Nguyễn Quang Lập's Blog, page 98
January 19, 2013
NIỀM TIN
Võ Trung Hiếu
Hình như …
Cái gọi là cõi thiên đường này
Chả còn ngày nào là thơ mộng
Chả còn con đường nào là mềm mại nên thơ
Chả còn ông bụt bà tiên nào hiện về nhân hậu
Chả còn gì ngoài những giả vờ – demo – giả cầy – sáo rỗng
Chả còn gì ngoài những trò chém gió – xin lỗi – biện bạch – múa may
Chả còn gì ngoài những đám đông thờ ơ và những gương mặt hoả mù dối trá
Các hoạ sỹ bắt đầu vẽ những bức tranh kỳ lạ
Các nghệ sỹ bắt đầu diễn những vở chính kịch nặng nề
Các nhà thơ bắt đầu ví von ngụ ngôn hình tượng
Các nhà giáo dục bắt đầu lúng túng gãi đầu với những chuyện kiểu như cổ tích Thánh Gióng và Tấm Cám
Hay kiểu như, ” Hai Bà Trưng đánh giặc nào ? “
Các em bé trong nhà trẻ bắt đầu hay hỏi , ” Tại sao ? “
Các VIP bắt đầu há miệng mắc quai
Hoặc chẳng biết nói gì khi những trò bẩn hậu trường làm chẳng còn ai tin lời họ nữa …
Gieo hạt vào đất
Đất cho cỏ cây mùa màng
Gieo yêu thương vào lòng người
Buổi sáng biết trổ môi cười hạnh phúc
Gieo gió gặt bão
Gieo thù chuốc oán
Gieo tính cách gặt số phận
Ông bà xưa dạy mãi rồi
Gieo hy vọng vào tương lai bồi hồi
Từng ngày qua vẫn bặt những tin vui
Nghe tiếng triệu trái tim hoà thành những melody mệt nhọc
Những khuôn mặt thất thần trôi qua những phố những phường
Không buồn không vui không cười không khóc …
Nếu cả tro tàn cũng tắt
Giọt hy vọng cuối cùng cũng không còn nữa
Gieo gì để gặt niềm tin ?
Chiều lặng lẽ đi cho thành phố vào đêm
Những tiếng còi xe gắt gỏng và dữ dội
Những bước chân hoà thành những bè trầm
Giai điệu ấy nói gì trong bóng tối ?
18.1.2013
VTH
Tác giả gửi cho Quê choa







