Nguyễn Quang Lập's Blog, page 102
January 13, 2013
Hai tử huyệt của chế độ
Có lẽ lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) quan niệm rằng:
- Quy định về quyền lãnh đạo của ĐCSVN đối với Nhà nước và xã hội, và
- Quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý
tại Điều 4 và Điều 17–18 của Hiến pháp 1992 là hai tử huyệt của chế độ. Vì vậy, dư luận càng muốn hủy bỏ hoặc sửa đổi hai quy định đó, thì họ càng kiên quyết bảo lưu. Chúng nằm trong định hướng bất di, bất dịch của lãnh đạo đảng, và được tái thể hiện tại Điều 4 và Điều 57 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.
Tử huyệt độc quyền lãnh đạo
Trong thế giới văn minh, quyền lãnh đạo đất nước của một đảng chính trị chỉ có thể giành được thông qua tranh đấu và bầu cử dân chủ. Kể cả khi đang cầm quyền, đảng vẫn phải phấn đấu liên tục, để thuyết phục Nhân dân tin tưởng và tiếp tục trao cho quyền lãnh đạo.
Không thể lấy công lao trong một giai đoạn quá khứ để bù lại cho hiện tại yếu kém, với bao sai lầm, tội lỗi, và áp đặt cho cả tương lai vô định. Nếu cứ từng có công là được cầm quyền vĩnh viễn, thì ĐCSVN phải trả lại chính quyền cho triều đình nhà Nguyễn, và triều đình nhà Nguyễn lại phải trả lại chính quyền cho các triều đình trước đó. Thế là khởi động cho một quá trình truy hồi dằng dặc, mà không thể tìm được điểm kết thúc. Hơn nữa, thời gian qua đi, giờ đây nắm quyền lực bao trùm đất nước lại là những người vốn chỉ đi theo hoặc ăn theo cách mạng, hay từng được cách mạng o bế và cưu mang mà thôi. Nếu họ từng có công, thì chưa chắc bù nổi những lỗi lầm đã gây ra. Phần lớn những người có công đáng kể, những công thần của chế độ, đã qua đời, hoặc nếu còn sống thì đã về hưu, và có lẽ đang đau lòng vì phải chứng kiến sự nghiệp cách mạng của thế hệ mình bị phản bội.
Không thể coi quyền lãnh đạo đất nước của bất kỳ đảng phái nào là đương nhiên, và vì vậy không thể ghi điều đó vào Hiến pháp. Vả lại, nếu quyền đó đã là đương nhiên, được mọi người mặc nhiên thừa nhận, thì cũng chẳng cần ghi vào Hiến pháp làm gì, để khỏi gây phản cảm một cách không cần thiết. Nếu một điều không phải là đương nhiên và không được tất cả mọi người thừa nhận, mà vẫn bất chấp, áp đặt bằng được trong Hiến pháp, thì chỉ riêng việc làm đó đã khắc họa xong tính dân chủ và tính hợp pháp của đảng và chế độ.
Nếu ĐCSVN được đa số Nhân dân tin cậy và ủng hộ, thì bất cứ cuộc tổng tuyển cử dân chủ nào cũng đưa lại một kết quả tất yếu, đó là trao cho đảng quyền lãnh đạo đất nước. Cho nên, khi khẳng định rằng “bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”, thì có nghĩa đã mặc nhiên thừa nhận thực trạng tệ hại của đảng, khiến đa số Nhân dân không thể đồng tình ủng hộ và chắc chắn sẽ không bầu cho đảng. Nếu nghĩ là mình không còn xứng đáng, không còn được đa số Nhân dân tín nhiệm, mà vẫn dùng Hiến pháp để áp đặt bằng được vai trò lãnh đạo, thì có còn tử tế và vì Dân nữa hay không?
Con người muốn tồn tại và phát triển thì không thể khước từ thử thách, không thể lẩn tránh đối đầu. Ngược lại, phải chấp nhận thử thách, vượt qua thử thách mà vươn lên. Nếu một đứa trẻ luôn được o bế trong căn nhà vừa được vô trùng, vừa được điều hòa nhiệt độ một cách tuyệt đối, thì sẽ dễ bị đổ bệnh khi ra khỏi cửa. Nếu con cái được bố mẹ quá bao cấp, kèm cặp từng li từng tí, thì sẽ dễ ngã gục khi bước vào cuộc sống tự lập trong xã hội. Để tránh bệnh tật, hàng tỷ người trên thế giới chấp nhận tiêm vắc-xin, nhằm phát triển khả năng miễn dịch, tức là chủ động đưa cơ thể mình vào trạng thái thử thách. Muốn khỏe, con người không thể ỳ ra, mà phải thường xuyên khổ luyện dưới hình thức thể dục. Không có cạnh tranh, không có thi đua (thực chất), thì con người không thể khá lên được.
Không chỉ từng cá thể, mà cả quần thể, với tư cách tổ chức, đảng phái, hay cả xã hội, cũng phải biết đương đầu với thử thách. Vì biết tận dụng cuộc cạnh tranh giữa hai hệ thống chính trị trên thế giới để tự hoàn thiện, để giành phần thắng trong cuộc chiến tranh lạnh, nên các nước tư bản hàng đầu đã phát triển vượt bậc, không chỉ về kinh tế, khoa học và công nghệ, mà cả về dân chủ và phúc lợi xã hội, cũng như về quyền con người.
Ngược lại, các nước trong phe xã hội chủ nghĩa đã xử lý sai tình huống và quan hệ địch ta. Nhìn đâu cũng thấy địch, kể cả trong Dân, nên nhiều khi đối xử với Dân cũng giống như với địch, khiến dần dần mất Dân. Ỷ thế vào cường quyền, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đầu têu trong việc cấm đảng phái khác hoạt động, để rồi sau này ĐCSVN cũng nối gót sai lầm. Các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa chấp nhận đa đảng, nhưng cũng chỉ là hình thức. Dân chủ xã hội và quyền con người bị bóp nghẹt, khiến tinh thần và trí tuệ cũng bị lụi tàn. Tưởng rằng như vậy thì các đảng cộng sản sẽ rảnh tay, có thể tập trung lực lượng chiến đấu với kẻ thù chính ở hệ thống bên kia, nhưng kết quả thì ngược lại. Kinh tế suy sụp, lòng Dân ly tán, khiến hệ thống chính trị được dày công xây dựng suốt hơn nửa thế kỷ bị phá từ trong phá ra, đổ rụp trong chốc lát, làm cho đối thủ cũng bị bất ngờ đến ngỡ ngàng.
Họa đôi khi cũng là phúc, nếu biết rút ra bài học hợp lý từ thảm họa. Nếu quay ra chấp nhận cạnh tranh một cách dân chủ trong xã hội đa đảng, đa nguyên, ĐCSVN sẽ buộc phải lựa chọn những người lãnh đạo thuộc loại ưu tú nhất, và chắc chắn sẽ chọn được hàng ngũ lãnh đạo tốt hơn gấp bội lần so với đội hình đương nhiệm, kể cả tài lẫn đức. Mọi phần tử thoái hóa, tham nhũng sẽ bị vạch trần và bị đào thải. Trong ba triệu đảng viên không thiếu người tài, người tốt. Vấn đề là phải dùng dân chủ để giải phóng tiềm năng bị độc quyền giam hãm bấy lâu. Không chỉ dựa vào nội lực, dân chủ xã hội còn cho đảng thêm cả sức mạnh từ ngoài đảng. Nếu đảng cầm quyền không tự nhận ra tồn tại yếu kém của mình, thì các đảng đối lập cũng sẽ vạch ra cho. Chẳng cần đến những nghị quyết vô dụng, những màn kịch phê bình – tự phê bình giả dối và lố bịch, thì ĐCSVN vẫn có thể vươn lên, tốt hơn hẳn hiện tại, để được Nhân dân tin tưởng mà trao quyền lãnh đạo.
Tiếc rằng, lãnh đạo của ĐCSVN lại phản ứng như gã tài xế ù lì, chỉ biết nghiến răng tăng ga, khi cỗ xe đang lao xuống đầm lầy. Một mặt, đảng càng suy sụp thì họ càng bóp nghẹt dân chủ trong đảng, dân chủ trong xã hội, và càng hạn chế quyền con người, nhằm duy trì quyền lực bằng bạo lực. Mặt khác, giới cầm quyền tranh thủ tham nhũng, đua nhau vơ vét, tước đoạt cả tài sản của Dân. Chính họ, chứ không phải thế lực thù địch nào khác, đã và đang phá nát ĐCSVN. Trạng thái độc đảng đã triệt tiêu sức chiến đấu và bản năng sống lành mạnh của đảng. Buông thả trong thế độc quyền, ĐCSVN đang tự tha hóa, tự hủy diệt, như cỗ xe không phanh, lao xuống dốc, hướng thẳng tới vực thẳm.
Có ý kiến đề xuất tăng cường dân chủ trong nội bộ đảng để bù lại, để tự gột rửa và điều trị căn bệnh ung thư đã bước sang giai đoạn di căn. Nhưng không thể tồn tại dân chủ trong một đảng độc quyền. Chỉ có dân chủ ngoài xã hội mới thúc đẩy dân chủ trong đảng, chứ không phải ngược lại.
Khước từ dân chủ xã hội, trong đó có thể chế đa đảng, ĐCSVN không chỉ gây thêm thù oán với Dân, mà còn tự tước bỏ khả năng đề kháng và hy vọng chữa trị căn bệnh nan y của chính mình. Sự bảo thủ kiêu ngạo đã bịt mắt giới lãnh đạo, khiến họ cố tình làm ngơ trước thực tế là: Đảng Nhân dân Camphuchia, một đảng từng được ĐCSVN nâng đỡ và phải đương đầu với hoàn cảnh khó khăn gấp bội, vẫn có thể giữ được quyền lãnh đạo đất nước thông qua bầu cử, mà không cần phải bức hại đa nguyên, không cần phải cưỡng bức Hiến pháp.
