Nguyễn Quang Lập's Blog, page 104

January 10, 2013

Thư Phùng Quán gửi Tô Nhuận Vỹ

Phùng Quán- Người lính Vệ quốc quân

Phùng Quán- Người lính Vệ quốc quân


Lời dẫn của nhà văn Tô Nhuận Vỹ: Sự thay đổi, tiến bộ của Việt nam sau năm 1975 là to lớn và rõ rệt, đặc biệt trên lãnh vực đặc thù như Văn học, nếu nhìn lại những “vết sẹo” của một thời quá khứ để lại trên cơ thể nền Văn học, mà tiêu biểu là đối với nhà thơ Phùng Quán. Anh đã được “hồi sinh”: Hội nhà văn suy tôn anh, Nhà nước tặng Giải thưởng lớn về VHNT cho anh, quê hương lấy tên anh đặt cho một đoạn Quốc lộ chạy qua làng anh, bên cạnh tên thời thơ trẻ của Bác Hồ, một khu đất hoành tráng nơi làng quê anh xây khu lăng mộ vợ chồng anh, bạn bè và người hâm mộ lập Quỹ Phùng Quán để tặng thưởng những tác phẩm xuất sắc “viết theo khí phách Phùng Quán”…


Chỉ chừng đó,chắc anh đã mỉm cười nơi suối vàng và bạn bè, gia đình, người hâm mộ anh cũng đã sung sướng trước sự thay đổi phải nói là quá chừng lớn lao trong đời sống văn học.


Nhưng sau ngày được Quỹ Phùng Quán trao tặng thưởng cho tiểu thuyết VÙNG SÂU ( cùng tiểu thuyết XA HÀ NỘI của Nhất Lâm) ngay tại lăng mộ vợ chồng anh dịp Tết nguyên tiêu đầu năm 2012, tôi suy nghĩ nhiều về một bức thư anh gửi cho tôi cách nay 28 năm mà tôi vẫn giữ như một báu vật của riêng mình.Trong nghiên cứu VĂN HỌC VIỆT NAM : ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP , do Trung tâm William Joiner thuộc Đại học Massachusetts – Hoa kỳ tổ chức và năm 2007 đã cho công bố trên mạng Talawas, tôi có sử dụng một trích đoạn ngắn trong bức thư đó. Lập tức,năm đó và mấy năm sau, nhiều bạn đọc đã yêu cầu tôi công bố toàn bức thư này như một tư liệu quý về một nhà thơ lớn có cuộc đời Thơ trầm luân, độc đáo.


Bức thư anh gửi tôi khởi nguồn từ việc tôi đánh tiếng muốn phục hồi tên Phùng Quán trên tạp chí Sông Hương, khi tôi biết hóa ra lâu nay anh toàn dùng nhiều bút danh xa lạ, trong đó có bút danh Trần Vỹ Dạ ( cho đến năm 1987, khi anh đóng các bản dập thử tác phẩm DŨNG SĨ CHÉP CÒM thành tập để tặng cháu Tô Diệu Lan con thứ hai của tôi, anh vẫn dùng bút danh này và có điều cần các nhà nghiên cứu văn học lý giải nữa là vì sao tác phẩm này anh cho là “ bằng lòng nhất của đời bác”. Điều khiến tôi ngạc nhiên là anh không mặn mà với chuyện phục hồi tên Phùng Quán trên Sông Hương, có vẻ như tránh né nữa.Những ngày anh ở Huế năm 1984 ,vì kẹt nhiều việc, tôi ít có dịp chuyện trò, “cụng ly” với anh như nhiều bạn văn thơ khác. Khi có thể trao đổi kỹ thì anh đã đi Hà nội rồi. Nên tôi viết thư nói lại đề nghị và mong ước đó. Như trong thư anh trả lời tôi thì đây là lần thứ ba anh viết lại, nhưng nó “mệt như viết một cuốn sách” nên anh viết mãi vẫn chưa xong. Đến một ngày tôi ra Hà nội, đến “Chòi ngắm sóng” của anh, anh đưa luôn cho tôi bức thư còn dở dang, “Thôi,Vỹ đọc chừng đó cũng biết lòng dạ của mình rồi…”.


Sắp tới ngày kỵ Phùng Quán (ngày 01/02/2013), tôi nghĩ mình sẽ có lỗi lớn nếu một bức thư tâm huyết chừng ấy mà cứ “dấu nhẹm” làm của riêng, nên tôi thắp nén nhang thưa với anh cho phép tôi gửi tới mọi người. Chuyện cũ nên lắm nỗi đau lòng, nhưng cũng là dịp để thấy sự đổi thay trong Văn học đã có một quãng dài. Nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta thấy rõ hơn, da diết hơn, sững sờ hơn về một trái tim Phùng Quán đỏ rực dòng máu Cách mạng, hai chữ nghệ sĩ với anh không bao giờ tách rời hai chữ chiến sĩ, lúc nào cũng nghĩ đến Đất nước, đến Đảng cộng sản, cả những dòng thơ tình yêu cũng là nỗi niềm anh nói với Đảng. Trong nghiên cứu của mình, khi đọc những đoạn thư đứt ruột ấy,tôi không cầm được nước mắt và phải kêu lên : “Một người yêu Đảng hơn cả Đảng như thế mà tan xác pháo hơn ba mươi năm trời,ối giời ơi là giời!”.


Tô Nhuận Vỹ


IMG_2054


Thư Phùng Quán:


Hà nội đêm cuối thu 84


 Tô Nhuận Vỹ thân,


Tôi nhận được(thư) Vỹ, đã hai lần tôi viết thư trả lời, nhưng đọc lại tôi lại xé đi. Vì để trả lời một bức thư như vậy thật không đơn giản chút nào. Vì tôi nghĩ đó không chỉ thuần là một thư của tình bạn, mà còn là bức thư của một nhà văn gửi cho một nhà văn. Thư mà hoàn cảnh của người viết văn cần trả lời lại có quá phức tạp – rất không giống những nhà văn của bất cứ nước nào. Ở đây, tôi hoàn toàn không muốn đề cập đến tài năng (về tài năng tôi lúc nào cũng tự đánh giá mình là hầu như không có gì. Và những gì tôi đã làm được là do cuộc đời và tấm lòng chiến sĩ của tôi).


Nhưng nó đề cập tới những vấn đề đặt ra cho tất cả các nhà văn-nhà văn tài lẫn nhà văn tồi- đó là thái độ của nhà văn-trách nhiệm của nhà văn đối với nhân dân mình Đất nước mình-“một Đất nước quá chừng thiêng liêng nhưng cũng đang vô cùng cơ hàn”như Vỹ nói. Và có lẽ còn nhiều vấn đề khác nữa gắn liền với số phận các nhà văn của chủ nghĩa xã hội.


Vỹ ơi, trước tiên những điều Vỹ đã viết cho tôi về phương diện tình bạn mà nói, tôi hết sức vui mừng và cảm động. Nó càng khẳng định thêm niềm xác tín của tôi : trừ các cá tính ra, thì nghệ sĩ nói chung là những người thật sự tốt trong cuộc đời này.


Vỹ đừng nghĩ rằng tôi cho những lời Vỹ nói là đại ngôn. Chúng ta đang nói đến những vấn đề thật sự nghiêm trang, không dùng “đại ngôn” sao được?


Hai bức thư trước (tôi đã xé đi) vì trong đó chỉ nói những chuyện tình cảm, và chỉ trả lời qua loa một vài điều mà Vỹ đề cập đến. Vì nếu trả lời kỹ thì tôi thấy nó dài dòng phức tạp quá. Không phải là một bức thư mà cả một cuốn sách..Nó đòi hỏi tôi phải gắng sức như viết một cuốn tiểu thuyết vậy. Tôi không “đại ngôn” đâu Vỹ ạ. Thật tình, nó còn làm tôi mệt hơn cả viết một cuốn sách. Do đó mà tôi đã viết đi viết lại, rồi lại xé đi.


Bức thư tuy ngắn ngủi của Vỹ, nhưng nó hàm chứa biết bao thương yêu, lo lắng-một bức thư của tình bạn chân thành-và của một nhà văn chân chính. Tôi sẽ hóa thành một kẻ vô tâm, nếu tôi trả lời Vỹ qua loa cho xong chuyện. Tôi không xứng đáng với tấm lòng của Vỹ.


Tôi biết rất rõ Vỹ là người từng trải, sâu sắc-một nhà tiểu thuyết đúng nghĩa của nó. Nhưng giữa tôi và Vỹ lại có một chút ít khoảng cách về những sự kiện và năm tháng-và hơn nữa lại ít được chuyện trò,tiếp xúc. (Đó chính là điều tôi tiếc hơn cả trong thời gian tôi ở Huế vừa rồi).


Tôi chắc có một đôi điều Vỹ hiểu tôi qua “nghe người ta nói”.  “Người ta” đây là gồm cả báo chí và sách vở nữa..Vì có không ít sách vở nói đến những vấn đề của tôi và của một số anh em khác (đã được đưa vào sách giáo khoa về một giai đoạn văn học Việt nam).


30 năm đã trôi qua. Biết bao nhiêu sự kiện đã rêu phong. Và tôi cũng không còn được chính quyền của Đất nước (mà tôi đã hiến dâng cả tuổi trẻ và máu để góp phần nhỏ bé xây dựng và bảo vệ) coi tôi là nhà văn. Tôi đã bị tước quyền viết văn, từ khi tôi mới 24 tuổi đầu-đến nay tôi đã 54 tuổi rồi. Tôi chắc Vỹ hiểu còn hơn cả tôi, ở đất nước ta bị khai trừ vĩnh viễn khỏi Hội nhà văn, thì một nhà văn sẽ rơi vào một hoàn cảnh bi thảm như thế nào. Vì mặt trận văn nghệ là một trong những mặt trận được chuyên chính nghiêm ngặt nhất.


Tôi vẫn thường ví nhà văn là một cầu thủ đá bóng. Và cả Đất nước chỉ có một sân cỏ mà thôi – đó là Hội nhà văn Việt nam (1).Vỹ thử tưởng tượng một cầu thủ bị đuổi khỏi sân cỏ 30 năm-thì cầu thủ đó sẽ hóa thành người như thế nào?


Sau 30 năm, nếu cầu thủ đó không quên quả bóng đã là chuyện lạ. Vì nếu anh ta không còn đá được nữa thì lỗi đó thuộc về ai? Và nếu anh ta còn đá được một vài đường bóng vụng về thì những người đang ở trên sân cỏ có nên trách mắng anh ta không?


Vỹ thử tưởng tượng, một người mà công việc viết văn là niềm vui và lẽ sống độc nhất của đời người đó (không phải viết văn nghiệp dư như một thứ giải trí ngoài giờ lao động. Mà để phục vụ một “Đất nước thiêng liêng” như một chiến sĩ ngoài mặt trận) lại bị tước đi quyền viết văn, thì sẽ như thế nào?


Đã từ nhiều năm nay tôi sống mà như chết


Cơn khát thơ thiêu đốt trái tim tôi


Tôi đã đi rao cùng thiên hạ:


“Ai đổi thơ lấy máu!”


Không ai đổi…


Đó là chân dung đau buồn của tôi trong suốt 30 năm qua.


 Có điều, trước khi trở thành nhà văn, tôi là một chiến sĩ. Và chính phẩm cách chiến sĩ đã nâng đỡ tôi suốt cuộc hành trình bi thảm này.


Tôi muốn được Lịch sử Văn học Cánh mạng Việt nam xét xử công bằng. Tôi có thể chết trước khi xét xử nhưng không sao, tôi vẫn kiên nhẫn đợi chờ.


Vì tôi tin tôi sẽ hồi sinh”.


Và để cho sau này công việc xét xử được dễ dàng, tôi lúc này không muốn thêm gì và bớt gì  những điều tôi đã viết.


Trái tim dập nát của tôi


Vẫn đỏ thắm một khối tình


 Có thể tôi là người cũ kỹ và lỗi thời-“không hợp thời đại”, nhưng tôi vẫn quan niệm văn chương không phải là nghề nghiệp để sinh sống. Mà đó chính lý tưởng cộng sản chủ nghĩa được thể hiện bằng phương tiện ngôn từ, như Bác Hồ đã nói:


Văn nghệ là một mặt trận


Văn nghệ sĩ chính là chiến sĩ trên mặt trận đó.


Không một chiến sĩ chân chính nào coi là “nghề chiến sĩ”.


Theo tôi, người chiến sĩ cầm súng và cầm bút. “Với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội là bậc trung thần”. Tôi hoàn toàn tán đồng lời định nghĩa Trung thần của Mặc Tử :


“Văn quân đất Lỗ Dương bảo Mặc Tử: “có kẻ nói với ta rằng Trung thần là người bắt cúi thì cúi, bắt ngẩng thì ngẩng, để thì im, gọi thì thưa, như thế có cho là Trung thần được không?”. Mặc tử nói: “ Bắt cúi thì cúi, bắt ngẩng thì ngẩng như thế khác gì cái bóng? Để thì im, gọi thì thưa, như thế khác gì tiếng vang? Những kẻ như bóng, như vang thì còn được ích gì?”


( Mặc Tử Trích CỔ HỌC TINH HOA).


Tôi không bao giờ muốn làm một hạt bụi của Đảng, mà phải được làm một chiến sĩ của Đảng : “Văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận đó”.


Tôi muốn được đề nghị với Đảng những điều mà trực giác nghệ sĩ và lương tâm chiến sĩ thôi thúc tôi phải đề nghị, như 30 năm trước đây tôi đã đề nghị:


Trung ương Đảng ơi,


Lũ chuột mặt người chưa hết


Đảng cần lập đội quân trừ diệt


Có tôi!


