Nguyễn Quang Lập's Blog, page 101

January 15, 2013

Luật lú lấp

Thứ trưởng Bộ văn hóa VH-TT&DL đang nhìn gương mặt ca sĩ Y Moan qua kính quan tài

Thứ trưởng Hồ Anh Tuấn Bộ văn hóa VH-TT&DL đang nhìn gương mặt ca sĩ Y Moan qua kính quan tài


Bây giờ mới biết tác giả nghị định 105 mà thiên hạ chửi rầm trời là ông Hồ Trí Hùng – Phó Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ, Bộ VH-TT & DL. Tưởng nghe thiên hạ chửi vậy chắc ông xấu hổ lắm, nhưng không, ông lên báo trả lời đàng hoàng. Càng nghe ông nói càng buồn cười.  Mình đang ốm mà vẫn phải ôm bụng cười rũ. Bà con ai muốn cười vô đây mà cười.( tại đây)


Đến đoạn ông Hùng trả lời tại sao không cấm phong bì trong tang ma, ông nói thật hay: “Nếu nói nạn phong bì, đây là vấn đề nhức nhối. Nhưng nếu đưa vào cũng không cấm được…Đối với những người lợi dụng ma, chay để hối lộ, tham nhũng chúng ta biết nhưng không thể làm được.”


Hi hi cái đáng cấm thì không cấm lại đi cấm rải vàng mã vài ba chục ngàn đồng ” để chống lãng phí”, chết cười. Biết tham nhũng không cấm được là không cấm, làm luật là thế có phải không hả ông Hùng?


Về cái chuyện cấm lắp kính quan tài ông Hùng giải thích mới vui. Ông giải thích như vầy: “Nếu nói về thuần phong mỹ tục, lắp kính chỉ có cách đây khoảng 10 năm, không phải là truyền thống. Thực tế, sinh ra cái kính chỉ là hình thức, tượng trưng. Về tâm lý, không ai muốn để nhìn thân hình người đã mất.. Không đảm bảo an toàn với người đã mất: Cái khuôn kính có kích thước to, nhỏ, rộng, hẹp trong quá trình di chuyển do trấn động người đi lại, tác động bên ngoài thì kính sẽ rơi xuống người đã mất.”


Hi hi người làm chính sách ngồi lo cái kính rơi xuống người đã mất, quả thật xưa nay hiếm. Việc đó người thân trong gia đình người ta lo không được sao để cho mấy ông ngồi trên trời lo vậy ta?


Lại còn bảo:”Về tâm lý, không ai muốn để nhìn thân hình người đã mất..” Ông chắc vậy không? Nếu chắc sao không đề nghị BCT đừng để Bác nằm trong lồng kính, vì “nhiều người không muốn nhìn đâu” hả ông Hùng?


Hôm nay mình đọc cái tin Bắc Triều Tiên lại cấm phụ nữ đi xe đạp ( tại đây): “Trên các chương trình truyền hình giải thích rằng mặc váy đi xe đạp vi phạm đạo đức của xã hội xã hội chủ nghĩa.” He he vui thật là vui.


Thà rằng cứ nói quách cấm lắp kính quan tài, cấm rải vàng mã, cấm viếng quá 7 vòng hoa… mới đây Bộ VH-TT &DL còn cấm cả việc uống rượu trong phòng Karaoke nữa ( tại đây), là để chống “vi phạm đạo đức của xã hội xã hội chủ nghĩa” còn dễ chịu hơn nói như  ông Hồ Trí Hùng.


Mà thôi, xin mấy ông nghỉ quách đi cho thiên hạ nhờ, chứ ngồi không rỗi việc lại nghĩ ra mấy cái luật lú lấp… khổ lắm, mà cũng nhục lắm. Công chức nước Nam này đâu đến nỗi ngu thế.


NQL



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 15, 2013 05:11

“ Các ngươi chớ quên:…”

 Nguyễn Hồng Tâm


Bài viết  về cuộc trò chuyện của Thượng tướng Nguyễn Chí Vĩnh  với báo Tuổi trẻ trước thềm năm mới 2013  với nhan đề “Không ai quên lợi ích Quốc gia ,dân tộc “ báo mạng đã bình luận quá nhiều rồi ! Nói thẳng ra đó là sự ngụy biện cho vị thế hèn kém của Nhà nước  Việt Nam trước sự chèn ép xâm lấn biển đảo ngày càng trắng trợn của Chính quyền Bắc Kinh hiện nay.


    Cái tính ngụy biện lên đến cực điểm là mục nói về “ý thức hệ”, Thượng tướng nói rằng: “Di sản quý báu hàng đầu của Việt Nam và Trung Quốc là sự tương đồng của ý thức hệ”. Nôm na có thể hiểu ra rằng : Quan hệ của Hai nhà nước  Trung- Việt hiện vẫn là quan hệ của những người cộng sản, cùng chung lý tưởng là “đồng chí”, là 16 chữ vàng v.v…Mà đã là hướng về lý tưởng cộng sản thì tâm điểm là quyền lợi giai cấp, biên giới quốc gia so với quyền lợi giai cấp không là cái đinh gì cả ! Tôi không dám tranh luận về những vấn đề cội nguồn của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và ý nghĩa thực tiến của nó. Nhưng trong cái thực tế của mối quan hệ Trung-Việt và cái gọi là cùng chung một di sản quý báu –“ý thức hệ”,tôi xin có vài lời bàn như sau:


           Năm 1969, lúc đó tôi 12 tuổi học lớp 5, dù  còn nhỏ tuổi nhưng cũng như bao đội viên TNTP khác cùng  thế hệ, tôi cũng đã nhận biết thế nào là “phe ta” và “phe địch”, CNXH và CNCS tốt đẹp ra sao. Chính vì vậy mà đọc di chúc Bác Hồ tôi vẫn cứ vấn vương hoài với đoạn: “Tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em!”. Tại sao đều  xây trên nền tảng là Chủ nghĩa Mac-Lê Nin mà sao họ cứ bất hòa cứ mất đoàn kết hoài, thế thì “phe ta” bao giờ mới thắng được? Rồi khi bình bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu đến hai câu thơ : “Mong manh áo vải hồn muôn trượng/ Hơn tượng đồng phơi những lối mòn” thì thầy giáo có “nói nhỏ”  tức là nghe thôi, đừng có ghi : đó là sự so sánh giữa Bác Hồ của chúng ta với Mao Trạch Đông.


Thầy giải thích :ở Trung Quốc, tượng Mao dựng đầy đường, huy hiệu Mao các cỡ nhiều vô kể, đến nỗi tràn sang cả vùng ven biên giới nước mình, trẻ con mình chơi trò đánh đáo, lấy Mao to đè lên Mao nhỏ …Tức là thầy phê phán chủ nghĩa sùng bái cá nhân bên đó. Và từ đó , chúng tôi không còn hát bài “ Việt Nam- Trung Hoa núi liền núi ,sông liền sông” nữa. 1972, khi Ních Xơn sang thăm Bắc Kinh,ông nội tôi mở lén nghe đài BBC và…người lớn (tuy ở nông thôn) biết hết, bàn tán về sự phản bội của Bắc Kinh về sự kinh bạc của họ đối với Việt Nam.


Vào đại học, dạy môn Triết chúng tôi là một thầy giáo rất hay, đến bây giờ những bài học về Duy vật biện chứng tôi còn nhớ được rất nhiều, như các cặp phạm trù, như” cái chung nằm trong cái riêng’ , như “hình thức và nội dung” v.v…Khi giảng về Mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn , thầy có nói về quan điểm sai lầm của Trung Quốc là mâu thuần đối kháng liên tục, triệt tiêu nhau mãi cho đến khi còn lại ….mỗi mình Mao ! Chúng tôi biết thêm về hồng vệ binh công cụ đàn áp của CCVS Trung Quốc trong Đại cách mạng văn hóa, biết thêm về những cuộc hành xác kinh khủng đối với đội ngũ trí thức bên họ, biết thêm về những chiến dịch kiểu như diệt chim sẻ. Thầy nói đó là sự ấu trĩ, duy lý trí…Thế mà một lần thăm thầy tại một khu tập thể giáo viên tồi tàn, thầy tâm sự: “Tôi dạy về chủ ngĩa Mác –Lê Nin nhưng tôi lại thấy rất …mơ hồ”.


 Nhưng nói gì thì nói chứ không thể phủ nhận được sự giúp đỡ to lớn của nhân dân Trung Quốc, chúng tôi biết trang bị của các anh bộ đôi lúc bấy giờ từ đầu đến chân là của ai chứ? Chúng tôi biết trong cuộc sống hàng ngày, cái kim sợi chỉ là của ai chứ ! Và có lẽ mọi người Việt Nam, từ nguyên thủ quốc gia cho đến dân thường , vẫn chỉ nghĩ những mâu thuẫn, bất hòa trong “phe ta” chỉ là tạm thời thôi, chưa ai nghĩ đến một chữ “ngờ”.


 Sang năm 1975, mọi hoạt động học tập và lao động của chúng tôi hòa chung với không khí chiến thắng của dân tộc. Chúng tôi đã có cảm xúc vỡ òa sung sướng khi chiến tranh kết thúc, đất nước thống nhất. Tôi nhớ như in, những lời của thầy hiệu phó trong một buổi sinh hoạt chính trị của toàn khoa: “Lần này là độc lập chắc chắn ! Hòa bình vĩnh viễn!”  Và chúng tôi cũng như toàn thể người dân Việt Nam lúc đó đều có niềm tin như thế ! Một niềm tin gần như tuyệt đối vào ánh hào quang của chiến thắng của Đảng, của lý tưởng.


      Nhưng, tiếp theo như thế nào? Tôi có thể trích đoạn trong bài thơ “Tản mản thời tôi sống” của Nguyễn Trọng Tạo :


       “ Khi đang đắm yêu nào tin được bao giờ


          Rồi một ngày người yêu ta đổi dạ,


         Rồi một ngày thần tượng ta tan vỡ


          Bạn bè thân thọc súng ở bên sườn


                  Sau cái bắt tay xòe một lưỡi dao găm


                  Kẻ tình nguyện giữ nhà muốn chiếm nhà ta ở


                  Tấm ảnh Mao treo lẫn màu cờ đỏ


                  Tay ta treo đâu có nghĩ một lần


         Như con chiên sùng đạo chợt bàng hoàng


         Nhận ra chúa chỉ ghép bằng đất đá


         Thời tôi sống thêm một lần nổ súng


         Trái tim đau rỏ máu dọc biên thùy “


    Bài thơ này chắc không vừa lòng các vị lãnh đạo Đảng qua nhiều thế hệ. Nhưng Nhà thơ đã nói lên nỗi lòng của chúng tôi –một thế hệ phải đau đớn để nhìn ra những điều mình đã ngộ nhận. Chiến tranh biên giới Tây Nam xảy ra ngay sau ngày Việt Nam thống nhất.  Mà do ai gây ra? Đó là những người cùng “ý thứ hệ”  sau trở thành “ bọn diệt chủng Khơ me đỏ”. Đứng sau chúng là ai? Đó là những kẻ sau này phát động Chiến tranh biên giới phía Bắc  1979 . Ông  Đặng Tiểu Bình không biết thuộc “ý thưc hệ” nào mà đòi dạy cho các đồng chí mình ở Việt Nam “một bài học”!  Rồi đã trải qua hơn 10 năm sau, đất nước không bao giờ ngừng tiếng súng, Nghĩa trang Liệt sĩ lại dày thêm trên khắp miền đất nước hình chữ S này.


       Giờ thì tôi thấm một điều: Mọi chủ thuyết, tôn giáo đều hướng về cái chân, cái thiện. Kể cả cái khái niệm Nhà nước  “vì dân, do dân”  đâu phải là mới đâu phải là đặc sản của một “ý thức hệ” nào !