Hội chứng hoang tưởng

Hay ở Vinalines, mấy nghìn đảng viên mà vẫn làm sai làm trái như thế. Con sâu làm rầu nồi canh. Người dân đặt câu hỏi còn Vina nào nữa? DNNN đi liền với tiêu cực, phạm pháp, tham nhũng. Đội ngũ đảng viên của chúng ta rất lớn, vậy vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên ở đâu?”.
Đáng lẽ ông phải là người trả lời trước dân câu hỏi này thì ông lại đóng vai thầy giáo xử kiện mấy thằng học trò mất nết do chính ông tuyển lựa, dạy dỗ, nuông chiều để nó hư đốn.
Không chỉ 6000 đảng viên của Vinashin phá nát đất nước này mà chính đảng cầm quyền, ông là một trong những người đứng đầu đảng đó đã xóa sổ “thương hiệu Vina” trên toàn đất nước và trong mắt bạn bè quốc tế.
Có thể 6000 đảng viên của Vinashin hoặc đang hưởng ân huệ của ông, hoặc sợ hãi, hoặc tuyệt vọng nên không dám cất tiếng phản kháng, lôi những chuyện xấu xa cơ quan họ để tấu trình lên ông. Nhưng những người dân nước Việt đã, đang chỉ ra những yếu kém trong việc điều hành đất nước của ông và mong mỏi ông từ chức, thì ông trả lời sao đây?
Bỗng nhớ bài viết trong blog BSNgoc về “Hội chứng hoang tưởng”. Nếu những người lãnh đạo đất nước gần như đang mắc căn bệnh này thì mọi việc liên quan đến chủ quyền đất nước; quyền con người; sửa đổi Hiến pháp; thay đổi đường lối phát triển…gần như là vô vọng. Liệu có chữa được bệnh cho các con bệnh này???
HỘI CHỨNG HOANG TƯỞNG
Hội chứng hoang tưởng (paranoid personality disorder, sẽ viết tắt là PPD) là một rối loạn tâm thần với đặc điểm là người mắc bệnh hay nghi kỵ người khác. Người mắc bệnh PPD không có khả năng tin tưởng vào người khác, nhìn người khác như là những người thù địch. Có thể nói rằng bệnh nhân PPD rất giống với người cộng sản.
“Thế lực thù địch” là cụm từ mới xuất hiện gần đây, nhưng đã trở thành khá phổ biến. Chỉ cần gõ “thế lực thù địch” trong hộp tìm kiếm của Google tôi được kết quả hơn 2 triệu kết quả trong vòng 0,26 giây. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình không ngớt lớn tiếng cảnh báo người dân rằng thế lực thù địch đang len lỏi vào guồng máy của Nhà nước, đang gây tác hại nghiêm trọng cho Việt Nam. Có khi họ cảnh báo rằng thế lực thù địch đe doạ đến sự sống còn của đảng, của Nhà nước và sự an sinh của người dân. Có thể nói rằng những người làm truyền thông cho đảng đã dùng thế lực thù địch như một con ngáo ộp, kích động người dân, làm cho người dân cảm thấy bất an.
Chỉ một thời gian ngắn tiến hoá “thế lực thù địch” đã trở thành một câu thần chú của người cộng sản. Trong bài diễn văn dài bế mạc Hội nghị 6 gì đó của ngài tổng bí thư NPT có đoạn: “Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá”. Trong những năm qua, dường như trong đầu óc của những người cộng sản họ chỉ nghĩ đến những thế lực thù địch. Ngay cả khi đất nước ở trong tình trạng thù trong giặc ngoài như thế mà họ chỉ nghĩ đến thế lực thù địch! “Thế lực thù địch” gần như là một câu kinh của những người cộng sản Việt Nam trong thế kỷ 21.
Nhưng ai là thế lực thù địch thì chẳng ai biết nhưng có thể đoán được. Dù họ không nói thẳng ra ai là thế lực thù địch, nhưng ai cũng hiểu rằng bất cứ người nào phê bình chính sách của đảng đều được xếp trong danh sách thù địch. Mỹ và các nước phương Tây được Trung cộng xem là thế lực thù địch. Người cộng sản Việt Nam cũng xem Mỹ và các nước phương Tây là thế lực thù địch dù họ rất thích gửi con cháu sang đó du học. Người dân đi biểu tình chống Trung cộng xâm lăng cũng bị xem là thế lực thù địch, là phản động. Một điểm đáng nói ở đây là bất cứ ai mà Trung cộng xem là thế lực thù địch thì người cộng sản VN cũng xem là thế lực thù địch.
Vì không biết cụ thể thế lực thù địch là ai, nên chúng ta có thể tạm cho đó là một thế lực ma. Ma là một khái niệm trừu tượng, thường đề cập đến người đã chết, nhưng vì còn ân oán với người cõi trần nên hay hiện về để nhát. Ma không hiện hình mà chỉ xuất hiện trong tâm tưởng của con người. Người sợ ma là người thiếu tự tin. Thiếu tự tin nên họ tin vào thần thánh, bùa ngải. Thiếu tự tin là một thể hiện của người bất an và thiếu học vấn. Nếu là người có tự tin và học vấn thì không ai tin vào ma quỷ, chẳng ai khấn nguyện nhờ đến thần thánh để che chở. Chỉ có người vì biết mình bất tài, biết mình thất học, biết mình làm chuyện ác ôn, nên mới cảm thấy bất an và hô toáng lên là có ma. Do đó, có thể nói rằng người cộng sản đang hô toáng thế lực thù địch cũng có nghĩa họ đang bất an.
Nhưng tại sao người cộng sản lại đa nghi, không tin người dân? Nghĩ một chút tôi thấy những gì người cộng sản suy nghĩ, nói và làm rất phù hợp với những đặc điểm của hội chứng hoang tưởng PPD hoặc hội chứng phản xã hội. Tôi sẽ bàn về hội chứng PPD trước.
Hội chứng hoang tưởng
Triệu chứng nổi bật của người mắc chứng PPD là không tin tưởng vào người khác, lúc nào cũng nghi ngờ người khác, nghi ngờ cả người thân và đồng nghiệp. Người mắc bệnh PPD có những đặc tính nổi bật như thiếu tin tưởng vào người khác, lúc nào cũng nghi kị người khác. Trong đầu của bệnh nhân PPD là người khác lúc nào cũng tìm cách ám hại mình, bất cứ hành động mang tính tích cực nào của người khác cũng được hiểu là có ý đồ xấu xa. Điều này rất đúng với người cộng sản vì họ không tin ai cả. Trong xã hội do người cộng sản điều hành và cấu tạo nên, ai cũng nghi kỵ lẫn nhau. Ngay cả trong gia đình cũng nghi kỵ lẫn nhau. Trong xã hội VN hiện nay mọi thành viên đều là những người tù dự khuyết. Bầu Kiên có thể là anh hùng hôm qua nhưng đùng một cái là tù nhân. Một ông cựu bộ trưởng đáng kính vẫn có thể đi tù dễ dàng. Người cộng sản không tin ai cả vì chính họ cũng không tin họ nói thật. Ngoài triệu chứng chính vừa đề cập người mắc chứng PPD còn có một số biểu hiện như sau:
Một là nghi ngờ người khác một cách vô căn cớ, nghĩ rằng người khác đang lợi dụng mình, hãm hại mình, hay lường gạt mình. Người cộng sản lúc nào cũng nghi ngờ người ngoài đảng. Họ xem người ngoài đảng như tín đồ Hồi giáo xem người không theo đạo Hồi là những kẻ ngoại đạo, đáng nghi ngờ. Chính vì suy nghĩ này mà người cộng sản chỉ chia chác quyền lực và đặc lợi cho người trong đảng. Nói ra thì có vẻ quá đáng như đảng Mafia cũng làm như thế. Vì nghi ngờ nên người cộng sản xem bất cứ việc làm gì của các tổ chức phi chính phủ (NGO) là những thế lực đáng ngại, cần phải theo dõi. Chính vì thói nghi ngờ và thiếu tự tin nên họ không tin vào Việt kiều. Bao nhiêu trí thức Việt kiều muốn góp một tay cho chế độ mà có được đâu. Ngay cả những người trí thức trong nước góp ý chân tình cho họ mà vẫn bị theo dõi, thậm chí bắt bớ giam cầm.
Hai là bị ám ảnh bởi những nghi ngờ về sự trung thành và tin cậy của bạn bè, đồng nghiệp. Khi người khác giúp họ thật tình, họ cũng nghi ngờ sự giúp đỡ đó. Mỹ muốn giúp đào tạo chuyên gia cho VN, nhưng người cộng sản nhìn đó như là một thế lực đe doạ, và xem Mỹ như kẻ thù. Ngay cả trong nội bộ đảng họ cũng có cơ chế kiểm tra hành động của đảng viên. Đi xa hơn kiểm tra hành động là kiểm soát tư tưởng của đảng viên. Do đó, toàn bộ đảng viên trở thành những con cừu, chỉ biết suy nghĩ và nói theo một định hướng. Những ai có suy nghĩ khác thì sống bằng cuộc sống 2 mặt. Bên Tàu có một cuốn tiểu thuyết mô tả một nhân vật sống 2 mặt rất sống động. Sáng sớm anh ra vườn sau chửi bới đảng cộng sản, chửi xong, anh thay đồ đi làm và lên lớp ca ngợi công ơn trời biển của đảng!
Ba là không muốn chia sẻ thông tin với người khác vì họ sợ thông tin sẽ được sử dụng để chống lại hay ám hại mình. Người cộng sản xem thông tin là vũ khí. Mà vũ khí thì có thể dùng để gây tác hại. Do đó, người cộng sản kiểm soát toàn bộ thông tin. Từ báo chí, đài phát thanh, đến đài truyền hình và mạng, họ kiểm soát tất cả. Thật ra, đây là một hành động suy bụng ta ra bụng người, bởi trong quá khứ họ từng lũng đoạn thông tin và lợi dụng tự do thông tin để gây tác hại đến đối phương.
Bốn là lúc nào cũng diễn dịch ý nghĩa tiềm ẩn đằng sau mỗi thông tin và sự kiện vì họ nghi ngờ rằng thông tin được trình bày chỉ là bề mặt, còn đằng sau là hàm ý ám hại họ. Người cộng sản rất thích nói về “bản chất và hiện tượng”. Những gì xảy ra họ xem là hiện tượng, họ không quan tâm mấy, nhưng họ rất quan tâm đến bản chất. Khi công an “làm việc” với ai họ nghi là “phản động” (nghi ngờ là bản chất của họ) thì câu hỏi xoay quanh ai đứng đằng sau việc làm của người đó. Đây cũng là một bản chất mang tính suy bụng ta ra bụng người, bởi trong quá khứ họ đứng đằng sau xúi dục trí thức miền Nam xuống đường chống lại chế độ Mỹ-Thiệu. Tương tự, khi người dân xuống đường đòi đất, họ không quan tâm giải quyết vấn đề mà chỉ truy tìm mầm mống mà họ gọi là “phản động”.
Năm là lúc nào cũng tỏ thái độ đố kỵ, thù hận. Người mắc bệnh PPD không có khả năng tha thứ, họ luôn tìm cách dìm người khác, nói xấu người khác và khi cần ám hại họ. Tha thứ không có trong từ điển ngữ vựng của người cộng sản. Họ đày đoạ quân lính, sĩ quan, viên chức của chế độ cũ ra sao thì chúng ta đều biết. Có thể nói đó là một chương sử đen tối nhất của người cộng sản.
Một đặc điểm khác là người mắc chứng PPD rất huênh hoang. Họ tự xem mình là tài giỏi nhất thế giớilà trường tồn. Đặc điểm này cũng giống với người cộng sản. Họ tự xem mình là “quang vinh”, là tài ba nhất thiên hạ, là “đỉnh cao trí tuệ”, là bách chiến bách thắng. Họ không ngần ngại tuyên bố đảng của họ là “muôn năm” dù trong lịch sử nhân loại không có chế độ nào hay đảng phái nào tồn tại muôn năm.
Tất cả những đặc điểm của chứng bệnh hoang tưởng vừa mô tả trên đều rất phù hợp với người cộng sản. Theo y văn thì hội chứng PPD khá phổ biến trong dân số. Trên thế giới, thống kê cho biết có khoảng 0,5 đến 3% người mắc chứng hoang tưởng. Nam giới có khuynh hướng dễ mắc PPD hơn nữ giới. Phần lớn những người mắc chứng PPD ở độ tuổi 40-50. Hiện nay có khoảng 3 triệu đảng viên đảng CSVN, chiếm 3% dân số. Con số này cũng phù hợp vối y văn thế giới. Số nam đảng viên cao hơn nữ đảng viên. Do đó, số người mắc chứng hoang tưởng nhiều hơn trong nam giới, cũng phù hợp với y văn thế giới.
Hội chứng phản xã hội
Một hội chứng có liên quan đến PPD là hội chứng phản xã hội (antisocial personality disorder, viết tắt APD). Đặc điểm chính của APD là khuynh hướng không quan tâm đến quyền lợi của người khác, hay xâm phạm quyền lợi người khác. Hội chứng này cũng rất phù hợp với người cộng sản vốn rất vô cảm và có khi tàn ác. Người mắc chứng APD có những triệu chứng như sau:
Một là không sống theo chuẩn mực xã hội. Họ không tôn trọng luật pháp, họ sống theo luật của chính họ đặt ra. Người cộng sản một mặt nói đến luật pháp như là một khuôn mẫu về trật tự xã hội, nhưng khi hành động thì hoàn toàn trái với pháp luật. Họ bắt người một cách tuỳ tiện. Muốn bắt thì bắt, không cần đến luật pháp, toà án. Họ thậm chí còn tuyên bố “luật là ta, ta là luật”. Mà đúng như thế. Họ ngồi xổm trên luật pháp. Chúng ta thấy một mặt họ kêu gọi thắt lưng buộc bụng, nhưng mặt khác họ sống như những bậc đế vương thời phong kiến mà họ từng nguyền rũa. Trong khi người dân chen chút nhau trong bệnh viện, họ có bệnh viện riêng, bác sĩ riêng, thậm chí còn có cả vườn rau riêng, đàn bò sữa riêng. Họ ra điều luật cho cán bộ cao cấp không được kết hôn với những ai có gốc gác “nguỵ”, nhưng con gái thủ tướng thì được lấy con trai của cựu thứ trưởng “nguỵ”. Con gái tổng bí thư Lê Duẩn cũng được kết hôn với người Nga, trái 180 độ với qui định do chính ông đề ra! Người cộng sản nói một đằng làm một nẻo.
Hai là lường gạt, giả dối. Người mắc chứng ADP rất hay nói dối, dùng tên giả để nói xấu người khác. Nói dối, với người cộng sản, là một quán tính. Họ có thể biến trắng thành đen, nói đen là trắng. Điển hình như vụ việc ở Văn Giang, Tiên Lãng. Họ cho công an đánh dân, nhưng đài báo thì nói là “xã hội đen”. Ai cũng biết lãnh đạo cộng sản hay dùng tên giả. Có người dùng đến cả trăm tên giả! Thời chiến thì có thể hiểu được, nhưng thời bình họ cũng dùng tên giả. Mỗi khi muốn nói xấu ai họ cho phóng viên ký tên giả để tha hồ viết. Ai cũng biết đó là một thái độ tiểu nhân, nhưng họ làm gì có quân tử tính mà chúng ta phải ngạc nhiên. Còn tính giả dối của người cộng sản thì gần như là một đặc tính tiêu biểu. Giả dối về lịch sử như vụ Lê Văn Tám. Giả dối trong khoa học. Giả dối trong giáo dục. Giả dối bằng cấp. Lĩnh vực nào cũng giả dối. Nói chung sau 37 năm thống trị, người cộng sản đã biến một xã hội lành mạnh trở thành một xã hội giả dối.
Ba là hung hãn, hay đánh người. Người cộng sản xem công an không phải là lực lượng bảo vệ an ninh cho dân mà là một thanh kiếm của đảng. Kiếm thì chỉ dùng cho chuyện đâm chém, giết người, răn đe. Nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy công an là một kiêu binh thời nay. Công an bắt người vô cớ, đánh người, giết người thoải mái. Giết người trong đồn. Giết người trên đường lộ. Dàn cảnh gây tai nạn. Tất cả những hành động này cho thấy công an là những người mắc bệnh phản xã hội.
Bốn là làm việc tuỳ tiện. Sự tuỳ tiện của người cộng sản có thể nói là ghê gớm. Qua bên Hàn Quốc thấy người ta có những tập đoàn lớn, về nhà cũng bắt chước làm theo mà không có chiến lược gì cả. Dự án đường sắt cao tốc giá trị mấy chục tỷ đôla chỉ có vài chục trang giấy. Hậu quả là Vinashin, Vinalines gây tổn hại ngân sách quốc gia hàng trăm ngàn tỷ đồng. Họ quen làm việc như thời chiến, nên không có quốc sách lâu dài nào cả.
Năm là tỏ ra vô trách nhiệm. Ông Nguyễn Cao Kỳ lúc còn sinh tiền có lần nhận xét rằng trong hệ thống chính quyền VN không ai chịu trách nhiệm cả. Điều này đúng vì đảng là người đứng đằng sau chính phủ, nhưng đảng không chịu trách nhiệm. Người cộng sản gây ra nhiều thảm hoạ chính trị và kinh tế cho đất nước. Cải cách ruộng đất. Nhân văn giai phẩm. Trại “học tập cải tạo”. Vinashin. Vinalines. Mất Hoàng Sa vào tay kẻ thù. Nhượng một phần thác Bản Giốc cho kẻ thù. Chúng ta nghĩ rằng người cộng sản sẽ chịu trách nhiệm trước toàn dân, nhưng không. Họ không nhận lỗi. Họ rất vô trách nhiệm.
Sáu là không có cảm giác ăn năn hối lỗi và vô cảm. Vô cảm là một đặc điểm rất nổi bậc của bệnh nhân ADP. Bệnh nhân ADP rất bàng quang trước những gì xảy ra trước mắt họ. Thấy người ta bị nạn, họ chỉ đứng nhìn mà không có một hành động giúp đỡ hay một lời phân ưu. Người cộng sản cũng thế. Những cái chết trong đồn công an trong thời gian gần đây là một minh chứng hùng hồn. Chúng ta còn nhớ ông Trịnh Xuân Tùng trong khi bị đánh gần chết chỉ muốn uống nước mà họ cũng không cho. Bà Liêng ở Bạc Liêu tự thiêu chẳng làm cho 700 tờ báo động lòng. Trong khi đó Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu gây ra một làn sóng câm phẫn trong dư luận báo chí thời trước 1975. Người cộng sản không ăn năn xám hối trước những cái chết như thế. Họ cũng chẳng bao giờ xin lỗi những vong hồn trong vụ Mậu Thân ở Huế hay vụ Cải cách ruộng đất. Có thể nói rằng người cộng sản rất vô cảm. Và khi họ cai trị đất nước sau 37 năm thì cả nước cũng trở nên vô cảm.
Tóm lại, những người cộng sản có lẽ đã và đang mắc chứng hoang tưởng PPD và phản xã hội APD. Nhận ra bệnh để mà chạy chữa. Nhưng cái khó là cả hai bệnh này đều là bệnh tâm thần, hay cũng có thể nói là bệnh liên quan đến thần kinh, nên rất khó chữa trị.
Để tìm phương án chữa trị, cần phải biết nguyên nhân gây bệnh. Các chuyên gia tâm thần cho rằng bệnh có nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân tương tác xã hội. Khi người ta trưởng thành một môi trường đảng, qua tương tác, bị tiêm nhiễm những giáo điều, thói quen và suy nghĩ của đảng, và dẫn đến bệnh.
Nếu chẩn đoán trên là đúng và nếu nguyên nhân xã hội là đúng thì có lẽ biện pháp điều trị bệnh này là hoàn toàn có thể. Nga và các nước Đông Âu đã điều trị bệnh này. Họ cũng đã thành công. Nếu vì sức khoẻ của đất nước, những người cộng sản Việt Nam nên xem trường hợp Nga và Đông Âu như là những kinh nghiệm chữa trị bệnh hoang tưởng và phản xã hội./.
Theo blog BS Ngọc/ TL







