Nguyễn Quang Lập's Blog, page 99
January 18, 2013
Hà Nội nhanh tay ra đòn trước
Dân Choa
NQL: Hôm nay mình đang ngồi nhậu với Trần Kỳ Trung thì má của TKT gọi điện vào, nói mày nói với thằng Thanh thôi về, về Đà Nẵng có dân đùm bọc, ở ngoải không có dân đâu. Má TKT 82 tuổi, 65 tuổi Đảng, nguyên là bí thư đảng ủy Ty thương nghiệp Quảng Nam- Đà Nẵng.
Hôm qua báo chí chính thống lại rầm rộ đưa tin chính phủ quyết định công bố công tác thanh tra về Đà Nẵng. Các Tít báo chạy hàng đầu: Đà Nẵng sai phạm lớn trong lĩnh vực đất đai.
Kinh, cú đòn tuyệt chiêu của Hà Nội phải nói là hiểm độc đối với Đà Nẵng, mà trước tiên là đối với ông Bá Thanh.
Từ trước đến giờ chưa có một sai phạm ở phạm vi địa phương nào mà được thanh tra chính phủ cho công bố rành mạch như thế cả. Chưa hết, trong kết luận thanh tra còn kiến nghị xử lý ngay bộ máy hành chính Đà Nẵng và Thủ tướng cũng chấp nhận ngay lập tức. Hơn nữa Thủ tướng còn đề nghị bộ công an vào cuộc.
Ai cũng thừa biết biết Đà Nẵng đi lên là nhờ vào chính sách thu hút đầu tư qua chính sách ưu đãi đất đai và cung cách làm việc khá thoáng của bộ máy hành chính. Như thế nó đã tạo điểm mạnh cho Đà Nẵng, nhưng lại có vẻ trái ngược với cung cách hiện hành về chính sách ở khắp cả nước. Sự nổi trội của Đà Nẵng đã làm lu mờ nhiều địa phương khác. Điều đó gây ra không ít sự ganh tỵ trong giới lãnh đạo và quá khứ cũng đã âm ỉ mưu đồ tìm cái sai về chính sách của Đà Nẵng, mà cụ thể là người đứng đầu Nguyễn Bá Thanh.
Đà Nẵng là một thành phố trực thuộc trung ương. Mọi hoạt động ở Đà Nẵng đều chịu sự chi phối của Hà Nội. Đà Nẵng phải báo cáo hoạt động của mình hàng năm với Hà Nội. Thanh tra chính phủ hàng năm đều triển khai công tác thanh tra của mình ở Đà Nẵng. Nếu Thanh tra chính phủ cho rằng Đà Nẵng làm trái chính sách từ năm 2003 cho đến 2011 ( hoặc là cho đến nay) thì trong cả một thời gian dài tại sao thanh tra chính phủ không có ý kiến gì. Tại sao đến thời điểm này, khi ông Nguyễn Bá Thanh ra Hà Nội làm trưởng Ban nội chính mới công bố.
Thanh tra cho công bố, con số tiền mà nhà nước bị thiệt vì chính sách của Đà Nẵng là 3400 tỉ vnđ . Đối với một cá nhân hay một doanh nghiệp thì đó là một con số khổng lồ. Nhưng đối với một địa phương lớn trong cả một quá trình dài từ năm 2003 đến 2011 thì không lớn, vì địa phương này có GDP hàng năm là 10 400 tỉ, mức thu nhập đầu người hàng năm chừng 33 triệu vnđ. Cái thiệt của Nhà nước ( nếu thực sự như báo cáo Thanh tra) so với cái được của Đà Nẵng ( cũng là Nhà nước)ngày nay là quá bé. Thanh tra chính phủ không chỉ ra được hiện tượng tham ô hay tham nhũng của cá nhân hay của tập thể lãnh đạo cụ thể mà chỉ vin vào chính sách ưu đãi của Đà Nẵng trái với quy định chung của Chính phủ để cho rằng Nhà nước thiệt 3 400 tỉ đồng.
Cái sai của Đà Nẵng cả một thời gian dài chắc chắn có dựa trên cơ sở lách luật chung của Nhà nước như ở bất cứ địa phương nào. Điểm này chính là tạo cơ sở cho địa phương „ vượt rào“. Nhưng nếu mọi hòa đồng thì Hà Nội có thể làm ngơ cho địa phương, còn địa phương tỏ ý qua mặt trung ương thì Hà Nội sẽ sẵn sàng vào cuộc, lôi những điều sai phạm đặt lên bàn làm việc.
Đọc câu chữ của văn bản thanh tra người ta dễ nhận thấy rằng, Thanh tra chính phủ không phủ nhận lời khen của dư luận đối với Đà Nẵng, nhưng Thanh tra quy kết nặng nề khuyết điểm lớn của Đà Nẵng như vậy khác nào bảo Đà Nẵng cũng có tình trạng tham ô, tham nhũng lớn chứ không trong sạch như người ta lầm tưởng.
Một vụ sai phạm lớn, có thể là lớn hơn rất nhiều so với Đà Nẵng, đấy là vụ sai phạm ở tập đoàn dầu khí Việt Nam trong năm qua. Thanh tra vào cuộc cũng đã chỉ ra các con số khổng lồ về kinh tế. Thế nhưng việc đâu lại vào đấy, câu chữ được chuyển sang „ có sai phạm nhưng không có thất thoát“ và người ta không có ý định truy trách nhiệm của người đứng đầu. Vì người đứng đầu đang tại vị trong nội các ở Hà Nội, có nghĩa là cùng hội cùng thuyền.
Khác với ông Thăng họ Đinh, ông Thanh họ Nguyễn tiến ra Hà Nội bằng con đường tắt ngang trong Đảng. Văn phòng Tổng Bí thư trực tiếp gọi ông ra. Nếu chỉ là một cán bộ chuyên trách đảng đoàn thì có lẽ mọi việc cũng êm thấm. Nhưng ông ra làm Trưởng Ban nội chính thì hoàn toàn không hợp ý của bên Chính phủ. Rất có thể ông là một mối đe dọa trực tiếp với các đồng chí của mình. Tốt nhất là hãy cho bên Văn phòng Đảng một bài học như một lời cảnh báo, trước lúc xử người thì hãy tự nhìn về mình đi đã.
Nói về chuyện Thanh tra chính phủ công bố sai phạm ở Đà Nẵng, mình chợt nhớ chuyện đi cùng với một cụ sĩ quan cao cấp hư trí ngày nào. Nhân dịp Bộ tư lệnh không quân tổ chức ngày 50 năm của binh chủng. Mình và cụ sĩ quan đi cùng xe ra Hà Nội. Mình nhắc đến các vị tư lệnh và chính ủy, khi nhắc tên đến một vị trong đó thì cụ gầm lên như hổ: Cái thằng đó, vì cái thằng khốn nạn đó mà tôi công không thành danh bại, tôi căm thù thằng này hơn cả giặc Mỹ.
Ngạc nhiên quá, mình nói sao cụ lại gọi đồng chí của mình là thằng, lại cùng bao nhiêu năm chung chiến hào chống giặc?
Cụ xổ luôn, đồng chí gì nó, nó là một thằng cơ hội, nó biết tranh thủ tổ chức, thành ra tôi phải về hưu sớm.
Cụ lại nói, đánh giặc cứu nước dễ hơn nhiều, chiến tuyến rõ ràng, công tội phân minh. Còn chiến với đồng chí mình phức tạp lắm, khó lắm, nhiều mưu ma chứơc quỷ vì đã quá hiểu nhau rồi.
À, ra thế đấy.







Nguyễn Bá Thanh và Đà Nẵng
Innova
Như một tiếng sét, kết luận của Thanh Tra hôm nay về Đà Nẵng khiến nhiều người sửng sốt. Phải chăng đây là cú ra đòn nắn gân của anh Ba? Phải chăng Nguyễn Bá Thanh sẽ theo vết chân Bạc Hy Lai của Trung Quốc? Hay chăng đây là màn tắm gội cuối cùng để tẩy sạch cho Nguyễn Bá Thanh trước khi ra trung ương? Tất cả đều là đồn đoán. Bài viết này phân tích một số thông tin có liên quan để đưa ra nhận xét.
1. Đà Nẵng (ĐN) và Nguyễn Bá Thanh (NBT)
Nhắc tới Đà Nẵng trong suốt mười năm qua thì không thể không nhắc tới NBT. NBT lên nắm quyền vừa lúc với việc trung ương cho tách ĐN ra khỏi Quảng Nam. Lúc đó ĐN được đầu tư rất mạnh để chỉnh đốn, do vậy nên NBT có nhiều việc để làm. Trong mười năm, diện tích ĐN mở rộng khoảng 3,4 lần và thu nhập bình quân cũng tăng khoảng 3,4 lần. ĐN nổi tiếng là một trong những thành phố sạch đẹp, văn minh hiếm có ở Việt Nam. Gần đây người Hà Nội đổ xô vào ĐN mua đất rất nhiều. Người Sài Gòn vốn tự hào về hòn ngọc viễn đông cũng phải bắt đầu coi lại mình so với người em ĐN. Mọi thứ bắt đầu từ đâu?
Vành đai của ĐN khi được giãn ra tứ phía [image error] [image error] [image error] [image error] [image error] [image error] [image error] [image error] [image error] [image error] Rồi nhìn về trung tâm ĐN [image error] [image error] [image error]
Từ khi NBT nắm quyền, việc đầu tiên ông làm là mở những tuyến đường lớn ở xung quanh TP làm các trục để mở rộng như đường 2-9, đường Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, CMT8, Ngô Quyền, Tôn Đức Thắng, Trường Chinh, xây các cây cầu Lê Duẩn, cầu Tuyên Sơn, cầu Thuận Phước, cầu Cẩm Lệ, v.v… Tiếp theo là những vạt khu tái định cư lớn với đường bàn cờ ở quanh các trục lớn đó khiến quỹ đất ĐN tăng vùn vụt. Nhà kiểu mới ở ĐN đều có đường nhựa ít nhất 5,5m chạy qua trước nhà. Hệ thống điện nước đều tốt. Chính các khu tái định cư này lại làm chỗ dựa để NBT cấp đất khi cần giải tỏa trong nội đô TP. Mỗi lần giải tỏa các khu ổ chuột thì NBT dùng đất tái định cư với cơ sở hạ tầng tốt để bù lại, sau đó rồi bán lại đất cũ (sau khi đã chỉnh trang đường xá) với giá cao hơn. Tất cả đều là kinh doanh nhưng phần lớn dân ĐN hài lòng.
Việc thứ hai NBT làm là xây lại hệ thống bệnh viện, trường học. Thời NBT, các bệnh viện Đa Khoa, bệnh viện C, bệnh viện Nhi đều được xây thêm, xây mới, biến ĐN trở thành trung tâm y tế cho miền Trung. Ngoài ra các trường đại học, cao đẳng cũng được mở rộng rất nhiều. Hiện tại nhiều thanh niên miền Trung theo học ở các trường tại ĐN, đặc biệt là Bắc Trung Bộ. Song song đó, NBT cũng tiến hành du lịch hóa ĐN bằng các con đường khủng khiếp chạy ven biển, xây dựng các khu Bà Nà, Sơn Trà. Quy hoạch các bãi tắm, tổ chức các sự kiện như hội Quán thế âm, pháo hoa.
Việc thứ ba là làm mới lại bộ mặt thành phố khiến ĐN trông rất mới. Sau khi lập ra các khu tái định cư, dời dân ngoài, NBT bắt đầu giải tỏa mạnh hơn các khu đất vàng ở trung tâm TP để xây nhà cao tầng khiến dân đi xa về đều ngỡ ngàng vì thay đổi. Hiện tại có thể nói dù ĐN nhỏ, nhưng về mức độ hiện đại đô thị thì không kém gì so với HN, SG.
Việc thứ tư là thay đổi tập quán dân ĐN, nổi tiếng vì dẹp được vấn nạn ăn xin, lề đường thông thoáng, không bán dạo. Lúc đầu, NBT lập ra quân áo đen, tức các thanh niên xuất ngũ để đi giữ trật tự cho vỉa hè đường phố. Đội quân này không có quyền như công an, nhưng cũng đóng vai trò hữu hiệu lúc ban đầu để dân ĐN trật tự hơn. Công an thì nghe nói ít nhũng nhiễu hơn địa phương khác. Có lần trên trang otofun còn có bài viết nói công an ĐN tốt bụng khi thay vì phạt đã chỉ đường cho 1 bác tài đi sai đường. Việc này càng có ý nghĩa khi đời sống tinh thần ở VN hiện nay xuống cấp trầm trọng, hiện tượng đâm chém, công an hành dân ở các nơi khác càng khiến nơi yên bình như ĐN có giá hơn.
Như vậy chính sách mà NBT đưa ra trong suốt mười năm qua là giãn dân từ từ, đất đổi đất. Lấy cơ sở hạ tầng để giãn dân ra xa, bù vào đó bán đất nội đô giá cao hơn làm quỹ để tiếp tục xây cơ sở hạ tầng. Chính sự thay đổi này cộng với vẻ đẹp tự nhiên và hiền lành của ĐN thu hút người tỉnh khác đến mua đất, lại góp phần đẩy giá đất ĐN lên, góp vào quỹ nhà đất để tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng. Điều này hoàn toàn hợp lý trong bối cảnh hai thành phố lớn là Hà Nội và Sài Gòn đều nghẹt thở vì ô nhiễm nặng nề, an ninh kém. Người có tiền đều muốn tới ĐN tậu mảnh đất để chiều chiều tắm biển, ăn uống giá rẻ, giấy tờ dễ dàng mà có bệnh tật cũng có nơi chữa trị tốt.
Tuy có nhiều cái được, nhưng ĐN cũng có nhiều cái mất khiến NBT có tiếng, nhưng cũng mang tiếng.
Hiếm có lãnh đạo địa phương nào ở VN được dân ưa thích như NBT ở ĐN. Một phần do họ thấy đời sống đi lên hẳn từ thời ông làm chủ tịch hai nhiệm kỳ, rồi sau này làm bí thư. Một phần họ thích phong cách của ông, nói ít, làm nhiều. Ngay trong việc nói, NBT cũng có lối nói rất mộc mạc, thậm chí là “nhà quê”, hơi hướng sâu cay Quảng Nam. Mỗi lần ông phát biểu trong cuộc họp thành phố, phần viết trong giấy thì ông đọc qua loa rất nhanh, còn lại phần lớn thời gian, NBT tự độc thoại theo một danh sách vấn đề tồn đọng cần giải quyết, từ chi li như toilet công cộng, nuôi chim bên biển, cống xả nước thải, ốc hút ngoài biển tới chuyện lớn như giải tỏa đền bù. NBT không chỉ nói mà còn chỉ rõ ai có liên quan tới từng vụ để họ làm cho rốt ráo. Lối nói hài hước của NBT cũng được dân ĐN ưa thích, mỗi đợt truyền hình trực tiếp họp TP thì nhiều người theo dõi như buổi tấu hài, táo quân cuối năm trên VTV.