 Trong Bốn ngàn năm lịch sử Việt Nam, Những thắng lợi của các cuộc đấu tranh giành và giữ nước đều  mang đậm dấu ấn tư tưởng vì dân của các vị lãnh tụ. Trong đó tiêu biểu là vua Trần Nhân Tông. Nhân chuyện học sử tôi có đố con gái tôi : Nước ta ai từ Sư trở thành Vua và ai từ Vua trở thành Sư. Con tôi trả lời đó là Lý Công Uẩn(Lý Thái Tổ) và Trần Nhân Tông. Tôi hỏi thêm: Con thích vị nào hơn thì nó trả lời là thích vua Trần Nhân Tông hơn.


 Đương nhiên so sánh như thế là khập khễnh nhưng cái quyền yêu ghét nó là vậy. Nói về Trần Nhân Tông, ngoài sự nổi bật là vị vua gắn liền với chiến công hiển hách của dân tộc chiến thắng giặc ngoại xâm Nguyên Mông , người ta còn biết đến đó là vị vua nhân từ, hết mực vì dân, yêu hòa bình. Thương dân, yêu hòa bình nên phải chịu nén, chịu nhún trước sự nghênh ngang của sứ giặc. Rất đắn đo trước thế giặc mạnh vì chỉ sợ dân đen phải chịu cảnh chết chóc hung tàn. Là vua với quyền lực tối thượng, nhưng  ông coi việc chống giặc ngoại xâm là việc đại sự của muôn dân nên mới  có hội nghị Diên Hồng, Hội nghị Bình Than để cùng dân và tướng sĩ bàn việc giữ nước.


          Sau khi đánh đuổi giặc ngoại xâm,Trần Nhân Tông là người tiêu biểu cho chính sách hòa hợp dân tộc kết hợp với chính sách ngoại giao đúng đắn để xây dựng và gìn giữ đất nước trong bình yên.Nhưng là người đã từng nếm mật nằm gai cùng tướng sĩ và nhân dân kháng chiến, hai lần buộc lòng phải  bỏ Thăng Long chạy giặc ,chứng kiến cảnh hoang tàn của quê hương và nỗi cùng cực đau thương của người dân trong chiến tranh,Nhà vua   hiểu  thấm thía và không bao giờ quên được cái dã tâm của bọn giặc Phương Bắc.


        Kết thúc bài này, tôi muốn nhắc lại di chúc của vị vua Trần nổi tiếng Nhân Nghĩa này :


 “Các ngươi chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ tự cho mình cái quyền nói một đường, làm một nẻo. Vả lại, phải xem đây là mưu của người Trung Quốc. Chỉ người Trung Quốc mới nghĩ ra các thứ mẹo vặt ấy. Loại trừ những điều nhân nghĩa ra, thì các nhà cai trị Trung Hoa không việc gì mà họ không làm. Từ những việc kinh thiên động địa đến việc tán tận lương tâm, miễn sao họ có lợi. Cũng nên nhớ, đây còn là quốc sách truyền thống của người Hoa Hạ từ ngày họ mới lập nước tới nay. Các ngươi có nhớ, hồi đánh giặc Thát ta chỉ ngại cái đám mưu sĩ người Tống, hàng nhà Nguyên, lẫn vào trong đó. Cho tới khi trừ được bọn Lý Hằng, Lý Quán rồi ta mới yên tâm đánh bọn Thoát Hoan, Tích Lệ Cơ Ngọc. Bọn người Thát trước sau gì rồi cũng không nuốt nổi Trung Hoa. Cho nên cái họa lâu dài của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới quy ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp, không thôn tính được ta thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lần lần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các ngươi phải nhớ lời ta dặn: –Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác–. Ta cũng để lời nhắn nhủ đó, như một lời di chúc cho muôn đời con cháu”.


      Đã bảy trăm năm trôi qua rồi mà tôi thấy đó như chính là lời nhắc nhở nghiêm khắc trước những lời ngụy biện kiểu như : “ Không ai quên lợi ích Quốc gia và dân tộc…” của Thượng tướng Nguyễn Chí Vĩnh.


Tác giả gửi QC



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 15, 2013 00:33

January 14, 2013

Thật vàng không sợ lửa

Cánh Cò


9_nghe107-400Có lẽ anh chưa bao giờ xếp hàng mua một vé tàu đi Hà Nội vào những ngày cuối năm nên không biết thế nào là số phận của người xa xứ. Có lẽ chị chưa bao giờ tới phường để xin một tấm giấy chứng nhận rằng gia đình chị đã ở tại miếng đất của mình từ nhiều chục năm qua để thấy thái độ trịch thượng quan liêu của những người được mệnh danh là đầy tớ.


Có lẽ vì sống tại thành phố nên em không biết rằng cùng tuổi với em hàng ngàn em khác đang đến trường với cái bụng lép và thịt chuột là thứ chúng thèm thuồng, kể cả chuột sống trong cống rảnh là mơ ước hàng ngày của chúng. Có lẽ em sẽ không thể tưởng tượng những đứa trẻ bằng em phải đu giây qua sông để đến trường vào những ngày mưa gió. Em cũng khó thể tin rằng hai chị em một bé gái tại vùng cao run rẩy trong tiết trời dưới 0 độ, đứa chị với chỉ một manh áo đơn sơ ngồi ôm đứa em không có quần để mặc.
Có lẽ vào lứa tuổi trên dưới 30 bạn sẽ không bao giờ nghĩ rằng tại các nhà giam trên toàn quốc hiện nay không biết bao nhiêu là tù nhân “chưa hề phạm tội” vì họ là những người đi đòi lại mảnh đất của ông cha hay đòi cái quyền được thở không khí tự do dưới cái tên dân chủ.
Và có lẽ bạn chưa nếm thử cái cảm giác vào bệnh viện phải nằm dưới gầm giường bất kể mùi xú uế xông lên nồng nặc từ máu mủ của bệnh nhân. Bạn cũng chưa biết cảm giác khi bị cảnh sát giao thông thổi còi cốt yếu đòi tiền mãi lộ với thứ ngôn ngữ chợ búa ít ai tưởng tượng nổi. Bạn cũng chưa tưởng tượng ra tại đất nước này công an đánh người tới chết trong đồn rồi kêu gia đình tới nhận thi thể nạn nhân và tuyên bố rằng thân nhân của họ tự tử vì hối hận!
Tất cả họ là người Việt, có chứng minh thư của nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Họ đang sống ở thế kỷ 21, thế kỷ của kỹ thuật số. Đất nước họ được thế giới bơm lên mây cho là sẽ thành con hổ của châu Á. Thế giới khâm phục đến nỗi một tổ chức nào đó đã lớn tiếng cho rằng Việt Nam là nơi người dân sống hạnh phúc nhất thế giới.
Có thể những kẻ ngưỡng mộ Việt Nam đúng khi họ chỉ ghé ngang Sài Gòn hay Hà Nội và thấy những “đồng chí” giàu sụ của chúng tôi. Họ chẳng những giàu mà còn đầy quyền thế.
Họ giàu đúng theo chuẩn giàu của quốc tế. Họ có auto hạng sang mà nhiều kẻ giàu có ở Mỹ không hề biết có loại xe này. Nhà ở của họ tuy bị xem là thiếu thẩm mỹ nhưng lại thừa phong cách rẻ tiền, những khoe khoang và hãnh tiến. Con cái họ lấy ngoại quốc làm nhà, xài tiền không cần đếm và nhất là không bao giờ hết.
Họ là những kẻ muốn người khác tuân phục. Tuân phục vì họ có quyền ban phát những thứ có thể làm cho cơ thể người nghèo ấm áp, no đủ nếu theo họ làm “quần chúng tự phát” hay “dư luận viên”. Họ ban phát ân huệ cho những người đã no đủ vật chất nhưng lúc nào cũng thèm khát vinh quang ảo để lòe người khác qua những giấy khen, huy chương, huân chương, học vị giáo sư hay những thứ gì mà thuộc hạ họ có thể nghĩ ra được. Họ phân phối những thứ giấy tờ này như phân phối gạo. Kẻ đói quyền lực sẽ no căng bằng vào thứ bánh vẽ giả dối này để từ đó cảm thấy mình quan trọng và tiếp tục khuếch tán căn bệnh giả dối cho người khác.
Dân tộc này thừa anh hùng trong những cuộc chiến tranh nhưng lại rất thiếu anh hùng trong thời hậu chiến. Có lẽ máu và nước mắt của họ đã cạn kiệt trên rừng Trường Sơn hay đâu đó trong tất cả các trận đánh lớn nhỏ khắp đất nước này. Họ không còn gì để mà chảy và họ cũng không còn sức để chống lại thói khinh nhờn, bỉ thử của những kẻ hậu sinh ở đất nước khốn khổ này.
Cuốn sổ hưu mà chúng muốn phân phối cho những ai có công đóng góp cho cuộc trường kỳ kháng chiến chống quân xâm lược kèm theo chức năng răn đe những ai không đồng lõa với chúng trong những luận điểm đê hèn. Chính sách này đang được gọi là chính sách “sổ hưu” mà cả nước đang lên án nhưng cả Bộ Chính Trị vẫn làm thinh xem như không có sự gì xảy ra.
Dong Xuan 2Trong khi cuốn sổ hưu bị ném vào sọt rác dư luận thì bằng khen có những chữ ký “danh giá” cũng bị tát nước vào mặt. Câu chuyện của nữ nghệ sĩ Nguyễn Thị Kim Chi trong mấy ngày nay như một viên thuốc tăng lực cho những ai còn tin vào công lý và sự thật. Nhất là tin vào hai tiếng “cách mạng” mà họ theo đuổi suốt cả đời người.
Sự từ chối nhẹ nhàng, đầy tính nhân văn nhưng chát chúa tiếng kèn xung trận của bà Kim Chi cho thấy trong những người một thời vào sinh ra tử ấy vẫn còn nhiều người can đảm. Họ can đảm vì biết rằng chế độ còn lắm kẻ theo đóm ăn tàn, không ai trong những người này từng chịu bom đạn như bà và đồng đội của bà ngày xưa. Bà đứng trên cao nhìn xuống. Bà cho mọi người thấy sự sợ hãi cũng có thể bị khống chế. Nếu những anh hùng khi xưa là anh hùng thật, là can đảm thật thì ngày nay họ phải hiên ngang đứng lên đòi chế độ này những câu trả lời thích đáng.
Khi xưa họ chiến đấu không phải vì “hòa bình ổn định khu vực” mà vì họ muốn đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi vậy thì tại sao bia ghi công chiến sĩ chống giặc Tàu lại ghi là chiến đấu cho hòa bình ổn định khu vực? Những thứ ngôn ngữ xảo trá này đang bôi đen toàn bộ lịch sử, bôi bẩn những khuôn mặt anh hùng hay liệt sĩ. Họ là ai mà lại ngang nhiên làm những điều khó dung tha như vậy?
Họ là ai mà vung tiền như rác trong những đề án dốt nát, phá hoại đất nước như Sông Tranh như Bauxit Tây Nguyên như Vina các loại? trong khi đồng bào không có áo mặt, cơm ăn. Trẻ con đu giây đi học, moi móc thịt chuột để ăn. Không phải do tội nghèo của chúng hay gia đình chúng mà tội của các quan chức cầm quyền không lo được cho đời sống của họ. 
Các chiến sĩ ngày xưa nếu quả là chiến sĩ không thể không thấy rằng cuốn sổ hưu trả cho họ chỉ là hành động bố thí khi công khai tước bỏ mọi hy sinh cao quý của đồng đội họ, những người đã nằm xuống. Nếu quả thật là chiến sĩ thì các vị đừng chờ người khác làm cho mình để khi chính các vị và gia đình vào bệnh viện cũng sẽ gặp cảnh chui dưới gầm giường chờ bà Bộ trưởng Y tế tới ban cho vài lời hứa suông như ngày xưa họ hứa trước hàng quân trước giờ xuất kích.
Đừng để cảnh ấy xảy ra và hãy gượng dậy làm một chút gì cho con cháu các vị.
Hãy can đảm như bà Kim Chi.
Nhiều tiếng nói, hành động như Kim Chi sẽ làm cho bọn sai nha run sợ. Hãy tự thử nghiệm mình xem có đúng khi xưa mình chiến đấu vì yêu nước hay không, hay chỉ vì bị xúi giục, lôi kéo thậm chí cưỡng bức nên ngày nay không thể nói tiếng nói đúng đắn và mạnh mẽ của một chiến sĩ chính hiệu? Chiến sĩ thôi cũng đủ, chưa cần đến anh hùng.
Bà Kim Chi chưa bao giờ được huân chương nào gọi là cao quý thứ thiệt nhưng bà là chiến sĩ thứ thiệt trong chiến tranh chống Mỹ. Vì thứ thiệt nên hôm nay bà không sợ lửa. Vì không sợ lửa nên bà trở thành anh hùng trong tim nhiều người.
Ai là người thứ thiệt như bà nữa đây?
Theo blog CC, đầu đề của QC


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 14, 2013 20:41

Khi bác Lương Thanh Nghị tiếp tục phản đối Trung Quốc

Tâm Sự Y Giáo


SDC14763Theo TTXVN trong bản tin phát lúc 19h52’ ngày 14-1-2013, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lương Thanh Nghị tiếp tục phản đối ông bạn “4 tốt, 16 chữ vàng” (nội dung phía cuối bài) .


