Nguyễn Quang Lập's Blog, page 94
January 25, 2013
Một phụ nữ cần giúp đỡ
Ba Tê
NQL: Rất mong các nhà báo ở HN tìm gặp, xem có giúp được gì người phụ nữ tội nghiệp này không.
Sáng nào mình đi làm cũng đi ngang qua phố Nguyễn Gia Thiều – Hoàn Kiếm – Hà Nội, và sáng nào mình cũng thấy chị ngồi ở đây, bất kể nắng hay mưa, nóng hay lạnh, hôm thì khóc lóc thảm thiết, hôm lại thấy quỳ phủ phục đầu cúi sát xuống đất, chả hiểu chị khiếu kiện, lạy lục ai ở đó. Nhiều năm đi qua đây vẫn thấy chị ngồi đó, kiên nhẫn đợi chờ, kiên nhẫn khóc lóc, kiên nhẫn quỳ lạy…
Sáng nay, đi qua lại thấy chị đang khóc, mình ghé vào hỏi thăm, chị giọng Bình Định rất khó nghe, mình cố gắng tập trung nghe thì lơ mơ hiểu ra là đã 3 năm nay chị ra ngoài này để kêu oan vì vấn đề đất đai gì đó liên quan đến chị, chị đã quỳ ở Tòa án tối cao, ở viện kiểm soát nhân dân tối cao bên Lý Thường Kiệt, và rồi bây giờ quỳ ở trước cửa số nhà 23 Nguyễn Gia Thiều (mình hỏi nhà ai đây thì chị nói đây là nhà ông Trương Hòa Bình, Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao). Mấy người hàng xóm đối diện với nhà số 23 cũng nói khổ thân bà này ngồi ở đây cả hơn năm nay rồi mà chưa một lần được ông ấy tiếp.
Mình hỏi từ ngày chị quỳ ở đây đã bao giờ ông ấy gặp chị chưa? Khi đi ra cửa để đi đến nhiệm sở hay đi đâu ông ấy có trông thấy chị không? Khi nhìn thấy ông ấy đi ra chị có khóc, có quỳ không?…Thì chị nói ông ấy có bị mù đâu, ông ấy thấy nhưng chưa một lần ông ấy tiếp tui, ông ấy chưa từng hỏi tui lấy một câu. Tui sẽ còn ngồi ở đây cho đến khi nào ông ấy tiếp tui thì tui mới chịu.
Mình viết vài dòng này hi vọng trên QC có bác nào làm bên báo chí, hoặc ở đâu đó có điều kiện có thể giúp gì được chị ta thì giúp. Hãy đến gặp chị ta vào hàng sáng tại đối diện ngôi nhà 23 Nguyễn Gia Thiều để hỏi cặn kẽ hơn. Hãy chia sẻ note này đến nhiều người may ra có ai giúp gì được chị ấy chăng? Cảm ơn mọi người.
Tên chị là Đặng Thị Nguyên (hay Nguyện), còn đối diện bên kia là ngôi nhà số 23.







January 24, 2013
Ừ thôi, cụ Tổng nghỉ cho khỏe
Tin đâu như sét đánh ngang, cụ Tổng đang khỏe chuyển sang.. cáo ốm!
Ấy là tin BBC: “Cập nhật ngày 23/1: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không đến dự buổi PMQ (Prime Minister’s Question Time) với lý do bị cảm. Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Đại sứ Việt Nam ở Anh Vũ Quang Minh cùng đoàn Việt Nam đã đến dự xem”.
PMQ là gì mà cụ Tổng nhà ta phải cáo ốm không đến dự?
Truyền thông mấy hôm nay cho biết PMQ là buổi chất vấn Thủ tướng Anh diễn ra thứ tư hàng tuần, tại đó thủ tướng đương quyền sẽ phải trả lời sáu câu hỏi từ lãnh đạo đảng đối lập chính, hai câu hỏi từ lãnh đạo đảng đối lập lớn thứ hai và rất nhiều câu hỏi từ các dân biểu về bất kỳ vấn đề gì. “PMQ được mô tả như ‘võ đài nghị viện’ và các chính trị gia là những ‘gladiator’ do không khí căng thẳng nhưng không thiếu tính hài với những tiếng la ó từ các dân biểu, vốn có thể át những câu phán của chủ tịch quốc hội.” Đó là ” phiên họp thù nghịch” đối với các thủ tướng Anh, đến nỗi tổng thống Bush cha cũng phải kêu lên:”Tôi thấy thật may là không phải bước vào cái hố mà ông John Major phải đứng mặt đối mặt với phe đối lập.” Nhưng, nói như ông Cameron: “Thực ra nó là cách hay để khái quát chính trị Anh: một nền dân chủ mạnh với khiếu hài hước.”
Có lẽ vì thế mà Thủ tướng Anh mới mời cụ Tổng đến xem để biết thế nào là chất vấn thủ tướng trong một xã hội dân chủ. Và để biết, nói như bác Phạm Toàn, là “chính trị và lý luận chính trị không phải là những câu nói ề à đệm chen vào những trích dẫn chứng tỏ mình có chỗ đứng trong đoàn quân mọt sách, mà là việc giải quyết những vấn đề của đời sống một cách thông minh nhất.”
Hay rứa tại sao cụ Tổng cáo ốm không đến dự?
Dễ không à. Bởi vì đó là thứ dân chủ quá trớn. Thủ tướng là người đạo cao đức trọng không thể đem ra làm trò cười cho thiên hạ được. Xứ ta việc làm mất uy tín Thủ tướng được coi như kẻ phản nghịch, kẻ cơ hội thuộc về lực lượng thù địch. Hơn nữa, cụ Tổng đã khẳng định rồi, làm gì cũng phải có tính nhân văn, không thể để Thủ tướng mất mặt trước dân chúng. Trong một xã hội không có đối lập, tất cả đều sống trong tình đồng chí mênh mông thì cần gì có những chất vấn kiểu PMQ. Vả chăng, cái gì cũng được nói bô bô trước bàn dân thiên hạ, lộ bí mật quốc gia bỏ mẹ! Bí mật quốc gia là gì? Đó là những thứ tuyệt không được cho dân biết. Sở dĩ CNXH tồn tại được là nhờ bí mật quốc gia kiểu đó, nếu không toi đời từ tám hoánh.
Thành thử cụ Tổng cáo ốm là phải, đến đó chẳng học cái mẹ gì, khen hay không xong, chê dở chẳng được. Đã từng đi dạy Cu Ba thế nào là dân chủ CNXH nay lại phải đến cho bọn Ăng Lê nó dạy thế nào là dân chủ thật sự, có phải dại mặt không?
Mình nói vậy thôi, biết đâu cụ Tổng ốm thật, ngồi đáy giếng lại to miệng trách oan cụ. Ừ thôi, cụ Tổng nghỉ đi, ốm thì nghỉ đừng cố. Cụ và các cụ khác cũng đã đến tuổi ” thất thập cổ lai hy” như Bác nói rồi, cố làm gì nữa, về vui thú điền viên có phải hay hơn không. Các cụ nghỉ sớm ngày nào dân nhờ được ngày đó. T hời buổi thóc cao gạo kém lại để các cụ khóm róm ngồi nhóm lửa thật quá tội, dân chúng không đành lòng.
Nói thật mất lòng nhưng kẻ hèn này không biết nói dối.
NQL
……
Ảnh:Một phiên chất vấn thủ tướng Anh, PMQ.







Ngoại giao Tháp Rùa
Phạm Thị Hoài
Không có nghị định nào buộc các cơ quan và cá nhân thuộc Đảng và Nhà nước Việt Nam phải dùng tranh thủ công mĩ nghệ làm quà lưu niệm. Nhưng ở mọi ngành, mọi cấp, mọi nơi, mọi dịp, cứ đến đoạn trao quà lưu niệm là người tặng và người được tặng đứng hai bên, chung tay khoe một bức tranh sơn mài, tranh thêu, tranh lụa, tranh gỗ hay tranh khảm ra trước ống kính. Giá trị vật liệu của những sản phẩm này tùy vào tầm vóc của sự kiện liên quan. Giá trị nghệ thuật thì luôn bằng nhau – đều là con số 0. Chúng đơn thuần là Kitsch. Như để khẳng định nghệ thuật Kitsch của Việt Nam phong phú, chúng ta có 3 lựa chọn: tranh Bác Hồ, tranh Chùa Một Cột hay tranh Tháp Rùa. Trong chuyến công du châu Âu những ngày này, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng nhất quán chọn Tháp Rùa. Hai cái nhỏ tặng hai ông Thủ hiến ở Bỉ. Một cái to hơn tặng Giáo hoàng.
Đằng sau món quà nổi tiếng nhất trong quan hệ quốc tế, bức tượng Nữ thần Tự do của nhân dân và nhà nước Pháp tặng Hoa Kỳ, là cả một lịch sử và đi cùng với nó là một biểu tượng bất tử. Phần lớn quà cáp ngoại giao giữa các quốc gia không được hưởng số phận ấy. Chúng nằm im trong những kho chứa, thảm chồng lên thảm, ngà voi chất thành đống, bình sứ Trung Hoa và chậu sứ Trung Đông, tủ chè, chao đèn, gươm, đao, mũ, tượng, bút, đồng hồ, đồ chơi, vô tận tranh thủ công mĩ nghệ…, chờ lịch bán đấu giá và cuối cùng có thể tập kết ở chợ giời. Vô danh, không xuất xứ. Không kể một câu chuyện nào, cùng lắm chỉ còn giá trị vật liệu.
Song quà tặng bao giờ cũng kể một câu chuyện, mang một thông điệp, không hiếm khi là thông điệp ngoài chủ định. Quà tặng tiết lộ chân dung người tặng và cả diện mạo người được tặng. Fidel Castro từng tặng cố lãnh tụ Đông Đức Erich Honecker một con tôm hùm tươi sống. Ông này không ăn, đem ướp. Con tôm nặng tình quốc tế vô sản ấy nay nằm trong Bảo tàng Bác vật Berlin. Putin từng tặng cựu Thủ tướng Đức Gerhard Schröder một chiếc áo lông. Ông này không dùng, đem cho vợ mặc. Nhà độc tài Rumani Nicolae Ceaușescu tặng cho mọi đối tượng một món duy nhất: món Nicolae Ceaușescu, bằng sách, tranh, ảnh, tượng, huy hiệu, nhãn hiệu, thủ bút, bằng khen, giải thưởng. Quà của Stalin cho Kim Nhật Thành là một đoàn tầu hỏa bọc thép. Jacques Chirac tặng G.W. Bush một lọ nước cạo râu, tất nhiên là sản phẩm Pháp, trong khi quà của Gerhard Schröder thực dụng hơn: một chiếc cưa điện, tất nhiên made in Germany, rất thích hợp cho việc trang trại ở Texas.