Đi trong hàng ngũ tiên phong


(Chống tham ô lãng phí)


Ba mươi năm trước, lời đề nghị đó bị kết tội là lời báng bổ, chống Đảng, bôi đen chế độ. Và vì lời đề nghị đó cùng nhiều đề nghị khác, tôi đã chịu nhiều hình phạt : vĩnh viễn tước quyền viết văn và đi lao động cải tạo suốt 15 năm trời.


Tôi rất xúc động trước tình âu yếm của bạn bè, đặc biệt là với các anh chị ở Tạp chí Sông Hương muốn in thơ của tôi với cái tên Phùng Quán “Trở lại với làng văn”.


Nhưng tôi mong các bạn hiểu cho tôi.


Năm nay tôi đã 54 tuổi. Tôi đã đi gần trọn đời văn. Tôi không muốn thêm gì và bớt gì (PQ gạch đít thêm gì và bớt gì)những gì tôi đã làm, đã viết.Tôi không thuộc vào loại các nhà văn cùng thế hệ và tuổi tác với tôi, bằng mọi cách và mọi giá, đeo đẳng cho bằng được cái tên mình trên báo, trên sách. Hôm trước có phong trào ca Mao thì ca. Hôm sau có phong trào chửi Mao thì chửi…


Tôi tự biết mình tài năng tầm thường, nên tôi đã dồn toàn bộ tinh lực của cả đời người vào trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, dâng hiến cho nhân dân, Đất nước, Đảng : năm 1955: VƯỢT CÔN ĐẢO,TIẾNG HÁT TRÊN ĐỊA NGỤC CÔN ĐẢO,TÔI MUỐN MỜI ĐẾN TỔ QUỐC TÔI,LỜI MẸ DẶN,CHỐNG THAM Ô LÃNG PHÍ.


Tôi tự biết nhiên liệu tài năng đời tôi ít ỏi. Tôi đã dồn tất cả, đốt lên một lần để thành, dù là một ngọn lửa nhỏ. Tôi không muốn cả đời văn lúc nào cũng chỉ âm ỉ khói. Khói có đấy nhưng có ích cho ai?Và với tấm lòng can đảm của một chiến sĩ, tôi tình nguyện nhận nhiệm vụ xích hầu. Và tôi đã nhận đạn. Tôi đã ngã xuống nhưng lòng tôi thanh thản: Tôi đã đi một đường thẳng, không rẽ ngang rẽ tắt. Nhưng, không có hạnh phúc lớn lao nào bằng được chết vì nghĩa vụ.


Tôi là nhà văn bất tài nhưng chưa lúc nào thấy hổ thẹn và hối hận về nhân cách của mình. Thật ra, tôi đã trả giá quá đắt cho thơ ca. Nhưng ngay sự trả giá đó tôi cũng coi là hạnh phúc.


Trong thư, Vỹ có nói tôi đi “như người chạy trốn”, tôi “ngượng ngùng”. Điều này tôi phải nói ngay : tôi cũng có nhiều tật xấu như bất kỳ ai khác, nhưng tôi chưa bao giờ hèn nhát. Tôi chưa bao giờ chạy trốn và ngượng ngùng.


Cả cuộc đời thơ của tôi bảo đảm cho tôi lời nói đó.


 Tôi đặt toàn bộ niềm xác tín của tôi vào sự công bằng của nhân dân và lịch sử:


Tên Hoàng văn Hoan đã bị Quốc hội kết án tử hình về tội phản bội Tổ quốc và liệt hắn vào loại Trần ích Tắc của thời này.


Hắn đã trốn khỏi Đất nước


Còn tôi vẫn sống ở đây


Kẻ kết tội tôi là phản bội,ba mươi năm sau chính hắn bị nhân dân kết tội là phản bội và có án tích hẳn hoi.


Tôi coi như thế là đủ.


Ba mươi năm nay tôi bị dìm trong bùn nhơ lăng mạ


Nhưng tôi tin chắc


Cuối cùng tôi sẽ được Đất nước nhận ra,


Trái tim Thơ trong sạch và gương mặt Thơ bi thiết của tôi


Trái tim tôi như một trái cây bị dập nát.


……………..


Nếu không được ngồi thì tôi xin đứng


Cùng với cây chổi em dựng ở góc nhà.


Nếu không được thở


Thì tôi xin nín thở


Như cái ngày còn đi chăn trâu cắt cỏ


Tôi xuýt chết dưới đáy giếng làng


Vì mãi lặn mò con cá bống thần cô Tấm bỏ quên…


 


Em giận dữ la lên:


- Đứng trong xó nhà cũng không được đứng!


- Thì tôi xin ra đứng trước hiên…


- Đứng trước hiên cũng không được đứng!


- Thì tôi xin ra đứng ngoài ngõ…


- Đứng ngoài ngõ cũng không được đứng!


- Thì tôi xin ra đứng đầu đường…


Tôi nhìn vào khung cửa nhà em


Môi rát bỏng những lời yêu thương.


- Đứng đầu đường cũng không được đứng!


Lời yêu thương cũng không được nói!


Thì tôi xin chết!


Nhưng


Tôi sẽ không nói lời vĩnh biệt


Vì tôi tin tôi sẽ hồi sinh.


Dù hỏa táng


Hay chôn xuống đất.


Trái tim dập nát của tôi


Vẫn đỏ thắm một khối tình.


(Trích 13 bài thơ tình làm ở Huế mùa hè 84)


*


* *


Trong suốt 30 năm qua,trong sách giáo khoa (dạy cho học sinh của cả nước) trên báo chí,trong sách vở…tôi bị coi là nhà văn phản bội, chống Đảng, chống chế độ, là một tên:


Nó ghét kẻ thầy hiền bạn tốt


 Nó yêu quân gái điếm cao bồi


Ghét những người đáng yêu của thiên hạ


Yêu những người đáng ghét của muôn người.


Quen học thói gà đồng mèo mả


Hóa ra thân chó mái chim mồi”


(Lời Mẹ Dặn có phải là bài thơ chân thật-trích thơ Hoàng văn Hoan đăng báo Nhân dân ngày 24.11.1957, ký tên Trúc Chi. Sau này in lại thành tập Thơ Hoàng Văn Hoan do Nhà xuất bản Việt Bắc in năm 1975. Hoàng Văn Hoan lúc này là Ủy viên Bộ Chính Trị).


Còn có lời thóa mạ, lăng nhục nào nghiêm trọng hơn đối với môt nhà văn? Và như lời giới thiệu ở đầu tập thơ của Nhà xuất bản: “Đặc biệt là mấy bài viết cho báo Nhân Dân trong thời gian 1957-1958 với những bút danh khác nhau, nếu nói văn thơ là vũ khí thì đây chính là những quả pháo đạn đang lao về phía boong ke tư tưởng phi cách mạng trên mặt trận văn nghệ”.


Kết thúc lớp học đấu tranh “Nhân văn,Giai phẩm” tại Thái Hà Ấp-Lúc ấy anh Tố Hữu là Bí thư Học ủy. Hoàng văn Hoan thay mặt Bộ Chính trị Trung ương Đảng mang đến tặng lớp học một bó hoa lay ơn lớn, biểu dương sự thắng lợi rực rỡ của lớp học.


 Xét một nhà văn tốt hay xấu, cách mạng hay phản động , phải xét bằng chính tác phảm của nhà văn đó.


Tôi đã bị coi là nhà văn chống Đảng, chống chế độ, bị tước vĩnh viễn quyền viết văn, vì hai tác phẩm: Lời Mẹ DặnChống Tham Ô Lãng Phí. Đã ba mươi năm rồi, tôi muốn chép lại đây cả 2 bài thơ bị “tử hình” để Vỹ đọc.


Vỹ ơi, Vỹ coi “Vượt Côn đảo” và “Những anh hùng Xê-vát-tô-pôn” là tác phẩm “cường tráng” của tôi, nhưng với tôi, hai bài thơ này mới là tác phẩm quan trọng và chủ yếu của đời tôi. Đó là chân dung toàn vẹn của tôi: một nhà văn tận trung với Nước,với Đảng,với Dân.


Ngày đó, khi tác phẩm bị nguyền rủa, bị phản đối, la ó, tôi đã liều lĩnh nói : “Hai mươi năm nữa Đảng sẽ hiểu tôi”. Quả nhiên, hai mươi năm sau, trên báo Nhân Dân đã phát động viết chống lại sự dối trá. “Làm ăn phải thật thà”. Còn tệ quan liêu, lãng phí, và ăn cắp thì thôi không cần phải nói nữa.


Ngày đó tôi mới 24 tuổi đầu,và đã là một nhà văn được chế độ ưu đãi.


Nhưng với trực giác của một nghệ sĩ, và tấm lòng can đảm của một chiến sĩ, tôi đã kêu to lên, báo trước niềm hiểm họa to lớn đang rình phục nhân dân và Đất nước. Trong lịch sử thơ ca cách mạng của Đất nước, tôi là người độc nhất kêu lên trong thơ mình: “Trung ương Đảng ơi!”


Đó là tiếng kêu bi thiết của nghệ sĩ, và một chiến sĩ, đặt toàn bộ cuộc đời và lòng tin vào Đảng vào sự nghiệp lớn lao mà Đảng đang xây dựng.


Và trước tấm lòng đó, tôi đã bị liệt vào hạng :yêu “gái điếm, cao bồi, gà đồng, mèo mả”


Làm như vậy, tôi biết có nguy hiểm không? Tôi quá biết. Kinh nghiệm chiến sĩ đã dạy tôi rằng: “ những chiến sĩ tình nguyện làm nhiệm vụ xích hầu là những người biết chắc rằng mình sẽ sẵn sàng nhận đạn”. Nhưng tôi với tư cách là chiến sĩ, tôi luôn luôn tự thấy mình là người có lỗi: Tôi chưa làm tròn nghĩa vụ của “bậc Trung thần” đối với Tổ quốc, nhân dân và Đảng.


Tôi chưa có đủ lòng kiên nhẫn vô tận như người họ Hòa nước Sở xưa.


“ Nước Sở có người họ Hòa, được một hòn ngọc ở trong núi, đem dâng vua Lệ Vương. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói : “Đá, không phải ngọc”. Vua cho người họ Hòa nói dối, sai chặt chân trái.


Đến khi vua Vũ Vương nối ngôi, người họ Hòa lại đem ngọc ấy dâng. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói: “Đá, không phải ngọc”. Vua lại cho họ Hòa nói dối, sai chặt nốt chân phải. Đến khi vua Văn Vương lên ngôi, người họ Hòa ôm hòn ngọc, khóc ở chân núi Sở-sơn suốt ba ngày ba đêm đến chảy máu mắt ra.Vua thấy thế sai người đến hỏi. Người họ Hòa thưa: “ Tôi khóc không phải thương cho hai chân tôi bị chặt, chỉ thương vì nỗi ngọc mà cho là đá, nói thật mà cho là nói dối”. Vua bèn cho người xem lại cho rõ kỹ, thì quả nhiên là ngọc thật, mới đặt tên “Ngọc bích họ Hòa”.


(Hàn Phi Tử)


Mỗi nghệ sĩ chân chính đều có một “Ngọc bích họ Hòa” của mình để dâng hiến cho Đất nước và Nhân dân.


Nhưng tôi vô cùng hối hận đã không đủ lòng tận trung như người họ Hòa để dâng “ngọc bích” của mình lên Đảng, cho đến lúc được nhận ra không phải đá mà ngọc thật.


Ba mươi năm trước, nếu tôi đủ lòng tận trung, dù bị chặt chân, khóc đến chảy máu mắt, vẫn cứ thiết tha dâng lời đề nghị :


Cần lập đội quân trừ diệt


Lũ chuột mặt người


Cho đến lúc lời đề nghị được chấp nhận, thì tôi tin rằng sẽ góp phần hạn chế nạn ăn cắp của công.


Nhà văn Tô Nhuận Vĩ gửi cho Quê choa


 ——————-


(1) Tháng 3/1958 Hội nhà văn Việt nam quyết định khai trừ tôi vĩnh viễn khỏi Hội nhà văn Việt nam.




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 10, 2013 23:51

Nhà văn… nhà hàng

Bọ Lập và Đỗ Trung Quân trước nhà hàng Ziều đỏ

Bọ Lập và Đỗ Trung Quân trước nhà hàng Ziều đỏ


Mình thường không thích đến nhậu ở các nhà hàng của các văn nghệ sĩ. Đến đấy thường gặp người quen, nội mỗi chuyện chào hỏi cũng đủ mệt. Nhưng như người ta nói ghét của nào trời trao của ấy, muốn tránh cũng chẳng được. Bạn vào đấy ngồi rồi hú mình, vô lẽ vì cái quán ấy là của văn nghệ sĩ mà mình không tới. Vả, nhiều quán là anh em bạn bè thân thiết nhất thiết phải tới để ủng hộ anh em, chẳng hy vọng có mặt mình quán có thêm khách nhưng tới để anh em chúng nó vui.


Mình nhớ hồi trước có lần ngồi nhậu với Trịnh Công Sơn, được vài ly anh liền nhổm dậy, nói mấy ông ngồi đây nha, tôi viếng qua nhà hàng mấy đứa em chút rồi tôi quay lại ngay. Cuối buổi anh quay lại đã say mềm, nói khổ rứa đó, mấy đứa em mới mở nhà hàng mình phải tới đó ngồi chào khách. Đi quán này không đi quán kia em út chúng nó trách, thành thử phải đi hết cả ba quán. Một quán vài ba khách, năm bảy khách, đi hết ba nhà hàng đã cả lít vào bụng rồi. Kiểu này e rồi mình cũng chết non.


Cái khổ nhất của các quán văn nghệ sĩ là chỗ đó, vì cái name mà mở nhà hàng, hy vọng vì cái name mà đông khách, rõ ràng đông khách thật nhưng cũng vì cái name mà chết khổ. Bỗng nhiên mình biến thành cái hũ rượu để thiên hạ đổ rượu vào, hi hi thế có khổ không.


