Nguyễn Quang Lập's Blog, page 97
January 20, 2013
Chúng ta bị công lí của chính mình đè bẹp
Lưu Hiểu Ba
Phạm Thị Hoài dịch
PTH:
Tiểu luận sau đây của Lưu Hiểu Ba được in trên tờ Central Daily News ở Đài Loan ngày 5-6-1993, nhân 4 năm Sự kiện Thiên An Môn. Lời phê bình các khuyết điểm của giới trí thức phản kháng Trung Quốc và phong trào sinh viên năm 1989 xuất phát từ trải nghiệm trực tiếp của ông. Khi phong trào nổ ra, ông đã bỏ dở chương trình nghiên cứu và giảng dạy của mình tại một số trường đại học Hoa Kỳ, mua một tấm vé không khứ hồi bay về Bắc Kinh ngày 27-4-1989 để hỗ trợ các sinh viên của mình trên Quảng trường. Tại đây, ông hướng dẫn và tranh luận với các sinh viên về phương pháp và mục đích đấu tranh, tham gia những cuộc đàm phán giữa sinh viên và chính quyền, và tham gia tuyệt thực ở giai đoạn cuối từ ngày 2-6. Ông bị coi là một trong những kẻ “giật dây” của phong trào và bị kết án tù lần thứ nhất, đến đầu năm 1991. Song ngay cả với tiểu sử ấy, các ý kiến phê phán của ông vẫn gây sóng gió trong phong trào dân chủ Trung Quốc, nhất là với những gia đình nạn nhân của vụ thảm sát 4-6.
Giới thiệu tiểu luận này trong bản dịch tiếng Việt, tôi tin rằng nó sẽ là một tham khảo bổ ích cho phong trào dân chủ Việt.
_______________
Giới trí thức phản kháng và các lãnh tụ sinh viên Trung Quốc, những người tự thấy mình là anh hùng và chiến sĩ dân chủ, đều chỉ biết đến dân chủ từ sách vở. Họ không có khái niệm gì về việc thực hành nền dân chủ đó. Họ không hề biết phải xây dựng nền dân chủ như một hệ thống chính trị và một tòa nhà pháp lí như thế nào và phải đưa những nội dung gì vào đó. Trước khi phong trào dân chủ năm 1989 nổ ra, nhà vật lí thiên văn, giáo sư Phương Lệ Chi, được coi là một Sakharov của Trung Quốc, đã bỏ qua cơ hội bảo vệ quyền con người theo đúng luật pháp. Ông được Tổng thống Bush mời gặp nhưng bị chính quyền cản trở. Và ông đã lặng lẽ chấp nhận, không một lời phản đối. Cả đến khi phong trào dân chủ bùng nổ, ông Lưu Tân Nhạn, nhà bất đồng chính kiến được coi là “lương tâm xã hội của Trung Hoa”, vẫn đề cao chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa xã hội. Vẫn giữ nguyên lòng trung thành từng mất rồi lại được khôi phục của mình. Còn phong trào hiện tại thì được lãnh đạo bởi những người thậm chí không hiểu cả những nguyên lí cơ bản của dân chủ. Như thế, làm sao mà thành công được? Tình trạng đó chỉ có thể sinh ra những than vãn hời hợt về hệ tư tưởng.
Khi cảm giác về nghĩa vụ gánh vác một sứ mệnh lịch sử bị đẩy lên thái quá, các sinh viên đã đánh mất khả năng tỉnh táo để tự nhận định và khả năng tự kiềm chế để đạt hiệu quả cao. Họ không biết rằng những đôi vai mảnh khảnh của họ không gánh nổi một định mệnh nặng trĩu như vậy. Họ không cưỡng được sự cám dỗ rằng mình có thể đem lại công lí và tưởng rằng cứ lấy sinh mạng ra trả giá thì chính quyền sẽ buộc phải nhượng bộ hơn – mà không hề nhận ra rằng điều đó rốt cuộc là vô nghĩa. Mạng người có gây nổi một ấn tượng nào với chính quyền không? Có đánh thức nổi đám đông đang ngủ vùi không? Cái chết có đem đổi lấy công lí được không? Chẳng lẽ chỉ những ai sẵn sàng hi sinh tính mạng mới có quyền bàn về công lí chăng? Người ta trách các sinh viên là chỉ đầy lòng dũng cảm và nhiệt huyết mà không đủ lí trí. Không có gì đáng ngạc nhiên, khi cô Sài Linh, lãnh tụ đứng đầu phong trào sinh viên, sau này thoát được ra nước ngoài tị nạn, phát biếu: “Trên Quảng trường Thiên An Môn khi đó, quan trọng nhất là đức hi sinh và lòng dũng cảm chứ không phải đầu óc và lí trí. Chúng tôi là những anh hùng của phong trào dân chủ 1989.”
Từ trên bốn thập kỉ nay Trung Quốc không hề có kinh nghiệm gì với dân chủ. Hàng ngày chúng ta chỉ trải qua và chứng kiến những tranh giành và thủ đoạn tàn bạo của hệ thống chuyên chế. Khi tham gia một cuộc cách mạng, chẳng hạn như Cách mạng Văn hóa, chúng ta lập tức thấy mình là những nhà cách mạng vĩ đại nhất. Khi gia nhập phong trào dân chủ, chúng ta thấy mình dân chủ hơn người. Chúng ta tuyệt thực cho dân chủ. Chúng ta hi sinh cho dân chủ. Vì thế chúng ta đinh ninh rằng mọi hành động của mình đều bắt nguồn từ công lí cao nhất, rằng tiếng nói của mình là chân lí duy nhất, rằng mình sở hữu quyền lực tuyệt đối. Như thế, chân lí trở nên tuyệt đối, công lí trở nên tùy tiện và dẫn đến cưỡng bức, còn dân chủ thì trở thành một đặc quyền. Quảng trường Thiên An Môn đã biến thành một phòng thí nghiệm thử chân lí, thử độ cứng của bản lĩnh và độ sâu của ý thức về phẩm giá. Nó cũng đã biến thành nơi mà người ta vừa dấn thân cho công lí, vừa thực thi quyền lực. Không có mặt ở đó, không đến đó để bày tỏ con người mình, là chống lại dân chủ và chống lại công lí, là hèn nhát. Quảng trường Thiên An Môn đã biến thành hòn đá thử lửa. “Tôi đã có mặt ở đó”, “Tôi cũng từng đến đó”, những câu nói ấy đã được coi là chứng chỉ của ý thức dân chủ và lương tri xã hội.
Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành dân chủ, chúng ta không cần hợp tác, chúng ta tùy ý kết bè kéo cánh, chúng ta lập ra các tổ chức, chúng ta cử người lãnh đạo, chúng ta lập các hội công nhân và sinh viên tự quản, chúng ta tuyệt thực, chúng ta tổ chức các nhóm tranh luận, các nhóm trí thức, phóng viên, cảm tử quân, chí nguyện quân và hướng đạo sinh. Không ai chịu nghe ai, chẳng người nào chịu dưới trướng người nào.
Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành dân chủ, chúng ta căm thù Đảng Cộng sản tột độ và lên án Đảng bằng những bộ quần áo đẫm máu trên thân thể chúng ta. Chúng ta nghiến răng chửi kẻ khác, chúng ta thỏa sức bôi nhọ, chúng ta cho phép mình nói những điều như: chúng tao sẽ bắn vỡ sọ mày, chúng tao sẽ bỏ mày vào vạc chiên, chúng tao sẽ chôn sống mày. Chúng ta cho phép mình chửi rủa và thậm chí hành hung những kẻ không đi cùng chúng ta. Chúng ta cho phép mình thanh toán ân oán giang hồ cá nhân, nhân danh công lí.
Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành dân chủ, chúng ta ngang nhiên truyền bá những điều bịa đặt, chúng ta phao tin vịt giữa thanh thiên bạch nhật. Ai phản bác thì chúng ta khăng khăng rằng mình có quyền làm như thế hoặc tìm cách đánh lận rẻ tiền. Chúng ta cho phép mình phao lên rằng Đặng Tiểu Bình đã chết, Lý Bằng đã bỏ trốn, Dương Thượng Côn đã bị đánh đổ, Triệu Tử Dương đã được khôi phục danh dự, Vạn Lý đã thành lập một nội các mới ở Canada. Quảng trường Thiên An Môn, biểu tượng của phong trào dân chủ, biến thành một lò chế tin đồn, càng ngày càng tung ra nhiều điều dối trá. Một số người tham gia sự kiện ngày 4 tháng Sáu sau này thoát được ra nước ngoài thì đảo lộn tình tiết, thêu dệt tin đồn và dùng miệng mà phun ngập máu ra Quảng trường. Để có lợi cho bản thân, họ cố ý phóng đại tội ác và sự tàn bạo của Đảng Cộng sản. Báo chí quốc tế vì thế mà bị xỏ mũi.
Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành dân chủ, chúng ta chỉ cho riêng mình quyền tự do ngôn luận và cấm người khác được hưởng quyền ấy. Chúng ta cũng hành xử hệt như Mao Trạch Đông và không dung thứ một chính kiến nào khác. Hệt như đám tay sai của Đảng Cộng sản Trung Quốc, chúng ta cũng kiểm duyệt những hình ảnh không hợp ý ta do phóng viên chụp được, chúng ta cũng tịch thu phim và đập nát máy ảnh. Để chính quyền hết cớ đàn áp, chúng ta đã nộp cho công an ba thanh niên Hồ Nam, là những người đã phun mầu lên chân dung Mao, để rồi họ bị kết án 15, 18 và 20 năm đọa đày trong ngục tối.
“Công lí của phong trào dân chủ” đã trở thành một hăm dọa, hễ ai có chính kiến khác là bị gây áp lực và đành câm miệng. Cuộc tuyệt thực đã phong các sinh viên lên hàng những vị thánh bất khả xâm phạm của cách mạng. Vì họ sẵn sàng hi sinh mạng sống, nên chẳng ai dám hé răng phê bình họ nữa. Vậy là các “anh hùng” thì tắt công tắc lí trí, những người còn lại thì lặng im.
Những điều vừa trình bày có thể giải thích, vì sao một công lí trên giấy thì được săn lùng cuồng nhiệt, còn công lí tỉnh táo của hiện thực thì bị gạt ra ngoài.
Nguồn: Dịch theo bản tiếng Đức trong Bei Ling, Der Freiheit geopfert, Riva, München 2011







Tôi muốn hét vang lên hai tiếng: Cảm ơn!
Thư cảm ơn của nhà báo Trần Đình Chính, tác giả bài thơ ” Ở hai đầu nỗi nhớ”

Nhà báo Nguyễn Đình Chính
Thưa bạn đọc Blog Quê Choa, Blog Hiệu Minh!
Tôi là Trần Đình Chính, tức Trần Hoài Thu, tác giả bài thơ Ở hai đầu nỗi nhớ, đã được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc, được nhiều người yêu thích.
Bài thơ vừa được doanh nhân Nguyễn Xuân Hàn, Tổng giám đốc MASECO (TP Hồ Chí Minh) hỏi mua bản quyền với giá 300 triệu đồng. Sau khi lời chào bán bản quyền bài thơ được đăng trên Blog Quê Choa, (của nhà văn Nguyễn Quang Lập), Blog Hiệu Minh; và được trang web TTXVH của anh BaSam điểm hàng ngày trước mỗi thông tin mới.
Câu chuyện xung quanh bài thơ có quá nhiều nỗi bất ngờ nhưng cũng là nhiều may mắn với số phận tôi.
Bắt đầu từ việc, nhà báo Kim Dung (hiện làm việc tại Tuần Việt Nam- báo VietNamNet) có bài viết “Ở hai đầu nỗi nhớ” trên Blog Hiệu Minh. Bài viết của chị đăng tải trên blog, giữa lúc sức khỏe tôi sa sút, và phải nghỉ làm việc ở báo Nhân Dân ba năm nay, do mắc nhiều bệnh tật: Suy thận, tiểu đường, mắt rất kém…
Bất ngờ, tôi nhận được quà và nhiều lời thăm hỏi, động viên chia sẻ của các bạn đọc Blog Hiệu Minh. (Bao gồm: 100 USD của bác Ngô Thế Minh –ở Mỹ, 400 nghìn đồng của bác Như Nguyệt; và 600 nghìn đồng của chị Kim Dung). Điều đó, khiến tôi vô cùng cảm động: Mạng ảo nhưng tình người rất thật.
Về chế độ chính sách: Sau ba năm nghỉ làm việc, nhưng được hưởng cả thu nhập, bắt đầu từ tháng 1/2013 này tôi chỉ còn được hưởng 75% lương (khoảng 3,6 triệu đồng), mà mỗi tháng tiền thuốc men của tôi cần đến 12 triệu. Dù trước đó, khi tôi nghỉ, báo Nhân Dân cũng đã quyên góp được 65, 5 triệu đồng. Một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động (Cục Quản lý lao động ngoài nước- Bộ TB, LĐ & XH) đã ủng hộ tôi 112 triệu đồng.
Do phải chạy thận nhân tạo, và cần tiền chữa các bệnh khác, tôi nghĩ đến việc phải bán bản quyền bài thơ, một việc bất đắc dĩ nhưng không còn cách nào khác.
Điều bất ngờ nữa, sau khi lời chào bán bản quyền bài thơ của tôi đăng trên Blog Quê Choa, trên Blog HM, và trên trang web TTXVH của anh BaSam, tôi còn nhận được nhiều sự ủng hộ, chia sẻ, động viên bằng tài chính của các bạn đọc mà tuy không biết tên, nhưng tấm lòng của các bác, các anh chị em xa gần đã nói lên tất cả.
Đây cũng là sáng kiến của nhà văn Nguyễn Quang Lập, điều đó khiến gia đình tôi hết sức xúc động.
Đến thời điểm này, tôi đã nhận được nhiều sự ủng hộ, giúp đỡ chí tình của các bác các anh chị em là bạn đọc của các blog, là bạn đọc của các tờ báo Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, báo Tiền Phong, báo GDVN, báo Tuổi trẻ và Đời sống, báo Dân Việt…khi đọc được thông tin chào bán bản quyền bài thơ.
Gia đình tôi đã nhận được số tiền gần 7 triệu đồng, là tiền ủng hộ của các bạn đọc gửi vào số tài khoản đứng tên Phương Anh, vợ tôi.
Các số tài khoản đó là:
+ 500 nghìn đồng, từ TK 0701131034466002
+ 50 nghìn đồng, từ TK 0701130198532001
+ 300 nghìn đồng từ TK 0801130610608001.