Cần phải nói thêm rằng: Quy định ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không có nghĩa nó là lực lượng lãnh đạo duy nhất, càng không phải là đảng duy nhất được phép tồn tại. Do đó, kể cả khi duy trì Điều 4 của Hiến pháp 1992, thì việc ngăn cấm các đảng phái chính trị khác thành lập và hoạt động là vi phạm quyền tự do hội họp, lập hội, được quy định tại Điều 69, Hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tử huyệt sở hữu toàn dân về đất đai
Hiến pháp 1946 không đề cập đến đất đai. Hiến pháp 1960 chỉ quy định đất hoang thuộc sở hữu của toàn dân. Nhưng Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 thì quy định (toàn bộ) đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
“Sở hữu toàn dân” lại có nghĩa là chẳng người dân nào có quyền sở hữu. Trớ trêu thay, nhân danh “sở hữu toàn dân” để tước đi quyền sở hữu của toàn dân. Những mảnh đất vốn dĩ có chủ, được khai hoang, được trao đổi, mua bán, hay được thừa kế hợp pháp từ bao đời, nay bỗng nhiên trở thành vô chủ. Bộ máy cầm quyền, vốn dĩ chẳng có gì, mà nay lại chiếm được tất cả, trong đó có quyền quyết định về đất đai trong cả nước.
Để vận động hàng chục triệu nông dân giúp đỡ cướp chính quyền, ĐCSVN đã giương khẩu hiệu “dân cày có ruộng”. Chữ “có ruộng” ở đây đương nhiên là “sở hữu ruộng đất”, chứ không phải chỉ là “có quyền sử dụng đất”. Sau khi giành được chính quyền ở miền Bắc, đảng đã lấy ruộng của người giàu chia cho người nghèo, rồi tiếp đó lại vận động nông dân góp ruộng để làm ăn tập thể, trong mô hình hợp tác xã nông nghiệp. Khi đã giành được chính quyền trong cả nước, lãnh đạo ĐCSVN quyết định quốc hữu hóa đất đai, dưới hình thức “sở hữu toàn dân”. Nếu biết trước kết cục sẽ mất đất như vậy, liệu hàng triệu người có còn theo đảng, giúp đảng giành chính quyền nữa hay không?
Khi chính quyền tử tế, có khả năng sử dụng đất đai một cách vô tư, hợp lý và công bằng, thì sở hữu toàn dân về đất đai có thể tạo ra một sức mạnh cộng hưởng để xây dựng đất nước. Và người dân có thể tự an ủi rằng mình hy sinh bớt lợi ích cá nhân để phục vụ lợi ích cộng đồng, trong đó có cả bản thân và gia đình mình. Nhưng khi chính quyền tham nhũng thì sở hữu toàn dân về đất đai gây ra đại họa, không chỉ làm khổ muôn dân, mà phá nát cả chính quyền. Chỉ mất mấy giây hạ bút, kẻ mang danh “công bộc” đã có thể vơ về cả đống tiền của, mà một người lao động chân chính lăn lộn cả đời cũng không kiếm nổi. Chỉ với mấy chữ ký loằng ngoằng của mấy kẻ có chức quyền, hàng trăm, hàng ngàn người dân đã bị tước mất đất đai, nơi họ đang làm ăn, sinh sống, trở thành dân oan, lang thang khiếu kiện khắp nơi. Càng duy trì sở hữu toàn dân về đất đai, thì càng gia tăng oán hận của Dân, càng sinh sôi tham nhũng trong tầng lớp lãnh đạo, và càng đẩy nhanh quá trình tự hủy diệt của chế độ.
Bộ máy cầm quyền đầy ắp những kẻ tha hóa, cấu kết với bao kẻ vốn đã lưu manh từ trước khi chen chân vào chốn quan trường. Cái thứ “sở hữu toàn dân” ngon lành và dễ ăn như thế, làm sao kìm nổi lòng tham? Có thể những người đã no nê cũng tán thành tư nhân hóa đất đai, vừa giũ bỏ được cái nguồn kiếm chác béo bở đã trở thành “của nợ”, vừa có được quyền sở hữu vĩnh viễn cho số đất đai đã thu gom bấy lâu. Nhưng những vị còn chưa thấy đủ no và những kẻ kế cận đang mong chờ đến lượt mình được vơ vét thì lại không dễ buông tha.
Muốn nuốt thì hóc, mà muốn nhả ra cũng không hề dễ. Tư nhân hóa đất đai thế nào? Trao quyền sở hữu cho ai và trao bao nhiêu? Khi còn là sở hữu toàn dân thì chủ đất cũ đành chịu lặng thinh. Nhưng khi mảnh đất vốn của mình lại được giao cho một người lạ hoắc sở hữu, thì chủ cũ đâu dễ chịu ngồi im. Đất đai vốn dĩ nằm trong trạng thái phân bổ tương đối ổn định và hợp lý về mặt lịch sử, mấy chục năm qua bị đẩy vào tình trạng hỗn loạn. Nếu bây giờ muốn sửa chữa sai lầm, lập lại trật tự, thì lại quá khó. Hoàn cảnh thực tại giống như gã phàm ăn nuốt phải lưỡi câu: Nuốt tiếp thì vướng cước và có thể bị chọc thủng dạ dày, mà lôi ra thì móc vào cổ họng.
Thách thức vượt quá năng lực tư duy và hành động của những đầu óc u mê, trí tuệ giáo điều. Biết làm gì ngoài việc câu giờ, dồn hậu họa lên đầu những người kế nhiệm?
Quả là rất khó để thoát ra khỏi tình trạng sa lầy về sở hữu đất đai. Sai lầm càng lớn thì khắc phục càng khó. Song lãnh đạo ĐCSVN cần xác định rằng họ có trách nhiệm giải thoát Dân tộc ra khỏi bãi lầy, mà chính đảng đã đẩy Dân tộc xuống. Nếu biết huy động trí tuệ của Dân tộc và tạo được sự đồng thuận của Nhân dân, thì khó mấy cũng làm được. Cách làm như thế nào không phải là chủ đề trao đổi của bài này.
*
* *
Quy định trong Hiến pháp về quyền lãnh đạo đương nhiên của ĐCSVN đối với Nhà nước và xã hội tưởng để đảng trường tồn, nhưng lại là điều khoản khai tử của ĐCSVN, khai tử khỏi lòng Dân và khai tử khỏi cuộc sống chính trị.
Quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý như cỗ máy khổng lồ, từng phút từng giờ đùn ra hàng đống thuốc nổ, nén chặt vào lòng Dân. Nó giống loại ma túy cực độc, có thể thỏa mãn cơn nghiện tham lam vô biên của giới cầm quyền, nhưng cũng tăng tốc quá trình tự hủy diệt của ĐCSVN và chế độ do đảng dựng nên.
Vì vậy, nếu muốn bảo vệ ĐCSVN và chế độ này, thì cần phải nhanh chóng loại bỏ hai quy định đó ra khỏi Hiến pháp.
Ngược lại, nếu muốn gạt bỏ sự lãnh đạo của ĐCSVN, thì có thể sẽ sớm được toại nguyện, nếu tiếp tục duy trì hai quy định ấy trong Hiến pháp, bởi lẽ không có cách phá nào nhanh hơn là tự phá.







Xin cảm ơn Thủ tướng, cảm ơn Chính phủ, nhưng…
Đào Tuấn
Bản tin “Chào buổi sáng” ngày 12.1, VTV phát một phóng sự rớt nước mắt về những đứa trò nhỏ ở Bắc Yên, Sơn La: Ở lán. Không cửa, phải leo ra leo vào như khỉ. 5 độ C. Không ngủ được thì sao? “Không ngủ được thì thức”. Cơm được nấu trong một chiếc nồi không vung. Và không có gì ăn, các cháu phải bẫy chuột làm thức ăn. “Thoạt đầu chúng tôi không hiểu và chúng tôi cũng chỉ nghĩ rằng những chiếc bẫy này thì dùng để diệt chuột. Thế nhưng hỏi các em thì mới biết được rằng đây lại là cách của các em để cái thiện bữa ăn”.
Có bao giờ bạn thấy xấu hổ khi nhìn những tấm biển, bằng tiếng Việt, ở một khu du lịch nào đó ở Thái Lan “Xin vui lòng ăn bấy nhiêu, lấy bấy nhiêu, ăn không hết sẽ bị phạt từ 200 bath đến 500 bath”?
Có bao giờ trước một bữa buffet, nơi thức ăn bị bỏ lại thừa mứa, bạn nghĩ đến những đứa trẻ vùng cao đang phải bẫy chuột để ăn?
Ngày hôm qua, Chương trình Cơm có thịt của nhà báo Trần Đăng Tuấn đưa về Hà Nội để chữa bệnh cho một cô bé người Mông. Hầu Thị Ly, học sinh lớp 7 trường THCS Pa Cheo, Bát Xát, Lào Cai. Hầu Thị Ly thường xuyên ngất xỉu. Và ngay trước khi được đón về Hà Nội, gia đình đang “cúng ma” vì cho rằng cô bé bị “ma làm”. Có một chi tiết nói ra thật đau lòng. Hầu Thị Ly không ăn thịt. Vì sao ư? Vì đã từ tết năm ngoái, cô bé đã “quên” mùi vị của một miếng thịt. Chẳng biết đâu, căn bệnh ngất xỉu của Hầu Thị Ly bắt đầu từ những bữa ăn “chay trường” quanh năm.