Mình nhớ đâu như năm 1996, Nguyễn Huy Thiệp kết hợp với ai đó mở nhà hàng Hoa ban ở bên kia cầu mới ( chả nhớ là cầu gì) phía Gia Lâm. Thiệp thì tiền bạc có đâu, chắc là góp vốn bằng cái name. Mấy ngày đầu nhà hàng đông khách nghìn nghịt, ngồi chật kín cả nhà sàn, tràn cả xuống dưới đất. Thiệp không biết uống rượu nhưng ngày nào cũng phải đến, ngồi bàn này mấy phút lại nhảy sang bàn kia ngồi mấy phút, đang ngồi bàn này người của bàn kia tới kéo cổ áo lại phải đứng lên, đang nói cười với người này người kia đến bắt tay lại phải nói cười với người kia, loanh quanh như thế từ sáng đến tối, mệt bã người.


Khách đến tìm Thiệp để bắt tay để chào hỏi để chụp ảnh không nói làm gì, có làm phiền cũng chỉ dăm bảy phút, sợ nhất là mấy ông khách muốn chứng tỏ, thích lấy le với người khác. Giữa cái quán ồn như vỡ chợ mấy ông cứ nhất định nói chuyện văn chương cho kì được, khen truyện này mấy câu chê truyện kia mấy câu ra cái vẻ ta đây nếu không thầy Thiệp cũng đàn anh của Thiệp. Lắm ông bốc máy gọi vợ gọi con, nói em à.. con à… Em nói chuyện với thằng Thiệp bạn anh nhé… con nói chuyện với chú Thiệp bạn bố nhé. Nếu là mình thì mình chối phắt ngay lập tức nhưng Thiệp không chối được, lại cầm máy à ơi vài ba câu nhạt nhẽo, chán mớ đời.


Lắm hôm mình thấy bộ mặt thất thần của Thiệp mà thương, hết người này kéo áo người kia túm tay, nó nói cười ngơ ngẩn, tuồng như nó chẳng biết cười gì nói gì. Mình vỗ vai nó, nói đã khiếp nhà hàng chưa. Nó lắc đầu cười cái hậc, nói sai lầm sai lầm.


May nhà hàng Hoa ban chơi độc, ra giá cực cao, món nào món nấy đắt điếc tai, hình như họ tưởng thiên hạ vô đây nhậu là vì có Nguyễn Huy Thiệp, thấy được Nguyễn Huy Thiệp là sung sướng lắm rồi, đắt rẻ không xá. Nguyễn Huy Thiệp có truyện ngắn Kiếm sắc, ít lâu cái quán Hoa ban có tên là quán Kiếm sắc, thiên hạ đến quán ít dần đi, Thiệp cũng mệt mỏi bỏ rơi cái quán. Quán Hoa ban đóng cửa từ đó. Mình nói may là vì nếu Hoa ban còn đến bây giờ và Thiệp vẫn đánh đu với cái quán thì rất có thể nó đã bị hóa vàng từ lâu rồi.


Mình cũng đã từng mở nhà hàng. Hồi làm báo Cửa Việt ở Quảng Trị, đói quá mình mới làm cái nhà sàn trước cửa tòa soạn, gọi là Diêu bông quán, chuyên thịt cầy bảy món, giúp cho anh em trong tòa soạn có thêm tiền ăn trưa. Mở được ba tháng, khách đông phết, chị Dạ ( Lâm Mỹ Dạ) từ Huế hớt hãi chạy ra, nói em ơi không được mô không được mô. Mình hỏi sao, chị Dạ nói thầy Chiêm nói đất ấy còn nhiều xương cốt, mở quán thịt chó dễ hại đến gia chủ.


Thầy Chiêm ở Đà Lạt là thấy bói tử vi nổi tiếng miền Nam, nghe nói ông Thiệu muốn đi đâu làm gì nhất nhất đều vời thầy vào bắt quẻ. Thầy rất thân anh Nguyễn Quang Hà, anh Hà kể nhiều chuyện bói toán của thầy làm mình phục sát đất. Mình là thằng vô thần chẳng coi bói toán là cái gì nhưng nghe anh Hà kể thì hãi lắm, có dịp mình sẽ kể sau.


Nghe chị Dạ yêu cầu khẩn thiết quá, dù rất tiếc nhưng mình đành phải dẹp bỏ món thịt cầy bảy món, chuyển sang quán nhậu bình thường. Từ khi bỏ món thịt cầy chẳng ma nào đến nữa, được một hai tháng nữa thì dẹp. Mấy năm sau anh Tường ( Hoàng Phủ Ngọc Tường, chủ bút tờ Cửa Việt) bị tai biến, liệt cứng toàn thân đến nay chỉ ngồi một chỗ, mình bị tai nạn chấn thương sọ não liệt nửa người. Nhớ đến chuyện chị Dạ nhắc mình thấy sợ và ân hận quá.


Không rõ còn nhà văn nào mở quán nữa không, riêng mình thấy có hai quán nhậu nhà văn tồn tại được rất lâu, đến bây giờ vẫn còn đông khách, đó là quán Đo đo của Nguyễn Nhật Ánh và quán Ruốc của Mường Mán. Cả hai quán đều là quán bình dân, các món nhậu là đặc sản miền Trung vừa ngon vừa rẻ. Quán lại không ồn ào, khách đông mấy cũng không ồn ào. Dân có chữ thường hay chọn quán này, các em chân dài cũng hay đến. Chân dài hay viếng qua thế nào đại gia cũng mò tới. Đại gia bây giờ chỉ thích mấy món tép xào, bánh tráng đập, cá lẹp kẹp lá mưng vậy thôi, các món cao sang họ đã ngấy đến tận cổ, thành thử hai quán này đâm trúng mánh, hi hi.


Hai ông chủ quán rất ít khi xuất hiện. Mường Mán thấy người quen tới bắt tay rồi lui ngay, ai thân quen lắm mới ngồi lại một chút, chỉ ngồi một chỗ chứ không chạy lăng xăng bàn này bàn nọ. Nguyễn Nhật Ánh thì định ra bàn số 13, cứ mỗi tuần một lần vào tối thứ tư lại mò đến tiếp bạn bè. Ánh có quầy sách Kính vạn hoa cạnh nhà hàng, các cháu cứ đúng tối thứ tư là đến mua sách và xin chữ kí của Ánh, rất tiện. Nhà hàng Đo đo đã nuôi cả nhà Nguyễn Nhật Ánh gần chục năm nay rồi, thật sướng.


Nhưng mấy ai may mắn được như Mường Mán và Nguyễn Nhật Ánh. Có thể nói mười người mở nhà hàng may ra được một, hai người trụ lại được. Dân nghệ sĩ chuyện buôn bán lại càng ú ớ, có đến vài trăm người mở nhà hàng, rốt lại chỉ được vài ba người, năm bảy người trụ lại được.


Bây giờ nói chuyện nhà hàng Ziều đỏ của Đỗ Trung Quân. Gọi là nhà hàng của Đỗ Trung Quân thực ra giống Nguyễn Huy Thiệp nó cũng chỉ góp vốn bằng cái name. Cu Fil vốn kinh doanh dược phẩm một hôm rủ Quân mở nhà hàng, Quân rửng mỡ lên, nói ừ làm ông nhà thơ chán rồi, thử làm ông doanh nhân cái chơi. Quân và cu Fil bỏ hết việc lao vào mở cái nhà hàng Ziều đỏ thật hoành tráng. Hôm khai trương đông nghìn nghịt, Quân sướng rêm, nói cứ thế này có khi mình thành triệu phú he he.


He he được chục hôm, sau đó thì hè hè, cuối cùng thì hẹ hẹ. Cả cu Fil và Quân đều mệt bở hơi tai. Tiền lời chưa thấy đâu, cu Fil thì huy động cả nhà trực suốt ngày đêm, không làm ăn gì được cả. Quân thì kiệt sức vì phải hầu khách ngày ba buổi. Cũng giống Nguyễn Huy Thiệp nó nhảy choi choi bàn này sang bàn khác, từ lầu 1 lên lầu 2, từ sáng sớm đến khuya.


Ngồi chưa nóng chỗ bàn này đã nghe bàn kia réo Quân đâu. Vừa lên lầu 2 ngồi chưa kịp thở đã nghe lầu 1 réo Quân đâu. Xuống lầu 1 vừa nâng ly bia lầu 2 đã réo Quân đâu. Mệt quá nhảy về nhà ngủ chút lấy sức, lại nghe điện thoại réo Quân đâu. Đúng là voi cũng phải đổ đừng nói cái ông 37 cân hơi cả áo quần dày dép như Đỗ Trung Quân.


Được ba tháng Quân đổ bệnh, bây giờ chỉ còn 34 cân hơi, dắt cái xe máy không nổi, mỗi ngày phải truyền một hai bình đạm. Anh em thân thiết đều hò hét nó, nói dẹp quán ngay dẹp quán ngay, thà chết ở sa trường chớ có chết nơi quán nhậu. Cu Fil thấy thế hãi quá, nó đóng cửa Ziều đỏ cái rụp.


Mình đến thăm Quân. Nó đang truyền đạm, mắt lờ đờ miệng phều phào, nói tôi phát hiện ra chân lý rồi… nhà thơ không phải nhà hàng… không phải đâu, đừng có mà tưởng bở.


Hi hi.


NQL



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 10, 2013 20:00

Lan man về sự kiện Nguyễn Bá Thanh

Huỳnh Ngọc Chênh


nbthanh-noi-ve-blog-300x175( Đăng trọn bài, Kì 1+ kì 2)


Nhiều người hỏi tôi tại sao có quen biết ông Nguyễn Bá Thanh và sự kiện ông ấy ra Hà Nội đang gây ra dư luận xôn xao lại không có một chữ bình luận nào. Thấy mọi người đã viết quá nhiều nên định không viết gì thêm, nhưng bạn bè thúc ép quá nên cũng cố gắng viết đôi lời lan man về nhân vật đồng hương đang nổi như cồn nầy.

Khi viết về nhân vật nầy, hay bất kỳ nhân vật nào, thì phải biết đứng từ hệ quy chiếu nào, không thể viết bừa khi chưa xác định được mình đang đứng ở đâu.


Từ sau 75, tôi sống cùng quê Hòa Vang, cùng thời với Nguyễn Bá Thanh khá lâu nhưng lại không hề biết đến ông ta. Mãi về sau nầy khi vào Sài Gòn làm báo rồi được cử ra Hà Nội theo dõi viết về quốc hội thì  mới quen biết ông ta- chưa thân thiết lắm nhưng cũng có thể thỉnh thoảng vào phòng ông ta ở nhà khách quốc hội, “trấn lột” một cây ba số hoặc một chai rượu gì đó nhằm sưởi ấm lòng những ngày đông rét giá xa nhà ở Hà Nội.

Với cá nhân tôi, ông là người tốt. Ông có giúp đỡ tôi đôi việc khi tôi nhờ vả. Giúp tận tình. Một lần thầy giáo cũ của tôi là thầy PTK có tranh chấp nhà đất gì đó với nhà bên cạnh mà bị chính quyền quận xử ép vì có tư ý với bên kia, thầy nhờ tôi và tôi đã điện cho ông, lúc đó là chủ tịch thành phố. Ông đã giúp đỡ nhiệt tình, nghe nói đã bỏ cả thời gian xuống tận nơi thầy PTK ở để xem xét giải quyết (nhưng chuyện tranh chấp ấy có lẽ hơi phức tạp, tuy chính quyền quận hết o ép nhưng cho đến bây giờ vẫn chưa giải quyết xong)…

Tóm lại, ông là người tốt với tôi, tôi biết ơn ông. Nhưng đối với quê hương xã Hòa Xuân của tôi, ông chưa tốt lắm và nhất là đối với làng đạo Cồn Dầu bên cạnh làng tôi, ông bị dân ở đây kết án là người tàn nhẫn.

Xã Hòa Xuân của tôi nằm sát cạnh Đà Nẵng nhưng lại bị chia cách bởi con sông Cẩm Lệ nên rất là quê mùa và khốn khó trăm bề. Dân quê tôi từ bao đời luôn mơ ước có một chiếc cầu bắt qua bến Đò Xu, nối liền với Đà Nẵng để đổi đời. Sau gần 30 năm hòa bình, cho mãi đến những năm đầu của thế kỷ 21 thì ước mơ cỏn con ấy mới chuẩn bị thành hiện thực. Cây cầu bắt qua Đò Xu được triển khai thi công. Cọc được đóng qua sông, chuẩn bị đúc đà và lao dầm. Dân quê tôi hân hoan mừng rỡ, mong ngóng từng ngày để chờ lúc cây cầu vươn ra nối đôi bờ. Thế nhưng sau đó chẳng hiểu vì sao, công trình được lệnh của ông Thanh cho ngừng lại, cọc đóng xuống rồi lại cho nhổ lên. Dân cả xã bàng hoàng thất vọng và không biết chuyện gì đã xảy ra. Mãi đến về sau nầy thì dân quê tôi mới vỡ lẽ ra. Vì có một nhóm tư sản đỏ nào đó đề nghị quy hoạch toàn xã Hòa Xuân thành một khu du lịch sinh thái nên phải ngưng ngay chuyện làm cầu để trả tiền đền bù thấp và để dễ giải tỏa dân. Sau đó thì toàn xã nhận tiền đền bù với giá rẻ mạt rồi chuẩn bị dọn đi. Lúc ấy bản vẽ của cây cầu khác bắt qua xã Hòa Xuân đã nằm trên bàn ông Thanh. Khi xe ủi bắt đầu đến ủi nhà dân, thì cây cầu cũng bắt đầu được thi công và chỉ sau một năm thì hoàn thành. Người dân Hòa Xuân nhìn chiếc cầu Hòa Xuân to đẹp bắt qua sông Cẩm Lệ, nối liền quê nghèo của mình với thành phố Đà Nẵng mà ngậm ngùi cay đắng. Té ra cây cầu được xây lên không phải để phục vụ người dân nghèo khó bao đời theo cách mạng ở đây mà để phục vụ cho dự án gọi là du lịch sinh thái, nghĩa là phục vụ cho nhóm lợi ích trùm tư sản đỏ. Đền bù người dân chỉ vài chục ngàn một mét vuông, thế mà chỉ mới phân lô trên bản vẽ, các ông trùm này đã rao bán mỗi mét vuông đến hơn 10 triệu đồng. Người dân mất nhà và mất ruộng quê tôi nay thất nghiệp đã chửi đổng lên: Khu du lịch sinh thái cái đếch họ, cũng chỉ là một tuồng “thành kính phân lô” để chia chác lợi khủng.