+ 500 nghìn đồng, Người gửi Lưu Minh Phước.
+ 500 nghìn đồng của Hà Linh (Nhật Bản) nhờ Hoàng Tuấn Hưng gửi
+ 2000.000 đồng (chị Phạm Tâm Hiếu- báo Khoa học và Tổ quốc)
+ 1000.000 đồng (bác Trần Thanh Vân)
+ 1000.000 đồng (bác Đào Kiến Quốc)
+ 500 nghìn đồng (bác Nguyễn Thị Bích Nga)
+ 500 nghìn đồng từ TK 1101130720334001.
Tôi xin được cảm ơn nhà báo Kim Dung, nhà văn Nguyễn Quang Lập, Bloger Hiệu Minh, anh BaSam, những người đầu tiên làm cầu nối cho việc chào bán bản quyền.
Đặc biệt, ngay sau khi bản quyền bài thơ được doanh nhân Nguyễn Xuân Hàn hỏi mua, tôi vẫn tiếp tục nhận được nhiều sự giúp đỡ chí tình khác:
- Chị Thanh Hiếu cùng chồng là những lao động bình thường ở Đà Nẵng, đang nuôi hai con nhỏ và phải thuê nhà trọ để ở cho biết, đọc báo Tuổi trẻ và Đời sống, hay tin tôi bị bệnh trọng, chị rất thương cảm. Chị nói: Tôi không giàu về tiền bạc, nhưng tôi biết có một vị bác sĩ giỏi là người thân của tôi. Tôi đã điện thoại cho anh ấy gọi đến anh để giúp anh cách điều trị sao cho có hiệu quả nhất. Một lời mách bảo nhẹ nhàng chỉ thế thôi, đã làm tôi thật sự thấy ấm lòng.
-Bác Lâm Bình (phường Quan Hoa quận Cầu Giấy Hà Nội) trước đây làm việc ở Đài truyền hình Việt Nam nay đã nghỉ hưu, giới thiệu có phương cách chữa bệnh của tôi một cách khá hiệu quả. Bác nhận lời sẽ chữa bệnh miễn phí cho tôi nếu tôi hàng ngày đến nhà bác để thực hiện phương pháp điều trị này. Tôi đã nhận lời và đang thực hiện việc điều trị đó.
-Tôi cũng nhận được điện thoại của một người phụ nữ, tên là Thủy (Tiền Giang) thông báo rằng sẽ hiến cho tôi một quả thận và sẵn sàng hiến cả giác mạc nữa. Dì Thủy đề nghị tôi cung cấp thông tin về nhóm máu để khớp nối việc hiến thận.
- Bác sĩ Nguyễn Hồng Hải (đã về hưu), đang sinh sống tại số nhà 125 đường Xô Viết Nghệ Tĩnh (phường 17, quận Bình Thạnh, TPHCM), gọi điện hỏi thăm tình trạng bệnh của tôi. Ông cho biết, khi còn công tác tại bệnh viện, ông có thời gian làm việc và kết thân với một số bác sỹ người Úc. Họ tặng ông chiếc máy chạy thận nhân tạo, trị giá 25.000 USD. Nay ông quyết định sẽ tặng lại chiếc máy này cho tôi.
Ông đề nghị tôi tìm một trung tâm chạy thận nhân tạo tư nhân để hợp tác vận hành chiếc máy. Ngoài việc chạy thận miễn phí cho tôi, trung tâm này có thể sử dụng máy chạy thận cho người khác để tạo thêm thu nhập.
Tiền thu được từ khai thác chiếc máy sẽ được chia theo tỷ lệ: Trung tâm 60%, tôi 40%. Bác sỹ cho biết, 40% tôi được hưởng tính ra khoảng 12 triệu đồng mỗi tháng. Như vậy, hằng tháng, tôi sẽ có một khoản ổn định là 12 triệu để mua nhiều loại thuốc khác phục vụ cho việc điều trị (ông là bác sĩ khoa nội nên hiểu rất rõ sự tốn kém đối với bệnh nhân chạy thận nhân tạo muốn tồn tại).
Đây là sự giúp đỡ và sáng kiến khiến tôi rất cảm động. Bác sỹ tặng cả máy 25.000 USD, lại còn chỉ cho cách tạo thu nhập ổn định, lâu dài để chữa bệnh. Tôi đã nhờ con gái đi tìm hiểu thông tin xem có trung tâm nào giúp được theo gợi ý của bác sĩ Hồng Hải không. Được thì tốt biết mấy.
-Ông Huỳnh Văn Rô, (xã Trí Bình, huyện Châu Thành, Tây Ninh) đã gọi điện cho biết, ông chữa bệnh tiểu đường và suy thận bằng thuốc nam và ấn huyệt, đã chữa khỏi cho nhiều người. Nay ông muốn đón tôi vào chữa bệnh, ăn, ở miễn phí tại Tây Ninh… Do điều kiện sức khỏe tôi không thể bào Tây Ninh được, nên ông Huỳnh Văn Rô đã gửi thuốc ra Hà Nội cho tôi.
-Một thông tin mới nhất tôi cũng muốn thông báo đến các bác, các anh chị em: Chiều ngày 17/1, phóng viên báo Tiền Phong cho biết: Đại diện Ngân hàng Đại dương (OSeanBank) thông qua báo Tiền Phong muốn gặp tôi trong một ngày gần nhất để thảo luận phương pháp giúp đỡ tôi như thế nào cho hiệu quả nhất trong việc điều trị bệnh tật. Cụ thể phương cách đó như thế nào tôi sẽ thông tin đến các bạn sau.
Ngày 16 và 17/1 đối với tôi là những ngày thực sự cảm động và hạnh phúc, vì được sống trong tình thương yêu của rất nhiều người có tấm lòng nhân hậu. Bên cạnh nhận được nhiều sự giúp đỡ, sẻ chia của mọi người, tôi cũng thấy thấm thía nỗi khổ của bệnh nhân chạy thận, tiểu đường.
Bệnh nhân cũng khổ, nhưng có khi người vợ, người mẹ… có chồng, con bị bệnh cùng đi chăm sóc, nuôi dưỡng ở bệnh viện trường kỳ ngày này qua tháng khác, còn khổ hơn nhiều. Bệnh nhân chạy thận không hẹn ngày về, “xuất viện là ra đi”. Còn tiểu đường thì phải “sống chung” thôi. Người nghèo, không có bảo hiểm mà bị bệnh này, coi như sống kiếp trời đầy ở trần gian. Mình có chút “thơ ca, hò vè” may mắn được nhiều người biết đến, quan tâm, chứ người nghèo khổ vô vàn.
Từ trong tư duy và thực tế cuộc sống tôi nghĩ rằng mình may mắn được khỏi bệnh, thì tôi sẽ lập Quỹ vì những người bệnh tiểu đường và bệnh thận… Tôi sẽ gom tất cả những sự ủng hộ, đóng góp mà mọi người dành cho để chia sẻ với những người cùng cảnh ngộ, nhất là những bệnh nhân nghèo.
Tôi đã từng viết trên báo Nhân Dân rằng: Cái đáng giá nhất mỗi người để lại trần thế là tưởng như là bạc vàng nhưng lại hóa ra không phải. Cái đáng giá nhất mỗi người để lại trần thế chính là tình yêu thương con người đối với nhau. Vì thế tôi muốn hét lên rằng: Tôi muốn Cảm ơn các bạn! Cảm ơn các bạn! Cảm ơn các bạn!
Trần Đình Chính







Biết một nửa còn hơn không
Nguyễn Thông
Mấy ngày qua, ta hay gặp câu triết lý về bánh mì và sự thật trong bài viết của các “dư luận viên” xung quanh tác phẩm Bên thắng cuộc. Nói chung rất hài. Là kẻ quê mùa ít học, tôi cũng rụt rè thưa với các vị ấy, rằng một nửa bánh mì là bánh mì, một nửa sự thật là một nửa sự thật. Đừng cố tình bẻ queo bảo rằng vì là nửa nên không phải sự thật. Biết một nửa còn hơn không biết gì, càng hơn khi chỉ biết “sự thật” giả dối, méo mó, bị che đậy. Nhiệm vụ còn lại của mỗi người mới biết một nửa là ráng tìm hiểu để biết nốt nửa còn lại kia cho sự thật trọn vẹn, chứ đừng né tránh.
Một người bạn tôi, anh Quang Đông đã viết thế này: “Sự thật hoàn toàn khách quan không bao giờ tiếp cận được nhưng ta có thể đoán bản chất qua một số biểu hiện bên ngoài. Còn lối so sánh có tính áp đặt, nhằm loại cách tiếp cận đa chiều chỉ là cách né tránh đi tìm sự thật”. Tôi cho rằng những người phê phán Bên thắng cuộc nên suy nghĩ về suy nghĩ ấy.
Khi công bố cuốn Bên thắng cuộc, tác giả Huy Đức chắc chắn không ngờ rằng sách của mình còn có tác dụng làm rõ bộ mặt của một số người lâu nay trốn kỹ trong đống rơm, che giấu con người thật của mình. Những người ấy không phải nhân vật trong cuốn sách, mà là người đã, đang lăm le hăm hở với cây bút hoặc bàn phím trong tay để làm nhiệm vụ “dư luận viên”. Bên thắng cuộc như thứ chất xúc tác khiến họ bộc lộ.
Hôm qua tôi được đọc bài của nhà báo Lưu Đình Triều trên báo giấy Tuổi Trẻ. Đã sống qua cái thời mà Bên thắng cuộc phản ánh, được tận mắt chứng kiến, tận tai nghe nhiều trường hợp tương tự nên tôi cho rằng việc ông Lưu Quý Kỳ phải nén tình cảm với đứa con đẻ của mình, nhất là nó từng đóng sĩ quan ngụy, để giữ lập trường bản lĩnh cách mạng là điều có thật, anh Huy Đức kể lại chả có gì sai thực tế. Và tôi hiểu, anh Huy Đức không có ý bêu xấu hạ thấp ông Kỳ cũng như anh Triều. Anh chỉ dẫn chứng một sự thực phù hợp với mạch ý đang thể hiện nên không thể tãi ra những râu ria khác. Việc anh Lưu Đình Triều lên tiếng phản bác yếu ớt cũng không có gì khó hiểu. Chỉ tiếc giá như anh Triều dám nhìn thẳng vào sự thực bởi chuyện “yêu thương sâu đậm – lý trí lạnh lùng” như thế những năm tháng ấy đâu phải chỉ riêng cha con anh vướng phải mà rất phổ biến, bởi đó là cách giữ mình của người thắng cuộc, nhất là những cán bộ cao cấp.
Còn nhiều điều nhưng tôi chỉ tạm nói bấy nhiêu thôi.
20.1.2013
Theo blog NT







Chúng ta nên cúi đầu trước chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa
Nhà báo Đặng văn Nam đã viết trong status của mình như thế này ( tại đây): “Sáng nay (20-1), lần đầu tiên ông Đặng Công Ngữ – chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa cúi đầu trước quan khách và đặc biệt là trước những nhân chứng Hoàng Sa. Những người mà theo lời ông chủ tịch Ngữ là: cách đây đúng một ngày của 39 năm về trước họ đã dũng cảm đối mặt với bọn bành trướng Bắc Kinh khi đem chiến hạm cướp Hoàng Sa từ tay miền Nam Việt Nam vào ngày 19-1-1974. Cái cúi đầu của một người đang giữ trọng trách là chủ tịch huyện đảo.. dù chỉ là hư danh nhưng cũng khiến cho nhiều người “bên thua cuộc” ấm lòng. Còn tụi mình thì chạnh lòng. Có lẽ các quan chức nên học cách cúi đầu của ông Ngữ ít nhất là trước biến cố Hoàng Sa”
Khi ông Ngữ cúi đầu những người đã bảo vệ Hoàng Sa ngày 19/1/1974 thì chúng ta nên cúi đầu trước ông Ngữ.







Sự suy thoái chính trị và lối thoát của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trần Minh Khôi
I. Ngay cả những người lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam lúc này cũng phải nhìn nhận rằng đảng của họ đang suy thoái. Sự suy thoái này đã xãy ra từ lâu. Nhưng, cũng như với các tiến trình suy thoái chính trị xưa nay trong lịch sử, người ta chỉ nhận ra chúng ở giai đoạn cuối. Tâm lý phủ nhận suy thoái nằm trong bản năng xã hội của con người, cho đến khi khối ung thư tràn lan…
Có hai dấu hiệu, và cũng là lý do, đưa đến suy thoái chính trị trong lịch sử nhân loại, theo Fukuyama, viết trong cuốn Những Nguồn gốc của Trật tự Chính trị.
Dấu hiệu thứ nhất của suy thoái là ở sự đổ vỡ của các định chế cũ, biểu hiện qua các quan hệ giữa nhà nước và xã hội dân sự, và sự thất bại trong việc thiết lập những định chế mới phù hợp với điều kiện xã hội mới.
Dấu hiệu thứ hai của suy thoái là ở tiến trình mà Fukuyama gọi là “tái thân tộc hóa” (repatrimonialization) các vị trí quyền lực trong chính quyền.
Cả hai hiện tượng này đang xảy ra ở Việt Nam và càng lúc càng gia tăng cường độ.
Lấy định chế sở hữu đất đai làm ví dụ. Hàng chục năm nay, số dân oan đi khiếu kiện việc đất đai của họ bị tước đoạt ngày càng tăng. Trường hợp Đoàn Văn Vươn mới đây chỉ là một trong chuỗi những sự kiện liên tục của hiện trạng đổ vỡ của các định chế nhà nước sở hữu đất đai đã trở nên lạc hậu và phản động. Cũng theo Fukuyama, đằng sau sự tồn tại của một định chế cố hữu nào đó là một nhóm đặc quyền. Lý do chính mà những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn dây dưa trong việc xác định quyền tư hữu đất đai không phải là vì lý tưởng “chủ nghĩa xã hội” gì đó của họ. Lý do chính, và lý do quyết định, là nhóm đặc quyền trong Đảng, hoặc cấu kết với Đảng, sẽ không từ bỏ một công cụ tước đoạt tài sản công dân mà Đảng, thông qua nhà nước, đã trao cho họ. Khi cần, những người lãnh đạo của Đảng đã không ngần ngại chia tay với những nguyên tắc nền tảng nhất của chủ nghĩa Mác-Lênin; đi theo kinh tế thị trường hoặc cấu kết với các thế lực tư bản nước ngoài để bóc lột công nhân chẳng hạn. Việc Đảng không muốn từ bỏ “sở hữu toàn dân” về đất đai chắc chắn không phải là vì trung thành với lý tưởng đã chọn của thế hệ công thần.