Ngụy Văn Thà bất diệt!
Thư gửi bà Huỳnh Thị Sinh, vợ cố trung tá Ngụy Văn Thà

Bà Huỳnh Thị Sinh, vợ trung tá Ngụy Văn Thà
Hà Nội, ngày 18 tháng 1 năm 2013
Kính gửi Bà quả phụ Huỳnh Thị Sinh, vợ cố Trung tá Ngụy Văn Thà;
Thưa Bà;
Chúng tôi những người con nước Việt, trong những ngày này, lòng đang hướng về Hoàng Sa và Trường Sa thân yêu của Tổ quốc xin gửi đến Bà cùng gia đình lời thăm hỏi ân cần và lời chúc an lành, hạnh phúc!
Cách đây 39 năm, ngày 19/1/1974, trong một cuộc chiến không cân sức với quân xâm lược Trung Cộng để bảo vệ Hoàng Sa, Trung tá Ngụy Văn Thà, Hạm trưởng Chiến hạm Nhật Tảo HQ-10 đã tử trận cùng 73 đồng đội của Ông. Từ đó, toàn bộ quần đảo Hoàng Sa đã rơi vào tay quân xâm lược.

Chúng tôi vô cùng xúc động trước sự hy sinh anh dũng của Ông nhà. Ông đã hiến thân vì Tổ quốc – một sự hy sinh vẻ vang nhất, hơn bất cứ một sự hy sinh nào. Sự hy sinh ấy là một tấm gương cho các thế hệ sau noi theo trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của người Việt Nam.
Thưa Bà;
Chúng tôi rất vui vì những năm gần đây, sự kiện Hoàng Sa được nhắc lại và lần đầu tiên, nhiều người mới biết đến. Các giá trị dần dần được trả lại đúng bản chất của nó.
Ngày 24/7/2011, một cuộc biểu tình tại Hà Nội đã tôn vinh Ông nhà cùng những chiến sĩ đã ngã xuống Hoàng Sa và những chiến sĩ đã ngã xuống Trường Sa 14 năm sau đó.
Ngày 27/7/2011, Lễ tưởng niệm chiến sĩ Việt Nam hy sinh trong các cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc đã được tổ chức tại Sài Gòn mà bà là nhân vật được mời dự. Buổi lễ đã tri ân tất cả các chiến sĩ hy sinh trong các cuộc chiến chống xâm lược tại biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam, tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Những người đã ngã xuống vì Tổ Quốc đều chung trong người dòng máu Lạc Hồng, không có lý do nào để phân biệt người của chế độ này hay chế độ khác.
Chúng tôi tin rằng sớm muộn rồi Tổ Quốc sẽ vinh danh xứng đáng Ông nhà cùng đồng đội của Ông đã ngã xuống trong cuộc Hải chiến Hoàng Sa.
Trung tá Ngụy Văn Thà và nhiều đồng đội của Ông còn nằm lại nơi biển cả. Nhưng dù sao, Ông và đồng đội vẫn được nằm trong lòng Đất Mẹ, dù nơi ấy đang bị kẻ thù chiếm đóng.
Trong ngày giỗ của Ông, chúng tôi sẽ hướng về Biển Đông cầu mong cho linh hồn Ông cùng đồng đội được siêu thoát, để bày tỏ lòng tri ân những người đã ngã xuống trong cuộc Hải chiến Hoàng Sa.
Dù đảo không giữ nổi nhưng dân tộc ta, đời này và các đời sau sẽ tìm mọi cách lấy lại quần đảo Hoàng Sa, thu hồi về với đất Mẹ thân yêu.
Thưa Bà;
Chúng tôi được biết sau khi Ông nhà mất đi, dù tuổi đời còn rất trẻ, bà đã ở vậy nuôi ba con gái, cuộc sống của Bà hiện còn nhiều khó khăn. Lại nghe nói căn nhà chung cư nơi Bà ở đã phá đi làm lại, không biết bây giờ thế nào. Nhưng dù sao, chúng tôi luôn mong Bà sống thanh thản. Bà hãy tự hào vì Bà là vợ của một người anh hùng.
Ký lá thư này là những người yêu Tổ Quốc Việt Nam, yêu đồng bào Việt Nam đến cháy bỏng, trong đó có cả những người lính từng là những người khác chiến tuyến với Ông nhà lúc sinh thời. Nhưng tất cả những người lính chỉ đơn thuần làm nghĩa vụ công dân trong chế độ mà họ sống, dù bên này hay bên kia trong giai đoạn đau thương của lịch sử dân tộc không bao giờ có lỗi và giờ đây, khi ngộ ra, họ không coi những người ở bên kia chiến tuyến là kẻ thù.
Kính chúc Bà sang năm mới bình an, có nhiều sức khỏe để làm những việc hữu ích phụng sự cho Tổ quốc Việt Nam.
Chúng tôi nhờ Bà chuyển lời thăm hỏi, lời chúc mừng năm mới đến ba con gái của Bà, do sự hiến thân cao cả của Ông nhà mà sớm mồ côi cha.
Xin cùng Bà hô lên một câu khẩu hiệu mà chúng tôi
từng hô trên đường phố Hà Nội trong ngày 24/7/2011:
NGỤY VĂN THÀ BẤT DIỆT!
Kính thư
Nguyễn Tường Thụy
Phạm Thị Lân
Phạm trọng Khang
Nguyễn Thị Dương Hà
Hoàng Cường
Hoàng Hà
Văn Dũng
Ngô Duy Quyền
Trương Văn Dũng
Nguyễn Lân Thắng
Lê Thị Bích Vượng
Lã Việt Dũng
Nguyễn Thành Tiến
Theo blog NTT
Một số hình ảnh tại lễ kỉ niệm đồng bào chiến sĩ hy sinh bảo vệ biên cương, hải đảo do nhân sĩ trí thức Sài Gòn tổ chức ngày 27 tháng 7 năm 2011










Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu (bìa trái), kế bên là BS Huỳnh Tấn Mẫm, GS Tương Lai (bìa phải)

Nhà thơ Đỗ Trung Quân

Nhà thơ Nguyễn Duy






Bà Quả phụ Ngụy Văn Thà

GS-PTS Nguyễn Phương Tùng










January 18, 2013
Nhà văn Phạm Ngọc Cảnh Nam từ chối giải thưởng Hội nhà văn
NQL: Theo tôi được biết, tiểu thuyết Thế Kỷ Bị Mất của nhà văn Phạm Ngọc Cảnh Nam được hội đồng văn xuôi đánh giá rất cao, với 6/7 phiếu ( Một người không bỏ phiếu vì chưa đọc) cuốn tiểu thuyết được xếp đầu bảng giải văn xuôi năm nay. Nhà văn Nguyễn Khắc Trường đã phải thốt lên:” Lâu lắm rồi mới đọc được cuốn sách hay như thế này”. Thế nhưng lên BCH, cuốn sách đã bị đánh tuột khỏi giải chính thức, chỉ được cái bằng khen.
Thực ra các nhà văn nước ta đều có con mắt xanh, bảo họ ngu là không đúng. Nhưng khi bình xét giải thưởng họ không dám dùng con mắt xanh trời cho mà dùng cái tai văn nô để nghe ngóng từ phía cấp trên. Vì thế nhiều giải thưởng văn chương không còn tính văn chương nữa, tính hay dở đã bị tư tưởng đúng sai ném vào sọt rác. Than ôi!
Sau đây là thư ngõ của nhà văn Phạm Ngọc Cảnh Nam:
Thư ngỏ gửi Hội Nhà Văn VN
Tôi Phạm Ngọc Cảnh Nam, người vừa được HNV VN công bố tặng bằng khen năm 2012 cho cuốn tiểu thuyết “Thế Kỷ Bị Mất” của tôi.
Tôi xin giành quyền được từ chối bằng khen nầy của HNV .
Lý do đơn giản, mà ai cũng thấy là giải thưởng đã không được xét đúng theo tiêu chí văn chương. Và, cũng là để cho sự trung thực còn có chỗ trú ngụ trong ngôi đền thiêng liêng của nó là Văn Học.
Phạm Ngọc Cảnh Nam
Tác giả gửi cho QC
Ý kiến của nhà văn Trần Kỳ Trung
Tôi được một nhà văn trong Hội đồng văn xuôi của HNV cho biết, khi bỏ phiếu để đề nghị Ban chung khảo HNV trao giải thưởng chính thức năm 2012, quyển tiểu thuyết ” Thế kỷ bị mất” của Nhà văn Phạm Ngọc Cảnh Nam với đa số phiếu của hội đồng văn xuôi đề nghị trao giải thưởng, còn tập truyện ngắn ” Thành phố đi vắng” của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ được số phiếu thấp hơn. Không biết do nguyên nhân nào, quyển tiểu thuyết ” Thế kỷ bị mất”, như nhà thơ Văn Công Hùng cho biết, chỉ trao “bằng khen…”. Và giải văn xuôi về tiểu thuyết của HNV, năm 2012, không có giải thưởng chính thức!!!
Nghĩ về nhà văn Phạm Ngọc Cảnh Nam, tôi thực sự khâm phục sức viết và sức sáng tạo của anh. Với cuốn tiểu thuyết ” Thế kỷ bị mất” anh “phục dựng” lại phong trào Duy Tân, những tính cách bất chấp, tầm tư tưởng vượt thời đại của các lãnh tụ lớn, lãnh đạo phong trào này. Một giai đoạn cam co lịch sử mà dân tộc phải tự vận hành tìm hướng đi, được Phạm Ngọc Cảnh Nam viết với bút pháp sinh động.
Tính thời sự của cuốn tiểu thuyết rất lớn.
Tôi nghĩ, đây là ý kiến cá nhân, quyển tiểu thuyết này trao giải thưởng chính thức của HNV là xứng đáng.
Nhưng rất tiếc…!
Tôi cũng nói thêm, tên cuốn tiểu thuyết là ” Thế kỷ bị mất” theo thông báo của HNV qua blog một Ủy viên ban chung khảo lại biến thành là ” Một thế kỷ bị mất ” khiến cho nhà văn Phạm Ngọc Cảng Nam cũng ngỡ ngàng. Tôi giải thích cho nhà văn biết: Ban chung khảo của HVN không phải ai cũng am hiểu văn xuôi như các anh, chị trong hội đồng văn xuôi, nên lẽ nhầm tên sách là thường!!!
Tôi cũng đề nghị nhà văn Nguyễn Khắc Trường, chủ tịch hội đồng văn xuôi, nên có trong ban chung khảo của HNV . Nhà văn Nguyễn Khắc Trường đã nói: ” Không phải dễ có cuốn tiểu thuyết hay như cuốn ” Thế kỷ bị mất”, nhất là trong bối cảnh hiện nay.
Nhiều người cũng ủng hộ quan điểm này.