Trong khi dân các làng khác đành lòng chịu nhận tiền đền bù rẻ mạt để dỡ nhà đi thì dân làng Cồn Dầu cương quyết không chịu di dời. Nhưng rồi bị o ép quá, họ cũng chấp nhận di dời nhưng yêu cầu được giữ lại nhà thờ đã xây dựng từ mấy trăm năm và nghĩa trang của làng đạo cũng có từ khi lập làng. Chính quyền không đồng ý, dẫn đến việc đàn áp bắt bớ … như dư luận đã biết.

Ông Thanh cày trắng cả làng tôi trong đó có nhà cửa, ruộng vườn của tổ tiên giòng họ tôi khai phá từ hồi theo Nguyễn Hoàng vào Nam lập nghiệp, tiếp nối hơn 11 đời để lại, làm tôi không khỏi đau lòng thắt ruột mỗi khi về thăm quê. Nhưng tôi cố nuốt đau vào trong vì chuyện chung ở khắp mọi nơi chứ không chỉ riêng quê tôi và không phải chỉ riêng nhà tôi. Tuy nhiên việc cày trắng làng đạo Cồn Dầu bên cạnh làng tôi thì tôi thấy xót xa và mất mát cho cái chung lớn quá không thể vì cảm tình riêng với ông mà không lên tiếng ra đây.

Dân Quảng Nam, phần lớn rất kiên cường, ngang bướng rồi lại cực đoan và thủ cựu nên dù có điều kiện tiếp xúc với phương Tây rất sớm và rất thuận lợi thông qua Cửa Đại- Hội An nhưng người Quảng Nam không dễ dàng gì nghe theo lời các ông cố Tây bỏ đạo ông bà để vào đạo Công giáo như ở một số tỉnh phía Bắc. Cả một vùng đất Quảng Nam rộng lớn kéo dài từ đèo Hải Vân vào đến Quảng Ngãi mà chỉ có vỏn vẹn ba làng theo đạo. Đó là các làng Trà Kiệu, Hòa Sơn và Cồn Dầu.(một số xóm đạo ở Đà Nẵng là phần lớn do giáo dân từ miền Bắc di cư vào lập nên sau 1954)

Ba làng đó phải được xem như là chứng tích giao lưu văn hóa giữa phương Tây và Việt Nam từ rất xưa cần phải được bảo tồn. Do vậy ngôi làng đạo Cồn Dầu quý hiếm ấy cần phải được giữ lại và chỉnh trang cho đẹp lên chứ không phải bị cày trắng một cách thô bạo và tàn nhẫn. Rất tiếc ông Thanh, hoặc chưa đủ tầm văn hóa để nghĩ ra điều này hoặc là do sự thúc bách từ lòng tham vô độ của đám tư sản đỏ mà ông Thanh phải chiều theo…

Nhưng dù sao, ông là người đồng hương quen biết cũ. Do vậy hôm nay nghe tin ông ra Hà Nội nắm giữ chức tước quan trọng, có thể vào được BCT, đường quan lộ tiếp tục hanh thông thăng tiến…tôi rất mừng cho ông và chúc ông được thuận buồm xuôi gió, công việc tốt đẹp, có thêm được người hầu kẻ hạ, thêm được nhà cao cửa rộng ở Hà Nội như các quan lớn TW khác để nở mày nở mặt với tổ tiên, với bà con, bạn bè và đồng hương.

Ngày xưa, một đồng hương của tôi là ngài Hoàng Diệu đã ra làm tổng đốc Hà Nội và đã để lại tiếng thơm với sử xanh nhờ cai trị dân thanh liêm và kiên cường chống giặc dù công cuộc đánh giặc giữ nước của ông thất bại. Ông là quan văn tay yếu chân mềm, triều đình Huế lại cử ông làm tổng đốc giữa tình thế dầu sôi lửa bỏng, nắm trong tay cả một lực lượng chính quy đông đúc để trấn thành nhưng lại bị ảnh hưởng tư tưởng đầu hàng của triều đình, nên giặc Pháp kéo ra chỉ một nhúm vài trăm thằng, bắn vài phát đại bác, quân ông đã bỏ chạy tán loạn, chỉ còn lại một mình nên ông phải treo cổ tuẫn tiết. Trong khi đó, chỉ với một toán quân ô hơp từ miền núi kéo về, Lưu Vĩnh Phúc và Hoàng Tá Viêm đã đánh một trận tiêu diệt gọn đoàn quân vừa chiến thắng của giặc Pháp, trong đó có cả chủ tướng Henry Rivierre.(Điều nầy cho thấy quân Pháp hồi đó không ghê gướm lắm, nhưng triều đình Huế quá khiếp nhược, chỉ lo tính chuyện đầu hàng để tồn tại, làm tiêu tán tinh thần chiến đấu của quân đội- “Triều đình” bây giờ nhớ lấy đó làm gương) (Wikipedia)

Một đồng hương nữa của tôi là ông Nguyễn Tường Tiếp, ra Bắc làm quan không lập nên danh phận gì nhưng ông để lại những người cháu nội hết sức tài hoa là các nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam… đóng góp rất lớn vào sự phát triển của nền văn học mới, để lại tiếng thơm cho muôn đời.

Sau năm 1945, một vài đồng hương khác của tôi có ra trung ương làm lớn nhưng cũng chỉ là những cái bóng mờ. Cụ Huỳnh Thúc Kháng tiếng tăm lừng lẫy là do có được từ thời hoạt động trong phong trào Duy Tân với các cụ Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp…rồi bị đày đi Côn Đảo, chứ không phải có được trong giai đoạn ra tham gia chính phủ Hồ Chí Minh. Những ông BCT sau nầy chẳng thấy ai có đóng góp gì lớn để lưu dấu ấn kể cả ông Võ Chí Công làm đến chức chủ tịch nước. Có một ông rất sắc sảo, ra Hà Nội đóng góp vào sự nghiệp đổi mới thời Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh nhưng rồi lại bị cho về vườn nửa chừng do sự nghiệp đổi mới bị chựng lại sau khi ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười đi dự hội nghị quy phục Thành Đô. Đó là ông Hồ Nghinh. Ông là một người cộng sản rất nho học và uyên bác. Ông mà tiếp tục được thì hy vọng sẽ làm rạng danh cho đất Quảng. Nhưng đấy là giả dụ vậy thôi vì những người trí thức uyên bác như ông hay như cụ Huỳnh, dễ gì tồn tại được trong hệ thống độc đảng này.

Bây giờ thì đồng hương Nguyễn Bá Thanh ra, chưa biết ra sao? Chưa biết ra sao, nhưng trước khi ra đã tạo nên dư luận xôn xao từ trong nước ra đến nước ngoài với nhiều luồng ý kiến khác nhau như vậy thì cũng tự hào lắm rồi, hiếm có người như ông.

Nhưng đó là suy nghĩ lan man về ông Thanh trên hệ quy chiếu cá nhân riêng tư và ở góc độ đồng hương cục bộ của tôi.Cần phải nhìn ông Thanh ở hai hệ quy chiếu khác nghiêm túc hơn. Hệ quy chiếu từ bên trong hệ thống và hệ quy chiếu từ bên ngoài hệ thống.


Nhìn từ trong hệ thống, ông Thanh là một người làm chính trị có năng khiếu bẩm sinh, là một sản phẩm đích thực và trọn vẹn do chế độ nầy tạo thành với cái mác “100% made in by Đảng” .Ông thuộc thế hệ con cái của gia đình có công với cách mạng, được gởi ra miền Bắc học hành. Ông tốt nghiệp kỹ sư nông nghiệp, sau 75 về lại quê nhà, bắt đầu sự nghiệp chính trị bằng chức chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, rồi từ đó từng bước đi lên cho đến cương vị ngày nay. Nếu ông không có bản lĩnh chính trị, không giỏi đấu đá nội bộ thì e khó tồn tại ở cái ghế chủ tịch thành phố Đà Nẵng chứ đừng nói đến chuyện đi lên như ngày nay. Nhưng cũng vì những chuyện đấu đá quá mạnh tay với các đồng chí của mình mà ông đã chậm một bước lên trung ương.


Ông là một người hoạt động thực tiễn năng nổ, dám nói, dám làm, vừa có tính quyết đoán lại vừa biết cách thuyết phục mọi người nên đã làm thành công nhiều việc gây tiếng vang lớn. Chủ trương đổi đất lấy hạ tầng không phải mới mẻ, nhiều nơi đã làm rồi, được thì ít mất thì nhiều, nhưng khi tới tay ông, ông đã làm cho Đà Nẵng nhanh chóng bật lên để từ một thành phố bé nhỏ đìu hiu trở thành một thành phố bề thế và xinh đẹp. Ông vượt qua các thách thức là nhờ phần lớn vào thành công này bên cạnh tài năng đấu đá của ông.

Vì làm từng đoạn, tùy vào tình hình tài chính, nên quy hoạch Đà Nẵng có những khiếm khuyết nhất định.  Nhưng đứng trên toàn cục mà nói thì làm được như vậy là khá lắm rồi. Khác Nguyễn Bá Thanh thì cũng khó có ai làm được và làm nhanh gọn dứt điểm như thế. Không đến nỗi như giáo sư Phạm Toàn nói là “không có Thanh thì Đà Nẵng còn đẹp hơn”.

Tuy nhiên vì thành phố đi lên nhờ vào đất đai là chính nên bây giờ khi thị trường nhà đất đang xì hơi, doanh nghiệp BĐS cạn vốn và có nguy cơ phá sản vì không bán được hàng, ngân sách thành phố khô kiệt và đang gặp rất khó khăn. Mới đây thành phố phải chủ trương bán trái phiếu để vay tiền từ xã hội nhằm cứu nguy trước mắt. Nhưng rồi tiếp theo nữa, tình hình nhà đất cứ đóng băng kéo dài thì lấy chi trả nợ và lấy tiền đâu ra để hoạt động? Ông Thanh ra đi để lại một thành phố khá hào nhoáng nhưng cạn tiền cùng với món nợ không nhỏ. Những người kế nhiệm ông ắt phải gặp không ít khó khăn.

Người ta thấy ông Thanh hay quát nạt thuộc cấp và những người nầy răm rắp cúi đầu không dám có một chút phản ứng. Người ta cũng thấy thuộc cấp của ông kể cả những vị chủ tịch và phó chủ tịch thành phố chỉ là bóng mờ bên ông. Ngay cả ông Tuấn Anh bây giờ đang đường đường ở ghế bộ trưởng Bộ Thể thao Văn hóa Du lịch, trước đây là chủ tịch thành phố dưới quyền ông Thanh cũng mờ nhạt đến nỗi dân gian đã đưa điều ấy vào đồng dao và dường như dân Đà Nẵng ai cũng thuộc làu và công nhận là đúng:

      Trời của Thanh, đất của Thanh

      Con chim trên cành cũng của Thanh

      Con chim trong q. mới của Tuấn Anh.

Nhiều người khen ngợi ông Thanh về điều đó, vì ông sáng quá nên ai đứng cạnh cũng bị mờ,  nhưng theo tôi đó là điều đáng chê bai. Ông Thanh thể hiện sự độc đoán và tỏ ra kém cỏi trong công tác tổ chức (hoặc là quá giỏi tổ chức theo ý đồ riêng của ông). Ông đã xây dựng một bộ máy gồm phần lớn những người bất tài và xu nịnh. Kẻ xu nịnh và bất tài thì không hề dám phản ứng lại cấp trên khi bị nhiếc mắng. Do vậy khi ra đi, ông còn để lại cho Đà Nẵng thêm một gánh khó nữa bên cạnh gánh khó về tài chính.

Tuy nhiên nhìn toàn cục, ông vẫn là sản phẩm tốt nhất của hệ thống hiện nay dù ông có mắc ít nhiều khuyết điểm. Nhưng ông có phải là thánh đâu mà không có khuyết điểm. Ngay cả người được hệ thống nầy phong thánh là ông Hồ Chí Minh thì cũng mắc khuyết điểm đấy thôi.(Cải cách ruộng đất đưa đến cái chết oan ức bao nhiêu dân lành là một trong những sai lầm của ông ấy).

Trong hệ thống, sau thất bại thảm thương trong việc chỉnh đảng và trị tham nhũng, nhiều người kỳ vọng vào ông Thanh, bám vào cái phao ông, khi ông được đưa ra Hà Nội để giữ ghế trưởng ban nội chính của đảng. Các đồng chí của ông và dân chúng đang chán ngán và tuyệt vọng mong rằng ông sẽ là một Bao Công mặt sắt đen xì, đủ tài đức tiêu diệt “bầy sâu bự” đang nhung nhúc khắp nơi.

Nhưng rồi cũng không ít ý kiến ngược lại. Không tin ông làm được gì trong tình thế hiện nay và cũng không tin mấy vào đức độ và quyền năng của ông để ông có thể làm gì.

Theo tôi, muốn đánh giá đúng tác dụng của ông khi đảm nhận chức vụ mới thì phải biết trong đầu ông ta đang nghĩ gì, đang muốn gì.

Nếu ông cho rằng đây là lúc phải để lại dấu ấn với đời, công tâm lao hết mình vào cuộc chiến chống tham nhũng, không cần e dè để giữ ghế, một mất một còn với đám tham ô thì tôi tin rằng, ở chừng mực và ý nghĩa nào đó, với bản lĩnh của ông, ông cũng sẽ làm thành công. Đó là điều tốt đẹp giúp cải thiện phần nào bộ mặt của hệ thống. Chỉ thế thôi.

