Châu cử một bộ phận làm nhiệm vụ sẵn sàng chi viện.
Do không đủ thông tin, một số tài liệu cho rằng lực lượng hải quân VNCH mạnh hơn, vì có tàu to hơn? Thực ra, hải quân VNCH chỉ có hai tuần dương hạm Trần Bình Trọng và Lý Thường Kiệt, khu trục hạm Trần Khánh Dư và hộ tống hạm Nhật Tảo. Còn TQ đã giương bẫy chờ sẵn, cộng thêm so sánh lực lượng hoàn toàn có lợi cho phía TQ.
Nhưng sự quyết tâm, lòng dũng cảm của hải quân VNCH làm cho quân TQ cũng phải nể phục. Sau đây là mô tả của Sa Lực Mân Lực – tác giả TQ:
“Sáng sớm ngày 18.1, tàu Trần Khánh Dư và Trần Bình Trọng của Nam VN trong mấy ngày qua vẫn lởn vởn ở vùng biển gần đảo Cam Tuyền, lại đến gần tàu cá (?) số 407 của TQ, dùng loa gào thét, buộc tàu cá TQ phải ra khỏi vùng biển này. “Không đi, coi chừng chúng tao sẽ tiêu diệt cả tàu lẫn người bây giờ” – viên sỹ quan Nam VN đe dọa. Trong khi đe dọa không có kết quả, cáu tiết, tàu Trần Khánh Dư chạy hết tốc lực, lao thẳng vào tàu cá 407, phá hủy buồng lái của tàu”.
“Sáng sớm ngày 19.1, sau một ngày “thi gan” với hải quân TQ, hải quân Nam VN quyết tâm lợi dụng tàu chiến hòng nuốt chửng các tàu tuần tiễu có trang bị kém hơn của hải quân TQ (?), tiến tới chiếm cả cụm đảo Vĩnh Lạc”.
“Hai tàu Lý Thường Kiệt và Sóng Gầm (có lẽ chỉ hộ tống hạm Nhật Tảo) giàn sẵn thế trận từ vùng biển phía bắc đảo Quảng Kim tiếp cận biên đội tàu hải quân TQ. Còn hai tàu Trần Khánh Dư và Trần Bình Trọng thì từ phía Nam tiếp cận hai đảo Tham Hàng và Quảng Kim”.
“Tàu Lý Thường Kiệt giương cao nòng pháo, lao thẳng vào biên đội hải quân TQ. Ỷ vào thế có lớp vỏ thép dày, tàu Lý Thường Kiệt không những không thay đổi hướng đi, ngược lại còn dùng mũi tàu húc thẳng vào tàu 396, làm hỏng cột đài chỉ huy, lan can mạn trái và máy quét mìn”.
“Tàu Lý Thường Kiệt ngang nhiên đi giữa 2 tàu hải quân TQ, lao về phía đảo Tham Hàng, Quảng Kim, sau đó thả 4 xuồng cao su, chở hơn 40 tên sỹ quan binh sỹ Nam VN đổ bộ lên đảo ngay trước mặt tàu chiến TQ”.
“Sau khi chiếm lĩnh vị trí có lợi ở vòng ngoài, cả 4 tàu chiến hải quân Nam VN bỗng nhiên đồng loạt nổ súng vào 4 tàu chiến của biên đội hải quân TQ. Dưới làn pháo dày đặc của tàu địch, tàu chiến của hải quân TQ liên tiếp bị trúng đạn, một số nhân viên bị thương”.
II. Ngay trong ngày 19.1.1974, Bộ trưởng Ngoại giao VNCH đã ra tuyên cáo về những hành động gây hấn của Trung Cộng trong khu vực đảo Hoàng Sa:
“Lực lượng Hải quân Trung Cộng gồm 11 chiến đỉnh thuộc nhiều loại và trọng lượng khác nhau, kể cả một tàu loại Komar có trang bị hỏa tiễn.
Để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và nền an ninh quốc gia trước cuộc xâm lăng quân sự này, các lực lượng Hải quân VNCH trấn đóng trong khu vực này đã ra lệnh cho bọn xâm nhập phải rời khỏi khu vực.
Thay vì tuân lệnh, các tàu Trung Cộng, kể từ 18.1.1974, lại có những hành động khiêu khích như đâm thẳng vào các chiến đỉnh VN”.
“Cuộc giao tranh hiện còn tiếp diễn và đang gây thiệt hại về nhân mạng và vật chất cho cả đôi bên”.
“Làm ngơ để cho Trung Cộng tự do tiến hành cuộc xâm lấn trắng trợn này là khuyến khích kẻ gây hấn tiếp tục theo đuổi chánh sách bành trướng của chúng và sự kiện này đe dọa sự sống còn của những nước nhỏ đặc biệt là những nước ở Á Châu”.
Không có chứng cớ cho thấy phản ứng của Bắc VN. Tướng Võ Nguyên Giáp nhận được tin mất Hoàng Sa trong khi đang chữa bệnh ở nước ngoài.
Kết thúc trận đánh, phía VNCH có 74 thủy thủ hy sinh, các tàu Trần Khánh Dư, Trần Bình Trọng, Lý Thường Kiệt bị thương nặng, còn hộ tống hạm Nhật Tảo thì bị bắn chìm vào hồi 14h52 phút. Phía TQ có hai hộ tống hạm bị bắn chìm, hai trục lôi hạm bị bắn hỏng, một đô đốc, sáu đại tá và hàng chục sỹ quan cấp tá, cấp úy khác tử trận, 67 lính bị thương. TQ thừa dịp mở cuộc đổ bộ, giành lại 3 hòn đảo từ tay quân đội Nam VN. Từ đây, toàn bộ quần đảo Hoàng Sa rơi vào tay TQ
Có thể thấy, khi trận hải chiến Hoàng Sa nổ ra, Nam VN phải đối phó cùng một lúc từ hai mặt trận: phía Đông và phía Bắc. Nam VN không thể tăng thêm lực lượng đánh trả cũng như không thể tập trung lực lượng tái chiếm Hoàng Sa, từ đó dẫn đến việc toàn bộ Hoàng Sa mất vào tay TQ.
Mười bốn năm sau, ngày 14.3.1988, lại diễn ra một trận hải chiến ở Trường Sa, cũng giữa VN và TQ, được gọi là cuộc chiến tranh 28 phút trên biển, đã làm cả thế giới quan tâm, theo dõi, kết thúc bằng việc TQ lại giành thêm một số đảo nữa ở Trường Sa, sau khi đã chiếm trọn Hoàng Sa.
Sau năm 1975, tổng quân số của hải quân VN có khoảng 50 ngàn người, biên chế gồm một hạm đội, một lữ thủy quân lục chiến, một lữ tàu pháo, 10 trung đoàn chiến đấu. Trang bị có khoảng 100 chiếc hạm tàu chiến đấu, gồm tàu khu trục, tàu hộ vệ, tàu quét mìn, tàu đổ bộ chở tăng, tàu ngư lôi, tàu tên lửa và tàu săn ngầm. Nhìn chung, lực lượng và trang bị của hải quân VN lúc bấy giờ không lấy gì làm mạnh lắm.
Trong trận hải chiến Trường Sa, VN chỉ có 3 tàu chở vật liệu ra đảo. Cũng như trận Hoàng Sa, so sánh lực lượng cho thấy sự hơn hẳn của TQ và TQ còn dành luôn ưu thế bất ngờ trong trận đánh.