Tương tự, những định chế khác trong các lãnh vực như giáo dục, truyền thông, quản lý kinh tế,… đều đã phơi bày những dấu hiệu đổ vỡ vì không thể chuyển hóa được do sức ì của các nhóm đặc quyền.
Thân tộc hóa là một hiện tượng chính trị có nguồn gốc từ trong bản năng xã hội của con người. Con người, khi có quyền lực trong tay, có khuynh hướng đưa thân nhân và những người có quan hệ mật thiết với họ vào nắm các vị trị quan trọng trong chính quyền. Hiện tượng thân tộc hóa xuất hiện trong tất cả các xã hội và hệ thống chính trị khác nhau. Nó lập đi lập lại trong lịch sử. Khi một chính quyền đang lên, nó có khuynh hướng biến mất, thay vào đó là một hệ thống tuyển chọn nhân sự làm việc trong các cơ chế công quyền dựa trên những tiêu chuẩn khách quan, như hệ thống tuyển chọn quan lại mà Tần Thủy Hoàng đã dùng, và được tiếp tục bởi Nhà Tiền Hán, chẳng hạn.
Nhưng cùng với thời gian, và trong sự thiếu vắng các định chế tiến bộ để tuyển chọn nhân sự của chính quyền một cách khách quan, hiện tượng thân tộc hóa dần dần phục hồi. Đây là dấu hiệu của suy thoái. Các thế lực thân tộc này cấu kết thành một lực lượng đặc quyền phản động, ngăn cản sự chuyển hóa và phát triển của các định chế xã hội mà họ đang được hưởng lợi, đưa đến suy thoái và sụp đổ. Sự suy thoái và sụp đổ của nhà Đông Hán, đưa đến loạn Vương Mãn, của Vương triều Louis XVI, đưa đến Cách mạng Pháp, đều có lý do này. Sự suy thoái hiện nay của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng vì lý do này.
Một người ngày trước không thể vào đại học vì lý lịch của cha anh thì ngày nay có thể trở thành đảng viên Đảng Cộng sản. Đây là một ví dụ cho thấy các tiêu chuẩn chính thống, dựa vào nguồn gốc xuất thân chẳng hạn, có thể coi là một tiêu chuẩn “khách quan”, đã không còn được ủng hộ nữa. Ngày nay cơ chế tuyển người vào các vị trí công quyền hoàn toàn dựa trên quan hệ thân tộc và quan hệ cá nhân. Hiện tượng mua bán chức quyền, từ những vị trí rất cao trong chính quyền như bộ trưởng, được mặc nhận như một thực tế. Hiện tượng tái thân tộc hóa xảy ra ở những vị trí quyền lực nhất của nhà nước Việt Nam.
Các định chế xã hội không chuyển hóa và phát triển để phù hợp với điều kiện mới được là vì sự khống chế của các nhóm đặc quyền. Sự hình thành các nhóm đặc quyền là từ trong tiến trình tái thân tộc hóa cơ chế nhà nước. Do đó, để thoát ra khỏi suy thoái chính trị, những người có tâm huyết trong Đảng Cộng sản (những người tâm huyết chứ không phải những người lãnh đạo vì những người lãnh đạo đã là một bộ phận không tách rời của tiến trình tái thân tộc hóa và nhóm đặc quyền phản động) cần có bản lĩnh chính trị để giải quyết cùng một lúc hai vấn đề:
Chặn đứng tiến trình tái thân tộc hóa các cơ cấu quyền lực của nhà nước.
Dũng cảm bước ra khỏi sự chi phối của các nhóm đặc quyền để vận động thay đổi các định chế đã trở nên lạc hậu.
Sự suy thoái chính trị của Đảng và của nhà nước sẽ tiếp tục cho đến khi sụp đổ nếu hai vấn đề này không được giải quyết thỏa đáng.
Đó là lối thoát duy nhất để Đảng Cộng sản có thể tiếp tục cầm quyền. Tiếng nổ Đoàn Văn Vươn có thể là lời cảnh báo cuối cùng về sự đổ vỡ của định chế và về mối nguy từ các thế lực đặc quyền trong việc ngăn chặn tiến trình chuyển hóa của các định chế nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội.
Đảng Cộng sản cũng chỉ có một cửa sổ cơ hội rất hẹp để thực hiện những điều này. Lúc này đây, chỉ còn một lực lượng rất nhỏ của thế hệ công thần còn sống. Họ là những người có đủ bản lĩnh chính trị và thẩm quyền đạo đức trong nội bộ Đảng để giúp Đảng vượt ra khỏi suy thoái. Một khi thế hệ công thần này ra đi thì Đảng Cộng sản không còn ai có khả năng làm điều này nữa. Các thế hệ sau của Đảng, thế hệ con cha cháu ông, sản phẩm của tiến trình tái thân tộc hóa, không có sự chính đáng và thẩm quyền đạo đức để thực hiện một cuộc chuyển hóa chính trị để cứu Đảng.
Sự suy thoái, lúc đó, sẽ đưa đến sụp đổ. Hoàn tất một cuộc cách mạng khứ hồi.
II. Lại nói về hiện tượng thân tộc hóa cơ cấu quyền lực nhà nước, dẫn đến sự bế tắc của các định chế xã hội trong việc giải quyết các vấn đề công lý, đưa Đảng đến bên bờ vực của sự sụp đổ.
Đối với những người thuộc thế hệ công thần, thế hệ đã tạo dựng nên Đảng Cộng sản Việt Nam, thì Đảng ngày nay đã là một đứa con hư. Họ biết rất rõ những bê bối của nó những họ vẫn bảo vệ nó như con đẻ của họ. Nhiều người đã lên tiếng báo động về sự hư đốn của Đảng nhưng trong thâm tâm họ vẫn nghĩ rằng đảng của họ vẫn có khả năng thay đổi để vượt qua sự suy thoái hiện nay. Dù sao đi nữa thì đảng của họ cũng đã thay đổi nhiều lần để vượt ra những thử thách sống còn như thế; phải tuyên bố giải tán đảng để trở thành một tổ chức nghiên cứu chủ nghĩa Marx ngay trước kháng chiến chống Pháp hay từ bỏ niềm tin căn bản của chủ nghĩa Mác để đi theo kinh tế thị trường hồi những năm ’80 chẳng hạn.
Và đây chính là bi kịch lớn nhất của họ, bi kịch của một người làm mẹ khi sắp qua đời biết mình đã để lại những đứa con hư. Đảng Cộng sản, với những người lãnh đạo nó hiện nay, không còn khả năng thay đổi nữa. Các thế lực đặc quyền, không tồn tại ở những thời điểm Đảng thay đổi trước đây, sẽ làm tất cả những gì trong phạm vi quyền lực không giới hạn của họ, kể cả giết người và bỏ tù, để chống lại thay đổi và bảo vệ những định chế mà họ đang được hưởng lợi. Năm 1986, khi Đảng quyết định chia tay với kinh tế tập trung xã hội chủ nghĩa đang tàn phá đất nước để chuyển sang kinh tế thị trường thì trong Đảng không có một lực lượng đặc quyền nào đang hưởng lợi vì các định chế của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đó cả. Ngày nay nếu Đảng muốn chia tay với “sơ hữu toàn dân” về đất đai để thiết lập quyền tư hữu, và qua đó thiết lập công lý, thì Đảng phải đối diện mới những thế lực đặc quyền còn mạnh hơn chính bản thân Đảng. Nếu Đảng muốn trở về lại với vai trò lãnh đạo và bảo vệ giai cấp công nhân, một lực lượng đông đảo đang bán sức lao động rẻ mạt cho tư bản nước ngoài ở các khu công nghiệp, thì Đảng phải đối diện với những thế lực âm binh hùng mạnh đang hưởng lợi từ các thương vụ buôn bán này. Cái logic làm sụp đổ các vương triều trong lịch sử, và gần đây hơn là các quốc gia cộng sản và độc tài các loại, có khả năng làm sụp đổ Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam.
Hiện tượng thân tộc hóa ngày càng làm trầm trọng thêm sự bất công đã tồn tại trong bản chất của nhà nước Việt Nam. Công lý, ở tầm mức nền tảng nhất trên phương diện chính trị, là sự công bằng về cơ hội thăng tiến trong các cơ cấu quyền lực nhà nước. Hai đứa trẻ được sinh ra một thời điểm, bất kể hoàn cảnh thân tộc, môi trường sống, vùng miền, tôn giáo, sắc tộc, điều kiện kinh tế như thế nào, phải có những cơ hội được thăng tiến ngang nhau trong các cơ cấu công quyền, ít nhất là trên phương diện lý luận. Đây là tiêu chuẩn đầu tiên của công lý cho một nhà nước. Nhà nước cộng sản, dựa trên sự phân chia và duy trì ranh giới giai cấp cố hữu, tự trong bản chất đã là bất công. Một nhà nước theo mô hình cộng sản, do đó, là một nhà nước thất bại ngay từ đầu vì nó đã thất bại trong trách nhiệm đầu tiên của nó là thiết lập và bảo vệ công lý. Hệ thống thi hương thi hội, hình thức thực thi loại công lý này ở mức sơ đẳng nhất, trong việc chọn người vào các cơ cấu công quyền của các triều đại phong kiến cũng không tồn tại ở nhà nước hiện nay.
Cái hệ thống lý luận theo kiểu “mục đích biện minh cho phương tiện” cho một “nhà nước xã hội chủ nghĩa” công bằng không tưởng nào đó, từ trước đến nay, trang bị cho Đảng một công cụ tín lý để áp dụng bạo lực và duy trì sự bất công này. Trong sự khiếp sợ quyền lực nhà nước truyền thống của một xã hội thần dân, các lý luận đó, cùng sự hỗ tương của bạo lực, đã tìm thấy sự chính đáng của chúng. Công lý chính trị vẫn tồn tại trong nội bộ của một đảng, ít nhất là trong cảm nhận của xã hội. Nhưng ngày nay điều này cũng đã bị các thế lực đặc quyền phản bội. Hiện tượng thân tộc hóa đem sự bất công này vào ngay chính trong nội bộ của Đảng, thậm chí vào trong nội bộ của các cơ cấu lãnh đạo cao cấp của Đảng. Cơ hội thăng tiến của đảng viên hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ thân tộc của họ. Hai đảng viên, cùng năng lực, không có cơ hội thăng tiến ngang nhau trong Đảng. Một đảng chính trị có thể tồn tại và cai trị trong sự bất công đối với xã hội, trong chừng mực mà xã hội có thể dung thứ sự bất công đó, đặc biệt là những xã hội mà ở đó công dân chưa coi trọng các quyền tự do chính trị của họ, nhưng nó không thể tồn tại trong sự bất công đối với chính nó: nó đã đánh mất sự chính đáng đạo đức ở đảng viên để giữ cho nó tồn tại. Đây là đe dọa lớn nhất của Đảng.
Và nó cũng là đe dọa lớn nhất cho xã hội. Sự sụp đổ của một đảng cầm quyền, và cái nhà nước nó thiết lập để cai trị, ngoài việc làm thỏa mản những uất ức do sự bất công kéo dài quá lâu, hoặc có thể đem lại lợi ích cho một vài nhóm nào đó (và các nhóm này ngay lập tức trở thành các nhóm đặc quyền), không phục vụ quyền lợi lâu dài của một quốc gia. Hiện tượng thân tộc hóa nhà nước đưa tình trạng bất công lên một tầm mức mà bất cứ xúc tác nào, ngay cả những sự kiện không ăn nhập gì, cũng có có thể gây nên bất ổn chính trị. Một khi điều đó xảy ra thì bạo lực và cách mạng là điều không thể tránh khỏi. Cách mạng xưa nay trong lịch sử luôn phản bội. Các định chế, thay vì chuyển hóa, bị đập bỏ và được thiết lập lại. Một tầng lớp đặc quyền mới sẽ thay thế.
Những dân tộc khôn ngoan không làm cách mạng, mà tìm cách để chuyển hóa các định chế nhà nước và xã hội, do đó, tránh được những đổ vỡ máu me, tiết kiệm được nhân lực và tài nguyên để phát triển. Vấn đề trở nên: liệu có thể hóa giải các thế lực đặc quyền trong Đảng hiện nay để chuyển hóa các định chế theo hướng phù hợp với các điều kiện xã hội đang đòi hỏi hay không? Nói cách khác, có thể tránh đổ vỡ không? Không ai biết chắc câu trả lời cho câu hỏi này. Sự sụp đổ của khối cộng sản, và gần đây hơn, sự ra đi của các chính thể độc tài ở Bắc Phi, làm ngạc nhiên ngay cả những bộ não uyên bác nhất của khoa học chính trị thế giới.
Có thể đã quá trễ để cứu Đảng. Có thể các thế lực thân tộc đặc quyền trong Đảng đã làm Đảng thối rữa quá mức có thể cứu vãn được. Có thể Đảng sẽ ra đi trong sự sụp đổ như các vương triều trong lịch sử đã ra đi trong sự sụp đổ. Trần Nghệ Tông, những ngày cuối cùng của Nhà Trần, đã mặc nhận sự suy thoái và băng hoại không thể cứu vãn nổi của vương tộc và không muốn làm gì thêm nữa, ngoài chuyện đi tu. Hiện nay cũng đã có không ít đảng viên thuộc thế hệ công thần, tính luôn thế hệ “Trường Sơn”, đã mặc nhận và đi tu như thế. Và đó là điều rất đáng tiếc. Sự chính đáng đạo đức luôn bao gồm thái độ dũng cảm nhìn nhận, chịu trách nhiệm, và nếu cần thì từ bỏ, những đứa con hư đốn của mình. Có thể Đảng là không cứu được nữa nhưng đất nước thì phải cứu.
Sự lựa chọn một ý thức hệ, một phe nhóm, một chiến tuyến, ở một thời điểm nào đó, có thể đúng có thể sai. Lịch sử không phán xét điều đó. Nhưng lịch sử sẽ không tha thứ cho bất cứ ai ngồi nhìn quốc gia băng hoại vì một nhóm sa đọa, do chính mình tạo dựng nên, mà không làm gì. Nếu sự sụp đổ của Đảng là không tránh khỏi thì phải chấp nhận sụp đổ. Nhưng cho đến khi đó, những người có ý thức trách nhiệm đối với quốc gia trong Đảng phải làm tất cả những gì có thể làm được để tránh cho Đảng Cộng sản sụp đổ.
