Nguyễn Quang Lập's Blog, page 107

January 4, 2013

Cần một hiến pháp dân chủ hợp lòng dân

Tô Văn Trường
1277712861_luat 020NQL: Đây là chuyên luận của ông Tô Văn Trường, mình đã đọc kĩ và thấy rất hay. Hiến Pháp là bộ luật gốc, hệ lụy đến quốc kế dân sinh, hệ lụy đến sinh mệnh chính trị của mọi người. Vì thế rất mong Ban sửa đổi hiến pháp, Quốc hội và lãnh đạo bỏ thời gian tĩnh tâm đọc bài này.
Sau đây là bài viết của ông Tô Văn Trường.
Cùng các bạn,
Đang “vật lộn” với đống tài liệu để viết nhận xét chuẩn bị cho cuộc họp hội đồng thẩm định đánh giá báo cáo tác động môi trường dự án cảng Lạch Huyện dự kiến họp vào tuần tới,  nhận được mail, tin nhắn, điện thoại của nhiều người “thăm hỏi” vì sao chưa viết góp ý bản sửa đổi Hiến pháp năm 1992 mới được công bố trên công luận? 
Người dân hiểu rõ đối với mọi quốc gia, Hiến pháp là bộ luật cơ bản nền tảng, hay nói cách khác là “luật Mẹ” bởi thế việc sửa đổi Hiếp pháp là công việc hệ trọng, đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ càng, nghiên cứu chu đáo để nhằm đạt được sự đồng thuận cao nhất trong toàn dân. Đảng và Quốc hội công bố lấy ý kiến việc sửa đổi Hiến pháp là đòi hỏi tất yếu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. 
Hiến pháp mới không cần quy định quyền hạn và nghĩa vụ của con người và của công dân (đó là quan điểm cũ kỹ, lỗi thời). Hiến pháp chỉ quy định quyền của con người và quyền của người công dân và thế là đủ, thế là rõ nghĩa vụ, không cần quy định nghĩa vụ “tương ứng với quyền hạn”!
Hiến pháp cần phải nêu rất rõ ràng : Luật chỉ được cấm một số rất ít điều xâm phạm đến lợi ích của dân tộc, của đất nước, ta thường gọi là “có hại cho quốc kế dân sinh”.
Công lý được bảo vệ, và không có cơ quan nào, cá nhân nào có thể ra lệnh cho quan tòa. Do đó tư pháp phải hoàn toàn độc lập. Có thể xem xét việc để dân bầu quan tòa cấp địa phương (những người hội đủ điều kiện), và cấp xem xét lại án xử (do Quốc hội chỉ định nhưng có nhiệm kỳ suốt đời hay ít nhất là dài hơn nhiệm kỳ của Quốc hội.)

Mọi người được quyền ứng cử nếu không có tiền án. Còn hiện nay, ai ứng cứ đều được do đảng quyết định. Đảng tất nhiên có quyền ra lệnh cho đảng viên bầu theo, nhưng khi thật sự có quyền ứng cử, đảng viên có thể chọn ra khỏi đảng để ứng cử hay theo đảng.

Bản Hiến pháp mới sửa để lấy ý kiến nhân dân, có nhiều điểm mới nhưng vẫn không có được bản chất cần phải có của bản Hiến pháp thể hiện ý nguyện của dân chứ không phải của bất kỳ ai cả. Chất dân chủ, tự do vẫn còn thiếu vắng trong Nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự và kinh tế thị trường.  
Nhiều ý kiến quan ngại Hiến pháp không chỉ là của một số người tham gia soạn thảo viết ra cho Dân, mà còn phụ thuộc vào chất lượng đại biểu Quốc hội  ”đầu vào” thế nào, thì “đầu ra” thế ấy! Tuy nhiên, nhận thức là quá trình, chúng ta đừng quên rằng chính nhờ sự sáng suốt của nhiều đại biểu QH khóa trước biết vượt lên chính mình nên đến giờ G, mới ngăn chặn được dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam “kim tự tháp” của Việt Nam.  
Sửa Hiến pháp như thế nào để ít nhất, những người Việt Nam trong và ngoài nước không còn phải ký tên vào Lời kêu gọi thực thi quyền con người theo Hiến pháp tại Việt Nam ngày 25/12/2012 vừa qua.