Ta hãy xem Sa Lực Mân Lực huyênh hoang nhưng đã để lộ sự bố trí và lực lượng của TQ:
“Trước tình thế khẩn cấp, bộ đội hải quân ta lập tức xuất kích, hướng thắng về phía tàu địch xông tới, đội tàu quân ta với 3 tàu hộ vệ làm chủ lực, đã tỏ rõ sức mạnh chiến đấu của quân đội ta. Những chiến hạm kiểu mới được trang bị tên lửa biển đối biển, pháo tự hành 100 ly hợp đồng tác chiến với tàu ngầm và các loại hạm tàu kiểu mới khác, hình thành lưới lửa dày đặc, khiến quân VN lâm vào thế trận bị động chịu đòn. Tàu đổ bộ 505 của Hải quân VN đang tấn công vào đảo vội vã ứng chiến, còn hai tàu vận tải 604, 605 cũng tổ chức bắn trả, vừa đánh vừa tìm cách rút lui. Trong tiếng pháo đùng đùng, tàu vận tải 604 của Hải quân VN bị bắn chìm tại chỗ, tàu đổ bộ 505 bị bắn trọng thương và chìm trên đường về, còn tàu vận tải 605 bị mắc cạn”.
Kết thúc trận đánh, phía VN có 64 thủy thủ hy sinh.
Thủ đoạn quen thuộc của TQ vẫn là khiêu khích, lập luận của họ vẫn là đổi trắng thay đen, biến không thành có một cách trơ trẽn. Họ chặn không cho tàu của Hội chữ thập đỏ đến cứu các thủy thủ VN, đã thế lại nói ngược là TQ “với tinh thần nhân đạo, còn tiến hành cứu giúp số người rơi xuống biển của phía VN”. Sau trận đánh, TQ còn ngang ngược trao công hàm phản đối đến sứ quán VN tại TQ, đòi “nhà cầm quyền VN phải chấm dứt ngay những cuộc khiêu khích vũ trang đối với TQ ở vùng biển quần đảo Nam Sa và rút khỏi các đảo đá đã xâm chiếm và vùng biển phụ cận của TQ” – sự trơ trẽn đã vượt quá giới hạn.
Mười bốn năm trước, họ đổ lỗi cho VNCH, mười bốn năm sau, họ lại đổ lỗi cho CHXHCNVN.
Mười bốn năm trước, Hoa Kỳ làm ngơ để TQ đánh chiếm Hoàng Sa; mười bốn năm sau, LX cũng làm ngơ, không hề có một hành động nào giúp VN, dù hải quân LX đang ở Cam Ranh, dù Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa hai bên có hiệu lực tới 25 năm. Thậm chí, lúc đầu LX còn không ủng hộ tuyên bố chủ quyền của VN tại Trường Sa, vì vấn đề rút quân của VN tại Cambodia.
Đối với VN, bài học về độc lập, tự chủ bao giờ cũng đầy tính thời sự.
Nhìn lại hai trận đánh lớn trên biển Đông làm chúng ta nhớ lại sự quyết tâm, lòng dũng cảm và sự hy sinh vô bờ bến của những người lính VN; cũng chính là nhìn lại vị thế của VN đặt trong tổng thể mối quan hệ với các nước lớn; nhìn lại lịch sử quan hệ Việt – Trung, những âm mưu đen tối, sâu hiểm, lâu dài của TQ đối với VN. Lịch sử dạy chúng ta – không chỉ qua hai trận đánh lớn trên biển Đông, làm sao có thể tin được TQ, làm sao có thể làm bạn với TQ?
Một điều không khỏi làm chúng ta day dứt là kết quả hai trận đánh lớn trên biển Đông không như mong muốn và ý định của chúng ta. Phải chăng, trên biển, sức mạnh của TQ là tuyệt đối? Lịch sử các trận hải chiến giữa VN và TQ, phần thắng luôn nghiêng về VN, nhưng đó là khi ta nhử cho chúng vào gần bờ hoặc vào sâu trong các cửa sông, còn ngoài khơi xa thì sao? Tác chiến trên biển phải có khả năng tấn công, phòng thủ ba chiều trên không, mặt biển và đáy biển. Cần làm gì để giành phần thắng – vấn đề của các nhà chiến lược quân sự VN.
Đối với chúng ta, trên tất cả, đó là sức mạnh của lòng dân. Dựa vào dân, có dân là có tất cả – Hồ Chí Minh. Có được lòng dân, dù lãnh thổ tạm thời bị mất nhưng nhất định sẽ lấy lại được. Ngược lại, nếu đánh mất lòng dân thì lãnh thổ đang có sợ rằng rồi cũng sẽ bị mất – bất cứ nước nào cũng vậy. Lịch sử hơn một lần răn đe chúng ta. Nhìn lại hai trận đánh lớn trên biển Đông càng làm chúng ta hiểu sâu sắc thêm bài học lịch sử đó.







Đảng viên mô cả rồi?

DNNN tiến lên CNXH
Sáng nay Thủ tướng làm việc với ” Quả đấm thép” ( tại đây): “Trước đó, trong báo cáo tình hình hoạt động năm qua, Phó trưởng ban chỉ đạo đổi mới và phát triển DN Phạm Viết Muôn cho hay, tổng nợ phải trả của các TĐ, TCT đã lên tới hơn 1,3 triệu tỉ đồng. Mức lỗ phát sinh của tất cả TĐ, TCT là 2.253 tỉ đồng, trong đó có một số đã lỗ từ năm 2011 đến năm nay lỗ tiếp. Đáng quan ngại là có 10 TĐ, TCT có tổng lỗ lũy kế lên tới 17.730 tỉ đồng.” Nợ như rứa, lỗ như rứa gọi là cái bị rách đâu còn là quả đấm thép? Một khi nó đã thành cái bị rách thì còn giữ nó làm gì nữa nhỉ? Càng cố đấm cái bị càng rách thêm, nước nhà càng khốn đốn thêm. Đó là điều TT nên tính, nếu như TT thật sự yêu đất nước khốn khổ này.
Mình nghĩ là TT không nghĩ như vậy, TT vẫn tin quá đấm thép vẫn là quả đấm thép, vì DNNN là con đẻ của Đảng, ở đấy có vô thiên lủng đảng viên, đội quân của giai cấp tiên phong đánh Mỹ còn thắng huống hồ làm kinh tế. Bây giờ quả đấm thép hơi rỉ chút thôi, cụ Tổng Trọng nhóm lò thui rèn lại sẽ ngon lành. TT tin rứa đó. Cho nên TT mới nói như vầy: “Tôi thấy hết sức buồn. Trong cách mạng tháng Tám ta chỉ có 5.000 đảng viên mà vẫn giành thắng lợi.Tập đoàn Vinashin có tới 6.000 đảng viên. Nhưng mà tê liệt. Làm trái, đầu tư tràn lan, rồi trái pháp luật kéo dài một thời gian mà tôi không nhận được bất kỳ đơn thư tố cáo của bất kỳ đảng viên nào.”
Hi hi nếu TT nói thật lòng thì TT quá ngây thơ. Đảng viên còn mô nữa mà TT hỏi. Trước đây cả nước chỉ có 5000 đảng viên nhưng đó là đảng viên thứ thiệt, họ là những người quyết đem xương máu của mình để phụng sự quốc gia, trên đầu họ chỉ có xã tắc không còn ai. Vì rứa mà chỉ có 5000 đảng viên đã là quả đấm thép vĩ đại, đập tan chính quyền cũ, đánh đuổi thực dân Pháp để dành lấy Độc lập.