Có những món quà hoàn hảo, vừa mát mặt khách vừa đẹp lòng chủ nhà. Cựu Tổng thống Đức Horst Köhler thường tặng đĩa thu những buổi hòa nhạc bất hủ của dàn giao hưởng Berliner Philharmoniker. Cựu Thủ tướng Pháp François Fillon tặng Thủ tướng Đức Angela Merkel, nữ tiến sĩ vật lí, một ấn bản cổ cuốn Radioactivité của Marie Curie. Bà Merkel tặng bà Hillary Clinton một ấn bản của tờ Frankfurter Allgemeine Zeitung lồng khung, có bức hình nổi tiếng chụp riêng bàn tay của hai bà đặt cạnh nhau. Cựu Thủ tướng Anh Gordon Brown đến thăm Nhà trắng, tặng Tổng thống Obama ấn bản đầu tiên cuốn Tiểu sử Churchill.
Có những món quà phá giới hạn của quy ước ngoại giao và gây tranh cãi. Cũng ông Gordon Brown ấy tặng Obama một chiếc bút có quản làm từ gỗ của con tầu HMS Gannet lừng danh trong cuộc chiến chống buôn bán nô lệ, còn vợ chồng Obama đến thăm Điện Buckingham, tặng Nữ hoàng Anh một chiếc iPod – thời iPod đang nổi. Một nguyên thủ Hoa Kỳ khác, cựu Tổng thống Johnson, tặng cựu Thủ tướng Đức Ludwig Erhard một chiếc mũ cao bồi Stetson. Sở thích của một Bộ trưởng Đức ưa giễu cợt là phân phát những Bức tường Berlin bỏ túi tại các nước chuyên chế. Một cựu Thủ tướng Nhật từng là nỗi kinh hoàng trên sàn ngoại giao: quà của ông là một robot chó biết hát quốc ca của nước chủ nhà.
Nhưng người Nhật cũng biết sử dụng một ngôn ngữ ngoại giao dễ nghe hơn nhiều: họ tặng anh đào. Không phải hoa anh đào chết trên một bức tranh rởm, mà là hàng chục ngàn cây anh đào gửi tặng những quốc gia hữu nghị, trong đó có 3000 cây ở Washington. Người Thái tặng voi. Người Tầu tặng gấu trúc. Ngoại giao gấu trúc của Trung Quốc sát cánh cùng ngoại giao bóng bàn. Mở màn với con gấu trúc được Mao Trạch Đông tặng Richard Nixon năm 1972, gần đây nhất là đôi gấu Đoàn Đoàn và Viên Viên tặng Đài Loan năm 2005. Khi ấy Đài Loan không nhận. Bốn năm sau, tinh thần “Một Trung Quốc” đã chiến thắng, Đoàn Viên đã vui vầy định cư tại Sở thú Đài Bắc.
Còn ngoại giao Tháp Rùa?
Tất nhiên sĩ diện của tôi bị tổn thương khi thấy một Thủ tướng Việt Nam mở tờ giấy gấp tư ra đọc trong buổi hội kiến với Tổng thống Hoa Kỳ; khi nhìn những bộ com-lê và cà vạt cũng cứng đờ như cử chỉ, nét mặt và diễn văn của giới thượng lưu chính trị nước nhà trên sàn diễn quốc tế; khi một lần nữa và còn lâu mới là lần cuối lại phải ngắm cảnh các lãnh tụ Việt Nam trang trọng mang tranh rởm đi rải ở nước ngoài. Song xấu hổ là chuyện phụ. Quan trọng hơn là món quà lưu niệm cổ hữu ấy cho tôi cảm giác rằng không có tín hiệu mới mẻ nào hết, không có đột phá, không có thông điệp nào ngoài thông điệp rằng mọi sự vẫn theo đúng tập quán, phong cách và nhận thức đồng bộ như xưa.
Một lúc nào đó nhất định tôi sẽ gặp lại những sứ giả khốn khổ này của văn hóa dân tộc ở chợ giời.
………………..
Ảnh 1: Quà lưu niệm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tặng Giáo hoàng
Ảnh 2 và ảnh 3: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trao quà lưu niệm ở Bỉ.







Hiệp định Pari và sự “tiên tri” của Thiệu
Lê Mai
CÓ THỂ thấy, Tổng thống Thiệu không bao giờ muốn ngồi vào bàn đàm phán và ông ta không hề tin vào việc thực thi Hiệp định Pari. Ông ta nói với các cố vấn thân cận, làm sao một người thông minh, tài giỏi như Kissinger mà không nhận thấy Hiệp định Pari là cái hiệp định bán đứng miền Nam cho Cộng sản? Và Thiệu kết luận, chính là vì người Mỹ đã đi đêm với Bắc VN, với Nga Xô và Trung Cộng, quyết tâm bỏ rơi VNCH.
Đa nghi là một đặc tính nổi bật của Thiệu. Ông ta ít khi chia sẻ ý định thực sự của mình cho người khác, điều này thường gây khó khăn cho cấp dưới khi thực hiện mệnh lệnh của Tổng thống. Chỉ đọc một bài diễn văn trước Quốc hội thôi, Thiệu cũng chuẩn bị tới bốn, năm bản sao, để ở các nơi khác nhau, đề phòng có người đánh cắp bản để trên bàn đọc. Một cố vấn của ông ta ngạc nhiên: “Làm sao có chuyện đó được?”. Thiệu giải thích: “Điều đó quá dễ. Trong lúc lộn xộn đặt micrô và chuẩn bị diễn văn, một người nào đó trong đoàn khán giả có thể giả vờ đi gần tới bàn và lấy bài diễn văn đó”. Nhìn vẻ mặt ngờ vực của người cố vấn, Thiệu tiếp: “Ồ, chuyện đó đã xẩy ra với tôi hai lần rồi. Ắt là đối thủ của tôi đã phải phục tôi lắm, vì tôi đã lấy một bản diễn văn khác ra và tiếp tục đọc”.
Cũng về đặc tính đa nghi, hãy nói thêm một chi tiết. Tháng 10.1972, Tiến sỹ Kissinger đến Saigon để giải thích về một dự thảo Hiệp định với VNCH, cho rằng đây là thành quả lớn lao nhất mà ông ta đã đạt được và nói thêm, Cộng sản đã khóc khi chấp nhận thỏa thuận này. Thiệu và các cố vấn không tin. “Việc nói rằng Cộng sản khóc làm chúng tôi nghi ngờ. Cộng sản không bao giờ khóc”!
Bắc VN đặc biệt không ưa Thiệu, gọi ông ta là tên “Việt gian số 1”, khăng khăng đòi Hoa Kỳ phải thay đổi chính quyền Saigon và thay Thiệu trong tiến trình hòa đàm Pari. Ngược lại, Thiệu cũng chẳng ưa gì Bắc VN mà ông ta thường gọi là “Cộng sản” hoặc “thằng Cộng sản” – kể cả trong những bài diễn văn chính thức. Một khi đã là đối thủ thì hai bên đều tìm mọi cách hạ bệ nhau, đó là điều mà chúng ta có thể hiểu được. Dù sao, có vẻ như cả hai bên đều lạm dụng ngôn từ.
Và dù có làm gì đi nữa cũng không thể cưỡng lại ý định của Hoa Kỳ. Ngày 27.1.1973, Hiệp định về việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở VN được bốn bên ký kết tại Pari. Dường như trong việc thực thi Hiệp định, những “tiên đoán” của Thiệu ngày càng có tính “tiên tri” hơn.
Xuyên suốt trong các “tiên tri” của Thiệu chính là nỗi lo lắng cái mà ông ta gọi là sự “lật lọng” của Cộng sản. Nói chung, ông ta không bao giờ tin Cộng sản. Ông ta đặt ra rất nhiều câu hỏi và trả lời trước quốc dân đồng bào, cũng chính là tự trả lời cho mình.
Một ngày sau khi Hiệp định Pari được ký kết, Thiệu đã có một bài thuyết trình dài trước quốc dân. Trước đó ba ngày, khi dự thảo Hiệp định đã được ký tắt, ông ta cũng có một bài thuyết trình tương tự. Cả hai bài thuyết trình này đã được in lại nguyên văn trong cuốn Về Đại thắng mùa xuân năm 1975 qua tài liệu của chính quyền Saigon do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia tại Hanoi ấn hành năm 2010 và tác giả chủ biên cuốn sách là GS.TS Phùng Hữu Phú, Phó Ban Tuyên giáo Trung ương.
Như đã trình bày, tất nhiên, vấn đề Thiệu quan tâm nhất trong thuyết trình của mình là Nam VN quyết tâm không để Cộng sản lật lọng, phải chủ động đối phó với sự xảo trá của Cộng sản. Theo Thiệu, Bắc VN không thể giành chiến thắng bằng võ lực, bằng xe tăng, bằng đại pháo, bằng Tết Mậu Thân, bằng Đại lộ kinh hoàng, bằng Quốc lộ 13, bằng Trị Thiên, bằng Kon Tum, bằng Bình Định nên bắt buộc phải chấm dứt chiến tranh. Nhưng, ngưng bắn cũng chỉ là bước đầu tiên của hòa bình mà thôi, chứ chưa hẳn đã có một nền hòa bình thực sự, hòa bình trường cửu. Nam VN đã có nhiều kinh nghiệm với Cộng sản.
Thiệu tiếp tục khuyên đồng bào đừng bao giờ nghĩ rằng Hiệp định đã được ký kết rồi, đã có chữ ký của Cộng sản rồi, có quốc tế đảm bảo rồi là chúng ta ngây thơ tin rằng Cộng sản đã bỏ hẳn mưu đồ thôn tính miền Nam. Sở dĩ Cộng sản buộc phải cắn răng chấp nhận ngưng bắn để ký kết hòa bình là vì nhân lực, vật lực, tài lực của họ đã cạn kiệt, không thể làm gì hơn được nữa, đành phải ngượng nghịu gọi là hưởng ứng hòa bình, tạm dừng xâm lăng để bồi dưỡng sức lực rồi mưu đồ một cơ hội khác chưa biết chừng.
Thiệu tiếp tục “tiên tri”, chúng ta có quyền nghi ngờ, từ những việc nhỏ như vài ba ngày Tết năm 68 cho đến việc lớn như cái gọi là hòa bình năm 1954. Ông ta nhấn mạnh, đối với Cộng sản, nghi ngờ chắc ăn hơn là tin chúng bằng lời, để rồi thiếu cảnh giác, trở tay không kịp.