Ngược thời gian, chỉ riêng năm 2012 , qua những thông tin được công bố chính thức, bác Lương Thanh Nghị đã lên tiếng phản đối Trung Quốc tại các cuộc họp báo mới chỉ có … 9 lần:
- Ngày 20-1-2012: phản đối Trung Quốc đơn phương ban hành lệnh cấm đánh bắt cá  ở Biển Đông.
- Ngày 21-3-2012: phản đối Trung quốc bắt giữ tàu và ngư dân Việt Nam khi đang hoạt động trong vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam.
- Ngày 15-5-2012: tiếp tục phản đối Trung Quốc công bố lệnh đánh bắt cá ở Biển Đông.
- Ngày 24-5-2012: phản đối Trung quốc bắt giữ 2 tàu cá và 14 ngư dân tỉnh Quảng Ngãi.
- Ngày 24-7-2012: phản đối Quân ủy trung ương Trung Quốc lập “Cơ quan chỉ huy quân sự” của “thành phố Tam Sa”, tổ chức bầu đại biểu hội đồng nhân dân của “thành phố” này.
- Ngày 31-8-2012: phản đối Trung Quốc mời thầu quốc tế tại lô dầu khí 65/12 thuộc vùng biển Việt Nam.
- Ngày 11-10-2012: phản đối một loạt các hoạt động của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa: sẽ dùng máy bay không người lái để giám sát vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa, tổ chức lệ kéo cờ mừng quốc khánh tại đảo Phú Lâm – Hoàng Sa, Hạm đội Nam Hải tổ chức diễn tập tại vùng biển quần đảo Hoàng Sa, thành lập Phòng khí tượng “thành phồ Tam Sa”.
- Ngày 22-11-2012: phản đối Trung Quốc in đường lưỡi bò lên hộ chiếu.
- Ngày 4-12-2012: phản đối Trung Quốc “gây đứt cáp” tàu Bình Minh 2, thông qua bản sửa đổi “Điều lệ quản lý trị an biên phòng ven biển tỉnh Hải Nam”, cho xuất bản bản đồ “Tam Sa”.
Và lần này, ngày 14-1-2013,  bác Nghị tiếp tục phản đối Trung Quốc về những hành động vi phạm chủ quyền của Việt Nam: công bố chính thức và đưa vào hiệu lực “Điều lệ quản lý trị an biên phòng ven biển Hải Nam”, tổ chức tập trận tại đảo Quang Hòa thuộc quần đảo Hoàng Sa. Tổ chức khai thông và cung cấp dịch vụ 3G, CDMA tại đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa, phê duyệt “Qui hoạch phát triển du lịch tàu khách thành phố Tam Á 2012-2022 trong đó có các tuyến đi tới các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Bác Nghị khẳng định: “Những hoạt động nêu trên của phía Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, làm cho tình hình Biển Đông thêm phức tạp, trái với tinh thần DOC, không có lợi cho hòa bình ổn định trong khu vực và quan hệ Việt Nam – Trung Quốc”.
Rồi nhấn mạnh: “Việt Nam kiên quyết phản đối và yêu cầu Trung Quốc hủy bỏ ngay các hoạt động sai trái đó”.
Không cần phải tưởng tượng nhiều, cũng có thể thấy ở phía bên kia, bọn bành trướng đang cười giễu cợt như thế nào: “Chúng mày thích phản đối thì cứ phản đối. Chúng mày có phản đối 100 lần, 1000 lần thì cũng chỉ để chúng mày nghe với nhau thôi. Chúng mày quên rằng quan hệ chúng ta là song phương à? Làm cho tình hình Biển Đông thêm phức tạp hả? Đấy là vì bọn tao muốn như thế. Tinh thần DOC hả? Bọn tao đek cần biết DOC là cái quái gì. Không có lợi cho hòa bình ổn định trong khu vực và quan hệ Việt Nam – Trung Quốc hả? Ấy là do bọn mày cứ thích nói thế, chứ bọn tao đâu cần, mà cũng chẳng quan tâm. Đối với bọn tao, điều tối thương là lợi ích cốt lõi của nước mẹ Trung Hoa, nghe chửa? Nhân đây, bật mí cho chúng mày rõ: Lợi ích cốt lõi của bọn tao bao gồm một phần, hoặc tốt nhất là tất cả lãnh thổ bọn mày đấy. Cứ làm quen dần đi, nhá!”
Qua hàng loạt sự kiện trên, có thể thấy bác Nghị đã mất nhiều công sức để phản đối bọn bành trướng, nhưng bọn chúng coi những lời phản đối của bác chẳng xi-nhê gì. Bác càng phản đối, thì bọn chúng lại càng lấn tới, nhằm chiếm trọn Biển Đông của Việt Nam.
Vậy, hà cớ gì cứ phải gọi cái bọn bành trướng vô cùng hung hãn và nham hiểm này là “người bạn 4 tốt” nhỉ?

Gọi là giặc, cũng còn chưa đủ !


Theo TSYG



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 14, 2013 19:07

Đảng – Nhà nước – Hiến pháp

Vài suy nghĩ v s a đ i Hi ế n pháp 1992


nguyen-trung Nguyễn Trung


NQL:Chủ nhiệm UB Pháp luật QH Phan Trung Lý, Trưởng ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 khẳng định với báo giới ( Tại đây): “Không có điều gì cấm kỵ khi nhân dân góp ý sửa Hiến pháp”. Ông còn nhấn mạnh: “”nhân dân có thể cho ý kiến đối với điều 4 Hiến pháp như với tất cả các nội dung khác trong dự thảo, không có gì cấm kỵ cả”. Theo nguyên tắc đó, hôm qua Quêchoa đã đăng bài Hai tử huyệt của chế độ của TS Hoàng Xuân Phú ( tại đây). Và hôm nay là bài của bác Nguyên Trung.


  I. Đảng và Nhà nước


          Trong thực tiễn đời sống của hệ thống chính trị nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam kể từ khi Việt Nam là một quốc gia độc lập thống nhất cho thấy Đảng Cộng Sản Việt Nam – với đòi hỏi tự đặt cho mình là phải bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng – đã và đang là người nắm quyền lực toàn diện và tuyệt đối mang tính độc quyền toàn trị đối với quốc gia.


Cùng với sự trói buộc của ý thức hệ và sự tha hóa trong thời bình, sự lãnh đạo của Đảng mang tính độc quyền toàn trị như thế trên thực tế đã biến dạng thành sự cai trị, Đảng mới là nhà nước đích thực: Nhà nước đảng trị. Sự tha hóa này khiến Đảng với danh nghĩa là đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động… trở thành đảng thống trị.


Với vị thế và quyền lực như vậy của ĐCSVN, Nhà nước trở thành công cụ thực thi quyền lực và quyết định của Đảng, Hiến pháp trở thành công cụ hợp thức quyền lực và việc làm của Đảng. Để biện hộ cho hệ thống chính trị như vậy của đất nước, Hiến pháp 1992 xác định đấy là nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa.


Thiết kế như thế ngay trong Hiến pháp 1992, Đảng được đặt ở vị trí đứng trên Hiến pháp và trên nhà nước. Đây chính là nội dung cơ bản của Điều 4 trong Hiến pháp 1992. Trong một quốc gia với hệ thống chính trị như thế hoàn toàn không có không gian cho tiêu chí quyết định số một của nhà nước pháp quyền, đó là: Hiến pháp là quyền lực tối thượng.


Đem so sánh một bên là quyền lực mà Đảng giành cho mình[1] và được luật hóa trong Điều 4, và một bên là những được/mất trong quá trình phát triển mọi mặt của đất nước trong 37 năm độc lập thống nhất, đặc biệt là so với thực trạng nguy hiểm của đất nước hôm nay, vai trò lãnh đạo và phẩm chất của Đảng đối chiếu ngay với Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng, cũng như so với chính Điều 4, kết quả rõ ràng không như Đảng đã cam kết với đất nước: Đảng không làm được nhiệm vụ tiên phong và lãnh đạo với đúng nghĩa, mà chủ yếu chỉ thực hiện được vai trò của người có quyền thống trị. Uy tín của Đảng cũng như lòng tin của nhân dân vào Đảng vì thế theo thời gian chưa bao giờ giảm sút như ngày nay. Như thế tự mình, Đảng đã không thực hiện nổi nhiệm vụ của mình như đã ghi cho mình trong Điều 4. Chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phải nhận định sư hư hỏng của Đảng hiện nay đã đến mức thách thức sự tồn vong của Đảng và của hệ thống chính trị.


Với thực tế của cuôc sống đất nước 37 năm nay như vậy, và với nhận định của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng về thực trạng tha hóa hiện nay như vậy của Đảng, xin hỏi: Điều 4 còn lý lẽ gì để tồn tại? 


Điều 4  trong dự thảo Hiến pháp sửa đổi lần này được chỉnh sửa chút ít, đó là Đảng “chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”.


Đọc lại tất cả các văn bản Đại hội Đảng từ Đại hội IV (1976), có lúc nào Đảng không nhấn mạnh chịu sự giám sát của nhân dân, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình… Trong toàn bộ hoạt động của Đảng kể từ khi thành lập, có lúc nào Đảng không cam kết trách nhiệm của mình trước đất nước, trước nhân dân? Sự cam kết trách nhiệm như vậy chính là tiền đề và là lẽ tất yếu cho sự ra đời và tồn tại của Đảng, vì thế nó không cần và không phải chờ đến khi phải được đưa vào Hiến pháp mới được thực hiện. Vì thế lúc nào cũng chỉ có vấn đề Đảng thực hiện được hay không cam kết của mình đối với đất nước mà thôi.


Nhìn nhận kết quả đợt vận động tự phê bình và tự phê bình được phát động từ Hội nghị Trung ương 4 khóa XI và sự xin lỗi chân thành của Bộ Chính trị trước nhân dân mà cả nước đã được nghe, hiển nhiên sẽ thấy: Việc bổ sung thêm chi tiết nói trên vào Điều 4 hoàn toàn không có khả năng xoay chuyển tình thế đất nước, bởi vì tư duy và đường lối của Đảng, hệ thống chính trị hiện hành, vị thế độc quyền toàn trị của Đảng đứng trên tất cả còn nguyên vẹn.


Chi tiết bổ sung như thế vào Điều 4 chỉ chứng minh: Đảng quyết cố thủ.


Hiến pháp 1992 có nhiều Điều, Khoản đúng, tốt về các quyền công dân cơ bản – như quyền sở hữu, các quyền về tự do, dân chủ và quyền con người…, về các quyền và nghĩa vụ của các bộ phận thuộc hệ thống nhà nước,  vân vân…


Tuy nhiên, thực tế là hầu hết những Điều, Khoản đúng và tốt này không được và không thể thực thi, hiện tượng vi hiến ngày càng nhiều và nghiêm trọng trong đời sống đất nước ở mọi cấp và mọi nơi; chủ yếu vì các nguyên nhân chủ yếu sau đây:


(a)  Hiến pháp có một số Điều được thiết kế không dứt khoát.