Cũng trong ngày hôm qua, tờ Sài gòn tiếp thị kể về những cảnh đời ở Châu Thành A, Hậu Giang đem “ngọc” đổi gạo. Đó là một anh Ba Ni nào đó “Không có miếng đất cấy trồng nào, quanh năm suốt tháng, cả chồng lẫn vợ chỉ biết đi làm mướn nuôi con”. Và rồi, người đàn ông này, như hơn 360 người khác, quyết định đi đình sản, nói như dư luận mà bài báo dẫn, là “thiến”, là “đổi ngọc lấy gạo”.. “Thiến”, để được 800 ngàn đồng bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ “để dành… mua gạo ăn dần”. Thật đau lòng khi nghe lời thổn thức của vợ anh Ba: “Hồi đó cưới nhau lành lặn, bây giờ… làm vậy thấy nó ngồ ngộ! Phải chi bị tai nạn hay bệnh tật gì mà buộc phải vậy thì đành chịu, đàng này… Nhưng thôi, số mình nghèo nên chịu… vậy!”.
Đói cơm. Đói thịt. Đói một cách vật lý. Không phải chỉ những đứa trẻ vùng cao. Không chỉ những người dân không đất Hậu Giang. Thống kê chính thức cho thấy, năm 2012, trong chính năm đất nước vươn lên vị trí cường quốc xuất khẩu gạo số 1 thế giới, vẫn còn 450,3 nghìn lượt hộ, 1.911,8 nghìn lượt nhân khẩu bị thiếu đói. Hàng triệu lượt người thiếu đói. Đó là một sự thật.
“Bây giờ mình không thiếu gạo, mình cũng viện trợ nơi này nơi khác, vậy tại sao để con cháu mình trong cảnh cháu mang mì, cháu mang ngô, cháu mang khoai đến lớp, rồi phải lợp chòi nấu ăn?”. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đặt câu hỏi ra một câu hỏi không nhỏ với lãnh đạo ngành lao động – thương binh và xã hội trong hội nghị trực tuyến của bộ này vào sáng 7-1.
Trong năm 2012, 22,6 nghìn tấn lương thực và 24,4 tỷ đồng đã được dùng để cứu đói cho những người như Ba Ni.
Rồi thì từ cuối tháng 10-2011, Thủ tướng cũng đã có quyết định (số 60) hỗ trợ bữa ăn trưa 120 ngàn đồng/tháng cho trẻ mầm non 3, 4 tuổi. Theo nhà báo Trần Đăng Tuấn, đa số trong số 46 trường mầm non đang được Chương trình thiện nguyện “Cơm có thịt” của ông giúp đỡ (tổng số 5.800 cháu 3, 4 tuổi) chưa nhận được tiền hỗ trợ này. Các cô giáo cho biết tiền đã được chuyển về huyện nhưng chưa chi vì thiếu văn bản hướng dẫn nên nơi làm, nơi chưa dám làm.
Xin cảm ơn Thủ tướng, cảm ơn Chính phủ đã không quên những người dân nghèo, không quên những đứa bé vùng cao. Nhưng đã 13 tháng trôi sau khi quyết định của Thủ tướng có hiệu lực, cơm cũng chưa có mà thịt cũng không. Và những đứa bé vùng cao vẫn tiếp tục phải “bẫy chuột” trước khi quên hẳn mùi vị của một miếng thịt, trước khi “bỗng nhiên ngất xỉu” như Hầu Thị Ly.
Gạo không thiếu. Chính sách không thiếu. Cái thiếu dường như là trách nhiệm, và một chữ tâm của những người thực thi chính sách.
Theo blog ĐT, đầu đề của Quê choa







Làm bằng miệng
Bùi Văn Bồng
![question[1]](https://i.gr-assets.com/images/S/compressed.photo.goodreads.com/hostedimages/1382720586i/6144848.png)
Gần đây, trên công luận (nhất là báo mạng) và dư luận tập trung nói nhiều đến nhân vật lãnh đạo mới vừa được kéo từ Đà Nẵng lên Trung ương – ông Nguyễn Bá Thanh.
Cái Ban Nội chính Trung ương mà ông Thanh được phân công làm Trưởng ban thực chất đã ra đời và hoạt động suốt 40 năm 91966-2006). Từ 2007, sáp nhập vào Văn phòng bên Đảng (Trung ương Đảng, tỉnh ủy, thành ủy thuộc Trung ương), như một bộ phận chuyên trách, nhiệm vụ và biên chế bị khoanh lại rất nhiều. Người ta nói, coi như hơn 5 năm qua, Đảng mất đi quyền về giám sát, lãnh đạo về Nội chính và Kinh tế. Những quyền này được tăng cường cho Ban chỉ đạo phòng – chống tham nhũng, do Thủ tướng trực tiếp làm Trưởng ban.
Ông Nguyễn Bá Thanh được giao trọng trách này khi Ban Nội chính Trung ương vừa được ‘mã đáo’ trở lại đường xưa do Đảng trực tiếp nắm và chỉ đạo. Sự hoàn trả này cũng gặp nhiều tranh cãi rắc rối, khó khăn, có vận động, có nghị quyết, có cả trao đổi và đánh đổi, nhưng rồi coi như Đảng thắng.
Sau khi nhận cương vị mới, cái ‘dàn’ nhân sự từ Ban Chỉ đạo PCTN bên Chính phủ chủ yếu theo ‘mã đáo’ về bên Trung ương Đảng. Người ta nói: “Thần thiêng nhờ bộ hạ”. Cái bộ máy tham mưu, giúp việc, là những tay làm và chân chạy cho ông Thanh, có ủng hộ ông hay không thì may ra có trời mới biết. Nhưng dư luận đang cho rằng, dẫu ông Thanh có quyết tâm cao ở cương vị mới, nhưng ‘một cánh én không làm nên mùa xuân’. Đúng thế, ông có bị cô đơn lạnh vắng, kể cả bị cô lập hay không? Ông có bị ‘bộ phận không nhỏ’ nhan nhản, đầy quyền lực bao vây và phản công không? Ông có bị rơi vào bẫy việt vị không? Ông có được quyền chọn và thay đổi dàn nhân sự hay không? Và nữa, ông có bình tĩnh, sáng suốt, đủ năng lực và bản lĩnh để làm ra tầm ra miếng gì không?…Rất nhiều câu hỏi của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân dù kỳ vọng nhưng vẫn đang đặt ra đối với ông Bá Thanh.
Gần đây, nhiều nơi ông phát biểu rất mạnh, tỏ rõ chí quyết, nêu bật bức xúc. Nhưng bộc trực và rung dọa hoặc lộ mục tiêu không phải là ‘thượng sách’ của nhà cách mạng. Mới đây, ông nói tại Đà Nẵng, nơi mà ông nắm trọn quyền Đảng, quyền Nhà nước, ‘vua một cõi’, ông đã nói ra rả, nói cho “bóa chí’ không kịp đăng. Khi đề cập đến vấn đề tham nhũng, một trong những vấn nạn đang gây ảnh hưởng trực tiếp lên nền kinh tế mà Ban Nội chính ‘mặc áo mới’ của ông có nhiệm vụ giải quyết, ông tuyên bố thẳng cánh: “Sắp tới tôi sẽ rà vô một số cái, cho hốt liền, không nói nhiều”. Ông nói, đồng thời dường như tiết lộ khéo là đã xác định một vài mục tiêu nhất định khi nhận xét “một số ông giờ đang ngồi run”. Lấy ví dụ từ việc cán bộ ngân hàng giúp doanh nghiệp nâng khống giá đất để được vay vốn nhiều hơn, ông Thanh tuyên bố sẽ ‘bắt ngay những cán bộ ngân hàng “trời ơi” đó. Và “bắt liền chứ không cần phải đợi có bằng chứng chung chi gì hết”; “mấy cái ông đó lãnh đạo kiểu gì? Ông có phải học sinh mẫu giáo đâu, ổng quá trời lãi nhưng vẫn cố tình làm như thế để kiếm chác. Đó là ăn mà còn phá nữa nhưng chả ai nói gì”…
Có chỗ ông nói đúng với khẩu khí, với phong cách từng quen mới ‘từ khoảng trời riêng soi bóng sông Hàn rơi xuống’. Nhưng xem ra, với thể chế, nếp quen không văn bản và các thang bậc cấp ủy trực tiếp chỉ đạo án của ta, làm gì có chuyện “bắt liền chứ không cần phải đợi có bằng chứng chung chi gì hết”. Đừng mơ, thời ông Bao Công bên Tàu cũng săn tìm bằng chứng nát nhừ Chiển Chiêu, liêu xiêu tứ quái ‘Vương Triều, Mã Hán, Trương Long, Triệu Hổ’ mới bắt tội phạm, huống hồ cái lối mà thằng cơ chế đẻ ra ‘có cả rừng luật nhưng làm theo luật rừng’ như ta. Đã nhiều vụ tày đình, chứng cứ rành rành mà không bắt, mà có bắt lại tha, thậm chí dùng trò ảo điều động, cho đi học, hoặc ‘kỷ luật hất lên ghế trên’, làm gì mà dễ dàng “bắt liền” như cái vốn quý khí chất Hòa Vang của ông?
Cho nên, người viết bài này không gì hơn chỉ muốn can gián ông là cứ làm, đừng phát ngôn, phát biểu nhiều, đừng nói nhiều. Người ta thường nói: “Hữu xạ tự nhiên hương, phát sáng do nguồn lửa”, ông cứ làm cho ngon, cho khéo, cho dứt điểm vụ việc đi, nói nhiều và nói mạnh cũng nguy lắm. Một cái lưỡi nhưng lại là con dao hai lưỡi. Có khi lợi bất cập hại, càng thêm nguy. Ví như vụ Tiên Lãng, vụ Ecopark Văn Giang lình xình cả năm rồi đó, rối tinh rối mù, ông cứ mạnh tay và trỗ tài làm sáng tỏ vụ việc, xử lý đúng bản chất vụ việc theo kỷ cương phép nước, là ngon rồi. Coi như Nghị quyết 4 như “thượng phương bảo kiếm” cho ông đấy!