Vì vậy, Thiêu kêu gọi đồng bào, chiến hữu mọi cấp, mọi ngành luôn luôn phải đề cao cảnh giác đối với Cộng sản, không được thờ ơ, lơ đễnh, chểnh mảng. Đừng tưởng Hiệp định ký rồi là bỏ đồn, bỏ bót, bỏ canh gác, say sưa nhậu nhẹt. Trái lại, chúng ta phải cẩn thận hơn lúc nào hết. Hễ mà chúng ta vô ý, Cộng sản sẽ chụp lên đầu liền.
Ngay ngày Tết sắp đến, Thiệu cũng vô cùng cảnh giác. Ông ta nói, đối với Cộng sản, cái Tết nào chúng cũng có thể làm như cái Tết Mậu Thân cả. Mà hễ chúng làm cái Mậu Thân thì “nói xin lỗi, Ủy hội quốc tế, quốc tế hay Liên hiệp quốc đi nữa cũng không làm gì được hết, chỉ có chúng ta là chịu đựng thôi”. Thiệu thêm, liệu Quốc tế có biện pháp gì trừng trị sự điêu ngoa của thằng cộng sản không?
Trước sau, Thiệu không tin Bắc VN sẽ thực thi Hiệp định. “Tiên tri” của Thiệu tập trung vào các vấn đề lớn:
Thứ nhất, để xem Bắc VN ngưng bắn được mấy năm, mấy tháng, mấy ngày, có chấm dứt mọi hành động xâm nhập vũ khí, quân đội từ Bắc vào hay không?
Thứ hai, để xem Mặt trận giải phóng có nói chuyện nghiêm chỉnh với VNCH để thoả thuận một giải pháp chính trị nội bộ của nhân dân miền Nam hợp tình hợp lý hay không? Hay là lại kéo dài như cuộc hòa đàm Pari rồi để củng cố, rèn thêm lính, kiếm thêm vũ khí, tung cán bộ len lỏi vào nội bộ Nam VN, quấy rối, tuyên truyền chủ nghĩa, rồi lại đổ lỗi cho Nam VN mà gây chiến trở lại?
Thứ ba, dù có một thoả thuận giải pháp chính trị nội bộ đi nữa, để xem họ có thực thi nghiêm chỉnh cái giải pháp đó hay không?
Thứ tư, ví dụ có bầu cử qua giải pháp chính trị đã thoả thuận, họ không ăn được người quốc gia như họ muốn, thỉ thử hỏi họ có vui vẻ chấp nhận cái kết quả đó hay không, hay là họ lại trở mặt, làm theo lối của kẻ cờ gian bạc lận?!
Thiệu luôn nhấn mạnh, chúng ta phải đánh những cái dấu hỏi.
Thiệu ra những chỉ thị rất cụ thể, tỷ như “cái vùng của tụi Cộng sản trong chiến khu, trong biên giới, mình đã không vô đó làm gì, không có bà con cô bác gì để vô trong đó thăm, không có cái gì để mà ăn trong đó. Trái lại Cộng sản rồi đây sẽ về ấp, thứ nhất là tuyên truyền, thứ nhì là kiếm ăn, thứ ba là thu thuế, thứ tư là đe dọa đồng bào”. Ông ta ra lệnh, phải triệt hạ ba cái thằng đó ngay lập tức.
Thiệu giải thích rất nhiều lần vấn đề ngưng bắn tại chỗ. Ông ta chỉ rõ: “Ngưng bắn tại chỗ là giữ nguyên trạng. Chỗ nào có chánh quyền ta, quân đội ta, cán bộ ta, nhân dân ta là chỗ đó ta làm vua của nước ta. Tất cả mọi việc của ta, luật lệ của ta, hành chính của ta, mọi việc y như cũ, không có gì thay đổi”.
Câu hỏi đặt ra, có vẻ như thực tế diễn ra chứng minh những “tiên tri” đó của Thiệu mà ông ta đành bó tay, vô kế khả thi, chịu thua đối phương? Chúng ta hy vọng, thời gian và lịch sử sẽ tiếp tục làm sáng tỏ mọi việc.







Có nhất thiết xóa Điều 4 Hiến pháp?
Lý Toét
Điều 4 Hiến pháp CN XHCN Việt Nam ghi:
Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Nội dung của Điều 4 HP là: Đảng CSVN lãnh đạo Toàn diện và Tuyệt đối, sau đây gọi tắt là Điều 4, mà không hàm ý điều số 4.
Câu hỏi đặt ra là có nhất thiết phải xóa bỏ Điều 4 không.
Câu trả lời là: Không cần.
Bằng chứng là Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 không chứa Điều 4 mà Đảng ta vẫn lãnh đạo toàn diện. Mặc dù không có điều 4, Đảng ta vẫn lãnh đạo thành công Cải cách ruộng đất; Cải tạo XHCN ở miền Bắc và sau 1975 kéo kinh tế miền Nam xuống bằng với kinh tế miền Bắc. Sau ngày Thống nhất đất nước, toàn dân đã bị khuất phục nên không cần ghi điều 4 vào Hiến pháp cho dài dòng.
Từ năm 1956 xóa bỏ Bộ Tư pháp trong Chính phủ, đóng cửa trường Luật và các khoa luật trong các trường. Khí đó, có hay không có điều 4 cũng không có ý nghĩa. Đảng ta cai trị dân bằng Sắc lệnh và đặc biệt bằng Lệnh Miệng.
Thời đó, ngoài Đảng CSVN giữ vai trò lãnh đạo toàn diện còn có 3 đảng chính trị khác là: Đảng Dân chủ, đảng Xã hội và đảng Nhân dân Cách mạng.
Đảng Dân chủ do ông Nghiêm Xuân Yêm làm Tổng thư ký (tiền nhiệm là ông Dương Đức Hiền). Ông Trần Đăng Khoa là đảng viên Đảng CSVN, tuy giữ chức vụ Phó tổng thư ký nhưng có quyền hạn như là Chính ủy trong lòng đảng Dân chủ.
Đảng Xã hội do ông Nguyễn Xiển làm Tổng thư ký. Ông Hoàng Minh Giám có vai trò trong đảng Xã hội giống như ông Trần Đăng Khoa bên đảng Dân chủ.
Cả hai đảng Dân chủ và Xã hội có đặc điểm chung:
– Không kết nạp đảng viên mới
– Những đảng viên hiện tại không được ra khỏi đảng
– Chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương đảng CSVN.
Đảng Nhân dân Cách mạng là thực chất là đảng bộ miền Nam của Đảng CSVN (khi đó có tên là Lao động), là lãnh đạo chính trị của Mặt trận Giải phóng miền Nam. Lãnh tụ của đảng này là Chủ tịch Võ Chí Công.
(Xin độc giả lưu ý danh xưng của người đứng đầu của các đảng: Bí thư thứ nhất, Tổng thư ký và Chủ tịch.)
Điều 4 được thêm vào Hiến pháp có tính chất thời sự lúc đó: Hiệp định hợp tác toàn diện với Liên xô, xem Liên xô là hòn đá tảng trong quan hệ quốc tế. Điều 4 thêm vào Hiến pháp để đồng bộ với Điều 6 của Hiến pháp Liên xô.
Tuy nhiên, Điều 4 chỉ có tính hình thức, do Lực lượng vũ trang, từ Quân đội (bao gồm cả Hải quân và Không quân), Cảnh sát và An ninh đều do Đảng CSVN lãnh đạo toàn diện và kiểm soát tuyệt đối.
Muốn thay đổi một điều trong Hiến pháp đòi hỏi phải nhiêu khê về thủ tục Trung cầu dân ý. Và khi không còn điều 4 nữa sẽ gây hiểu lầm về vai trò Làm bộ mặt dân chủ của các Đại biểu ngoài đảng được cơ cấu vào Quốc hội.







Đừng để khi quá muộn, trường hợp ông Lê Đức Thọ

Ông Lê Đức Thọ những ngày cuối đời
Ông Ung Văn Khiêm, con trai thứ cụ Ung Văn Tre*, quê huyện Chợ Mới, An Giang. Cụ Ung Văn Tre là người đầu tiên đến Chợ Mới khai khẩn đất hoang, lập trang ấp, người xưa gọi cụ là ông Chủ Tre.
Trong cuộc khởi nghĩa Trương Định 1862-1864, Chủ Tre đóng góp nhiều của cải và trực tiếp tham gia nghĩa quân chống thực dân Pháp. Cụ có người con trai nổi tiếng thông minh là Ung Văn Khiêm.
Với truyền thống yêu nước, Ung Văn Khiêm đã tham gia chống Pháp khi còn đang học ở trường College de Cantho. Dù là một công tử con nhà giàu, một trong hai học sinh giỏi nhất, được cấp học bổng toàn phần, nhưng Ung Văn Khiêm đã tổ chức bãi khóa và tham gia biểu tình biểu tình liên tục.
Năm 17 tuổi, ông theo thầy Châu Văn Liêm dấn thân hoạt động cách mạng. Ông đến với chủ nghĩa cộng sản, trở thành đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, làm tới chức Uỷ viên Trung ương đảng, Bộ trưởng Bộ ngoại giao.
Ông từng bị Trưởng ban tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ và phe phái trù dập thẳng cánh, vu cho tư tưởng xét lại và những chuyện oan trái, gây bao nhiêu cay cực. Với tính khí nghĩa hiệp được truyền lai của “người mở đất” ông về làm dân không chịu cúi đầu.
Không biết có phải do lương tâm bị day dứt không, mà Lê Đức Thọ đã tìm gặp Ung Văn Khiêm vào lúc cuối đời.
Đầu năm 1991, tôi đến thăm cụ Ung Văn Khiêm, cụ kể cho nghe câu chuyện sau đây:
Một buổi sáng năm 1978, tôi đang chăm đàn heo thì bà vợ báo có ông Sáu Thọ tới thăm. Trời đất ơi, sao tự nhiên thằng cha mắc dịch tới thăm vào giờ này? Thôi kệ , tắm cho heo đã!
Tắm heo xong, lên thấy ông Sáu Thọ đang thơ thẩn ngoài sân. Ông cười bắt tay tôi, nói:
– Hôm nay tôi tới mời cụ ra giúp việc cho dân cho nước !
Trời đất ơi, lại chơi trò gì nữa đây! Tôi nghĩ vậy và nói thật lòng:
– Ông không sợ thằng cha xét lại làm hỏng việc của Đảng sao?
Ông Lê Đức Thọ vỗ vai tôi:
-Thời bình cần có người liêm chính như cụ!