(b) Có một số Điều và Khoản trên thực tế là ngược hay phủ định nhiều Điều và Khoản khác trong Hiến pháp, hoặc gần như là phủ định toàn bộ Hiến pháp – trước hết chính là Điều 4, những Điều và Khoản về đất đai (rõ nét nhất là vấn đề “quyền sở hữu toàn dân” về đất đai…), về kinh tế quốc doanh… Đấy là nói về nội dung Hiến pháp 1992.


(c)  Ngoài ra còn phải kể đến nguyên nhân thứ 3 vô cùng quan trọng và quyết định hàng đầu, đó là hệ thống quyền lực không coi trọng Hiến pháp, và ngay từ đầu trong hành động thực tế là bác bỏ nguyên tắc Hiến pháp là quyền lực tối thượng của quốc gia, chỉ sử dụng Hiến pháp ở những chỗ và những lúc khi quyền lực cần..


Trong tình hình như vậy, nếu không có các chi tiết bổ sung cho Hiến pháp 1992 sửa đổi đủ sức mạnh khắc phục cả 3 nguyên nhân nói trên, việc sửa đổi Hiến pháp 1992 sẽ trở nên vô nghĩa.


Và rõ ràng không có phép lạ nào viết ra được những chi tiết bổ sung có đủ sức mạnh như thế, ngoài việc viết ra Hiến pháp mới.


Giả định rằng có phép lạ viết ra được Hiến pháp mới hoàn hảo đến tuyệt đỉnh, song vẫn giữ nguyên Đảng với tư duy, tổ chức, vị thế, quyền lực, cùng với bộ máy chuyên chính tinh thần và bộ máy chuyên chính bạo lực của nó hiện nay như thế trong quốc gia, trong hệ thống nhà nước, trong kinh tế và trong đời sống văn hóa – xã hội.., gọi tất cả những thứ này dưới một cái tên chung tổng hợp là hiện tượng “đảng hóa”, Hiến pháp mới cũng sẽ chỉ có giá trị trang trí.


Có thể kết luận ngay: Sửa đổi Hiến pháp dù có thể làm tốt thế nào đi nữa, mà Đảng vẫn giữ nguyên đảng hóa và không thay đổi, sẽ vô ích.


Khi còn đương chức, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt là người nhiều lần phê phán kịch liệt hiện tượng đảng hóa như thế. Sự phê phán này tổng hợp nhất và rõ nét nhất được nêu trong bức thư ngày 09-08-1995 gửi Bộ Chính trị.


Trong thư này, Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đặt vấn đề: (1) phải nhìn nhận lại thế giới, (2) phải đánh giá lại đường lối phát triển đất nước, (3) phải xây dựng nhà nước pháp quyền, (4) phải xây dựng lại Đảng về đường lối và về tổ chức. Cả 4 đòi hỏi nêu trong thư này đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị và mức độ bức xúc khẩn thiết của nó.


Những năm cuối đời, Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã dành hết tâm huyết mình nhiều lần viết và nói trực tiếp với từng ủy viên Bộ Chính trị và toàn thể Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN, và nói với toàn dân: Phải từ bỏ mọi thứ chủ nghĩa, Đảng phải tự lột xác để trở thành đảng của dân tộc. 


Nhân việc nhắc đến bức thư quan trọng này, xin cho phép hỏi trực tiếp trên ba triệu đảng viên của Đảng hôm nay: “Đảng CSVN hôm nay có còn cách nào phục vụ lợi ích quốc gia tốt hơn không? Có đảng viên nào hôm nay dám nói mình yêu Đảng, bảo vệ Đảng hơn đảng viên Võ Văn Kiệt không?”


Nếu lãnh đạo Đảng và Nhà nước hiện nay thành tâm mong muốn sửa đổi Hiến pháp lần này để cứu Đảng, cứu nước, nhất thiết phải đặt vấn đề cải cách thay đổi Đảng gắn kết hữu cơ với việc sửa đổi Hiến pháp trong tổng thể nhiệm vụ cải cách chính trị canh tân đất nước, đúng với tinh thần và nội dung như vừa trình bầy trên.


  


II


          Sau 27 năm đổi mới, kinh tế đất nước đã hoàn thành thời kỳ phát triển ban đầu – thời kỳ phát triển theo chiều rộng.  Song hiện nay, vì nhiều sai lầm và những yếu kém nhiều mặt trong quá trình phát triển này, nhất là những sai lầm trong đường lối lãnh đạo đất nước của Đảng và sự tha hóa của hệ thống chính trị, kinh tế nước ta chưa hội đủ mọi điều kiện phải có, để sẵn sàng đi vào thời kỳ phát triển mới cao hơn: Thời kỳ phát triển theo chiều sâu.


Từ 5 năm nay đất nước lại lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế – chính trị – văn hóa – xã hội toàn diện, đất nước chưa bao giờ đứng trước nhiều nguy cơ và thách thức bức xúc như bây giờ, nhất là trong một thế giới đang bước vào một thời kỳ phát triển mới với nhiều diễn biến khó lường..


Việc Trung Quốc đang trở thành siêu cường tác động nghiêm trọng vào trật tự thế giới hiện hành, và đồng thời thách thức gay gắt tất cả các nước láng giềng. Nhiều tác động tiêu cực của siêu cường đang lên Trung Quốc đang gây ra những vấn đề phức tạp mới như giành giật thị trường, vi phạm luật chơi chung, lôi kéo và tập hợp lực lượng (bao gồm cả chính trị, tôn giáo, sự can thiệp của quyền lực mềm…)… trong nhiều khu vực trên thế giới, lại trong thời kỳ tình hình thế giới đi vào một thời kỳ phát triển mới phức tạp, do đó hiện tượng siêu cường Trung Quốc đang lên trở thành vấn đề của cả thế giới trên nhiều phương diện. Đặc biệt là tính xung đột quyền lực siêu cường mang tịnh văn hóa Đại Hán tập trung vào khu vực châu Á, nhất là Đông Nam Á, vấn đề Trung Quốc càng trở nên đặc biệt nhạy cảm và nguy hiểm, nhất là đối với các nước nhỏ trong khu vực.


Với tính cách là chướng ngại vật tự nhiên đầu tiên nhất thiết phải khuất phục đối với siêu cường Trung Quốc trên đường của nó vươn ra Biển Đông, Việt Nam là nước bị uy hiếp nghiêm trọng nhất. Và chưa thể nói lãnh đạo của đất nước đã lường hết mọi nguy hiểm của sự uy hiếp này, thậm chí có không ít biểu hiện lúng túng, khiếp nhược.., càng không thể nói lãnh đạo của đất nước đã sẵn sàng phát huy tối đa sức mạnh toàn dân tộc trước thử thách mất còn này đối với đất nước…


Trong khi đó đất nước đang có nhiều khó khăn hiểm nghèo: Kinh tế khủng hoảng cơ cấu sâu sắc chưa có lối ra;  những bức xúc và bất công xã hội vì tự do dân chủ bị đàn áp khiến lòng dân ngày càng phân tán; những lúng túng, không nhất quán hay không rõ ràng trong đối sách của lãnh đạo đối với Trung Quốc càng làm cho nhân dân mất tin tưởng; Đảng lãnh đạo lại ở trong thời kỳ thoái hóa nghiêm trọng nhất trong lịch sử của mình về chính trị và tính tiền phong chiến đấu, và hệ thống chính trị đang tha hóa trầm trọng.


Có thể nói sau 37 năm độc lập thống nhất, chưa bao giờ đất nước lâm nguy như bây giờ, Đảng yếu kém như bây giờ.


Giải quyết những khó khăn nội tại để mở ra một thời kỳ phát triển cho đất nước, tạo sức mạnh đối xử thành công mối quan hệ với Trung Quốc với tư cách nước ta là một đối tác được tôn trọng chứ không phải là một nước lệ thuộc hay một chư hầu kiểu mới, nhất là để Việt Nam không một lần nữa và vĩnh viễn không bao giờ trở thành chiến địa cho sự tranh hùng của các siêu cường, nắm bắt cơ hội chưa từng có trong bối cảnh quốc tế hôm nay làm cho Việt Nam hưng thịnh trở thành một thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế dấn thân cùng với cả nhân loại tiến bộ, vì hạnh phúc và phát triển của chính quốc gia mình và của cả thế giới… Làm sao Việt Nam có thể thực hiện được những nhiệm vụ sống còn và có ý nghĩa vô cùng trọng đại ấy, nếu đất nước không có một thể chế chính trị dân chủ, thực hiện được hòa giải đoàn kết dân tộc, phát huy tối đa sức mạnh dân tộc, tranh thủ được sự hậu thuẫn của tất các các quốc gia, các lực lượng tiến bộ trên thế giới – kể cả trong lòng nhân dân Trung Quốc?


Tất cả những vấn đề nghiêm trọng sống còn đối với đất nước vừa trình bầy trên làm sao xử lý thành công được, nếu đất nước không có một thể chế chính trị dân chủ, thực hiện được hòa giải đoàn kết dân tộc, để cả nước làm được những việc phải làm, cho bây giờ và cho mãi mãi về sau?


Tất cả những vấn đề nghiêm trọng sống còn vừa nêu trên chẳng lẽ không mảy may liên quan đến việc sửa đổi Hiến pháp hiện nay?


Chẳng lẽ ĐCSVN hôm nay không còn đủ tính tiền phong chiến đấu, để nhận thức được những vấn đề sống còn như thế đang đặt ra cho đất nước, không có trí tuệ và ý chí bắt tay vào nhiệm vụ phải làm như Đảng đã từng làm khi tiên phong khai phá con đường cứu nước?


Đảng phải tìm cho mình câu trả lời: Làm hay không làm? Làm thế nào? Trả lời thế nào, Đảng tự phơi bầy mình ra là thế nấy, chẳng có thế lực thù địch nào xuyên tạc nổi.


Còn nhân dân – qua không biết bao nhiêu kiến nghị, thư, lời kêu gọi… gửi cho Đảng… ít nhất từ 3 Đại hội Đảng toàn quốc liên tiếp cho đến nay – nghĩa là từ 15 năm nay – đã đặt ra cho mình những câu hỏi đúng, các câu trả lời đúng.


 III. Đề nghị của người viết bài này với nhân dân và các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước


  Có thể vì không thấy hết tầm vóc các việc phải làm cho sửa đổi Hiến pháp, hoặc là bị khuôn vào những nguyên tắc chỉ đạo của Tổng bí thư như sửa gì thì cũng phải trong khung khổ Cương lĩnh và Điều lệ Đảng, quyền lực của hệ thống chính trị là thống nhất, không có tam quyền phân lập, gác lại vấn đề sở hữu đất đai.., nên kế hoạch sửa đổi Hiến pháp như đang tiến hành vừa sơ sài về nội dung, (nặng về hình thức, chiếu lệ và không đi vào thực chất), coi như chẳng liên quan gì đến những nhiệm vụ trọng đại và  nóng bỏng của đất nước trong giai đoạn hiện tại và xa hơn nữa, vừa không được bố trí đủ thời gian công sức lẽ ra phải đầu tư… Làm như thế làm sao mong được kết quả thực chất?


Hơn nữa, chỉ đạo như thế là đứng trên, là ban cho, là ông chủ của nhân dân, là đứng trên Hiến pháp mất rồi!


Ai mà không hiểu Hiến pháp viết như thế nào là quyền của nhân dân chứ! Lãnh đạo ở đây chỉ có một nghĩa, một nội dung duy nhất là giúp người dân có tri thức và quyền năng thực hiện tốt nhất quyền chủ nhân đất nước và sự lựa chọn của họ. Làm khác đi là ốp, là cưỡng bức.


Cũng nhân đây xin nói ngay, hàng ngày Bộ Chính trị có không ít những chỉ đạo như thế.