Phút 89 mới là quyết định. Còn như thời điểm này, mới rà bóng vài đường gọi là khởi động, ông đừng vội hô to mà phí sức. Đối phương đang xói vào chân giầy mới cóng của ông đấy. Nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang, bạn thân của ông cũng có sự cảnh báo, tâm sự với ông trên báo Tuổi trẻ: “Nay anh cũng tròn 60 tuổi, tuổi sung mãn của một chính khách như thường thấy ở các nước khác, nhưng ở ta thì anh cũng đang ở “phút 89” như tôi năm nào. Có điều cái thế và lực của anh có khác hơn: ủy viên Trung ương Đảng, trưởng Ban Nội chính trung ương. Với thế và lực vượt trội này, nếu thành công, chỉ vài phút đầu lịch sử thì cái tuổi và nhiệm kỳ công tác của anh sẽ còn “thêm hai hiệp phụ” để dứt điểm cái thế nhùng nhằng với tham nhũng đã thành quốc nạn hiện nay! Tôi hi vọng và kỳ vọng ở anh” …
Ông Lê Đăng Doanh, nguyên thành viên Cố vấn Chính phủ thời Thủ tướng Võ Văn Kiệt, cũng nói: Trong các nhiệm kỳ của ông Thanh: “Đà Nẵng đã liên tục giữ vài trò và trở thành một cực kinh tế hàng thứ ba của Việt Nam”. Và: “Thành phố này đang không ngừng cạnh tranh với Hà Nội và TP Hồ Chí Minh”. Mới đây, trong một phỏng vấn với BBC Việt Ngữ ngày 7/1, nguyên Viện trưởng viện Kinh tế Trung ương, tiến sĩ Lê Đăng Doanh nhận xét rằng việc bổ nhiệm ông Thanh vị trí Trưởng Ban nội chính chứng tỏ sự tín nhiệm của cấp lãnh đạo và cho rằng ông Thanh sẽ “không ngại va chạm” … “Tôi nghĩ đã làm chính trị mà sợ va chạm thì thôi không nên làm nữa. Trên đời chỉ có hai người không phải va chạm gì đó là người đã chết rồi và người mới đẻ ra.” Ông Doanh nói: ”Ông Thanh không phải người như thế”.
Vậy nên, chỉ mong ông đừng vướng vào cái tật mà ngạn ngữ đã đức kết, làm bằng tài năng, trí tuệ, chữ Tâm và nhiêỵ huyết vì dân, vì nước, có vụ phải như cứu nước trong lúc này, đừng bao giờ ‘làm bằng miệng’. Chúc ông tấn tới gặp nhiều thuận lợi, an toàn và thành công!
Theo blog BVB







Hoài cổ
Võ Trung Hiếu
Tự dưng ngồi nhớ ngày xưa
Cái thời đất nước còn chưa giàu – nghèo
Cái thời tình người trong veo
Cái thời mảnh ruộng con heo nuôi người
Cái thời nghèo rách mồng tơi
Nhưng rất ít những chuyện đời trái ngang
Cái thời quan chưa kịp tham
Và dân thời ấy chưa gian chưa liều
Cái thời mà người ta yêu
Không cần phải tốn thật nhiều đô-la
Cái thời hiếu với mẹ cha
Kính thầy yêu bạn, kính bà thương ông
Cái thời tấm áo manh quần
Vá lên vá xuống mà tâm nguyên lành
Cái thời rau đắng nấu canh
Đơn sơ mà đượm thắm tình quê hương
Cái thời thong thả ra đường
Còn chưa có lũ bất lương hoành hành
Cái thời êm ả hoà bình
Đi đâu cũng gặp xông xênh nụ cười
Giá mà đất nước của tôi
Người ta sống được như thời ngày xưa
29.10.2012
VTH
Tác giả gửi cho Quê choa







Trời nào chứng?
MINH DIỆN
- Ăn cướp đất người ta, phá nhà người ta, rồi vu cho người ta giết người! Có trời nào chứng?
Người dân nói với nhau như vậy khi báo đăng tin Viện kiểm sát Tiên Lãng ra cáo trạng truy tố anh em anh Đoàn Văn Vươn tội giết người.
Người dân cả nước đang bất bình vì sự bất công này.
Nhưng hình như tiếng nói cùa dân không lọt tới trên cao? Và hình như cấp trên không ngó tới dân oan, bỏ mặc sự lộng hành của cấp dưới?
Bất kỳ một vụ án nào đều phải xét nguyên nhân gây án, động cơ phạm tội, hành vi phạm tội, và cuối cùng là hậu quả của hành vi phạm tội đó.
Vụ án Tiên Lãng nguyên nhân do đâu?
Nguyên nhân đó bắt đầu từ việc Uỷ ban nhân dân huyện Tiên Lãng, cụ thể là Chủ tịch huyện Lê Văn Hiền được Bí thư huyện ủy Bùi Thế Nghĩa đồng lõa, và cấp trên đồng thuận, ra quyết đinh thu hồi đất của anh Đoàn Văn Vươn. Nếu là một quyết định đúng, chắc chắn anh Đoàn Văn Vươn sẽ chấp hành, và như vậy không có chuyện gì xảy ra. Nhưng đây là một quyết đinh sai, vi phạm khoản 2, điều 174 Bộ luật hình sự (Lợi dụng chức vụ quyền hạn để giao đất, thu hồi đất…trái pháp luật).
Là một quân nhân phục viên, được học hành tử tế, anh Đoàn Văn Vươn thấy cái sai của chính quyền nên làm đơn khiếu nại. Khiếu nại không được anh kiện ra Tòa, hy vọng sự nghiêm minh của pháp luật phán quyết công bằng, như chính sách của đảng, nhà nước quy định. Đoàn Văn Vươn đã thực hiện đúng quy trình pháp luật, với một thái độ bình tĩnh, nhún nhường cùa một nông dân chân chất.
Vì quen thói khinh dân, coi dân như rác, Lê văn Hiền, Bùi Thế Nghĩa và cấp trên của họ, không đoái hoài tới lời kêu oan và nỗi bức xúc của dân. Cái công văn chấp thuận cho thu hồi đất của Chủ tịch thành phố Hải Phòng ký, là lá bùa hộ mệnh cho Hiền, Nghĩa. Tòa án nhân dân huyện Tiên Lãng hùa theo, xử theo chỉ đạo của lãnh đạo, bẻ cong cán cân công lý. Đảng, chính quyền, tòa án từ trên xuống dưới kết bè tráo trở, đổi trắng thay đen lộng giả thành chân, vi phạm pháp luật, dẫm đạp lên dân.
Họ quen thói nhân danh đảng, nhà nước, làm bất kỳ điều gì họ muốn!
Còn dân đã quen coi ý đảng là ý trời, sự nhẫn nhục cam chịu!
Đoàn Văn Vươn là người đầu tiên không còn đủ kiên nhẫn chịu đựng nữa.
Nhưng anh vẫn tôn trọng pháp luật. Anh làm đơn kháng án lên Tòa phúc thẩm đề nghị xem xét lại bản án Tòa án huyện Tiên Lãng đã tuyên. Đó là một bản án oan sai rõ ràng, các thẩm phán đã phải kiểm điểm. Nếu công tâm, Tòa phúc thẩm phải tuyên hủy bản án sơ thẩm, đồng thời buộc Tòa sơ thẩm bồi thường cho anh Đoàn Văn Vươn theo Nghị định 388 của Thủ tướng chính phủ.
Nhưng Tòa phúc thẩm lại dẫm chân lên lối mòn hành dân, mở phiên hòa giải, tạo điều kiện cho Chủ tịch huyện Tiên Lãng lừa dân. Trưởng phòng tài nguyên môi trường, đại diện Uỷ ban nhân dân huyện Tiên Lãng, hứa tiếp tục cho anh Đoàn Văn Vươn thuê đất. Lời hứa của người đại diện chính quyền trước cơ quan pháp luật ai không tin? Anh Đoàn Văn Vươn đã rút đơn kháng án. Thế là hòa giải thành!
Cái ý thức tôn trọng pháp luật và sự thật thà chân chất của anh Đoàn Văn Vươn luôn thể hiện một cách nhất quán.
Anh đâu ngờ phiên hòa giải là cái bẫy chính quyền giăng ra lừa mình? Anh Vươn chất phác, trung thực đâu có ngờ lời hứa ấy lại là của bọn lưu manh chính trị chui vào chính quyên fnhà nước!
Không ở đâu chính quyền lừa dân như thế? Tráo trở với dân đến thế! Họ lật mặt dễ như trở bàn tay! Khi tờ biên bản hòa giải thành chưa ráo mực, Lê Văn Hiền ký lệnh cưỡng chế .
Lê Văn Hiền biến bản án sơ thẩm oan sai, trái pháp luật thành một bản án có hiệu lực, biến tờ biên bản hòa giải thành lừa đảo thành cái mặt nạ che cho anh em y và Bùi Thế Nghĩa!
Với động cơ chiếm đoạt bằng được 20 hec-ta đất đầm nuôi trồng thủy sản của Đoàn Văn Vươn, Lê Văn Hiền và đồng bọn đã không từ bất cứ thủ đoạn nào để đạt được mục đích. Đó là nguyên nhân gây ra vụ án.
Động cơ gây án.
Chính quyền Tiên Lãng không thể cho rằng đây là việc làm vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng như họ đang ngụy tạo, ngụy lý. Cũng không thể vu khống anh Đoàn Văn Vươn trốn thuế, không có công tích gì như bí thư thành ủy Nguyễn Văn Thành rêu rao.
January 12, 2013
LỜI KÊU GỌI ỦNG HỘ SÁCH CHO HỌC SINH XÃ BIỂN NGHÈO
Kính gửi : Các Nhà xuất bản, anh em trí thức văn nghệ sĩ
và những người tâm huyết với thế hệ trẻ
Ngư Thủy Trung là quê hương của Đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy anh hùng thời chống Mỹ. Đây là một vùng quê rất nghèo thuộc huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, vì ngư dân vùng bãi ngang, thu nhập rất thấp. Tất cả các gia đình đều không có sách cho con đọc. Các em đều là con cháu của các nữ pháo thủ anh hùng xưa, đi học mà thiếu sách để đọc, nên nhận thức xã hội rất hạn chế.