Nay thì không phải rứa. 6000 đảng viên mà TT nhắc đến, may lắm có chừng trăm anh còn nhớ mình là đảng viên, làm việc gì đáng xấu hổ thì biết xấu hổ, còn lại hoặc đã biến thành sâu, hoặc mũ ni che tai khoác áo đảng viên để mưu lợi riêng, vinh thân phì gia là lý tưởng của họ, còn lý tưởng của Đảng là gì họ quên bố nó mất rồi.
Trăm anh đảng viên biết xấu hổ ấy, nếu TT bỏ công ra tìm kiếm chắc chắn sẽ tìm được, nhưng họ hoặc là bị bỏ tù như các bloggers hoặc bị đuổi ra khỏi cơ quan hoặc bị ép về nghỉ hưu ép thuyện chuyển công tác… tất cả vì tội biết xấu hổ dám nói thật cả đấy TT ơi!
Tội biết xấu hổ to lắm, không ai dám mắc tội ấy đâu. Cho nên dù nợ triệu tỉ, lỗ nghìn tỉ thì DNNN và TT vẫn cương quyết không xấu hổ, kiên quyết không từ chức, kiên quyết ôm cái bị rách ấy để tiến lên CNXH.
Rứa đo rứa đo.
NQL







Tân Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe trả lời phỏng vấn Tuổi Trẻ
Hôm nay (16-1), Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe chính thức thăm VN. VN cũng là quốc gia đầu tiên Thủ tướng Abe thăm chính thức kể từ khi nhậm chức vào cuối tháng 12- 2012. Dịp này Thủ tướng Abe đã dành cho Tuổi Trẻ cuộc trả lời phỏng vấn.
* Vì sao ngài lại lựa chọn ba nước Đông Nam Á trong chuyến công du đầu tiên?
- Hiện nay tình hình của khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang có những thay đổi lớn. Chúng ta cần nỗ lực nhiều hơn nữa để đảm bảo được sự hòa bình và phồn vinh của khu vực. Trong bối cảnh như vậy, các nước ASEAN đã đề ra mục tiêu đến năm 2015 xây dựng cộng đồng ASEAN và phát triển khu vực hơn nữa như một “liên minh kinh tế”. Cho đến nay và trong tương lai, Nhật Bản luôn coi trọng và đồng hành cùng các nước ASEAN. Đặc biệt, việc tôi quyết định thăm ba nước VN, Thái Lan và Indonesia, những nước đóng vai trò quan trọng là “trung tâm phát triển” của thế kỷ 21, nhằm tăng cường quan hệ với ba nước này để góp phần vào sự phát triển và ổn định của khu vực.
Hơn nữa, năm nay là năm kỷ niệm 40 năm hợp tác hữu nghị Nhật – ASEAN. Hội nghị thượng đỉnh đặc biệt Nhật – ASEAN dự kiến được tổ chức tại Nhật Bản vào tháng 12-2013. Tôi mong rằng qua chuyến đi lần này, không chỉ quan hệ giữa Nhật Bản và ba nước Đông Nam Á, mà quan hệ hợp tác mang tính chiến lược với ASEAN cũng sẽ được nâng lên.
* Ngài có thể nói rõ hơn mục đích cũng như ý nghĩa của chuyến thăm VN lần này?
- VN là nước đầu tiên tôi đến thăm kể từ khi nhậm chức thủ tướng. Nhật Bản và VN có những mối quan tâm chung trong vấn đề của khu vực châu Á – Thái Bình Dương, cùng hỗ trợ lẫn nhau trong lĩnh vực kinh tế, đồng thời VN là một trong những nước có quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản.
Năm 2013 là “Năm hữu nghị Nhật – Việt” kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Nhật Bản và VN. Thông qua chuyến thăm lần này, tôi tin rằng quan hệ hữu nghị giữa hai nước sẽ được tái khẳng định. Đặc biệt, đây là cơ hội để tạo ra một bước nhảy vọt trong quan hệ hợp tác giữa hai nước, đã và đang được phát triển toàn diện trên nhiều lĩnh vực từ kinh tế đến văn hóa và giao lưu con người.
Tôi rất mong đợi cuộc gặp với những lãnh đạo cấp cao của VN như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng – một người bạn cũ của tôi, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng bí thư Đảng Cộng sản VN Nguyễn Phú Trọng.
* Tháng 10-2006, ngài với tư cách là đương kim thủ tướng Nhật Bản cùng với Thủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng đã công bố Tuyên bố chung về việc xây dựng quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước Nhật Bản và VN. Ngài đánh giá thế nào về quan hệ giữa hai nước trên các lĩnh vực trong sáu năm qua?
- Quan hệ đối tác chiến lược Nhật – Việt đã phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực trong sáu năm qua. Sau khi đón Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang thăm Nhật Bản vào tháng 10-2006, tháng 11 năm đó tôi cũng đã sang thăm VN. Sau đó các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao hai nước thường xuyên được diễn ra.
Trên lĩnh vực kinh tế, mục tiêu “đến năm 2010 nâng tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước lên 15 tỉ USD” mà hai nước nhất trí đã đạt được sớm hơn hai năm so với dự kiến. Năm 2012, tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước đã tăng lên gần 25 tỉ USD. Đầu tư của Nhật Bản vào VN cũng tăng lên nhanh chóng. Năm 2012 Nhật Bản trở thành nước đầu tư lớn nhất vào VN.
Từ năm 2006 đến nay, Nhật Bản luôn là nước tài trợ lớn nhất cho VN. Bên cạnh những dự án lớn được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị như Khu công nghệ cao Láng – Hòa Lạc, đường cao tốc Bắc – Nam thì Nhật Bản cũng đã và đang tiến hành hợp tác kinh tế đối với nhiều dự án của VN trên nhiều lĩnh vực trong sáu năm qua.
Trên lĩnh vực văn hóa, sự hiểu biết giữa nhân dân hai nước đang ngày càng sâu sắc hơn. Năm nay với tên gọi “Năm hữu nghị Nhật – Việt” dự kiến sẽ có nhiều chương trình giới thiệu về văn hóa của Nhật Bản và VN được tiến hành tại hai nước. Thông qua những cơ hội như thế này, tôi hi vọng sự giao lưu giữa nhân dân hai nước sẽ được thúc đẩy hơn nữa.
* Trong chuyến thăm VN lần này, ngài có muốn gửi thông điệp gì đến người dân VN?
- Đã hai năm trôi qua tôi mới lại sang thăm VN. VN với sức sống và bầu nhiệt huyết của mình đang có những bước phát triển to lớn so với thời điểm tôi sang thăm lần trước. Tôi rất mong chờ được sang VN để trực tiếp cảm nhận được bầu không khí và tận mắt chứng kiến sự biến đổi đó. Có thể nói Nhật Bản và VN bắt đầu gắn bó với nhau từ thế kỷ 16, 17. Hơn nữa, người Nhật Bản và người VN còn có nhiều điều tương đồng như văn hóa dùng đũa, gạo là lương thực chính và cùng theo đạo Phật. Sự hấp dẫn của VN đã làm mê hoặc rất nhiều du khách Nhật Bản. Gần đây giới doanh nghiệp Nhật Bản đang mở rộng một cách nhanh chóng đầu tư vào VN. Tôi được biết tại VN số lượng người đang học tiếng Nhật cũng như những người yêu thích phim hoạt hình Nhật Bản như phim Doraemon cũng đang tăng lên, đó thật sự là điều đáng mừng.