          Có ít nhất 3 thiếu sót quan trọng cần chú ý khắc phục ngay trong quá trình tiến hành sửa đổi Hiến pháp lần này:


          (1) Thiếu hẳn khâu chuẩn bị cho nhân dân, ví dụ không thông tin thông báo cho nhân dân:


-        thực trạng đất nước, những thách thức và đòi hỏi cho giai đoạn phát triển mới, để suy nghĩ Hiến pháp sửa đổi lần này cần phải thiết kế như thế nào, phải đáp ứng thế nào những yêu cầu mới của đất nước về đối nội, đối ngoại, phát triển…


-        gợi ý những vấn đề trọng đại nào trong Hiến pháp cần tập trung huy động trí tuệ và lấy ý kiến của nhân dân, hướng kiến nghị sửa đổi của Ban soạn thảo…


-        vân vân…


          (2) Về phía Đảng cũng coi việc sửa đổi Hiến pháp là một công việc cắt rời như đã cài sẵn trong lập trình để ở máy tính, nghĩa là chẳng dính dáng gì đến việc phải cải cách hay thay đổi Đảng như thế nào. Mà như thế, như đã nêu trong phần II: giả thử Hiến pháp được sửa  thật tốt thế nào đi nữa, nhưng nếu hệ thống chính trị vẫn y nguyên, cái gì sẽ chờ đợi đất nước?


          (3) Hầu như không có sự chuẩn bị gì cho việc nâng cao dân trí và quyền năng của nhân dân, để nhân dân có thể làm tốt quyền và nghĩa vụ công dân của mình trong việc góp ý kiến vào Hiến pháp, trong việc thực hiện quyền phúc quyết… Cũng xin nói ngay, không thực hiện nghiêm túc với chất lượng cao quyền thảo luận tham gia ý kiến và quyết định (nhất là đối với những vấn đề quan trọng), quyền phúc quyết của nhân dân, Hiến pháp sửa đổi hay Hiến pháp mới sẽ giảm hẳn giá tri cũng như khả năng thực thi.


Quá trình soạn thảo sửa đổi Hiến pháp hay xây dựng Hiến pháp mới lẽ ra nhất thiết còn phải là lúc làm cho cả nước có cơ hội học tập để nâng cao hiểu biết, nâng cao quyền năng của công dân, giác ngộ nhân dân những vấn đề trọng đại của đất nước, gắn bó người dân hơn nữa với vận mệnh đất nước… Nhà nước pháp quyền chính đáng nào mà lại không mong muốn công dân của mình có trình độ giác ngộ cao nhất?


          Vân vân…


          Ngoài ra, cá nhân người viết bài này xin có những đề nghị như sau:


1.    Nếu chỉ sửa đổi sơ sơ như dự thảo đã công bố, thì nên tạm dừng lại chưa đi tới phần kết thúc như thời khắc biểu đã định, riêng việc lấy ý kiến nhân dân phải tiến hành có chất lượng và nên kéo dài tới cuối năm 2013, để có thời gian bổ khuyết 3 việc còn sót chưa làm nói trên.


2.    Trong khoảng thời gian kéo dài thêm, nên thực hiện ngay một số Điều đúng, đã có sẵn trong Hiến pháp 1992, như các Điều quy định các quyền về tự do, dân chủ của công dân, quyền con người, về tự do ngôn luận, về báo chí..; đình chỉ ngay mọi hoạt động có tính chất khủng bố, trấn áp, hay đàn áp nhân dân, thả ngay những người bất đồng chính kiến đang phải thụ án tù hay đang bị xét xử, làm ngay một số việc khác như 71 trí thức đã nêu trong kiến nghị ngày 06-08-2012.


3.    Bãi bỏ việc sửa đổi Hiến pháp theo kiểu chắp vá như đang làm, đặt vấn đề xây dưng Hiến pháp mới lần này là một trong những bộ phận quan trọng nhất của chương trình cải cách triệt để và toàn diện chế độ chính trị của đất nước.


4.    Lãnh đạo Đảng và Nhà nước phát huy trí tuệ và tâm huyết cả nước xây dựng chương trình cải cách toàn diện hệ thống chính trị, kế hoạch và lộ trình thực hiện. Thông qua cuộc cải cách chính trị này Đảng thực hiện cải tổ lại chính mình cả về đường lối, về tổ chức để trở thành Đảng của dân tộc phù hợp với những tiêu chí của một nhà nước pháp quyền dân chủ.


5.    Thông qua cải cách chính trị lần này Đảng trang trải hai món nợ, hai nhiệm vụ lịch sử đối với nhân dân, đối với tổ quốc mà Đảng đã để trễ 37 năm sau khi đất nước độc lập thống nhất:


-        Xây dựng một thể chế chính trị dân chủ của nhà nước pháp quyền để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.


-        Thực hiện hòa giải đoàn kết dân tộc để phát huy tối đa sức mạnh toàn diện của đất nước.


 


 IV. Vài suy nghĩ thay lời kết


 Qua cải cách chính trị lần này, một nước Việt Nam dân chủ ra đời[2] từ nước Việt Nam độc lập thống nhất kể từ 30-04-1975  – nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam – đấy sẽ là sự đổi đời của chính nước ta, để từ nay và mãi mãi mở mày mở mặt cùng đi được với cả thiên hạ, để có khả năng là bạn và là đối tác được tôn trọng của cả thiên hạ. Song sự kiện này sẽ làm thế giới chấn động, vì nó góp phần củng cố hòa bình, có lợi cho hợp tác và cùng phát triển ở Đông Nam Á, với nhiều ảnh hưởng lan tỏa rất khích lệ cho cái thiện, cái tốt ở mọi nơi. Có thể nói ngay, cả thế giới sẽ vui mừng với chúng ta – trong đó có không ít những bộ phận nhân dân trong lòng đất nước Trung Quốc. Còn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa chắc chắn sẽ không như thế. CHNDTH sẽ như thế nào, điều này còn tùy thuộc vào nhiều thứ dễ thấy ngay từ bây giờ… Song việc nước ta phải làm thì nước ta cứ phải làm, đủ sức làm, và làm được, chẳng lẽ cứ phải ngó nghiêng hay xin phép Trung Quốc? Mà dù ta có ngoan ngoãn, ngó nghiêng hay xin phép… chắc gì được yên thân? Khi cần và thấy trên bàn cờ quốc tế là có thể – bất kể là ta yếu hay mạnh, cương hay nhu, ngoan hay bướng… – thì CHNDTH vẫn sẵn sàng ra tay đối với ta, lần nào cũng rất rắn. Chiếm Hoàng Sa của ta năm 1974 là như thế, cuộc chiến tranh Campuchia và cuộc chiến tranh đánh ta tháng 2-1979 là như thế, lấy thêm một số đảo của ta ở Trường Sa năm 1988 là như thế, bây giờ đang muốn lấn chiếm ta tiếp trên Biển Đông cũng là như thế – giữa lúc ta vẫn đang gồng lên nhẫn nhục gìn giữ đại cục, 4 tốt và 16 chữ đấy thôi!..


Nhưng nếu  ta không quyết tâm đổi đời đất nước lần này, chắc chắn nước ta sẽ rơi sâu hơn nữa không có lối thoát vào con đường nô dịch của siêu cường Đại Hán như đã vương vào từ Hội nghị Thành Đô năm 1990 đến nay gỡ chưa ra. Không chỉ có thế, rơi vào vòng tay Trung Quốc, nước ta một lần nữa sẽ trở thành chiến địa mới của nhiều nước, nội chiến cũng sẽ nổ ra trong lòng tổ quốc chúng ta!


          Song làm sao thực hiện được cuộc đổi đời như vậy của đất nước, nếu không có sức mạnh của trí tuệ và từ trong tâm huyết và ý chí của hòa giải đoàn kết dân tộc?


Cần nói thẳng thắn với nhau hòa giải đoàn kết dân tộc như thế đến nay vẫn hầu như là không thể, nhưng lại là đòi hỏi tất yếu, là đòi hỏi đầu tiên để đổi đời đất nước.


Làm sao có thể thực hiện được sự hòa giải đoàn kết dân tộc như thế đã để muộn mất 37 năm rồi, nếu không có một thể chế chính trị dân chủ của đất nước làm cái nôi sinh thành và nuôi dưỡng nó?


          Về ĐCSVN tôi muốn nói thế này: Chắc chắn người Việt Nam nào có ý thức với đất nước đều thiết tha mong mỏi một cuộc đổi đời của đất nước như vậy. Đấy chính là cái đích ngàn đời mà vì nó cả nước đã đi theo Đảng bước vào Cách mạng Tháng Tám. Chẳng lẽ nào bây giờ đứng trên đỉnh cao của quyền lực, Đảng không còn khả năng nhận ra cái đích này? Và chỉ vì thế, có phải là Đảng muốn tự chọn con đường đối kháng với cái đích ngàn đời mong ước này của dân tộc hay không?


          Không ai có thể thay Đảng trả lời câu hỏi này.


          Bốn cuộc chiến tranh, khoảng 7 triệu sinh mạng người dân nước ta (có số liệu nói 10 triệu) bị cướp đi, cùng với biết bao nhiêu tổn thất khác không bao giờ lấy lại được nữa, những vết thương trong lòng dân tộc như đang muốn không bao giờ lành lại nữa, gần một nửa thế kỷ[3] đất nước chìm đắm trong khói lửa giữa lúc thế giới đi lên đỉnh cao phát triển mới, rồi những sai lầm đổ vỡ do chính tự tay ta bên này và bên kia gây nên…


Chừng nấy mất mát và đau thương còn chưa đủ hay sao nếu để xảy ra đổ vỡ nồi da xáo thịt một lần nữa?


Chừng nấy mất và đau thương còn chưa đáng để toàn dân tộc ta nắm tay nhau hòa giải và cùng nhau bước về phía trước?


Chừng nấy mất mát và đau thương không đáng để cho mỗi người Việt chúng ta khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ, cùng đoàn kết giúp nhau dấn lên, đổi đời chính mình, và đổi đời của đất nước hay sao? 


          Cuối cùng, xin nói lời đề nghị quan trọng nhất:


Tôi thiết tha mong từng người dân Việt chúng ta học lại quá khứ của chính mình, của đất nước – học tất cả, để hiểu những điều tốt và xấu, thành và bại, ác và thiện, cái ngu dốt và sự minh triết, sự thù hận và lòng khoan dung… Không chờ và không cần ai ban bảo mình hay nhồi nhét cho mình học cái gì! Mà hãy đem tất cả nỗi thương đau của chúng ta về số phận đất nước, đem tất cả ý chí của mình mong mỏi đổi đời đất nước, để tự tìm tòi học lại tất cả những cái phải học, học thêm những cái mới…


Xin hãy học tất cả những điều phải học như thế, trước hết để chiến thắng chính mình, chiến thắng nỗi sợ và những yếu kém của mình. Học như thế để đổi đời của chính mình và quyết tâm cùng nhau đổi đời đất nước.


Bởi vì: Thực hiện bằng được hòa giải dân tộc để cứu tổ quốc đang lâm nguy, mở ra một thời kỳ phát triển mới của đất nước là trách nhiệm thiêng liêng không của riêng một ai trong cộng đồng dân tộc Việt Nam chúng ta!


Hà Nội – Võng Thị, ngày 14-01-2013


Theo Viet-studies


…………………….


 [1] Xin đừng lúc nào quên một thời nhân dân dành cho Đảng quyền lãnh đạo, song chưa bao giờ có chuyện nhân dân của một nước độc lập dân là chủ lại dành cho Đảng quyền lực cai quản đất nước, Đảng cũng chưa bao giờ dám ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình việc giành quyền lực như thế – vì sẽ danh không chính ngôn không thuận, mặc dù Đảng làm việc này với tất cả.


 [2] Tôi không dám lạm bàn về tên gọi của quốc gia, vì đấy sẽ là quyền của nhân dân, khi nào được hỏi tôi sẽ nói đề nghị của mình.


 [3] 1945 –1989, khi kết thúc chiến tranh Campuchia.






 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 14, 2013 17:04

Thư đầu năm của Lê Hiếu Đằng gửi nghệ sĩ ưu tú Kim Chi

Lê Hiếu Đằng


kimchi6Kim Chi thân mến,


Anh (cho phép anh xưng hô như ngày nào chúng ta còn ở chiến khu, ở trên R gần 45 năm trước) vừa sửng sốt, vừa xúc động và cảm phục khi đọc thư Kim Chi gởi cho Hội Điện ảnh Việt Nam, từ chối việc báo cáo thành tích để được Thủ tướng khen thưởng với lý do: “Tôi không muốn trong nhà tôi có chữ ký của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân. Với tôi, đó là một điều rất tổn thương vì cảm giác mình bị xúc phạm”.