Thương các em học sinh vùng biển nghèo, Ngô Minh kêu gọi các nhà nhà xuất bản, các trí thức, văn nghệ sĩ, những người tâm huyết với thế hệ trẻ hãy san sẻ một ít sách trong tủ sách của mình cho Trường PTCS Ngư Thủy Trung xây dựng một thư viện tốt cho các em học sinh vùng biển, để các em có điều kiện tiếp xúc với tri thức và nhân văn nhân loại. Sách có thể là tác phẩm của mình, hoặc sách của tác giả khác mà mình đã đọc, nay chia sẻ lại cho các em. Sách tặng xin gửi về một trong 2 địa chỉ :
- Ngô Minh, 11/73- Phan Bội Châu, Thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. ĐT : 098 5756 355.
- Lê Văn Ninh, Hiệu trưởng trường PTCS Ngư Thủy Trung, xã Ngư Thủy Trung, Lệ Thủy, Quảng Bình. ĐT : 098 388 2203
Tên người ủng hộ và số lượng sách sẽ được công bố công khai định kỳ trên mạng ngoninh.vnweblogs.com và ngominhblog.wordpress.com.
Chúng tôi thiết tha kêu gọi trí thức, văn nghệ sĩ và những người yêu trẻ hãy dành chút ít ưu ái cho các em học sinh ở một xã biển nghèo ở miền Trung. Mong đợi sự nhiệt tình các các anh chị.
Huế, Ngày 15 tháng 1 năm 2013
TRƯỜNG PTCS NGƯ THỦY TRUNG NGƯỜI XIN SÁCH CHO CÁC EM
Trường rất eo hẹp kinh phí, nên kính Nhà thơ Ngô Minh
mong trí thức, văn nghệ sĩ hãy ủng hộ
sách để giúpTrường xây dựng thư viện
tốt cho các em học sinh vùng biển nghèo.
HIỆU TRƯỞNG
( đã ký
LÊ VĂN NINH







Gửi anh Nguyễn Bá Thanh: Phút 89…
Bài viết của ông Nguyễn Minh Nhị, nguyên chủ tich tỉnh an Giang
NQL: Khà khà báo Tuổi trẻ có bài hay!
Tháng 10-2001, nhậm chức chủ tịch ủy ban được bốn tháng, tôi dự cuộc họp Chính phủ có Thủ tướng Phan Văn Khải chủ trì cùng các phó thủ tướng Vũ Khoan, Nguyễn Công Tạn. Với tâm trạng “phút 89” ấy nên khi dự hội nghị, tôi mạnh dạn phát biểu: “Sự trì trệ của bộ máy là do cơ chế tổ chức. Cụ thể là tôi làm chủ tịch tỉnh mà không có quyền thay đổi cán bộ sở, kể cả trưởng phòng. Và ngay như hiện nay, đến Thủ tướng cũng không dễ cách chức được tôi, vì tôi là do tỉnh ủy cử và nhất là do Bộ Chính trị quản lý”.
Tôi theo dõi thái độ Thủ tướng và các phó thủ tướng, ai nấy đều rất vui vẻ. Tôi bước xuống trong sự tán thưởng của hội nghị. Anh Đoàn Mạnh Giao, chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, khi đi ngược chiều với tôi lên để giới thiệu người phát biểu kế tiếp, ngang tôi anh kê vào tai nói: “Ông nói hay quá, tôi thay cậu tài xế mà cũng không được”.
Đến lượt anh Nguyễn Bá Thanh, chủ tịch UBND TP Đà Nẵng: “Tôi thấy đại hội vừa xong, phân công cấp ủy viên mới rồi, hay cơ quan đang ổn định biên chế công tác, bỗng dưng rút người ra đi học. Làm vậy khác nào đội banh có 11 người, ông rút ra một người không đá thì đội hình còn lại làm sao mà đá? Còn nói cách chức cán bộ thì cỡ trưởng phòng thôi, mới bàn mà nó nghe thì nó tính cách chức mình trước rồi”. Hội trường vỗ tay!
Đến phiên anh Út Phương, chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương, phát biểu thì vừa có duyên vừa “văn chương” sinh động ngược với vẻ bề ngoài: “Thơ ông Tố Hữu có câu: Đảng ta có trăm tay (tai) nghìn mắt. Câu này suy ra: Đảng ta có 50 người làm mà có đến 500 người ngồi nhìn thì ai mà dám làm, làm sao chịu nổi?!”. Cả hội trường lại vỗ tay và cười rộ.
Hội nghị Chính phủ tháng 10-2001 trở thành kỷ niệm để đời trong tôi. Và có lẽ đối với Thủ tướng Phan Văn Khải cũng vậy, gặp nhau ông hay nói: “Hội nghị mà có Bảy Nhị, Út Phương, Bá Thanh là vui lắm”. Tại hội nghị Chính phủ tháng 10-2003, khi phát biểu kết luận hội nghị, Thủ tướng nói: “Hội nghị Chính phủ năm sau (2004) chúng ta không nghe được Bảy Nhị và Út Phương phát biểu nữa, sẽ rất buồn, vì hết khóa này hai người không còn làm chủ tịch nữa. Lần họp này xem như Chính phủ chia tay hai người!”. Tự nhiên tôi thấy Thủ tướng trở nên thân tình vì ông hiểu được cán bộ, hiểu được cái khó của cơ chế.
Tôi và anh Út Phương nghỉ hưu từ sau Đại hội X, nay ngót hơn bảy năm, chỉ còn anh Bá Thanh – bí thư Đà Nẵng – tiếp tục công tác, để lại cho Đà Nẵng những dấu ấn và tiếng lành vang cả nước. Nay anh cũng tròn 60 tuổi, tuổi sung mãn của một chính khách như thường thấy ở các nước khác, nhưng ở ta thì anh cũng đang ở “phút 89” như tôi năm nào. Có điều cái thế và lực của anh có khác hơn: ủy viên Trung ương Đảng, trưởng Ban Nội chính trung ương. Với thế và lực vượt trội này, nếu thành công, chỉ vài phút đầu lịch sử thì cái tuổi và nhiệm kỳ công tác của anh sẽ còn “thêm hai hiệp phụ” để dứt điểm cái thế nhùng nhằng với tham nhũng đã thành quốc nạn hiện nay!
Tôi hi vọng và kỳ vọng ở anh, như mấy ngày nay dư luận rộn ràng trên các báo in và báo mạng sau tin anh được Đảng điều về Hà Nội. Những dòng ghi nhớ chuyện vui cũ, vừa là hưởng ứng cùng tình cảm chung của mọi người với anh Bá Thanh, vừa như góp phần phản ánh những chi tiết nhỏ của những lỗi khó sửa mà trên cương vị công tác mới, anh Bá Thanh sẽ gặp như là những vật cản không dễ vượt qua, để các nhà lập pháp nghiên cứu tháo gỡ cho quốc dân nhân sửa Hiến pháp lần này.
(Long Xuyên, ngày 12-1-2013. Viết gửi anh Nguyễn Bá Thanh)







Vì sao con trẻ xuống đồng?

Tay con cắm buốt cõi mê
Cánh diều chao đảo đồng quê tím bầm
Vì sao con trẻ xuống đồng
Vì sao người lớn khóc thầm trong đêm?







Tự thú
Hôm 9 tháng 12 năm 2012, tại Hội nghị Tuyên giáo toàn quốc, ông Hồ Quang Lợi – Trưởng Ban Tuyên giáo của Thành ủy Hà Nội, đề nghị: “Báo chí, truyền thông cần đưa tin chính xác, kịp thời để ngăn chặn kẻ xấu kích động nhân dân. Chủ động đối thoại trong các vụ việc liên quan đến tư tưởng, đường lối, không để họ đối đầu với chính quyền”.
Đúng một thàng sau, ngày 9 tháng 1 năm 2013, trong một Hội nghị Tuyên giáo tòan quốc khác, ông Đỗ Qúy Doãn – Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, tiếp tục đề nghị: “Cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho báo chí, dù đó là thông tin nhạy cảm”.
Như vậy là chỉ trong một tháng, Đảng tổ chức tới hai Hội nghị Tuyên giáo toàn quốc. Ở hội nghị nào, chuyện cung cấp thông tin chính xác, đưa tin kịp thời, chủ động đối thoại cũng được đặt lên hàng đầu và được xem là trọng tâm.
1.
Nói láo (cung cấp thông tin sai sự thật), lừa gạt (giấu diếm thông tin) và khinh miệt dân chúng (không thèm, ngăn cấm đối thoại), vốn là “chủ trương lớn” của Đảng. Chủ trương này đã và đang bị những người Việt dùng Internet vô hiệu hóa.
Hồi đầu, khi phải đối diện với những người mạnh dạn nói những điều họ biết, chia sẻ những điều họ nghĩ, vì lợi ích chung của cả quốc gia lẫn dân tộc, đề nghị đừng làm như thế này và nên làm như thế kia, Đảng gọi họ là “kẻ xấu” là “thế lực thù địch, phản động, do hận thù mà trở thành mù quáng, chống lại lợi ích của Đảng, của nhân dân”.
Lúc “kẻ xấu” càng ngày càng nhiều và không ít “kẻ xấu” là lão thành cách mạng, cán bộ có nhiều công lao, từng hoặc đang được tin cậy, trọng dụng, Đảng gọi họ là “những phần tử bất mãn, cơ hội bị các thế lực thù địch, phản động lôi kéo, kích động”.