Tuy nhiên, NBT cũng bị dân ĐN nghi ngờ trong vụ án Trần Văn Thanh, chính xác hơn là nghi ngờ nhận hối lộ 4,4 tỉ trong vụ xây cầu sông Hàn 2000 của Phạm Minh Thông. Bên cạnh đó, quy hoạch ĐN cũng vấp một số phản đối, đặc biệt là hai đừơng ven biển Liên Chiểu Thuận Phước và Sơn Trà Điện Ngọc. Hai đường này lấn quá sát biển khiến méo mó hình ảnh bờ biển ĐN. Bờ biển bao bọc bởi rừng cây xanh đẹp bị thay thế bởi đừờng nhựa chạy sát như nhát dao cứa vào tim người ĐN yêu biển. Một thời gian dưới điều hành của NBT, một vạt nhà hàng mọc lên ngay trên bờ cát biển khiến dân ĐN phản đối kịch liệt vì che chắn tầm nhìn và vì sợ ô nhiễm biển. Biển ĐN còn bị lên báo trong nước do tình trạng chia lô bãi biển, khiến bãi tắm của dân ĐN giờ bị thu hẹp, dân chài không có đường ra biển nhường đất cho các bãi resort như nấm.
Tội của Nguyễn Bá Thanh – Đường và nhà hàng lấn sát biển
[image error]
Về mặt này, ông Nguyễn Sự của Hội An có tâm hồn hơn Nguyễn Bá Thanh.
Nhìn chung, một lãnh đạo như NBT có mặt tốt là dám chịu dám làm, quyết đoán, chi li, biết thu phục lòng người. Nhưng có vẻ như mặt hạn chế lại nằm trong chính bản thân con người thô mộc của ông, đó là không biết làm du lịch cho đúng cách và phá hoại thiên nhiên.
2. Văn bản Thanh Tra đánh vào các điểm gì?
Mục 1 và 2 của Thanh Tra nêu lên những điểm tích cực của thành phố đN.
Mục 3 nhắc đến vấn đề quy hoạch giải tỏa quá lớn của ĐN, cụ thể về kế hoạch sử dụng đất đạt từ 30-40% so với kế hoạch. Từ đó, bản báo cáo dẫn ra sự quy hoạch thiếu căn cứ, cơ sở, không phù hợp với tình hình và nhu cầu địa phương.
Tuy nhiên điều này chưa hợp lý bởi với một địa phương giải tỏa nhiều như ĐN cần phải có một quỹ đất tái định cư dồi dào để cung cấp cho dân bị giải tỏa, từ đó công tác giải tỏa đất đai mới diễn ra thuận lợi nhanh chóng. Bên cạnh đó, nhờ vào sự thừa đất đó mà giá đất ở ĐN khá mềm so với các địa phương khác. Sau cùng, ai dám nói với một thành phố đang phát triển mạnh như ĐN thì trong tương lai số đất đó không được lấp đầy. Một quy hoạch rộng hơn để đón đầu phát triển thì mới gọi là quy hoạch . Điều này là đáng nói nếu so với Hà Nội, Sài Gòn khi quy hoạch chưa xong thì đã thấy lỗi thời.
Mục 4 nhắc đến vấn đề giao đất không qua đấu giá, tạo kẻ hở cho một số người trục lợi vì được giao đất giá rẻ. Tuy nhiên không thể phủ nhận một điều rằng nhiều người dân ĐN được hưởng lợi từ chính sách giao đất giá rẻ của NBT, nhất là đối với người dân tái định cư. Một khi bị giải tỏa, người dân có quyền mua đất nền nơi khác với giá thấp hơn. Chính sách này khuyến khích người dân đồng ý dời đi nơi khác.
Mục 5 liên quan đến việc giao quyền cho các Ban quản lý dự án thực hiện chức năng quản lý quỹ đất, từ đó dẫn đến nhiều sai phạm như không đủ căn cứ, cơ sở để xác định giá thu tiền sử dụng đất; việc phê duyệt và phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng tùy tiện; nhiều nhà đầu tư sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đã không thực hiện đầu tư, tiếp tục chuyển nhượng cho nhà đầu tư khác thu chênh lệch số tiền rất lớn… làm thất thu ngân sách nhà nước, gây thiệt hại lớn về kinh tế. Tuy nhiên cần phải nói rõ sự năng động nhanh chóng của ĐN trong công tác giải tỏa đền bù, cũng nhờ vào chính sách này. Các Ban quản lý dự án có nhiều quyền lực thống nhất và nắm tình hình nên tự quyết định nhanh. Chính điều này giúp ĐN giảm thiểu được các vụ kiện thưa, giải quyết tốn thời gian với dân cư vùng giải tỏa.
Mục 6 liên quan đến việc thu tiền sử dụng đất chưa sát giá thị trường gây thất thu ngân sách và làm lợi cho một số công ty có liên quan. Đặc biệt báo cáo chi tiết về các vụ chuyển nhượng đất từ chủ ban đầu, qua nhiều lần chuyển nhượng, đến chủ cuối cùng, mà chênh lệch tổng cộng chỉ ra đến 2000 tỉ. Tuy nhiên báo cáo không thực tế khi không nhìn nhận thấy đâu là giá đất thật sự ở ĐN. Con số 2000 tỉ xác định dựa trên giá đất cuối cùng, vốn bị đầu cơ trong những năm đầu khủng hoảng nhà đất. Việc ĐN giao đất cho tư nhân để đầu tư với giá thấp là một cách thu hút đầu tư, đưa đất vào sử dụng nhanh chóng, kéo dân đến TP. Các tác động này không được đánh giá trong báo cáo.
Mục 7 liên quan đến giảm 10% tiền sử dụng đất nếu các đối tượng nộp tiền nhanh, dẫn đến thiệt hại 1300 tỉ đồng. Tuy nhiên báo cáo không đánh giá tác động của việc này đến việc thu tiền nhanh từ các dự án bán đất, lãi ngân hàng do thu tiền sớm, đến tác động tích cực về mặt tinh thần của các hộ dân giải tỏa khi được giảm giá đất mua lại.
Mục 8 về việc gia hạn thời gian nộp tiền sử dụng đất và miễn nộp phạt trong nhiều trường hợp, từ đó gây thất thu ngân sách. Tuy nhiên báo cáo không chỉ rõ thiệt hại bao nhiêu.
Mục 9 về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhiều dự án với giá rẻ, gây thiệt hại ngân sách. Tuy nhiên thiệt hại là bao nhiêu thì không rõ.
Tựu trung lại, tất cả các mục Thanh Tra đều chỉ ra ĐN đã vi phạm nhiều điều luật trung ương, gây thiệt hại ngân sách. Tuy nhiên điều đáng suy nghĩ là tất cả những vi phạm này đều theo hướng có lợi, tạo thuận lợi cho nhân dân, cho nhà đầu tư. Trong hoàn cảnh trên khắp đất nước tràn lan các vụ giải tỏa đền bù gây thiệt hại đến người dân thì có thể hiểu tại sao người dân, doanh nghiệp từ các nơi khác muốn đến lập nghiệp ở ĐN. Phải chăng đây chính là “bí quyết” của ĐN.
Với bản báo cáo này, tôi nhận định nó có rất ít ảnh hưởng đến sự nghiệp NBT. Ngược lại, việc “bạch hóa” này còn góp phần gầy dựng thêm uy tín lãnh đạo cho NBT ngay trước thềm ra Ba đình nhậm chức.







January 17, 2013
Hiệu ứng ngược?
Đông A
Đọc kết luận của Thanh tra Chính phủ về thành phố Đà Nẵng tôi nghĩ ông Nguyễn Tấn Dũng đã đi sai một nước cờ cơ bản. Sau kết luận này, tôi dự, ông Nguyễn Bá Thanh sẽ càng được dân chúng ủng hộ và ông Nguyễn Tấn Dũng sẽ càng mất uy tín trong nhân dân.
Nước cờ này tôi thấy mài mại giống như hai bao cao su trong vụ án về ông Cù Huy Hà Vũ. Ví dụ như chuyện miễn 10% tiền đất nếu nộp ngân sách ngay trong vòng 60 ngày. Thoạt nghe thì có vẻ làm như vậy đã tạo ra thất thu cho ngân sách nhà nước, nhưng thực tế làm như vậy là theo nguyên tắc “được việc”, có ngay tiền cho ngân sách và được việc hơn để các công ty trây ỳ nộp tiền. Từ kết luận của Thanh tra Chính phủ cho thấy TP Đà Nẵng đã áp dụng nguyên tắc “được việc” lên trên nguyên tắc đúng quy định và như vậy thể hiện rất rõ triết lý thực dụng trong bối cảnh quan liêu và cửa quyền của nền hành chính đang vận hành.
Cá nhân tôi thấy thích nguyên tắc “được việc” và cho rằng nếu được việc mà vi phạm quy định thì vẫn chấp nhận được vì được việc vẫn có ích lợi hơn là tuân theo quy định mà không được việc. Ông Nguyễn Bá Thanh quả là một nhân vật chính trị rất thú vị và đánh giá ông phải đặt trong bối cảnh của một chế độ độc đảng cầm quyền đang ở trong giai đoạn suy vong. Xét về mọi mặt ông Nguyễn Bá Thanh đều thể hiện trên tầm ông Nguyễn Tấn Dũng.







Không hiểu con thuyền chống tham nhũng do đồng chí Bá Thanh được Tổng Bí thư tin tưởng giao cho chèo lái sẽ đi tới đâu?
Cầu Nhật Tân
“Sắp tới tôi sẽ rà vô một số cái của ngân hàng, cho hốt liền, không nói nhiều” - Nguyễn Bá Thanh. Chỉ sau tuyên bố rất mạnh mẽ của đồng chí tân Trưởng Ban Nội chính Trung ương chưa đầy 1 tuần, Thủ tướng CP đã lệnh cho pháo dàn cấp tập nhả đạn đáp trả. Ngày 17/1/2013, Thanh tra CP tổ chức thông báo rất long trọng, công bố kết luận Thanh tra sai phạm của thành phố Đà Nẵng, các báo dồn dập đưa tin nóng hổi.
Theo kết luận, đối tượng “có vấn đề” bị ám chỉ là chính cá nhân đồng chí Thanh cùng nhiều lãnh đạo các thời kỳ thuộc diện chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Bá Thanh, đặc biệt kết luận thanh tra quy ngay trách nhiệm lớn nhất thuộc về Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng và các Phó Chủ tịch. Nên nhớ, vụ Đồ Sơn (Hải Phòng) được khoanh lại, chỉ đánh đến Giám đốc Sở TNMT mà đồng chí Tô Huy Rứa đã tịt đường lên Tổng bí thư.
Cũng tại kết luận Thanh tra này, sai phạm ở Đà Nẵng là cố ý, có hệ thống, rất tinh vi, xảy ra trong thời gian dài, làm thất thoát gần 3500 tỉ đồng. Nhiều sai phạm xảy ra ngay từ 2003 (khi Đà Nẵng mới lên đô thị loại 1 trực thuộc Trung ương và khi đó đồng chí Bá Thanh đang là Chủ tịch UBND TP). Hàng loạt các văn bản của Thủ tướng, của Chính phủ bị vi phạm đã được liệt kê ra. Kết luận cũng rất “mạnh dạn” đề nghị xử lý các Chủ tịch UBND, các Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng (như vậy, có cả đồng chí Bá Thanh). Chỉ một đoàn thanh tra mà dám đề xuất xử lý toàn bộ UBND một thành phố trực thuộc trung ương (xử lý cả Trưởng ban Nội chính của Đảng, cánh tay phải của Tổng Bí thư) là việc làm chưa từng xảy ra từ trước tới nay.
Kết luận Thanh tra đã có từ tháng 11 năm 2012, sau đó được đóng dấu mật và cất một chỗ, chờ khi có việc dùng đến. Chưa đầy 1 tuần sau khi đồng chí Nguyễn Bá Thanh tuyên bố sẽ bỏ tù các bố già ngân hàng, ngày 17/1/2013, Thủ tướng đột ngột lệnh cho giải mật, công bố rộng rãi nội dung kết luận thanh tra. Toàn bộ các nhà báo, nhà đài đều được tặng hẳn TOÀN VĂN kết luận thanh tra một cách rất hào phóng, được chụp và đóng gói rất cẩn thận, chu đáo. Thủ tướng còn chỉ đạo giao Bộ Công an khẩn trương điều tra, xử lý vi phạm. Có lẽ chỉ ở riêng vụ này, Thủ tướng mới đặc biệt thấm nhuần tinh thần Nghị quyết trung ương 4, chống tham nhũng kiên quyết, không nể nang.
Thông báo công bố kết luận thanh tra Đà Nẵng được đột ngột thực hiện khi Tổng Bí thư đang công du châu Âu 1 tuần. Tin từ Văn phòng Trung ương Đảng cho hay lãnh đạo VP đã biết về kết luận thanh tra nhưng hoàn toàn bất ngờ về việc tổ chức công bố rộng rãi kết luận này. Nhiều báo có trong tay toàn văn kết luận rồi, được Thủ tướng khích lệ cho đăng rồi mà vẫn “run”, không dám đưa chi tiết. Có báo đưa chi tiết thì lại đăng kèm mấy dòng bên dưới thanh minh rằng việc này không liên quan đến chuyện Trung ương điều động đồng chí Bá Thanh ra nắm quyền Trưởng ban Nội chính của Đảng. Thực tế, kết luận Thanh tra đã chính thức đề nghị xử lý đồng chí tân Trưởng ban Nội chính Trung ương.
Rồi đây, không hiểu con thuyền chống tham nhũng do đồng chí Bá Thanh được Tổng Bí thư tin tưởng giao cho chèo lái sẽ đi tới đâu khi mà một đến vài đồng chí lãnh đạo TP phải vô khám, Đảng bộ TP Đà Nẵng phải nhận một án kỷ luật, cá nhân đồng chí Bá Thanh cũng không nằm ngoại lệ (đó là mức nhẹ nhất). Chống ai, ai chống, bây giờ chống ai?
Chuyện kể rằng, có cô gái sắp đi lấy chồng, anh người yêu cũ nghe tin bèn đánh tiếng dọa tung clip sex của hai người ngày xưa. Thế là cô gái lập tức phải hoãn cưới, tăm tắp nghe theo mệnh lệnh của anh người yêu cũ vì sợ clip sex bị phát tán. Tình cảnh của đồng chí Nguyễn Bá Thanh, nay, thật không khác cô gái kia.
Theo blog CNT, đầu đề của QC
Kỳ sau: Nguyễn Bá Thanh sẽ trở thành tướng “không quân”?