Thú thật với Kim Chi, ở Sài Gòn, một số nhân sĩ trí thức cũng như một số anh chị em trong phong trào sinh viên học sinh trước 1975 làm được một số việc nhưng chưa có ai “cả gan”, đủ dũng khí để phát biểu một cách công khai, minh bạch những điều mà Kim Chi đã làm như trang mạng Bauxite Việt Nam và các trang mạng khác đã đăng tải. Có những lúc bản thân anh cũng thấy nhụt nhuệ khí, nản lòng trước sự thờ ơ, “khôn vặt” của một số người chỉ hô hào ôn lại cái quá khứ, truyền thống hào hùng mà không dám nhìn vào sự thật và nói rõ sự thật của tình hình đất nước hiện nay. Tệ hại hơn nữa lại có người lợi dụng để đánh bóng tên tuổi của mình vì mục đích tư lợi. Theo anh, quá khứ và truyền thống hào hùng chỉ có ý nghĩa khi nó trở thành “bà đỡ”, sức mạnh cho hiện tại, nó làm cho ta có đủ dũng khí và sáng suốt để nhận thức lại những gì do hoàn cảnh lịch sử trước đây chưa cho phép ta thấy một cách đúng đắn. Nhận thức lại và hành động cho một đất nước Việt Nam thật sự “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”, cho một xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ phù hợp với dòng chảy của thế giới văn minh hiện nay là tiếng gọi của lương tri, của trách nhiệm công dân của chúng ta. Ôm quá khứ, tôn vinh quá khứ để rồi làm ngơ, im lặng, thậm chí là ngụy biện để cho đỡ xấu hổ, trước cái ác, cái xấu, trước tệ nạn quan liêu tham nhũng, trước tình trạng bất công xã hội, đạo đức xã hội suy đồi, mất dân chủ nghiêm trọng, trước tình hình nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ hằng ngày hằng giờ bị tập đoàn bành trướng Bắc Kinh xâm phạm, đe dọa, trước cảnh đàn áp, bắt bớ, dùng nhục hình đối với những người yêu nước… là không thể chấp nhận được. Hẳn nhiên, mỗi người có hoàn cảnh, vị trí xã hội khác nhau không thể đòi hỏi ai cũng như ai, nhưng mỗi người chỉ cần một việc nhỏ hoặc ủng hộ bằng sự im lặng đồng tình là như góp gió thành bão cuốn phăng đi mọi trở lực dù bất cứ ở đâu tới, bạo tàn như thế nào.


Chính trong bối cảnh đó mà lá thư của Kim Chi như ngọn lửa ấm áp truyền vào tâm hồn anh trong lúc này, làm anh vững tin hơn con đường mà anh và nhiều đồng đội, bạn bè anh đã chọn lựa.


Tuổi trẻ chúng ta – tuổi trẻ Hà Nội, tuổi trẻ Sài Gòn – Gia Định – rời bỏ trường học, gia đình, nếp sống êm ấm để vượt Trường Sơn, để vào chiến khu, để đấu tranh trong lòng các đô thị và đã có nhiều đồng đội, đồng chí chúng ta đã nằm xuống vĩnh viễn – “Ta đi không kịp ẵm con thơ, không kịp về thăm người vợ chờ” (Tiếng hát người tù, thơ Trần Quang Long, Ủy viên văn nghệ Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, chủ biên tập thơ “Tiếng hát những người đi tới”) – để rồi chúng ta có một xã hội như ngày nay sao? Lý tưởng chiến đấu cho nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc, cho một xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ đã bị phản bội. Ai tự diễn biến và ai phản bội ai? Tình hình thực tế hiện nay đã phơi bày tất cả, không ai có thể dùng bạo lực, trấn áp để lấp liếm, che đậy được. Thế hệ chúng ta và nhiều thế hệ khác, dù miền Bắc hay miền Nam đều sống trong bi kịch: chết trên chiến trường, chết trong tù ngục… để rồi bây giờ chứng kiến cảnh đất nước tụt hậu trở về với “chủ nghĩa tư bản man rợ”, giẫm đạp lên nhau mà sống của thời kỳ mông muội của con người. Nhưng bi kịch không có nghĩa là bi quan, hối tiếc, mà như GS Huệ Chi đã viết trên trang Bauxite Việt Nam cũng về lá thư của Kim Chi gởi Hội Điện Ảnh: “nếu ta đã sống, đã hành động với tất cả niềm tin trong sáng và giữ được đến cuối đời phẩm chất lương thiện của mình, thì sự đổ vỡ của cái hiện thực mà mình từng dâng trọn niềm tin chỉ có ý nghĩa của một bi kịch chứ không bao giờ là hài kịch. Mà đối với bi kịch, phẩm giá con người chỉ càng được tôn lên chứ không bao giờ bị hạ thấp. “Không nghi ngờ gì nữa, bi kịch là một cái gì đó thuộc về CÁI ĐẸP khi nó được/bị chạm đến tận nơi sâu thẳm” (La tragédie, sans doute, est quelque chose de beau quand elle est bien touchée – Molière)”.


Chúng ta sống trong bi kịch và nhận thức rõ bi kịch để xác tín niềm tin của mình về chính nghĩa của cuộc chiến đấu mới không khoan nhượng vì những lý tưởng của thời tuổi trẻ của chúng ta.


Thật ra thái độ quyết liệt, dứt khoát của Kim Chi không phải bột phát mà có từ sự suy nghĩ, ray rứt trong một thời gian dài. Vì anh nhớ, cách đây ba năm, gặp Kim Chi ở Sài Gòn, Kim Chi có đưa anh xem mấy bài thơ Kim Chi mới làm. Những bài thơ làm anh cảm động và vui mừng vì có người cũng suy nghĩ, cũng ray rứt như mình trước tình hình hiện nay của đất nước. Nhiều nhà thơ, nhà văn như Nguyễn Duy, Phạm Xuân Nguyên, Bùi Minh Quốc, Lại Nguyên Ân, Lữ Phương, Phạm Đình Trọng, Bùi Chí Vinh, Nguyễn Quốc Thái, Đỗ Trung Quân, Nguyễn Khắc Vỹ, Võ Thị Hảo, Thùy Linh, Ngô Minh, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Đắc Xuân, Võ Quê, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Quang Lập. v.v. đã viết, phát biểu hoặc đã ký tên vào các kiến nghị, thư ngỏ, mà gần đây nhất là “Lời kêu gọi thực hiện quyền con người theo Hiến pháp Việt Nam”. Anh thực sự vui mừng vì đội ngũ của chúng ta ngày càng đông vui, anh và Kim Chi cũng như biết bao người khác đang dấn thân cho cuộc chiến đấu mới vì một nước Việt Nam thật sự “Hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh” (Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh).


Điều cuối cùng đọng lại ở anh qua bức thư đầu năm nay là hình ảnh của Kim Chi (lúc ấy lấy tên là Hồng Anh), của Tô Lan Phương, Dư An, Trần Mùi, Thế Hải và nhiều diễn viên khác trong Đoàn Văn công Giải phóng hôm đến diễn cho đại hội thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam vào ngày 20/4/1968. Các đại biểu đêm hôm ấy như “hút hồn” vì lời ca, tiếng hát và những vở kịch làm xúc động lòng người. Luật sư Trịnh Đình Thảo, kỹ sư Lâm Văn Tết, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, nhà văn Thanh Nghị, giáo sư Lê Văn Giáp, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ… về chỗ nghỉ rồi mà cứ khen mãi. Riêng anh em sinh viên trong Hội đồng Đại diện Sinh viên Sài Gòn và Tổng hội Sinh viên Sài Gòn gồm có Trần Triệu Luật, Trần Quang Long, Trần Thiện Tứ, Lê Quang Lộc và anh tham dự đại hội Liên minh, đêm đó xúc động không ngủ được ngồi nói chuyện với nhau đến gần sáng mới chợp mắt. Lúc ra đi vào mùa xuân 1968, sinh viên có năm đứa nhưng khi về lại Sài Gòn chỉ còn hai. Trần Quang Long, Trần Triệu Luật hy sinh ở Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam (B9) ngày 11/10/1968, Lê Quang Lộc hy sinh ngay tại cửa ngõ Tây Bắc Sài Gòn ngày 15/4/1975. Sau 1975, anh em mình mỗi người một ngả, có anh chị trong Đoàn Văn công Giải phóng sống trong cảnh nghèo khó, anh Thế Hải và nhiều đồng chí khác phải chạy vạy, vận động lo nhà tình nghĩa cho một số anh chị. Kim Chi nghe có đau lòng không? Chúng ta chiến đấu và đã có bao biết bao người đã ngã xuống thế mà ngày nay bạn bè, đồng chí, đồng bào chúng ta gần 45 năm rồi – một thời gian có thừa để cho một đất nước cất cánh – vẫn còn sống cơ cực, mất đất, mất nhà, mất tự do. Trong khi bọn cơ hội, hãnh tiến hoặc quan lại giàu lên từng ngày một cách bất chính lại sống phè phỡn, vô cảm trước nỗi khổ của nhân dân. Ta có thể khoanh tay ngồi yên được không? Thái độ dũng cảm, không hề sợ hãi trước quyền lực của Kim Chi đã trả lời cho câu hỏi này. Không, dứt khoát là không!


Cuối cùng, nhân dịp đầu năm 2013, anh gởi đến Kim Chi và qua Kim Chi gởi đến người bạn đời và hai con của Kim, mà những người thân yêu này đều ủng hộ việc làm của Kim Chi (đó là điều hạnh phúc nhất đời mà không dễ gì có được trong hoàn cảnh bị o ép, bắt bớ hiện nay) lời chúc một năm khỏe, vui, an lành và giữ vững niềm tin về con đường mà chúng ta đã chọn và đang đi. Chúc Kim Chi và gia đình nhận nhiều hơn nữa những bó hoa tươi của những người hâm mộ từ khắp nơi gởi về Hà Nội.


13/01/2013


L.H.Đ.


Theo BVN



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 14, 2013 16:03

Văn hóa cảnh sát

Nguyễn Quang A


283683_10151043539413808_2098832430_nTôi đã có dịp lang thang cả chục ngàn km trên đất Mỹ và Canada trong nhiều ngày và chỉ một lần duy nhất nhìn thấy cảnh sát hỏi giấy tờ của một người lái xe. Không thấy bóng cảnh sát giao thông ở đâu cả, ở trong phố lẫn ở cạnh hay trên đường, nhưng theo những người địa phương cảnh sát sẽ rất nhanh chóng có mặt để giải quyết các vụ va chạm hay mất trật tự.


Đi từ Hồ Chí Minh, qua Tây Ninh, sang Campuchia, lên Phnông Pênh bằng xe bus. Rồi lấy xe 16 chỗ đi Siem Reap cùng nhiều nơi khác và về lại Phnông Pênh. Lại lấy xe bus về Sài Gòn. Suốt hành trình ấy tôi thấy cảnh sát ở ta nhiều hơn bên đất Chùa Tháp khá nhiều.


 Tôi đã sống ở Đông Âu “xã hội chủ nghĩa” hơn chục năm, lang thang ở Liên Xô nhiều tháng trời. Cảnh sát ở đó cũng đông nhưng sao sánh được với Việt Nam.


Có lẽ không đâu trên thế giới này có nhiều cảnh sát, công an như ở nước ta. Con số cụ thể là bao nhiêu? Ngân sách hàng năm cho lực lượng công an và “cộng tác viên” là bao nhiêu? Chắc đấy là bí mật quốc gia nên khó mà biết được! Thực ra rất nhiều nước công bố số liệu như vậy.