Một bài rất lạ trên Tạp Chí Cộng Sản: “Văn hóa từ chức”
Quyền Duy
NQL:Thật bất ngờ trên tạp chí cộng sản lại có bài này. Đọc đến đoạn:”Nếu ai đó là đảng viên thì viện dẫn đây là nhiệm vụ Đảng giao, nếu từ chức lại coi là không có tinh thần đảng viên, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu…, từ chức là để trốn tránh trách nhiệm, để thoát tội, để hạ cánh cho an toàn…” thì bất kì ai cũng hiểu bài báo đang muốn nói đến đồng chí X.
Từ chức được hiểu xin thôi không làm chức vụ hiện đang giữ. Như vậy, từ chức chỉ có thể xảy ra ở những người có chức, có quyền. Từ chức một cách tự nguyện, tự giác là thái độ trung thực với chính mình, biết xấu hổ khi làm điều trái với đạo lý, đi ngược lại nguyện vọng của cơ quan, tổ chức và cộng đồng, là biểu hiện của sự cao thượng, dũng cảm, tự trọng.
Hiện nay, vấn đề văn hóa từ chức ở nước ta đang được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến. Từ chức chỉ được xem là một hành vi có văn hóa khi người ta tự nguyện và mang lại ý nghĩa tốt đẹp cho xã hội. Ở các nước phát triển, từ chức là văn hóa hành xử của những người có chức, có quyền và đã trở thành trách nhiệm của người có chức, có quyền, được dư luận xã hội chấp nhận.
Từ xưa, nước Việt ta có khá nhiều người tài giỏi nhưng đã treo ấn từ quan như Chu Văn An, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Bỉnh Khiêm,… Các ông từ chức không phải không làm tròn chức trách, gây tác hại lớn mà phần nhiều là do khảng khái, không đồng ý với quan điểm của vua. Tuy nhiên, tôi cho rằng, ở Việt Nam từ xưa đã có văn hóa từ chức rồi thì chưa hẳn đúng.
Vừa qua, Chính phủ chỉ đạo Bộ Nội vụ nghiên cứu xây dựng Đề án tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức, trong đó có việc nghiên cứu xây dựng các quy định về từ chức của cán bộ, công chức và coi từ chức – thuộc khía cạnh văn hóa của chế độ công vụ – là một nội dung nằm trong chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020.
Tại sao Chính phủ lại phải xây dựng các quy định về từ chức của cán bộ, công chức? Theo tôi là do những nguyên nhân sau đây:
Một là, công tác tổ chức cán bộ của chúng ta còn yếu kém, nhất là trong việc giáo dục, lãnh đạo, quản lý đã làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp thiếu rèn luyện, tu dưỡng, thực hành liêm chính và thiếu gương mẫu, không làm tròn chức trách, gây tác hại lớn nhưng hầu như không thấy ai có lời xin lỗi hoặc từ chức cả.
Hai là, chúng ta chưa có hệ thống pháp luật quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của từng vị trí, nhất là đối với lãnh đạo, quản lý nên thiếu cơ sở để người dân hoặc các tổ chức, cơ quan giám sát.
Ba là, việc từ chức hiện nay khó quá nên không thấy ai tự nguyện từ chức nên phải có quy định, đồng thời ở nước ta hiện nay chưa hình thành văn hóa từ chức. Điều đó có nghĩa là một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa có lòng tự trọng, thiếu trung thực, ứng xử chưa liêm khiết.
Tại sao việc từ chức lại khó và ở ta chưa có văn hóa từ chức? Qua nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu có thể khái quát như sau:
- Chức tước thường đi đôi với quyền lực, thường gắn với lợi ích, bổng lộc, đặc quyền, đặc lợi. Nếu từ chức có nghĩa sẽ không còn gì cả.
- Học để “làm quan” đã ăn sâu, bén rễ trong tâm thức người Việt và vì thế truyền thống coi “làm quan” là một sự thành đạt cao nhất.
- Dư luận xã hội chưa được định hướng để đồng tình hay ủng hộ việc tự nguyện từ chức. Nếu ai đó là đảng viên thì viện dẫn đây là nhiệm vụ Đảng giao, nếu từ chức lại coi là không có tinh thần đảng viên, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu…, từ chức là để trốn tránh trách nhiệm, để thoát tội, để hạ cánh cho an toàn…
Rõ ràng, quyền lực thể chế nào cũng liên quan tới lợi ích cá nhân. Một khi động cơ lợi ích cá nhân lớn đến mức, nhà tư sản “sẵn sàng treo cổ khi lợi nhuận tới 300% – Các Mác”, thì người có quyền, có chức càng không thể dễ dàng từ bỏ nó, nếu quyền lực chính là phương tiện có thể “vinh thân, phì gia”.
Văn hóa từ chức là một dạng văn hóa cá nhân của những người có chức, có quyền. Họ được cơ quan, tổ chức và xã hội tôn trọng khi ở họ có nhân cách đạo đức, biết lãnh đạo bằng tấm gương. Nếu không có nhân cách và gương mẫu thì không thể thuyết phục được mọi người. Để có văn hóa từ chức theo tôi cần:
- Phải có hệ thống pháp luật quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của từng vị trí, nhất là đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý. Xây dựng các quy định về từ chức của cán bộ, công chức phải dựa trên nền tảng cải cách, xây dựng được quy chế công chức thật chuẩn về tiêu chuẩn của từng chức vụ, từng vị trí công tác.
- Đẩy mạnh tuyên truyền trong xã hội về văn hóa từ chức; nên khuyến khích sự tự nguyện từ chức và đánh giá cao những người có đủ dũng khí, lòng tự trọng, biết liêm sỉ tự nguyện từ chức, đồng thời định hướng dư luận xã hội cũng không nên nặng nề đối với những người tự nguyện từ chức.
- Bản thân cán bộ lãnh đạo, quản lý cần phải tự nhận thức rằng chức vụ không chỉ đi liền với quyền lợi, mà cao hơn phải thấy chức vụ đi liền với trách nhiệm, với tinh thần, thái độ cống hiến, hy sinh.
Việc từ chức tự nguyện của người có chức, có quyền sẽ tạo cơ hội cơ cấu lại, kiện toàn đội ngũ cán bộ của cơ quan, tổ chức nghĩa là tạo ra sự hợp lý tốt hơn trong xã hội. Điều đó giúp những người thực sự có nhân cách, tài giỏi, có trình độ, năng lực thực tiễn có thể phát huy cao nhất năng lực của mình nếu ở đúng vị trí, đồng thời cũng giúp cho cơ quan, tổ chức và xã hội tránh được những thiệt hại không đáng có.
Văn hóa có mặt trong tất cả những hoạt động sống của con người và là tất yếu của cuộc sống, thế nên, văn hóa từ chức cũng biểu hiện sự tất yếu của cuộc sống. Thiết nghĩ, từ chức sớm trở thành cách ứng xử bình thường trong đời sống lãnh đạo, quản lý ở nước ta, đồng thời, văn hóa từ chức cũng từ đó mà hình thành và phát triển./.
Theo Tạp chí Cộng sản







Ông Nguyễn Bá Thanh lên tiếng
ĐĂNG NAM – HỮU KHÁ thực hiện
Trao đổi với Tuổi Trẻ chiều 18-1, ông Nguyễn Bá Thanh – trưởng Ban Nội chính trung ương, bí thư Thành ủy Đà Nẵng – khẳng định những kết luận sai phạm về quản lý đất đai gây thất thoát nguồn ngân sách nhà nước của TTCP là không có cơ sở, thiếu tính thuyết phục và không đi sát với thực tế. Ông Thanh cho rằng việc phê duyệt giá đất để thu tiền sử dụng đất thuộc thẩm quyền của UBND TP, Hội đồng thẩm định giá đất TP gồm đại diện Sở Tài chính, Sở Tài nguyên – môi trường, Sở Xây dựng, Cục Thuế TP. Việc đồng ý giảm, tăng hoặc giữ nguyên theo đề nghị của Hội đồng thẩm định giá đất TP là việc làm bình thường và đúng thẩm quyền của UBND TP. Cũng theo ông Thanh, việc Đà Nẵng áp dụng giảm 10% cho các tổ chức, cá nhân nộp đủ tiền sử dụng đất trong vòng 30 ngày sau khi nhận đất tái định cư là vận dụng các chủ trương của Chính phủ, “điều này có lợi là TP thu được tiền ngay để đầu tư các công trình, không để tiền bị trượt giá mà dân cũng có lợi, sao gọi là sai phạm?”
Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Văn Hữu Chiến: “ Bất thường và không thuyết phục”
Liên quan đến kết luận mới đây của Thanh tra Chính phủ (TTCP) về những sai phạm lớn về

- Vấn đề mà TTCP đưa ra là có thất thoát hay không, cái này chưa thể nói rạch ròi được. Thật ra vụ này TTCP tiến hành thanh tra cả năm trời rồi, TP cũng giải trình lui, giải trình tới miết mà mấy ổng đâu có chịu nghe. Đến khi TTCP báo cáo Thủ tướng, TP xin được giải trình thêm cho rõ lần nữa nhưng TTCP không cho. Giờ đùng một cái, TTCP công bố. Trong khi đó Thủ tướng Chính phủ có văn bản yêu cầu giao các bộ, ngành trung ương (như Bộ Tài nguyên – môi trường, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch – đầu tư và Bộ Công an) vào Đà Nẵng để tiến hành kiểm tra việc chấp hành quy định của pháp luật về quản lý sử dụng đất đai, thu chi tài chính đối với các dự án đầu tư liên quan đến việc giao đất, cho thuê đất mà trong kết luận của TTCP đã đề cập. Trong khi các bộ, ngành chưa có ý kiến gì, phía TTCP đã chuyển cho Thủ tướng ra kết luận.
* Theo ông, kết luận trên có bất ngờ không?
- Nội dung kết luận thì không bất ngờ. Nhưng cách đưa kết luận này ra công bố trên báo chí thì bất ngờ. Trong khi các bộ, ngành chưa vào làm theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ thì TTCP đã công bố rồi. TP đã giải trình rồi mà TTCP lại không chịu nghe, đến khi báo cáo với Thủ tướng mấy ông cũng không cho Đà Nẵng có cơ hội.
* Ông có thể nói rõ quan điểm của lãnh đạo TP về kết luận thất thoát lớn trong quản lý đất đai ở Đà Nẵng của TTCP?
- Quan điểm của Đà Nẵng không có chuyện thất thoát số tiền mà TTCP đã nêu trong báo cáo (hơn 3.400 tỉ đồng). Trong khi Thủ tướng chỉ đạo các bộ ngành vào tìm hiểu và TP Đà Nẵng cũng đã có văn bản gửi các bộ ngành mời họ vào. Hôm qua (17-1), TP đã tiếp và làm việc với đoàn công tác của Bộ Công an. Trong khi các bộ, ngành chưa vào, mọi việc chưa ngã ngũ thì TTCP lại tung ra bản kết luận. Nếu thanh tra làm việc, công bố những cái chung thì không sao, còn đằng này TTCP đưa ra những con số rất chi tiết, cụ thể trong khi các bộ, ngành chưa có kết luận là không thuyết phục.
* Vậy khi nào TP Đà Nẵng có bản giải trình mới gửi TTCP, thưa ông?
- Không giải trình nữa, vì TP giải trình rất nhiều lần rồi.
- Ông nghĩ sao khi TTCP kiến nghị yêu cầu địa phương xử lý một số cán bộ lãnh đạo của TP?
- Bây giờ chưa xác định được có thất thoát hay không thì làm sao xử lý được. TP khẳng định không thất thoát, còn TTCP tính toán theo kiểu của họ rồi bảo thất thoát. Cả hai bên không đến với nhau được thì làm sao phê bình, kỷ luật được ai?
* Thưa ông, việc TTCP đưa ra kết luận thanh tra vào thời điểm này là có bất thường không?
- Bất thường đấy, TTCP vào Đà Nẵng làm việc từ năm 2011 nhưng kết luận thanh tra thì mới có cách đây chừng hai tháng. Và sau nhiều lần ngồi lại với nhau, quan điểm của TP trước sau vẫn là không có chuyện gây thất thoát cho ngân sách.
Theo báo TT