Tôi nhìn ông Sáu Thọ vẫn như xưa, da mặt tai tái, miệng cười nhếch nửa mép, mắt nhọn như kim, một khuôn mặt sắc lạnh không có tình người. Tôi nói:
– Nếu đất nước còn chiến tranh, ông giao việc gì tôi cũng làm. Bây giờ hòa bình rồi, tôi đã có tuổi, được ông cho nghỉ việc đã lâu, nhảy ra làm người ta nói tôi tham quyền cố vị. Vậy xin ông miễn cho!
Ông Lê Đức Thọ cười, nắm tay tôi, nói:
– Tôi có gì không phải mong cụ bỏ qua cho!
Tôi nói:
– Tôi mừng vì ông nói được câu ấy! Với ông là chuyện nhỏ! Nhưng còn với đất nước?
Ông Lê Đức Thọ nói nhỏ nhẹ:
– Thôi thì để cho lịch sử phán xét!
Trần Bạch Đằng, một nhà báo có tài, và là một chính khách, từng làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn – Gia Định, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương cục miền Nam. Ông là một trong những người bị Lê Đức Thọ ghét, “đì” tới số. Trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, Trần Bạch Đằng bị Lê Đức Tho đẩy sang Cu Ba, không cho tham dự, đồng nghĩa với việc loại khỏi danh sách nhân sự.
Ông Trần Bạch Đằng có lần kể lại câu chuyện sau đây với tôi và nhà thơ Văn Lê:
Một buổi sáng tao đang ngồi viết trên lầu thì con cháu vào nói: “Chú Tư có bác Sáu Thọ tới thăm!”. Tao nghĩ chắc con nhỏ nhầm. Xưa nay người ta tìm tới Sáu Thọ qụy lụy chớ cha ấy thèm tới ai ?
Nhưng khi xuống thỉ thấy đúng là Sáu Thọ. Cha đứng ngoài cửa, không vô nhà. Tao giựt mình vì mặt Sáu Thọ nhợt nhạt không còn thần sắc. Kiểu này chắc không được bao lâu nữa!?
Sáu Thọ nhích mép cười, nói:
– Tôi biết cậu là người có tài. Ngày đó nếu cậu đến tôi, nói với anh Sáu vài lời, thì cậu chắc chắn là Ủy viên Trung ương khóa IV, là Ủy viên Bộ chính trị. Nhưng cậu là con ngựa bất kham, không điều khiển được.
Dừng một khá lâu, ông Lê Đức Thọ mới nói tiếp, không suồng sã thân mật như trước mà giọng trầm xuống, khách sáo và như nhắc nhở:
– Tôi được biết anh đang viết một quyển sách nói nhiều chuyện về tôi. Hôm nay tôi tới xin anh một điều, khi tôi còn sống anh đừng xuất bản quyển sách đó. Sau khi tôi chết, con người tôi lịch sử sẽ phán xét.
Nghe Sáu Thọ nói vậy, tao trả lời ông:
– Quyển sách đã in rồi, nhưng anh nói vậy, tôi sẽ hủy!
Có lẽ ít người biết những câu chuyện như thế về “trái tim thép” Lê Đức Thọ, người từng thừa nhận mình là “Trần Thủ Độ” của Đảng cộng sản ViệtNam. Bao năm uy quyền tập trung trong tay ông, những kẻ khéo nịnh bợ được vinh thân phì gia, những người không chịu cúi luồn bị bạc đãi, bao nhiêu người từng bị đày đọa không ngóc đầu lên được.
Những tưởng con người ấy kiêu hãnh suốt đời?
Nhưng khi quyền lực đã rời bỏ mình thì hiện hữu lại là một tấm thân mềm yếu, “trái tim thép” hình như bị nhũn ra như bùn. Không hiểu vì lương tâm thức tỉnh hay vì nguyên nhân gì, chỉ biết 6 tháng sau buổi gặp ấy, ông Lê Đức Thọ qua đời. Ông được an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, nơi dành cho những cán bộ cao cấp nhất của Đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam, nhưng nghe nói sau đó gia đình phải chuyển về quê!?
M.Gaddafi, “Vua của các vị vua” từng tàn sát 200.000 người, và những ngày tháng cuối cùng của chế độ độc tài, đã giết hại 23.000 người, bắt bỏ tù 50.000 người không ghê tay, mà mềm yếu đến đê hèn khi quỳ lạy người lính: “ Xin đừng bắn tôi!”.
S. Husen, ria mép giống hệt ria Stalin, nổi tiếng độc tài khát máu, phút cuối cùng còng lưng rụt đầu vào cổ chiếc áo sơ mi trắng, ôm quyển kinh Koran, miệng lảm nhảm xin tha chết.
Nicolae Ceausecu, Chủ tịch đảng cộng sản Rumnia, từng mệnh danh “Conducator” – Lãnh tụ tối cao “Geniul din carpati” – Thiên tài, đã quỳ khóc sướt mướt khi bị bắt trên đường trốn sang Nga, và sau đó cả hai vợ chồng đều bị xử bắn sau một phiên tòa kéo dài hai tiếng đồng hồ.
Hơn 2.500 năm trước Đức Phật Thích Ca đã cho ra đời triết lý Vô Thường, và hình như thuyết Tương đối của Albert Einstein cũng dựa trên ý tưởng ấy. Đừng ảo tường chế độ tồn tại vĩnh viễn, quyền lực trong tay mình là tuyệt đối, kẻo hối không kịp.
Ông Lê Đức Thọ là một con người đầy bản lĩnh, nhiều tham vọng, đa nghi và rất thủ đoạn.
Ông sinh năm 1911 tại Nam Trực, Nam Định, từng tham gia bãi khóa , dự lễ tang nhả chí sỹ Phan Chu Trinh và hoạt động trong phong trào học sinh yêu nước nên bị Pháp bắt giam hai lần (1936, 1944).
Ông từng làm Bí thư kiêm Trưởng ban Tổ chức Xứ ủy Nam Kỳ (1948-1954). Nhưng chức vụ mà ông giữ lâu nhất là Trưởng ban tổ chức Trung ương. Ngay cả khi làm Bí thư Thường trực ông vẫn kiêm Trưởng ban tổ chức.
Người ta nói Lê Đức Thọ là người tạo ra bộ máy lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam suốt bốn thập kỷ (1954-1994) và cho tới bây giờ vẫn còn gốc gác ấy. Người ta còn nói ông thường vận dụng “Nhân tướng học” để chọn cán bộ, và bất kỳ ai trái ý ông đều trở thành nạn nhân, tiêu biểu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông chuyên trách công tác Tổ chức Đảng, nhưng khoái cầm quân, ham chiến đấu, xông vào chiến dịch Mậu Thân 1968, chiến dịch Hồ Chí Minh 1975 và tấn công đánh đuổi Polpot trên đất Campuchia 1-1979.
Ông Lê Đức Thọ nổi tiếng trong vai trò Cố vấn tối cao cho phái đoàn đàm phán của chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Hội nghị Pari, ông đã từ chối nhận một nửa Giải Noben hòa bình với tiến sỹ Kissinger.
Ông mất ngày 13-10-1990 để lại nhiều tiếng tốt, không ít điều xấu, nhưng, như ông nói, hãy để cho lịch sử phán xét.
Tôi chỉ kể lại hai mẩu chuyện có thật tôi được nghe, như một chi tiết nhỏ trong cuốn lịch sử chưa viết về ông Lê Đức Thọ.
Khi con người nắm quyền lực trong tay, phần vì hãnh tiến, phần sợ bị kẻ khác tước đoạt hoặc lợi dụng, trở nên đa nghi, tàn nhẫn, đôi khi mê muội, mất cả lương tâm, hại cả bạn bè người thân.
Những con người đó đều sẽ rơi vào trạng thái bi kịch, hụt hẫng khi quyền lực tuột khỏi tay, mà không ai tránh khỏi.
Con chim sắp chết hót hay, con người sắp chết nói thật, hình như rất đúng với trường hợp ông Lê Đức Thọ. Tôi được biết trước khi mất ông gặp nhiều người chứ không riêng ông Ung Văn Khiêm và Trần Bạch Đằng.
M.D
Theo blog BVB
…………
* Chỗ này tác giả nhầm, ông Ung Văn Khiêm là cháu nội cụ Ung Văn Tre, không phải con thứ.







Một đòn mạnh giáng vào “đường lưỡi bò” phi pháp
NQL: Sự kiện Philippines đưa cái lưỡi bò ra tòa án quốc tế hay rứa mà báo lề phải chỉ thấy đưa tin không thấy có bình luận chi. May quá tìm được bài khá hay trên báo TT, tờ báo được tiếng là nhút nhát dạo ni mạnh dạn hơn nhiều. Những bình luận thế này giúp cho các quan sáng mắt ra là điều rất nên làm.
Với việc kiện Trung Quốc ra Tòa án trọng tài Liên Hiệp Quốc, Philippines đang theo đuổi chiến lược ba mũi nhọn nhằm đối phó với những yêu sách chủ quyền phi pháp của Trung Quốc trên biển Đông.
Ba mũi nhọn này là ngoại giao, chính trị và pháp lý. Philippines đưa ra bốn cáo buộc. Một là, “đường lưỡi bò” của Trung Quốc là phi pháp xét theo luật pháp quốc tế. Hai là, Trung Quốc đã chiếm giữ và xây dựng cơ sở trên các bãi đá ngầm, bãi cạn, bãi cạn lúc chìm lúc nổi… trên biển Đông và gọi chúng một cách bất hợp pháp là “đảo”. Ba là, Trung Quốc đã can thiệp bất hợp pháp vào các hoạt động bảo vệ chủ quyền của Philippines trong vùng lãnh hải nước này. Bốn là, Philippines tìm kiếm một phán quyết trong luật pháp quốc tế về vấn đề mà Trung Quốc chưa đưa vào danh sách “không chấp nhận” của Bắc Kinh.
Bộ Ngoại giao Philippines khẳng định đã vận dụng mọi giải pháp chính trị và ngoại giao để giải quyết tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc một cách hòa bình nhưng bất thành. Nếu Philippines không hành động, cộng đồng quốc tế sẽ cho rằng Manila ngầm chấp thuận việc Trung Quốc “thực hiện chủ quyền” trên vùng biển Philippines bằng các tàu hải giám. Trên thực tế, Trung Quốc đã thôn tính bãi cạn Scarborough bằng việc triển khai tàu chiến, tàu tuần tra tại khu vực này, thậm chí còn lập rào chắn. Ngư dân Trung Quốc cứ tiếp tục đánh bắt cá trái phép trên vùng biển của Philippines.