Nếu ông nghĩ rằng đây là cơ hội bắt đầu cho sự thăng tiến, ra nhậm chức để tiếp tục đi lên cao hơn để cuối đời hưởng được vinh hoa phú quý ở đỉnh cao như các ông vua tập thể khác thì ông chẳng dại chi thực lòng chiến đấu. Ngoài mặt ông sẽ hô to nhiều lời bỗ bã gây ấn tượng (như ông đã từng làm và ngay mới hôm qua ông đã hô) nhưng bên trong, ông ngấm ngầm thỏa hiệp với các thế lực khác để được chia chác cả lợi ích lẫn chức quyền cao hơn. Đây là con đường dễ đi và đi theo mục tiêu nầy, tôi tin rằng với bản lĩnh chính trị khôn ngoan của ông, ông cũng sẽ thành công. Có khi ông lên đến thủ tướng, chủ tịch nước hoặc tổng bí thư không biết chừng. Dĩ nhiên là khi ấy việc cứu chữa hệ thống như nhiều kẻ ngây thơ mong đợi tiếp tục thất bại.

Đó là đứng nhìn từ trong hệ thống.

Còn đứng từ hệ quy chiếu bên ngoài thì sao?

Ông Nguyễn Văn An nói hệ thống nầy bị lỗi. Nhưng đúng ra phải nói rằng hệ thống nầy xây dựng trên nền tảng là chủ nghĩa Mác- Lê nin, mà nền tảng đó, nói theo TS Hà sỹ Phu là đã sụp đổ từ trong lý luận lẫn ngoài thực tiễn. Không thể trám trét vết nứt của một ngôi nhà xây trên một cái nền đã sụp. Một hệ thống như vậy thì không thể sửa lỗi bằng cách vá víu được, lại càng không thể vá víu bằng sự trông chờ vào một cá nhân nào đó là sản phẩm của hệ thống nầy.

Ông Thanh hay mười ông Thanh cũng thế. Giống nhau tất, đều là sản phẩm của hệ thống.


Theo blog HNC



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 10, 2013 17:50

Nghệ sĩ Nguyễn Thị Kim Chi, tôi kính phục chị!

Xung quanh việc NSUT Kim Chi từ chối bằng khen của Thủ Tướng


KC1Nguyễn Văn Thiện


Nói thật, xưa nay, trong mắt của nhiều người, vẫn coi văn nghệ sĩ là đám háo danh, nhiều khi chỉ vì cái danh hão mà khom lưng quỳ gối trước mọi thứ, đặc biệt là trước quyền lực. Người ta vẫn kể cho nhau nghe nghệ sĩ nọ chạy vạy để được giải thưởng, nhà thơ kia luồn lách bằng đầu gối để được kết nạp vào hội kia. Trong bối cảnh như vậy, việc NSUT Nguyễn Thị Kim Chi từ chối bằng khen của thủ tướng quả là một chuyện “xưa nay hiếm”.


Không những từ chối, chị còn tuyên bố rõ ràng: “Tôi không muốn trong nhà tôi có chữ ký của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân. Với tôi, đó là một điều rất tổn thương vì cảm giác của mình bị xúc phạm”.
Xin lỗi chị, tôi và những người thuộc lớp hậu sinh, không rõ lắm những cống hiến trước đây của chị, thậm chí không từng nhớ là chị đã từng đóng những vai nào trong những phim nào. Nhưng với hành động hôm nay, chị đã dạy cho chúng tôi một bài học về lòng tự trọng của người nghệ sĩ chân chính. Người có lòng tự trọng thời nào cũng hiếm, đặc biệt thời này lại càng hiếm.
Trong bối cảnh giả dối tràn lan, cái ác tràn lan, sự vô liêm sỉ tràn lan như một căn bệnh trong xã hội thì hành động của chị chẳng khác nào một lời tuyên chiến. Trả lời BBC, chị cho rằng mình có thể bị phiền hà, bị gây khó dễ, thậm chí có thể nguy hiểm đến tính mạng vì hành động của mình, nhưng chị không sợ.

Đến đây, tự dưng tôi nhớ đến “Thất trảm sớ” của thầy giáo Chu Văn An ngày trước. Hai hành động khác nhau nhưng cùng thể hiện cốt cách của kẻ sĩ, của người trí thức trước cuộc đời. Quả thật, cuộc đời vẫn còn có người tốt và vẫn còn những điều tốt đẹp đang chờ chúng ta phía trước, miễn là chúng ta dám đứng thẳng trước cường quyền.


 GS Nguyễn Huệ Chi


Những cái chết như của BS Thùy Trâm và nhiều người khác có vô ích hay không? Có lẽ đến thập niên đầu của thế kỷ XXI này, các câu hỏi đại loại như trên dần dần tích tụ lại, đang trở thành một băn khoăn quặn lòng lúc nào cũng mơ hồ đặt ra trong tâm trí những người đã từng sống hết mình cho một quá khứ mà họ tin là tốt đẹp. Hành động mới đây của nghệ sĩ điện ảnh ưu tú Nguyễn Thị Kim Chi là câu trả lời sáng rõ nhất: nếu ta đã sống, đã hành động với tất cả niềm tin trong sáng và giữ được đến cuối đời phẩm chất lương thiện của mình, thì sự đổ vỡ của cái hiện thực mà mình từng dâng trọn niềm tin chỉ có ý nghĩa của một bi kịch chứ không bao giờ là hài kịch. Mà đối với bi kịch, phẩm giá con người chỉ càng được tôn lên  chứ không bao giờ bị hạ thấp xuống. “Không nghi ngờ gì nữa, bi kịch là một điều gì đó của CÁI ĐẸP, khi chính nó bị đụng chạm ghê gớm” (La tragédie, sans doute, est quelque chose de beau quand elle est bien touchée – Molière).


Ba Sàm


Nó vạch trần, bằng hình ảnh tương phản bi hài giữa tư cách của kẻ ban ơn, khen tặng người xứng đáng được khen, về sự nguy hại của cả một hệ thống khổng lồ được gọi là “thi đua khen thưởng” đã bị lạm dụng, biến thái cao độ, dùng chính tiền của người dân để tạo ra môi trường sống cho bầy sâu mọt, cho thói đạo đức giả, thói háo danh, làm băng hoại đạo đức toàn xã hội với quy mô chưa từng thấy trong lịch sử đất nước. Nó giáng xuống đúng lúc người ta vừa cố diễn màn tấu hài, vội vã gắn huy hiệu 65 tuổi đảng cho Nhạc sĩ Hoàng Hiệp tại giường bệnh trước khi ông lìa đời đúng một ngày.


Cuối cùng, nó góp phần thức tỉnh giới văn nghệ sĩ đang “sống trong sợ hãi” và danh lợi, các đấng nam nhi, hãy bằng tri thức và tiếng tăm của mình, nói thay, dẫn dắt dân chúng cùng lên tiếng, thức tỉnh những người cầm quyền, rằng thời cơ đã đến rồi, hãy biết sám hối bằng quyết tâm tự gột rửa, hành động vì dân, vì nước, trước khi quá muộn.


Sao Hồng


Một tập thể lãnh đạo đầy quyền lực của một đất nước có thể không kỷ luật nỗi một cá nhân “làm nghèo đất nước và làm khổ nhân dân”.


Nhưng một “Nghệ sỹ cộng sản chính hiệu” với “trái tim của một người cộng sản” có thể đã khơi nguồn cảm hứng cho một trào lưu trong mọi tầng lớp nhằm tẩy chay (và bất tín nhiệm) những lãnh đạo đã, đang và sẽ làm giàu cho “nhóm lợi ích”, dòng họ gia đình của mình mà “làm nghèo đất nước và làm khổ nhân dân” !


 Nhà thơ Đỗ Trung Quân


Chị  Kim Chi. Chị đáng kính trọng hơn biết bao thằng đàn ông vừa hèn vừa nịnh, chúng có tất cả trừ nhân cách.





 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 10, 2013 16:05

Câu hỏi về niềm tin

Bùi Văn Bồng


209000_338116992929912_25277236_nNhững câu xưa của các thế hệ tiền bối: “Một lần không tin, vạn lần bất tín”; “mất niềm tin là mất tất cả”;… Đức tin trong Kitô giáo cho rằng người tu hành, ‘con chiên của Chúa’ luôn luôn cần đức tin: Tin vào điều ai đó nói, chấp nhận một lời tuyên bố;  tin cậy người nào, khác với tin suông một điều gì. Đức tin cần có cho sự cứu rỗi bao gồm “tin rằng” và “tin vào”, “lấy gì để tin”, “tin thì được cái gì”, tức là phải có sự hiện hữu sự thật đủ sức thuyết phục để người ta chấp nhận một và tin cậy một người nào đó. Nhất thiết cả bốn căn nguyên đó  phải được làm rõ trong thực tiễn cuộc sống, phải cho con người, vì con người.


 Có người hỏi: “Tại sao không cần nhiều Viện nghiên cứu, tài liệu, giáo trình, nghị quyết, tập huấn, họp hành mà các dân tộc trên thế giới, đời này sang đời khác có rất nhiều tín đồ tự nguyện tự giác tôn thờ các tôn giáo mà họ chấp nhận, họ đặt niềm tin?”. Bởi lời dạy và các chỉ giáo đạo đức đi đúng nguyện vọng con người, lý giải có căn nguyên, đúc kết quy luật phù hợp tâm nguyện người đời. Hơn nữa, các đấng mà họ tin theo dù là người có thật hay nhân vật siêu  nhiên, thần thoại đều chưa có biểu hiện thất hứa, chưa thấy làm điều gian ác, dối trá, không có sự hứa hão, nói mà không làm, hoặc nói một đường làm một nẻo. Lời nói và uy danh của họ vẫn giữ được đức tin. Và trong các đấng được tôn thờ, không có ai trong “một bộ phận không nhỏ”. Các thầy tu, thầy chùa giảng đạo, nhưng sau khi giảng họ không đi làm các việc gian tham, lừa dối, ác độc. Như Samuel Johnson, học giả người Anh thế kỷ thứ 18 nói: “Chúng ta thường dễ tin người chúng ta không biết bởi họ chưa bao giờ lừa dối chúng ta”. Còn nhà tâm lý học và triết học người Mỹ, ngài  William James nói: “Luôn luôn, ở bất cứ đâu, và đối với bất cứ ai, thật sai lầm khi tin vào bất cứ thứ gì khi không đủ bằng chứng”.
ừ nhiều thập kỷ qua, Đảng Cộng sản Việt Nam bị xói mòn dần và nhiều mảng lớn đã mất niềm tin trong nhân dân. Như vậy, chủ thuyết, đường lối, phương hướng vạch ra rất hay, hứa hẹn nhiều, quyết tâm dày đắp, quyết liệt hô vang, nhưng cuối cùng: “Không có gì”!, còn bị mất thêm. Thế thì bảo người dân phải tin tưởng, mà con tin tưởng tuyệt đối, vững chắc, thì ai mà chịu được. Đâu phải cứ ngồi trên ghế cao, đứng trên bục uy nghi nói hay mà không làm gì hoặc bắc loa hô khẩu hiệu là người đời phải tin, phải nghe. Nói thì dễ, làm mới khó. Vấn đề là anh nói như vậy, nhưng hành động cụ thể ra sao, kết quả thế nào, làm có đúng, có được như nói không?
Trong năm qua, nhiều bài phát biểu khai mạc, bế mạc các Hội nghị Trung ương 4, 5, 6, phát biểu và gặp gỡ cử tri nhiều nơi, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không quên nhấn mạnh thực trạng đã đến mức cấp bách và báo động nguy cơ mất chế độ chính trị-xã hội do Đảng lãnh đạo bởi dân đã mất hết niềm tin rồi!
Ngày 9/1, tại lễ kỷ niệm 63 năm ngày truyền thống HS, SV (9/1/1950 – 9/1/2013) ở ĐH Duy Tân (Đà Nẵng), Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã nói nghe sang sảng: “Việc giáo dục thế hệ trẻ lòng yêu nước, trách nhiệm tiếp bước cha ông trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang đặt lên vai mỗi chúng ta. Dù còn nhiều điều trăn trở, hãy giữ vững niềm tin và truyền lửa cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau”.
Nghe những lời phát biểu như vậy, bà con cả nước lại thêm một lần nữa thấy lãnh đạo ta nói rất thông thạo lý thuyết, đúng đường lối, có bài bản, và người nghe cũng thuộc hết rồi. Ai còn lạ gì những phát biểu như thế cả mấy thập kỷ xuống cấp nhiều mặt vừa qua?
Nhưng tin vào đâu, tin ở ai, tin cái gì, tin thế nào? Đó là những câu hỏi đang đặt ra rất nóng hổi và gay gắt về niềm tin. Hàng loạt sự kiện ầm ĩ, vụ việc long trời lở đất như năm 2012 vừa qua, hỏi người dân còn tin vào đâu mà giữ vững niềm tin? Nghị quyết Trung ương 4 hay, trúng, thiết thực, quyết tâm cao như thế, sau Hội nghị Trung ương 6 mọi người mới thấy là bị thua đau cả ván “bài cào”, tức là chẳng mạng lại kết quả gì, thêm mất công, tốn tiền, sinh ra nhiều hệ lụy phức tạp thêm. Có không ít người còn chút niềm tin nay cũng dốc hết sạch luôn. 
 