Tài liệu Thống kê Quốc tế về Tội phạm và Công lý do UNODC (Cục Ma Túy và Tội Phạm của Liên Hợp Quốc) công bố số cảnh sát trên 100 ngàn dân của 130 nước (bảng 1, tr. 135) trong đó không có Việt Nam. Con số mới nhất (tại các thời điểm khác nhau) của vài nước trong khu vực Malasia (354,0), Myamar (145,6), Philippines (131,9), Hàn Quốc (195,1), Singapore (396,4), Thái Lan (321,0), trung bình của các nước (341,8). Trung Quốc có 1,6 triệu cảnh sát hay 120 cảnh sát trên 100 ngàn dân.


Do Việt Nam không công bố số liệu đó, hãy thử ước lượng xem nó lớn đến đâu. Chắc Việt Nam có số cảnh sát trên 100 ngàn dân cao hơn con số trung bình nêu trên. Tính với số trung bình 341,8 ta có thể ước lượng tổng số cảnh sát lớn hơn 300.000 người. Có lẽ tổng quân số của ngành công an phải hơn gấp đôi con số này, tức là cỡ hơn 0,6 triệu người.


Hãy kiểm tra con số ước lượng này bằng cách khác. Theo Tổng Cục Thống Kê tổng số người làm việc trong khu vực nhà nước tại thời điểm 1-7-2011 là 5.250,6 ngàn người trong đó có 1.541,2 ngàn người làm việc trong lĩnh vực “hoạt động của Đảng Cộng sản, tổ chức chính trị – xã hội; quản lý Nhà nước, an ninh quốc phòng; đảm bảo xã hội bắt buộc”. “Đảm bảo xã hội bắt buộc” chắc là trại giam và nhà tù. Có khoảng 350-400 ngàn người làm trong bộ máy quản lý nhà nước, hoạt động đảng và các tổ chức chính trị-xã hội. Như thế còn khoảng 1,1 đến 1,2 triệu người trong lĩnh vực an ninh quốc phòng, đảm bảo xã hội bắt buộc. Theo đánh giá của International Institute of Strategic Studies (trong The Military Balance 2009, tr.415‐417) quân số bộ binh, hải quân, tăng thiết giáp, không quân và biên phòng của Việt nam là 0,522 triệu người. Như thế chúng ta cũng có con số ước lượng về quân số của ngành công an cỡ 0,678 triệu người. Nếu tính cả các cộng tác viên nữa thì con số có thể còn lớn hơn nhiều.


Những con số ước lượng trên giải thích vì sao chúng ta cảm thấy có quá nhiều cảnh sát. Cảnh sát nhan nhản ở mỗi góc phố và trên đường. Cánh lái xe sợ nhất các nơi cảnh sát hay “nấp” để đo tốc độ hoặc bất thần xuất hiện phạt chẳng hiểu vì lý do gì. Đó là chưa kể đến cảnh sát khu vực, chưa kể đến công an không mang sắc phục. Nhìn bề ngoài chẳng thể phân biệt ai là công an, ai là “côn đồ” khiến người dân lo nơm nớp. Cũng chưa kể đến không ít công an định kỳ đến thăm hỏi các công ty, xin hỗ trợ vào những dịp lễ tết, ngày truyền thống, ngày nhận huân chương, ngày động thổ xây dựng trụ sở, ngày khánh thành, ngày cưới xin, dịp ma chay của tứ thân phụ mẫu, thậm chí nhờ doanh nghiệp hỗ trợ mua vé xem  kịch mà vợ của thủ trưởng cấp cao là tác giả, vân vân và vân vân.


Báo chí Việt Nam nêu nhiều trường hợp công an hành hung người, thậm chí đánh chết người. Lực lượng công an cũng được huy động trong nhiều vụ cưỡng chế thu hồi đất mà nổi cộm là các vụ cưỡng chế thu hồi đất ở Tiên Lãng, Hải Phòng và Văn Giang, Hương Yên và nhiều vụ khác đã gây bức xúc trong dư luận. Vụ phóng viên báo Dân Việt bị những người mặc thường phục hành hung khi chụp ảnh chiếc xe mang biển số BKS 65E-8999 của công an Cần Thơ gây tai nạn giao thông ngày 24-11-2012 cũng đã gây sự phẫn nộ không kém trong dư luận. Rồi hóa ra kẻ hành hung đó là một trung úy công an. Và còn có thể kể ra vô vàn chuyện tương tự khác mà báo chí Việt Nam đã loan tải. Tất cả những loại ứng xử ấy tạo ra một văn hóa cảnh sát thật không hay.


Sứ mạng của lực lượng cảnh sát là thực thi luật pháp, bảo vệ tài sản, giữ gìn trật tự hay hạn chế mất trật tự dân sự. Chẳng ở đâu trên thế giới cảnh sát được coi là lực lượng vũ trang. Nó thuộc lĩnh vực dân sự. Thế nhưng ở nước ta người ta coi cảnh sát là lực lượng vũ trang. Một nét văn hóa “đậm đà bản sắt Việt Nam”?


Do sứ mạng nêu trên lực lượng công an có “quyền lực” lớn và thường xuyên tiếp xúc với dân. Quyền lực không bị kiểm soát chặt rất dễ dẫn đến lạm dụng và tha hóa, dẫn đến nhũng nhiễu, tham nhũng như báo chí đã đưa là điều không khó hiểu.


Ai cũng cảm thấy tình trạng công an hóa bộ máy nhà nước. Rất nhiều quan chức cấp cao ngành công an đã trở thành các bí thư, chủ tịch tỉnh, các cán bộ cao cấp của các bộ ngành khác. Cấp huyện cũng thế. Bên trong bộ máy nhà nước, bộ máy đảng của nhiều địa phương tỷ lệ các quan chức nguyên là công an cũng đáng kể.


Và văn hóa làm việc của nhiều cơ quan nhà nước trung ương, địa phương cũng bị ảnh hưởng bởi văn hóa công an.


Phải kiểm soát chặt quyền lực rất dễ bị lạm dụng của lực lượng công an và xây dựng văn hóa cảnh sát theo tinh thần phục vụ dân và khắc phục các nét xấu của văn hóa công an nêu trên, để cho chúng đừng lan sang các tổ chức nhà nước khác, để tránh cảnh sát hóa nhà nước.


N.Q.A


Theo ABS



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 14, 2013 07:13

NGẠT

Võ Trung Hiếu


5pfrepzk0wprja0xlormTôi thấy mình đi qua thành phố

Còn dở hơi hơn cả đàn bò

Chỉ cần cỏ là đàn bò hạnh phúc

Chỉ cần rơm là đàn bò hoan hô


Có con đường xác xơ lẽo đẽo theo tôi

Khóc nấc lên sau những lần bị đem ra đào bới

Những vết thương nhói lên sau những xẻng xà bần lấp vội

Triệu bàn chân sớm mai lại bước vô tình


Tôi thấy những nàng Tấm thị thành

Đi chơi game show, may áo dài sát nách

Mặc xường xám vô tư đi dự hội non sông

Sáo chửa sang sông, nàng đã vội theo chồng


Tôi thấy giữa công viên là những bàn cờ thế

Những đàn ông trẻ già nét mặt đăm chiêu

Những nước cờ trí tuệ biết bao nhiêu

Mà thế sự hết quẩn rồi lại bí ?


Tôi cố hít thở bằng cái gọi là không khí

Cũng có vẻ oxy mà sao rất nặng nề

Giữa ban ngày mà nửa tỉnh nửa mê

Thành phố chắc lại đang cần dưỡng khí


Tôi giãy dụa giữa một ngày vô vị

Thoi thóp cùng tôi là cả triệu người

Đàn bò đi qua và ré lên cười

” Làm người đếch gì khổ thế ? “


18.4.2012


Tác giả gửi cho Quê choa



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 14, 2013 05:10

Chết cho tổ quốc hay chết cho hòa bình và ổn định khu vực ?

Trương Nhân Tuấn


10-cau-hoi12NQL: Thật quá ngao ngán. Đến làm tấm bia liệt sĩ cũng ú ú ớ ớ không dám nói thẳng ra các liệt sĩ hy sinh vì Tổ quốc thì làm sao có thể kêu gọi người lính bảo vệ biên giới hải đảo dám hy sinh vì Tổ quốc?  


Trên mộ bia chung ghi tên các chiến sĩ đã hy sinh ở biển Đông, trong đó có 3 chiến sĩ hy sinh ngày 14-3-1988 tại Gạc Ma, có tạc dòng chữ như sau: “Đời đời nhớ ơn các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh vì hòa bình và ổn định khu vực.” 


Tức là những người này hy sinh không phải vì bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc mà “vì hòa bình và ổn định khu vực”.


Bia tử sĩ Trường Sa 


(hình: Blog Mai Thanh Hải)


 Vấn đề là, tại sao lại phải hy sinh máu xương người Việt để bảo vệ “hòa bình và ổn định” cho người khác? 


 “Khu vực” ở đây không phải của “người khác” thì của ai ? Của VN thì mình nói của VN chứ không nói là “khu vực”. 


 Những dòng chữ này chứng minh đảng CSVN đã đặt tinh thần quốc tế lên trên quyền lợi của tổ quốc. Điều này bình thường. Đảng viên cộng sản chân chính thì ai cũng có tinh thần quốc tế như vậy. 


 Nhưng việc này có tác dụng tiêu cực đến hồ sơ chủ quyền của VN tại các đảo Trường Sa. Điều này hoàn toàn tương phản với lập trường và thái độ của phía VNCH trong cuộc chiến Hoàng Sa tháng giêng năm 1974. Trong cuộc chiến này, phía VNCH đã gọi đích danh “con chó là con chó, con mèo là con mèo”. 


 VNCH tuyên bố rằng : 


 “Trước việc Trung Cộng trắng trợn xâm chiếm bằng vũ lực quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thấy cần phải tuyên cáo long trọng trước công luận thế giới cho bạn cũng như thù biết rõ rằng: 


 Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là những phần bất khả phân của lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Chánh phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ chịu khuất phục trước bạo lực mà từ bỏ tất cả hay một phần chủ quyền của mình trên quần đảo ấy. 


 Chừng nào còn một hòn đảo thuộc lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa bị nước ngoài chiếm giữ bằng bạo lực thì chừng ấy Chánh phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa còn đấu tranh để khôi phục những quyền lợi chính đáng của mình.”


 Tuyên bố của VNCH là một tuyên bố đơn phương, có giá trị trước pháp luật quốc tế, vì nó rõ rệt. Nội dung của tấm bia liệt sỹ ở trên là có thể hiểu như là một thái độ mặc nhiên từ khuớc chủ quyền của VN tại các đảo Trường Sa. 


 Rõ ràng, những người đã chết cho cuộc chiến 14-3-1988, là chết vì “hòa bình và ổn định khu vực” chứ không vì bảo vệ các đảo Trường Sa, lãnh thổ của tổ quốc.


 Buổi lễ truy điệu các liệt sĩ hy sinh tại Trường Sa, được BBC mô tả mới đây, cho thấy báo chí trong nước đã nói về cuộc chiến “bảo vệ đất nước”, thay vì cuộc chiến bảo vệ cho “hòa bình và ổn định khu vực”. Nhưng họ vẫn không dám nói đích danh kẻ xâm lăng là Trung Quốc. 


 Ăn cướp nó vào nhà mình mà mình không dám nói nó cướp của mình cái gì, không dám nói thằng ăn cướp đó là ai, thì mình là người như thế nào ? Hèn ! 


 Mình hèn như thế thì ai sẽ bênh vực mình ? 


 Đó có phải là thái độ đúng đắn của tập đoàn lãnh đạo quốc gia hay không ?


Theo blog TNT



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 14, 2013 00:59

January 13, 2013

Nguyễn Bá Thanh, chúc ông thượng lộ bình an!

Nguyễn Đình Ấm


3 Dũng - Bá Thanh Nghe tin ông Nguyễn Bá Thanh, bí thư Đà Nẵng ra Hà Nội làm trưởng ban Nội chính TƯ tôi có cảm giác một giọt mưa sắp rơi xuống cứu vãn mùa xuân đang lụi tàn. Mặc dù sẽ rất khó hoặc không thể đem lại thay đổi căn bản nào cho VN nhưng khi Nguyễn Bá Thanh giữ chức vụ cao ở địa hạt nào thì có thể sẽ có ít nhiều thay đổi tích cực đến mức “cho phép” ở địa hạt đó.