Tàu hải giám Trung Quốc xuất hiện gần bãi cạn Scarborough Ảnh: AFP
Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) đưa ra bốn cơ chế giải quyết tranh chấp lãnh thổ: Tòa án luật biển quốc tế (ITLOS), Tòa án công lý quốc tế (ICJ), Tòa án trọng tài và Tòa án trọng tài đặc biệt. Philippines đã tuân thủ mọi quy trình của UNCLOS. Các nước khi ký kết UNCLOS là đã chấp nhận việc giải quyết tranh chấp bắt buộc. Đầu tiên các nước phải giải quyết tranh chấp song phương. Nếu không đạt được thỏa thuận, một quốc gia có quyền đưa vụ việc ra tòa quốc tế theo UNCLOS. Quốc gia này có quyền chọn ITLOS hoặc Tòa án trọng tài.
Philippines đã chọn Tòa án trọng tài. Ban đầu Tòa án trọng tài sẽ xác định cơ quan này có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hay không. Có nghĩa là tòa án sẽ xác định lập luận của Philippines có bao gồm việc diễn giải hoặc áp dụng UNCLOS hay không. Tòa án trọng tài có thể xác định xem liệu một địa điểm tranh chấp là đảo, bãi cạn hay bãi đá ngầm. Quan trọng hơn, Tòa án trọng tài có thể xác định xem liệu Trung Quốc có can thiệp bất hợp pháp vào chủ quyền lãnh thổ của Philippines trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines hay không.
Tháng 8-2006, Trung Quốc tuyên bố không chấp nhận quy trình giải quyết tranh chấp bắt buộc dựa trên bốn cơ chế trên trong các vấn đề về phân định vùng lãnh hải, EEZ và thềm lục địa. Philippines khẳng định vụ việc này liên quan đến các vấn đề ngoài vùng lãnh hải, EEZ hay thềm lục địa. Vụ việc của Philippines cũng bao gồm việc diễn giải luật quốc tế theo UNCLOS. Do đó, Tòa án trọng tài có thể sẽ ra phán quyết ủng hộ Philippines. Nhiều khả năng phán quyết này sẽ tái xác nhận đường bờ biển, vùng lãnh hải và EEZ của Philippines dựa trên luật pháp quốc tế. Đó sẽ là một đòn mạnh giáng vào yêu sách “đường lưỡi bò” bất hợp pháp của Trung Quốc.
Chính quyền Philippines đã lựa chọn một cách cẩn thận những khía cạnh pháp lý đặc thù trong tranh chấp với Trung Quốc để đưa ra tòa án Liên Hiệp Quốc. Bất kỳ một phán quyết nào của Tòa án trọng tài phủ nhận “đường lưỡi bò” của Trung Quốc cũng đều có lợi cho các quốc gia khác có đòi hỏi chủ quyền trên biển Đông. Các nước như Việt Nam hoàn toàn có thể học tập kinh nghiệm và tiền lệ của Philippines.
H. Trung ghi
Box:
Thúc đẩy quốc tế hóa tranh chấp biển Đông
Hành động chính trị – pháp lý của Philippines sẽ thúc đẩy hơn nữa tiến trình “quốc tế hóa” tranh chấp biển Đông. Nó cũng có thể dẫn tới phản ứng dây chuyền tại các quốc gia khác có tuyên bố chủ quyền tại biển Đông. Có thể các quốc gia này sẽ theo gương Manila đưa tranh chấp với Trung Quốc ra Tòa án trọng tài quốc tế.
Lường định những rủi ro có thể có, các nhà hoạch định chính sách ở Manila không hề hành động một cách bất cẩn. Trong nhiều tháng qua, dưới sự chủ trì của Ngoại trưởng Albert del Rosario, các học giả và luật sư Philippines và quốc tế đã hình thành một chiến lược pháp lý. Sự khôn khéo của Manila là việc chọn một khía cạnh pháp lý – chính trị liên quan “đường lưỡi bò” mà dư luận quốc tế đều thừa nhận là phi lý. Một khi “đường lưỡi bò” bị bác bỏ về mặt pháp lý và công lý quốc tế, lợi ích của Philippines tại bãi cạn Scarborough cũng sẽ được bảo vệ. Ở mức độ, vụ kiện này sẽ góp phần vào cuộc đấu tranh chung về pháp lý, chính trị, ngoại giao để tìm một giải pháp cho cuộc tranh chấp trên biển Đông. “Cách tiếp cận luật pháp quốc tế” luôn là một sự lựa chọn có giá trị, một lá bài chiến lược để ngỏ.
TS Nguyễn Ngọc Trường
January 23, 2013
Huy Đức sẽ không đơn độc
Lương Kháu Lão
Là một trong những người sống gần trọn đời trong chế độ cộng sản, tôi chỉ đọc, chỉ biết những gì báo chí của Đảng viết ra . Một thời tôi đã từng say mê những bài viết của Thép Mới, Nguyễn Thành Lê, Nguyễn Hữu Chỉnh , Hữu Thọ, Hoàng Tùng, và cả Bùi Tín nữa khi anh ta còn làm Phó Tổng biên tập Báo Nhân dân phụ trách tờ Nhân dân chủ nhật . Có lúc chợt nghĩ nếu Olimpic có môn viết xã luận thì chắc chắn Việt Nam sẽ có huy chương vàng !
Sau năm 1975, một thế hệ các nhà báo trẻ xuất hiện. Họ trưởng thành ở một thành phố gặp muôn trùng khó khăn nhưng cũng mạnh mẽ trỗi dậy và đi đầu trong công cuộc đổi mới . Đó là Đỗ Trung Quân, Nguyễn Ngọc Châu, Lê Thọ Bình, Bùi Thanh, Thủy Cúc , Lưu Đình Triều ,Tâm Chánh, Đà Trang… ở tờ Tuổi trẻ, Huỳnh Ngọc Chênh, Nguyễn Văn Thịnh, Danh Đức … ở tờ Thanh Niên ; Trong số đó người nổi tiếng nhất là Huy Đức . Tôi đã có nhiều lần cộng tác với số nhà báo trẻ sớm thành danh nói trên nhưng với Huy Đức thì chưa một lần gặp mặt. Chỉ “ gặp” anh trên các bài viết nóng hổi tính thời sự và nhân văn . Sau khi buộc phải rời các tờ báo khá mạnh bạo ở Sài Gòn, Huy Đức nổi tiếng với blog “lề trái” Osin , nhưng tôi cũng ít đọc cho tới khi Bên thắng cuộc ra đời thì nó như một quả bom nổ giữa sự nhàm chán của dư luận làm rúng động cả “quân ta” lẫn “quân địch”.
Huy Đức tung ra ánh sáng biết bao chuyện được gọi là “thâm cung bí sử” mà cả hai bên chiến tuyến, hai bên cựu thù đều dấu kín . Huy Đức viết những điều mà nhiều người đương thời còn “sống nhăn răng” ra đó” nên người khen kẻ chê, người phản ứng gay gắt khi chạm nọc là điều không tránh khỏi .
Với một số bà con định cư ở Quận Cam và nhiều thành phố bên nước Mỹ xa xôi, những cay đắng họ phải gánh chịu từ chuyện cải tạo tư sản, cải tạo ngụy quân ngụy quyền, từ chuyện đổi tiền, chuyện vượt biên với biết bao rủi ro và mất mát … sẽ không bao giờ nguôi ngoai sự uất hận trong lòng họ cho dù hòa bình đã hơn ba chục năm rồi và nhiều người đã lần lượt trở về quê hương đoàn tụ gia đình tìm cơ hội làm ăn, thậm chí nhiều người già trong đó có những người nổi tiếng là tướng lĩnh là nhà chính trị trong quân đội Việt Nam cộng hòa, là văn nghệ sĩ nổi danh đã xin được về chết trên mảnh đất quê hương bởi vì như Đỗ Trung Quân đã viết khi còn là phóng viên Tuổi trẻ “Quê hương là chùm khế ngọt” . Ấy là lúc Trung Quân còn trai trẻ và tương lai của dân tộc cũng như tình yêu quê hương đất nước còn đang cháy bỏng trong trái tim anh chứ không phải của Đỗ Trung Quân chín chắn và trưởng thành như bây giờ .
Cho nên một số bà con Việt kiều dù chưa đọc một dòng Bên thắng cuộc nhưng nghe lời xúi dục của các phần tử quá khích đã đi biểu tình chống Bên thắng cuộc là một điều đáng tiếc . Nếu họ đọc , đọc thật kĩ và suy ngẫm về những điều Huy Đức nói về những “người thua cuộc” thì họ sẽ từ chối đi “biểu tình “ như vậy. Quả thật, nhờ những thông tin mà Huy Đức cung cấp trong kho sử thi đồ xộ của đất nước trong hơn ba chục năm qua , chúng ta bây giờ mới có thể biết được vì sao Cộng sản giải phóng được Sài Gòn và toàn Miền Nam. Không chỉ là chuyện hai miền “nội chiến”” nồi da xáo thịt” mà có sự can dự và hưởng lợi của các nước lớn mang danh đồng minh với cả hai phía của cuộc chiến dai dẳng ba chục năm
Tất cả các câu chuyện về thành phố Sài Gòn sau giải phóng đã được Huy Đức giải mã một cách đầy đủ và chân thực. Tại sao những người chịu đau thương và mất mát trong các sự kiện kể trên lại có thể phản đối tác giả khi anh đã giúp họ nói lên một phần sự thật để phần nào nguôi ngoai nỗi đau thương dấu kín bấy lâu. Có lẽ chỉ vì chuyện Huy Đức đã mô tả rất chi tiết việc quân đội Việt Nam cộng hòa tan rã nhanh chóng trước sức tấn công như vũ bão của quân đội miền Bắc chăng ? Lúc đó ở Hà Nội, tôi thắc mắc tại sao Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vốn là một vị tướng lại ra lệnh “tùy nghi di tản” dẫn đến cuộc tháo chạy ồ ạt từ Ban Mê Thuột, đến Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng …cho đến tận Sài Gòn. Nếu chỉ bằng những thông tin trên báo chí Miền Bắc thì ta có thể suy ra rằng quân đội cộng hòa Sài Gòn là đội quân bạc nhược sau khi bị Mỹ bỏ rơi. Nhưng Huy Đức đã chỉ ra rằng có rất nhiều tướng lĩnh và sĩ quan đã “tử vì đạo”. Có người đã bắn chết cả gia đình sau đó tự sát như các võ sĩ Nhật Bản . Đáng lẽ người Việt phải rời quê hương ra đi phải biết ơn Huy Đức đã cho tòan thế giới biết bên cạnh những tướng lĩnh bạc nhược vẫn có những người “anh hùng” như vậy chứ. Vậy thì cớ gì phản đối Bên thắng cuộc ?