Gửi bạn Nguyễn Đức Hiển
Ngô Thị Hồng Lâm
Ở thời điểm đề nghị đưa vào áp dụng nghị định “người có vòng ngực dưới 70 cm không được điều khiển xe gắn máy”, tại blog “Bố cu Hưng” của bạn có bài viết “Vú trên bàn nghị sự” với cách viết dí dỏm, châm biếm phê phán những người phát minh ra những cái gọi là “sáng kiến” ruồi bu này. Rồi đến bài “Gửi em ở cạnh sông Hồng”, được viết dưới dạng một bức thư của một anh chàng gửi cho cô gái anh yêu, trong cái cảnh lụt liên tỉnh (từ Bắc vào Nam) mỗi khi có mưa bão mà nhà cầm quyền không có cách khắc phục đẩy lùi những cơn lũ lụt mang tính lịch sử đó. Tôi rất ngưỡng mộ những bài viết mang tính tích cực đứng về lợi ích dân sinh của bạn. Một hôm nhân có cuộc ngồi chơi cùng anh em giới văn nghệ sĩ, có ai đó nói về bạn đó là một thằng“bồi bút”, tôi không tin và đã bẻ lại họ bằng những bài viết vì lợi ích của con người của bạn.
Tôi đã đọc Phần 1 cuốn “Bên thắng cuộc” của tác giả Huy Đức.
Tôi cũng đã được đọc chính kiến của bạn Nguyễn Đức Hiển về cuốn “Bên thắng cuộc” của Osin Huy Đức qua bài viết “ Huy Đức cái nhìn thiên kiến về lịch sử”. Thật sự tôi vô cùng thất vọng về bạn!
Tiếp theo bài viết của bạn là một loạt bài của những cây bút “bên thua cuộc” đáp trả lại rất nặng ký về bài viết của bạn, nổi bật là bài viết của Vũ Ánh, của Đồng Phụng Việt phê phán sâu sắc và chính xác trong nhìn nhận của họ về lịch sử mà bạn Nguyễn Đức Hiển đã cố tình không chịu hiểu để cứ thế khoét sâu thêm mối bất hòa giữa 2 bên “thắng cuộc” và bên “thua cuộc”, nhấn sâu vào nỗi đau của những người Việt cùng dòng máu Lạc Hồng đã một thời cầm súng bắn giết lẫn nhau trong cuộc nội chiến 1955-1975 mà bên“thắng cuộc” cho mình là thực hiện “chính nghĩa”. Bạn sẽ nghĩ gì về 2 dẫn chứng đau thương của người dân mà tác giả Đồng Phụng Việt đã nêu trong bài viết của mình?
- “Chuyện thứ nhất là vụ ném lựu đạn vào buổi lửa trại, tổ chức cho các Hướng đạo sinh, thành viên Gia đình Phật tử và học sinh các trường trung học ở Quy Nhơn, tại sân vận động Quy Nhơn (nay là thành phố Qui Nhơn, tỉnh Bình Định), vào đêm 9 tháng 1 năm 1972, để giết tỉnh trưởng Nguyễn Văn Chức, nhưng ông Chức không chết, chỉ có vài chục người là giáo viên, học sinh chết, bị thương. Người tổ chức vụ ném lựu đạn này là bà Huỳnh Thị Ngọc – đã được Đảng và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng Vũ trang” hồi Quốc khánh năm 1995, báo Quân đội Nhân dân có bài ca ngợi (tựa là “Giả điên trong tù”, đưa lên Internet hôm 16 tháng 7 năm 2007). Sau khi đọc “Giả điên trong tù”, bạn có thể tìm gặp những người dân Quy Nhơn, nay trong độ tuổi khoảng 60, để hỏi thăm và nghe thêm về bản chất – kết quả thật sự của một “chiến công”, trong cuộc chiến được bảo là chính nghĩa đó”.
- “Chuyện thứ hai là vụ pháo kích vào Trường Tiểu học Cộng đồng ở thị trấn Cai Lậy, tỉnh Định Tường (nay là huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang), ngày 9 tháng 3 năm 1974, khiến 32 học sinh chết tại chỗ và 55 học sinh khác bị thương. Những người dân Cai Lậy, Tiền Giang, nay trong độ tuổi khoảng 55, cũng có thể kể để bạn biết thêm về “chiến công” tệ hại này”.
Trước hết nếu bạn là một con người có lương tâm thì chắc chắn bạn sẽ phải nhỏ lệ và chia sẻ về cái chết tức của những người dân hiền lành vô tội ở bên kia chiến tuyến! Nếu là một nhà báo lại không phải là “bồi bút” thì bạn sẽ phải thể hiện chính kiến của mình để chặn đứng hành động tàn sát đồng bào của mình bất cứ từ phía nào?
Nói về nhà tù của chính quyền VNCH đối với những người cộng sản rất tàn khốc như bạn đã nói trong bài viết: “Nhấn mạnh “chế độ hà khắc” của các trại cải tạo nhưng cuốn sách lại không nhắc đến những trại tù và cách ứng xử của chế độ Sài Gòn cũ đối với những người yêu nước. Không nhắc đến một thực tế là đã không có người tù cải tạo nào bị tra tấn bằng vôi bột, bị đóng đinh, gí điện, bị đánh đến tàn phế… như những gì mà nhiều người trong số họ từng đối xử với đối phương của mình ở Phú Lợi, Côn Đảo, Phú Quốc, Chuồng cọp Sở thú và hàng trăm nhà tù khác khắp miền Nam. Cuốn sách cũng đã không nói rằng sau khi tiếp quản, không hề có việc lê máy chém đi khắp miền Nam như chế độ cũ đã làm với cán bộ cách mạng và thân nhân trong Luật 10-1959″.
Thực tế, những người tù cộng sản khi trở về đời thường bị thương tật hay mất đi một số chức năng sống là điều có thật. Chồng tôi là một nhân chứng sống của người tù trở về đời thường. Anh ấy là người tù “câu lưu” tức là loại tù không qua tòa án xét xử. Cứ 2 năm mà không chiêu hàng quốc gia thì lại tăng thêm 2 năm tù. Hết 2 năm mà vẫn cứ không chịu ly khai cộng sản thì lại tăng thêm 2 năm nữa. Cứ thế chồng tôi là người có thâm niên lâu nhất trong nhà tù Côn Đảo (20 năm) đã qua đủ hết tất cả những thủ đoạn tra tấn man rợ nhất trả thù cộng sản của nhà tù VNCH. Ngày chúng tôi mới kết hôn, có bữa tôi vừa mua cho anh ấy một đôi dép nhựa mới. Một người bạn đến chở anh ấy đi bằng xe gắn máy. Khi trở về thì chỉ còn một chiếc dép chân trái. Chồng tôi nói là tê chân dép rơi mà không biết. Tôi lại đi mua một đôi khác cho chồng. Vài ngày sau, khi ngồi phía sau xe gắn máy ra đường trở về là chồng tôi lại chỉ còn một chiếc dép chân trái. Trong nhà tôi có một đống toàn là dép chân trái, tôi cằn nhằn, chồng tôi giải thích: “Ngày ở tù anh từng có thời gian bị biệt giam và còng chân phải tới 8 năm. Sau đó anh tuyệt thực phản đối và cuối cùng nhà tù phải nhượng bộ thả còng vào năm 1970. Ngày giải phóng đảo ra về bước đi của anh còn chưa vững, anh em phải dìu và mất một thời gian dài chạy chữa mới tạm thời tự đi lại một mình được, nhưng chân phải bị tê mất cảm giác là chuyện thường ngày”.
Mỗi lần chồng tôi kêu đau là ruột gan tôi như thắt lại. Anh ấy đau một tôi đau tới mười. Nhưng không vì thế mà tôi đồng tình với việc cầm tù những sĩ quan VNCH trong những trại tù cải tạo trong khi miền Bắc đã thâu trọn quyền bính trong tay. Là người có nhiều năm làm công tác nghiên cứu lịch sử Đảng nên tôi hiểu được rằng cuộc chiến tranh Nam Bắc chẳng qua là anh em bắn giết lẫn nhau cho Trung Quốc “tọa sơn xem hổ đấu”, đánh thuê cho Trung Quốc và Liên xô bằng chính máu của người Việt mình mà thôi. Nhưng vì còn hèn nên tôi đã không dám công khai những nghiên cứu của mình về ý nghĩa của cuộc chiến. Một điều xấu hổ của tôi.
Bởi thế khi Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ công khai môt loạt bài về chính kiến của mình trong đó có bài “Đại xá toàn bộ tù nhân chính trị…” với những giải pháp mang tính khoa học và nhân văn cho vấn đề hòa giải, hòa hợp dân tộc rất có giá trị về mặt lịch sử đối với công cuộc hàn lại những vết thương sau cuộc chiến ở thời điểm gần 4 thập kỉ qua đi, đủ độ lùi về thời gian để “từ nay người biết yêu người, từ nay người biết thương người” bất chấp nhà tù và còng số 8. Chính kiến của nhà cách mạng Cù Huy Hà Vũ đã đi vào lòng người, bởi nó nói lên khát vọng của dân tộc là hòa giải và hòa hợp dân tộc. Vì thế lần đầu tiên trong lịch sử ngành tư pháp nước ta vụ án công dân Cù Huy Hà Vũ được đông đảo nhân dân ký tên trong kiến nghị yêu cầu nhà cầm quyền trả tự do không điều kiện cho người công dân yêu nước này. Những giải pháp mang tính khoa học của người tiến sĩ yêu nước ấy, với tôi anh là bậc thầy.
Cứ với những định kiến của bạn thì biết khi nào dân tộc Việt Nam mới hòa hợp để tăng sức mạnh, để hàn lại nỗi đau khép lại quá khứ, hướng về phía trước?
Theo bạn thì Osin Huy Đức phải viết như thế nào để không bị “thiên kiến về lịch sử”?
Viết đến đây tôi lại nhớ về cái thời sau Cải cách ruộng đất ở miền Bắc. Lúc đó theo lệnh từ tổ dân phố nhà nào cũng phải treo ảnh của các vị Các Mác, Ăng-ghen, Lê-nin, Stalin, Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Trong xóm nhà tôi, nhà nào cũng treo ảnh một vài ông trong danh sách nêu trên. Có nhà để lấy điểm với tổ dân phố, treo cho đủ ảnh các vị trên tường nhà. Ở ngoài Bắc lúc đó, mỗi nhà vẻn vẹn có chừng 20 đến 30 m2. Vào nhà nhìn khắp trên tường thấy toàn những ông này. Riêng nhà tôi thì cha tôi không cho bất kỳ một ông nào lên tường trong căn phòng 16m2. Tổ trưởng dân phố nhắc nhở cha tôi treo ảnh lãnh tụ nhiều lần, ông chỉ vâng thật to “ lát nữa em treo”. Ngày mai nhắc nữa ổng cũng trả lời giống hệt hôm qua. Vì thế mà nhà tôi có tên trong sổ đen của công an. Bạn Hiển nên nhớ rằng, bây giờ là giai đoạn @ rồi, không còn là giai đoạn giáo điều như khi xưa mà “bắt phong trần phải phong trần” nữa, để mà bắt Huy Đức phải viết theo công thức định hướng “chủ nghĩa tư bản đang giãy chết”cho bạn đọc. Xưa rồi, xưa như trái đất rồi.
Để kết thúc bài viết này, tôi đồng tình với ý kiến của tác giả Đồng Phụng Việt về bạn hãy Nhìn – Nghe – Đọc – Hỏi là những điều rất cần thiết đối với nhà báo. Nói như ông bà ta: “uốn lưỡi bảy lần trước khi nói” để tôn trọng mình và cũng là tôn trọng người khác.
Bạn,
N.T.H.L.







Teo dần quyền con người trong Hiến pháp
NQL: Rất nhất trí với TS Hoàng Xuân Phú. Rất khâm phục tư duy logic rất sáng sủa của tiến sĩ toán học thứ thiệt này!
Trong thời gian qua, nhiều người mong muốn sửa đổi Hiến pháp 1992, để bỏ hoặc thay đổi một số quy định, ví dụ như quy định về quyền lãnh đạo (được hiểu là đương nhiên) của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đối với Nhà nước và xã hội (Điều 4), và quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý (Điều 17–18). Tôi không chia sẻ kỳ vọng đó, bởi không tin rằng giới lãnh đạo hiện nay có thể sớm chấp nhận thay đổi những điều mà họ khẳng định là bất di, bất dịch. Ngược lại, tôi thuộc số những người lo rằng việc sửa đổi Hiến pháp có thể bị lợi dụng để hạn chế hơn nữa quyền con người. Và bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã cho thấy nỗi lo đó không phải là vô cớ. Thậm chí, không ngờ họ lại có thể đi xa như vậy…
Trong Hiến pháp 1992, thuật ngữ “quyền con người” chỉ được nhắc một lần, tại
“Điều 50: Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật.”
Tức là “quyền con người” được đồng nghĩa với “quyền công dân”. Vậy thì những người đang tạm thời bị tước “quyền công dân” sẽ không còn được hưởng “quyền con người”. Hơn nữa, sau khi định nghĩa “Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam” (Điều 49), thì “quyền con người” sẽ không còn được áp dụng cho những người đang tồn tại trên đất Việt Nam, nhưng không hoặc chưa “có quốc tịch Việt Nam”. Điều này cho thấy cách hiểu về “quyền con người” trong Hiến pháp 1992 phiến diện như thế nào.
Một thay đổi dễ nhận thấy trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 là “quyền con người” được tách ra, được nhắc tới 8 lần, luôn đi cạnh và được đặt trước “quyền công dân”. Ở chế độ mà giới lãnh đạo vốn rất khó chịu khi nghe nhắc đến “nhân quyền” (tức là “quyền con người”), thì đây là một bước tiến, muộn mằn nhưng có vẫn hơn không.
Một thay đổi nữa, là “quyền công dân” cùng “quyền con người” được đưa từ Chương V (trong Hiến pháp 1992) lên Chương II (trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp). Ở Cộng hòa Liên bang Đức, “quyền con người” được đặt lên vị trí hàng đầu, trong Chương I của Hiến pháp. Ở CHXHCN Việt Nam thì Chương I của Hiến pháp được dành cho “Chế độ chính trị”. “Chính trị“ là một cái gì đó rất thiêng liêng, mà cũng rất bí hiểm, và càng bí hiểm thì càng… hữu dụng. Khi muốn đùn đẩy công việc, thì tuyên bố: “Cần có sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị.” Khi muốn làm liều, thì khẳng định: “Với quyết tâm chính trị, chắc chắn sẽ làm được.” Còn khi muốn lẩn tránh trách nhiệm của bản thân, thì chỉ cần tỏ chút áy náy và “nhận trách nhiệm chính trị“.
Hai thay đổi kể trên là theo hướng tiến bộ, đáng được ghi nhận. Song như vậy thì mới thể hiện rằng quyền con người đã được chú ý hơn. Mà chỉ chú ý thì chưa đủ và cũng chưa chắc đã tốt. Chẳng hạn, nếu bạn được công an chú ý, thì điều đó không hẳn là dấu hiệu hay. Để đánh giá chính xác các thay đổi về quyền con người và quyền công dân, thì phải xem xét các quy định cụ thể.