Trong bối cảnh như vậy, sự quan tâm lẫn nhau giữa hai nước Nhật Bản và VN đang ngày càng được nâng cao, quan hệ hữu nghị giữa hai nước đang ngày càng trở nên sâu sắc. Bản thân tôi cũng đã nhiều lần sang thăm VN và cảm thấy rất gần gũi với VN. Tôi thiết nghĩ cần mở rộng hơn nữa giao lưu giữa nhân dân hai nước và làm sôi động không khí của “Năm hữu nghị Nhật – Việt” trên nhiều cấp độ.







January 15, 2013
Nuôi bố mẹ già
Nói thật mình chẳng lo gì chỉ lo già yếu lẩm cẩm, sống mà phải lụy đến người khác là cái sống buồn chán nhất. Đã từng trải qua hai năm nằm liệt giường, ăn có người đút ỉa có người chùi nên nghĩ đến khi đó mình lại cứ rùng mình. Người già thường hay lẩm cẩm, trái tính trái nết rất khó chiều. Thành ra nuôi bố mẹ già khổ gấp ba con trẻ. Ăn uống chẳng đáng bao nhiêu nhưng chiều ông bà già thật cực gấp ba mươi lần chiều con trẻ, đừng nói gấp ba. Chẳng có bố mẹ nào muốn làm khổ con cái nhưng trời đày đến cảnh ấy chẳng biết làm sao.
Ba mình mất sớm, mất khi ông hảy còn tỉnh táo. Đi như ông thật sướng, trời thương lắm mới cho đi như thế. Mạ mình mất năm 83 tuổi, đi cũng nhẹ nhàng, cả đời không đau ốm gì, trừ lần cuối cùng ốm để mà chết. Nhưng đến tuổi 80 bà bắt đầu lẩn, ăn rồi bảo chưa ăn, ra khỏi nhà là đi lạc lung tung. Lắm lúc phải huy động cả trung đội cháu tỏa ra khắp làng mới tìm được. Rồi ngồi trách, vừa khóc vừa trách, nói ăn cũng không cho ăn, đi chơi cũng không cho đi chơi… hi hi đến khổ.
Riêng cái đoạn tắm táp thật khổ vô biên. Cứ một tháng đôi lần các chị gái chị dâu nhà mình xúm đến năn nỉ bà tắm, lúc nào cũng vậy bà chối đây đẩy, nói tao tắm rồi mới tắm hôm qua. Các chị ra sức nịnh nọt năn nỉ cả buổi cuối cùng bà cũng chấp nhận. Hỏi bà tắm nước lá gì, bà khóc, nói con cái không biết xưa nay mạ tắm nước lá gì, lại còn hỏi. Đến khi bưng nồi nước lá bưởi ra, thứ nước bà vẫn hay tắm, thì bà lại kêu lên, nói tao không tắm nước lá bưởi, tao tắm nước lá hương nhu. Các chị đi hái lá hương nhu, nấu nước xong bà nhất định không tắm, nói tao đâu là gái trẻ mà tắm nước lá hương nhu, nấu nước lá tre cho tao. Khổ ơi là khổ.
Bạn văn quen biết có ba người nuôi bố mẹ già khiến mình rất nể phục, đó là Tâm Chánh, Tô Nhuận Vĩ và Phạm Ngọc Tiến. Tâm Chánh giỏi nấu ăn, những ngày bà cụ đổ bệnh chỉ có Tâm Chánh nấu bà mới ăn. Chánh phải đưa bà từ Bến Tre lên Sài Gòn để có điều kiện nấu ăn cho bà. Anh con trai chưa vợ, hai vai hai gánh nặng cơ quan, một Sài Gòn Media một báo Sài Gòn tiếp thị, bận mù mắt vẫn phải đi chợ ngày ba buổi nấu nướng cho mẹ già. Mẹ Tô Nhuận Vĩ không thích cho con dâu tắm, tự anh phải tắm rửa cho bà, đến khi bà mất cũng tự anh tắm rửa khâm liệm cho bà. Phạm Ngọc Tiến còn khổ nữa, bố nằm liệt giường 15 năm, mẹ già vừa lẩn vừa liệt giường gần hai chục năm nay một tay anh lo cả. Tiến không phải tự tay nấu nướng tắm táp cho bố mẹ như Tâm Chánh và Tô Nhuận Vĩ, đã có vợ anh con lo rồi, nhưng chịu đựng một cách vui vẻ và hạnh phúc gánh nặng bố mẹ già yếu bệnh tật hai chục năm trời, đến nay vẫn chưa dứt, thì cũng xưa nay hiếm.
Ấy là khi bố mẹ ốm yếu, chăm sóc bố mẹ dù vất vả nhưng dù sao đó cũng là niềm vui của con cái được báo hiếu. Chiều chuộng mấy ông bà già lẩn thẩn, dở tính mới cực. Nhiều cụ hay dỗi, động tý là dỗi. Nhà có ông bà già con cái không dám mắng, sợ ông bà già cho là mượn con mắng mình, rất cực. Nhiều cụ về già trở lại tính con nít, đòi ăn đòi chơi y chang con nít. Đang nửa đêm đòi đi thăm người nọ người kia, đòi ăn cái nọ cái kia cho bằng được.
Ở Nam Định mình có ông bạn học thời đại học, hôm liên hoan phim mình có về dự, nhân tiện đến nhà bạn chơi. Xem xong phim hơn mười giờ mình mới tạt qua, không thấy nó đâu chỉ cô vợ ở nhà. Cô vợ nói anh chịu khó ngồi đợi chút, em lên nghĩa địa gọi nhà em về. Mình giật mình, nói giờ này còn làm gì ở nghĩa địa? Cô vợ thở ra, nói ông bố em dở tính, đêm nào cũng cũng đòi lên nghĩa địa chơi với mấy người bạn đã chết của ông. Tụi em phải thay phiên nhau canh chừng ông, cực lắm anh à.
Ở Thanh Hóa mình cũng có một người bạn thời ở lính. Cứ mỗi lần mình về Thanh Hóa là nó đến chơi với mình rồi ngủ lại khách sạn với mình luôn. Lúc đầu không biết, mình tưởng nó thích ngủ với mình trò chuyện cho vui. Một hôm mình đi chơi quá nửa đêm mới về khách sạn thấy nó ngồi chồm hổm trước cửa. Mình hơi ngạc nhiên, nói sao vẫn ngồi đây chờ tao à. Nó nói ừ, chờ mày về ngủ nhờ. Mình cười, nói bị vợ đuổi phải không. Nó nói không. Bố vợ tao đuổi. Rồi nó kể, nói tao lấy vợ đã ba mặt con, ở với ông bà già vợ xưa nay không việc gì. Đến khi bà mẹ vợ chết, ông bố vợ trên bảy mươi đâm ghét tao như xúc đất đổ đi. Ngày không sao, cứ đêm đến là ông đuổi tao ra khỏi nhà, nói tao cấm mi ngủ với con gái tao. Mình không đi ông ngồi nói ra rả suốt đêm không cho ai ngủ ngáy gì cả. Thành ra đêm nào tao cũng phải sơ tán sang nhà khác, ba bốn giờ sáng mới mò về. Hi hi cực thân ông con rể.
Lại có cụ thích khi ăn phải được sờ ti như con nít đang bú, vừa bú vừa sờ ti. Chuyện này hơi bị hiếm nhưng có, mình có quen một người như thế. Hi hi. Chuyện này có thể nhiều người biết rồi, nhưng chắc chỉ nghĩ là giai thoại bịa đặt cho vui thôi, không ai biết là chuyện thật 100%. Đấy là chuyện ông bố nhà thơ X. ở khu phố cạnh khu chung cư của mình.