Phản biện như thế, nên đi chỗ khác chơi!
Hà Văn Thịnh
Nói rằng chưa đọc Bên Thắng Cuộc của Huy Đức là nói dối, bởi đã vương lụy với sử sách thì trách nhiệm của nhà sử học hay lều sử tập học đều phải đọc đủ các tư liệu từ nhiều phía – đây là vấn đề nguyên tắc, bởi sử học sẽ không còn là chính nó nữa nếu chỉ căn cứ vào thông tin một chiều. Tuy nhiên, hầu như chưa có nhà sử học nào chính thức bàn về Bên Thắng Cuộc. Chắc hẳn, không ít người hiểu rằng, để bàn luận cho thấu đáo một cuốn sách gây chấn động dữ dội như Bên Thắng Cuộc thì lại không hề đơn giản một chút nào, với rất nhiều lý do, trong đó, lý do quan trọng nhất là không đủ thời gian và chứng cứ để phân định cuốn sách đó sai ở chỗ nào về tư liệu, bịa đặt ra sao… Một khi không thể (chưa thể) nói nó sai hay đúng mà chê bai thì thành ra chính mình đang… sai. Thành thử, theo quan điểm sử học chính thống, chỉ có thể chê trách Huy Đức đã sai về quan điểm, lập trường, tư tưởng…; và sẽ không ai phản bác được. Đáng tiếc là các tác giả Song Huy – Ngọc Điệp không tìm cách phê phán Huy Đức theo con đường này mà lại CHỌN cách khó nhất: Chê bai cuốn sách theo cái gọi là “tinh thần khoa học, sự thật” bằng cách chối bỏ… sự thật và bao biện cho sự giả dối!
Song Huy – Ngọc Điệp cho rằng Bên Thắng Cuộc “hơn 1/3 toàn chép lại chuyện “mốc meo” đó, có gì để gọi là ghê gớm, bí mật để tác giả phải ầm ĩ là “vượt qua sự sợ hãi nói lên sự thật”? Đó là một kết luận hết sức sai lầm, phi bản lĩnh. Nói như thế có khác gì công nhận rằng Bên Thắng Cuộc có ít nhất HƠN 1/3 LÀ SỰ THẬT? Xin thưa, trong xã hội Việt Nam hiện nay, viết lịch sử hiện đại có hơn 1/3 là sự thật đã là đóng góp vô cùng quý giá rồi. Các vị cứ ngỡ rằng chê nó “mốc meo” là chê bai nó nhưng các vị quên mất một điều cơ bản: Sự thật dù có mốc meo vẫn là sự thật, công lao đưa cái mốc meo ra ánh sáng mặt trời đáng trân trọng lắm.
Cái sai trầm trọng nhất, chứng tỏ sự non kém về kiến thức nền là khi hai tác giả viết: “Sau trận Điện Biên Phủ, Pháp thua, dân Việt Nam chấm dứt 80 năm nô lệ để trở thành người… Dân tộc ta không tự vạch ra vỹ tuyến 17 để đánh nhau thêm 21 năm nữa”. Hai tác giả Song Huy – Ngọc Điệp không chịu hiểu rằng ách nô lệ đã được cởi bỏ bởi cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống Pháp là để bảo vệ thành quả đó. Viết như thế có khác gì phủ nhận Cách mạng tháng Tám? Rồi nữa, cứ tưởng rằng viết “dân tộc ta không tự vạch ra vỹ tuyến 17” là chứng tỏ lập trường, tư tưởng vững vàng, thực ra lại bôi bẩn thêm cái “lập trường” ấy: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đặt bút ký vào Hiệp định Genève, có nghĩa là nhất định phải có một phần trách nhiệm trong chuyện Vỹ tuyến 17. Đó là chưa nói việc quy rộng ra, sẽ trả lời dư luận sao đây khi ông Ngô Đình Diệm và chính phủ Hoa Kỳ chẳng hề ký vào Hiệp định đó?…
Vì có ít thời gian và vì bài viết của Song Huy – Ngọc Điệp còn phần tiếp theo; hơn nữa, rất nhiều bạn đọc đã phản biện về những cái sai, cái kém của hai tác giả Song Huy – Ngọc Điệp, nên tôi sẽ không bàn thêm, mặc dù còn vô khối điều để nói. Ví dụ, chê người ta kê phụ lục “như trường ca” nhưng lại không hiểu rằng một cuốn sách sẽ càng có giá trị khi càng có nhiều chú thích, phụ lục; ví dụ, hai tác giả chỉ nêu các học giả, nhà văn nhưng QUÊN hẳn những chính trị gia, những người có trách nhiệm là nhân chứng của cuốn sách. Hai tác giả Song Huy – Ngọc Điệp trả lời dư luận ra sao khi đọc những dòng này:
“Tác giả đặc biệt cám ơn các nhà lãnh đạo đã trả lời phỏng vấn trực tiếp cho cuốn sách này: Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải, Tổng Bí thư Đỗ Mười, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, Chủ tịch Nước Lê Đức Anh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, Ủy viên Thường trực Thường vụ Bộ chính trị Phạm Thế Duyệt, Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm, Phó Thủ tướng Vũ Khoan, Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh, Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn, Bí thư Trung ương Đảng Hoàng Tùng, các Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Nguyễn Đình Liệu, Trần Phương, Đoàn Duy Thành, Ủy viên Bộ chính trị Nguyễn Hà Phan, Bí thư Trung ương Đảng Phan Minh Tánh, Bí thư Trung ương Đảng Trần Quốc Hương, Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Trung tướng Võ Viết Thanh…
Xin cám ơn các nhà lãnh đạo đã trả lời các cuộc phỏng vấn của tác giả với tư cách là một nhà báo mà một phần nội dung được sử dụng trong cuốn sách này: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết, Bộ trưởng Công an Lê Minh Hương, Đại tướng Đoàn Khuê, Đại tướng Phạm Văn Trà, Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình, Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị Phan Diễn…”.
Chưa thấy ai còn sống trong danh sách trên lên tiếng cả mấy chục ngày nay, đủ để cho ta biết tính chân xác hay dối trá của tư liệu. Ngay cả một nhà báo họ Lưu, mới đây, cũng chỉ bổ sung thêm cho rõ chứ không hề nói Huy Đức bịa ra câu chuyện… Chưa bàn chuyện Huy Đức đúng hay sai, chính xác đến mức nào, chỉ xin thưa rằng, trong lịch sử sử học Việt Nam, chẳng có cuốn sánh nào chỉ có vài trăm trang mà lại có đến 608 chú thích. Giả định sự sai sót của Huy Đức là thấp nhất, ở mức có thể chấp nhận được – buộc phải thừa nhận rằng, 608 chú thích đó, là một sự phi thường về cách làm việc cẩn thận, chu đáo…
Trên đời này, cái khó nhất của nghề viết là bàn về một cuốn sách. Bởi, thông thường, trừ những kẻ đạo văn, chụp giựt, thì khi ra một cuốn sách, những tác giả có lương tâm, trách nhiệm đều ít nhiều phải có bản lĩnh và kiến thức vững vàng mới đủ khả năng viết và công bố sách. Vì thế, nếu không thể đứng ở tầm cao hơn thì ít nhất, cũng phải ngang bằng với người viết, mới có thể phê phán một cách thuyết phục. Song Huy – Ngọc Điệp đã phê Huy Đức bằng cách ca ngợi theo kiểu không giống ai: Họ chứng tỏ đã phạm sai lầm trầm trọng hơn những gì Bên Thắng Cuộc phạm phải (như họ nói) bởi dùng những điều sai để chê sai tức là… khen ở cách tinh vi, chân thật, rõ ràng…
Huế, 18.1.2013
H.V.T.







Đà Nẵng chứng minh “Thanh tra Chính phủ kết luận không đúng” ra sao?
Phần 2
Hải Châu thực hiện

Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Văn Hữu Chiến
Tiếp tục cuộc trả lời phỏng vấn báo điện tử Infonet về kết luận số 160/TB-TTCP của Thanh tra Chính phủ, Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Văn Hữu Chiến đã cho biết cụ thể về 6 dự án được cho là “xác định giá đất thấp gây thất thu cho ngân sách và tạo điều kiện cho một số nhà đầu tư chuyển nhượng thu lợi bất chính với số tiền lớn”!
PV: Thưa ông, tại kết luận số 160/TB-TTCP, Thanh tra Chính phủ (TTCP) cho rằng “khu đất chuyển nhượng cho Công ty Phúc Thiên Long để xây dựng khu dịch vụ thương mại du lịch đã được UBND TP Đà Nẵng xác định giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) năm 2007, qua 4 lần gia hạn nộp tiền, đến tháng 9/2009 Công ty mới nộp tiền sử dụng đất nhưng TP không xác định lại giá, gây thất thu 120.172 triệu đồng”. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?