Và bằng cách đó, họ giúp tránh cho sự sụp đổ của nhà nước, và tránh được bạo lực của một cuộc cách mạng không cần thiết cho quốc gia.
(Phụ bản: Sự suy thoái chính trị và trường hợp của Vương tộc Lý)







Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ dư luận viên
NQL: Ông Hồ Quang Lợi đọc cái này để hướng dẫn cho 900 dư luận viên của ông nhé!
Mấy năm trước, trên giang hồ cư dân mạng Trung Quốc có lưu truyền một tài liệu trào phúng hướng dẫn những cách phản pháo ý kiến phê bình dành cho đảng viên Đảng 5 Hào (Ngũ Mao Đảng, 五毛党, Fifty Cent Party, lực lượng còm sĩ ăn lương nhà nước để định hướng dư luận). Gần đây Việt Nam công nhận có 900 “dư luận viên”, và Trung Quốc cho biết khoảng 10% dân Bắc Kinh (tức khoảng 2 triệu người) là “tuyên truyền viên” (propaganda worker). Nhân vụ này, lục lại và dịch bài này đọc chơi để thấy các dư luận viên xứ ta đã thuộc nằm lòng cẩm nang này ra sao.
Cẩm nang huấn luyện Ngũ Mao Đảng
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Cái trứng vịt ở tiệm kế bên còn dở hơn, sao mày không chê?
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Làm ơn còm sao cho có tính xây dựng, nếu giỏi thì mày tự đẻ trứng luôn đi.
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Trứng này do một đồng chí hảo kê cần cù, dũng cảm, lương thiện và chính trực đẻ đó!
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Vẫn còn ngon hơn nhiều so với trứng năm ngoái.
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Mày lớn lên nhờ ăn trứng này, mày có quyền gì mà chê trứng dở?
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Mày có ý đồ gì mà chê bai vậy chớ?
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Đến cả trứng do chính gà của mày đẻ mà mày còn chê, mày có phải là người Trung Quốc không dzậy?
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Mịa, tao nghi mày là phường Pháp Luân Công nói điêu.[i]
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Chê ỏng chê eo chỉ vô ích thôi, nếu mày dư thời gian, sao không chăm chỉ làm ăn kiếm tiền đi chớ.
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Cái thằng cư dân mạng Đài Loan, biến mẹ nó đi cho ông nhờ, chẳng ai mời mày vào đây.
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Ôi dào, tâm lý ấu trĩ sao mà quá bi quan, đến phải than vãn về trứng dở.
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Trứng dở vì con gà đẻ trứng này bị một số con gà [thuộc phần tử xấu] không biết đẻ trứng xúi giục.
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Còm này đã bị quản lý diễn đàn sàng lọc.
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Vậy trứng Trung Quốc toàn dở, còn trứng Mỹ toàn ngon à? Đồ phản quốc!
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Trứng Đài Loan ngon há, sao không qua bển ở luôn đi, để coi mày có bị bom nguyên tử san bằng không.
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Trứng Trung Quốc đã đánh bại trứng Mỹ rồi, phải biết tự hào đi chớ!
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Tui sẽ không tránh né trứng của tổ quốc bất luận dở cỡ nào đi nữa!
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Trứng từ trại gà của chúng ta mà mày dám chê dở à? Mày lấy tư cách gì mà nói dzậy?
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Cầm chén ăn trứng xong buông đũa rồi chửi, mày chẳng biết cái gì đáng quý đáng trọng, đồ vô ơn, vô liêm sỉ, trơ trẽn!
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Trứng dở chỉ là thiểu số rất nhỏ, đại đa số trứng đều ngon, tuyệt hảo, và qua được kiểm định!
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Đây là một thiểu số phần tử phi pháp lường gạt quần chúng không hiểu rõ sự thật!
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Cái này đích thị là có động cơ ngầm và xúi giục [người khác], mày định làm gì dzậy?
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Đó là tin đồn, tôi có thể phát biểu rất trách nhiệm là tất cả trứng đều bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng!
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Nói chẳng có căn cứ gì hết, tui hy vọng báo chí có thể đưa tin khách quan!
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Theo tớ, trứng của một số người không ngon đến thế, trứng của chúng ta ngon gấp năm lần!
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Định hướng đúng đắn là niềm hạnh phúc của trại gà chúng ta, định hướng sai lầm là nỗi bất hạnh của trại gà chúng ta.
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Trại gà chúng ta vẫn còn trong giai đoạn sơ khai, chúng ta phải kiên trì [theo đường lối này] trong hai mươi năm sắp đến mà không dao động!
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Chúng ta muốn lập trại gà với những đặc điểm riêng của chúng ta, và để gà của mình đẻ trứng với những đặc điểm riêng của chúng.
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Dù ăn hơi dở, trứng này có lợi cho sức khỏe chúng ta, nếu anh nhập trứng Mỹ trái phép, hệ tiêu hóa và bao tử, và có lẽ toàn bộ hệ nội tiết của anh sẽ tiêu tùng. – Học giả Lý tính tả phái
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Trứng gà dở không liên quan đến trận động đất. – Chuyên gia động đất
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Có những thế lực thù địch nước ngoài đồn thổi trái phép về trứng của chúng ta. – Lưu Kiến Siêu (nguyên là người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, hiện là đại sứ Trung Quốc tại Philippines)
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Gà Trung Quốc, gắng lên! – Thanh niên Trung Quốc yêu nước
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Vì thực khách Bắc Kinh này cố tình gây rối và chê trứng dở, chúng tôi đã lên thủ đô hai lần để thuyết phục khuyên răn, nhưng vô hiệu. – Cảnh sát Thượng Hải
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Đây là tin đồn thất thiệt gần đây do thiên hạ tung ra trên internet.
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Mày thuộc thiểu số nhỏ không hiểu rõ sự thật, làm sao trứng có thể dở được?
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Nước đã giàu, dân đã mạnh, sao mày không ăn thịt gà cho tao nhờ?
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Không có trứng nào hoàn hảo cả, vậy mày không có quyền đồn nhảm về cái trứng này nhá!
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Trứng đời nhà Thanh ngon hay dở thì chỉ có người đời nhà Thanh biết.
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Có nhớ xã hội cũ không, người nghèo lúc đó đến gạo cũng chẳng có mà ăn, mỗi ngày đành phải ăn trấu và cây cỏ dại, cuộc sống hạnh phúc ngày nay phải trả giá bằng sinh mạng và máu của vô số liệt sĩ, mày phải biết trân trọng chứ!
Còm: Cái trứng gà này dở như hạch.
Phản còm: Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình gà đẻ trứng, nếu mày muốn ăn trứng ngon, mày phải đợi đến giai đoạn cao cấp hơn, giai đoạn ban đầu này là một quá trình rất dài.
[i] Người dịch tiếng Anh (C. Custer) không dám chắc chắn về cách dịch từ lóng 轮子[luân tử] trong nguyên bản tiếng Trung, mà chỉ gợi ý là “liar” [kẻ nói dối] hoặc “FLG member” [hội viên Pháp Luân Công]. (N.D.)
Phạm Vũ Lửa Hạ dịch từ bản tiếng Anh.
Nguồn: “The Fifty Cents Party Training Manual” do C. Custer dịch từ bản tiếng Trung “五毛初级培训教材” (Ngũ mao sơ cấp bồi huấn giáo tài).







Nghĩ vào lúc Hiến pháp đang sửa đổi
Dương Trung Quốc
NQL: Một bài viết hay của bác DTQ. Nhưng có vẻ bác viết bài này cho giới trí thức đọc chứ không phải viết cho lãnh đạo đọc. Đảm bảo 100% trí thức Việt ( trí thức chứ không phải trí ngủ) đều cho rằng sửa đổi hiến pháp lần này nên lấy Hiến pháp 1946 làm gốc, vì thế bác DTQ không phải giải thích cho họ hiểu. Vấn đề là làm sao để lãnh đạo sáng ra được điều đó. Mà viết cho lãnh đạo thì không nên nói vòng vo, cần phải nói rõ ra sửa đổi hiến pháp lần này nên lấy Hiến pháp 1946 làm gốc vì a, b, c, d,.. may ra lãnh đạo mới chú ý đọc để từ đó thức ngộ một điều gì.
Câu chuyện Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp đang góp thêm vào không khí của những ngày đầu tiên của năm mới dương lịch 2013, cho dù những ngày giáp Tết âm lịch bận rộn đang đến gần.
Bản dự thảo sửa đổi bản Hiến pháp năm 1992 đã được công bố và việc lấy ý kiến của nhân dân trong vòng ba tháng không chỉ được khẳng định bằng những kế hoạch triển khai rộng khắp mà còn nhận được những thông điệp khích lệ của những nhà lãnh đạo kêu gọi toàn dân hưởng ứng với tinh thần phát huy dân chủ, không e ngại những ý kiến khác biệt, thậm chí cho rằng không có “vùng cấm” khi đưa ra chính kiến, mặc dù cũng không quên nhắc nhở phải cảnh giác với những âm mưu hay nguy cơ không xuất phát từ thiện chí và trách nhiệm cùng “diễn biến hoà bình” và nay còn có thêm “tự diễn biến”…
Cơ quan soạn thảo cũng nhấn mạnh rằng, việc lấy ý kiến nhân dân vốn đã là một “truyền thống” từng được thực hiện ở cả 4 bản hiến pháp từ 1946, 1959, 1980 và 1992 nhằm thể hiện một tinh thần cơ bản của Hiến pháp là “quyền phúc quyết của nhân dân”. Khi phân tích và so sánh các bản hiến pháp đã từng được soạn thảo thì có một sự đồng thuận rất cao khi cho rằng bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 mang tính “chuẩn mực”, “kinh điển”. Nhưng trên thực tế thì văn kiện quan trọng này mới được thông qua ở kỳ họp thứ hai của Quốc hội khoá I (9.11.1946) mà chưa được ban hành. Các hiến pháp 1959 ,1992 thì mỗi văn bản phát huy được chừng hai thập kỷ, còn Hiến pháp 1980 thì cũng chỉ duy trì được 12 năm với vài lần sửa sang.
Tuy không hẳn là tiêu chí duy nhất, nhưng tính ổn định của một quốc gia thể hiện bằng sức sống (tuổi thọ) của một bản hiến pháp. Nước Mỹ là một trường hợp điển hình, Hiến pháp chỉ có 7 điều mà tồn tại đã hơn hai trăm năm. Người ta giải thích rằng, song hành với bản Hiến pháp ổn định ấy là cả một năng lực rất thành thục trong việc giải thích hiến pháp một cách rất chuyên nghiệp nhằm vận dụng những nội dung mang tính nguyên lý vào những biến đổi hết sức cụ thể của đời sống phát triển. Nói như người phương Đông , đó là cái năng lực “dĩ bất biến ứng vạn biến”.
Vậy thì vì sao Việt Nam là một dân tộc, do nhiều hoàn cảnh địa lý và lịch sử đã nổi tiếng là ứng biến giỏi, thích nghi giỏi, cũng lấy cái bất biến để ứng với vạn biến mà tồn tại đến ngày nay, vượt qua mọi thách thức mà Hiến pháp dường như thiếu tính ổn định kể từ sau văn bản đầu tiên?

Bác Hồ chụp ảnh cùng các đại biểu Quốc hội khóa I.
Điều dễ thấy là Hiến pháp 1946 là văn kiện lần đầu tiên trong lịch sử của dân tộc Việt Nam được soạn thảo, nó chỉ kế thừa duy nhất là tinh thần của bản Tuyên ngôn Độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình Lịch sử ngày 2.9.1945 và nó được coi là thành tựu trực tiếp của cuộc Cách mạng Tháng Tám giành độc lập với ngoại bang và chấm dứt chế độ quân chủ đã từng tồn tại cả ngàn năm ở trong nước. Cũng có thể nói, nó tựa như Hiến pháp Hoa Kỳ bắt nguồn từ những tư tưởng của bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 hay Hiến pháp của nền Cộng hoà Pháp bắt nguồn từ những nguyên lý của bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” gắn với cuộc cách mạng lật đổ chế độ quân chủ 1789.
Nghĩ cho sâu xa mới hiểu được vì sao người đứng đầu cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam cũng là người thiết kế những ý tưởng đặt nền móng cho Hiến pháp nước ta lại dẫn những tư tưởng cơ bản nhất của 2 bản tuyên ngôn của hai quốc gia lập hiến trước chúng ta là Mỹ và Pháp trong bản Tuyên ngôn Độc lập của mình. Vì thế, không chỉ đến khi soạn thảo Hiến pháp thì thể chế (mô hình) chính trị mới được lựa chọn mà ngay trong Tuyên ngôn Độc lập đã xác định “Nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”. Nói cách khác là bản Hiến pháp 1946 chính là việc soạn thảo một văn kiện nhằm chế định cái thể chế chính trị đã được khẳng định bằng chính một cuộc cách mạng của toàn dân để xác lập nền độc lập dân tộc, tạo cơ hội để nhân dân có quyền quyết định vận mệnh của mình, thực hiện cái điều sau này được thể hiện trong Hiến pháp là “quyền phúc quyết của nhân dân”.
Vì vậy nếu bằng con mắt của người chép sử mà sắp xếp những sự kiện được vận động theo thời gian, người ta sẽ nhận ra rằng chỉ sau khi giành chính quyền một thời gian rất ngắn, người đứng đầu Chính phủ lâm thời đã đặt vấn đề xây dựng Hiến pháp lên hàng đầu sau khi đã thành lập Quốc hội.
Có một điều cũng đáng suy ngẫm rằng, vì sao nhà cách mạng Hồ Chí Minh đã từng trải ở nước Nga Xôviết, rồi Công xã Quảng Châu, học tập nhiều lý luận về chủ nghĩa cộng sản với tư cách một chiến sĩ của Quốc tế Cộng sản, mà khi giành được chính quyền trong tay thì không lựa chọn mô hình Xôviết (mô hình đã từng một lần vận dụng một cách ấu trĩ trong thời kỳ 1930-1931 ở Nghệ Tĩnh)?