Nhân đây, xin gửi lại 3 bài viết của tôi cách đây đã lâu vẫn còn mang nguyên tính thời sự để đối chiếu với bản dự thảo Hiến pháp mới sửa hiện nay.

Tô Văn Trường

I.HIẾN PHÁP DÂN CHỦ LÀ TẤT YẾU CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN


 Vật chất có thể nhận biết bằng cách quan sát các hiện tượng hoặc bằng cách suy luận. Ánh sáng có thể được thấy dưới dạng hạt hoặc là sóng. Đánh giá  một quốc gia, người ta thường nhìn vào bản Hiến pháp bởi vì nó là một hệ thống quy định những nguyên tắc chính trị căn bản và thiết lập thủ tục, quyền hạn và trách nhiệm của một chính quyền. Bởi vậy, tất cả các quốc gia đều rất cần có bản Hiến pháp dân chủ thể hiện nhà nước pháp quyền.
Quốc hội có chủ trương sửa lại Hiến pháp năm 1992,  không những là cơ sở để sửa những luật cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước, cơ chế bảo vệ Hiến pháp và  quyền bầu cử mà còn là cơ hội để rà soát, đánh giá lại toàn bộ về bản Hiến pháp đối với yêu cầu hội nhập và phát triển của đất nước. Hiến pháp là một văn kiện thiêng liêng của mỗi quốc gia, là văn bản tối cao của pháp luật quy định những vấn đề cơ bản nhất của nhà nước đó. Bản chất của Hiến pháp là những quy định pháp luật mà văn bản pháp luật là những điều quy tắc ứng xử , bắt buộc đối với mọi đối tượng sống trên lãnh thổ nhà nước cho nên khi sửa phải rất thận trọng, bài bản, khoa học và thực tế. Hiến pháp của một quốc gia là tiếng nói của nhân dân, của dân tộc làm chủ quốc gia đó. Người đứng ra nói trong Hiến pháp là dân tộc, từng câu, từng chữ, từng lời trong Hiến pháp là câu, là chữ, là lời của dân tộc, biểu thị sự lựa chọn và quyết định của dân tộc, ý chí và tâm nguyện của dân tộc.
Nhận thức về bản chất của Hiến pháp, sẽ chỉ rõ cho chúng ta khi muốn sửa Hiến pháp phải làm những việc gì, làm như thế nào, khi nào để một văn bản tự nhận là Hiến pháp đáng gọi là Hiến pháp. Trên thế giới này, xưa nay đã từng có những bản mạo danh Hiến pháp, là sản phẩm của một số người mạo danh dân tộc. Xin lưu ý rằng, giá trị của một bản Hiến pháp hoàn toàn vừa đúng bằng, không hơn, không kém, giá trị của sự thực hiện Hiến pháp ấy. Những nhà nghiên cứu có kinh nghiệm thường đánh giá một bản Hiến pháp dựa trên sự phân tích thực tế thực hiện hay không thực hiện, thực hiện trung thành hay thực hiện bóp méo các điều khoản, và các câu chữ của văn bản Hiến pháp ấy.
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 2/9/1945, đọc tại vườn hoa Ba Đình lịch sử, mở đầu, Người đã dựa vào lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập 1776 của nước Mỹ và bản Tuyên ngôn nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
 Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh là đỉnh cao của văn chương chính luận Việt Nam Văn kiện pháp lý đầu tiên khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên trường quốc tế. Bản Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945 của Hồ Chủ Tịch văn chương sắc sảo, giản dị, dễ hiểu, lay động lòng người, phản ánh tư tưởng của Người: Dân tộc muốn đi lên, phải biết thừa kế các tinh hoa của nhân loại. Với tầm vóc của lãnh tụ, Người lập luận vô cùng sắc sảo, đanh thép, chân lý, hào khí của dân tộc: “Nếu nước nhà được độc lập mà dân chúng không có tự do hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân chủ rất đơn giản, thiết thực nghĩa là mọi người dân có quyền được mở miệng hay nói cách khác Hiến pháp phải thể hiện được quyền phúc quyết của người dân. Nếu dùng phương pháp “tham  chiếu”  sẽ thấy Hiến pháp 1946 thể hiện tuyệt vời Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ Tịch bởi lẽ nó đúng, đủ và giản dị, thể hiện dễ hiểu thành Hiến pháp với tất cả tinh thần của Tuyên ngôn độc lập. Thực ra, thể hiện Tuyên ngôn độc lập như thế vào Hiến pháp là việc rất khó  nhưng  Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm được. Đương nhiên, thời ấy câu chữ có phần mộc mạc để cho mọi người dân dễ hiểu nên vấn đề tam quyền phân lập được viết ra dưới dạng rất “bình dân”, nhưng mà vẫn đủ nghĩa. Trong quá trình phát triển của đất nước, phải hướng tới tương lai, chúng ta không bao giờ muốn “bao giờ cho đến ngày xưa” nhưng éo le thay, thời đại ngày nay vấn đề sống còn của đất nước là phải trở lại, học hỏi những tinh túy của Hiến pháp 1946.