Năm 1995, trên tờ Tuổi trẻ chủ nhật nhân kỉ niệm 20 năm ngày giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước tôi đã viết bài “Sài Gòn 1975-1995 dưới con mắt một người Hà Nội” . Bài viết kể chuyện về ông chú vì đói thông tin đã bán hết hàng hóa ôm một đống tiền, khi chính quyền quân quản đổi tiền ông mất trắng. Trong khi người cháu là sĩ quan quân đội, là đảng viên cộng sản ngày 30-4 vào tiếp quản thành phố đã không dám đến gặp người chú vì sợ bị liên lụy. Chuyện của người anh trai của tôi với ông chú không chỉ là chuyện cá biệt trong trận chiến ba mươi năm giữa những người cùng dòng máu đỏ da vàng , cho nên chuyện cha con Lưu Quý Kỳ và Lưu Đình Triều cũng chẳng có gì là khó hiểu và anh Triều không nên có phản ứng với người đồng nghiệp một thời cùng chung lưng đấu cật làm nên thương hiệu của tờ Tuổi trẻ . Cuộc chiến Nam Bắc không chỉ hy sinh hàng triệu nhân mạng những người con ưu tú của dân tộc mà còn là cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa một bên là cộng sản một bên là cộng hòa mà cuộc chiến về ý thức hệ này còn dai dẳng đến tận bây giờ. Nếu nó không chấm dứt với một bên thắng một bên thua hoàn toàn thì sẽ không bao giờ có hòa hợp dân tộc một cách đúng nghĩa
Nếu như phần I của Bên thắng cuộc với tiêu đề “ Giải phóng” làm cho ai đó bên thua cuộc phản ứng là điều có thể hiểu được thì phần II có tiêu đề “ Quyền bính” đã và sẽ làm cho nhà cầm quyền Hà Nội, bên thắng cuộc phát điên . Bao nhiêu chuyện thâm cung bí sử dấu lẹm đã bị Huy Đức phơi bày. Huy Đức “khôn “ lắm, anh chỉ cung cấp thông tin có dẫn chứng người nói, dẫn chứng từ các văn bản “mật” chứ không bình luận. Tự thân các sự kiện nói lên tất cả tùy nhận thức của người đọc. Cũng không ai có thì giờ và tâm huyết đi kiểm chứng xem những thông tin Huy Đức tung ra là đúng hay sai, đúng bao nhiêu phần trăm, sai bao nhiêu phần trăm. Cho nên nói như Bùi Tín rằng Huy Đức mới chỉ nói 30% sự thật là nói đại. Còn 70% nữa Bùi Tín có giỏi thì nói nốt đi. Cần biết rằng để viết Bên thắng cuộc, Huy Đức không chỉ dành 3 năm để viết và chỉnh sửa, anh đã dành gần cả trọn cuộc đời làm báo của mình để tích lũy sử liệu , để thẩm tra các dữ kiện, để phỏng vấn các nhân vật và nhờ có internet, anh đã lưu trữ được nó trong một chiếc laptop nhỏ bé để mang theo nó sang nước Mỹ rồi tung nó ra toàn cầu bằng giải pháp kĩ thuật số, điều mà ở trong nước anh không thể làm được.
Sau một thời gian im ắng, các báo trong nước chủ yếu là các tờ báo công an bắt đầu phản công Bên thắng cuộc và tác giả Huy Đức. Đọc qua một vài bài tôi thấy hình như họ viết theo sự chỉ đạo của cấp trên nên gò ép và thiếu sự thuyết phục. Những “dư luận viên” mà ông Trưởng ban tuyên huấn thành ủy Hà Nội nói theo sự chỉ đạo của cấp trên không đủ tâm và đủ tài để chọi với các bài phản biện của các tay bút bên lề trái. Nó tương tự như bài của ông nghị Hoàng Hữu Phước viết trên blog của mình đại ý rằng một thằng nhóc mới 13 tuổi khi Sài gòn giải phóng thì biết gì mà viết nhăng viết cuội. Cái ông nghị rởm này như có bạn viết trên Facebook là đã bị ung thư dây thần kinh giai đọan cuối này làm sao có đủ trình độ và tư cách phê phán Bên thắng cuộc .
Chúng ta phải cám ơn Bên Thắng cuộc và tác giả Huy Đức đã dũng cảm giải mã biết bao sự thật ở Ba Đình . Ví dụ người có công tiến hành đổi mới đất nước là ông Trường Chinh về lí luận và ông Võ Văn Kiệt về hành động chứ không phải ông Nguyễn Văn Linh với mấy bài “Những việc cần làm ngay”. Ví dụ vì sao các lãnh đạo Việt nam từ thời ông Lê Duẩn, ông Trường Chinh, ông Nguyễn Văn Linh, ông Đỗ Mười, ông Lê Khả Phiêu, ông Nông Đức Mạnh , đến ông Nguyễn Phú Trọng hôm nay đều “kiên trì” định hướng xã hôi chủ nghĩa cho dù mang tiếng là giáo điều . Bởi vì tuy Huy Đức không nói ra nhưng nếu không bám vào cái lí thuyết không tưởng đó thì không có lí do gì tồn tại Đảng Cộng sản mà nếu không còn Đảng thì còn đâu mảnh đất tham nhũng như ngày hôm nay . Cho nên nói chống tham nhũng mà vẫn khư khư theo đuổi định hướng XHCN một cái rất mơ hồ thì chỉ là nói chống cho vui vậy thôi. Bây giờ bên Đảng có Ban nội chính chống tham nhũng, bên chính quyền lại mới đẻ thêm Ban chỉ đạo gì đó tương tự thì chỉ là cuộc chiến giữa Đảng và Chính quyền chứ bè lũ tham nhũng vẫn phè phỡn ngoài vòng pháp luật vì các ông đang kềm chế nhau chứ có đánh gì tham nhũng đâu
Trong hai thứ những người cộng sản sợ nhất là chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa giáo điều. Xét lại hiểu theo một cách nào đó là một sự đổi mới chủ nghĩa Maxk đã lỗi thời còn giáo điều là cố níu kéo cái đã lỗi thời đó để thể hiện mình là người trung thành tuyệt đối với lí tưởng mà thời trai trẻ mình đã mù quáng tuyên thệ . Tất cả những gì làm trái quy luật dù cố níu kéo bằng lý thuyết ma giáo hay bằng chuyên chính vô sản tàn bạo , mà tàn bạo nhất là chiến tranh đều không thoát khỏi sự phán xét và trừng phạt của lịch sử mà lịch sử thì rất công bằng.
Nhiều thế hệ người Việt nam phải biết ơn “sử gia” Huy Đức bằng những thông tin mà anh cung cấp . Những đời tư của các nhân vật quyền thế từ Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh, Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Văn Tiến Dũng, Đoàn Khuê, Võ Nguyên Giáp , Đinh Đức Thiện , Mai Chí Thọ, Nguyễn Hà Phan, Trần Xuân Bách, Nông Đức Mạnh … Tất cả những sự kiện hư hư thực thực kể cả chuyện Hồ Chí Minh có vợ đăng trên tờ Tuổi trẻ -lí do mà Tổng biên tập Kim Hạnh mất chức và suốt đời không được làm báo , những chuyện Nông Đức Mạnh và Nguyễn Tấn Dũng có bố có mẹ chứ không phải là con ông nọ bà kia đều đã được Huy Đức công khai danh tính và có thể đó là lí do mà các “dư luận viên” viết theo Lề Đảng sẽ vin vào đó để kết tội Huy Đức làm lộ bí mật quốc gia và bí mật đời tư chiểu theo nghị định này nghị định nọ để có thể bỏ tù khi Huy Đức về tới sân bay Tân Sơn Nhất
Huy Đức đã không thể từ trong nước phát hành Bên Thắng cuộc, anh cũng chưa thể in thành sách . Anh lựa chọn phát hành trên mạng. Cách phát hành này có thể không mang lại cho anh nhiều tiền bạc tương xứng với công sức anh bỏ ra và giá trị của quyển sách mà anh mang đến cho độc giả nhưng bằng cách này sẽ có nhiều người trên thế giới tìm đọc quyển sách đang rất hot này. Càng có nhiều người khen kẻ chê càng có nhiều người tìm đọc. Đó là quy luật mà những người làm công tác tuyên giáo của Đảng Cộng sản rất biết nhưng họ vẫn cứ phải lên án nếu như không muốn bị cấp trên khiển trách , mắng mỏ . Và tôi nghĩ như ai đó đã từng viết rằng các lãnh đạo Việt nam, các Trung ương ủy viên, các ủy viên Bộ Chính trị càng nên đọc sách này để biết một phần sự thật mà họ chưa được biết . Biết để mà phòng thân và tránh các sai lầm khuyết điểm mà tư tưởng giáo điều đã ám ảnh họ , Trên hết ông Nguyễn Phú Trọng cần đọc quyển sách này . Và nếu là người thực sự cầu thị, thì ông phải khuyến khích các đảng viên của ông cùng đọc mới đúng . Và tôi tin lịch sử sẽ rất công bằng với Huy Đức, một nhà báo dấn thân.
Tác giả gửi cho QC







Ngôn ngữ gỗ
Lê Minh Tiến
Đến giờ này nhiều người trong chúng ta đều đã quá quen thuộc với những câu văn, cụm từ như “sẽ xử lý nghiêm bất kể đó là ai” hoặc “không có vùng cấm trong xử lý…” và còn nhiều cụm từ, câu văn khác nữa vốn đã và đang được dùng đi dùng lại thành sáo ngữ khiến ai cũng có cảm giác nhàm chán khi nghe đến.
Xét về mặt lịch sử, sáo ngữ hay “ngôn ngữ gỗ” (lange de boyse) đã xuất hiện từ thế kỷ 16 tại nước Anh nhưng sau đó được dùng nhiều trong thời Liên Xô cũ. Khi bàn về sáo ngữ, người ta nhận thấy loại ngôn ngữ này thường xuất hiện trong lĩnh vực chính trị và tất nhiên việc sử dụng loại ngôn ngữ này là một “biệt tài” của các chính trị gia, bởi nó là một trong những kỹ thuật dùng để lái hiện thực sang một hướng khác nhằm đánh lạc hướng nội dung lẽ ra cần phải được đề cập. Do đó gần như tất cả người tham gia hoạt động chính trị đều thuộc nằm lòng những “công thức” phát biểu cho từng loại vấn đề, từng loại sự việc.