Còn thể chế dân chủ cộng hoà được diễn giải bằng những mục tiêu: Dân tộc – độc lập, dân quyền – tự do và dân sinh – hạnh phúc lại chính là “Chủ nghĩa Tam dân” của nhà lãnh đạo nổi tiếng Trung Hoa là Tôn Trung Sơn đã vận dụng những thành tựu chính trị của thế giới- mà trực tiếp là của nước Mỹ- cho yêu cầu của các nước còn được coi là “nhược tiểu” trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, trong đó có cả nước Trung Hoa giàu và đông, nhưng nghèo và lạc hậu. Cái nguyên lý về một “nhà nước của dân, do dân, vì dân” cũng bắt nguồn từ nền chính trị Mỹ và câu chữ ấy được thể hiện lần đầu trong một bài diễn văn của Tổng thống Hoa kỳ thứ 16 Abraham Lincohn.
Lựa chọn thể chế chính trị này và được thể hiện ngay từ trong Cương lĩnh của Mặt trận Việt Minh được viết như sự đúc kết 30 năm đi khắp thế giới nhằm lựa chọn mô hình cho sự phát triển đất nước (mà cứu nước chỉ là mục tiêu ban đầu) của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1911-1941). Chính sự lựa chọn đúng đắn này đã tạo nên sự đồng thuận rất nhanh chóng và mạnh mẽ trong nhân dân sau khi đã giành được chính quyền.
Cần nhớ rằng, vào thời điểm tiến hành bầu cử Quốc hội và dự thảo bản Hiến pháp đầu tiên, trên đất nước Việt Nam mới độc lập không có chế độ “một đảng lãnh đạo”, thậm chí Đảng Cộng sản Đông Dương còn tuyên bố “tự giải tán”, đại diện công khai tham gia Quốc hội và soạn thảo Hiến pháp chỉ còn có “Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác”. Không đi sâu vào bản chất việc “tự giải tán” của Đảng, nhưng một thực tế cho thấy ngay trong bối cảnh phức tạp như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh- người lãnh đạo cao nhất của Đảng- vẫn chủ động thành công trong việc xác lập thể chế chính trị của đất nước. Hoàn toàn có thể nói rằng, vị Chủ tịch Nhà nước Việt Nam độc lập còn chủ động tạo ra hình thái “đa nguyên, đa đảng” với việc chấp nhận “mời” 70 thành viên của các đảng phái chính trị trước đó “tẩy chay” tham gia tổng tuyển cử vào làm đại biểu Quốc hội.
Bàn về thể chế chính trị của Việt Nam trong hoài bão đất nước giành được độc lập, trước Cách mạng Tháng Tám 1945 đã hình thành một nhóm trí thức tây học am hiểu luật học và các ngành kinh tế xã hội tập hợp xung quanh tờ báo “Thanh Nghị” để bàn về tương lai đất nước một khi giành được độc lập. Chính nhiều nhân vật trong nhóm này đã chủ động cộng tác và được mời cộng tác, rồi tham gia chính phủ Hồ Chí Minh bởi đã có một sự đồng thuận rất cao về sự lựa chọn thể chế chính trị của nước Việt Nam độc lập.
Ngay cả Bảo Đại- ông vua cuối cùng của triều Nguyễn, được đào tạo học vấn phương Tây- dù luyến tiếc ngai vàng và không thể không lo sợ trước sức mạnh áp đảo của cách mạng, nhưng cái mô hình dân chủ cộng hoà mà vị vua sau khi thoái vị đã nhận làm công dân rồi trở thành cố vấn tối cao Vĩnh Thuỵ bên cạnh Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chính sự lựa chọn thể chế chính trị này đã không dẫn đến những gì xảy ra như ở nước Pháp trong cách mạng tư sản hay nước Nga trong cách mạng vô sản…, mà nó còn tạo nên nền tảng mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc mà chúng ta được chứng kiến trong những trang sử gắn liền với thể chế dân chủ – cộng hoà .
Nghiên cứu lịch sử xây dựng Hiến pháp năm 1946, chúng ta thấy những yếu tố tạo nên giá trị bền vững đã diễn ra sau sự lựa chọn thể chế được thể hiện trong bản Tuyên ngôn Độc lập. Một quốc hội nhanh chóng được bầu theo phương thức được coi là dân chủ và tiên tiến nhất đương thời là phổ thông đầu phiếu có sự bình đẳng tuyệt đối giữa nam và nữ trong việc bầu cử và tham gia Quốc hội, giữa các tôn giáo, sắc tộc và tầng lớp xã hội (vào thời điểm ấy ngay cả nhiều nước Châu Âu đã phát triển cũng chưa đạt tới). Một quốc hội được triệu tập theo đúng những thông lệ quốc tế: Người chủ trì phiên đầu là vị đại biểu cao niên nhất lại là tín đồ đạo Thiên chúa- cụ Ngô Tử Hạ, người dân có thể vào quan sát phiên họp tại khu vực tầng cao nhất của Nhà hát Lớn Hà Nội. Một ủy ban soạn thảo Hiến pháp được cử ra gồm toàn những trí thức, sau đó được bổ sung nhiều nhà luật học… Những nội dung soạn thảo trước khi triệu tập kỳ họp thứ hai được đưa ra diễn đàn báo chí trao đổi.
Ngày nay, đọc lại biên bản tường thuật kỳ họp thứ hai của Quốc hội khoá I kéo dài từ 28.10 đến 9.11.1946 thì phần lớn thời gian dành để thảo luận về Hiến pháp (tổng cộng 7 ngày). Tham gia thảo luận rất sôi nổi với những gương mặt rất tiêu biểu của giới trí thức đương thời (như Trần Đình Tri (Việt Minh), Trần Trung Dung (Việt Nam Quốc dân Đảng), Lê Thị Xuyến (Xã hội), Trần Huy Liệu (Mácxít), Hồ Đức Thành (Cách mạng Đồng minh Hội), Hoàng Văn Đức (Dân chủ)…, người ta nhận ra sự đồng thuận nhiều hơn sự bất đồng của các đại biểu thuộc các đảng phái khác nhau.
Sự bất đồng chủ yếu là chấp nhận thể chế dân chủ – cộng hoà, nhưng với mô hình một viện hay hai viện. Hai ý kiến đều là đại biểu của Việt Nam Quốc dân Đảng không tán thành một viện cho rằng dân chúng vì chưa được huấn luyện nhiều về chính trị nên chế độ một viện chưa thích hợp với nước ta (Trần Trung Dung), chế độ một viện là độc tài của đa số (Phạm Gia Đỗ)… Cuối cùng, khi biểu quyết thông qua Hiến pháp, trong số 242 đại biểu có mặt thì chỉ có hai lá phiếu phản đối. Một của Phạm Gia Đỗ- ngoài vấn đề không tán thành một viện- còn đề nghị bãi bỏ kiểm duyệt, tự do xuất bản… Và người thứ hai lại là nhà công thương nổi tiếng của thành phố Hải Phòng Nguyễn Sơn Hà, lấy lý do trong Hiến pháp, quyền của các nhà tư bản Việt nam không bằng quyền của các nhà tư bản Pháp và ngoại quốc được Nhà nước Việt Nam thoả hiệp theo tinh thần của Hiệp định Sơ bộ 6.3.1946)…
Bản Hiến pháp 1946 đã được thông qua bằng 240 phiếu thuận.
Và kết luận kỳ họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu: “…Sau khi nước nhà mới được tự do 14 tháng, đã làm được bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà. Bản Hiến pháp ấy còn là một vết tích lịch sử Hiến pháp đầu tiên trong cõi Á Đông này nữa. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do…”.
Nhắc lại bản Hiến pháp đầu tiên để nói đến cái nền tảng bền vững của một thể chế chính trị mà thực tiễn cho thấy cho đến ngày nay, khi đã có 3 bản hiến pháp tiếp theo ra đời vào những giai đoạn lịch sử sau đó, ngoài Hiến pháp 1959 vẫn còn có sự tham gia của Chủ tịch Hồ Chí Minh và vẫn duy trì thể chế dân chủ – cộng hoà thì đến năm 1976, quốc danh Việt Nam đã chuyển qua thể chế “Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa”. Và bản Hiến pháp ngắn ngủi nhất trong lịch sử ra đời 1980 phải coi là một bước lùi khi đã có khuynh hướng Xôviết hoá theo mô hình của một quốc gia hùng mạnh đang là đồng minh vững chắc của chúng ta trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước- của một giai đoạn lịch sử đầy khó khăn và chính cái mô hình ấy đã đổ vỡ hoàn toàn- đã thúc đẩy chúng ta phải đổi mới, mà hệ quả của nó chính là bản Hiến pháp 1992 mà giờ đây chúng ta đang tiếp tục sửa đổi.
Một thoáng nhìn lịch sử cũng đủ thấy cái nền tảng của Hiến pháp hiện tại hay tương lai, một khi xa rời cái nền móng được tạo dựng từ cuộc cách mạng và bản Tuyên ngôn Độc lập với thể chế dân chủ – cộng hoà mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, và cho đến nay nhiều quốc gia vẫn chấp nhận như một mô hình tiên tiến. Hơn thế nữa, những mục tiêu tưởng chừng rất khiêm nhường: Dân tộc, độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc đến nay vẫn không thay đổi, vì nó vẫn còn đang ở phía trước như những thách thức lâu dài. Không hẳn là một bước “lùi để tiến”, mà chính đó là cách phát triển bền vững nhất của một giá trị đã mang tính truyền thống.







January 19, 2013
Các loại quan tòa của Bên thắng cuộc
Ba Sàm
NQL: Cuộc ra quân của lề phải tấn công Bên thắng cuộc xem chừng đang thất bại thảm hại, sự nghiệp dư và tính nhà quê thấy rất rõ trong đợt phản pháo này.
Bài Về quyển sách “Bên thắng cuộc”: Vượt qua sợ hãi hay “chém gió”?, trên PLTPHCM, BS đăng lại, của Song Huy (tức nhà văn Lại Văn Long) và Ngọc Điệp, đã được bổ sung tiếp phần 2. Mời bà con tham gia bình luận tiếp.
Xin bàn tiếp bữa qua về tư thế của các “quan tòa” nghiệp dư mới được trưng dụng trong vụ xử vội xuyên … lục địa này (vì “bị cáo” đang ngồi bên kia bán cầu).
Với Đức Hiển thì đã rõ hoàn toàn, “quan tòa” này có hẳn một bài công phu, đăng ngay trên tờ báo mà mình làm thư ký tòa soạn, nên chắc không bị ai “xuyên tạc”, “lợi dụng” … Một điểm đáng chú ý là trang Dân Việt đã đăng lại, để rồi 2 tuần sau đi tiếp loạt bài cùng chủ đề, rất đáng bàn về một lối làm báo đáng chê trách.
Lưu Đình Triều, một trưởng phòng của báo Tuổi trẻ, con trai cố nhà báo kỳ cựu Lưu Quý Kỳ. Trong vụ xử, có vẻ ông đã bị DV lợi dụng, bắt làm quan tòa bất đắc dĩ. Trò lợi dụng này của DV lộ lên ở hai điểm.
1- Từ nội dung một “cuộc gặp gỡ với bạn bè” nào đó, không rõ ở đâu, với ai, thế mà DV dựng lên hẳn thành một bài, nhưng quá sơ sài, chẳng có luận cứ, dẫn chứng gì, để chỉ trích một tác phẩm mà chính báo chí trong nước cũng không thể phủ nhận là có lượng thông tin đồ sộ.
2- Sau bài đầu tiên đó, DV đã làm chuyện kỳ quặc là tự đăng lại bài 2 kỳ của chính mình cách đó 2 năm, đồng thời sửa đổi hoàn toàn tên bài, không ăn nhập gì với nội dung, và nhất là trái logic thời gian đến nực cười. Một ý đồ không đàng hoàng chút nào, rất trắng trợn và coi thường độc giả. Nhưng … vẫn có một điều cần biết là ông Lưu Đình Triều có được DV hỏi ý kiến về toàn bộ trò lợi dụng này không? Là một nhà báo lão luyện, không lẽ ông vẫn chấp nhận trò làm báo tệ hại đến vậy?
Nhà Nghiên cứu Cao Tự Thanh cũng có vẻ như bị lợi dụng khi ông đã phải lên tiếng than phiền trên mạng tự do về một bài phỏng vấn của mình trên tờ PLTPHCM. Tuy nhiên, câu hỏi đơn giản có thể đặt ra ở đây là có phải ông Cao Tự Thanh hoàn toàn bị lợi dụng hay không, hay ông đã chủ động để PLTPHCM lợi dụng, nhưng họ lại đi quá xa tới mức ông không ngờ tới, nên ông phải cố gắng giữ danh dự phần nào bằng một vài thông tin trên mạng tự do? Hay đây hoàn toàn là một màn kịch mà ông và PLTPHCM cùng lên kịch bản và trình diễn? Phải nghiêm khắc đặt vấn đề tới tận cùng như vậy bởi màn kịch này đã đụng tới không chỉ sinh mạng chính trị một con người, mà còn cả những điều lớn lao hơn của đất nước.
Loại “quan tòa” thứ ba là các “độc giả ẩn danh“. Loại này có thể đoán được họ là người của các cơ quan quản lý báo chí (công an, tuyên giáo, 4T). Phong cách làm báo này đã có từ lâu, điển hình như trong vụ Tòa Khâm sứ ở Hà Nội. Có một bài viết lấy danh nghĩa “giáo dân” để phê phán Giám mục Ngô Quang Kiệt, thế nhưng trong báo giới nhiều người cho biết đó là bài của ông Hồng Vinh, mới rời ghế phó ban Tuyên giáo TƯ trước đó.
“Quan tòa” thứ tư, rất hiếm, đó là nghị khùng Hoàng Hữu Phước. Loại này thì khỏi phải bàn, nên chính báo nhà nước cũng không thể xài nổi bản “luận tội” của ông ta.
Loại “quan tòa” thứ năm mới là kinh khủng và đáng lên án. Xin được bàn tiếp kỳ sau.







Phong trào “Roast” cho Việt Nam
Alan Phan
Lễ hội Roast: Một lễ roast phần lớn được tổ chức tại Mỹ dành cho các nhân vật nổi tiếng (từ Tổng Thống đến siêu sao) tại những sự kiện công cộng, có truyền thông tham dự. Người được “ô danh” gọi là roastmaser phải có một cảm nhận khôi hài cao độ để chấp nhận những chuyện diễu cợt, chế nhạo, phê bình…về mình mà không chút tự ái hay bực bội. Những người được mời lên diễn đàn chọc phá là những bạn bè, đồng nghiệp, báo giới…kể lại những mẩu chuyện quá khứ hay những giả tưởng tương lai…Tinh thần quan trọng nhất của lễ roast là …vui cười, đùa cợt, không chút ác ý hay ghen tị.