Bất kể Đảng gọi thế nào, hăm dọa và trừng phạt nhằm “răn đe” ra sao thì số lượng “kẻ xấu” vẫn tăng vùn vụt. Những thông tin, suy nghĩ mà “kẻ xấu” chia sẻ với mọi người không chỉ ảnh hưởng trên dân chúng mà còn tác động đến cả cán bộ, đảng viên các ngành, các cấp. Mức độ tác động càng ngày càng lớn nên bây giờ, ngoài chuyện chống “kẻ xấu”, Đảng phải chống cả nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
18 tháng trước, các diễn đàn điện tử, các trang web, blog cá nhân còn bị miệt thị là “luồng gió độc”, “rác rưởi” trên Internet nhưng lúc này, qua tường thuật và trả lời phỏng vấn của tờ Lao Động (số ra các ngày 9 và 10 tháng 1 năm 2013), ông Đỗ Qúy Doãn – Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông – đã thừa nhận, “truyền thông xã hội” (một cách khác để gọi các diễn đàn điện tử, các trang web, blog cá nhân), không chỉ phủ nhận, mà còn đang loại bỏ vai trò của hệ thống truyền thông chính thống, tạo ra hiện trạng “thông tin lưu truyền trong xã hội là thông tin từ blog cá nhân”.
Ưu tư của ông Doãn về hiện tượng “lên tiếng đồng loạt, im lặng đồng loạt”, đề nghị của ông Doãn: “Cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho báo chí, dù đó là thông tin nhạy cảm”, ước vọng của ông Doãn: “Cho báo chí có quyền bình luận để định hướng dư luận xã hội”… gián tiếp chỉ ra rằng, đã đến lúc, Đảng không nên và không thể lấy chuyện nói láo (cung cấp thông tin sai sự thật), lừa gạt (giấu diếm thông tin) và khinh miệt dân chúng (không thèm, ngăn cấm đối thoại) làm “chủ trương lớn” được nữa.
2.
Một người được Đảng tin cậy, lựa chọn, sắp đặt để đảm nhiệm vai trò Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông như ông Đỗ Qúy Doãn, hẳn phải rất “vững vàng về tư tưởng” và rất “kiên định về lập trường”. Tuy nhiên, thử đối chiếu những ý kiến mà ông Đỗ Qúy Doãn phát biểu hồi đầu tháng giêng năm nay, với những tuyên bố cũng của chính ông cách nay vài năm thì hóa ra, ông Doãn cũng đang… “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Hôm 21 tháng 6 năm 2009, khi tham gia đối thoại trực tiếp với khán giả Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC, độc giả VTC News, VietNamNet, ICT News, mic.gov.vn… về chủ đề “Quản lý báo chí”, nhân ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, ông Doãn đã bảo như thế này: “Báo chí bao giờ cũng là một lực lượng làm công tác tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể”. Bây giờ, dưới tác động của “truyền thông xã hội”, đối tượng từng bị miệt thị là “luồng gió độc”, “rác rưởi” trên Internet, ông Dõan nhận định, hiện tượng “lên tiếng đồng loạt, im lặng đồng loạt” của hệ thống truyền thông do Đảng lãnh đạo đang “đánh mất niềm tin của bạn đọc”.
Tương tự, năm 2009, trong buổi đối thoại vừa dẫn, ông Doãn rất tự tin khi khẳng định: “Ưu điểm lớn nhất của báo chí chúng ta hiện nay là nội dung phong phú, đa dạng và toàn diện. Tính chuyên nghiệp của báo chí ngày càng được nâng lên, nắm bắt được những vấn đề mới mà công chúng quan tâm. Báo chí chúng ta hiện nay cũng đã làm tốt những đợt tập trung tuyên truyền trọng điểm về những chủ trương, chính sách của Nhà nước và đạt được những hiệu quả lớn”. Bây giờ, cũng dưới tác động của “truyền thông xã hội”, ông Doãn nêu thắc mắc: “Tại sao chúng ta có một hệ thống hơn 700 tờ báo, 67 đài phát thanh truyền hình, hàng trăm trang tin, báo điện tử, hàng ngàn trang tin của các bộ ngành. Có tới 17.000 nhà báo, trong đó có nhiều cây bút có đủ khả năng làm lay động bạn đọc mà thông tin lưu truyền trong xã hội lại là thông tin từ blog cá nhân?”.
Nếu năm 2009, trả lời thắc mắc về “quy hoạch báo chí”, ông Doãn còn thản nhiên tuyên bố, nguyên văn như vầy: “Quy hoạch của chúng ta là tốt, có nghĩa là xác định rõ được chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan báo chí và cũng hạn chế được những tờ báo không có chức năng cung cấp thông tin, điều đó sẽ góp phần hạn chế được những vi phạm trong quản lý báo chí”, thì bây giờ, sau khi quan sát, đối chiếu thực tế, ông Doãn nhận ra: “Nếu thông tin báo chí đầy đủ thì vấn đề định hướng dư luận, về những vấn đề mà xã hội quan tâm chắc chắn sẽ rất thuận lợi”.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vốn dĩ là quy luật, hiện hữu trong quá trình tiến hóa của nhân loại và thúc đẩy xã hội loại người văn minh, tiến bộ hơn trước đó. Đã là quy luật thì không thể chống nhưng chẳng hiểu tại sao, lãnh đạo Đảng vẫn nhất định phải chống cho bằng được, kể cả sau khi đã học và bắt nhiều người cùng học “duy vật biện chứng”, “duy vật lịch sử”.
Tội nghiệp Karl Marx, đáng thương cho Friedrich Engels, sau khi đã bị mang ra bán sỉ trên toàn cầu, nay tiếp tục được mời chào, bán lẻ rộng rãi tại Việt Nam!
3.
Trở lại với Hội nghị Tuyên giáo toàn quốc được tổ chức hồi cuối năm ngoái và chuyện ông Hồ Quang Lợi – Trưởng Ban Tuyên giáo của Thành ủy Hà Nội, loan báo: Hà Nội đã thành lập một đội “Tuyên truyền miệng” với 900 thành viên. Tổ chức một “nhóm chuyên gia” đấu tranh trực diện trên mạng Internet, tham gia bút chiến trên Internet, mở hơn 400 tài khoản trên mạng. Các tờ báo của Hà Nội cũng đã thành lập tổ “Phóng viên bấm nút” phản ứng nhanh…
Tuyên bố của ông Hồ Quang Lợi khiến mình nảy ra vài thắc mắc:
900 thành viên của đội “Tuyên truyền miệng”, nhóm “chuyên gia đấu tranh trực diện – tham gia bút chiến trên mạng Internet”, rồi các tổ “Phóng viên bấm nút” của Hà Nội sẽ nói những gì và nói với ai?
Họ có thể nói khác những điều mà các ông Nguyễn Thế Kỷ (Phó Ban Tuyên giáo Trung ương), Trần Đăng Thanh (Phó Gíáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú, Giảng viên Học viện Chính trị – Bộ Quốc phòng), Nguyễn Thế Bình (Trung tướng, Phó Giáo sư, Tiến sĩ) đã nói hay không? Chắc là không! Còn nếu họ chỉ nói những điều mà các ông này – những chuyên gia cao cấp về “tuyên truyền miệng”, “đấu tranh trực diện, tham gia bút chiến trên mạng Internet” – đã nói, đã viết thì tốt nhất là đừng nói, đừng viết gì thì hơn. Nói hoặc viết như thế chẳng khác gì “bấm nút”, kích động công chúng phẫn nộ hơn. Lợi bất cập hại.
Mình cũng mong ông Lợi lưu ý thêm là ông Kỷ, ông Thanh chỉ nói chuyện với cán bộ, đảng viên đã được lựa chọn kỹ càng, chứ không phải nói với dân, mà “thân vẫn bại, danh vẫn liệt” đấy! Tuy ông Kỷ chỉ “tuyên truyền miệng” với lãnh đạo các cơ quan truyền thông, ông Thanh chỉ “tuyên truyền miệng” với lãnh đạo đảng, lãnh đạo các đoàn thể của khối các trường Đại học – Cao đẳng ở Hà Nội nhưng người nghe, dù “đồng đảng” vẫn không “đồng tình”. Không đồng tình nên người ta mới ghi âm, nhờ công bố để cho bàn dân thiên hạ tỏ tường các ông ấy ngu như thế nào và láo ra sao.
Không nói thật, làm đúng, chỉ lăm le dối gạt, vẫn nuôi ý định dùng bạo lực để cưỡng buộc mọi người nghĩ theo, nói theo, làm theo thì không còn và chẳng bao giờ có “đồng chí” thật sự đâu.







Đọc toàn bộ Bên Thắng Cuộc: “Sự Thật sẽ giải phóng con người”
TS Đinh Xuân Quân
LTS: TS Đinh Xuân Quân là một kinh tế gia về phát triển và tổ chức cơ chế (governance). Ông đã sống tại Việt Nam sau 1975, đã bị tù cải tạo, vượt biển tìm tự do. Và đặc biệt đã có dịp về làm việc tại Việt Nam trong chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP) nhằm giúp cải tổ hành chánh và kinh tế từ năm 1994 đến 1997. Đó là một dịp rất tốt để Ts Quân hiểu bối cảnh và tư duy của lãnh đạo CSVN vào lúc đó. Trước 1975 ông làm cho Quỹ Phát Triển Kinh Tế Quốc Gia và tham gia vào Nhóm kinh tế hậu chiến thuộc Bộ Kế Hoạch của VNCH. Ông là GS Kinh tế tại Đại Học Luật và ĐH Minh Đức. Cho đến nay ông đã làm chuyên gia cố vấn cho trên 20 nước trên thế giới, kể cả gần đây làm cố vấn kinh tế – hành chính cho Phủ TT Iraq và Phó TT tại Afghanistan dưới sự bảo trợ của World Bank, UNDP và USAID. Ông cũng tiếp tục làm GS tại nhiều ĐH mà ông có nhiệm sở.