Hết ông Bộ trưởng này đên nhà chính khách kia hứa ngon hứa ngọt, nói cứ vanh vách, nhưng làm được những gì? Các đơn, thư, kiến nghị gửi Bộ Chính trị, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, kể cả những thư gửi thẳng Chủ tịch nước, như có ai thèm trả lời không? Ngay như kiến nghị của tập thể sinh viên gửi Chủ tịch nước yêu cầu can thiệp vụ bắt nữ sinh  Phương Uyên, nhưng vụ việc đúng-sai, phải-trái thế nào, có ai thấy Chủ tịch nước trả lời chưa? Thái độ dửng dưng, bàng quan, MACKENO, thiếu trách nhiệm, coi thường công luận và dư luận, biểu hiện khinh thường dân, vi phạm dân chủ rất rõ nét như vậy, ai tin được? Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh từng nói đó là sự “im lặng đáng sợ” cách đây 27 năm, nhưng nay thấy thực tế trên đời “đáng sợ hơn”! Cần nhắc lại: Lấy gì để tin? Tin cái gì? Tin vào đâu? Tin ai?
Chủ tịch nước nói: “Truyền lửa cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau”. Truyền lửa bằng cách nhồi nhét vào đầu đứa trẻ lớp 3 “Hai Bà Trưng đánh giặc lạ, đánh kẻ xấu”; Anh hùng biên phòng Lê Đình Chinh bị “côn đồ” đánh chết; rồi: Trung Quốc đánh ta, xâm lược nước ta, nhưng ta phải ghi ơn họ? Truyền lửa bằng cách cho công an đến các trường đại học, cấp ủy và chính quyền nhắc nhỏ các tổ  chức Đoàn không cho sinh viên, thanh niên bày tỏ lòng yêu nước hay sao? Truyền lửa bằng cách ngăn chặn, trấn dẹp, răn đe những người bộ lộ thái độ yêu nước. Rồi đến cự sinh viên đấu tranh chống Mỹ nổi tiếng năm xưa, người có nhiều công lao đóng góp như ông Huỳnh Tấn Mẫm cũng bị công an theo dõi, chế ngự, hạch sách, ngăn cản, bắt, đe dọa hay sao? Truyền lửa bằng cách Đại tá Trần Đăng Thanh ngênh ngang “coi Trời bằng vung” giao nhiệm vụ cho các trường Đại học, cao đẳng về việc chặn đứng lòng yêu nước của sinh viên hay sao? Vân vân, rất nhiều chủ trương, chỉ đạo, động thái, kế hoạch, lực lượng, vụ việc theo kiểu đó…
“Xã hội tồn tại nhờ niềm tin, và phát triển nhờ khoa học” (Henri Fredẻic Amiel, nhà phê bình, triết gia Thụy Sĩ). Nhưng vơi snhững niềm tin như thé, xã hộicó tồn tại không? Văn minh, khoa học có phát triển không? Cho nên, từ những câu hỏi về niềm tin, Tiến sĩ Albert Schweitzer, nhà triết học, thần học Đức, mang quốc tịch Pháp đã nói: “Con người cần ít đổ rắc rối của mình lên môi trường xung quanh, và học cách thể hiện ý chí – trách nhiệm cá nhân trong lĩnh vực niềm tin và đạo đức”.
 Theo blog BVB



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 10, 2013 07:20

Lẩu dư luận

Nhà văn Thùy Linh
73229_133026546849276_1425516899_nMấy hôm nay giới bloggers có vẻ hồ hởi đón nhận diễn đàn sẽ mở ra nay mai giữa họ và các “dư luận viên” của chính quyền đang thành lập. Dòng sông cuộc sống mải miết trôi, càng ngày bên bồi, bên lở khiến hai nhóm người đứng hai bên bờ càng xa cách. Khó tắm chung dòng và khó nghe nổi lời của nhau là sự thật bấy lâu nay giữa hai phía. Đáng lẽ diễn đàn tranh luận các quan điểm đối ngược phải có từ lâu rồi.
 
Trước hết cần thống nhất với nhau đây thực sự là các cuộc tranh luận, chia sẻ về các quan điểm, cách nhìn, những ước muốn, hy vọng về sự đổi thay tốt đẹp cho đất nước. Hết sức tránh những từ “đấu tranh”; “phê phán”…Bởi người ta chỉ đấu tranh, phê phán với những cái xấu xa, tồi tệ. Hơn nữa hiện giờ thế giới hãn hữu mới dùng đến phương pháp bạo lực, nghiêm khắc khi muốn thay đổi cái xấu. Thay vì đấu tranh, phê phán, lật mặt cái xấu, kẻ xấu, người ta cố gắng khơi gợi điều tốt đẹp trong con người, cuộc sống để thay thế dần sự bất cập, tồi tệ.
 
Một điều kiện tiên quyết để có thể tranh luận, chia sẻ các quan điểm giữa hai (hay nhiều) phía, tạm gọi là lề trái, lề phải, trung dung có hiệu quả là, không nên bắt đầu bằng các kết luận, cũng như sự dè chừng cảnh giác như với “thế lực thù địch” nào đó. Khi bắt đầu bằng những kết luận thì cần gì, còn gì để tranh luận, chia sẻ nữa? Điều này phía “lề phải” hay mắc phải, hay áp đặt cho “lề trái” nhân danh chính quyền. Ví dụ chưa bước vào các tranh luận thì các nhà quản lý đã bắt đầu bằng sự răn đe, rào chắn như: đấu tranh với các luận điểm sai trái; ngăn ngừa các hành vi lợi dụng để xuyên tạc chính sách, đường lối của đảng; kịp thời sẽ ngăn chặn kẻ xấu kích động nhân dân; nêu cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn, luận điệu sai trái của các thế lực thù địch; xử lý kịp thời những hành động tán phát tài liệu xấu, mạo danh, nặc danh để xuyên tạc, công kích, chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân…
Theo ông Hồ Quang Lợi, trưởng ban Tuyên giáo thành ủy Hà Nội tuyên bố thì thành phố đã chuẩn bị được 900 dư luận viên, các tổ phóng viên bấm nút, phản ứng nhanh và “nhóm chuyên gia” đấu tranh trực diện, tham gia bút chiến trên Internet. Đến nay đã xây dựng được 19 trang tin điện tử, hơn 400 tài khoản trên mạng…Giới bloggers rất mong muốn được tranh luận với những ai có chính danh chứ không thể nói với người đối thoại mà không chịu trách nhiệm lời nói của mình. Nếu 400 tài khoản trên internet chỉ để làm các “còm sĩ” ảo như lâu nay thì đương nhiên sẽ có các “còm sĩ” ảo phía bên kia tiếp chiêu mà chính quyền không được phép bắt họ khai báo tên thật. Tranh luận phải công bằng từ việc nhỏ đó. Không nên dùng ngụy danh để tranh luận với chính danh.  
 
Việc nữa thiết tưởng không cần nói nhưng vì đã và đang lan tràn trên mạng khiến nhiều người khó chịu, nhất là “còm sĩ” của lề phải. Các “còm sĩ” này khi lên tiếng bênh vực chính quyền, cạn lý thường chửi tục và nói tục không kiêng dè. Nếu có thể bảo vệ các quan điểm của mình bằng chửi tục, thóa mạ lẫn nhau thì không cần tranh luận, chỉ cần mở cuộc thi chửi. 
 
Trong tranh luận tránh hướng đến việc thóa mạ, bới móc đời tư cá nhân, nhất là người đang tranh luận với mình. Trừ khi những vấn đề cá nhân của ai đó ảnh hưởng đến việc chung, thậm chí vận mệnh đất nước. Cần loại bỏ sự thành kiến về hành vi, sai lầm trong quá khứ của cá nhân khi mọi việc đã kết thúc, đã trả giá…Chắc chắn dân oan mất đất có quyền được biểu tình chống Trung Quốc xâm lược, chứ không thể nói rằng họ lợi dụng việc biểu tình để chống chế độ. Cũng như thế, một blogger có thể là tù hình sự trước đây, hoàn toàn có thể là chính danh tử tế, đàng hoàng đối thoại với “dư luận viên” của chính quyền mà không bị bới móc chuyện cũ ra như một bằng chứng rằng anh ta là người không đủ tư cách tranh luận, phản biện.
 
Đã chấp nhận tranh luận cởi mở thì không nên giới hạn vấn đề và vùng “nhạy cảm” bắt buộc phải tránh né, không được đề cập. Càng nhạy cảm càng nên tranh luận minh bạch để tiệm cận đến gần sự thật nhất. 
 
Bởi ai cũng hiểu, tranh luận là để tìm ra sự thật. Sẽ có người nói sự thật của ai người nấy biết, vì đứng ở góc nào sẽ nhìn sự vật bắt sáng ở góc đó. Đúng vậy, thế gian không có bản chất riêng của nó. Nó được xác quyết do tâm trí của con người. Con người càng ít vô minh thì thế gian càng sáng tỏ với họ, bằng không sẽ chỉ nhận những sai lầm bởi những ham muốn cuồng dại. Mà muốn ít vô minh thì rất cần dẹp bớt tham-sân-si.
 
Không lẽ sẽ là những cuộc tranh luận bất tận khi thế gian lệ thuộc vào sự tiếp nhận của con người? Và sẽ là thất bại thảm hại nếu kết quả các cuộc tranh luận khi “lề trái” bị qui kết như sự dè chừng, răn đe, cảnh giác ban đầu đưa ra: luận điệu sai trái của các thế lực thù địch; tán phát tài liệu xấu, xuyên tạc, công kích, chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân…v.v.vv…
 
Có một điều chắc chắn, sự thật nào gần với lẽ phải nhất thì sẽ được mọi người đồng tình nhiều nhất. Nhưng lại có người căn vặn, thế nào là lẽ phải? Bởi những gì người ta nghĩ về các vấn đề của thế gian đều bị chi phối của dục vọng người đó. Cho nên lẽ phải chắc chắn sẽ phản chiếu rất ít (hoặc không còn) lòng tham, sự ích kỉ của con người. Nếu ai suy nghĩ, hành động vì lợi ích của người khác, vì sự phát triển chung, vì thiện tâm, chí thành thì chắc chắn đó là lẽ phải, là sự thật. 
 
900 dư luận viên (có thể sẽ nhiều hơn) nên bắt đầu thu thập lý lẽ biện minh cho chính thể có nạn tham nhũng gần như đứng đầu thế giới, thay vì tìm cách “chiến đấu, “phê phán” các luận điệu bị cho là thế lực thù địch chống phá…Vì chính nạn tham nhũng, độc tài đã tạo ra một thế gian bị méo mó, sai lạc do lòng tham của con người. Có một câu chuyện thế này…
 
Ngày xưa có một vị vua anh minh, cai trị thần dân bằng sự sáng suốt của mình. Vương quốc vì thế rất thịnh vượng, bình an. Nhà vua treo giải thưởng cho những ai đưa ra những lời dạy quí giá. Sự thành tâm của nhà vua được thần thánh chú ý, nhưng vẫn muốn thử thách nhà vua. Một vị thần biến thành quỉ sứ xin yến kiến nhà vua và hứa cho nhà vua lời khuyên quí giá. Nhà vua rất vui mừng nên đón tiếp quỉ sứ ân cần. Đầu tiên quỉ sứ đòi ăn thịt người. Thái tử hiến thân, rồi đến hoàng hậu, nhưng quỉ sứ vẫn còn muốn ăn thịt nhà vua. Trước khi nộp mạng cho quỉ, nhà vua đề nghị nói cho biết lời dạy kia. Vị thần nói: “Đau khổ và sợ hãi bắt nguồn từ nhục dục. Những ai đã diệt dục thì không còn sợ hãi hay đau khổ”. Và vị thần trở lại hình dạng thật của mình. Thái tử, hoàng hậu cũng sống trở lại như cũ…
 
Nếu người cai trị thế gian tuân thủ nguyên tắc cai trị bản thân mình trước hết, giảm thiểu tối đa dục vọng, lòng tham thì dân chúng hà cớ gì không hạnh phúc, noi gương?
 
Nhân gian lại dạy rằng, có 7 lời dạy đưa đất nước đến thịnh vượng:
Thứ 1, dân chúng phải thường xuyên tập hợp bàn chuyện chính sự và bàn chuyện quốc phòng.
Thứ 2, dân chúng trong mọi giai tầng xã hội nên họp lại, bàn bạc chuyện quốc gia.
Thứ 3, dân chúng nên kính trọng tập quán lâu đời và không nên thay đổi tập quán này một cách phi lý. Dân chúng nên tuân thủ qui định nghi lễ và duy trì công lý.
Thứ 4, dân chúng phải nhận biết sự khác nhau của giới tính và thâm niên, giữ vững sự thuần khiết của gia đình và công cộng.
Thứ 5, dân chúng phải hiếu thảo với cha mẹ và trung thực với thầy giáo, các bậc cao niên.
Thứ 6, dân chúng nên kính trọng đền thờ tổ tiên và duy trì lễ nghi hàng năm.
Thứ 7, dân chúng phải coi trọng luân thường đạo lý, kính trọng cách hành xử có đức hạnh, lắng nghe những bậc thầy đáng kính.
 
Tạo cho dân chúng thói quen quan tâm vận mệnh quốc gia khi họ được tự do thể hiện quan điểm, tư tưởng của mình không chút sợ hãi. 
 
Liệu sắp tới đây các cuộc tranh luận (hay như ông Hồ Quang Lợi gọi là đấu tranh trực diện, tham gia bút chiến) trên internet có được xem mở màn cho sự lên tiếng, thể hiện đa nguyên về tư tưởng mà nhiều người mong mỏi đã lâu?
 
Liệu kết quả qua các cuộc tranh luận có giúp phá vỡ nhiều bức tường bưng bít những sự thật cần bày tỏ? Bởi nếu không làm được việc này thì việc chính quyền lập nên các trang web, đào tạo các dư luận viên, các chuyên gia tham chiến chỉ là cách lùa “cua vào giỏ” để dễ lôi từng con ra vặt càng, hoặc cho vào cối giã nát theo ý muốn của chính quyền khi cần thiết?
 