Bài này không nhằm mục đích đánh giá đầy đủ và toàn diện về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, mà chỉ điểm qua một số ví dụ đáng lưu ý về sự thay đổi tiêu cực hay có thể là tiêu cực, liên quan tới quyền con người và quyền công dân. Hy vọng rằng những nhận xét dưới đây sẽ có ích cho những người đang muốn tham gia góp ý kiến cho bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Quyền hư quyền ảo
Trong “Chương II: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” của dự thảo sửa đổi Hiến pháp, xuất hiện một quyền mới (so với Hiến pháp 1992) là:
“Điều 21: Mọi người có quyền sống.”
Nghĩ một cách dân dã, thì thấy điều này có vẻ ngồ ngộ. “Quyền sống” còn hiển nhiên hơn cả “quyền ăn ngủ”, bởi muốn “ăn ngủ” thì tất nhiên phải “sống”. Vậy mà nếu hiến định rằng “Mọi người có quyền ăn ngủ” thì ai nấy đã thấy ngây ngô.
Thực ra, câu “Mọi người có quyền sống” cũng xuất hiện trong Hiến pháp của một số nước, chẳng hạn tại Điều 2 của Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức (Jeder hat das Recht auf Leben). Điều đó chứa đựng một nội dung rất quan trọng, mà hệ quả trực tiếp của nó là: Không thể có án tử hình, vì tử hình một người là xâm phạm “quyền sống” của người đó.
Chấp nhận án tử hình hay không là một vấn đề nan giải, vẫn còn đang được tranh luận ở nhiều nơi trên thế giới. Nhiều nước vẫn duy trì án tử hình, như Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Liệu có thật là nhà cầm quyền Việt Nam muốn hủy bỏ án tử hình hay không? Nếu đúng là họ muốn hủy bỏ án tử hình, thì đây là một thay đổi rất quan trọng. Còn ngược lại, nếu họ vẫn định tiếp tục duy trì án tử hình, thì Điều 21 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp vừa thừa, vừa giả dối, và chỉ chất to thêm đống quyền hữu danh vô thực trong Hiến pháp mà thôi.
Một quyền mới khác trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp là:
“Điều 35: Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội .”
Điều này được sửa đổi từ Điều 67 của Hiến pháp 1992, quy định rằng:
“Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thương binh được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ và có đời sống ổn định.”
“Những người và gia đình có công với nước được khen thưởng, chăm sóc.”
“Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ.”
Nghĩa là:
- Chỉ đề cập đến một số đối tượng đặc biệt, đó là thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, những người và gia đình có công với nước, người già, người tàn tật và trẻ mồ côi;
- Chỉ hứa hẹn một cách chung chung, là “được hưởng các chính sách ưu đãi”, “được tạo điều kiện”, “được khen thưởng, chăm sóc”, “được Nhà nước và xã hội giúp đỡ”;
- Chỉ đề cập đến mấy nội dung cụ thể, là “phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ và có đời sống ổn định”, và những thứ đó chỉ dành riêng cho đối tượng thương binh.
Điều 35 trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã đưa ra những bước đại nhảy vọt so với Điều 67 của Hiến pháp 1992, đó là:
- Áp dụng cho mọi công dân;
- Không chỉ là hứa hẹn chung chung, mà nâng lên thành “quyền được bảo đảm“;
- Nội dung “được bảo đảm“ không chỉ dừng lại ở mấy nội dung cụ thể, mà bao trùm lên toàn bộ “an sinh xã hội”.
Đây là một ý tưởng cách mạng vĩ đại, nếu họ thực tâm muốn triển khai. Tiếc rằng, nếu thực tâm thì ngây ngô, và nếu không ngây ngô thì không thể thực tâm.
“Quyền được bảo đảm an sinh xã hội“ là một thứ quyền vu vơ và hoàn toàn không khả thi. Thời gian qua, mới chỉ tập trung cho một số đối tượng rất chọn lọc và chỉ dừng lại ở mấy chế độ phúc lợi rất khiêm tốn, thế mà còn chưa làm tốt nổi. Vậy thì sao có thể “bảo đảm an sinh xã hội“ cho mọi công dân? Lưu ý rằng chế độ “an sinh xã hội” bao gồm cả chăm sóc về y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn tật, trợ cấp tiền tuất. Lấy đâu ra tiền của để thực hiện “ý tưởng cách mạng vĩ đại” ấy?
“Công dân có quyền được bảo đảm”, nhưng ai, cơ quan hay tổ chức nào phải đứng ra “bảo đảm”? Phải chăng cuối cùng họ sẽ phán rằng Dân phải “tự bảo đảm”?
Trong thời buổi tham nhũng hoành hành từ trên xuống dưới, thì những chính sách viển vông không chỉ vô ích, mà còn rất tai hại, vì giới cầm quyền sẽ “mượn gió bẻ măng”. Điều này đang diễn ra dưới nhiều danh nghĩa, ví dụ như việc xây nhà ở xịn để bán cho người nghèo ở giữa đô thị đắt đỏ. Khi đã đẻ ra một chính sách phúc lợi xã hội nào đó thì họ có cớ để vung tiền từ ngân sách, tức là tiền của Dân. Tất nhiên là không đủ để “ngập tràn thiên hạ”. Lúc đó, “nước có quyền chảy vào chỗ trũng”, nghĩa là ưu tiên cho “người thân” (theo nghĩa rộng, bao gồm cả những người quen thân vì tiền), và cũng không quên phần mình. Đối với các quan tham, “từ thiện” không còn là mục tiêu hành động, mà là phương tiện để vơ vét cho bản thân.
Hơn nữa, khi số tiền của ít ỏi có thể dành cho phúc lợi xã hội bị vung vãi trên diện quá rộng, thì nảy sinh nguy cơ là nhiều người lẽ ra vẫn được hưởng trợ giúp sẽ không còn được hưởng nữa.
Hai ví dụ kể trên cho thấy rằng: Dự thảo sửa đổi Hiến pháp có thể đem lại cho người dân một số quyền mới nào đó, nhưng có khi lại là những quyền hư ảo, trong khi những quyền bị cắt giảm thì lại rất thật, như sẽ trình bày trong phần tiếp theo. Điều đáng buồn là: Xu hướng giả dối vẫn được tiếp tục duy trì và phát triển trong việc xây dựng Hiến pháp.
Quyền thoi quyền thóp
Trong Điều 71 của Hiến pháp 1992 có quy định rằng:
“Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.” (Điều 71, Đoạn 2)
Điều 71 được sửa thành Điều 22 trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhưng toàn bộ quy định được trích ở trên (nhằm hạn chế việc bắt người tùy tiện và yêu cầu “bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật“) đã bị xóa. Trong thời gian qua, Hiến pháp đã quy định rõ ràng như vậy mà công an vẫn bắt người và giam giữ rất tùy tiện. Rồi đây, khi quy định ấy đã bị gạch khỏi Hiến pháp, thì số phận người dân sẽ ra sao?
Trong Điều 74 của Hiến pháp 1992 có quy định rằng:
“Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định.” (Điều 74, Đoạn 2)
Điều 74 được sửa thành Điều 31 trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhưng quy định vừa được trích (nhằm ràng buộc về thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo) không còn nữa. Vốn dĩ, khiếu nại và tố cáo của công dân hay bị ngâm tôm bất tận. Đến đại công thần của chế độ gửi kiến nghị cũng chẳng được hồi âm. Vậy thì sau này, khi ràng buộc về thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo bị xóa khỏi Hiến pháp, Dân sẽ phải chờ đợi bao lâu?
Đoạn thứ nhất trong Điều 72 của Hiến pháp 1992 viết rằng:
“Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.”
Khi điều khoản trên hóa thân vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp, 5 chữ “và phải chịu hình phạt” bị loại bỏ. Thành thử chỉ còn sót lại như sau:
“Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.” (Điều 32, Khoản 1)
Hệ quả kéo theo là: “Khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” thì “không ai bị coi là có tội”, song vẫn có thể “phải chịu hình phạt“. Ở các nước văn minh thì hiển nhiên không ai “phải chịu hình phạt” khi chưa “bị coi là có tội”. Nhưng ở xứ sở bất an, nơi khi được công an “mời vào” đồn thì vẫn còn mạnh khỏe, mà lúc “tiễn ra” có thể đã liêu xiêu, thậm chí có trường hợp trở thành xác không hồn, thì việc triệt tiêu 5 chữ “và phải chịu hình phạt“ sẽ giúp cho công an nhân dân thêm vô tư “luyện võ” với Nhân dân.
Đoạn thứ hai trong Điều 72 của Hiến pháp 1992 viết rằng:
“Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.”
Trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, quy định này được sửa thành:
“Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.” (Điều 32, Khoản 4)
Nghĩa là: Từ “giam giữ” được thay bằng “tạm giữ, tạm giam”. Hậu quả là: Khi đã kết án tù giam và chuyển từ trạng thái “tạm giữ, tạm giam” sang hình thức “giam giữ” để chấp hành án, thì người tù không còn được bảo vệ và người coi tù làm trái pháp luật không còn bị xử lý theo quy định của điều khoản sửa đổi.
Ba nội dung bị loại bỏ được đề cập ở trên đều có chung một “tội” là: Chúng hay để Dân níu bám, nhằm tố cáo chính quyền vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Có lẽ vì vậy nên phải “kết liễu” chúng, đẩy chúng ra khỏi Hiến pháp, để… giữ gìn uy tín cho chính quyền. Ngoài ra, hai quy định sau đây cũng đã bị loại bỏ khỏi dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Điều 64 về hôn nhân và gia đình trong Hiến pháp 1992 được sửa thành Điều 39 trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhưng lại bỏ đi đoạn quy định về trách nhiệm nuôi dạy con của cha mẹ và trách nhiệm chăm sóc ông bà, cha mẹ của con cháu. Điều đó cũng có nghĩa là bỏ đi quyền của con cái được cha mẹ nuôi dạy và quyền của ông bà, cha mẹ được con cháu chăm sóc.
Điều 59 của Hiến pháp 1992 được sửa thành Điều 42 trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhưng bỏ đi quy định:
“Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí.”
Và nó được thay bằng một quy định chung chung trong Điều 66:
“Nhà nước… quy định phổ cập giáo dục; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý…”
Vậy là, theo dự thảo sửa đổi Hiến pháp, bậc tiểu học không còn hiển nhiên được miễn học phí.
Quyền treo trên lửa
Loài người từ khi sinh ra đã tồn tại và phát triển nhờ biết lợi dụng. Ban đầu thì sống nhờ săn bắt và hái lượm, tức là lợi dụng rừng và biển. Rồi tiến hành trồng cấy, tức là lợi dụng đất đai và ánh sáng mặt trời. Từ vận chuyển hàng hóa trên sông đến ngăn đập tạo ra thủy điện đều là lợi dụng sức nước. Từ căng buồm ra khơi đến tạo ra phong điện đều là lợi dụng sức gió…
Đảng Cộng sản Đông Dương đã lợi dụng thời cơ, khi phát xít Nhật bị quân đồng minh đánh bại và chính quyền thuộc địa Pháp chưa kịp hồi sinh, để cướp chính quyền. Trong những năm tháng hoạt động bí mật, đảng đã lợi dụng sự cưu mang, giúp đỡ và che chở của những người giàu có, để rồi khi chiếm được chính quyền lại đem bao ân nhân ra đấu tố… trong cải cách ruộng đất. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đảng Lao động Việt Nam cũng đã lợi dụng tính mạng và của cải của Nhân dân cùng với sự ủng hộ của bạn bè quốc tế để giành thắng lợi.
“Lợi dụng” thuộc vào bản năng sống và hành động của con người. Vậy thì việc “lợi dụng” có gì sai? Lợi dụng điều kiện thuận lợi không thể bị coi là xấu, mà không lợi dụng điều kiện thuận lợi cũng chẳng phải là điều đáng để ngợi ca.
Trong các nhà nước pháp quyền, hoạt động của toàn xã hội được điều tiết bằng pháp luật. Xã hội càng văn minh, càng đa dạng thì hệ thống pháp luật càng cồng kềnh và phức tạp. Dù cố gắng đến đâu đi nữa, thì vẫn luôn tồn tại những kẽ hở pháp lý và những quy định chồng chéo. Khi có kẽ hở thì công dân có quyền lách qua mà không hề vi phạm pháp luật. Khi tồn tại nhiều điều khoản chồng chéo, với những quy định khác nhau có thể áp dụng cho cùng một vụ việc, thì đương sự có quyền áp dụng điều khoản có lợi nhất cho mình. Vì vậy, ở một số nước phát triển cao vẫn công khai bày bán những cuốn sách về các mẹo tính thuế để giảm thuế. Những hành động như vậy không phải là tội lỗi, mà hoàn toàn hợp pháp.
Ấy vậy mà ở CHXHCN Việt Nam lại có một loại tội gọi là “tội lợi dụng…”. Kỳ khôi nhất là “tội lợi dụng sơ hở của pháp luật…”. Nếu cần xử lý, thì trước hết phải xử lý những người đã tiêu tốn tiền của Dân mà tạo ra sơ hở pháp luật, chứ sao lại dồn hết trách nhiệm lên đầu những người lợi dụng sơ hở đó? Kiểu quy tội này cũng “hợp lý” như việc quan phụ mẫu mặc quần thủng… lên công đường, rồi lại phạt dân đen vì tội nhìn vào chỗ thủng.
Hiến pháp 1992 có hai điều khoản “cấm lợi dụng“:
“Không ai được… lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.” (Điều 70, Đoạn 3)
“Nghiêm cấm việc… lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.” (Điều 74, Đoạn 4)
Điều gì đáng nói ở đây? Như đã phân tích ở trên, riêng hành động “lợi dụng” thì không thể coi là tội, và vì vậy không thể cấm. Để mô tả những thứ cần cấm và có thể cấm trong hai điều khoản kể trên, thì chỉ cần viết gọn lại như sau là đã quá đủ:
“Không ai được… làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.”
“Nghiêm cấm việc… vu khống, vu cáo làm hại người khác.”
Nghĩa là bỏ đi hai đoạn “lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo“ và “lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo“. Khi vi phạm các điều cấm vừa viết, thì dù “lợi dụng…” hay không cũng chẳng làm cho tội nặng lên hay nhẹ đi. Tức là, xét về mặt lô-gíc thuần túy thì các đoạn “lợi dụng…“ là hoàn toàn thừa.
Vậy thì, tại sao nhà cầm quyền vẫn cố tình cài thêm các đoạn “lợi dụng…” vào các điều khoản ấy?
Phải chăng, đó là thủ đoạn pháp lý, nhằm hạn chế và cản trở những quyền con người và quyền công dân được gán sau từ “lợi dụng”?