Bố nhà thơ X, nay đã mất rồi, sống rất thọ, đến 96 tuổi rồi vẫn tỉnh táo. Tuy không còn đi lại được, nằm một chỗ thôi, ăn uống phải đút nhưng hảy còn tỉnh táo lắm. Cụ ngày nào cũng làm một bài thơ, bài nào bài nấy dài ngoẵng. Làm xong thì bắt cả nhà đến cả nhà nghe cụ đọc thơ. Nếu là buổi tối thì không sao, nhiều hôm vừa sáng bảnh mắt, cả nhà đang lo cho con ăn, chở con đi học cụ lại réo đến nghe cụ đọc thơ thật khổ hết nổi. Đang đọc thơ hễ có đứa nào nói chuyện là cụ giận, cứ nằm úp mặt vào tường suốt ngày, không chịu ăn uống gì cả.
Thỉnh thoảng cụ lại réo con cái, nói tụi bay lo đi hỏi vợ cho tao. Con cái cười thì ông dỗi, bỏ ăn. Nhà thơ X chắp tay lạy cụ, nói nói bố ơi bố già yếu thế này, hỏi vợ làm gì nữa. Ông nói tao chả làm gì, tao chỉ sờ ti thôi. Cả nhà cười bò, nói ối giời ơi bố ơi là bố. Ông giận quát ầm lên, nói đồ con cái bất hiếu, có mỗi cái ti cũng tiếc tiền không cho bố sờ. Và ông bỏ ăn, cứ nằm úp mặt vào tường mấy ngày liền.
Vợ chồng nhà thơ X sợ quá bèn năn nỉ ông ăn, nói bố ăn đi, nhất định con tìm ngườiu cho bố sờ ti. Ông ăn, nhưng chỉ đúng một ngày ông lại réo, người sờ ti của tao đâu. Bí quá nhà thơ X. mới tìm mấy em cave nói như vầy như vầy, chưa nói xong nhà thơ đã bị ăn một cái tát. Ăn hết ba cái tát vẫn không tìm được người, bố anh lại giận lại dỗi lại bỏ ăn, nhà thơ lại cất công đi tìm.
May gặp cô điếm già đã giải nghệ từ lâu, cô này to béo phốp pháp rất đúng yêu cầu của ông bố. Nhà thơ mời về với giá gấp sáu công người giúp việc bình thường anh cũng cắn răng chấp nhận. Việc cô này rất đơn giản, cho cụ ăn ngày ba bữa, ngoài ra không làm gì hết. Đến bữa, cô đặt đầu cụ lên đùi cô đút cơm cho cụ. Cụ vừa ăn vừa sờ ti cô cho đến khi nào ngủ say thì thôi. Từ đó gia đình yên ổn, cụ hết giận dỗi, quát mắng con cháu, hi hi.
Nhờ vừa ăn vừa được sờ ti nên cụ ăn khỏe, sống đến trăm tuổi mới mất. Trước khi chết cụ ra hiệu muốn nói, mọi người xúm lại lắng nghe. Tưởng cụ trăn trối điều gì, nhưng không, cụ phều phào, nói ti tao đâu ti tao đâu.
He he
NQL







Quả bom và “cái cọc”
Đào Tuấn

Hai nữ trưởng phòng trúng tuyển lãnh đạo sở
Nhìn từ quả bom 100 triệu chạy công chức ở Hà Nội, rõ ràng, Quảng Ninh là một sự thay đổi.
Có 2 bức ảnh, về hai nữ tân cấp phó (Tân Phó Giám đốc Sở Thông tin và truyền thông, Tân Trưởng Ban quản lý vịnh Hạ Long, cũng tương đương PGĐ sở) đã được đưa giản dị trên báo chí chiều qua. Giản dị ở chỗ, 2 nữ “tân PGĐ”, cũng mới chỉ cấp Phó giám đốc sở mà thôi. Nhưng sẽ không có gì quá lời nếu nói đó là một sự thay đổi mang tính cách mạng, khi mà câu chuyện thời sự nóng hổi về chuyện “chạy công chức ở HN”, sau bao nhiêu kỳ vọng, rút cục, là một số 0 tròn trĩnh. Sự thay đổi mang tính cách mạng ở Quảng Ninh thể hiện trên 3 khía cạnh: Sự công khai. Việc xóa bỏ tiền lệ “sống lâu lên lão làng”. Và về một hứa hẹn với những người tuổi trẻ tài năng, rằng, miễn là có trình độ và tâm huyết, họ sẽ có cơ hội để cống hiến.
Những thông tin từ Quảng Ninh chiều qua cho thấy, đối thủ lớn nhất của tân Phó BQL Vịnh Hạ Long chính là “cơ chế già lâu lên lão làng” khi đối thủ của chị là đương nhiệm Phó Ban, người có nhân thân là con rể của một vị từng là lãnh đạo cao nhất tỉnh. Việc nữ tân Trưởng BQL Vịnh vượt qua đối thủ, bất ngờ ngay chính đối với dư luận Quảng Ninh, những người ít nhất từ 67 năm nay nay luôn cho rằng, cuộc thi, cũng chỉ là “phù phép” mà thôi. Dấu hỏi, sự nghi ngờ của dư luận trước cuộc thi là có thật. Bởi theo lẽ thường, Phó trưởng Ban sẽ lên Trưởng Ban. Và những cuộc thi, dù luôn luôn bắt đầu bằng những hô hào, nghiêm túc, và kết thúc bằng những bài phát biểu “thành công, trung thực”, chỉ là sự hợp thức.
Không ngẫu nhiên, tân PGĐ Sở phát biểu với báo chí “Khi dự thi, tôi chỉ là trưởng một đơn vị cấp phòng, nếu theo quy trình trước đây chắc chắn còn một thời gian dài tôi mới có thể tiếp cận đến với chức danh lãnh đạo sở”.
Thế đấy, nói gì thì nói, cơ chế bất thành văn “già lâu lên lão làng” vẫn là thứ chi phối mọi hoạt động nhân sự, đúng với mọi cơ quan, mọi địa phương, mọi bộ ngành.
Phải nhấn mạnh, đây là lần đầu tiên, tại một địa phương, hình thức thi tuyển được áp dụng đối với chức danh Phó Giám đốc Sở, và dư luận Quảng Ninh cho rằng, với sự có mặt của Bí thư tỉnh ủy, cũng từng là một vị tướng công an, ông Phạm Minh Chính, trong thành phần Ban giám khảo “ngay cả các thí sinh cũng tâm phục khẩu phục kết quả cuối cùng”.
Cũng có một chi tiết bối cảnh đáng chủ ý. Chỉ 2 tiếng sau cuộc thi, lúc 18h tối, một cuộc họp bào đã được tổ chức để công bố kết quả.
Có thể, sẽ còn có nhiều câu hỏi được đặt ra để trả lời cho những dấu hỏi trong tư duy dư luận. Nhưng xét một cách công bằng, cuộc thi ở Quảng Ninh đang mở ra một phương cách mới cho niềm tin của những người tuổi trẻ, có học vấn, có tâm huyết, ít nhất là về một sự công bằng, một sự vượt rào trong công tác cán bộ. Hoặc ít nhất, nó đóng vai trò cái cọc cho niềm tin dư luận.
Theo blog DT







Đằng sau ” hiện tượng” Nguyễn Bá Thanh?