Nhưng dù thế nào thì nhu cầu được bày tỏ đã tới lúc khó kìm nén hơn được nữa…Cho nên món “lẩu dư luận” dù chính quyền muốn định hướng gia vị thì từng người vẫn sẽ gia giảm theo khẩu vị của họ. Chỉ có lẽ phải, sự thật thì dù dư luận ngang tắt ra sao nó vẫn sẽ bất diệt. 
Theo blog TL

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 10, 2013 06:44

January 7, 2013

Nhớ một con người

Dân Choa


602720_381378361955234_1016918787_nThấm thoắt một năm đã trôi qua. Kể từ ngày 5 tháng 1.2012 ông Đoàn Văn Vươn vẫn ngồi trong tù mà chưa được xét xử. Thời hạn tạm giam đã vượt quá khung giới hạn mà luật pháp quy định. Thế nhưng tư pháp thành phố Hải Phòng vẫn cho rằng thời hạn tạm giam để điều tra vẫn được phép theo quy định của pháp luật. Cũng không thể có câu trả lời chính xác đến bao giờ thì vụ việc được mang ra xét xử. Thật tội nghiệp cho ông Đoàn Văn Vươn và gia đình.


 Tính chất của vụ việc đã được Thủ tướng chính phủ chính thức công bố và kết luận. Tưởng chừng mọi việc sẽ kết thúc nhanh chóng. Pháp luật sẽ trả lại sự công bằng cho những bên có liên quan. Thế nhưng vụ việc không diễn ra như kết luận của Thủ tướng mà ngược lại, thời gian kéo rất dài có chiều hướng bất lợi cho ông Vươn và gia đình nhiều hơn. Ngày ngày ông Vươn mòn mỏi trong lao tù.


Gần đây công an Hải Phòng dự kiến sẽ khởi tố ông Đoàn Văn Vươn vì tội giết người và khởi tố một số cá nhân có trách nhiệm liên quan đến lệnh cưỡng chế trái phép. Dư luận đa số không đồng tình với cáo trạng của Viện kiểm sát, vì không đúng tâm điểm, không đúng người, không đúng tội danh. Vì thế các văn bản thay đổi liên tục, có vẻ như đối phó với dư luận hơn là thực thi pháp luật .


 Liệu có một bản án nhẹ nhàng cho ông Đoàn Văn Vươn không? Chắc chắn là không, nếu vụ việc này để cho chính quyền thành phố Hải Phòng xét xử. Tuy mức độ thiệt hại về người cũng như vật chất không lớn lắm. Nhưng thiệt hại về uy tín của chính quyền Hải Phòng thì quá lớn. Nhìn về các cấp lãnh đạo của địa phương Hải Phòng không còn chút màu hồng nào nữa và chỉ có một màu xám xịt. Vì thế chính quyền Hải Phòng sẽ không nương tay với ông Đoàn Văn Vươn.


 Dù thế nào đi nữa thì ông Đoàn Văn Vươn cũng đã trở thành một người Anh hùng bất đắc dĩ. Tiếng súng kháng cự của ông chống lại đoàn cưỡng chế chính quyền đã thức tỉnh người dân đang chìm trong cơn mê muội giải tỏa đất suốt hai chục năm qua.


Tiếng nổ của Tiễn Lãng thực sự đã làm rung động cả Hệ thống chính trị. Nó buộc mọi người, từ nhà quản lý cao cấp cho đến người nông dân, phải suy nghĩ lại cách thức quản lý đất đai của Nhà nước.


Từ trước đến giờ khắp nơi cũng từng có nhiều vụ việc về đất đai, về cưỡng chế giải phóng mặt bằng và khiếu kiện. Thế nhưng tất cả đều được phán quyết theo hướng có lợi cho quản lý Nhà nước. Còn nhu cầu và lợi ích chính đáng của người dân thì bị xem nhẹ hay nói cách khác là bị triệt tiêu một cách tàn nhẫn.


Nhiều nơi, nhiều người nông dân lương thiện đã bị công quyền đàn áp tàn nhẫn. Cực chẳng đã, họ khiếu kiện. Nhưng tất cả đều bị dập vùi. Cũng có nơi người dân bị dồn vào chân tường, không con có lối thoát. Họ đứng dậy, chống lại quyết định của chính quyền. Nhưng cuối cùng thì họ vẫn trắng tay và rơi vào cảnh tù đày. Tuy biết thế nhưng dư luận và giới truyền thông đành im lặng. Phải chăng cũng có một vài bài báo nói đến, nhưng rồi tất cả đều rơi vào sự lặng im đáng sợ. Vụ Tiên Lãng đã đánh thức cả giới truyền thông, cả lề phải lẫn lề trái. Nó đã tạo nên một luồng gió mới cho báo chí về lĩnh vực đất đai, nhất là dám đưa tin về cách giải phóng mặt bằng, lấy diện tích sử dụng của các dự án đội lốt “ dự án kinh tế quan trọng của Nhà nước”.


 Tiếng nổ ở Tiên Lãng đã buộc dư luận vào cuộc. Các vị cựu lãnh đạo lo âu, các nhà quản lý lúng túng, các chuyên gia về điền địa thẩm định, các luật gia cũng không đứng ngoài cuộc. Khi mổ xẻ nguyên nhân sâu xa thì mới thấy bộ luật đất đai và chính sách đất đai hiện hành bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Nếu không có vụ việc ông Đoàn Văn Vươn thì chính sách đất đai của Việt Nam sẽ không có thay đổi nhiều. Nhưng qua vụ này Nhà nước bắt buộc phải cải tổ lại luật pháp, nhất là chính sách đất đai và cung cách quản lý đất đai.


 Việc chính quyền nhiều nơi lợi dụng chính sách giải phóng mặt bằng mọi giá từ nay đã buộc phải chùn tay. Ý định dùng lực lượng vũ trang để lấy đất thô bạo của người dân cũng đã chặn đứng. Lực lượng quân đội đã bắt buộc phải đứng ngoài cuộc, chính quyền địa phương không thể huy động tùy hứng theo quyết định riêng của người lãnh đạo.


 Một vụ việc xảy ra ở địa phương, mặc dù đã có kết luận của chính Thủ tướng, nhưng vẫn kéo dài hơn một năm mà chưa kết thúc. Điều này bộc lộ sự rối loạn quản lý của cấp chính quyền. Nếu chỉ đơn giản là trống đánh xuôi kèn thổi ngược thì thể hiện sự bất lực của chính phủ đối với địa phương. Nhưng nếu mỗi cấp đều dựa vào pháp luật để viễn cái lý của mình thì lại bộc lộ yếu kém và rối loạn của hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam.


Gia đình ông Đoàn Văn Vươn nhận được sự đồng cảm rộng rãi của nhân dân và của những cán bộ quản lý cao cấp. Thế nhưng chính quyền Hải Phòng vẫn khăng khăng chỉ đạo điều tra, tiến hành khởi tố vụ án theo hướng có lợi cho chính quyền. Qua vụ việc Tiên Lãng chính quyền bộc lộ rõ bản chất cai trị và bảo vệ quyền lợi cai trị hơn là một chính quyền vì người dân, lắng nghe nguyện vọng của nhân dân. Như vậy giữa chính quyền quản lý và người dân hoàn toàn không có sự đồng thuận, xã hội mang nhiều mâu thuẫn. Chính mâu thuẫn nội tại này là sự đe dọa mất ổn định chính trị của đất nước.


 Tiếp theo vụ Tiên Lãng là các vụ khác mang tính chất tập thể như Văn Giang, Vụ Bản…đã làm cho các nhà đầu tư, tư vấn nước ngoài tại Việt Nam lo ngại. Chính họ cũng đã buộc thay đổi lại quy chế cấp vốn ODA cho Việt Nam và cấu trúc lại tổ chức này tại Việt Nam ngay trong năm 2013. Đồng thời họ cũng kiên quyết yêu cầu Nhà nước Việt Nam khẩn trương cải cách lại chính sách đất đai.


 Một năm trôi qua. Ông Đoàn Văn Vươn vẫn mòn mỏi trong tù chờ ngày ra tòa. Rất có thể phiên tòa diễn ra theo chiều hướng không có lợi cho ông Vươn và gia đình. Ông sẽ chịu nhiều đau khổ và thiệt thòi. Nhưng người dân lương thiện và những người đồng cảm với ông sẽ vô cùng nhớ ông. Chính tiếng súng “ hoa cải” tự phát của ông đã đánh thức lương tri xã hội. Xã hội Việt Nam đã bừng tỉnh , dũng cảm đứng dậy sau hai mươi năm lầm lũi vật lộn với đất đai.


Chính quyền Nhà nước bắt buộc phải nhìn nhận lại chính sách đất đai ,phải thay đổi luật đất đai và buộc phải tìm giải pháp dung hòa với mục đích chính đáng của người dân.


Theo Dân choa FB


…………..


P/S: QC nghỉ ba ngày, bọ Lập đi nhởi.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 07, 2013 20:17

Sao lại riết róng với hồn người quá cố?

MINH DIỆN


   1a2a copy               Ngày 17-12-2012 Chính phủ ban hành Nghị định 105/ND-CP, về việc tổ chức tang lễ cán bộ, công chức, viên chức. Tại điều 4 Nghị định này có hai điểm khó  đồng thuận.
                  Một là quy định: “Lễ viếng tổ chức ở nhà tang lễ. Lễ đưa tang và lễ an táng thực hiện trong cùng một ngày (trừ quốc tang)”. Và “ở địa phương thì không được quá 48 tiếng”.
 
Ai cũng biết, truyền thống dân tộc Việt Nam “Nghĩa tử là nghĩa tận!”. Tình cảm cha con, ông bà, họ mạc, bạn bè đồng chí gắn bó máu mủ ruột rà với nhau suốt một cuộc đời, hoặc cùng chia sẻ vui buồn với nhau trong học tập, công tác, chiến đấu dù ngắn dù dài, dù khi còn sống có lúc, có điều chưa hài lòng với nhau, thì khi chết vẫn muốn nhìn thấy nhau lần cuối, bày tỏ sự thương tiếc và chia sẻ sự mất mát với gia quyến người ra đi.Cái nghĩa tận đó, là người Việt Nam ai cũng nên làm, nếu không muốn nói là cần làm, phải làm. Những người con đi xa, không kịp về nhìn mặt cha, mẹ lần cuối sẽ ân hận suốt quãng đời còn lại.
     Trong khi đó hiện nay hầu như ở nước ta không có gia đình nào mà con cháu, họ hàng  đều ở cùng một huyện, một tỉnh, một thành phố, mà phân tán khắp nơi, cả nước ngoài. Thử hỏi trong vòng 24 tiếng ở nhà tang lễ, 48 tiếng  ở địa phương, theo quy đinh trong Nghị đinh kể trên, con cháu có kịp về phúng viếng ông bà cha mẹ ? Xin lưu ý,  24 tiếng thực chất chỉ còn 12 tiếng, 48 tiếng chỉ còn 24 tiếng, vì  một nửa thời gian đó là ban đêm.
                  Người viết bài này không đồng tình với một số nơi, một số trường hợp cá biệt, tổ chức tang lễ quá rườm rà, tốn kém, quàn thi hài năm, bảy ngày, kèn trống linh đình, thậm chi mời nghệ sỹ đến múa hát, ăn nhậu say sưa. Nhưng  Nghị định 105 gói gọn “nghĩa tử nghĩa tận” một đời người vào khoảng thời gian quá hẹp như trên  là không thỏa đáng?
Thế mà Nghị định này lại không quy định rõ quốc tang bao nhiêu ngày, chi phí bao nhiêu tiền, mà bỏ ngỏ trong một dấu ngoặc đơn  (trừ quốc tang), thế là nghiễm nhiên cán bộ lãnh đạo được ngoại lệ. Sự phân biệt đối xử cả khi chết, khác gì đặc quyền trong tệ sùng bái cá nhân, ngay cả Trung Quốc bây giờ cũng không làm, mà hình như chỉ hiện diện ở Triều Tiên.  
                  Điểm 3 (Điều 4) của Nghị định quy định: “Linh cữu người từ trần quàn tại nhà tang lễ hoặc gia đình không được để ô cửa có lắp kính trên nắp quan tài”. Theo ông Vũ Thế Hùng, Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ thì làm như thế vì “loại quan tài này mới xuất hiện ở Việt Nam, và có thể đã để mấy ngày, sẽ làm ảnh hưởng đến môi trường sức khỏe”.
                    Ô hay, ngay tại điểm 1, nghị định nói chỉ cho phép một ngày ông lại nói “có thể để mấy ngày” thì có quá là tréo ngoe thấy rõ!? Người ta nói danh có chính ngôn mới thuận! Cái danh ông có chính không mà ăn nói cà giựt cà chớn như vây?
                   Ai cũng biết, với khoa học công nghệ hiên đại, chỉ cần vài mũi thuốc, vài thao tác đơn giản, người ta có thể giữ thi thể chậm phân hóa một tuần, thâm chí cả tháng không ảnh hưởng  vệ sinh môi trường. Đằng này một thi thể đã được khân liệm rất kỹ, nằm trong quan tài, giữa những lớp hương liệu đã được xủ lý và khử trùng, thì làm sao mà ảnh hưởng vệ sinh môi trường. Và nếu vi khuẩn chui qua được cái ô kính nhỏ xíu kia, thì nó có chui qua cả cái quan tài bằng gỗ không? Ai cũng biết tính cách âm, cách nhiệt và ngăn khuẩn của kính cao hơn 125 lần gỗ.
                   Cái quan tài có một ô vuông lắp kính các nước trên thế giới người ta làm từ lâu lắm rồi. Người phương Tây quan niệm được “nhìn mặt người đã khuất” nhẹ nhàng hơn, người ta còn làm như vậy, huống chi người phương Đông, như Khổng Tử nói: “Bất kiếm phụ mẫu lâm chung bất hiếu tử tôn giả dã” (Con cháu không nhìn được mặt ông bà cha mẹ lúc chết mang tội bất hiếu).
                     Những kẻ dân ghét muốn đào đất đổ đi thì cứ chiềng mặt ra, trong khi lại cấm dân nhìn mặt người thân  mình lần cuối?  Có những vị vừa xuất hiện trên tivi là người ta bấm chuyển kênh khác ngay! Còn sống sờ sờ đầy chức quyền đấy, thì sao?
                     Việc tiết kiệm và giữ vệ sinh trong ma chay là hết sức cần thiết, nhưng tiến hành cuộc vận động nếp sống mới chắc chắn sẽ tốt hơn một biện pháp hành chính. Hai điểm nói trên của Nghị định 105 chẳng những không được sự đồng thuận, không đạt được kết quả, mà  tạo ra cái cớ  cho những người có chức quyền vin vào xách nhiễu, hành dân. Hiện tình, thực trạng đất nước đang bức xúc, cấp bách thiếu gì việc phải làm thiết thực cho người sống, mà lại đè cả hương hồn người chết để ruồng ép bằng Nghị định 105/ND-CP ? 
                    Nhân đây tôi xin kể câu chuyện về bình tro cốt của ông Hoàng Minh Chính, mà người ta đã lấy lý do “vệ sinh môi trường” để hành người đã chết. Tôi hoàn toàn không bình luận vế quan điểm chính trị, nhân cách của ông trong bài viết này, chỉ nói một khía cạnh hết sức nhân văn về cách ứng xử của con người.
    