Người dân Đà Nẵng theo dõi việc đổ đất lấn biển để xây dựng khu đô thị phức hợp sân golf Đa Phước. Theo UBND TP Đà Nẵng, ở dự án này TP được hưởng lợi hơn 1.000 tỉ đồng chứ không phải giao đất với giá thấp làm lợi cho Công ty 79 hơn 570 tỉ đồng như ý kiến của Thanh tra Chính phủ – Ảnh: HC
Ông Văn Hữu Chiến: Trên cơ sở đề xuất của Hội đồng thẩm định giá đất TP, UBND TP Đà Nẵng đã phê duyệt giá khởi điểm đấu giá là 2,5 triệu đồng/m2. Sau khi công khai đấu giá theo đúng quy định, hết thời hạn vẫn không có tổ chức, cá nhân nào tham gia đấu giá, chỉ có Công ty Phúc Thiên Long xin nhận QSDĐ. Do đó, việc UBND TP thống nhất chủ trương giao đất cho công ty này là phù hợp với quy định tại Điểm d, Khoản 5, Điều 2 Nghị định 17/2006/CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 181/2004/CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai.
UBND TP Đà Nẵng thống nhất phê duyệt giá đất giao QSDĐ theo đúng đề xuất của Hội đồng thẩm định giá đất TP, với đơn giá là 3,03 triệu đ/m2, cao hơn đơn giá phê duyệt để đấu giá. Việc phê duyệt đơn giá đất 3,03 triệu đ/m2 là đúng thẩm quyền của UBND TP và phù hợp với giá thị trường tại thời điểm đó.
PV: Nhưng tại sao sau 2 năm với 4 lần gia hạn, công ty này mới nộp tiền SDĐ mà UBND TP Đà Nẵng không xác định lại giá đất?
Ông Văn Hữu Chiến: Sau khi ký hợp đồng chuyển QSDĐ cho Công ty Phúc Thiên Long thì tình hình bất động sản cả nước cũng như TP Đà Nẵng giảm sút và đóng băng. Đồng thời các ngân hàng đồng loạt không cho vay vốn để đầu tư vào lĩnh vực bất động sản. Do đó vấn đề tài chính của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.
Mặt khác, khu đất này có nguồn gốc là đất quốc phòng nên quá trình làm thủ tục chuyển sang đất phát triển kinh tế có kéo dài, đồng thời hệ thống hạ tầng kỹ thuật tại khu vực này chưa được đầu tư vì vướng đất quốc phòng, dẫn đến TP chưa thể bàn giao toàn bộ mặt bằng dự án cho chủ đầu tư để triển khai dự án.
Từ tháng 12/2007 đến 9/2009 (từ thời điểm quyết định giá đất đến thời điểm công ty nộp đủ tiền SDĐ), bảng giá đất năm 2008 và 2009 ở TP Đà Nẵng không thay đổi. Thị trường bất động sản giảm sút và đóng băng, lạm phát kéo dài. Bão số 6 cũng vừa đổ bộ vào TP tàn phá nhiều nhà cửa, công trình nhất là ở khu vực ven biển. Cùng lúc, sóng thần tàn phá nhiều khu vực ven biển Thái Lan và một số nước càng gây nên tâm lý e ngại đầu tư vào khu vực ven biển Đà Nẵng. Vì vậy giá đất khu vực ven biển thời gian này giảm sút.
Chưa kể khu đất này nằm gần sân bay Nước Mặn, nhiều người e ngại còn tồn đọng chất thải dioxin trước đây trong sân bay, ảnh hưởng đến sức khoẻ. Đó là lý do vì sao liền kề khu đất này là vệt biệt thự dọc tường rào sân bay Nước Mặn đã giảm giá nhiều lần, thường xuyên quảng bá trên báo chí nhưng nhiều năm liền không có khách hàng liên hệ để nhận QSDĐ.
Nếu tính theo giá chuyển QSDĐ trên thị trường tại thời điểm năm 2009 (áp dụng bảng giá đất năm 2009 do UBND TP ban hành) thì đơn giá bình quân toàn khu đất này là 2.691.319 đ/m2. Như vậy đơn giá giao QSDĐ cho Công ty Phúc Thiên Long cao hơn đơn giá tính theo thị trường tại thời điểm đó là 338.681 đ/m2 (3.030.000 đ/m2 – 2.691.319 đ/m2). Đơn giá này nằm trong khung giá đất mà Chính phủ quy định tại Nghị định 181/2004/NĐ-CP và cao hơn giá đất tối thiểu đối với giá đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp ở đô thị loại 1 lên đến 12 lần.
PV: Đối với dự án này, kết luận số 160 của TTCP còn cho rằng “sau đó nhà đầu tư đã chuyển nhượng ngay cho đối tác khác thu lợi 498.442.206 triệu đồng”. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?
Ông Văn Hữu Chiến: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định 188/NĐ-CP (ngày 16/11/2004) của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất thì “giá chuyển nhượng QSDĐ thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường là số tiền VND tính trên một đơn vị diện tích đất được hình thành từ kết quả của những giao dịch thực tế mang tính chất phổ biến giữa người cần chuyển nhượng và người muốn được chuyển nhượng, không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như tăng giá do đầu cơ, do thay đổi quy hoạch, chuyển nhượng trong tình trạng bị ép buộc, quan hệ huyết thống”.
UBND TP Đà Nẵng khẳng định đơn giá chuyển nhượng QSDĐ của các cá nhân, tổ chức đối với khu đất này không phải là giá thị trường trong điều kiện bình thường. Do lẽ, sau khi Công ty Phúc Thiên Long được phép chuyển đổi tên sang ông Nguyễn Hữu Bình, sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính và được cấp giấy chứng nhận QSDĐ, ông Bình đã chuyển nhượng lại cho Công ty ATS do bà Nguyễn Thị Thoa làm giám đốc. Bà Thoa và ông Bình là chị em ruột (có quan hệ huyết thống) nên giá chuyển QSDĐ của hai người này không phải là giá trị thực của khu đất.
Giao dịch này không mang tính phổ biến mà trên thực tế đã chứng minh cho thấy việc tăng giá đất chuyển nhượng QSDĐ của các cá nhân trên nhằm mục đích nâng khống giá trị chuyển QSDĐ lên quá cao để được vay ngân hàng với số tiền lớn. Đây chính là thực trạng dẫn đến nợ xấu trong ngân hàng như hiện nay.
Ngoài mục đích nâng giá đất ảo nêu trên thì việc chuyển nhượng QSDĐ giữa các cá nhân, tổ chức là quan hệ dân sự giữa các bên, được cơ quan Công chứng chứng thực hợp đồng, sang tên trước bạ theo quy định của pháp luật. Vấn đề này không thuộc trách nhiệm của UBND TP.
PV: Đối với khu đất phía Nam cuối đường Phạm Văn Đồng, theo TTCP, năm 2006, UBND TP Đà Nẵng chuyển nhượng cho ông Hoàng Hải và bà Trung Thị Lâm Ngọc với tổn giá trị hợp đồng 84 tỉ đồng. Đến năm 2008, ông Hải và bà Ngọc không triển khai thực hiện dự án mà uỷ quyền cho ông Phan Văn Anh Vũ chuyển nhượng cho ông Phạm Đăng Quan với giá 581,526 tỉ đồng (thu chênh lệch 495,374 tỉ đồng). Năm 2009, ông Quan lại tiếp tục chuyển nhượng cho Công ty cổ phần đầu tư địa ốc Phương Trang với giá 585 tỉ đồng. Hiện khu đất vẫn bỏ trống, chưa được đầu tư. Ông có ý kiến gì?
Ông Văn Hữu Chiến: Chúng tôi xin nói rõ, ông Phan Văn Anh Vũ là người đứng ra chuyển nhượng QSDĐ cho ông Hải, bà Ngọc theo hợp đồng uỷ quyền chứ không phải là người nhận chuyển nhượng đất của ông Hải, bà Ngọc. Còn ông Phạm Đăng Quan chính là Tổng Giám đốc Công ty cổ phần đầu tư địa ốc ô tô Phương Trang. Như vậy giữa công ty này với cá nhân ông Quan là một. Điều này cho thấy đơn giá chuyển nhượng QSDĐ giữa tổ chức và cá nhân này không phải là giá thị trường trong điều kiện bình thường.
Việc chuyển nhượng QSDĐ giữa các cá nhân, tổ chức nêu trên là quan hệ dân sự giữa các bên, được cơ quan Công chứng chứng thực hợp đồng, trước bạ sang tên theo quy định của pháp luật. Vấn đề này không thuộc trách nhiệm của UBND TP. Tuy nhiên qua thực tế thị trường bất động sản trên địa bàn TP đã xảy ra nhiều trường hợp các tổ chức, cá nhân nâng khống giá trị chuyển QSDĐ lên quá cao nhằm mục đích vay ngân hàng với số tiền lớn chứ giá trị thực trên thị trường thấp hơn nhiều. Từ đó đã dẫn tới nợ xấu trong ngân hàng mà chúng tôi vừa đề cập ở trên.
PV: Đối với các khu đất A2, A3 đầu tuyến Sơn Trà – Điện Ngọc, TTCP cũng cho rằng việc chuyển nhượng QSDĐ của các tổ chức, cá nhân tạo ra sự chênh lệch lớn. Ý kiến của ông là gì?
Ông Văn Hữu Chiến: Đối với khu đất A2, sau khi được UBND quận Sơn Trà cấp giấy chứng nhận QSDĐ, bà Phạm Thị Đông chuyển nhượng QSDĐ cho bà Nguyễn Thị Xuân. Đây là quan hệ dân sự và được cơ quan Công chứng chứng thực hợp đồng theo quy định.
Riêng với khu đất A3, UBND TP Đà Nẵng khẳng định đơn giá chuyển nhượng QSDĐ của các cá nhân đối với khu đất này không phải là giá thị trường trong điều kiện bình thường. Do lẽ, sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính đối với khu đất A3, bà Phạm Thị Đông đã chuyển nhượng lại cho bà Trương Thị Chi và Lê Thuý Hương. Bà Đông với hai người này có quan hệ bà con trong gia đình, làm ăn với nhau…
Sau khi được cấp giấy chứng nhận QSDĐ, hai bà Trương Thị Chi và Lê Thuý Hương chuyển nhượng cho ông Trương Đình Trung. Tiếp đó ông Trung chuyển nhượng cho Công ty cổ phần bất động sản Phương Trang. Ông Trung chính là Phó Giám đốc Công ty này, giữa ông và công ty có quan hệ, cùng chung quyền lợi nên giá chuyển QSDĐ đối với khu đất này không phải là giá thị trường trong điều kiện bình thường. Giữa ông Trung và công ty đã thoả thuận nâng khống giá trị khu đất nhằm vay ngân hàng với số tiền lớn, chứ giá trị thực trên thị trường thấp hơn nhiều. Ngoài ra, việc chuyển nhượng QSDĐ giữa các cá nhân, tổ chức là quan hệ dân sự giữa các bên, được cơ quan Công chứng chứng thực hợp đồng theo quy định của pháp luật nên không thuộc trách nhiệm của UBND TP.
PV: Theo TTCP thì khu đất chuyển đổi mục đích SDĐ của Công ty Tân Cường Thành tính giá thấp hơn giá TP quy định là 67.323.064 triệu đồng. Ông giải thích việc này thế nào?
Ông Văn Hữu Chiến: Đối với khu đất này, UBND TP Đà Nẵng đã phê duyệt đơn giá đất sản xuất kinh doanh là 410.000 đ/m2. Sau khi công ty đề nghị chuyển mục đích SDĐ sang đất ở thì Hội đồng thẩm định giá TP đề xuất giá chuyển mục đích SDĐ của khu đất này là 175.800 đ/m2. UBND TP Đà Nẵng thống nhất với đề xuất nêu trên.
Theo đó, giá đất ở giao quyền SDĐ cho Công ty Tân Cường Thành là 585.800 đ/m2 (410.000 đ/m2 + 175.800 đ/m2) là đúng thẩm quyền và phù hợp với giá thị trường tại thời điểm, trong điều kiện công ty này phải tự bỏ kinh phí di dời cơ sở sản xuất theo hiện trạng để có mặt bằng xây dựng khu dân cư theo chủ trương của UBND TP tại công văn số 4865/VP-QLĐTh ngày 25/11/2010 (TP không bồi thường thiệt hại nhà xưởng, chi phí di dời, giải phóng mặt bằng…). Như vậy đơn giá này nằm trong khung giá đất mà Chính phủ quy định tại Nghị định 188/2004/NĐ-CP và cao hơn giá đất tối thiểu (đối với đất ở nông thôn, loại xã đồng bằng) lên đến 58,6 lần (585.800 đ/m2/10.000 đ/m2).
PV: TTCP cho rằng, năm 2007, khi chuyển nhượng khu đất A4, A5 khu đầu tuyến Sơn Trà – Điện Ngọc cho Công ty cổ phần xây dựng thương mại Phú Mỹ xây chung cư, căn hộ cao cấp, văn phòng cho thuê và khách sạn, UBND TP Đà Nẵng và Hội đồng thẩm định giá đất TP không xác định theo giá đất ở mà giữ nguyên theo giá đất sản xuất kinh doanh (SXKD, bằng 0,7 giá đất ở), gây thất thu cho ngân sách. Đến năm 2010, công ty này chuyển nhượng lại cho Công ty cổ phần xây dựng Phương Trang với số tiền hơn 285,6 tỉ đồng, chênh lệch so với giá của TP xác định năm 2007 hơn 22,6 tỉ đồng”. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?
Ông Văn Hữu Chiến: Nhận định của TTCP như vậy là không đúng. Bởi vì Hội đồng thẩm định giá đất TP Đà Nẵng đề xuất mức giá khởi điểm để đấu giá đất theo mục đích SXKD phi nông nghiệp là 2.570.000đ/m2 và được UBND TP thống nhất. Sau khi đăng báo công khai đấu giá theo quy định, hết thời hạn vẫn không có tổ chức, cá nhân nào tham gia đấu giá, chỉ có Công ty Phú Mỹ có đơn xin nhận chuyển QSDĐ và được UBND TP Đà Nẵng thống nhất giao QSDĐ với đơn giá SXKD phi nông nghiệp như nêu trên.
Sau khi nộp toàn bộ tiền SDĐ hai khu đất này, Công ty Phú Mỹ được UBND TP Đà Nẵng cấp giấy chứng nhận QSDĐ số AK280458 và AK280459. Theo giấy chứng nhận đã cấp cho Công ty Phú Mỹ thì mục đích sử dụng các khu đất này là đất SXKD phi nông nghiệp và UBND TP Đà Nẵng thu tiền SDĐ đối với công ty là đất SXKD phi nông nghiệp chứ không phải là đất ở như ý kiến của TTCP.
PV: TTCP cũng có ý kiến rằng khu đất 29ha thuộc dự án sân golf Đa Phước giao cho Công ty 79 thấp hơn giá TP quy định, làm lợi cho công ty này hơn 570 tỉ đồng. Ông giải thích vấn đề này ra sao?
Ông Văn Hữu Chiến: Ý kiến này của TTCP cũng không đúng. Bởi vì ngày 16/11/2006, Công ty TNHH Daewon Cantavil và UBND TP Đà Nẵng ký Thoả thuận nguyên tắc đầu tư dự án khu đô thị phức hợp sân golf Đa Phước, cụ thể trên cơ sở giá thu tiền mặt nước được thống nhất là 300.000đ/m2 và đơn giá thu tiền thuê đất 0,1USD/m2/năm. Trong thoả thuận nguyên tắc này có việc giao quyền SDĐ cho một Công ty Việt Nam liên doanh với Công ty Daewon với diện tích 29ha, đơn giá 300.000đ/m2.
Trong dự án này, Nhà nước giao mặt nước cho chủ đầu tư, còn chủ đầu tư phải bỏ ra 100% chi phí để làm kè, san lấp mặt bằng, nên việc TP thu tiền SDĐ với giá 300.000đ/m2 là phù hợp với giá thị trường tại thời điểm đó. Chưa kể đơn giá 300.000đ/m2 mặt nước đi kèm với điều kiện nhà đầu tư phải bàn giao cho TP khoảng 25ha đã hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng (với chi phí phải bỏ ra khoảng 5 triệu USD) để TP xây dựng khu vực công ích công cộng. Theo giá đất hiện hành của TP thì giá trị của khu đất 25ha này là 988 tỉ đồng.
UBND TP Đà Nẵng khẳng định giá đất giao cho Công ty Daewon là giá mặt nước. Đối với khu đất 29ha, ngoài đơn giá giao mặt nước là 300.000đ/m2 thì giá trị thu được đối với 25ha nêu trên được phân bổ cho khu 29ha, theo đó tiền SDĐ mỗi m2 là 3.407.000đ (988 tỉ/29ha). Như vậy, việc thu tiền SDĐ thực tế cho mỗi m2 của khu đất 29ha là 3.707.000đ (3.407.000đ/m2 + 300.000đ/m2). Đây là đơn giá tiền SDĐ mà TP được hưởng lợi với khu đất 29ha đã giao cho Công ty Daewon với đối tác là doanh nghiệp Việt Nam. Thực tế TP thu và hưởng lợi được 1.075 tỉ đồng, gồm 988 tỉ đồng là số tiền hưởng lợi từ 25ha và 87 tỉ đồng là tiền thu mặt nước của 29ha.
…….
Trong phần cuối bài trả lời phỏng vấn này, Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Văn Hữu Chiến nêu rõ những vấn đề cụ thể liên quan đến việc “giảm 10% tiền SDĐ khi nộp đủ tiền SDĐ trong vòng 60 ngày kể từ ngày ký hợp đồng” cũng như những động thái của TP trước việc Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công an “xác minh, làm rõ dấu hiệu cố ý làm trái các quy định của pháp luật về đất đai” tại Đà Nẵng. Mời bạn đọc tiếp tục theo dõi.