Theo dõi báo chí thời gian qua có thể thấy dư luận và nhân dân cả nước đang lên cơn “sốt” về “hiện tượng” Nguyễn Bá Thanh. Càng “sốt” hơn khi ông Nguyễn Bá Thanh được điều động ra Hà Nội giữ chức Trưởng Ban Nội chính Trung ương. Tại sao ông Nguyễn Bá Thanh lại trở thành hiện tượng “HOT” như thế; thậm chí trở thành thần tượng của hàng triệu người dân trên cả nước hiện nay? Nhiều người cho rằng sở dĩ có hiện tượng này là vì ông Nguyễn Bá Thanh là người có “bản lĩnh”; là người “dám nghĩ”, “dám nói, “dám làm” và “dám chịu trách nhiệm”… Và người dân kỳ vọng vào Nguyễn Bá Thanh bởi ít nhiều đã trực tiếp hoặc gián tiếp nhìn thấy cái bản lĩnh ấy qua sự “thay da đổi thịt” của thành phố Đà Nẵng – nơi ông giữ chức “tổng tư lệnh” trong điều hành, quản lý. Điều này đúng không? Đúng. Nhưng theo tôi, đó chỉ là nguyên nhân có tính bề nổi mà thôi
Công bằng và nghiêm túc mà nói, ở Việt Nam bây giờ những người “dám nghĩ”, “dám nói, “dám làm” và “dám chịu trách nhiệm” như ông Nguyễn Bá Thanh không phải là không có (nếu không muốn nói có không ít người còn bản lĩnh hơn ông Nguyễn Bá Thanh nếu dựa vào những tiêu chí trên). Tuy vậy, những người này và ông Nguyễn Bá Thanh lại có một điểm khác biệt duy nhất. Và điều đáng nói chính điểm khác biệt này đã giúp cho ông Nguyễn Bá Thanh trở nên nổi tiếng còn những người kia có khi vẫn đang ẩn dật hoặc ngậm ngùi cho số phận mình ở nơi nào đó. Ý tôi muốn nói điểm khác biệt ấy không có gì khác ngoài hai chữ “số phận” và “thời thế”.
Đúng vậy, người ta thường bảo “tại thời thế thế thời phải thế”. Dù không duy tâm nhưng theo quan sát của tôi nhất là ở xứ ta trong nhiều trường hợp chuyện được hay bị quan nhất định phải có “số” hay nói cách khác là phải “gặp thời”. Cho nên thật ra, hiện nay có không ít người hiện nay cũng “dám nghĩ”, “dám nói, “dám làm” và “dám chịu trách nhiệm” như Nguyễn Bá Thanh nhưng có lẽ do số phận và thời thế run rủi nên có khi chẳng bao giờ những người này có cơ hội được nổi tiếng như ông Nguyễn Bá Thanh. Trong hoàn cảnh ngược lại, phải nói ông Nguyễn Bá Thanh là người may mắn vì có “số” làm quan và nhất là được làm “quan lớn” ở một địa phương lớn.
Dĩ nhiên, nói như thế không có nghĩa là Nguyễn Bá Thanh không có tài. Nếu không có tài sao lại “biến” Đà Nẵng trở thành thành phố mẫu mực được đông đảo đồng bào nhân dân cả nước ngưỡng mộ? Nhưng vấn đề là cần xác định rõ cái tài của ông Nguyễn Bá Thanh là ở chỗ nào?
Người ta nói ông Nguyễn Bá Thanh có tài quản lý, có tầm nhìn quản lý, có sự quyết đoán trong điều hành… Những cái này đúng không? Cũng đúng luôn, nhưng cũng chưa đủ. Thật ra, trong cái nhìn so sánh với đa phần các quan chức lãnh đạo trên cả nước hiện nay thì cái hơn, cái nổi trội của ông Nguyễn Bá Thanh chính là ở khả năng nắm bắt đời sống thực tế của người dân. Nói cho đúng thì ông Nguyễn Bá Thanh là một trong số hiếm hoi các quan chức lãnh đạo hiện nay có cái nhìn và sự nắm bắt nhanh nhạy đời sống thực tế của nhân dân ở địa phương mình phụ trách. Đây chính là điểm vượt trội của ông. Chính nhờ chịu gần gũi với dân nên ông đã hiểu dân. Và từ hiểu ông mới thấy thương dân. Và có hiểu có thương dân thì mới đưa ra được những chính sách hợp lòng dân. Có thể thấy, trong phần nhiều các quyết sách đưa ra ông Nguyễn Bá Thanh đều xuất phát từ quyền lợi, nguyện vọng của đại bộ phận quần chúng nhân dân chứ không phải quyền lợi và nguyện vọng của “nhóm lợi ích” nào đó. Đặc biệt nhất là ông sẵn sàng đối thoại với nhân dân để tìm hướng giải quyết cho những vấn đề còn vướng mắc giữa họ với chính quyền mà ông là đại diện.
Nhân nói về chuyện đối thoại với quần chúng nhân dân, phải nói ở chỗ này dù muốn dù không cũng phải khen ngợi và khâm phục ông Nguyễn Bá Thanh. Người ta nói bản chất của ngôn ngữ là đối thoại. Mặt khác ngôn ngữ phản ánh tư duy, ngôn ngữ chuyển tải tư tưởng, tình cảm của con người… Người dám và sẵn sàng đối thoại là người hiểu rõ không có sự độc quyền trong tư tưởng, trong suy nghĩ từ đó tránh rơi vào sự áp đặt một chiều. Kẻ không biết đối thoại hay không dám đối thoại là kẻ hèn nhát và cố tình đi ngược với quy luật của cuộc sống. Ông Nguyễn Bá Thanh, nhìn ở phương diện này là một người thông minh và dũng cảm khi hiểu rằng đối thoại thẳng thắn, nghiêm túc và chân thành với nhân dân là cách làm hiệu quả nhất để không bị mất lòng tin nơi họ.
Bên cạnh đó, quan sát cách làm việc của Nguyễn Bá Thanh có thể thấy ông không rơi vào duy ý chí như đa phần những lãnh đạo khác ở chỗ xem “phê bình và tự phê bình” là khâu cuối cùng của công cuộc “tổng đại phẫu” các quan chức Đảng viên. Ở chỗ này ông Nguyễn Bá Thanh có vẻ rất hiểu chuyện, ông xem “phê bình và tự phê bình” chỉ là khâu mở đầu. Thử hỏi Nhà nước điều hành, quản lý xã hội và con người bằng pháp luật; có pháp luật để trừng trị hẳn hoi mà lắm kẻ còn bất tuân, sẵn sàng đổi trắng thay đen, xem thường pháp kỷ thì mấy chuyện “phê và tự phê” trong nội bộ kia nhằm nhò gì với họ. Cho nên, với Nguyễn Bá Thanh ông quan niệm nếu anh nào làm không xong thì cho về “vườn” nhường ghế lại cho người khác có năng lực hơn; còn nếu sai phạm, vi phạm pháp luật thì nhờ luật pháp xử lý chứ không đợi tự giác “phê và tự phê” gì cho thêm mất thời gian. Đó cũng chính là sự “dám nghĩ”, “dám nói”, “dám làm” và “dám chịu trách nhiệm” của ông Nguyễn Bá Thanh.
Từ những vấn đề trên, mới có chuyện đa phần người dân sau khi tìm hiểu về Nguyễn Bá Thanh và sự đổi thay của Đà Nẵng đều có chung suy nghĩ: “ước gì quê mình, địa phương mình cũng có một Nguyễn Bá Thanh như ở Đà Nẵng vậy!”.