Chắc hẳn,mục tiêu mà họ nhắm tới là ngăn cản việc thực thi các quyền đó, chứ không phải những cái gọi là vi phạm, mà họ bám vào để kết tội. Từ “lợi dụng” bị lạm dụng để bắc cầu, nhằm kết nối các quyền con người với các tội, để kiếm cớ phủ định các quyền chính đáng, rồi trấn áp và trừng trị những người thực thi các quyền đó.
Ví dụ: Nếu ai đó thực thi “quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” (được quy định tại đoạn thứ nhất trong Điều 70 của Hiến pháp 1992), mà nhà cầm quyền không ưng, thì họ sẽ gán cho cái nhãn “làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Rồi dùng từ “lợi dụng” để bắc cầu “tín ngưỡng, tôn giáo” với cái vi phạm được ngụy tạo đó. Kết quả thu được là tội “lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Vậy là có thể vận dụng đoạn thứ ba trong Điều 70 của Hiến pháp 1992 và hệ quả của nó trong Bộ luật Hình sự (Điều 258) để trừng trị.
Điều 70 và Điều 74 của Hiến pháp 1992 được sửa đổi thành Điều 25 và Điều 31 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp, trong đó vẫn duy trì hai khoản “cấm lợi dụng”:
“Không ai được… lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.” (Điều 25, Khoản 3)
“Nghiêm cấm việc… lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.” (Điều 31, Khoản 3)
Đi xa hơn nữa, họ còn đưa thêm một điều khoản “cấm lợi dụng” hoàn toàn mới vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp:
“Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.” (Điều 16, Khoản 2)
Với bảo bối vạn năng này, tất cả các quyền con người và quyền công dân đều có thể bị cản trở. Cái nhãn “xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác” thì quá bao la và có thể dễ dàng ngụy tạo. Trên thực tế, họ cũng chẳng cần phải mất công tìm kiếm hay bày đặt chứng cớ, mà chỉ cần nhắm mắt đưa ra kết luận mang tính quy chụp.
Những ai đã từng trực tiếp chứng kiến các cuộc biểu tình yêu nước, phản đối hành động gây hấn của “bạn 16 chữ vàng”, diễn ra tại Hà Nội vào hai mùa hè 2011 và 2012, thì đều có thể nhận thấy rằng: Những người tham gia biểu tình rất ôn hòa và luôn chú ý giữ gìn trật tự công cộng, để công an không có cớ trấn áp. Nếu có hỗn loạn thì lại do chính những người mang danh lực lượng giữ gìn an ninh và trật tự cố ý gây ra. Thế nhưng, nhà cầm quyền vẫn vu cho những người biểu tình tội gây rối trật tự công cộng để đàn áp. Đó là một trong những thủ đoạn đã được áp dụng trên thực tế để cản trở và trấn áp công dân thực thi quyền tự do biểu tình.
Chưa hài lòng với cái lưới tà ma bao trùm kể trên, họ còn bổ sung một điều khoản “cấm lợi dụng” sau đây vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp:
“Nghiêm cấm hành vi lợi dụng hoạt động văn hóa, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam, truyền bá tư tưởng, xuất bản phẩm và các hình thức khác có nội dung phản động, đồi trụy, mê tín, dị đoan.” (Điều 64, Khoản 4)
Với quy định này, nhà cầm quyền có thêm phương tiện pháp lý để cản trở quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí…
Thủ đoạn lợi dụng… từ “lợi dụng” để biến những hoạt động chính đáng và hợp pháp của công dân thành tội lỗi là như vậy.
Quyền nằm dưới dao
Hiến pháp 1992 có một điều rất đặc biệt, đó là:
“Điều 69: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.”
Đặc biệt ở chỗ nào? Nó quy định 6 quyền cơ bản của công dân, nhưng… trên thực tế thì tất cả 6 quyền ấy đều bị nhà cầm quyền cản trở.
Ví dụ điển hình là quyền biểu tình. Với ràng buộc “theo quy định của pháp luật”, nhà cầm quyền có thể thông qua Quốc hội để ban hành luật, nhằm hạn chế quyền biểu tình trong một khuôn khổ nào đó. Nhưng hàng chục năm trôi qua, vẫn không xuất hiện một luật nào liên quan đến biểu tình. Nhiều người, kể cả giới cầm quyền, nhầm tưởng rằng: Khi chưa có luật về biểu tình thì công dân chưa được phép biểu tình. Nhưng bài “Quyền biểu tình của công dân” đã chỉ ra rằng: Theo Hiến pháp hiện hành thì công dân luôn luôn có quyền biểu tình. Nếu đã có luật về biểu tình thì công dân phải tuân theo ràng buộc của luật đó. Khi chưa có luật về biểu tình thì công dân càng có quyền biểu tình, và quyền ấy không bị hạn chế bởi pháp luật, tức là càng tự do.
Điều 4 của Hiến pháp 1992 quy định rằng:
“Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Căn cứ vào điều khoản này thì có thể nói rằng: Việc công dân biểu tình khi chưa có luật về biểu tình còn chính đáng và hợp pháp hơn so với việc ĐCSVN hoạt động khi chưa có luật quy định về khuôn khổ hoạt động của đảng. Tại sao lại chính đáng và hợp pháp hơn? Bởì vì “Nhà nước chỉ được làm những điều pháp luật cho phép, còn Nhân dân được làm tất cả những điều pháp luật không cấm.” Nhà nước được hiểu là “một tổ chức xã hội đặc biệt của quyền lực chính trị, được giai cấp thống trị thành lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của mình”, nên ràng buộc kể trên đối với Nhà nước cũng có hiệu lực cho ĐCSVN. Hơn nữa, như ông Nguyễn Trung đã nhận định, “Đảng mới là nhà nước đích thực: Nhà nước đảng trị.” Rõ ràng, Hiến pháp hiện hành không hề đề cập đến khuôn khổ hoạt động của đảng và cũng chưa có luật nào quy định về khuôn khổ đó, cho nên đảng cũng chưa có được “những điều pháp luật cho phép” để mà “được làm”, để mà “hoạt động”. Trong khi đó, quyền biểu tình của công dân được minh định trong Hiến pháp hiện hành và chưa có luật nào hạn chế quyền ấy, nên hiển nhiên là công dân có quyền biểu tình không hạn chế.
Để ngăn cản và đàn áp biểu tình, chính quyền thường viện dẫn Nghị định Quy định một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng số 38/2005/NĐ-CP và Thông tư số 09/2005/TT-BCA (hướng dẫn thi hành nghị định đó). Nhưng bài “Lực cản Nhà nước pháp quyền“ đã chỉ ra rằng:
- Nghị định số 38/2005/NĐ-CP và Thông tư số 09/2005/TT-BCA vi phạm Hiến pháp và pháp luật;
- Chính phủ không có quyền ban hành nghị định để hạn chế quyền công dân;
- Dù bỏ qua hai khía cạnh vừa kể, thì lời văn của hai văn bản ấy cũng không cho phép áp dụng chúng để cản trở biểu tình yêu nước, như những cuộc biểu tình ôn hòa đã diễn ra ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trong hai năm 2011 và 2012.
Hẳn nhà cầm quyền đã nhận ra rằng: Hiến pháp và pháp luật hiện hành không cho phép họ cản trở quyền biểu tình của công dân. Ban hành luật về biểu tình thì họ hoàn toàn không muốn, vì dù quy định ngặt nghèo đến đâu đi nữa thì vẫn sẽ “lọt lưới” một số cuộc biểu tình. Vậy phải làm thế nào bây giờ?
Lợi dụng thời cơ sửa đổi Hiến pháp, họ đã sửa Điều 69 của Hiến pháp 1992 như sau:
“Điều 26: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.”
Điều gì thay đổi ở đây? Họ đã xóa hai từ “có quyền” trước đoạn “được thông tin” và trước đoạn “hội họp, lập hội, biểu tình”. Đồng thời, họ dùng chữ “được” (vốn dĩ chỉ là một thành phần của từ “được thông tin”) thay cho hai từ “có quyền” ấy. Để làm gì? Để xóa bỏ những quyền cơ bản đó của công dân. Từ chỗ công dân luôn “có quyền” (kể cả khi không có luật hoặc chưa có luật liên quan), bây giờ bị tước “quyền”, và “quyền” bị hạ cấp xuống thành những thứ “được” ban phát. Mà “được… theo quy định của pháp luật” thì cũng có nghĩa là “chỉ được… theo quy định của pháp luật”. Tức là công dân “chỉ được” ban phát nếu nhà cầm quyền đã ban hành “quy định của pháp luật”. Khi nhà cầm quyền chưa muốn, lờ đi việc ban hành “quy định của pháp luật”, thì Dân sẽ không “được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”.
Đây là một thủ đoạn pháp lý tinh vi, nhằm tước đoạt quyền được thông tin và các quyền hội họp, lập hội và biểu tình của công dân.
Một điều khoản khác rất đáng lưu ý trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 là:
“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng.” (Điều 15, Khoản 2)
Điều khoản này là một sáng tạo pháp lý mới mẻ của các nhà lập hiến CHXHCN Việt Nam. Chữ “chỉ” tạo ra ảo tưởng rằng: Điều khoản này nhằm hạn chế những hoàn cảnh mà quyền con người và quyền công dân có thể bị giới hạn, tức là để bảo vệ các quyền đó. Thế nhưng hậu quả của nó thì ngược lại.
Vốn dĩ, việc “quyền con người, quyền công dân có thể bị giới hạn” không hề được đề cập đến trong Hiến pháp 1992. Nay điều này được nêu đích danh trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhằm hiến định hóa việc chính quyền có thể giới hạn quyền con người và quyền công dân.
Danh sách “lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng” rộng đến mức có thể bao trùm mọi hoàn cảnh thông thường. Cho nên, nhà cầm quyền luôn có thể viện dẫn những lý do đó, nhằm giới hạn quyền con người và quyền công dân, bất cứ lúc nào mà họ muốn. Vì vậy, việc nhét chữ “chỉ” vào điều khoản ấy chẳng hề có tác dụng hạn chế phạm vi hành động của giới cầm quyền, mà chỉ ngụy trang, che đậy mục đích hiến định hóa ấy mà thôi.
Điều khoản kể trên quy định rằng “quyền con người, quyền công dân… có thể bị giới hạn”, nhưng lại không viết rõ ai và cấp nào có quyền giới hạn. Điều đó mở đường cho bộ máy cầm quyền các cấp có thể can thiệp tùy tiện vào quyền con người và quyền công dân.
Như vậy, Điều 15, Khoản 2 cũng là một thủ đoạn pháp lý tinh vi, nhằm thu hẹp quyền con người và quyền công dân.
Hai ví dụ kể trên nhắc nhở mọi người phải hết sức cảnh giác với những bẫy pháp lý đã được cài trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Giữ chút quyền Dân
Trong tham luận trình bày tại phiên họp Quốc hội vào buổi sáng ngày 16/11/2012, Luật sư Trương Trọng Nghĩa (Đại biểu Quốc hội khóa XIII của Thành phố Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam) đã “đề nghị một quan điểm, một nguyên tắc“, đó là:
“ Thành tựu của Hiến pháp 1992 cần được bảo vệ và tiếp tục phát huy, đặc biệt nguyên tắc Nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân, phát huy các quyền tự do cơ bản của nhân dân trên mọi mặt. Do đó, chỉ nên sửa đổi Hiến pháp 1992 nếu phát huy hơn nữa các quyền tự do, dân chủ, chú trọng đổi mới đồng bộ chính trị và kinh tế, nhờ thế tạo động lực mạnh mẽ hơn cho giai đoạn cách mạng mới. Nếu không làm được như vậy thì không nên sửa lặt vặt.”
Tiếc rằng, đề nghị hợp lý và sáng suốt này chưa được phản ảnh đúng mức trong bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Không “phát huy hơn nữa các quyền tự do, dân chủ”, như Đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa đề nghị, mà ngược lại, dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã cắt giảm nghiêm trọng quyền con người và quyền công dân.
Dân không quan tâm nhiều đến việc ghế lãnh đạo được hoán vị ra sao và quyền lực được chia lại thế nào. Họ đủ thông minh để hiểu rằng: Những tiến bộ được tung hô, như việc bỏ hiến định về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, có thể là một bước tiến trong tư duy của giới lãnh đạo và giới lý luận, nhưng sẽ chẳng tác động mấy đến thực tế cuộc sống. Khi không còn được gán cho vai trò chủ đạo, thì thành phần kinh tế nhà nước sẽ được giũ bớt trách nhiệm đối với nền kinh tế quốc dân, nhưng lại vẫn tiếp tục được hưởng mọi sự o bế và ưu tiên. Đó là lãnh địa lý tưởng cho tham nhũng, là đại lộ thông thoáng để tuồn tài sản toàn dân vào túi các quan tham.
Dân quan tâm nhất là các quyền lợi thiết thân, trong đó có quyền sở hữu đất đai.
Như đã trao đổi trong bài “Hai tử huyệt của chế độ”, quy định trong Hiến pháp 1992 về quyền lãnh đạo mặc nhiên của ĐCSVN (Điều 4) và đất đai thuộc sở hữu toàn dân (Điều 17) là hai vấn đề tồn tại then chốt. Chúng phải được khắc phục sớm, vì Dân, vì Nước và cũng vì chính ĐCSVN. Thế nhưng, hai quy định này vẫn được dự thảo sửa đổi Hiến pháp bảo lưu, trong khi quyền con người và quyền công dân lại bị thu hẹp đáng kể.
Đối với Dân, Hiến pháp kiểu này có thể trở thành bãi mìn pháp lý. Nếu dự thảo như vậy được thông qua, thì Hiến pháp có thể không còn là khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của Nhà nước và xã hội, mà trở thành cái gông cùm Nhân dân và Dân tộc.
Chất lượng dự thảo sửa đổi Hiến pháp thể hiện cái tâm và tầm của các tác giả, không chỉ bao gồm những người trực tiếp tham gia soạn thảo, mà kể cả những vị ngồi trên cao để chỉ đạo và áp đặt. Nếu chỉ hạn chế về tầm, tức là do trình độ hay do sơ suất, thì Nhân dân có thể góp ý để bù lại. Nhưng những ví dụ được đề cập ở trên cho ta ấn tượng là: Những thay đổi theo hướng tiêu cực trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã được tiến hành một cách có chủ ý và được tính toán kỹ lưỡng. Thậm chí, họ đã vận dụng cả những thủ thuật và thủ đoạn pháp lý tinh vi để thực hiện và che đậy mục đích đó. Khi tâm đã như vậy, thì liệu việc góp ý của Nhân dân có đủ để lay chuyển được quyết tâm sắt đá của họ hay không? Thật khó mà tin rằng họ có thể sữa chữa bản dự thảo để đưa ra một Hiến pháp thực sự tử tế với Dân.