Cần vinh danh những người con đất Việt hy sinh trong trận hải chiến bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam 1974
Nguyễn Thiện (Tác giả chương trình “Dân ta biết sử ta”)
Lời dẫn của ABS ( tại đây): 39 năm trước, ngày 19 tháng 1 năm 1974 là ngày mà Việt Nam mất toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Bây giờ, 39 năm sau ngày đó, không riêng Hoàng Sa mà Trường Sa cũng đang đứng trước nguy cơ bị ngoại bang cưỡng đoạt toàn bộ như vậy. 39 năm sau ngày đó, ngoại bang đang săn, xua người Việt khỏi biển Đông. 39 năm sau ngày đó, việc phản đối những hành động càn rỡ của ngoại bang, kêu gọi bảo vệ chủ quyền quốc gia, có thể trở thành nguyên nhân dẫn tới ngược đãi, tù đày.
Bất kể thế nào thì 19 tháng 1 năm 1974 vẫn là một ngày, mà đã là người Việt thì có lẽ nên nhớ: Nhớ rằng, Trung Quốc đã cưỡng đoạt toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của người Việt. Nhớ rằng, đã có 74 người Việt dùng cái chết của họ để minh định “Hoàng Sa là của Việt Nam”. Dẫu rằng đảng CSVN vẫn xem 74 người Việt “vị quốc vong thân” trong việc minh định chủ quyền của người Việt ở Hoàng Sa là “ngụy”, song nếu còn tha thiết với Hoàng Sa, hãy nhớ tới họ và nghiêng mình trước anh linh của họ. Nhớ rằng, không chỉ có nhiều người Việt bị bắn khi đến gần Hoàng Sa, bị bắt rồi đưa đến Hoàng Sa với tư thế phạm nhân vì “xâm phạm chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc”, mà nay, sau 39 năm người Việt mất Hoàng Sa, điều này đang xảy ra trên khắp biển Đông.
Cuối cùng, đừng quên “tinh thần bốn tốt” và “16 chữ vàng”. Hãy nghĩ nhiều hơn về chúng.
Bài viết của Nguyễn Thiện:
Vinh danh những người con đất Việt hy sinh trong cuộc hải chiến Hoàng Sa 1974 là minh chứng sâu sắc rằng Tổ Quốc là của mọi con dân nước Việt, là thể hiện sâu sắc sự công bằng với lịch sử, có tác dụng khuyến khích mạnh mẽ lòng yêu nước và tinh thần sẵn sàng bảo vệ, xây dựng Tổ Quốc, là bước đột phá quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc.
Trong những ngày này, trước chiến lược thâm hiểm của Trung Quốc nhằm thực hiện tham vọng nuốt trọn Biển Đông, vấn đề bảo vệ Tổ Quốc và chủ quyền Quốc gia là mệnh lệnh của mọi con tim Việt Nam đang sống trong nước và ở nước ngoài. Hơn bao giờ hết, đoàn kết dân tộc trở thành tâm điểm nóng bỏng vì chỉ có bằng tinh thần Diên Hồng thì chúng ta mới đủ sức mạnh bẻ gãy mọi âm mưu, thủ đọan của ngọai bang đối với lãnh thổ nước ta.
Vinh danh xứng đáng những người con đất Việt đã anh dũng hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974 – trong đó tiêu biểu là Thiếu tá Hải quân Ngụy Văn Thà, hạm trưởng Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ- 10 – thiết nghĩ sẽ là một trong những bước đột phá quan trọng nhất để hòa hợp và cố kết dân tộc, nó không chỉ có ý nghĩa to lớn trước hiểm họa xâm lăng mà còn tạo được sức bật tinh thần mạnh mẽ trong công cuộc kiến thiết đất nước.
Ngụy Văn Thà (1943 – 1974) sinh ngày 16 tháng 01 năm 1943 tại Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Ngày 18 tháng 1 năm 1974, hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10 do Thiếu tá Ngụy Văn Thà chỉ huy đang tuần tiễu tại vùng biển Đà Nẵng thì được lệnh hành quân trực chỉ quần đảo Hoàng Sa, chi viện cho lực lượng hải đội bảo vệ Hoàng Sa đang bị phi cơ và các chiến hạm của Trung Quốc khiêu khích, đe dọa. Lúc 10 giờ 22 phút sáng ngày 19 tháng 1 năm 1974, trận giao chiến giữa lực lượng Hải quân Việt Nam Cộng hòa và Hải quân Trung Quốc đã nổ ra. Hai chiến hạm Trung Quốc mang số 389 và 396 đồng loạt tấn công thẳng vào Soái hạm là Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ-16. Chiếc HQ-10 do hạm trưởng Ngụy Văn Thà chỉ huy lập tức can thiệp, pháo kích dữ dội, bắn trúng đài chỉ huy của tàu 389 và làm cháy phòng máy khiến tàu 389 bị hư hại nặng, không thể điều khiển được nữa. Các tàu Trung Quốc 389 và 396 chuyển làn nhắm vào HQ-10 và phản pháo. HQ-10 bị bắn trúng tháp pháo và buồng điều khiển, làm hạm trưởng Ngụy Văn Thà và hạm phó Nguyễn Thành Trí bị thương nặng, tay lái không còn điều khiển được nữa và HQ-10 cũng bị rơi vào tình trạng bị trôi dạt như 389 của Trung Quốc.
Trước tình hình tàu bị hư hại nặng, hạm trưởng Ngụy Văn Thà ra lệnh cho thủy thủ đoàn dùng phao bè đào thoát, nhưng một số pháo thủ đã tình nguyện cùng ông tiếp tục ở lại bắn vào tàu Trung Quốc. Cả hai tàu 389 và 396 của Trung Quốc đều bị HQ-10 bắn hư hại nặng; tàu 389 dạt vào một bãi san hô, và 396 bị HQ-10 bắn trúng hầm máy không còn khả năng chiến đấu. Đến 11 giờ 49 phút ngày 19/01/1074, hai chiến hạm Trung Quốc là 281 và 282 tiến vào vùng đảo Hoàng Sa và tập trung hỏa lực bắn vào HQ-10. Hộ tống hạm Nhật Tảo chìm cùng hạm trưởng Ngụy Văn Thà và một số thủy thủ ở vị trí cách 2,5 hải lý về hướng Nam bãi ngầm Sơn Dương (Antelope Reef), lúc 14 giờ 52 phút ngày 19 tháng 1 năm 1974. Ngụy Văn Thà hy sinh để lại vợ và 2 con gái, hưởng dương 31 tuổi.
Theo các nhân chứng trên tàu Nhật Tảo HQ-10 còn sống sót, khi hộ tống hạm này bị hư hại nặng, 28 thủy thủ đã được lệnh đào thoát bằng các phao bè. Họ đã trôi giạt trong sóng gió 78 giờ liền, và sáu người đã chết trên biển vì kiệt sức hoặc bị thương quá nặng, trong đó có hạm phó Nguyễn Thành Trí. Mãi đến chiều 22-1- 1974, họ mới được tàu dầu của Hãng Shell là Kopionella mang quốc kỳ Hà Lan cứu vớt. Lúc lên tàu, thêm một thủy thủ nữa qua đời vì kiệt sức.
Khi tôi chia sẻ ý tưởng về việc cần có hình thức vinh danh Hạm trưởng Ngụy Văn Thà và những người hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974, nhà sử học Dương Trung Quốc, Tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, cho rằng cách đặt vấn đề có thể tìm thấy sự chia sẻ và nếu thành một quyết dịnh thì đây chắc sẽ là đột phá. Nhà sử học cho biết thêm : “Cách đây đã hơn 10 năm, khi đó Viện KHXHVN tổ chức nghiên cứu về khảo cổ học Trường Sa, Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh đến dự tổng kết chương trình . Nhân đấy, tôi có hỏi ông Khánh rằng với những người lính VNCH hy sinh khi bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa (1974) thì ta nên úng xử như thế nào hoặc có cách nào tôn vinh không thì Phó Thủ tướng Khánh cho rằng đó là nnững người có công với nước, nhưng trước mắt khó công nhận như liệt sĩ của QĐNDVN nhưng nếu tôn vinh theo những tập quán truyền thống như lập đền thờ… thì nên ”. Ông Quốc cũng cho rằng nên bắt đầu từ Đà Nẵng vì Hoàng Sa là huyện đảo thuộc thành phố Đà Nẵng
Vinh danh những người con đất Việt hy sinh trong cuộc hải chiến Hoàng Sa 1974 là minh chứng sâu sắc rằng Tổ Quốc là của mọi con dân nước Việt, là thể hiện sâu sắc sự công bằng với lịch sử, có tác dụng khuyến khích mạnh mẽ lòng yêu nước và tinh thần sẵn sàng bảo vệ, xây dựng Tổ Quốc, là bước đột phá quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc.