Tóm lại, có thể nói bản lĩnh của Nguyễn Bá Thanh có được trước hết là nhờ ông luôn gắn bó với nhân dân; không xa rời quần chúng nhân dân, sẵn sàng đối thoại với nhân dân (dù vấn đề đối thoại của ông với người dân thật ra cũng chưa phải là vấn đề gì ghê gớm lắm). Và cái tài của ông Nguyễn Bá Thanh đến thời điểm này theo tôi tóm lại chỉ có thế. Dĩ nhiên, sau này tài năng của ông Nguyễn Bá Thanh còn phát lộ ở điểm nào nữa hay không thì mọi người hãy cùng chờ xem. Qua đây cũng cho thấy cái “nghề làm quan” ở xứ ta lâu nay có gì đó tuy khó mà dễ, tuy dễ mà khó. Khó là nếu không có “số” và “gặp thời” thì dẫu có bản lĩnh hay tài năng gì đi nữa cũng đừng mong gì được nổi tiếng như ông Nguyễn Bá Thanh; còn dễ là nếu đã làm quan chỉ cần biết gắn bó, chỉ cần biết sâu sát để hiểu dân và thương dân thì chắc chắn sớm muộn cũng sẽ được nổi tiếng như ông Nguyễn Bá Thanh thôi. Làm quan mà biết gần dân, hiểu dân, thương dân là… tài rồi, ấy vậy mà hiện nay hiếm có ông quan nào được như Nguyễn Bá Thanh. Nghĩ cũng lạ!
2. Tâm lý xã hội
Nếu bình tĩnh nhìn lại đằng sau câu“ước gì quê mình, địa phương mình cũng có một Nguyễn Bá Thanh như ở Đà Nẵng” của nhiều người dân sẽ hiểu được tâm lý xã hội nước nhà hiện nay. Câu nói trên đã bóc trần một sự thật về nỗi thất vọng ghê gớm của nhân dân ở những địa phương khác trên cả nước (trừ Đà Nẵng).
Từ góc nhìn này, có thể nói sở dĩ thời gian qua ông Nguyễn Bá Thanh trở nên nổi tiếng, trở thành hiện tượng chẳng qua vì đã lâu lắm rồi người dân mới thấy xuất hiện một mẫu người lãnh đạo mà theo họ là có thể gửi vào đó niềm tin, sự kỳ vọng cũng như là có thể thấu hiểu, chia sẻ những vấn đề mà họ bức xúc, cần được giải tỏa? Nói cách khác, sự kỳ vọng quá lớn của người dân là bằng chứng cho thấy trong lòng xã hội đang tiềm ẩn nhiều mối bất ổn, không yên. Thử hình dung kinh tế thì đang suy thoái, bất động sản đóng băng, ngân hàng cạn tiền lại gặp “cán bộ trời ơi”. Giao thông thì đường sá ngổn ngang thời bình mà trong một năm số người chết vì tai nạn giao thông không thua gì thời chiến. Văn hóa, giáo dục thì đang chìm dưới đáy sâu vực thẳm; năm này qua năm khác mạnh ai nấy hô hào đổi mới nhưng lại chẳng biết bắt đầu từ đâu; đã vậy lại thiếu tinh thần cầu thị và tiếp thu kết quả là lại phải tiếp tục hô hào đổi mới để moi tiền Nhà nước và nhân dân…
Từ những mối lo ấy, nên người dân dường như đang xem ông Nguyễn Bá Thanh như cái phao cuối cùng để bấu víu, để không bị chết chìm giữa biển khơi đầy giông bão.
Không hẹn mà gặp khi tin ông Nguyễn Bá Thanh ra Hà Nội nhậm chức tất cả đều mong chờ và hi vọng ông sẽ ra tay nhầm lập lại kỷ cương của đất nước nhất là sẽ diệt trừ nạn tham nhũng. Điều này cho thấy đại nạn tham nhũng trên cả nước ở tất cả các ngành, các lĩnh vực thời gian qua là nguyên nhân gây mất niềm tin trầm trọng nơi người dân. Đây đó đã xuất hiện sự so sánh ông Nguyễn Bá Thanh với ông Bao Công (đời Tống bên Tàu) nổi tiếng thanh liêm chính trực. Vì sao như vậy? Vì người dân đã và đang có quá rất nhiều chuyện buồn lòng nhưng họ không tin và không biết tìm đến ông quan nào để mà “thảo đơn trình tấu”?
Bên cạnh đó, trong khi người dân có qua nhiều bức xúc không biết tỏ cùng ai thì giữa lời nói và hành động của các cấp lãnh đạo chính quyền trong quản lý và điều hành đất nước lâu nay lại là một khoảng cách vô biên. Nhiều lãnh đạo cứ hứa với dân thật nhiều để rồi thất hứa cũng thật nhiều đã làm cạn kiệt niềm tin về một sự thay đổi thực sự mang lại lợi ích cho họ; gây cho họ quá nhiều nỗi thất vọng. Vì thế, nên mỗi lời nói và việc làm của ông Nguyễn Bá Thanh ở cương vị mới đều được mọi người mang ra bàn luận sôi nổi âu cũng là lẽ hiển nhiên và tất yếu.
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận một điều bên cạnh đại bộ phận người dân đang thực sự trông chờ vào sự “ra tay” của ông Nguyễn Bá Thanh ở cương vị mới cũng xuất hiện không ít ý kiến hoài nghi của những người có vẻ đã rất “từng trải” và có kinh nghiệm. Bởi nói cho cùng ông Nguyễn Bá Thanh cũng chỉ là một nhân tố trong toàn bộ hệ thống mà thôi, dẫu ông có muốn làm muốn thay đổi cũng không phải dễ. Cho nên, ai đó có hoài nghi hay lo sợ cho ông Nguyễn Bá Thanh có khi sẽ giống như cầu thủ bóng đá, ở cấp câu lạc bộ thì đá rất hay, rất hăng nhưng khi lên tuyển thì lại đánh mất phong độ một cách thảm hại không phải không có cơ sở. Rõ ràng, những ý kiến trái chiều như thế này một lần nữa cho thấy sự bất an của người dân, sự bất ổn trong lòng xã hội là có thật. Từ đây có thể nói, trách nhiệm của ông Nguyễn Bá Thanh sẽ nặng nề lắm đây nếu như ông vẫn giữ được phong độ của cái thời làm “tổng tư lệnh” ở Đà Nẵng.
***
Ai đó nói rằng “thà bật lên một que diêm còn hơn ngồi đó nguyền rủa bóng tối”. Không biết liệu cái “que diêm” mang tên Nguyễn Bá Thanh được đại bộ phận người dân vừa mới bật lên có thể thiêu đốt và xua tan những bóng tối đang ngày một bao phủ lên đất nước và dân tộc lúc này không hay là trước những cơn gió mạnh nó lại nhanh chóng lụi tàn? Nhưng dù thế nào đi nữa thì người dân vẫn cứ tin và hi vọng như bao đời nay họ vẫn tin và hi vọng “còn da lông mọc, còn chồi nảy cây.” Hay nói như thi sĩ Xuân Diệu là:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.”
Cần Thơ, 14/1/2013
Theo viet-studies







Hiến pháp vẫn là ‘dòng sông màu đỏ’?
Nguyễn Thị Hường
Nhìn vào những thảo luận nhiều chiều xung quanh chuyện sửa Hiến pháp đang diễn ra, có thể thấy sự cách biệt giữa ý thức hệ chính thống và dư luận tự do trong xã hội.Chưa nói gì đến nội dung, chỉ riêng thủ tục sửa đổi Hiến pháp đã không tạo được đồng thuận ngay trong chính giới tinh hoa trong nước.