Thời gian qua đã có nhiều nhận xét khen và chê về quyển 1 “Bên Thắng Cuộc”. Có một số bài hay, ví dụ bài của Vũ Ánh, một nhà báo lão thành từ thời VNCH; hay bài của Đồng Phụng Việt phổ biến trên mạng gần đây. Đây là những tác giả có cái nhìn hiểu biết và đứng đắn, không có tính cách a dua của một số người bị khích động bởi tình cảm cực đoan hay vì những động lực riêng tư.
Chúng tôi nghĩ rằng ta cần biết lịch sử cận đại VN, nhất là quá trình “Đổi Mới” kinh tế từ bên trong và “những cơ hội bỏ lỡ” trong quá trình này. Ngày nay bao nhiêu tài liệu được giải mật về phía Mỹ đã cho thấy những bước đi chiến thuật và chiến lược của Mỹ và của VNCH, nhưng ít ai biết về các sự kiện hay các suy nghĩ về nhiều khía cạnh khác nhau của miền Bắc trong thời gian đó. “Bên Thắng Cuộc” đã cho thấy bao nhiêu dữ kiện lịch sử cận đại Việt Nam khi tác giả cố gắng có cái nhìn cân bằng, trung thực, mặc dù không phân tích. Đây là một sự cố ý của tác giả Huy Đức, khéo léo bày ra một bữa cỗ đầy sự kiện, đầy thông tin về quy trình lấy các quyết định (government and party decisions) ảnh hưởng đến tương lai Việt Nam, và dành sự đánh giá cho độc giả về những gì đã xẩy ra trên mảnh đất chữ S sau 1975. Quyển sách này sẽ là một “mỏ tài liệu” vừa quý giá vừa rất thích thú cho các học giả, các nhà khảo cứu, các chuyên gia hành chính công (về quy trình quản lý việc thay đổi – management of change), và nhất là các chuyên gia ngoại giao thế giới tìm hiểu và nghiên cứu về Việt Nam.
Quyển 1 có 3 chương (chương 3, 9 và 10) và quyển 2 cũng có 3 chương (14, 17 và 22) có chủ đề về kinh tế. Quyển 1 trình bày “quy trình phá hoại kinh tế miền Nam” qua việc áp đặt một cách máy móc guồng máy “tập trung bao cấp” vào kinh tế (xin xem bài trên Diễn Đàn Thế Kỷ: http://www.diendantheky.net.) [Các “Chiến dịch “Đánh tư sản” -“Chiến dịch X-2”, việc đổi tiền (X-3), việc đánh“Gian thương” hay việc “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh.”] Hậu quả các chính sách kinh tế “tập trung bao cấp” là cuộc sống của những người dân trở nên trăm bề khó khăn.
Tác giả kể lại một cách bình thản một số sự kiện đã đưa đến sự phá hoại kinh tế miền Nam qua việc các chính sách “XHCN” được áp dụng một cách máy móc – nếu không nói là mù quáng trong chủ trương cải tạo công thương nghiệp tại miền Nam. Sau đó là phải tìm các giải pháp giải quyết khó khăn kinh tế qua các vụ xé rào.
Quyển 2 nói về “quy trình sửa đổi – tranh cãi về kinh tế thị trường” mà rốt cuộc là theo “kinh tế thị trường theo định hướng XHCN”. Một cuộc Đổi Mới nửa vời mà tai hại còn kéo đến bây giờ, năm 2013.
Chương 14 kể lại quá trình lựa chọn trong tập thể Bộ Chính Trị về việc cải tạo kinh tế đi từ chỗ “cởi trói” các trạm kiểm soát trên cả nước. “Theo nhận thức của những người cộng sản, đánh đổ giai cấp tư sản là bước đi tất yếu, là nhiệm vụ của “cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”. Khi đối đầu với thực tế ĐCSVN phải tìm cách giải quyết, nhưng tư duy lãnh đạo vẫn coi trọng ý thức hệ – cố “bám vào XHCN”. Nhờ vậy khi giới lãnh đạo đi tìm giải pháp, lần đầu tiên người ta thấy các chuyên gia được tham khảo ý kiến. Nó cũng cho thấy tại sao các chính sách về nông nghiệp đã thất bại và phải “cởi trói”cho nông dân qua nghị quyết 10.
Chương 16 nói về Đa Nguyên kể lại quá trình tranh đấu trong nội bộ về “đa nguyên đa đảng” trong bối cảnh các thay đổi tại Đông Âu, Nga và Trung Quốc, các sự kiện đã khiến ông Nguyễn Văn Linh (NVL) tháo lui trong tiến trình cải cách. Chuyến thăm Gorbachev và thời gian nằm nhà thương tại Đông Đức đã làm cho NVL sợ, khi trở về nước đã siết lại báo chí; cách chức Trần Xuân Bách một nhà chính trị nói công khai về đa nguyên trong đảng; bắt Dương Thu Hương và những người bất đồng chính kiến khác. Các tranh chấp tư tưởng – trong đó có nhiều vận động “cởi mở” của Trần Xuân Bách làm cho NVL lo lắng. Ý của ông Trần xuân Bách là 1) Cần mạnh dạn thực hành chính sách kinh tế theo kiểu chính sách kinh tế mới của Lenin (gọi là kinh tế thị trường với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế; 2) Theo “kinh tế định luận” của Marx thì một khi đã đa nguyên kinh tế thì tất yếu sẽ dẫn đến đa nguyên chính trị, và 3) Thị trường và đa nguyên là những thành tựu của nhân loại. Ông Trần Xuân Bách vì muốn thay đổi quá sớm cho nên bị kỷ luật [điều chú ý trong XHCN khi chồng bị “hạ bệ” thì vợ cũng phải chịu trăm điều nhục – bị hạ tầng công tác, cho ra vỉa he giữ xe ngoài cửa cơ quan, đi làm giúp việc...].
Chương 17 nói về những bước đường đi đến Thị trường, trong đó có cả việc thương thuyết giữa Mỹ và VN về chương trình HO giúp cho hơn 380,000 cựu quân nhân cán chính VNCH sang Mỹ, mà chuyến đi đầu tiên vào ngày 13/1/1990 sau bao nhiêu vận động. Chương này đề cập con đường dài đi từ tình trạng khép kín đến chỗ cởi mở hơn, từ việc in lịch hoa hậu VN cho đến “xì-căn-đan” Thanh Hương mà chúng ta gọi là “pyramid scheme” làm chấn động Việt Nam, cho đến phong trào học tiếng Anh. Sau đó là những thành tựu đầu tiên của việc đoạn tuyệt với nền “kinh tế bao cấp”. Kinh doanh tư nhân dần dần được cho phép, và trong thời gian này người ta chứng kiến vai trò ngày càng nổi bật của UNDP, của các cơ quan quốc tế giúp Việt Nam mở cửa qua việc gởi nhiều sinh viên đi du học, các phái đoàn tham quan nước ngoài, những dự án “tăng trưởng quản lý kinh tế,” v.v…
Quyển sách cũng cho thấy đời tư của một số lãnh đạo CSVN. Sách đưa ra những dữ kiện về con người của Lê Duẩn, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu, Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng, vv., những người có ảnh hưởng đến các quyết định về tương lai Việt Nam. Nó cho thấy Đảng Cộng Sản là một tổ chức được quản lý bởi một số người rất nhỏ, rất quyết đoán và hầu như không cần đếm xỉa gì đến khía cạnh chuyên môn. Hậu quả là đảng đã phạm các lỗi lầm do sự kém hiểu biết của họ về thế giới bên ngoài, đã mang lại biết bao nhiêu tai họa cho Việt Nam. Sách thuật lại trong cuộc gặp TBT NVL và Đỗ Mười (1989) thì ông Linh nói “Mất chủ nghĩa xã hội tới nơi rồi còn nói về thành tích.” Việc này cho thấy các lãnh đạo còn rất quyết đoán theo quán tính, chưa thoát khỏi não trạng ý thức hệ. Trong một dịp khác, sách này thuật lại các cuộc gặp gỡ giữa Lê Khả Phiêu và Giang Trạch Dân (1999) và trách nhiệm trong việc thảo thuận về thác Bản Giốc, Hữu Nghị Quan, Bãi Túc Lãm và điểm cao 1509. Ngoài ra hai bên còn nói về Biển Đông. Trong cuộc gặp này Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm bị bỏ rơi. Theo ông Nguyễn Văn An thì “Đảng ta sai lầm về cán bộ rất nhiều”. Ngay từ Đại Hội VI chọn ông Nguyễn Văn Linh là không đúng – ông không phải là người đổi mới. Ông Linh chọn ông Đỗ Mười cũng không đúng. Ông Mười chọn ông Lê Khả Phiêu cũng không đúng và đến khi chọn ông Nông Đức Mạnh thì quá sai. Về sau ông Nguyễn Văn An nhận ra vấn đề của ĐCSVN là “lỗi hệ thống.”
Nói về các “lãnh đạo tù nhân ý thức hệ” thì ngay phần mở đầu sách, tác giả đã cho thấy nhiều người trí thức trong guồng máy lãnh đạo thấy vấn đề, có thiện chí, cố gắng tìm các giải pháp khi đất nước bế tắc. Nói về chuyên môn hành chính thì “cách quản lý đóng” của ĐCSVN dựa trên người “đỏ hơn chuyên” đã mang tai hại cho đất nước và sẽ khó chữa vì dân chúng không được tham gia đóng góp ý kiến vào các quyếtđịnh.