Một vài thân hữu nói “chúng tôi sẽ đi dự tiệc tất niên của ông vì hiếu kỳ muốn xem thiên hạ nó chế diễu, nhạo báng, phê phán…ông ra sao?” Ờ Việt Nam, các buổi lễ vinh danh PR thì được tổ chức rầm rộ mỗi ngày; nhưng bỏ tiền ra để ngồi nghe..chửi, thì chắc chỉ có ông già Alan. Thực ra, đây là một truyền thống cả trăm năm nay tại Mỹ và cả ngàn năm nay tại Nhật. Có lẽ đó là lý do họ ít bị “táo bón” về mặt tinh thần và trí tuệ như văn hóa 5 ngàn năm của ta và Tàu?
Trong các cung vua phủ chúa của Nhật, các hoàng đế thường thuê một vài anh hề để chế diễu mình và các cận thần chức sắc. Vai trò của các anh hề này làm giảm đi sự căng thẳng của tình thế, cho mọi người một góc nhìn tư duy lạ hơn; nhưng quan trọng nhất là đem “con người” về đúng vị trí của nó, để không ai hoang tưởng mình là thần thánh, không bao giờ sai hay ngu hay điên. Các lãnh đạo Âu Mỹ thì ngoài các đảng đối lập, còn cả ngàn phóng viên, bình luận gia…theo dõi từng bước, muốn ăn vụng cũng khó chứ đừng nói tới chuyện muốn làm thánh gióng.
Riêng ở Trung Quốc, qua bao triều đại, kể cả gần đây, vua là “con trời” và dù là thứ con trời đánh thánh vật, con hoang, con rơi…vẫn là máu mủ của giòng họ. Chưa nói đến những bà con cháu chắt, họ hàng xa gần, cả trăm ngàn “thái tử công chúa” vẩn từ “trời” xuống thế, nên được quyền làm những trò rất khỉ (kiểu Tề Thiên). Cho nên, ngay cả một phê bình nhẹ nhàng từ quan Tể Tướng, cũng đủ bị tội chém đầu. Tệ nhất là câu, “mắt mủi bệ hạ để đâu mà rước về một con cung phi xấu thế…” Tội này thì tru di tam tộc. Cũng may, các thiên tử phần lớn thuộc loại ngu dốt, xuất thân từ rừng rậm, nên không biết gì chuyện kinh bang tế thế đại sự và phó mặc cho các quan có học, nên lịch sử Tàu vẫn còn có những điểm sáng cho nhân dân nhờ.
Tôi vẫn nghĩ nếu lãnh đạo Trung Quốc và các nước chư hầu Á Châu có được văn hóa tự trào, tự phê, tự chấp nhận yếu kém thực của mình…thì lịch sử đã không nghiệt ngã với đa số…dân ngu khu đen của các xã hội này.
Từ ý nghĩ đó, mong các bạn BCA hãy tiếp tay cho Alan tạo nên phong trào “roast” khắp xứ ; nghĩa là từ nay, thay vì các lễ PR hoành tráng hay các bài viết thuê trả tiền để vinh danh (thực ra là nói dối dư luận) , chúng ta chỉ tham dự vui chơi ở những nơi mà bạn bè thân hữu cuời diễu, “xấu khoe đẹp giấu”. Khi mọi người thoải mái hơn về cái “sĩ diện” hão, thì những chuyện giả dối, vô cảm…ở xứ này sẽ giảm đi chăng?
Thử nghĩ thay vì đóng cửa “phê và tự phê”, nếu chúng ta cho trực tiếp truyền hình những thâm cung bí sử, cả nước sẽ quên đi các bộ phim Hàn Quốc, Trung Quốc ngu xuẩn, và các mạng truyền thông sẽ đem đến cho người dân những bài học về khiêm tốn, về thực tại và về một tư duy thích hợp với thời đại mới?







Toàn văn phản hồi của chính quyền Đà Nẵng gửi Thanh tra Chính phủ

Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Văn Hữu Chiến
NQL: Không rõ lý do gì mà Infonet đột nhiên bỏ hai bài Chủ tịch Đà Nẵng: “Thanh tra Chính phủ kết luận không đúng”, phần 1 và Đà Nẵng chứng minh “Thanh tra Chính phủ kết luận không đúng” ra sao?, phần 2. Phần 3 như đã hứa hẹn cũng không đăng nữa. Có cái gì đó rất chi thì là mà và… Vì vậy Quê choa xin đăng toàn bộ phản hồi của Đà Nẵng để bà con theo dõi.
Hôm nay (19.1), UBND thành phố Đà Nẵng có thông báo số 12/TB-UBND phản hồi kết luận của Thanh tra Chính phủ công bố ngày 17.1. Lao Động xin trân trọng giới thiệu toàn văn thông báo này.
I. Về việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất:
Tất cả các dự án mà Thanh tra Chính phủ tiến hành thanh tra được thành phố tổ chức triển khai thực hiện theo đúng quy hoạch sử dụng đất được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 503/QĐ-TTg ngày 31.5.2000, Quyết định số 465/QĐ-TTg ngày 17 tháng 6 năm 2002, Nghị quyết số 11/2006/NQ-CP ngày 26.5.2006, Nghị quyết số 41/2007/NQ-CP ngày 31.7.2007; được UBND thành phố ban hành kế hoạch sử dụng đất hằng năm.
Quy hoạch tổng thể của thành phố Đà Nẵng có sự tham gia của các tổ chức tư vấn thiết kế trong và ngoài nước có kinh nghiệm, góp phần tham gia xây dựng quy hoạch của Đà Nẵng rộng hơn, đồng thời đón đầu xu thế phát triển. Đà Nẵng đã có một quy hoạch đi trước một bước, cơ sở hạ tầng được đầu tư đồng bộ nên đã được các nhà đầu tư xem Đà Nẵng là điểm đến hấp dẫn…. Thực tế như vậy, thành phố có rất nhiều dự án đã, đang triển khai và đưa vào sử dụng… nên đô thị thành phố ngày càng khang trang, hiện đại như ngày hôm nay. Đi cùng với công tác quy hoạch, thành phố tập trung giải phóng mặt bằng trên diện rộng để tạo ra thật nhiều quỹ đất tái định cư bố trí cho nhân dân vùng giải tỏa có cuộc sống tốt hơn nơi ở cũ (cách làm này tạo được sự đồng thuận, ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân đối với chủ trương của thành phố). Quỹ đất còn lại theo quy hoạch, thành phố đã, đang và sẽ tiếp tục mời gọi đầu tư, tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định nhằm tạo nguồn thu để chi cho đầu tư phát triển. Với nguồn quỹ đất dồi dào đã tạo ra giá đất phù hợp, nhân dân được hưởng lợi các mặt về an sinh xã hội, các nhà đầu tư có điều kiện tiếp cận để đầu tư dự án có tính khả thi.
Tuy nhiên, do tình hình kinh tế đang gặp nhiều khó khăn nên một số dự án chưa triển khai. Thành phố sẽ đôn đốc các nhà đầu tư sớm triển khai dự án.
Vì vậy, việc Thanh tra Chính phủ kết luận “công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thiếu căn cứ, cơ sở, chưa phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu thực tế của địa phương. Tình trạng đất đai sau khi được san lấp, giải tỏa, chuyển quyền sử dụng đất, thuê đất để hoang hóa lớn, ít dự án đầu tư được thực hiện” là không có cơ sở.
II. Về đấu giá và giao quyền sử dụng đất:
UBND thành phố Đà Nẵng khẳng định tất cả các trường hợp giao đất cho các tổ chức, cá nhân đều được công khai đấu giá và giao quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật về đất đai tại thời điểm, cụ thể là:
- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai;
- Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần;
- Quyết định 216/2005/QĐ-TTG ngày 31/8/2005 của Thủ tướng Chính phủ về đấu giá quyền sử dụng đất;
Việc đấu giá quyền sử dụng đất được các đơn vị công khai trên báo chí, đảm bảo đúng thời gian và các tiêu chí theo quy định: Địa điểm xây dựng, các chỉ tiêu kiến trúc quy hoạch, diện tích, đơn giá, mục đích sử dụng đất, thời gian, địa điểm đăng ký… để các nhà đầu tư có thông tin đăng ký đấu giá.
Vì vậy, việc Thanh tra Chính phủ kết luận: “Việc đấu giá quyền sử dụng đất trong những năm qua, UBND thành phố Đà Nẵng triển khai không tốt, từ khâu ban hành quy chế đấu giá đến tổ chức thực hiện không tuân thủ quy định của Luật Đất đai và Quyết định số 216/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tỷ lệ các phiên đấu giá thành công quá thấp, chưa tạo được thị trường bình đẳng, khách quan khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhằm thu cho ngân sách nhà nước có hiệu quả… Tình trạng giao đất không thông qua đấu giá còn phổ biến dẫn đến việc xác định giá thu tiền sử dụng đất chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường, tạo điều kiện để một số nhà đầu tư đầu cơ, thu lợi” là không có cơ sở.
III. Việc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất:
Thực hiện chương trình cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, tổ chức và công dân trong việc liên hệ với cơ quan nhà nước khi làm thủ tục nhận đất, nộp tiền sử dụng đất… theo chủ trương của UBND thành phố, đồng thời căn cứ vào thực tiễn của địa phương (việc đền bù, giải tỏa thực hiện trên diện rộng nên áp lực về giải quyết bồi thường thiệt hại, tái định cư, quản lý nguồn thu từ đất là rất lớn) nên sau khi có chủ trương giao đất cụ thể bằng văn bản của UBND thành phố, thành phố đã giao các đơn vị ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất. Chủ trương này đã thực hiện trong nhiều năm qua và đạt được nhiều hiệu quả trong quản lý nhà nước về đất đai (giao đất, quản lý thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai, trách nhiệm giữa Nhà nước và tổ chức, cá nhân được giao đất), mang lại hiệu quả về mặt xã hội rất lớn và giữ vững môi trường đầu tư, đó là: Các đơn vị này thực hiện tất cả các thủ tục cần thiết theo quy định. Các tổ chức, cá nhân chỉ liên hệ đến 1 đơn vị để làm thủ tục từ việc giải tỏa, bồi thường thiệt hại, bàn giao đất, nộp tiền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… Các đơn vị này có chức năng hoạt động như tổ một cửa theo quy trình cải cách thủ tục hành chính hiện hành của thành phố khi giải quyết công việc của nhân dân, tổ chức.
Tất cả các trường hợp được giao đất, người được giao quyền sử dụng đất đều phải nộp đủ tiền 100%, thiếu 1 đồng cũng không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất chuyển nhượng theo quy định của pháp luật. Vấn đề này không thuộc quyền hạn và trách nhiệm của UBND thành phố.
Cách làm này của thành phố xuất phát từ nhu cầu khách quan, thực tiễn của địa phương, trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với nhân dân, chương trình cải cách thủ tục hành chính và đã phát huy hiệu quả, góp phần rất lớn cho sự thành công của công tác bồi thường, giải tỏa, tái định cư, thực hiện tốt cải cách thủ tục hành chính, tạo sự đồng thuận rất lớn trong nhân dân, giữ vững được môi trường đầu tư (đây là yếu tố quan trọng trong việc Đà Nẵng xếp hạng cao 3 năm thứ nhì, 3 năm dẫn đầu cả nước về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI và Đà Nẵng dẫn đầu cả nước về thủ tục hành chính công theo đánh giá của Bộ Nội vụ công bố tháng 5 năm 2012).
Vì vậy, việc Thanh tra Chính phủ kết luận: “Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến phát sinh nhiều sai phạm như: Không đủ căn cứ, cơ sở để xác định giá thu tiền sử dụng đất; việc phê duyệt và phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng tùy tiện; nhiều nhà đầu tư sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đã không thực hiện đầu tư, tiếp tục chuyển nhượng cho nhà đầu tư khác thu chênh lệch số tiền rất lớn… làm thất thu ngân sách nhà nước, gây thiệt hại lớn về kinh tế” là không có cơ sở.
IV. Về Thanh tra Chính phủ kết luận gây thất thoát đối với 6 dự án:
Thanh tra Chính phủ thanh tra 46 dự án, trong đó có một số dự án, Thanh tra Chính phủ lấy giá đất của Hội đồng thẩm định giá đất thành phố làm căn cứ chính rồi so với giá đất mà UBND thành phố quyết định có sự chênh lệch, đồng thời không tính mật độ xây dựng khi xác định giá đất để kết luận gây thất thoát là không có cơ sở.
Theo quy định, việc phê duyệt giá đất để thu tiền sử dụng đất thuộc thẩm quyền của UBND thành phố. Hội đồng thẩm định giá đất thành phố do UBND thành phố thành lập gồm đại diện Sở Tài chính, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng, Cục thuế thành phố, Văn phòng UBND thành phố chỉ là bộ phận tham mưu, đề xuất cho lãnh đạo UBND thành phố trong việc xem xét và quyết định giá đất.
Chính vì điều này nên việc đồng ý giảm, tăng hoặc giữ nguyên giá đất theo đề nghị Hội đồng Thẩm định giá đất thành phố là việc làm bình thường và đúng thẩm quyền của UBND thành phố.
Giá đất cụ thể được UBND thành phố xác định phù hợp với từng vị trí, địa điểm quy hoạch, điều kiện cơ sở hạ tầng, tính các hệ số theo quy định như: hệ số che khuất, hệ số ngã ba, ngã tư, hệ số ba mặt tiền trở lên,…; phân vệt chiều sâu lô đất, giá đất thị trường ở vị trí đó tại thời điểm và các lô đất đều được đưa ra đấu giá công khai. Việc xác định giá các lô đất lớn phải tính đến mật độ xây dựng thường từ 60% đến 70% so với diện tích khu đất. Thực tế cho thấy có những lô có chiều sâu hàng trăm mét, có diện tích từ vài hecta đến hàng chục hecta. Khi áp dụng phương pháp xác định giá đất theo Chính phủ quy định, Bộ Tài chính hướng dẫn thì giá đất có thể thấp hơn bảng giá do UBND thành phố quy định. Điều này là đương nhiên vì bảng giá do UBND thành phố quy định cho các lô đất nhỏ có diện tích khoảng 100m2, mật độ xây dựng 100%, có cơ sở hạ tầng đầy đủ.