Trong thời gian qua, phúc quyết hiến pháp là một trong những đòi hỏi mạnh mẽ nhất trong các ý kiến sửa đổi Hiến pháp. Nhưng bản dự thảo và giới lãnh đạo chỉ tổ chức “góp ý” chứ không đả động gì đến trưng cầu dân ý.
Xét về nội dung, một số người nhìn vào lời mở đầu với cách hành văn dài dòng khẳng định kiên định “ánh sáng của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,” vào điều 4 với Đảng Cộng sản “là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội,” là đã không muốn đọc tiếp, đừng nói đến chuyện góp ý.
Nhưng công bằng mà nói, cũng có một số sửa đổi – tuy nhỏ nhưng phản ảnh và tiếp thu phần nào những ý kiến tiến bộ của giới trí thức trong thời gian qua: thêm từ “kiểm soát” vào điều 2 – tuy vẫn khẳng định quyền lực nhà nước là “thống nhất”, tức từ chối khái niệm tam quyền phân lập.
Dự thảo có thêm vào ‘hội đồng bảo hiến’ – dù đó chỉ là một hội đồng bảo hiến cấp thấp, thuộc Quốc hội; thêm điều khoản về quyền “được sống trong môi trường trong lành” và trách nhiệm bảo vệ môi trường; sửa điều khoản về bình đẳng giới, bỏ đi những điều khoản gia trưởng, thêm quy định “nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử về giới.”
Nhìn vào bản dự thảo, người bi quan thấy dòng sông vẫn còn đỏ – chủ nghĩa Mác-Lênin, sự độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản dường như vẫn là nền tảng.
Người lạc quan nghĩ dòng sông bắt đầu pha màu xanh từ những tư tưởng cấp tiến được tiếp thu một cách manh mún.
Những cải cách pháp luật hỗn dung, tư tưởng mới pha trộn những tư tưởng cũ, phản ảnh những thay đổi trong môi trường tri thức và xã hội, và thái độ miễn cưỡng cải cách của đảng cầm quyền để đối phó với những đòi hỏi chính đáng trong xã hội.
Xã hội dân sự thúc đẩy
Nhìn vào lịch sử hiến pháp của các nước, người ta thấy những thay đổi Hiến pháp quan trọng là hệ quả của những phong trào cấp tiến của xã hội dân sự. Ở Mỹ, phải trải qua cả trăm năm, qua chia rẽ, thậm chí nội chiến, chế độ nô lệ mới được bãi bỏ. Phải thêm trăm năm nữa, người Mỹ gốc châu Phi và phụ nữ mới được quyền bỏ phiếu. Các tu chính quan trọng trong Hiến pháp Hoa kỳ là hệ quả của phong trào dân quyền và nữ quyền qua nhiều thế hệ.
Ở Pháp, dù nổi tiếng với Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền 1789, phải đến năm 1958, một Hội đồng Hiến pháp mới được lập ra, với thẩm quyền hạn chế – xem xét tính hợp hiến trong thủ tục lập pháp của các dự án luật trước khi Tổng thống ký ban hành dự luật đó. Phải đến những năm 1970, Hội đồng Hiến pháp Pháp mới bắt đầu xem xét các điều khoản nhân quyền và tự do cá nhân trong Hiến pháp như là cơ sở để phán xét tính hợp hiến của các dự luật. Và gần đây, năm 2008, một tu chính Hiến pháp cho phép các tòa án tối cao yêu cầu Hội đồng Hiến pháp xem xét tính hợp hiến của các văn bản luật khi chúng được áp dụng vào cuộc sống. Tức là vấn đề bảo hiến không chỉ còn là đặc quyền của các chính trị gia, mà người dân bình thường có thể đưa các vấn đề hiến pháp ra trước Hội đồng Hiến pháp.
Những phát triển đó, theo giáo sư Martin Rogoff, là kết quả của nhu cầu cần có một cơ chế làm mới Hiến pháp qua các giải thích Hiến pháp, thay vì liên tục tu chính Hiến pháp, để đáp ứng các nhu cầu chính trị và xã hội, như ảnh hưởng của luật pháp của Liên minh châu Âu, các đòi hỏi bình đẳng của một xã hội Pháp ngày càng đa dạng về sắc tộc và tôn giáo, hay sự xuất hiện của các hệ giá trị mới về dân chủ, bình đẳng giới, tự do kinh tế, bảo vệ môi trường. Những phát triển Hiến pháp ở các nước dân chủ phương Tây đi theo chiều hướng ngày càng mở rộng quyền bình đẳng và tự do đến nhiều giai tầng trong xã hội hơn.
Ở Việt Nam, phát triển Hiến pháp có vẻ đi theo xu hướng ngược lại: từ bản Hiến pháp tương đối dân chủ năm 1946, đến những bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa áp đặt, thiếu chính danh năm 1959, 1980 – thay đổi chế độ chính trị, thay đổi tên nước mà không được nhân dân phúc quyết. Hiến pháp 1992 và bản Hiến pháp sửa đổi năm 2001 đã bắt đầu có tín hiệu cởi mở hơn, vì những cải cách trong kinh tế và bang giao quốc tế khiến nhà cầm quyền không có lựa chọn nào khác.
Chế độ chính trị nhất nguyên không ngăn cản được sự trỗi dậy của một xã hội dân sự đang đòi hỏi những tự do thực tại của họ được công nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Một vài thay đổi tiến bộ manh mún nói trên – thêm quy định kiểm soát quyền lực, Hội đồng bảo hiến, quyền môi trường, quyền bình đẳng giới – không phải tự nhiên xuất hiện trong bản dự thảo.
Dự án Bô-xít Việt Nam từ năm 2008 đã làm dấy lên trong dư luận những đòi hỏi về quyền sống trong một môi trường trong lành.Các nhóm cổ vũ nữ quyền và các nhà tài trợ quốc tế từ hơn một thập kỷ trở lại đây đã vận động để khái niệm bình đẳng giới được chấp nhận trong đời sống chính trị xã hội, phần nào thay thế quan niệm “giải phóng phụ nữ” kiểu gia trưởng xã hội chủ nghĩa. Hội đồng bảo hiến, dù có vẻ hình thức, có mặt trong bản dự thảo Hiến pháp lần này, cũng là vì giới trí thức và dư luận hiểu việc thực thi và bảo vệ các quyền hiến định quan trọng hơn việc chỉ ghi các quyền này trên giấy.Các cuộc biểu tình chống Trung Quốc bị đàn áp, việc bắt bớ các nhà bất đồng chính kiến bất kể quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội được ghi trong Hiến pháp, khiến người ta hiểu rằng một cơ chế bảo hiến là cần thiết.
Cơ chế bảo hiến đó có hiệu quả không trong chế độ chính trị một đảng, lại là chuyện khác. Những gì đang diễn ra trong lần sửa đổi Hiến pháp lần này nên được đánh giá trong bối cảnh của sự chuyển mình không ngăn cản được của xã hội, của sự bối rối của nhà cầm quyền – đáp ứng cải cách cũng dở, mà cố chấp bảo vệ đặc quyền cũng chẳng xong. Xã hội luôn có không gian tự do của chính nó, dù hạn hẹp, mà chính trị trước sau gì cũng phải thừa nhận.
Khi nhân dân ý thức và chủ động thực thi các quyền chính trị của họ, giới lãnh đạo chẳng có lựa chọn nào khác ngoài việc thừa nhận và cam kết tôn trọng các quyền ấy trong Hiến pháp và pháp luật.







Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