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ 3/9/1945, Hồ Chủ tịch đã có chỉ thị nhiệm vụ cấp bách phải xây dựng bản Hiến pháp để nhân dân được hưởng quyền tự do dân chủ. Theo sắc lệnh số 34 ngày 20/9/1945 của Hồ Chủ Tịch  Ban soạn thảo Hiến pháp 1946  của Chính phủ lâm thời do 7 người chủ trì: Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy (Bảo Đại), Đặng Thái Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương  Bằng, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh). Tháng 11-1945, bản Dự án Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được Chính phủ soạn thảo và được công bố để lấy ý kiến các chính giới. Uỷ ban kiến quốc của Chính phủ cũng đã tự nghiên cứu và đưa ra một Dự thảo Hiến pháp.  Ngày 2-3-1946, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa I, Quốc hội đã bầu Ban Dự thảo Hiến pháp gồm 11 người: Trần Duy Hưng, Tôn Quang Phiệt, Đỗ Đức Dục, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Huỳnh Bá Nhung, Trần Tấn Thọ, Nguyễn Cao Hách, Đào Hữu Dương, Phạm Gia Đỗ, Nguyễn Thị Thục Viên. Đây là các trí thức tiêu biểu, có người chưa phải là đảng viên. Căn cứ vào bản Dự án của Chính phủ và đối chiếu với bản Dự thảo của Uỷ ban kiến quốc, tập hợp những kiến nghị phong phú của toàn dân và tham khảo kinh nghiệm soạn Hiến pháp của các nước, Ban Dự thảo Hiến pháp của Quốc hội đã soạn thảo một Dự án Hiến pháp để trình Quốc hội.  Trong phiên họp ngày 29-10-1946, Ban Dự thảo Hiến pháp của Quốc hội được mở rộng thêm 10 vị đại biểu cho các nhóm, đại biểu trung lập, đại biểu Nam Bộ, đại biểu đồng bào dân tộc thiểu số để tham gia tu bổ thêm bản Dự án.
Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, từ ngày 28-10 đến ngày 9-11-1946, lần đầu tiên Quốc hội Việt Nam thực hiện quyền lập hiến. Từ ngày 2-11-1946, Quốc hội bắt đầu thảo luận về Dự án Hiến pháp. Các đại biểu của các nhóm đảng trong Quốc hội đã lần lượt phát biểu ý kiến. Các vị đại biểu của các nhóm đều đã nêu ra những ưu điểm của Dự án Hiến pháp, đóng góp thêm một số khía cạnh cụ thể và đi đến thống nhất nội dung của Dự án. Sau nhiều buổi thảo luận và tranh luận sôi nổi, sửa đổi, bổ sung cho từng điều cụ thể, ngày 9-11-1946, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hiến pháp 1946 với sự nhất trí của 240/242 đại biểu dự họp. Hiến pháp 1946  khá đơn giản, có 70 điều, được xây dựng trên tư tưởng pháp quyền, tự do dân chủ của công dân, và quy định những vấn đề cơ bản nhất của nhà nước. Đặc điểm cơ bản của Hiến pháp năm 1946 được thể hiện trong 3 nguyên tắc cơ bản, đó là: đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo trên cơ sở của nhà nước pháp quyền với quyền tự do dân chủ của công dân . Do hoàn cảnh lịch sử của nước ta thời ấy nên Hiến pháp 1946 tuy có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn có mặt bị hạn chế, phải dung hòa. Cụ Nguyễn Sơn Hà là đại biểu Quốc hội Khóa I của Việt Nam bỏ phiếu chống  chỉ vì Hiến pháp không có Điều nói về tự do kinh doanh. Ngẫm suy, mới thấy sinh hoạt Quốc hội thực sự dân chủ ngay từ thời mới lập nước Việt Nam để phát huy trí tuệ của toàn dân.  