Đạo diễn Lưu Trọng Ninh chạm tay vào bình tro cốt của Đơn Dương.

Đạo diễn Lưu Trọng Ninh chạm tay
vào bình tro cốt của Đơn Dương.


                Ông Hoàng Minh Chính, một đảng viên cộng sản từ những năm 1930, từng giữ những chúc vụ quan trọng như Viện trưởng Viện lý luận Mac-Lênin, Bí thư Đảng đoàn Ban cán sự, Tổng thư ký Đảng dân chủ Việt Nam, v.v… Ông mất ngày 7-2-2008 tại Hà Nội. Khi ông mất vẫn là một cán bộ nhà nước.



Theo thông báo chính thức, sau khi hỏa thiêu, tro cốt của ông an táng tại khu A (khu cán bộ) nghĩa trang Thanh Tước, Hà Nội. Nhưng mới đây tôi được bà Hoàng Phương Thảo, sinh năm 1927, nguyên giảng viên Trường đại học ngân hàng, là em ruột  ông  Hoàng Minh Chính và là phu nhân của  nhà cách mạng lão thành, cố Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Trần Dương, hiện sinh sống lại lầu 3- D1  Hưng Thịnh, khu đô thị An Phú Hưng, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh, kể lại như sau:
                    Trước khi mất, ông Hoàng Minh Chính  dặn con cháu: Sau  khi ông  mất hỏa thiêu,  tro cốt  chia làm hai phần , một phần rắc trên núi Tản,  một phần rắc xuống sông Hồng.
                       Thực hiện di huấn đó, khi  nhận tro cốt ông  ở đài hóa thân Hoàn Vũ, con cháu chia đều vào hai cái bình nhỏ,  thuê hai chiếc xe, mỗi chiếc chở một bình, định lên núi Tản rải  trước,  rồi quay về sông Hồng.
                     Khi xe vừa lăn bánh thì một xe chở cảnh sát  xuất hiện, và từ Hà Nội lên núi Tản hơn 60 cây số,  xe  cảnh sát luôn bám sát hai chiếc xe của gia đình ông Hoàng Minh Chính.
                      Đến chân núi Tản mọi người mang một bình tro cốt vào đền Hạ thắp hương. Vừa  định mang lên núi rải, thì nhóm  cảnh sát ngăn lại. Họ nói không được rải tro cốt người chết lên núi,  ảnh hưởng vệ sinh môi trường !?.
                      Người con gái ông Hoàng Minh Chính ôm  bình tro cốt đi một bước, cảnh sát kè theo một bước. Người con  gái ông Hoàng Minh Chính nói với người chỉ huy nhóm cảnh sát: “ Chỉ có một nhúm tro làm sao ảnh hưởng vệ sinh môi trường rừng núi mênh mông  thế này ? Các chú đừng gây khó khăn  với  một người quá cố,  hãy thông cảm để chúng tôi thực  hiện lời di huấn của cha tôi!”
                       Nói gì thì nói, cảnh sát  vẫn yêu cầu chở bình tro cốt  quay về chôn ở nghĩa trang Thanh Tước .
                        Thấy không lay chuyển được ý chí sắt đá của những người đang thi hành công vụ,  người con gái cụ Hoàng Minh Chính nói với mọi người trong gia đình: “Thôi  đưa cụ về, không rải nữa!”. Hiểu ý bà, người con rể ông Hoàng Minh Chính ôm  bình tro cốt  ra  xe quay về.
                      Nhóm  cảnh sát  liền bám theo chiếc xe đó.
                      Đến giữa cầu Thăng Long, con rể cụ Hoàng Minh Chinh  dừng xe,  mang bình tro cốt cụ Chính rải xuống giữa dòng sông Hồng đang cuộn chảy. Xe  cảnh sát ập tới, nhưng  việc đã rồi .
                     Trong khi đó bình tro cốt còn lại trong chiếc xe kia, con gái và các cháu ông Hoàng Minh Chính  rải quanh những gốc cây cổ thụ trên núi Tản.
                    Vậy là phải vất vả, phải ‘tương kế tựu kế’, các con cháu ông Hoàng Minh Chính  mới  thực hiện được di huấn của ông.  Nhẽ ra những cành sát kia không nên hành xử như thế, vì ai cũng có cha mẹ, mà di huấn cùa cha mẹ là điều vô cùng thiêng liêng. Và cũng vậy, ai cũng một lần chết, chẳng lẽ các vị thuộc diện bất từ à?
                   Kể xong câu chuyện đó bà Hoàng Phương  Thảo lau những giọt nước mắt giàn giụa, nói với tôi: “Sao người ta nỡ đối xử với một người quá cố như  vậy anh nhỉ ? ”.
          Dù cho chuyện gì thì khi người ta chết chỉ là giọt sương làn khói, sao lại ác đến mức riết róng với cả hương hồn người quá cố đến mức như vậy?
    M.D 
Theo blog BVB   



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 07, 2013 18:00

Bật cười vì… nghị định

An Nguyên


10-cau-hoi12NQL:Quan liêu và thiển cận là đặc sản của chính quyền hiện thời.


Lời bàn của Huy Đức: Mấy hôm nay bà con chỉ thấy tính hài hước của Nghị định này mà chưa thấy mối nguy lớn hơn đó là đất nước đang được điều hành bởi một chính phủ không biết luật pháp, không biết thẩm quyền ban hành các văn bản pháp quy của mình. Chính phủ có thể ra nghị định và Thủ tướng có thể ra quyết định cấm dùng ngân sách để mua “7 vòng hoa” viếng một công chức khi họ từ trần chứ không có quyền quy định số vòng hoa mà bạn bè, thân nhân mang tới viếng. Theo lý lịch thì Thủ tướng có bằng “cử nhân luật”, có ai từng học cùng lớp luật với ông không?


Hôm qua, một cán bộ cao cấp (đã nghỉ hưu) bật cười khi được đề nghị bình luận về Nghị định tổ chức lễ tang cán bộ, công chức, viên chức mà Bộ VH-TT-DL vừa họp báo công bố. Ông gọi đó là sự “quan liêu và thiển cận”. Nghị định này quy định việc tổ chức lễ tang đối với cán bộ, công chức, viên chức đang làm việc hoặc nghỉ hưu khi từ trần.


 Thứ nhất, về tính cần thiết thì không cần phải có một văn bản ở tầm Nghị định quy định về một sinh hoạt mang tính văn hóa, tâm linh cho đối tượng hẹp là cán bộ, công chức, viên chức khi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã có đủ các quy định về vấn đề này từ rất lâu. Cán bộ, công chức trước hết là công dân, quy định gì cho họ cũng không thể vượt quá nhân quyền.


 Thứ hai, văn bản vừa công bố chứa đựng nhiều quy phạm không khả thi. Quy định quan tài không để ô cửa có lắp kính na ná kiểu “ngực lép không được lái xe”. Nó chẳng hợp lý cũng không hợp pháp. Mà nếu đối tượng điều chỉnh không thực hiện thì cũng không có chế tài, cũng chẳng có lực lượng xử phạt.


 Gần đây, chưa nói đến những quy định được ban hành khiến dư luận “nổi giận” vì sự thiếu tôn trọng đối với đối tượng điều chỉnh mà có quá nhiều những quy định không có tính khả thi. Đó thực sự là những quy định “treo giấy” như: quy định về xử phạt nghe điện thoại tại cây xăng, xử phạt hút thuốc lá nơi công cộng, xử phạt lái xe ôm không đeo biển hiệu…


 Vì sao ngày càng có nhiều văn bản thiếu tính khả thi? Trước hết, bởi vì việc lấy ý kiến đối với văn bản luật chưa được thực hiện nghiêm túc. Cơ quan soạn thảo ít chú ý tới việc đánh giá tác động của văn bản khi áp dụng vào cuộc sống. Chính vì vậy, văn bản vừa ban hành, thậm chí là chưa có hiệu lực, đã phát sinh những điều không hợp lý cần chỉnh sửa. Cơ quan quản lý vẫn đặt mình vào vị trí của người kiểm tra, giám sát đối với mọi hoạt động của công dân và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy, họ không thực sự lắng nghe dân mà luôn luôn áp đặt ý chí chủ quan của mình vào văn bản pháp luật.


 Đến giờ, Bộ NN-PTNT là cơ quan hiếm hoi lên tiếng về việc xem xét kỷ luật cán bộ, công chức tham mưu ban hành văn bản quy định thịt gia súc, gia cầm chỉ được bán trong vòng 8 tiếng sau khi giết mổ, hồi tháng 9. Lỗi của người tham mưu ở đây là đã không biết rằng, xác định miếng thịt đang bày bán đã quá 8 tiếng đồng hồ kể từ khi giết mổ là việc không tưởng.


 Còn rất nhiều những quy định không tưởng như vậy, ai chịu trách nhiệm? Luật pháp phải có tính “thiêng”, nếu cứ ban hành ra thấy bị phản ứng thì hoãn áp dụng để sửa hoặc đánh bài “lờ” sẽ khiến người dân coi thường luật pháp. Khi “luật pháp trên trời, cuộc đời dưới đất”, sẽ dẫn tới chuyện người dân hành xử không theo pháp luật mà tự xử, cuộc sống từ đó mà trở nên phức tạp.


Theo báo TN



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 07, 2013 16:20

Mệt mỏi

Võ Trung Hiếu

questionMệt mỏi …

Vì mưa nắng, kẹt xe và khói bụi

Vì những đường phố cứ mãi đông nghịt người

Vì những ” cắt trĩ mạch lươn”, ” khoan cắt bê tông ” dán đầy cột điện

Vì những tờ bướm tiếp thị ngoa ngoắt vứt đầy khắp nơi


Mệt mỏi …

Vì các em teen xinh xắn bây giờ hơi tý là chửi thề cong môi

Vì những trận bóng đá kịch cọt sặc mùi bán độ

Vì bọn MC và gameshow ngày càng loạn ngôn nhí nhố

Vì lên tivi chém gió với anh Lê Hoàng lúc nửa khuya tự dưng thành mốt thời trang

Vì các sao showbiz sau khi còm cõi tài năng chỉ còn cách khoe hàng

Hâm lại những trò vui rẻ tiền đã nhạt


Mệt mỏi …

Vì lương cứ mãi ì à ì ạch

Vì phí gửi xe và tiền gas-điện vừa tăng gần gấp đôi

Vì tiền tiết kiệm cứ lặng lẽ theo lạm phát bốc hơi

Vì ngân hàng và bất động sản ế ẩm suốt ngày a lô léo nhéo chào mời

Vì bao câu hỏi nhói lòng chưa có hồi âm từ nghị trường quốc hội

Vì nước xuất khẩu gạo hạng nhất hành tinh mà dân vẫn còn người đói

Vì các quan thời nay trình độ thanh minh thanh nga quá giỏi

Vì ” dân trí thấp”, vì thằng ” khách quan “…


Mệt mỏi …

Vì những promotion, report, deadline

Cuộc đời này chẳng lẽ chỉ toàn mua với bán ?

Nếu loài người chỉ biết ăn xong rồi vứt đũa chạy ùa đi săn lợi nhuận

Ai hơn ai thiệt ai lỗ ai lời ?

Hành tinh này liệu sẽ còn có một tương lai ?


Mệt mỏi …

Vì khẩu hiệu kiểu Liên Xô từ tivi cứ ong ỏng nhét vào tai

” Đẩy mạnh” cái này, ” phát huy ” cái nọ …

Xin lỗi các vĩ nhân !

Nếu các ngài biết vừa nói vừa làm

Thì đất nước đã không nghèo khó

Thì con cháu chúng ta không cần è lưng trả nợ

Và niềm tin đã không thêm một lần tan vỡ …


Mệt mỏi …

Vừa sống vừa lo vừa buồn vừa sợ

Vì chả biết dúi niềm tin và hy vọng vào đâu

Từng sợi tóc ưu tư ngả bạc trên đầu

Ngày qua áo cơm quay vòng nhạt thếch


Mệt mỏi …

Vì mỗi ngày vẫn phải có đôi lần diễn kịch

Có khi vì mình, có lúc vì người

Ngơ ngẩn mềm lòng, chiếc mặt nạ đánh rơi

Đành đứng lặng cho người đời ném đá


Mệt mỏi …

Thêm một lần vấp ngã

Liệu ta còn buồn đứng lên ?


23.11.2012


VTH


Tác giả gửi cho QC



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 07, 2013 07:34

Nguyễn Quang Lập's Blog

Nguyễn Quang Lập
Nguyễn Quang Lập isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Quang Lập's blog with rss.