Chủ tịch Đà Nẵng: “Thanh tra Chính phủ kết luận không đúng”
Phần 1
Hải Châu

Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Văn Hữu Chiến
Ngay sau khi Thanh tra Chính phủ có Thông báo số 160/TB-TTCP (ngày 17/1) kết luận thanh tra về những sai phạm liên quan đến đất đai lên đến hơn 3.400 tỉ đồng, chiều 18/1, Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Văn Hữu Chiến đã dành cho Infonet cuộc trả lời phỏng vấn nhằm làm rõ các nội dung mà Thông báo 160/TB-TTCP đã nêu:
PV: Thưa ông, lãnh đạo TP Đà Nẵng có ý kiến như thế nào về việc Thanh tra Chính phủ (TTCP) kết luận: “UBND TP Đà Nẵng không triển khai tốt việc đấu giá chuyển quyền sử dụng đất trong những năm qua, không tuân thủ đúng quy định của Luật Đất đai và Quyết định 216/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ?
Ông Văn Hữu Chiến: Việc TTCP kết luận như vậy là không đúng. Bởi vì tất cả các trường hợp giao đất cho tổ chức, cá nhân trên địa bàn Đà Nẵng đều được công khai đấu giá và giao quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật về đất đai tại từng thời điểm. Cụ thể là Nghị định 181/2004/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai; Nghị định 17/2006/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai; Nghị định 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần; Quyết định 216/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về đấu giá quyền sử dụng đất.
Việc đấu giá quyền sử dụng đất được các đơn vị công khai trên báo chí, đảm bảo đúng thời gian và các tiêu chí như quy định địa điểm xây dựng, diện tích, đơn giá, mục đích sử dụng đất, thời gian, địa điểm đăng ký… để các nhà đầu tư có thông tin đăng ký đấu giá.
PV: Qua thanh tra 46 dự án trên địa bàn Đà Nẵng, TTCP kết luận có 6 dự án gây thất thoát. Ý kiến của lãnh đạo TP Đà Nẵng về vấn đề này như thế nào?
Ông Văn Hữu Chiến: TTCP thanh tra 46 dự án, trong đó có một số dự án TTCP lấy giá đất của Hội đồng thẩm định giá đất làm căn cứ chính rồi so với giá đất mà UBND TP quyết định có sự chệnh lệch, đồng thời không tính mật độ xây dựng khi xác định giá đất để kết luận gây thất thoát là không có cơ sở.
Theo quy định, việc phê duyệt giá đất để thu tiền sử dụng đất thuộc thẩm quyền của UBND TP. Hội đồng thẩm định giá đất TP gồm đại diện Sở Tài chính, Sở TN-MT, Sở Xây dựng, Cục Thuế TP, Văn phòng UBND TP chỉ là bộ phận tham mưu, đề xuất cho lãnh đạo UBND TP trong việc xem xét và phê duyệt giá đất. Việc đồng ý giảm, tăng hoặc giữ nguyên theo đề nghị của Hội đồng thẩm định giá đất TP là việc làm bình thường và đúng thẩm quyền của UBND TP.
Giá đất cụ thể được UBND TP Đà Nẵng xác định phù hợp với từng vị trí, với từng quy hoạch, điều kiện cơ sở hạ tầng, giá đất thị trường ở vị trí đó tại mỗi thời điểm và các lô đất đều được đưa ra đấu giá công khai. Việc xác định giá đất các lô đất lớn phải tính đến mật độ xây dựng, thường là dưới 60%.
Thực tế cho thấy, có những lô đất có chiều sâu hàng trăm mét. Khi áp dụng phương pháp xác định giá đất theo Chính phủ quy định, Bộ Tài chính hướng dẫn thì giá đất có thể thấp hơn bảng giá do UBND TP Đà Nẵng quy định. Điều này là đương nhiên vì bảng giá do UBND TP quy định cho các lô đất nhỏ có mật độ xây dựng 100%, có cơ sở hạ tầng đầy đủ.
Về vấn đề này, Bộ Tài chính đã có ý kiến tại Công văn 11021/BTC-QLCS (ngày 16/8/2012) như sau: “Việc Hội đồng liên ngành thẩm định giá đất tỉnh, TP căn cứ vào bảng giá đất hàng năm và các phương pháp xác định giá theo quy định của pháp luật thực hiện xác định giá đất cụ thể tính thu tiền sử dụng đất, trình UBND cấp tỉnh quyết định là đúng quy định về thẩm quyền quyết định giá đất tính thu tiền sử dụng đất…
…Đối với phần diện tích đất được giao sử dụng cho mục đích công cộng đáp ứng điều kiện quy định tại Mục V Thông tư 06/2007/TT-BTNMT (ngày 15/6/2007) của Bộ TN-MT thì không phải nộp tiền sử dụng đất. Mật độ xây dựng theo quy hoạch xây dựng chi tiết đã được duyệt chỉ là một trong các căn cứ để xác định giá đất tính thu tiền sử dụng đất”.
PV: Được biết liên quan đến vấn đề này, cách đây mấy năm Uỷ bản Kiểm tra TƯ Đảng cũng đã có kết luận hết sức cụ thể. Ông có thể cho biết kết luận của Uỷ ban Kiểm tra TƯ Đảng đã nêu như thế nào?
Ông Văn Hữu Chiến: Uỷ ban Kiểm tra TƯ Đảng đã có kết luận hết sức cụ thể tại Mục 4 Kết luận số 94 (ngày 25/4/2007) về việc bán khu đất 18.000m2 cuối tuyến đường Phạm Văn Đồng, khu thương xá Vĩnh Trung, khu đất số 8 Phan Chu Trinh, khu đất tứ giác Phạm Hồng Thái – Nguyễn Chí Thanh – Nguyễn Thái Học – Yên Bái, các khu đất bán cho ông Nguyễn Hữu Sinh, ông Nguyễn Hữu Bình, Công ty TNHH Đức Mạnh, Công ty TNHH Cafe Trung Nguyên, Công ty An Cư Đông Á như sau:
“Qua xem xét, Uỷ ban Kiểm tra TƯ Đảng nhận thấy việc bán các khu đất trên là có chủ trương của tập thể UBND TP Đà Nẵng thực hiện theo mục đích thương mại du lịch, không phải là nhà ở, mật độ xây dựng nhà cao tầng từ 50 – 60% diện tích khu đất. Đất còn lại phục vụ công cộng. Vì vậy không thể so sánh giữa giá đất làm dịch vụ theo đúng quy hoạch của TP với giá đất bán nền hoặc giá đất ở mặt tiền các đường phố chính”.
Còn nữa!
…………………………..
Mời bạn đọc tiếp tục theo dõi nội dung trả lời phỏng vấn của Chủ tịch Văn Hữu Chiến về các vấn đề cụ thể liên quan đến 6 dự án mà TTCP kết luận là “gây thất thoát” cũng như vấn đề giảm tiền sử dụng đất mà theo TTCP là “không đúng đối tượng và trái với quy định tại Nghị định 198/2004/NĐ-CP” ở các phần sau.







Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