Tại sao giới chính trị gia hay sử dụng sáo ngữ? Trả lời câu hỏi này quả thật là điều không hề dễ dàng, nhưng việc sử dụng loại ngôn ngữ này trước hết có thể là một sự phản ánh của tình trạng bất lực trong giải quyết vấn đề. Chẳng hạn như việc xử lý sai phạm đối với những quan chức cấp cao luôn gặp nhiều khó khăn, do đó cách nói chung chung như “xử lý nghiêm bất kể đó là ai” là một cách nói nhằm trấn an dư luận hơn là có giá trị hiện thực trên thực tế. Và chúng ta cũng thấy những câu nói kiểu như vậy thường chỉ xuất hiện ở giai đoạn đầu của một sự việc nào đó, còn khi kết thúc thì có được xử lý nghiêm hay không, có vùng cấm hay không là chuyện khác, bởi lúc đó công luận cũng không còn quan tâm hay thắc mắc về việc có nghiêm hay không nghiêm nữa.
Mặt khác, sáo ngữ còn là một ẩn chứa cho việc thiếu khả năng xác định đâu là sự việc cần ưu tiên trước, ưu tiên sau trong việc hoạch định chính sách của những cơ quan có trách nhiệm. Chính vì vậy có lúc người ta đã nói về cách làm chính sách theo kiểu “múi mít” vì cái nào cũng thuộc loại “trọng tâm”, “quan trọng nhất”, “hàng đầu”, “then chốt”… cả. Tất nhiên cách nói như thế sẽ khiến những thành phần có liên quan hay bị tác động cảm thấy vui tai, cảm thấy được an toàn về mặt tâm lý vì dù sao chính sách liên quan tới mình cũng thuộc loại “hàng đầu” hoặc “trọng tâm”.
Tất nhiên, sáo ngữ cũng có tác dụng tốt khi nói về một số vấn đề liên quan đến quan hệ quốc tế, vì thông thường nội dung của những phát biểu kiểu “ngôn ngữ gỗ” thường là “hòa cả làng” và như vậy sẽ không làm mất lòng bất cứ bên nào.
Thế nhưng việc dùng quá nhiều sáo ngữ sẽ có tác dụng ngược trong cai trị và điều hành bởi dần dần dân chúng sẽ không còn lòng tin, không tin tưởng vào những phát biểu của giới lãnh đạo nữa. Chính vì vậy hiện nay dư luận thường ít quan tâm đến những ngôn từ được liệt vào loại “chém gió” nữa bởi chỉ mang lại sự “sảng khoái tâm lý” nhất thời, cái mà họ muốn thấy đó là làm thật sự trên thực tế.
Làm sao để sáo ngữ ngày càng ít hiện diện trong thực tế? Một số cách đã có xuất hiện như mục “chuyện ấy bây giờ” trên tờ Tuổi Trẻ nhằm xới lại những vấn đề cũ xem chúng được giải quyết, xử lý thế nào, sẽ buộc người có trách nhiệm phải “có trách nhiệm” trên thực tế nhiều hơn và từ đó có thể sẽ buộc họ giảm dần những phát biểu sáo ngữ trong tương lai.







Không sống bằng dối trá
Alexander Solzhenitsyn
Phạm Ngọc dịch từ tiếng Nga
Người d
ịch
: Sau khi công bố tác phẩm Quần đảo GULAG và bản tuyên ngôn “Không sống bằng dối trá”, Alexander Solzhenitsyn bị bắt và sau đó bị trục xuất khỏi Nga Sô sang Đức vào năm 1974. Ngay sau đó tiểu luận này đã được dịch ra tiếng Anh và đăng trên The Washington Post vào ngày 18 tháng Hai năm 1974.
Có một thời chúng ta thậm chí không dám cả nói thầm! Giờ đây, khi viết và đọc những sách báo ngoài luồng, và đôi lúc tụ tập hút thuốc tại Viện nghiên cứu khoa học, chúng ta có thể phàn nàn thẳng thắn với nhau: “bọn họ” định chơi trò gì đây, định dắt mũi chúng ta tới đâu nữa! Những tâng bốc vô bổ về thành tựu vũ trụ trong khi đất nước nghèo đói và kiệt quệ; củng cố chế độ cai trị dã man; thổi bùng ngọn lửa nội chiến; nuôi dưỡng chính thể Mao Trạch Đông bằng của cải vật chất của chúng ta một cách khinh suất, để rồi sau đó lại lùa chính chúng ta ra chiến trường chống lại hắn; và chúng ta, còn lối thoát nào khác ngoài việc tuân lệnh lên đường? “Bọn họ” tuyên án bất kì ai họ muốn, tống những con người khoẻ mạnh vào nhà thương điên — “bọn họ” luôn như thế, còn chúng ta — bó tay bất lực!
Mọi thứ dường như đã gần chạm đáy, cái chết toàn diện về mặt tinh thần đã chạm vào tất cả chúng ta, còn cái chết về mặt thể xác sắp sửa cháy bùng và nuốt chửng hết cả lũ chúng ta lẫn thế hệ con cháu; thế mà chúng ta vẫn cứ bình chân như vại, vẫn nở một nụ cười đớn hèn và cứ lúng ba lúng búng như thể nuốt phải lưỡi:
— Nhưng làm cách nào để dừng điều đó được cơ chứ? Chúng ta làm gì đủ sức, phải không nào? Chúng ta đã bị phi nhân tính một cách tuyệt vọng tới mức chỉ vì một khẩu phần ăn khiêm tốn hàng ngày cũng sẵn lòng đánh đổi mọi nguyên tắc của mình, tâm hồn của mình, những nỗ lực của tiền nhân và cơ hội dành cho hậu thế — cốt sao sự tồn tại mong manh của mình không bị phá vỡ. Chúng ta chẳng còn lấy một chút vững vàng, một chút tự hào và một bầu nhiệt huyết. Chúng ta thậm chí còn chẳng sợ cái chết vì vũ khí hạt nhân, không sợ thế chiến thứ ba (còn có thể trú ẩn trong những kẽ hầm mà!), thế nhưng lại sợ những hành động can đảm của công dân! Chúng ta chỉ e sợ mình bị tách ra khỏi bầy đàn, phải tiến bước một mình và đột nhiên nhận ra rằng không còn bánh mì, không còn khí đốt, không còn hộ khẩu Moskva.
Chúng ta đã bị nhồi sọ bởi các khoá học chính trị, đến nỗi trong bản thân luôn nuôi dưỡng một ý tưởng — hãy sống thật thoải mái và rồi tất cả sẽ tốt đẹp: anh chẳng đời nào tách rời khỏi môi trường, điều kiện xã hội, sự tồn tại xác định ý thức, và chúng ta thì liên quan gì? chúng ta có thể thay đổi được gì đâu!
Thực chất thì có thể, chúng ta có thể thay đổi tất cả mọi thứ! Tuy nhiên, chúng ta vẫn cứ tự lừa dối để trấn an bản thân. Chẳng “bọn họ” nào có lỗi cả — mà chính chúng ta và chỉ có thể là chúng ta!
Có thể phản đối: nhưng thực tế có thể nghĩ ra điều gì hay ho nào! Họ bịt miệng chúng ta, có ai muốn nghe chúng ta nói chứ, cũng có ai hỏi ý kiến chúng ta đâu. Làm thế nào buộc họ phải nghe chúng ta?
Thuyết phục được họ là điều không tưởng.
Lẽ tự nhiên là có thể loại bọn họ bằng bầu cử, nhưng làm gì có bầu cử ở đất nước ta!
Ở phương Tây người ta biết đến bãi công và biểu tình — còn chúng ta, một lũ người khiếp nhược, cảm thấy thật kinh khủng: sao lại có thể đột nhiên bỏ việc, sao lại có thể đột nhiên xuống đường chứ?
Thế nhưng, những phương cách định mệnh khác đã từng được trải nghiệm trong lịch sử cay đắng của dân tộc Nga suốt một thế kỉ qua cũng không phải dành cho chúng ta, và thực sự chúng ta không cần tới chúng! Giờ đây, khi những lưỡi rìu đã hoàn thành công việc đốn chặt, khi những hạt được gieo đã nảy mầm, chúng ta có thể thấy rõ sự lầm đường lạc lối của những kẻ non nớt và tự phụ — những kẻ từng tưởng rằng họ có thể đem lại công bằng và hạnh phúc cho đất nước bằng khủng bố, bằng cách mạng đẫm máu và bằng nội chiến. Không đâu, xin cảm ơn, hỡi các vị tiền nhân soi sáng! Giờ đây chúng ta nhận thức được rằng nhân nào quả nấy, các biện pháp tồi tệ sẽ sinh ra các kết quả tồi tệ. Hãy để cho bàn tay chúng ta được trong sạch.
Vậy là một cái vòng tròn lẩn quẩn ư? Và thực tế không còn lối thoát? Lẽ nào chúng ta chỉ còn một lựa chọn duy nhất là ngồi khoanh tay chờ đợi: bỗng nhiên chuyện cổ tích sẽ biến thành hiện thực?
Nhưng sẽ chẳng bao giờ có chuyện gì xảy ra cả, chừng nào chúng ta còn tiếp tục thừa nhận, tiếp tục ca ngợi, tiếp tục đóng góp, chừng nào chúng ta còn chưa tự tách mình ra khỏi một thứ dễ nhận thấy nhất xung quanh chúng ta: đó là sự Dối Trá!
Khi bạo lực xâm nhập vào cuộc sống bình yên của con người, khuôn mặt của nó sáng ngời ánh tự tin, như thể nó đang giương cao ngọn cờ và hô lớn: “Ta là Thần Bạo Lực đây! Hãy chạy xa, hãy tránh đường, bằng không ta sẽ nghiền nát tất cả!” Song bạo lực sẽ nhanh chóng trở nên già cỗi, chỉ sau ít năm thôi nó đã mất hết đức tự tin, và để duy trì được bộ mặt khả kính, nó bèn lôi kéo một đồng minh đắc lực: đó là Dối Trá. Bởi lẽ: Bạo Lực không thể nào che giấu được móng vuốt của mình nếu không có Dối Trá, và Dối Trá chỉ có thể duy trì được sự tồn tại của mình nhờ Bạo Lực. Bạo lực không thể nào đặt bàn tay lông lá của nó vào mọi lúc và lên tất cả mọi người được, nó đòi hỏi chúng ta phục tùng sự dối trá, tham gia vào mọi hành động dối trá như một nhu cầu sinh hoạt hàng ngày — lòng trung thành tuyệt đối được đặt vào đó.