Vì vậy, để bảo vệ quyền con người và quyền công dân, thì nên tạm dừng việc sửa đổi Hiến pháp 1992. Hãy đợi đến một thời điểm thuận lợi hơn, khi tầm đã đủ cao và tâm đã đủ ổn, rồi hãy thay đổi Hiến pháp một cách căn bản, theo chiều hướng tiến bộ, để có được một bản Hiến pháp thể hiện ý nguyện của Dân, do Dân và vì Dân.
Hà Nội, 15/01/2013







Nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh rất phiền lòng vì bài gốc đã bị cắt xén, lược bớt, thay đổi cho phù hợp với ý đồ của người biên tập và tờ báo
Nhà báo Nguyễn Thông: Hôm nay, dư luận và cộng động mạng xã hội có nhiều ý kiến về bài viết của nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh đăng trên báo Pháp luật TP.HCM, nhất là những đoạn liên quan đến cuốn sách mới Bên thắng cuộc của nhà báo Huy Đức.
Bạn bè đã lâu với ông Thanh, tôi có thể khẳng định mà không sợ sai rằng ông là một nhà nghiên cứu nghiêm túc, cẩn trọng; những phát ngôn hoặc bài viết của ông thường thể hiện sự suy nghĩ chín chắn, đầy đủ, vừa bao quát vừa có chiều sâu, và đặc biệt khách quan, bày tỏ thái độ cũng như cách đánh giá rõ ràng. Tuy nhiên, trong bài đăng báo Pháp luật nói trên, tôi thấy không toát lên điều ấy.
Cũng vừa may, chiều tối, ông Cao Tự Thanh gọi cho tôi bảo rằng ông đang rất phiền lòng vì bài gốc đã bị cắt xén, lược bớt, thay đổi cho phù hợp với ý đồ của người biên tập và tờ báo. Tôi đề nghị ông cho tôi bài gốc đã được ông chấp nhận trước khi đăng báo, và ông đã chuyển cho tôi, vậy xin đưa lên đây để mọi người cùng rõ quan điểm đầy đủ của một nhà nghiên cứu cẩn trọng.
Bài Bên thăng cuộc – logic sử học chưa phù hợp của báo PL Tp HCM ( Tại đây)
Còn đây là bản gốc:
Phỏng vấn người kết thúc việc phiên dịch Đại Nam Thực lục ở Việt Nam
Lịch sử Việt Nam thế kỷ XX từ góc nhìn quốc tế hóa và hiện đại hóa
Tháng 10. 2011, Đại Nam Thực lục Chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên viết về lịch sử Việt Nam dưới hai đời Thành Thái, Duy Tân của Quốc sử quán triều Nguyễn đã ra mắt người đọc (được in lần thứ hai tháng 8. 2012). Đến nay, trước thềm năm mới, tháng 12. 2012 Đại Nam Thực lục Chính biên Đệ thất kỷ viết về lịch sử Việt Nam dưới đời Khải Định lại tiếp tục ra mắt người đọc, cả hai quyển đều do nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh dịch và giới thiệu, Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản. Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh đã có cuộc trao đổi với anh, người kết thúc việc phiên dịch Đại Nam Thực lục ở Việt Nam.
Bộ Đệ thất kỷ này anh làm trong bao lâu?
Nó ngắn hơn bộ Đệ lục kỷ Phụ biên, nhưng tôi phải làm mất tám tháng. Vì nhiều chuyện mà nó ghi chép cũng được nhiều sách báo tài liệu đương thời ghi chép, không đối chiếu với những tài liệu ấy thì không thể hiểu rõ và dịch đúng được. Ngay từ cuối 2011 đầu 2012 Thư ký của tôi đã phải ra Hà Nội hai lần trong hai tháng để tìm đọc và sao chép tư liệu trong một số báo chí sách vở thời gian 1916 – 1925, đây là chưa kể tới công sức và thời gian của những người đã giúp đỡ tôi. Ví dụ phía Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp mà không vui lòng chụp giúp cho nguyên bản, thì tôi lấy gì mà dịch. Họ hỗ trợ người khác với tinh thần khoa học, chứ có phải với cung cách như ở xứ ta đâu!
Có vẻ như anh gặp nhiều khó khăn trong việc tập hợp tư liệu tham khảo?
Có đấy. Ví dụ tôi biết bản in 26 tờ mộc bản của bộ Đệ thất kỷ có bản dập ở Thành phố Hồ Chí Minh, cũng đã có được nội dung phần Phàm lệ trong đó, nhưng gọi điện xin qua xem lại thì người lãnh đạo cơ quan Lưu trữ ở Thành phố nói không có, cứ lên Đà Lạt đọc. Sau đó có một người bạn ở Viện Hán Nôm vào Thành phố công tác, có đủ giấy tờ, tôi nhờ hỏi giúp thì nhân viên ở đó nói có lệnh của cấp trên không cho đọc bản dập mộc bản. Cô ấy ra Hà Nội xin đủ giấy tờ liên hệ thì người lãnh đạo Lưu trữ ở Đà Lạt nói cô ấy nghiên cứu Đông y chứ không phải nghiên cứu lịch sử, không cho sao chụp. Mớ mộc bản ấy đều thuộc loại tư liệu lịch sử được tham khảo, mà người đọc cũng chỉ cần xem bản dập, cô ấy là người nhà nước, có đủ giấy tờ còn không được đụng tới, thì loại thảo dân như tôi biết tìm ai chứng nhận mình nghiên cứu cái gì để được đọc cái gì. Họ không cho đọc tôi cũng chẳng mất gì, có điều nếu trong 26 tờ mộc bản tức bản in chính thức ấy có chỗ nào khác với bản Đệ thất kỷ chép tay của Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp thì người đọc không được chửi tôi, thế thôi.
Còn nói thêm thì hệ thống Lưu trữ – Thư viện ở nước ta rất kém. Thư ký của tôi đọc tư liệu về cho biết có những bộ báo trước 1945 ở Thư viện Quốc gia Hà Nội nhiều năm không ai đụng tới, để đứng trên giá lâu ngày cong quằn thành hình chữ S, mượn ra đọc nhân viên thư viện mới biết là báo nát, sau đó không phục vụ nữa. Họ không đưa ra phục vụ để giữ gìn tài liệu là phải, nhưng như thế thì giữ những tư liệu ấy làm cái gì, thư viện đâu phải là bảo tàng? Cũng có một số cũ nát được lưu trữ và phục vụ bằng vi phim kiểu những năm 50 của thế kỷ trước, nhưng sử dụng và bảo quản đều rất bất tiện. Phải có kế hoạch và kinh phí, kỹ thuật này nọ để số hóa các tài liệu ấy chứ. Tôi hy vọng những người có trách nhiệm quan tâm tới những chuyện loại này, để hệ thống Lưu trữ – Thư viện của quốc gia làm tròn chức trách của mình với xã hội.
Anh nghĩ gì về việc đã kết thúc việc phiên dịch Đại Nam Thực lục?
Tôi chỉ nghĩ dịch hai bộ sử đó là việc phải làm, mình làm được thì cứ làm hết sức, còn kết thúc hay không thì có hề gì, chuyện chung thiên hạ ai mà độc quyền được. Với lại kết thúc một cái gì đó thì phải mở ra một cái gì đó, nếu không mở ra được thì cái kết thúc ấy có giá trị gì đâu.
Anh không lạc quan về việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam, lịch sử triều Nguyễn hiện nay à?
Vài ngàn trang tư liệu trong hai bộ sử chữ Hán tôi dịch có thể cũng quan trọng, nhưng còn hàng triệu trang tư liệu chữ Hán chữ Pháp và cả chữ quốc ngữ khác chắc chắn cũng quan trọng nhưng thử hỏi có bao nhiêu người làm sử lâu nay nhìn tới. Mà tư liệu chỉ là một phần của sử học. Ví dụ nhiều năm nay lịch sử Việt Nam thế kỷ XX chỉ được nhìn qua lăng kính sử Đảng, có khi còn được nhất hóa với sử Đảng, không khắc phục được sai lầm sử học này thì còn lâu chúng ta mới có được một bộ quốc sử đúng nghĩa ít nhất là về thế kỷ XX.
Trong phần giới thiệu Đệ thất kỷ, anh có nói lịch sử Việt Nam từ thời Pháp thuộc trở đi bị chi phối bởi hai tiến trình quốc tế hóa và hiện đại hóa, trong đó tiến trình quốc tế hóa đi trước và chia thành hai dòng quốc tế hóa cưỡng bức – quốc tế hóa tự nguyện. Xin anh giải thích rõ hơn về hai tiến trình này?
Trong lịch sử, sự tiếp xúc và giao lưu giữa các dân tộc và quốc gia luôn luôn diễn ra nhưng chủ yếu trong phạm vi nhỏ, không toàn diện và nhiều khi mang tính chất ngẫu nhiên. Nếu không có kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa thì không thể có phong trào quốc tế hóa như một quy luật phát triển của lịch sử thế giới từ thế kỷ XIX trở đi. Hiện nay người ta gọi đó là toàn cầu hóa, vì tính chất cưỡng bức đã giảm đi rất nhiều và quan trọng hơn là mang tính đa phương đa chiều chứ không phải chủ yếu là một chiều như trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tôi có viết trong lời giới thiệu Đệ thất kỷ rằng “Khác với hiện đại hóa cơ bản là sự thay đổi các tổ chức, thiết chế, quan hệ trong cấu trúc kinh tế – xã hội theo hướng hoàn thiện hơn để phù hợp với nhu cầu và xu thế trước hết của các hoạt động sản xuất cả vật chất lẫn tinh thần trong quốc gia, quốc tế hóa chủ yếu là sự tiếp thu các mô hình, chuẩn mực, giá trị nước ngoài trên phạm vi rộng và với quy mô lớn để thích ứng trước hết với sự giao dịch thế giới. Tiến trình quốc tế hóa do đó dễ phát triển theo đường hướng ly khai truyền thống, ít nhiều tách rời với những điều kiện có thật và tạo ra những mâu thuẫn trong tiến trình văn hóa – xã hội của đất nước”. Dĩ nhiên đó chưa chắc là một cách hiểu thật chính xác, vì đây là một vấn đề lịch sử và sử học rất lớn, phải có nhiều người cùng quan tâm và tìm hiểu mới làm rõ được. Nhưng tôi giới thiệu Đệ thất kỷ, chủ yếu chỉ nói đến thời điểm 1925 thì xác định nội hàm của khái niệm như vậy là tạm đủ để làm việc rồi. Còn quốc tế hóa tự nguyện là tôi muốn nói tới việc nhiều tổ chức và lực lượng yêu nước trước 1945 tiếp nhận các kinh nghiệm, chuẩn mực, giá trị nước ngoài để chống Pháp, ví dụ Phan Bội Châu và nhiều chí sĩ Đông du từng qua Nhật học tập với ý định tiến tới cầu viện Nhật Bản. Cái chính thống góp phần quy định cái phi chính thống, đã có quốc tế hóa cưỡng bức của Pháp thì sẽ có quốc tế hóa tự nguyện để chống Pháp, đó là một trong những logic của lịch sử Việt Nam thế kỷ XX.
Có thể vận dụng cách nhìn ấy để nhìn nhận lịch sử Việt Nam trước và sau 1975 không, xin anh nói rõ?
Có hai điểm phải nói thêm. Thứ nhất là trên bề mặt thì quốc tế hóa và hiện đại hóa có rất nhiều nét giống nhau, nên nhiều khi người ta tưởng là mình hiện đại hóa nhưng thật ra là đang quốc tế hóa. Giáo dục Việt Nam nhiều năm nay là một ví dụ, nhiều trường Đại học theo chương trình tiêu chuẩn quốc tế này nọ mà có đáp ứng được nhu cầu của đất nước đâu. Cho nên phải nhìn vào bản chất và chức năng, tôi có nói qua ở đoạn trích trên kia rồi.
Thứ hai là quốc tế hóa và hiện đại hóa cơ bản không mâu thuẫn với nhau, nhưng ở Việt Nam thế kỷ XX thì ách đô hộ của ngoại nhân đến 1945 rồi chiến tranh liên miên từ 1945 đến 1975 đã tạo ra giữa hai tiến trình này một sự lệch pha, sự lệch pha ấy dẫn tới nhiều mâu thuẫn về nhận thức xã hội ảnh hưởng bất lợi tới sự phát triển đất nước. Ví dụ sau giải phóng thì nhiều yếu tố văn hóa thị dân trong vùng tạm chiếm ở miền Nam trước đó bị đồng nhất với văn hóa thực dân mới, quần loe bị rọc, tóc dài bị cắt, truyện võ hiệp bị cấm. Chủ trương hòa giải và hòa hợp dân tộc đúng đắn thời bấy giờ lẽ ra đã đạt được hiệu quả xã hội cao hơn rất nhiều nếu không có sự lạc hậu như thế về nhận thức ở nhiều người chiến thắng vốn chưa sống trong bối cảnh kinh tế hàng hóa nên không có ý niệm đúng đắn về sinh hoạt thị dân.
Tiến trình hiện đại hóa ở Việt Nam trước 1945 chỉ đạt được kết quả phiến diện và nửa vời, vì nó được hướng tới phục vụ cho lợi ích của ngoại nhân chứ không phải cho nhân dân Việt Nam. Kinh tế xã hội Việt Nam năm 1945 còn rất lạc hậu, tiến hành chiến tranh chống Pháp xong đã chết dở, nên qua thời kỳ 1954 – 1975 hai bên tham chiến đều phải dựa vào nước ngoài. Nhiều tài liệu gọi đó là “cuộc chiến tranh hai phe”, tức tính chất quốc tế hóa của lịch sử Việt Nam thời gian 1954 – 1975 đã được xác nhận rõ ràng. Về nội dung thì chiến tranh chống Mỹ nhằm giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, nhưng về tính chất thì đó là một cuộc đấu tranh giữa hai đường hướng và cách thức quốc tế hóa khác nhau. Hàng chục quyển sách, hàng ngàn bài viết của những người lưu vong hay đối lập mà tôi đọc thấy trước nay cũng thế, cũng chỉ là muốn Việt Nam quốc tế hóa theo những đường hướng khác với nhà nước Việt Nam, rất giống nhau về cách tư duy, chỉ là quyền lợi khác nhau thì con đường khác nhau.