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Hiến pháp Hoa Kỳ được thông qua năm 1789 có tính quốc gia hiện đại lâu dài nhất trên thế giới nhưng thực ra, nó cũng chịu ảnh hưởng của Hiến pháp Anh.  Xin ghi lại nguyên văn câu đầu tiên của Hiến pháp Hợp chủng quốc Mỹ (từ “Hợp chủng quốc” dịch không chuẩn từ “United States”) “ CHÚNG TÔI, NHÂN DÂN Hợp chủng quốc, với mục đích thực hiện một sự liên hiệp chặt chẽ hơn, thiết lập công lý, duy trì an ninh nội bộ, trù liệu công cuộc phòng thủ chung, phát triển sự thịnh vượng toàn diện và bảo đảm cho chúng tôi và hậu thế của chúng tôi các lợi ích của sự tự do, quyết định và thiết  lập hiến pháp này cho Hợp chủng quóc Mỹ”.
Câu nói trên, là của những người biết cách viết Hiến pháp. Còn chất lượng của Hiến pháp, và nhất là giá trị của sự thực hiện Hiến pháp, thì phải nghiên cứu, phân tích trong thực tế cuộc sống. Hiện nay, ở nước ta một số người vẫn có phần úy kỵ với tam quyền phân lập mà hay dùng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Nếu đi sâu phân tích về tam quyền phân lập, bản chất là 3 nhánh quyền lực không chỉ phân lập mà còn kết hợp hài hòa chặt chẽ và kiểm tra giám sát lẫn nhau trên nền tảng là trung thành với nhân dân. 
Văn bản luật của một nhà nước gồm một hệ thống từ Hiến pháp đến các văn bản lập pháp ban hành và hướng dẫn thực hiện. Pháp luật nhà nước là công cụ phục vụ cho các giá trị xã hội cho nên Đảng phải chủ động đặt lên bàn nghị sự thảo luận những vấn đề cốt lõi của thể chế hiện nay.
Hiến pháp 1992 gồm 12 chương, 147 điều được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Khóa VIII, kỳ họp thứ 11 nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 15/4/1992 do Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh ký. Nếu đọc kỹ bản Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) có Lời nói đầu 2 trang, 6 đoạn, cần phải sửa để người đọc thấy rõ đó là lời của nhân dân Việt Nam. Đó là mới chỉ nói về viết văn bản Hiến pháp. Người dân hiểu được tiến trình quốc gia thông qua Hiến pháp có quan hệ mật thiết đến hoàn cảnh chính trị và lịch sử văn hóa của dân tộc. Việc quan trọng nhất là phải xác định nội dung Hiến pháp xây dựng trên các nguyên tắc nào, các quan điểm xây dựng Hiến pháp và các phương pháp thực hiện.