Và như thế, chìa khoá đơn giản và dễ dàng nhất cho tự do, lâu nay vẫn bị chính chúng ta lãng quên, nằm ở đây: từng cá nhân không tham gia vào sự dối trá. Cho dù dối trá bao trùm tất cả, thống trị tất cả, chí ít chúng ta phải dám khẳng định một điều: dối trá không khuất phục được tôi!
Điều này sẽ mở một lối ra cho vòng lẩn quẩn tưởng tượng, tồn tại do việc khoanh tay ngồi yên của chúng ta. Đó là biện pháp dễ dàng nhất cho chúng ta để huỷ diệt sự dối trá. Bởi lẽ, khi dối trá bị người ta ngoảnh mặt quay lưng, đồng nghĩa với việc nó chấm dứt sự tồn tại. Dối trá chỉ có thể tồn tại trong cơ thể người ta như một căn bệnh truyền nhiễm.
Chúng ta không phải tự lên gân, chúng ta chưa đủ trưởng thành để có thể tiến vào quảng trường dõng dạc hô lớn “sự thật muôn năm” hoặc nói to những gì chúng ta nghĩ. Việc đó không những không cần thiết mà còn nguy hiểm. Song hãy từ chối nói những gì mà chúng ta không nghĩ.
Đó là con đường của chúng ta, phương cách đơn giản và dễ thực hiện nhất, một khi đã tính tới cả sự nhát gan bẩm sinh trong mỗi con người. Và nó cũng dễ hơn nhiều — dù nói thế này cũng còn là nguy hiểm — so với phong trào bất tuân thủ dân sự mà Gandhi từng kêu gọi.
Phương cách của chúng ta là không ủng hộ dối trá một cách có ý thức! Khi nhận thức được đâu là ranh giới của sự dối trá, tuỳ theo nhận thức của mỗi người, ta phải tránh xa đường biên ung hoại này. Hãy đừng cố nối lại xương cốt mục ruỗng và lớp vẩy bị huỷ hoại của Hệ tư tưởng, hãy đừng cố vá víu những mớ giẻ mục nát, và chúng ta sẽ ngạc nhiên biết bao nhiêu khi sự dối trá nhanh chóng trở nên bất lực và yếu ớt, và những gì cần được lột trần khi đó sẽ thực sự được phơi bày trước toàn thế giới.
Vì thế, với tất cả sự rụt rè của chúng ta, hãy để mỗi người trong chúng ta có một lựa chọn: hoặc tiếp tục là nô lệ cho dối trá một cách có ý thức (hoàn cảnh đưa đẩy mà, chúng ta có muốn thế đâu, mà là để nuôi sống gia đình, và như thế, cũng là giáo dục con cái mình trong một tinh thần dối trá); hoặc là rũ bỏ hết dối trá để sống như một con người trung thực, xứng đáng với sự kính trọng của con cái và của người đương thời. Và từ hôm nay trở đi, mỗi người chúng ta sẽ:
— không viết, không kí, không in ấn dưới mọi hình thức một lời nào mà ta cho rằng bóp méo sự thật;
— không nói ra những lời như thế, cho dù nói chuyện riêng hay nói trước công chúng, dù tự mình hay do ai đó yêu cầu, dù với vai trò của tuyên truyền viên, giáo viên, nhà giáo dục hay nghệ sĩ sắm vai trên sân khấu;
— không mô tả, không cổ vũ, không truyền tải một ý tưởng nào mà ta thấy rõ ràng là giả dối hay bóp méo sự thật cho dù trong lĩnh vực hội hoạ, điêu khắc, nhiếp ảnh, khoa học kĩ thuật hay âm nhạc;
— không trích dẫn, dù trong văn nói hay văn viết, một câu nói “được chỉ đạo” để làm hài lòng ai đó, để có được một tấm thẻ bảo hiểm, để đạt được thành công trong công việc nếu ta không hoàn toàn chia sẻ với ý kiến được trích dẫn, hoặc nếu nó không phản ánh chân thực vấn đề;
— không tự ép mình phải đến dự các cuộc biểu dương, hội họp nếu chúng trái với ý nguyện hay mong muốn của ta, không nhận vào tay hoặc giương lên một áp-phích hay biểu ngữ mà ta không hoàn toàn đồng ý;
— không giơ tay thông qua một đề xuất mà ta không thực sự tán đồng, không bỏ phiếu, dù công khai hay bí mật, cho ai nếu ta cho rằng người đó không xứng đáng hay không đáng tin cậy;
— không ép mình phải dự những cuộc hội họp mà ở đó thảo luận các vấn đề bóp méo sự thật;
— ngay lập tức bước ra khỏi các cuộc họp, hội nghị, giảng đường, diễn kịch, chiếu phim nếu nghe thấy diễn giả nói dối, phát biểu những ý thức hệ ngớ ngẩn hay tuyên truyền vô sỉ;
— không đặt mua những báo chí có thông tin bị bóp méo và sự thật bị che đậy.
Tất nhiên, chúng ta chưa liệt kê hết tất cả những việc có thể và cần thiết để lánh xa sự dối trá. Nhưng một người tự làm trong sạch mình sẽ dễ dàng nhận ra những tình huống khác với cái nhìn trong trẻo của anh ta.
Phải, việc đó ban đầu sẽ không hề dễ dàng chút nào. Có thể một số người sẽ mất việc làm. Với những thanh niên muốn sống đời sống chân thật, việc này thoạt tiên sẽ làm cho cuộc sống của họ trở nên vô cùng phức tạp, bởi những bài học bắt buộc của họ tràn ngập những lời dối trá, và họ cần phải chọn lọc. Nhưng không có lối thoát nào khác hơn cho bất kì ai muốn trở nên trung thực: vào bất kì ngày nào, mỗi người trong chúng ta sẽ phải đối mặt với ít nhất một trong các lựa chọn trên đây, ngay cả khi chúng ta trú ẩn trong những ngành khoa học kĩ thuật có tính an toàn nhất, hoặc là sự thật, hoặc là dối trá; hoặc là độc lập tư tưởng hoặc nô lệ tinh thần. Và những ai không đủ dũng cảm để bảo vệ chính tâm hồn mình thì cũng đừng tự hào về những quan điểm cấp tiến của bản thân, đừng vỗ ngực rằng mình là viện sĩ hàn lâm hay nghệ sĩ nhân dân, là một nhà hoạt động nhiều cống hiến hay một vị tướng, mà hãy tự nhủ với bản thân: tôi ở trong bầy đàn, tôi là một “hèn đại nhân”, sao cũng được miễn là có cơm ăn và áo mặc.
Thậm chí con đường này — phương cách ôn hoà nhất trong tất cả những đường lối phản kháng — hoàn toàn không dễ dàng chút nào. Nhưng trong chừng mực nào đó, nó còn dễ dàng hơn nhiều so với việc tự thiêu hay tuyệt thực: lửa sẽ không bao trùm thân thể bạn, mắt bạn sẽ không bị nổ tung vì hơi nóng, và cuối cùng thì gia đình bạn sẽ luôn có được bánh mì và nước uống.
Một dân tộc vĩ đại ở châu Âu, những người từng bị chúng ta phản bội và lừa dối — dân tộc Tiệp Khắc, chẳng đã cho chúng ta thấy chỉ với bộ ngực trần không gì bảo vệ đã dám vươn ra chống lại bánh xích xe tăng hay sao! nếu như trong bộ ngực ấy không tồn tại nhịp đập của một trái tim cao quý?
Con đường này vô cùng khó khăn? Phải, nhưng là phương cách dễ dàng nhất trong tất cả những lựa chon khả thi. Không phải là lựa chọn dễ dàng cho phần xác, nhưng lại là lựa chọn duy nhất của phần hồn. Và dù đó không phải là con đường dễ dàng nhưng đã có người trong chúng ta, thậm chí hàng chục người, luôn trung thành với những nguyên tắc này từ rất nhiều năm và sống bằng sự thật.
Và như vậy, bạn không phải là người đầu tiên dấn bước vào con đường này, mà sẽ nhập cùng với dòng người trên đó. Con đường sẽ bớt gập ghềnh và ngắn hơn nếu tất cả chúng ta cùng liên kết và siết chặt đội ngũ! Nếu đội ngũ chúng ta lên đến hàng ngàn người, thì không điều gì mà ta không làm nổi. Và nếu đội ngũ chúng ta lên đến hàng vạn người, thậm chí đất nước ta sẽ thay đổi đến mức chúng ta còn không nhận ra được nữa!
Nếu chúng ta còn sợ hãi, thì xin hãy đừng kêu ca than vãn, rằng có ai đó đang đè nén không cho ta thở nữa — chẳng có ai khác ngoài chính chúng ta đang tự siết cổ mình! Khi đó, hãy cúi đầu xuống thấp hơn, và hãy nhẫn nhục đợi đến một ngày không xa, những nhà sinh học anh em sẽ giúp chúng ta những phương tiện có thể đọc được ý nghĩ con người và sẽ cải tạo lại hệ thống gien di truyền cho chúng ta!
Và chừng nào chúng ta còn sợ hãi, thì chúng ta còn thực sự nhỏ nhoi hèn mọn đến mức tuyệt vọng, và những lời thơ khinh miệt của Pushkin đích thực là dành cho chúng ta vậy:
“Tự do chi cho một bầy súc vật
Ách nặng và roi vọt là di sản truyền đời của chúng.”
12/2/1974
Nguyễn Đức Mậu gửi cho QC
_____________________
Chú thích của người dịch:
Samizdat (nghĩa đen là tự xuất bản): trào lưu văn học ngầm, xuất bản tự do, không được in mà chỉ tồn tại dưới dạng viết tay hoặc đánh máy, lưu hành trong giới trí thức Nga sau khi Khrushov lên nắm quyền, và mở ra thời kì tương đối tự do hơn trong văn nghệ. Các tác phẩm như Tầng đầu địa ngục của Solzhenitsyn, Bác sĩ Zhivago của Pasternak… là các ví dụ của trào lưu văn học này.
Bản dịch của Hoàng Trung Thông:
Là người gieo giống tự do trên đồng vắng
Tôi ra đi từ sáng sớm tinh mơ
Bàn tay tôi trong trẻo ngây thơ
Gieo mầm sống trên luống cày nô dịch
Nhưng tôi chỉ phí thời gian vô ích
Cả tư tưởng và việc làm thiện chí của tôi
Nhân danh thanh bình, cứ gặm cỏ đi thôi!
Tiếng vinh dự không thể làm tỉnh giấc
Tự do đâu cho một bầy súc vật?
Chúng chỉ cần cắt xẻo, cạo lông
Đời nối đời, di sản chúng nó chung
Là ách nặng đeo chuông và roi vọt







Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