Sau 1975 tiến trình quốc tế hóa về chính trị ở Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển mặc dù là quốc tế hóa tự nguyện như điều 4 trong Hiến pháp 1980 rồi Hiến pháp 1992 ít nhiều cho thấy, trong khi việc hiện đại hóa về các mặt kinh tế, văn hóa và pháp lý tức nền tảng vật chất, cơ sở xã hội của chính trị thì không được quan tâm đúng mức. Từ thời đổi mới đến nay kinh tế có sự phát triển nhảy vọt nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ, nhiều người nhắc nhở chuyện phát triển bền vững thật ra là nói tới việc hiện đại hóa, tức phát triển trên cơ sở tái sản xuất mở rộng sức mạnh của chính đất nước đấy. Nhưng từ thời đổi mới, trong nhiều lãnh vực văn hóa và xã hội tốc độ quốc tế hóa lại nhanh hơn tốc độ hiện đại hóa. Nhiều giá trị, chuẩn mực nước ngoài dần dần chiếm ưu thế trong khi mặt bằng dân sinh và dân trí chưa phát triển đủ mức cần thiết để tiếp nhận và sử dụng chúng một cách chủ động và có hiểu biết. Tôi cho rằng nếu chúng ta không điều chỉnh được sự lệch pha này thì đó sẽ là một đại họa của dân tộc Việt Nam. Còn nói rộng ra thì Trung Quốc cũng đang chết dở vì sự lệch pha nói trên, nhưng họ là một nước lớn nên còn gây tai họa cho nhiều nước khác.
Mới đây, quyển sách Bên thắng cuộc gây ra nhiều ý kiến đánh giá trái chiều. Với cách nhìn nói trên thì anh đánh giá thế nào về quyển sách này?
Về tư liệu thì quyển sách ấy nêu ra nhiều chuyện tôi không biết. Nhưng tư liệu chỉ là một phần của sử học, còn phải có tri thức, phương pháp và bản lãnh thì may ra tư liệu mới giúp người ta thành sử gia được.
Cùng một số tư liệu như nhau nhưng trình bày khác nhau sẽ dẫn tới hiệu ứng thông tin khác nhau. Ví dụ một ông lãnh đạo cơ quan nhận xét cán bộ rằng “Anh A năng lực chuyên môn cao nhưng vô kỷ luật” thì y kẹt rồi, nhưng nếu ông ta nói “Anh A vô kỷ luật nhưng năng lực chuyên môn cao” thì y sẽ dễ sống hơn. Hay tôi có một đứa cháu con người bạn, lớn rồi mà ham học nên không lo chuyện vợ con, cứ xin cha mẹ cho đi du học hết Úc lại tới Trung Quốc. Có lần Tết y về tôi tới chơi gặp y bèn vu cáo “Sao mày không lo lấy vợ mà cứ ham ra nước ngoài chơi bời thế hả? Chú xem Niên giám thống kê của Trung Quốc thấy từ năm mày qua học bên đó thì tình trạng nạo phá thai ở các trường Đại học tăng vọt, mày vừa phải thôi chứ”, ba má y cứ bò ra cười. Tóm lại những sự kiện có thật là một chuyện, cách sắp xếp những sự kiện ấy để đưa người đọc người nghe tới kết luận mình muốn là chuyện khác. Nhưng logic của sử học phải ăn khớp với logic của lịch sử, nếu ăn khớp rồi thì nó sẽ trở thành một sức mạnh độc lập chặn người làm sử lại trước những ngã rẽ chủ quan, những ngõ cụt thiên kiến để đi tới và nếu cần thiết thì điều chỉnh mục tiêu học thuật của mình. Không có được cái công cụ phương pháp luận ấy thì tác phẩm sử học đồ sộ công phu cỡ nào cũng có yếu tố ngụy thư. Tương tự, nếu đánh giá tác phẩm sử học từ góc độ quyền lợi và tâm lý của mình hay nhóm mình bất kể sự thật và logic lịch sử thì khen hay chê cũng đều có thể sai lầm, có nhân danh cái gì vĩ đại cao cả cũng vẫn thế thôi.
Quyển sách ấy phủ nhận nhiều chuyện trước kia được coi là đúng đắn hay tất yếu, chuyện đó thì bình thường. Có điều phủ nhận cái gì là một chuyện, phủ nhận để làm gì là chuyện khác. Nói ra những cái sai của Đảng cộng sản, của chính quyền Việt Nam sau 1975 thì dễ thôi, ngay Đảng cộng sản và chính quyền Việt Nam cũng từng nói tới nhiều cái trong nhiều lần rồi. Điều quan trọng là nêu ra được nhận thức thế nào mới là đúng, hành động thế nào để khắc phục tối đa hậu quả của những cái sai ấy mới là hay, sử học có là sử học, có là kho lưu trữ những kinh nghiệm quá khứ, có là chất gắn kết quá khứ với hiện tại và tương lai hay không là ở chỗ ấy, chứ đã rắp tâm ca tụng tung hô hay công kích phủ nhận thì cần gì tới sử học.
Tôi mới đọc phần đầu quyển sách ấy nên không thể có ý kiến chính xác. Nhưng về tư duy sử học thì phần đầu quyển sách ấy có vẻ không khác với nhiều cái tôi đã đọc, chưa thấy tác giả xác lập được cái logic sử học phù hợp cần có để thực hiện đề tài rất khó và rất lớn này.
Trong bối cảnh phức tạp như hiện nay chúng ta nên có thái độ, cách nhìn, lý giải lịch sử như thế nào cho phù hợp với sự phát triển và giảm thiểu tổn thương cho dân tộc đã bị quá nhiều thương tổn?
Nhiều người làm sử và đọc sử không quan tâm tới cái logic của lịch sử Việt Nam nói chung và thế kỷ XX nói riêng, nên trước nay có nhiều ngụy thư mà cũng có nhiều lời khen chê kiểu đạo đức luận, chán lắm. Từ 1930 đến nay Đảng cộng sản là một lực lượng góp phần làm ra lịch sử Việt Nam, nhưng chính lực lượng ấy cũng là một sản phẩm cụ thể của lịch sử Việt Nam, ngay từ lúc mới hình thành cũng mang nhiều yếu tố thuộc địa nửa phong kiến, phần đông đảng viên yêu nước là chính chứ có được bao nhiêu người thật sự hiểu chủ nghĩa Marx. Nhưng vì họ không có điều kiện tự khắc phục hạn chế của chính mình trong mấy mươi năm chiến tranh nên sau 1975 những khiếm khuyết trí mạng ấy mới bộc lộ toàn diện, tiếp tục bao cấp đã sai mà mở cửa đổi mới cũng có nhiều cái chưa đúng. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đương chức từng phát biểu công khai trên báo chí, đại ý là càng giữ chức vụ cao hơn ông càng thấy ít tự do hơn. Đủ thấy một cá nhân luôn bị giới hạn bởi tổ chức trong đó họ hoạt động, còn một tổ chức luôn bị giới hạn bởi hoàn cảnh lịch sử trong đó nó tồn tại. Không nên đánh giá thấp vai trò cá nhân, nhưng phải giải thích lịch sử bằng chính lịch sử chứ không thể quy kết vào ý chí hay đạo đức của một số cá nhân được. Cái mà nhiều người gọi là phải công bằng với lịch sử chính là như thế.
Hết
Theo blog NT







Thách thức lớn nhất với Trung Quốc đã tới?

Trước ngày Đại hội 18 đảng cộng sản Trung Quốc họp tôi có anh bạn dịch xong một bài viết mà anh nói là tác giả viết rất công phu. Anh nhắn tới bảo nên đọc. Đó là bài “ Hồi kết cho chế độ chuyên chế dẻo dai của Đảng Cộng sản Trung Quốc?” của tác giả người Trung Quốc Lý Thành. Ông Lý hiện là Giám đốc trung tâm nghiên cứu Trung Quốc, Viện Brookings, Washington (Mr Cheng Li: cli@brookings.edu). (Đúng như anh bạn giới thiệu, bản dịch bài viết nói trên sau đó đã xuất hiện trên nhiều trang web và blog cá nhân và nhận được sự quan tâm của rất nhiều người Việt Nam).
Lại nói bữa ấy khi đọc xong bài viết, cũng chẳng cần tới một trí tưởng phong phú, trong tôi vẫn có thể hình dung ra những nét chủ yếu về hiện tình đất nước Trung Quốc hiện nay ra sao. Đó là, một mặt là phác thảo chung mang tính tổng hợp – tức là nét vẽ ở tầm vĩ mô về một đất nước rộng lớn, dân đông nhất thế giới lại liên tục có những kíp lãnh đạo quốc gia tham vọng cỡ lớn nhất thế giới -, mặt khác là một số khắc họa điển hình khá rõ nét được dẫn ra từ kho tư liệu phong phú và cả cái cách của “người trong cuộc” nữa; tất cả gộp chung lại đã tạo nên bức chân dung khá chân thật và hoàn của xã hội Trung Quốc hiện tại.
Vậy nên, một cách tổng quát nhất có thể nói như thế này: Mấy thập kỷ qua đất nước Trung Quốc có phát triển, thậm chí là phát triển vượt bậc và nhanh chóng, nhưng con đường phát triển sắp tới, các bước đi của đất nước này sẽ trải qua đang tự nó nảy sinh rất nhiều vấn đề nghiêm trọng, đúng ra phải nói là hết sức nghiêm trọng mới lột tả hết ý nghĩa của vấn đề.
Tự nhiên chúng ta liên tưởng và nhớ lại những vụ như Ô Khảm mới xảy ra gần đây thôi ở khu vực phía Nam Trung Quốc. Đây là vụ việc nông dân nổi dậy mạnh mẽ và kiên gan thách thức nhiều ngày chống lại bọn quan lại nhũng lạm địa phương câu kết với bọn tài phiệt cướp đất đai của họ, nó ở thế buộc báo chí truyền thông nước này phải công khai trước công luận. Vấn đề là không chỉ ở trường hợp Ô Khảm mà với nước Trung Quốc nông dân vẫn chiếm số đông, biết bao nhiêu là các dạng Ô Khảm khác đã và đang bộc lộ?
Rồi còn nhiều vụ động trời nhạy cảm khác xảy ra ở nước này, ví như các trường hợp người dân, người tu hành tự thiêu ở Tây Tạng. Kèm theo là sự đàn áp thẳng thừng của quân đội trung ương phái lên. Đây thực sự là biểu hiện rạn vỡ ra của nhiều mối mâu thuẫn gay gắt giữa người Hán đa số với các chủng tộc thiểu số, cộng với sự khác biệt và bài xích lẫn nhau giữa các tôn giáo ở Trung Quốc đã đến hồi không dàn xếp được nữa! Những điều đó cho thấy tầm mức phức tạp và khó khăn của nhà cầm quyền Trung Quốc đang phải đương đầu lúc này trước sự chống đối của người dân.
Với một quốc gia quen với dân chủ (ta hay gọi là chế độ tư sản tư sản), thì sự chống đối chính quyền của người dân được coi/và được hiểu là rất bình thường. Cơ chế của một nhà nước pháp quyền ở những nơi đó họ ứng xử và điều chỉnh tất cả các mối mâu thuẫn đó trên cơ sở pháp luật mà người bị trị cũng như kẻ cai trị buộc phải tuân theo. Rồi ra tiến bộ xã hội có nhích lên hoặc lùi xuống là tùy ở tương quan lực lượng giữa người chống đối và chính quyền. Lịch sử chứng minh là các xã hội như vậy vẫn đứng vững và tiếp tục tiến về phía trước.
Nhưng các điều trên xảy ra ở Trung Quốc thì câu chuyện lại là sự “bất bình thường”, thậm chí là không thể hiểu nổi nếu được diễn giải và cắt nghĩa theo các tiêu chí “sự ưu việt” của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tức là những sự việc trái chiều với ý ban lãnh đạo trung ương đã xảy ra ở Trung Quốc vừa qua thật sự là những câu chuyện nghiêm trọng.
Trở lại bài luận văn của ông Lý Thành. Mình rất chú ý đến một đoạn văn mà như kết luận của tác giả, đoạn đó nguyên văn như sau: “Nếu muốn lấy lại lòng tin của quần chúng và tránh một cuộc cách mạng hướng từ dưới lên thì ĐCSTQ phải từ bỏ ý tưởng về một “chế độ chuyên quyền dẻo dai,”đồng thời đi theo đường lối chuyển đổi dân chủ một cách có hệ thống với những bước đi dũng cảm về hướng bầu cử dân chủ trong nội bộ đảng, thiết lập sự độc lập của tòa án và dần dần mở cửa cho truyền thông chủ đạo”.
Hôm nay, khi Đại hội 18 đã qua đi được vài tháng thì được biết, ngày 25/12 năm ngoái, hơn 70 học giả và luật sư hàng đầu đã trình một bản kiến nghị kêu gọi ban lãnh đạo mới của nước này tiến hành những cải cách chính trị thật sự. Kiến nghị cải cách đó bao gồm “bầu cử tự do, bảo vệ quyền tự do ngôn luận, thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân và xây dựng một hệ thống tư pháp độc lập”. Điều đó có nghĩa là một cuộc cải cách hàng loạt các vấn đề hết sức cơ bản liên quan đến thể chế chính trị hiện hành ở Trung Quốc hiện nay.
Với một đất nước khổng lồ như Trung Quốc, quyền bính lại trong tay một đảng chính trị đầy biến báo và thủ đoạn như đảng cộng sản Trung Quốc – mà toàn thế giới chứng kiến từ năm 1921 đến nay -, việc phán đoán sự việc xảy ra với nước này nhiều khi là “thày bói xem voi” khi đứng ở nước ngoài nhìn vào. Vì thế ở đây, với những dẫn chứng và nhận định của chính những nhà trí thức nổi tiếng đang sống và làm việc tại Trung Quốc thể hiện trong bản kiến nghị gửi giới lãnh đạo chóp bu nước này chính là những điều thật đángchú ý và quan tâm nhất. Hơn thế nữa trong số này còn có vị giáo sư khả kính, người đã từng giúp và hướng dẫn trực tiếp ông Tập Cận Bình xây dựng và hoàn thành bản luận văn tiến sĩ năm xưa. Tóm lại toàn là “những người trong cuộc” nói về “những chuyện trong cuộc” – những chuyện đã ở mức nước sôi lửa bỏng, hoặc là vào thế dồn vào chân tường đối với đời sống chính trị của nước Trung Quốc ngày nay.
Liệu đây có phải là thời điểm của những thách thức lớn nhất đối với Trung Quốc?
Theo blog NV







Thưa Thủ tướng, lỗi ở chúng ta
Nguyễn Thanh Hà
Vâng, theo suy nghĩ của tôi, đi vào nền kinh tế thị trường, dù có định hướng xã hội chủ nghĩa thì vẫn có những quy luật riêng của nó. Không nói đâu xa, nước phát triển nào bây giờ mà không có “tập đoàn” kinh tế. Tất nhiên, họ có thắng có thua, nhưng chủ yếu là thắng và nếu có
thua cũng không đến nỗi “thua” đậm như tập đoàn ở Việt Nam. Lý sự về vấn đề này thì xin cắp sách đến học nhiều năm các nhà kinh tế, các tiến sĩ, giáo sư kinh tế hiện có hàng vạn hàng chục vạn, nghe đâu có cả những nhà kinh tế đã từng học ở Hoa Kỳ về nữa. Nhưng vì sao, tập
đoàn kinh tế Việt Nam những năm qua lại “đổ vỡ”, “nợ xấu, thất thoát” nhiều đến thế, con số 1,33 triệu nghìn tỷ đồng không phải là con số nhỏ, trong khi đất nước ta, nông dân và nhân dân lao động ta hằng ngày chắt chiu từng đồng. Nguyên nhân do đâu, ai chịu trách nhiệm ? Lâu nay
ta có thói quen dưa cho nhau, đổ lỗi cho nhau, chẳng anh nào dám đứng ra chịu trách nhiệm trước những thất bại của phát triển kinh tế. Rồi cuối cùng là “hoà cả làng” và “để rút kinh nghiệm !”