Vấn đề này, Bộ Tài chính đã có ý kiến tại Điểm 1 và Điểm 3 Công văn số 11021/BTC-QLCS ngày 16/8/2012, cụ thể như sau:
- “Việc Hội đồng liên ngành thẩm định giá đất tỉnh, thành phố căn cứ vào bảng giá đất hằng năm và các phương pháp xác định giá theo quy định của pháp luật (Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004, Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004, Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007 của Chính phủ và các Thông tư hướng dẫn) thực hiện xác định giá đất cụ thể tính thu tiền sử dụng đất, trình UBND cấp tỉnh quyết định là đúng quy định về thẩm quyền quyết định giá đất tính thu tiền sử dụng đất.”.
- “Mật độ xây dựng theo quy hoạch xây dựng chi tiết đã được duyệt chỉ là một trong các căn cứ để xác định giá đất tính thu tiền sử dụng đất”.
Riêng về vấn đề này, Ủy ban kiểm tra Trung ương cũng đã có kết luận hết sức cụ thể tại Mục 4 Kết luận số 94 ngày 25 tháng 4 năm 2007 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng:
“Việc bán khu đất 18.000m2 cuối tuyến đường Phạm Văn Đồng, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà, khu Thương xá Vĩnh Trung, khu đất số 8 Phan Chu Trinh, khu đất tứ giác Phạm Hồng Thái – Nguyễn Chí Thanh – Nguyễn Thái Học – Yên Báy, khu đất bán cho ông Nguyễn Hữu Sinh, bán cho ông Nguyễn Hữu Bình, cho Công ty TNHH Đức Mạnh, bán cho Công ty TNHH Cafe Trung Nguyên, Công ty An Cư Đông Á. Qua xem xét Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng nhận thấy việc bán các khu đất trên là có chủ trương của tập thể UBND thành phố Đà Nẵng thực hiện theo mục đích thương mại du lịch, không phải giá nhà ở, mật độ xây dựng nhà cao tầng từ 50% – 60% diện tích khu đất. Đất còn lại phục vụ công cộng. Vì vậy, không thể so sánh giữa giá đất làm dịch vụ theo đúng quy hoạch của thành phố với giá đất bán nền hoặc giá đất ở mặt tiền các đường phố chính.”
* Cụ thể ở từng dự án:
1. Dự án của Công ty Phúc Thiên Long:
Trên cơ sở đề xuất của Hội đồng thẩm định giá đất thành phố, UBND thành phố đã phê duyệt với giá khởi điểm đấu giá lô đất là 2.570.000đồng/m2.
Sau khi công khai đấu giá theo đúng quy định của pháp luật nhưng hết thời hạn nêu trên vẫn không có tổ chức, cá nhân nào tham gia đấu giá và chỉ có Công ty Phúc Thiên Long xin nhận quyền sử dụng đất. Lãnh đạo UBND thành phố thống nhất chủ trương giao đất cho Công ty Phúc Thiên Long là phù hợp với quy định tại Điểm d Khoản 5 Điều 2 Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 181/2004 hướng dẫn thi hành Luật Đất đai.
Về đơn giá giao quyền sử dụng đất đối với Công ty Phúc Thiên Long, UBND thành phố thống nhất phê duyệt giá đất giao quyền sử dụng đất theo đúng đề xuất của Hội đồng thẩm định giá đất thành phố với đơn giá là 3.030.000đồng/m2 (cao hơn đơn giá phê duyệt để đấu giá là 1,2 lần). Việc phê duyệt đơn giá đất 3.030.000đồng/m2là đúng thẩm quyền của UBND thành phố, phù hợp với giá thị trường tại thời điểm.
Về việc không xác định lại giá đất và cho phép cho Công ty Phúc Thiên Long gia hạn nộp tiền sử dụng đất là vì:
- Sau khi ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất cho Công ty Phúc Thiên Long, tình hình bất động sản cả nước nói chung và thành phố Đà Nẵng giảm sút và đóng băng, đồng thời các ngân hàng đồng loạt không cho vay vốn để đầu tư vào lĩnh vực bất động sản, do đó vấn đề tài chính của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.
- Khu đất này có nguồn gốc là đất quốc phòng nên quá trình làm thủ tục chuyển từ đất quốc phòng sang đất phát triển kinh tế xã hội có kéo dài, đồng thời hệ thống hạ tầng kỹ thuật tại khu vực chưa được đầu tư đồng bộ vì vướng đất quốc phòng dẫn đến Thành phố chưa thể bàn giao toàn bộ mặt bằng dự án cho chủ đầu tư để triển khai dự án.
- Từ tháng 12/2007 đến tháng 9/2009 (từ thời điểm quyết định giá đất đến thời điểm Công ty nộp đủ tiền sử dụng đất), Bảng giá đất năm 2008 và 2009 ở thành phố Đà Nẵng không thay đổi; Thị trường bất động sản giảm sút và đóng băng, lạm phát kéo dài. Thời điểm này bão số 6 vừa đổ bộ vào thành phố Đà Nẵng đã tàn phá nhiều nhà cửa, công trình khu vực ven biển đã gây nên tâm lý e ngại đầu tư vào khu vực ven biển. Vì vậy giá đất khu vực ven biển thời gian này giảm sút. Mặt khác, khu đất này gần sân bay Nước Mặn, nhiều người e ngại chất thải dioxin trước đây trong sân bay còn tồn đọng, ảnh hưởng đến sức khỏe; liền kề khu đất này là vệt biệt thự dọc tường rào sân bay Nước Mặn đã giảm giá nhiều lần, thường xuyên quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng trong nhiều năm liền không có khách hàng liên hệ để nhận quyền sử dụng đất.
Nếu tính theo giá chuyển quyền sử dụng đất trên thị trường tại thời điểm năm 2009 (áp dụng Bảng giá đất năm 2009 do UBND thành phố ban hành) thì đơn giá bình quân toàn khu đất là 2.691.319 đồng/m2. Như vậy, giá giao quyền sử dụng đất cho Công ty Phúc Thiên Long cao hơn đơn giá tính theo thị trường tại thời điểm là 338.681đ/m2 (3.030.000đồng/m2 - 2.691.319 đồng/m2) nằm trong khung giá đất của Chính phủ quy định.
* Về việc chuyển nhượng giữa các tổ chức, cá nhân:
Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất quy định:
“Giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường là số tiền VND tính trên một đơn vị diện tích đất được hình thành từ kết quả của những giao dịch thực tế mang tính phổ biến giữa người cần chuyển nhượng và người muốn được chuyển nhượng không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như tăng giá do đầu cơ, do thay đổi quy hoạch, chuyển nhượng trong tình trạng bị ép buộc, quan hệ huyết thống.”
UBND thành phố khẳng định đơn giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các cá nhân, tổ chức đối với khu đất này không phải giá thị trường trong điều kiện bình thường, vì:
- Sau khi Công ty TNHH Phúc Thiên Long được phép chuyển đổi tên sang ông Nguyễn Hữu Bình. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng, ông Nguyễn Hữu Bình chuyển nhượng lại cho Công ty ATS (do bà Nguyễn Thị Thoa làm Giám đốc). Bà Thoa và ông Bình là hai chị em ruột (có quan hệ huyết thống).
- Giao dịch này không mang tính phổ biến, mà trên thực tế đã chứng minh cho thấy việc tăng giá đất chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các cá nhân trên nhằm mục đích nâng khống giá trị chuyển quyền sử dụng đất lên quá cao để được vay ngân hàng với số tiền lớn (Đây là thực trạng dẫn đến nợ xấu trong ngân hàng như hiện nay).
- Ngoài mục đích nâng giá đất ảo nêu trên thì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các cá nhân, tổ chức là quan hệ dân sự giữa các bên, được cơ quan Công chứng chứng thực hợp đồng, sang tên trước bạ theo quy định của pháp luật. Vấn đề này không thuộc quyền hạn và trách nhiệm của UBND thành phố.
Như vậy, việc Thanh tra Chính phủ kết luận: “Khu đất chuyển nhượng cho Công ty Phúc Thiên Long để xây dựng khu dịch vụ thương mại du lịch, đã được UBND thành phố xác định giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất năm 2007, qua 4 lần gia hạn nộp tiền, đến tháng 9-2009 Công ty mới nộp tiền sử dụng đất nhưng thành phố không xác định lại giá (gây thất thu 120.172 triệu đồng), sau đó nhà đầu tư đã chuyển nhượng ngay cho đối tác khác thu lợi 498.442,206 triệu đồng” là không có cơ sở.
2. Khu đất phía Nam cuối đường Phạm Văn Đồng giao cho ông Hoàng Hải và bà Trung Thị Lâm Ngọc (21.000m2):
* Thanh tra Chính phủ có ý kiến:
“Khu đất phía Nam cuối đường Phạm Văn Đồng. Năm 2006, UBND thành phố chuyển nhượng cho ông Hoàng Hải và bà Trung Thị Lâm Ngọc, với tổng giá trị hợp đồng là 84 tỉ đồng. Đến năm 2008, ông Hải và bà Ngọc không triển khai thực hiện dự án, đã ủy quyền cho ông Phan Văn Anh Vũ chuyển nhượng cho ông Phạm Đăng Quan với giá chuyển nhượng là 581,526 tỉ đồng (thu chênh lệch 495,374 tỉ đồng). Năm 2009, ông Phạm Đăng Quan lại tiếp tục chuyển nhượng cho Công ty Cổ phần Đầu tư địa ốc ô tô Phương Trang với giá là 585 tỉ đồng. Hiện trạng khu đất vẫn bỏ trống, chưa được đầu tư.”
* Về nội dung này, UBND thành phố có ý kiến:
- Ông Phan Văn Anh Vũ là người đứng ra chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Hải, bà Ngọc theo hợp đồng ủy quyền; không phải là người nhận chuyển nhượng đất của ông Hải, bà Ngọc.
- Ông Phạm Đăng Quan là Tổng Giám đốc Công ty cổ phần đầu tư địa ốc ô tô Phương Trang. Như vậy, giữa Công ty này với cá nhân ông Quan là một. Điều này cho thấy đơn giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa tổ chức và cá nhân này không phải giá thị trường trong điều kiện bình thường;
- Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các cá nhân, tổ chức nêu trên là quan hệ dân sự giữa các bên, được Cơ quan công chứng chứng thực hợp đồng, trước bạ sang tên theo quy định của pháp luật. Vấn đề này không thuộc quyền hạn và trách nhiệm của UBND thành phố.
Tuy nhiên, qua thực tế thị trường bất động sản trên địa bàn thành phố đã xảy ra nhiều trường hợp các tổ chức, cá nhân nâng khống giá trị chuyển quyền sử dụng đất lên quá cao nhằm mục đích để vay ngân hàng với số tiền lớn nhưng thực tế trên thị trường không phải giá trị như vậy mà thấp hơn nhiều. Thực tế đã diễn ra nợ xấu trong ngân hàng như hiện nay.
3. Khu A2, A3, đầu tuyến Sơn Trà – Điện Ngọc:
* Về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các cá nhân tạo ra sự chênh lệch lớn. Về vấn đề này, UBND thành phố có ý kiến.
Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 88/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất quy định:
“Giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường là số tiền VND tính trên một đơn vị diện tích đất được hình thành từ kết quả của những giao dịch thực tế mang tính phổ biến giữa người cần chuyển nhượng và người muốn được chuyển nhượng không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như tăng giá do đầu cơ, do thay đổi quy hoạch, chuyển nhượng trong tình trạng bị ép buộc, quan hệ huyết thống.”
UBND thành phố khẳng định đơn giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các cá nhân đối với khu đất này không phải giá thị trường trong điều kiện bình thường, vì:
Sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính bà Phạm Thị Đông chuyển cho bà Trương Thị Chi, bà Lê Thúy Hương (Khu đất có ký hiệu A3). Bà Đông với 02 người này có quan hệ bà con trong gia đình, làm ăn với nhau, ….
Đối với khu đất có ký hiệu A2 giao quyền sử dụng cho bà Phạm Thị Đông, được UBND quận Sơn Trà cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AP986789 ngày 04/11/2009. Sau đó, bà Đông chuyển quyền cho bà Nguyễn Thị Xuân và được Cơ quan công chứng chứng thực hợp đồng theo quy định.
Đối với khu đất có ý hiệu A3, sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà Trương Thị Chi, bà Lê Thúy Hương chuyển nhượng cho ông Trương Đình Trung. Tiếp đó, ông Trương Đình Trung chuyển nhượng cho Công ty cổ phần bất động sản Phương Trang (ông Trung là Phó Giám đốc của Công ty cổ phần bất động sản Phương Trang). Ông Trung và Công ty cổ phần bất động sản Phương Trang có quan hệ, cùng chung quyền lợi nên đã nâng khống giá trị khu đất nhằm mục đích để vay ngân hàng với số tiền lớn nhưng thực tế trên thị trường không phải giá trị như vậy mà thấp hơn nhiều. Thực tế hiện nay đã diễn ra nợ xấu trong ngân hàng. Như vậy giá chuyển quyền sử dụng khu đất này không phải giá thị trường trong điều kiện bình thường theo quy định.
Ngoài những mục đích nâng giá đất ảo nêu trên, thì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các cá nhân, tổ chức là quan hệ dân sự giữa các bên, được cơ quan Công chứng chứng thực hợp đồng theo quy định của pháp luật. Vấn đề này không thuộc quyền hạn và trách nhiệm của UBND thành phố.
4. Khu đất giao cho Công ty Tân Cường Thành:
* Thanh tra Chính phủ kết luận:
”Khu đất chuyển đổi mục đích sử dụng đất của Công ty Tân Cường Thành tính giá thấp hơn giá thành phố quy định là 67.323,064 triệu đồng” là không có cơ sở, bởi vì:
Xét khu đất này ở khu vực gần đồi núi Phước Tường, cơ sở hạ tầng chưa đầu tư, đường Hoàng Văn Thái chưa được đầu tư nâng cấp mở rộng, khu dân cư nông thôn thưa thớt, gần khu vực khai thác đất, đá, gần bãi rác Khánh Sơn nên môi trường bị ảnh hưởng, UBND thành phố đã phê duyệt đơn giá đất sản xuất kinh doanh là 410.000 đồng/m2. Sau khi Công ty Tân Cường Thành đề nghị chuyển mục đích sử dụng đất từ đất sản xuất kinh doanh sang đất ở nông thôn, Hội đồng Thẩm định giá đất thành phố đề xuất giá chuyển mục đích sử dụng đất của khu đất này là 175.800 đồng/m2. UBND thành phố quyết định theo đúng đề xuất nêu trên của Hội đồng thẩm định giá đất.