Chương 21 quyển sách nói về quy trình thương thuyết – bở lỡ mất cơ hội sớm ký BTA và vào WTO trước Trung Quốc. Bill Clinton đã gặp lãnh đạo VN và sẵn sàng ký từ 1999 trong khi vì “bị lệ thuộc vào 16 chữ vàng” cho nên mãi đến 2006 Việt Nam mới gia nhập WTO. Cuộc trao đổi giữa Bill Clinton và ông Lê Khả Phiêu cũng đầy thú vị – như là một cuộc nói chuyện giữa người trên cung trăng. Quá trình trao đổi giữa các lãnh đạo – bộ ngoại giao, BCT cho thấy nhiều việc hỏng hay bị bỏ lỡ chỉ vì lãnh đạo Việt Nam “mù quáng – nô lệ về tư duy”, vẫn tưởng anh em XHCN Trung Quốc tốt với mình. Dựa vào thông tin của Tổng cục II nói Trung Quốc “sẽ phản ứng rất xấu” nếu VN ký Hiệp định thương mại. Trong khi Việt Nam không hiểu tầm quan trọng của giao dịch quốc tế thì Trung Quốc đã tận dụng tình trạng thụ động vụng về của kẻ đàn em để vào WTO sớm hơn. Nhiều người hiểu biết (thường thường thuộc Bộ Ngoại Giao vì có dịp tiếp xúc nhiều với bên ngoài) đã tỏ ra “tiếc đứt ruột.” [Đọc đến đoạn này người viết cảm thấy rất thấm thía, vì nhớ đến kinh nghiệm của bản thân khi được UNDP đưa vào làm việc giúp Việt Nam cải cách Hành chính và tân tiến hóa guồng máy chính quyền: lúc đó VN hoàn toàn có thể qua mặt TQ để vào WTO sớm, nhưng lãnh đạo VN cứ chần chờ không dám quyết định. Lúc đó người viết không biết là Việt Nam đã bị “16 chữ vàng” chi phối, đã bị chiếc “cùm tư tưởng” của TQ tròng vào đầu rồi!]
Trong một bài viết cho viện ISEAS – đại học Singapore xuất bản, chúng tôi đã chứng minh là đến 1972, không ai của “nhóm đỉnh cao trí tuệ”của Bộ Chính Trị tại Việt Nam có một mảnh bằng Đại Học. Hậu quả là việc quản lý yếu kém – các lãnh đạo có “Mác xít nhưng trình độ quá thấp” [đỏ hơn chuyên]. Tình trạng này đã mang nhiều tai hại trong việc quản lý đất nước, nhất là về kinh tế, đặc biệt từ khi có “16 chữ vàng” với Trung Quốc” thì mọi việc hầu như bị TQ kiểm soát. Tác giả Huy Đức cho thấy là Việt Nam đã bỏ lỡ quá nhiều cơ hội tốt để Đổi mới tư duy kinh tế – mang đất nước tiến đến giàu mạnh vì lãnh đạo không có tầm nhìn (vision), ít học, mà bị “tư duy lỗi thời kiềm kẹp” (Xem chương 21).
Chương 22 nói Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa sau những bước đi đến Thị trường. GS Đoàn Xuân Sâm hỏi ông Đỗ Mười: “Anh làm thủTướng có 60 triệu dân hay chỉ cho 6 triệu cán bộ quốc doanh… Quốc Hội bầu anh lên đứng đầu chính phủ để lo cho toàn dân đâu phải cho lo cho mấy triệu công nhân quốc doanh.” Đỗ Mười nói “Các anh tìm cho tôi phương án cứu quốc doanh” đó cũng là một lệnh của NVL. Tại Đại Hội giữa nhiệm kỳ của đảng 1994, ông Đỗ Mười đọc diễn văn về 4 nguy cơ: tụt hậu, chệch hướng, tham nhũng và diễn tiến hòa bình. Cái đuôi “định hướng XHCN” được gắn vào kinh tế thị trường phản ánh “tương quan lực lượng” giữa hai sự việc trước đây xem ra không thể sống chung với nhau, là thị trường tự do và chủ nghĩa xã hội. Nói tóm ông Đỗ Mười còn có ảnh hưởng quyết định trong việc duy trì vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước. Nhiều đoàn Việt Nam đã đi tham quan nhiều nơi, trong đó có Singapore. Sau hơn hai thập niên đổi mới, so với các quốc gia mà giữa thập niên 1950 từng có mức độ phát triển tương đương, Việt Nam vẫn tụt hậu hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm so với họ. Nhớ thời kỳ câu khẩu hiệu “cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên XHCN” được hô hào mạnh nhất thì đó cũng đúng là thời điểm Việt Nam nhanh chóng trở thành một quốc gia kiệt quệ, dân chúng lầm than, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi.
Hai quyển Bên Thắng Cuộc 1 & 2 nói lên được cái thâm ý của tác giả. Huy Đức bộc bạch: “Tôi không nghĩ là mình nằm trong phạm vi điều chỉnh các qui định đó. Tôi ý thức được những việc gì mình đang làm. Sự thật không chỉ giúp chúng ta tìm ra những phương thuốc đúng để chữa lành các vết thương cũ mà còn giúp những người đang nắm vận mệnh quốc gia không vi phạm những sai lầm mới. Không ai muốn hứng chịu những điều không hay nhưng nếu cứ trú ngụ trong sự sợ hãi thì sự thật sẽ không bao giờ được nói ra, bạn ạ!” Việt Nam XHCN lúc nào cũng tìm cách “lấp liếm” khi nói chuyện với dân và lúc nào cũng bưng bít thông tin. Huy Đức đã cố nói lên sự thật mà đa số người dân trong nước không biết, như chính vì các chính sách “duy ý chí” mà ĐCSVN đã phá nền kinh tế miền Nam, làm nghèo và bóc lột dân chúng qua những vụ đổi tiền, tranh cãi trong nội bộ về quy trình cải cách kinh tế và chính trị để cứu vãn tình thế, vụ Tết Mậu Thân, cần tiếp tục cải cách, đổi mới kinh tế và chính trị.
Theo chúng tôi, quyển sách này nói lên mục tiêu sâu xa của tác giả, là: “The Truth will set you free – Sự thật sẽ giải phóng cho con người”. Sống mãi trong sự dối trá, tinh thần con người được cấu tạo bởi toàn cái giả. Khi biết được Sự Thật, người ta được giải phóng ra khỏi khối sương mù giả dối. Quyển sách Bên Thắng Cuộc nhằm mang lại sự thật cho dân Việt Nam, nhất là khối dân đang ở trong nước, hằng ngày vẫn đọc vẫn nghe 800 tờ báo và các loại đài, nhưng tất cả đều đồng ca một điệu, vì được điều khiển chỉ bởi một tổng biên tập, là đảng CSVN. Trong lời mở đầu Huy Đức có nói “… chính những người cộng sản cũng không có điều kiện để hiểu những gì Đảng đã mang đến cho đất nước này. Những người cộng sản có lương tri chắc chắn sẽ đón nhận sự thật một cách có trách nhiệm. Không ai có thể đi đến tương lai một cách thành công nếu không hiểu trung thực về quá khứ.” Ngụ ý quyển sách cho thấy các giá trị như nhân quyền, tự do về tư tưởng và văn hóa, tự do tín ngưỡng, ngôn luận, cư trú và về kinh tế v.v. (những đặc điểm của nền tảng cho chế độ miền Nam) ngày càng là các đòi hỏi bức thiết của mọi tầng lớp dân chúng Việt Nam.
Quyển sách cần được đọc nhiều lần vì nó giúp người đọc có một cái nhìn về chính trường – XHCN nhất là sau tháng 4 năm 1975. Người Việt Nam có thể nhìn một cách bao quát và hiểu rõ hơn về những chuyện đã xẩy ra mà “nhà nước” không muốn họ nghe hay hiểu.
Người đọc quyển sách này tin rằng “The truth will set you free – Sự thật sẽ giải phóng bạn” là mục đích của tác giả Huy Đức và điều này sẽ mang nhiều thay đổi tích cực cho VN vì họ có thể đánh giá lịch sử cận đại với một các nhìn tổng quát mà ĐCSVN không muốn họ thấy. Quyển sách này sẽ giúp hai phe (thắng và thua, nói tóm là dân VN) tái khẳng định sự thật qua những việc đã xẩy ra từ 1975 đến nay. Vì mù quáng hay ngây thơ theo một chủ nghĩa mà VN đã phải trải qua bao vấn nạn, bao khó khăn, một kinh tế thịnh vượng miền Nam bị phá hủy hoàn toàn chỉ vì … “quá ngu xuẩn vì duy ý chí.”
Sống trong lòng chế độ ở Việt Nam mà đề cập tới các sự kiện viết trong quyển sách này là một điều khó khăn và là mối đe dọa cho cá nhân Huy Đức. Tác giả, dù được đào tạo trong một thể chế độc tài, đã tự vượt ra khỏi đủ loại trói buộc để dũng cảm nói lên các ưu tư chân thật về những vấn đề của đất nước. Điều đó cho thấy sự đè nén và dối trá không thể nào đày ải con người lâu dài mãi mãi, phải có lúc ý thức và lương tri bùng lên để cất tiếng nói trung thực của mình.
Mong là qua quyển sách này sẽ có sự tái xác định về XHCN và mạnh mẽ tiếp tục “Đổi Mới” theo kinh tế thị trường, nhà nước đối sử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế, chấm dứt việc ưu đãi quốc doanh thối nát kém hiệu quả, và những nhóm tư bản bè phái (crony capitalism). Phải có quyền bình đẳng kinh tế trong việc sở hữu các phương tiện sản xuất, nhất là đất đai (nói là do dân làm chủ tập thể đất nhưng các quan trong bộ máy nhà nước được giữ quyền quản lý, đòi lại đất từ người nông dân bất cứ lúc nào. Việc này tạo ra nạn tham ô, oán hận và phản đối kéo dài).
Văn hào Nga Alexander Solzhenitsyn đã nói trong diễn văn nhận giải Nobel Văn Chương của ông: “Một lời nói của sự thật có trọng lượng hơn cả trái đất. One word of truth shall outweigh the whole world”.
Với Sự Thật, dân ta sẽ được giải phóng. Quyển sách này, như một bước mở đầu, đang làm công việc đó.







Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