   Mặc dù khen nhiều và chê cũng không ít nhưng theo tôi, ai có chút công tâm đến Đà Nẵng cũng phải thấy đây là một “ốc đảo” ít dấu vết của tham nhũng, dốt nát của lãnh đạo ở các thành phố Việt Nam. Đường phố tương đối khang trang, sạch sẽ, ngăn nắp, ít các dãy phố nhà cửa xây lộn xộn, nhem nhuốc- dấu ấn của nạn tham nhũng trong quản lý đô thị: phạt cho tồn tại. Ở Đà Nẵng hầu như không có những khu phố bị các loại mái vảy, rèm, biển quảng cáo, pano…chi chít như “tổ đỉa”, nhà siêu mỏng, siêu méo…như các thành phố khác kể cả Hà Nội và Sài Gòn. Nhiều nơi ở Đà Nẵng nhất là khu đại lộ Bạch Đằng, Trần Phú, Hoàng Sa, Trường Sa, bãi biển Mỹ Khê…có thể phần nào sánh với các đường phố, bãi biển của Singapore. Tại bãi Mỹ Khê một trong những điều kiện để người được phép kinh doanh là phải có thùng rác đúng quy cách, bất kể thời điểm nào cũng không được có rác ở trên chỗ mình tác nghiệp. Trộm cướp ở Đà Nẵng cũng ít đất sống. Công chức, công an ứng xử với dân cũng lễ độ, văn minh hơn nơi khác…Sự thay đổi của Đà Nẵng không phải là sự thay đổi trước hết phục vụ nhóm lợi ích như nơi khác. Ở Đà Nẵng người dân không quá  “bướng bỉnh” trong việc giao đất cho nhà đầu tư do việc thu hồi đất của TP khá minh bạch, phần lớn thực sự vì lợi ích chung, công chức làm nhiệm vụ không hoặc ít dám tổ chức cướp đoạt đất, tiền của dân, nhà nước…Những khác biệt này do “ông vua” TP không nói một đằng làm một nẻo, có sự quan tâm thực sự đến lợi ích của người dân, bộ máy đảng, nhà nước có chút liêm sỉ, trong sạch hơn nơi khác. Đó là sự thay đổi nhờ lòng tốt của ông Thanh.


   Hôm tôi dạo trên đường Bạch Đằng bắt chuyện một cụ cỡ tuổi 80 râu tóc bạc phơ, quắc thước, dáng vẻ đàng hoàng. Tôi gợi câu chuyện muốn biết tại sao Đà Nẵng làm được như vậy bằng câu có vẻ “xách mé”:


   – Cái ông Thanh này tốt thật, không có thành phố nào ở VN ngăn nắp, sạch sẽ, ít công an, ăn mày như ở đây, có lẽ ông ta thanh liêm lắm bác nhỉ?


   – Ông ta có lẽ cũng “ăn” nhưng có liêm sỉ, không ăn lấy được, ăn lèm nhèm. Ăn nhưng ổng có cái tầm, cái tâm thực lòng muốn làm cho thành phố khang trang, giàu đẹp, văn minh…


     Sau đó tôi hỏi nhiều người ở thành phố thì cũng nhận được những lời khen ngợi ông Thanh là chính.


   Trước đó, tôi chứng kiến hôm có đoàn cán bộ TƯ vào Đà Nẵng. Bên lãnh đạo đảng cho xe  ra tận cầu thang máy bay đón rước nhưng bên ủy ban (ngày ấy ông Thanh vẫn là chủ tịch  Đà Nẵng) thì không. Sau này tôi nghe chuyện ông đề nghị tổ chức cạnh tranh công khai trong việc tuyển công chức, bổ nhiệm cán bộ, xin trung ương tự bầu “thị trưởng” thành phố, ông trực tiếp gặp anh em ở tầng lớp “tận cùng của xã hội” (mà lãnh đạo nơi khác không bao giờ đoái đến) nghe tâm tư, nguyện vọng giải quyết được một số nhu cầu chính đáng về cuộc sống cho họ; ông chỉ thị lập đường dây nóng, lập đội “đặc nhiệm” quản lý đô thị, theo đó ai phát hiện ở đâu xây dựng công trình không phép phone đến là đội quân đi dẹp như cứu hỏa…Ở Đà Nẵng không có bệnh tham nhũng trầm kha trong quản lý đô thị “phạt cho tồn tại” (cán bộ ăn tiền lớn phía sau phạt lấy lệ công khai rồi cho xây) như các đô thị ở VN khác…Đặc biệt, hồi nghe tin ông đề nghị cho thành phố bàu “thị trưởng” có cạnh tranh, tôi thoáng có ý nghĩ nếu đảng tỉnh táo chớp cơ hội cho Đà Nẵng để dân tự bàu lãnh đạo rồi triển khai ra cả nước, từng bước dân chủ hóa bộ máy nhà nước VN thì sự tham nhũng, sa đọa của bộ máy đảng, nhà nước không đến mức “nhìn đâu cũng thấy, sờ đâu cũng có” và nhung nhúc “bầy sâu”…đẩy nhà cầm quyền đến uy tín thảm hại hiện thời…Nói gì thì nói, việc một lãnh đạo địa hạt dám từ bỏ một trong những nguồn thu “ngon ăn” nhất là “buôn bán ghế” nhường cho dân bàu ra người tốt lãnh đạo, quản lý địa phương là một hành vi hy sinh dũng cảm. Người được dân bầu ra chắc chắn có đức, có tài hơn người mua hoặc được chia ghế. Người được dân bầu ra sẽ phải sợ người chọn mình mà ra sức phục vụ họ để được tín nhiệm bầu tiếp, ngược lại người lãnh đạo do quan trên chỉ định thì họ chỉ sợ, lo đút lót xu nịnh  kẻ bợ đỡ mình  mà coi dân như  rác (vì dân có quyền gì mà phải sợ?)…Đó là cội nguồn của lộng hành, tham nhũng, thối nát.. Rõ ràng ông Thanh dám hy sinh “nguồn lợi” lớn của mình mà dành cái lợi cho dân. Ai nói gì thì nói, tôi không loại trừ ông Thanh có thể có khuyết điểm, tham nhũng, lộng hành ở mức nào đó (trong môi trường chế độ độc đoán ông Thanh khó tránh được tất cả mọi cám dỗ, chi phối…) như vụ Cồn Dầu, vụ tướng Trần Văn Thanh, Huỳnh Thục Vy (vụ trấn áp gia đình Thục Vy có lẽ không thuộc thẩm quyền ông Thanh)…nhưng chỉ riêng việc xin cho dân bầu thị trưởng cạnh tranh ông đã có cái tâm, cái tầm, lòng dũng cảm vượt khỏi mọi nhà lãnh đạo khác, đúng như nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh nói là “ sản phẩm tốt nhất của hệ thống hiện thời”.


  Tuy nhiên, ông Thanh ra HN sẽ đứng trước hai khả năng: Lóe sáng hay vụt tắt trên bầu trời thủ đô. Thật buồn có vẻ như khả năng thứ hai dễ xẩy ra hơn, bởi: Nhiệm vụ chính của ông là giữ gìn kỷ cương phép nước, cho dân đỡ khổ, nối thêm sự sống tiếp tục cho đảng…trong khi tham nhũng, lộng hành đã trở thành “quốc nạn”, thành thế “thượng phong” đến mức  đáp số ai là “sâu chúa” thì cả nước tìm đã mấy năm nay cũng không ra bởi một quy luật ở xã hội độc tài: Khi ai đó có quyền thì không thể có sai phạm, tội lỗi. Khi ông Gadhafi vẫn làm chúa Libya là một lãnh đạo kiệt xuất, một ân nhân của dân chúng, được tung hô là lãnh tụ châu Phi, được lãnh đạo các nước VN, TQ, Nga…kính trọng, đến nỗi được cả tờ báo “lá chuối” của đại tá Như Phong (Petrotimes)  ở tận đông nam Á bênh vực lên án báo phương Tây vu oan cho ông…Chỉ sau khi ông chui vào ống cống thì mới có “sai sót, khuyết điểm” như trộm của dân hơn 200 tỷ đô, có dinh thự ở Anh, Mỹ…giết, bỏ tù  hàng vạn người yêu nước vô tội, bắt hàng trăm các cháu gái vị thành niên làm nô lệ tình dục…Nay ông Thanh muốn chống quốc nạn tham nhũng hiệu quả thì phải tìm ra các thủ phạm chính đang giữ quyền hành, liệu ông có tìm ra? Liệu ông có làm cho cả bộ máy “nhiễm” tham nhũng, coi tham nhũng là “lẽ sống” ở cả nước chứ không chỉ một thành phố trở nên mềm yếu phải chịu sự trừng phạt của ông? Rất khó.


   Tuy nhiên, vẫn còn “cửa” rất hẹp dành cho ông Thanh: Mặc dù thế lực tham nhũng đang ở thế “thượng phong” nhưng ông có người dân ủng hộ. Để dân ủng hộ ông phải chống tham nhũng có hiệu quả, muốn thế ông phải vận hành được bộ máy luật pháp làm đúng pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay đảng đang lãnh đạo pháp luật. Bởi vậy muốn thành công theo ý ngu của tôi, ông Thanh phải ký với bộ chính trị, với đảng một khế ước, trong đó có những điều khoản: Ông phải được toàn quyền quyết định kỷ luật, sa thải, đưa ra tòa bất kể ai vi phạm pháp luật, không có chuyện phải “biện chứng, sẽ gây oán thù, thế lực thù địch lợi dụng…” hay “nhóm lò” nhóm lửa gì hết! Đặc biệt, ông phải được cho báo chí hoạt động theo đúng pháp luật ít nhất là trong lĩnh vực chống tham nhũng. Báo chí được quyền đăng tải sự thật để nhân dân biết ủng hộ ông, không có chuyện ban tuyên giáo ngầm phone cấm các báo không  đăng vụ nọ, vụ kia hoặc thuyên chuyển TBT kiểu “đảng phân công”, theo yêu cầu nhóm lợi ích như trước. Ngược lại, khi đã phát hiện ra vụ tham nhũng nhóm lợi ích lại lấy lý do “làm mất ổn định” không cho đăng báo rồi ông âm thầm báo cáo, xin ý kiến, tham khảo, “dân chủ tập trung…”…để ô dù, nhóm lợi ích có mặt ở khắp nơi can thiệp, gièm pha, “câu giờ” rồi quên lãng thì chẳng khác khi chưa có ông. Tiếp nữa, ông cũng phải đưa ra điều khoản bảo đảm thu nhập cho CBNV dưới quyền, trong hệ thống chống tham nhũng đủ sống (có thể trích tiền thu hồi từ tham nhũng) để họ không bị cám dỗ, đi “cửa sau” với tham nhũng, không báo cáo sai bịt mắt ông mà yên tâm công việc rất nặng nhọc và nguy hiểm…Nói chung phải thay đổi cả một hệ thống ngoài phạm vi quyền hành của ông. Càng khó.


  Nếu ký được khế ước ấy thì ông mới làm được việc gì đó có lợi cho dân, cho nước, mớm thêm chút sinh lực yếu ớt cho chế độ, có cơ may lóe sáng trên bầu trời thủ đô, mới đem lại chút mát mẻ cho mùa xuân đang lụi tàn…Ngược lại, ông sẽ tắt ngấm, chìm nghỉm ở hồ Hoàn Kiếm: bất lực, làm trò cười cho hàng ngũ sâu hùng mạnh, thỏa hiệp với sâu để an toàn lên chức nọ cao hơn nhưng biến thành ông Nguyễn Bá Tầm Thường như nhiều kẻ khác…


  Tôi tin ông Nguyễn Bá Thanh là người có nhân cách, cá tính, thực sự muốn làm cho dân cho đảng (của ông) một điều tốt đẹp gì đó trong cuộc đời mình.


  Chúc ông thượng lộ bình an.


NĐA


 


                                             



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 13, 2013 19:56

Nguyễn Quang Lập's Blog

Nguyễn Quang Lập
Nguyễn Quang Lập isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Quang Lập's blog with rss.