Theo đó giá đất ở nông thôn giao quyền sử dụng đất cho Công ty Tân Cường Thành là 585.800 đồng/m2 (410.000 đ/m2 +175.800 đồng/m2) là đúng thẩm quyền và phù hợp với giá thị trường tại thời điểm, có xét đến yếu tố chuyển mục đích sử dụng đất trong điều kiện Công ty này phải tự bỏ kinh phí di dời cơ sở sản xuất theo hiện trạng (Thành phố không đền bù nhà xưởng, vật kiến trúc, hỗ trợ di dời trang thiết bị, đầu tư hạ tầng, san lấp mặt bằng…) theo chủ trương của UBND thành phố tại Công văn số 4865/VP-QLĐTh ngày 25/11/2010. Đơn giá này nằm trong khung giá đất của Chính phủ quy định.
5. Hai khu đất ký hiệu A4, A5 khu đầu tuyến Sơn Trà – Điện Ngọc giao cho Công ty Phú Mỹ:
* Thanh tra Chính phủ kết luận: “Khu đất A4, A5 (khu dân cư đầu tuyến Sơn Trà-Điện Ngọc). Năm 2007 chuyển nhượng cho Công ty cổ phần xây dựng thương mại Phú Mỹ để xây dựng chung cư, căn hộ cao cấp, văn phòng cho thuê và khách sạn du lịch, lãnh đạo UBND thành phố và Hội đồng không xác định theo giá đất ở mà giữ nguyên giá theo giá đất SXKD (bằng 0,7 giá đất ở) gây thất thu cho ngân sách. Đến năm 2010, Công ty cổ phần xây dựng thương mại Phú Mỹ chuyển nhượng cho Công ty bất động sản Phương Trang với số tiền là 285.645.920.000 đồng. Chênh lệch so với giá của thành phố xác định năm 2007 là 22.680.432.000 đồng” là không có cơ sở, bởi vì:
Hội đồng thẩm định giá đất thành phố đề xuất mức giá khởi điểm để đấu giá đất theo mục đích SXKD phi nông nghiệp là 2.570.000 đồng/m2 và được UBND thành phố quyết định theo đúng đơn giá nêu trên.
Sau khi đăng báo công khai đấu giá theo quy định của pháp luật nhưng hết thời hạn quy định vẫn không có tổ chức, cá nhân nào tham gia đấu giá và chỉ có Công ty cổ phần xây dựng thương mại Phú Mỹ có đơn xin nhận quyền sử dụng đất và được UBND thành phố thống nhất giao quyền sử dụng 02 khu đất A4, A5 với đơn giá sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp 2.570.000 đồng/m2.
Sau khi Công ty này nộp toàn bộ tiền sử dụng 02 khu đất và được UBND thành phố cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo Giấy chứng nhận đã cấp cho Công ty Phú Mỹ (số AK280458 và AK280459) thì mục đích sử dụng các khu đất này là đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp.
Như vậy, UBND thành phố thu tiền sử dụng đất đối với Công ty Phú Mỹ là đất sản xuất kinh doanh, không phải là đất ở như ý kiến của Thanh tra Chính phủ.
6. Dự án Khu đô thị và sân Golf Đa Phước:
* Thanh tra Chính phủ kết luận: “Khu đất 29 ha thuộc dự án Sân golf Đa Phước giao cho Công ty CP 79 thấp hơn giá thành phố quy định làm lợi cho Công ty CP 79 là 570.826,323 trđ.” là không có cơ sở, bởi vì:
Ngày 16/11/2006, Công ty TNHH Daewon Cantavil và UBND thành phố Đà Nẵng ký Thỏa thuận nguyên tắc đầu tư dự án Khu đô thị phức hợp sân golf Đa Phước, cụ thể trên cơ sở giá thu tiền mặt nước được thống nhất trước đây là 300.000 đồng/m2 và đơn giá thu tiền thuê đất 0,1USD/m2/năm. Trong Thỏa thuận nguyên tắc này giao quyền sử dụng đất cho một Công ty Việt Nam liên doanh với Công ty Daewon với diện tích là khoảng 29ha với đơn giá là 300.000 đồng/m2.
Dự án này Nhà nước giao mặt nước cho chủ đầu tư, chủ đầu tư phải bỏ ra 100% chi phí để làm kè, san lấp mặt bằng nên việc thành phố thu tiền sử dụng đất với giá 300.000 đồng/m2 là phù hợp với giá thị trường tại thời điểm.
Đơn giá 300.000đ/m2 mặt nước với điều kiện nhà đầu tư phải bàn giao cho Thành phố khoảng 25 ha đã hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng thuộc dự án Khu đô thị Đa Phước để Thành phố xây dựng khu vực công ích công cộng với chi phí phải bỏ ra khoảng 05 triệu USD. Theo giá đất hiện hành của thành phố thì giá trị của khu đất 25ha này là 988 tỉ đồng.
Như vậy, đối với khu đất 29ha, ngoài đơn giá giao mặt nước là 300.000đ/m2 thì giá trị thu được đối với 25ha nêu trên được phân bổ cho khu 29ha, theo đó tiền sử dụng đất 01m2 là 3.407.000đ/m2 (988 tỷ/29ha).
UBND thành phố khẳng định giá đất giao cho Công ty Daewon là giá mặt nước. Ngoài ra, việc thu tiền sử dụng đất thực tế cho 01m2 của khu đất 29ha là 3.707.000đ/m2 (3.407.000đ/m2 + 300.000đ/m2). Đây là đơn giá tiền sử dụng đất mà thực tế Thành phố được hưởng lợi với khu đất 29ha đã giao cho Công ty Daewon với đối tác là doanh nghiệp Việt Nam.
Thực tế thành phố thu và hưởng lợi được là 1.075 tỉ đồng (988 tỉ đồng + 87 tỉ đồng), cụ thể: 988 tỉ là số tiền hưởng lợi từ 25ha và 87 tỉ là tiền thu mặt nước của 29ha.
V. Vấn đề giảm 10% tiền sử dụng đất khi nộp đủ tiền sử dụng đất trong vòng 60 ngày kể từ ngày ký hợp đồng:
UBND thành phố xem việc giảm 10% là hình thức hỗ trợ, khuyến khích các hộ dân giải tỏa nộp tiền vào ngân sách và hỗ trợ lãi vay cho các nhà đầu tư khi chuyển quyền sử dụng đất. Mặt khác, việc giảm 10% tiền sử dụng đất sẽ huy động nhanh nguồn kinh phí vào ngân sách để tái đầu tư phát triển thay vì ngân sách Thành phố phải đi vay với mức lãi suất bình quân thấp nhất là 12%/năm. Điều này phù hợp với khoản 2, Điều 14, Nghị định số 38/2000/NĐ-CP ngày 23 tháng 8 năm 2000 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất “Người sử dụng đất nộp đủ tiền sử dụng đất một lần theo thông báo của cơ quan thuế thì được giảm 20% số tiền sử dụng đất phải nộp” và vận dụng khoản 2, Điều 9, Nghị định số 61/CP ngày 05 tháng 7 năm 1994 về mua bán và kinh doanh nhà ở:“… Nếu trả hết một lần ngay khi ký hợp đồng thì được giảm 10%….”; phù hợp với Quyết định số 13/2006/QĐ-TTg ngày 16/1/2006 của Thủ tướng Chính phủ về một số cơ chế tài chính ngân sách ưu đãi đối với thành phố Đà Nẵng và Thông tư số 34/2006/TT-BTC ngày 19/4/2006 của Bộ Tài chính.
Vì vậy, thẩm quyền quyết định là của UBND thành phố. Thành phố cân nhắc, thấy có hiệu quả thiết thực mới quyết định. Đây là khoản thu mà ngân sách địa phương được hưởng 100%, không phân chia tỷ lệ với ngân sách Trung ương và nguồn thu này chỉ được dùng để chi đầu tư phát triển. Vì vậy, theo Luật ngân sách thì địa phương có quyền quyết định giảm 10% tiền sử dụng đất, UBND thành phố khẳng định việc thực hiện chính sách này là một trong những vận dụng linh hoạt, sáng tạo của Thành phố mang lại hiệu quả thiết thực, nguồn thu ngân sách tăng lên hằng năm.
Tính đến tháng 01/2013 người dân và doanh nghiệp còn nợ tiền sử dụng đất với Thành phố khoảng 04 nghìn tỉ đồng.
Nếu tính lãi suất của việc người sử dụng đất dây dưa không nộp tiền và yếu tố trượt giá với việc thu được tiền ngay thì mới thấy hiệu quả thế nào (?!). Năm 2011 do khó khăn chung của nền kinh tế nên Thành phố không thu được nợ tiền sử dụng đất; năm 2012 vẫn không thu được do Chính phủ có Nghị quyết 13/NQ-CP; năm 2013 Chính phủ cũng tiếp tục cho giãn nợ theo Nghị quyết 02/NQ-CP và khả năng năm 2014 cũng không dễ thu được số nợ tiền sử dụng đất này. Nếu tính lãi suất 12%/năm thì trong 04 năm đó lãi suất là 48%. Từ đó cho thấy Thành phố giảm 10% thấp hơn rất nhiều so với lãi suất 04 năm nêu trên.
Kết quả thu tiền sử dụng đất trong 10 năm qua (2002-2011) là 24.617,61 tỉ đồng, để đưa vào cân đối chi XDCB, chiếm tỷ lệ 73,81%/ tổng nguồn vốn chi XDCB (33.353,79 tỉ đồng).
Tóm lại, khi xác định giá để giao quyền sử dụng đất, Thành phố đã căn cứ vào Bảng giá đất do UBND thành phố ban hành hằng năm, có tính các hệ số theo quy định như: hệ số phân vệt chiều sâu lô đất, hệ số che khuất, mật độ xây dựng, hệ số đối với khu đất có vị trí thuận lợi, hệ số thị trường… theo đúng phương pháp xác định giá đất do Chính phủ quy định tại Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất, hướng dẫn của Bộ Tài chính tại Thông tư số 145/2007/TT-BTC ngày 06/12/2007 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ. Đơn giá UBND thành phố quyết định cụ thể đối với từng khu đất nằm trong khung giá đất và cao hơn nhiều lần so với giá tối thiểu do Chính phủ quy định.
Các cá nhân, tổ chức chuyển nhượng quyền sử dụng đất với nhau này là một (là anh em ruột thịt, hoặc là người của công ty và công ty)…. Ví dụ giá trị thực của khu đất là 100 tỉ đồng thì họ chỉ vay được 60 tỉ đồng (60%), nhưng khi làm hợp đồng chuyển nhượng thì họ nâng khống giá trị lên 600 tỉ đồng để vay ngân hàng được 360 tỉ đồng nhằm đầu tư vào dự án khác. Trường hợp Công ty TNHH Phúc Thiên Long mà trong kết luận Thanh tra Chính phủ nêu là một ví dụ. Thực ra hai chị em ruột chuyển nhượng cho nhau theo cách này. Vì thế không thể mang giá trị khống đó so với giá trị mà UBND thành phố phê duyệt có chênh lệch để quy kết thất thoát.
Từ phân tích nêu trên, UBND thành phố khẳng định:
1. Việc giảm 10% tiền sử dụng đất là chủ trương của thành phố có vận dụng quy định của pháp luật, mang lại hiệu quả thiết thực, nguồn thu ngân sách Thành phố tăng lên hằng năm, đồng thời hạn chế yếu tố trượt giá làm tăng suất đầu tư, có lợi cho ngân sách khi đầu tư cho phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị, an sinh xã hội, quốc phòng-an ninh… Mặt khác, UBND thành phố xem việc giảm 10% là hình thức hỗ trợ, khuyến khích cho nhân dân vùng giải tỏa nộp tiền sử dụng đất vào ngân sách Thành phố và hỗ trợ lãi vay cho các nhà đầu tư khi nhận quyền sử dụng đất.
2. Việc xác định, quyết định giá giao quyền sử dụng đất được bàn bạc tập thể Lãnh đạo UBND thành phố là đúng thẩm quyền, có căn cứ theo quy định của Chính phủ, hướng dẫn của Bộ Tài chính, phù hợp với giá thị trường tại thời điểm.
Vì vậy, Thanh tra Chính phủ kết luận gây thất thu ngân sách 3.434.254.712.950 đồng là không có cơ sở, thiếu tính thuyết phục.
Kết luận này làm ảnh hưởng rất lớn đến phong trào cách mạng của Thành phố và quá trình thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 16/10/2003 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong hơn 16 năm qua, với sự nỗ lực, cố gắng của Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân Thành phố và sự hỗ trợ giúp đỡ của Trung ương, Đà Nẵng đã có những thay đổi toàn diện về bộ mặt đô thị, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện và nâng cao, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Thành phố đã tập trung thực hiện hiệu quả các chương trình mang tính nhân văn như Chương trình “thành phố 5 không” với mục tiêu “Không có hộ đặc biệt nghèo, không có học sinh bỏ học, không có người lang thang xin ăn, không có người nghiện ma túy trong cộng đồng, không có giết người để cướp của”; Chương trình “thành phố 3 có” với các mục tiêu “có nhà ở, có việc làm và nếp sống văn minh đô thị”, xây dựng thành phố môi trường…. Đấy là những tiền đề để Thành phố tiếp tục xây dựng thành trung tâm phát triển, là một trong những Thành phố đầu tàu trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tham gia tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế của miền Trung. Cái quý nhất là Đà Nẵng đã tạo được sự đồng thuận cao của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội trong việc thực hiện các chủ trương của Thành phố.
Lâu nay Đà Nẵng cũng được Trung ương đánh giá là nơi có phong trào tốt, có những cách làm mới, hiệu quả. Thanh tra là để chỉ ra những khiếm khuyết trong quá trình lãnh đạo nhằm rút kinh nghiệm để làm tốt hơn chứ không phải quy kết thiếu tính thuyết phục, làm ảnh hưởng đến phong trào cách mạng của Thành phố.
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 1930/VPCP_VI ngày 19/11/2012 thì hiện nay, UBND thành phố đang làm việc với Đoàn Công tác của Bộ Công an và đã chủ động có Công văn số 475/UBND-NCPC ngày 16/01/2013 đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sớm sắp xếp thời gian vào làm việc với Thành phố để xác minh làm rõ theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Trên đây là nội dung phản hồi của UBND thành phố Đà Nẵng đối với kết luận thanh tra Chính phủ tại Thông báo số 160/TB-TTCP ngày 17/01/2013./.







Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