Rút kinh nghiệm đến 1,33 triệu nghìn tỷ đồng thì quả là “to gan lớn mật”. Hay là, tiền của dân, muốn đốt vào cái “rút kinh nghiệm” bao nhiêu thì đốt. Đau lòng xong lại đi uống bia và ngủ giường đệm ngoại thì, nói thực tôi xin tự nguyện “mỗi ngày đau lòng vài ba lần”. Tiền bạc của dân, nghĩa là tiền mồ hôi nước mắt thậm chí cả máu của nhân dân chứ không phải là chuyện nói cho vui, hoặc “bông phèng” chốc lát ? Cũng may mà Thủ tướng của chúng ta bắt đầu thấy “đau lòng”. Vâng xin thưa, lẽ ra Thủ tướng phải đứng ra trước bàn dân thiên hạ mà nhận lấy trách nhiệm, và đền nữa…
Tuy nhiên, theo tôi, cãi vã nhau mãi về chữ nghĩa danh từ, khái niệm chỉ tổ mất thì giờ và chẳng có ai nghe đâu. Ở nước ta bây giờ, người nói thì nhiều, thậm chí nói ngày này sang tháng khác, những lại có rất ít người nghe. Vì nghe những điều “nghịch nhĩ” thì một là “luận điệu của kẻ thù đich” hai là của những người “mất lòng tin vào Đảng” ! Tuy thế, tôi là một công dân nay đã 78 tuổi, đã từng được học lý luận Mac-Lê-nin, Lịch sử Đảng, những phạm trù và những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội…Bây giờ mới thấy thấm thía rằng, chung quy vẫn chỉ tại “quan điểm” mà ra cả. Ta có các tập đoàn kinh tế Nhà nước, tức là kinh tế quốc doanh, thuộc quyền quản lý của Nhà nước, cứ tưởng như thế là nó sẽ mạnh lên, sẽ là những “quả đấm thép” là “chủ đạo” của nền kinh tế quốc dân. Bây giờ nhìn lại, hầu hết các tập đoàn kinh tế Nhà nước, nghĩa là “kinh tế quốc doanh” không còn là “chủ đạo” nữa mà là “chủ đạo làm hại quốc gia !” Chính một số báo cáo kinh tế của Chính phủ vừa qua đã khẳng định: trong suy thoái kinh tế toàn cầu, nước ta có bị ảnh hưởng, nhưng không nên đổ tại cái “toàn cầu ấy” mà phải nhìn vào chính mình, phân tích cái được, cái chưa được về quan điểm xây dựng kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế, chứ không phải “xây dựng chủ nghĩa xã hội” riêng của nước ta, do đảng ta lãnh đạo. Trong suy thoái ấy, tại sao nền kinh tế nông nghiệp nước ta, mặc dù còn bị coi nhẹ “tam nông” trong những năm qua, lại là “chỗ dựa” cho ta vượt qua suy thoái. Vì sao ? Vì, nhìn chung, nông nghiệp ta còn lạc hậu, khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp chưa phát triển mạnh, chủ yếu vẫn dựa vào lao động cơ bắp của mấy chục triệu nông dân và đất đai mầu mỡ của Việt Nam. Thế mà, do “nông nghiệp đã khoán hộ, khoán đến hộ nông dân, sức lao động tuy còn đơn giản và lạc hậu nhưng vẫn là sức mạnh chiến thắng thiên tai, giành mùa màng bội thu, giành sản phẩm thuỷ hải sản xuất khẩu nhiều đô la và nhiều loại sản phẩm khác từ nông nghiệp…Do đó nông nghiệp, nông dân và nông thôn lại trở thành “chỗ dựa’ cho phát triển kinh tế nước ta. Rõ ràng ta chưa có một tập đoàn kinh tế nào thuần tuý nông nghiệp, không cần tập đoàn kinh tế nông nghiệp làm chủ đạo, mà chúng ta vẫn gặt hái được kết quả nhỡn tiền. Bây giờ, riêng lúa, cả nước đạt trên dưới 45 triệu tấn quả là con số lịch sử. Còn nhớ dạo còn Phó Thủ tướng Lê
Thanh Nghị, nông dân làm ăn tập thể, bao cấp, không năm nào Chính phủ không cử Phó Thủ tưởng ra nước ngoài để xin viện trợ lương thực bảo đảm dân ta không bị đói, nhưng ăn không no, chưa nói là ăn ngon. Bây giờ khoán hộ sản xuất nông nghiệp, chúng ta có được 45 triệu tấn thóc/năm. Như thế mới có 7,7 triệu tấn gạo xuất khẩu năm 2012. Gạo Việt Nam không chỉ nuối sống 90 triệu người Việt Nam mà còn góp phần nuôi nhiều triệu nhân dân thế giới. Tự hào lắm. Nếu đảng và Nhà nước thay đổi quan điểm nhìn nhận nông dân, đầu tư, giúp đỡ nông dân nhiều hơn, chắc chăn nông dân sẽ làm nên nhiều điều kỳ diệu hơn nữa.
Thứa hai, cũng theo báo cáo chính thức, đến nay có khoảng 54.000 doanh nghiệp vỡ nợ hoặc phá sản, hàng chục vạn công nhân lao động thất nghiệp hoặc không có việc làm. Nhưng cũng trong hoàn cảnh này, rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân, làm các mặt hàng thiết yếu, vẫn đứng vững và có phần phát triển. Còn to tát như “tập đoàn” thì mọi người đã thấy, đổ vỡ, nợ xấu, thất thoát quá nhiều. Vậy thì quan điểm của chúng ta trong thời kỳ phát triển kinh tế này nên xác định quan điểm như thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam, không nên và không thể cứ áp dụng theo một mớ lý luận đã lỗi thời.
Sang năm 2013, hội nghị nào cũng nói đến “tái cấu trúc” “tái cơ cấu”, nhưng tái thế nào thì dường như chúng ta còn bề tắc, lối ra chưa rõ ràng, chưa thấy rõ “ánh sáng ở cuối đường hầm”. Nông nghiệp nước ta đã cho một số bài học thiết thực. Các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cho ta một số bài học. Và các tập đoàn “anh cả đỏ” cũng cho một số bài học “thất bại cay đắng”.
Vậy thì, thưa ông Thủ tướng, ông chịu trách nhiệm về vấn đề này hay là “trách nhiệm của các Bộ, ngành” hoặc trách nhiệm của các tỉnh uỷ, thành uỷ, quận uỷ, huyện uỷ và cho đến xã, phường, thị trấn chịu trách nhiệm. Ấy là chưa nói đến nạn tham nhũng, nạn vơ vét của cải của Nhà nước và của nhân dân còn hoành hành dữ lắm. đấy cũng là một yếu tố làm suy giảm, đổ vỡ nền kinh tế gọi là “định hướng xã hội chủ nghĩa” của chúng ta !
Sau gần 30 năm đổi mới, chúng ta đã “cởi trói” rất nhiều, nhưng cởi trói rồi thì phải “ra roi” cho dân làm ăn. Chứ bây giờ thì ở đâu cũng có tham nhũng, cũng có mua quan bán chức, cũng có ức hiếp dân…nhìn chung là không dân chủ hoặc mất dân chủ một cách nghiêm trọng, người dân không mảy may còn một chút quyền làm chủ nào, nên trong dân, mạnh ai nấy làm, chẳng ai lo cho ai, ai cũng vô cảm, hỏi rằng ta có sức mạnh nào để vực dậy nền kinh tế vốn nhiều “yếu kém” như hiện nay.
Nhân đây, theo tôi, tất cả đổ vỡ, thất bại của tập đoàn kinh tế và nhiều mặt khác nữa, ta không thể chỉ đổ tại các nhà lãnh đạo tập đoàn kinh tế mà chỉ nên đổ tại chúng ta khư khư bám lấy một mớ lý luận, một mớ quan điểm đã lỗi thời mà lại cứ cho là đúng, đến khi đổ bể thì đổ vấy cho nhau, không ai chịu trách nhiệm, không ai bị nghiêm trị. Chỉ có người dân là bị điêu đứng mà thôi !







Quyền tự do kinh doanh

Trước và ngay sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) hệ thống luật lệ, cách suy nghĩ, cách điều hành nền kinh tế được điều chỉnh theo hướng tiệm cận với thông lệ quốc tế, tạo nên một kỳ vọng từ nay Việt Nam sẽ xây dựng một môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng dựa trên luật lệ chứ không dựa vào các rào cản hành chính nữa.
Thế nhưng những năm gần đây tiến trình này bị chựng lại, thậm chí đảo ngược ở nhiều lãnh vực để quay về cơ chế điều hành dựa trên mệnh lệnh hành chính – một cơ chế tưởng đâu đã biến mất cùng nền kinh tế tập trung bao cấp. Mới nhất trong chuỗi sự kiện như thế là lệnh cấm kinh doanh vàng miếng ở những nơi không hội đủ điều kiện – có hàng chục ngàn điểm như thế trước đây là tiệm vàng mua bán lẻ vàng miếng nay buộc phải đóng cửa, ngưng giao dịch.
Nhìn lại những chủ trương thời kinh tế bao cấp như xem mỗi huyện là một pháo đài kinh tế đủ cả công nông nghiệp, dẫn đến chuyện ngăn sông cấm chợ, ngày nay ai cũng dễ vạch ra cái sai lầm, ấu trĩ của thời đó. Để rồi bây giờ chúng ta lại quay về kiểu cấm đoán mà lập luận phản bác cũng dễ nhận được sự đồng tình khi nhìn lại nhưng vào thời điểm hiện tại thì quán tính đang buộc mọi người xem đó là chuyện bình thường.
Từ 12.000 điểm giao dịch vàng xuống còn chưa đầy 2.500 điểm, thực chất chỉ do 22 ngân hàng và 16 doanh nghiệp điều hành, liệu việc triệt tiêu cạnh tranh đã rõ chưa? Một khi không còn môi trường cạnh tranh, chuyện ép giá đối với người dân là nguy cơ rất rõ ràng. Một địa phương đi mỏi mắt mới tìm ra một điểm được phép giao dịch vàng miếng, có gì bảo đảm nơi này không ra giá mua thấp và bán giá cao bởi người dân quanh đó không còn chọn lựa nào khác. Hàng loạt địa phương bị bỏ trống như thế cho giới mua bán thao túng, bắt chẹt dân quê; quyền lợi người sở hữu vàng không ai quan tâm. Mà đó là người dân thôn quê chỉ có một hai chỉ vàng phòng khi ốm đau hay lúc hữu sự. Việc mua bán chui, trái phép sẽ diễn ra và người dân càng thiệt hại như thời ngăn sông cấm chợ. Thực tế, theo tường thuật của phóng viên, có lúc người dân bị ép bán vàng phi SJC với giá rẻ hơn giá vàng SJC đến 6 triệu đồng/lượng.
Nhìn từ góc độ người kinh doanh, bỗng dưng 10.000 điểm mua bán vàng miếng bị tước mất quyền kinh doanh trong khi Luật Doanh nghiệp không hề thay đổi. Có ai đứng ra giải thích cho họ vì sao họ mất quyền kinh doanh đã ghi vào luật bằng một nghị định đứng dưới luật?
Chuyện giá vàng tác động lên tỷ giá trước đây là có thật bởi Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng huy động vàng miếng có trả lãi. Nay không cho huy động hay cho vay bằng vàng là đủ, không cần gì phải cấm đoán việc mua bán vàng miếng là một hoạt động lâu đời của người dân. Hệ lụy của việc cấm đoán này sẽ nhiều, với hệ quả là một thị trường vàng miếng méo mó, lệch lạc, nhiều biến tướng lách luật như tiệm vàng thành tiệm cầm đồ, mua bán chui, vàng nhẫn làm như vàng miếng… mà báo chí phản ánh trong tuần qua.
Không méo mó sao được khi từ 12.000 điểm kinh doanh chỉ còn lại 2.500 điểm trong khi nhu cầu mua bán chưa thấy có gì thay đổi. Ngân hàng Nhà nước lại còn quy định giá trị số dư vàng miếng phát sinh do mua bán vàng cuối ngày của các ngân hàng không được vượt quá 2% so với vốn tự có. Những hạn chế này sẽ gây sức ép lên giá, buộc giá giảm một cách giả tạo trong thời gian đầu, làm nảy sinh lập luận chính sách mới đã giúp kéo giá vàng trong nước về gần với giá vàng thế giới!
Ở đây có những tình tiết đáng lưu ý. Tại phiên chất vấn trước Quốc hội vào tháng 11-2012, Thống đốc Nguyễn Văn Bình lập luận nếu để giá vàng trong nước liên thông với giá vàng thế giới, có nghĩa là chúng ta lại chấp nhận một thị trường đầu cơ về vàng cho nên không có việc liên thông với giá vàng thế giới. Nay Nghị quyết 01 của Chính phủ đã phản bác lập luận này khi yêu cầu Ngân hàng Nhà nước “bảo đảm giá vàng trong nước sát với giá vàng quốc tế”. Nếu như Nghị quyết 01 đã chấn chỉnh một lập luận của Ngân hàng Nhà nước thì tương lai ngắn cũng cần một nghị quyết khác chấn chỉnh một lập luận khác cũng của Ngân hàng Nhà nước: Năm 2013, giá vàng trên thị trường sẽ do Ngân hàng Nhà nước kiến tạo và điều khiển, theo chủ trương “nền kinh tế giữ tiền, nhà nước giữ vàng”. Chưa thấy một chính phủ nước nào, dù tiềm lực có mạnh đến đâu, lại dám “điều khiển giá vàng” cả, liệu chúng ta có đủ nguồn lực không và có cần thiết không?
Xin nhắc lại ý kiến của nhiều chuyên gia kinh tế với sự đồng thuận cao, rằng nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước không hề bao gồm chuyện kinh doanh vàng miếng chứ chưa kể là độc quyền vàng miếng. Người dân bình thường không hề đầu cơ vàng, đại đa số chỉ mua và giữ vàng như một phương tiện phòng thân và để phòng tránh lạm phát. Cứ chăm chăm huy động vàng trong dân theo chủ trương “nền kinh tế giữ tiền, nhà nước giữ vàng” như tuyên bố của đại diện Ngân hàng Nhà nước sẽ làm xáo động cái cơ chế phòng chống lạm phát này, gây nguy cơ lạm phát bùng phát trở lại.
Theo blog NVP







Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