Theo chúng tôi hiểu, hiện nay có 3 quan điểm sửa đổi  Hiến pháp 1992. Thứ nhất là chỉ sửa một số điểm trong Hiến pháp để làm cơ sở sửa những luật cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước nhằm bỏ Hội đồng nhân dân cấp huyện và cho Thủ tướng Chính phủ quyền bổ nhiệm các chủ tịch tỉnh, cơ chế bảo vệ Hiến pháp và  quyền bầu cử. Có thể nói đây là quan điểm cho mục tiêu trước mắt. Quan điểm thứ hai là  trả lại cho dân quyền làm chủ đích thực: “Dân làm chủ có nghĩa là Dân phải quyết trực tiếp thể chế quốc gia, tức là Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, rồi Dân giao cho Nhà nước và giám sát Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ và Tòa án) quản lý đất nước theo Hiến pháp và những quyết định đó của Dân”. Ông Nguyễn Văn An đã có thời kỳ đảm nhiệm cương vị Chủ tịch Quốc hội. Qua trải nghiệm của thời gian, thấy rõ những khiếm khuyết, bất cập của Hiến pháp 1992 nên Ông đã mạnh dạn đề xuất quan điểm thứ hai nói trên hay nói cách khác đây là mục tiêu lâu dài. Quan điểm thứ ba dựa trên thể chế chính trị dân chủ của học hỏi và phát triển,  cần Đổi mới Đảng và khởi động cuộc vận động cả nước đi vào quá trình dân chủ hoá đất nước. Chúng tôi nhận thấy những ý kiến nêu trên rất cần thiết phân tích, đánh giá. Những người  đương chức, có trách nhiệm cần sắp xếp, thể hiện tính lô-gích nội tại của sự vật, của thực tế bởi vì Hiến pháp 1992 không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội sau 20 năm đổi mới.  Thiệt thòi là lịch sử phát triển xã hội ở nước ta không trải qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa nên không có được kinh nghiệm tri thức và cơ sở vật chất cho nên phải mò mẫm theo định hướng riêng nên gặp phải nhiều khó khăn, trắc trở cũng là điều dẽ hiểu. Trong thời đại hội nhập và phát triển chúng ta cần phát huy tính tự cường của dân tộc, đồng thời khiêm tốn, học hỏi các tinh hoa của nhân loại để tiến cùng thời đại.
  Người dân luôn quan tâm làm thế nào để  Hiến pháp được thực thi một cách minh bạch, hữu hiệu trong đời sống thực tế? Ngay bản Hiến pháp trước đây của Liên Xô trên văn bản là đảm bảo quyền tự do lập hội hay quyền tự do ngôn luận nhưng thực tế diễn ra không phải như vậy. Ở các nước tiên tiến, thực sự dân chủ, Hiến pháp được bảo vệ bằng Tòa  án Hiến pháp hoặc Tòa án tối cao. Việc sửa đổi Hiến pháp 1992 để có thể áp dụng hữu hiệu trong thực tế, đáp ứng nhu cầu hội nhập và phát triển, phải được xây dựng trên tư duy phân rõ trách nhiệm, quyền hạn, và giám sát lẫn nhau của 3 cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước: Lập pháp; Hành pháp; và Tư pháp;  Các cơ quan Truyền thông, báo chí và Kiểm toán độc lập không nằm trong bộ máy tổ chức nhà nước nhưng là trung tâm quyền lực xã hội cần được luật hóa bảo đảm quyền lực trong xã hội dân sự, đồng thời chịu trách nhiệm trước pháp luật và xã hội. Nói cách nôm na, xã hội cần có 5 trung tâm quyền lực nói trên  hay còn gọi là “ngũ quyền” để kiểm tra, giám sát lẫn nhau.
Sửa đổi Hiến pháp 1992 là một dịp rất tốt để thúc đẩy quá trình dân chủ hóa do Đảng phát động thông qua dư luận xã hội. Ý kiến của xã hội dân sự lành mạnh sẽ là chỗ dựa tin cậy và chắc chắn cho lực lượng cầu thị trong Đảng. Trong bối cảnh đất nước hiện nay, mọi sự cải cách cơ bản chỉ có thể do bộ phận lãnh đạo chủ chốt của Đảng phát động, chỉ đạo thực hiện và phải thực sự cầu thị lấy tư tưởng Hồ Chí Minh và yêu cầu phát triển của thời đại làm nền tảng.
Hiến pháp dân chủ về bản chất nhân dân phải là người ra quyết định làm chủ quốc gia. Nội dung chủ yếu của các quyết định ấy được tạo thành hệ thống pháp luật. Nguyên tắc quan trọng nhất là tất cả quyền bính trong nước đều thuộc về nhân dân.  Bởi vậy, chúng  tôi đề nghị khi sửa bản Hiến pháp 1992 , thì ngay câu đầu tiên phải viết như sau:
“Chúng tôi, dân tộc Việt Nam quyết định và  công bố những điều khoản sau đây, với trách nhiệm lịch sử trước các thế hệ người Việt Nam hiện nay và mai sau, trước các dân tộc, các quốc gia trong cộng đồng quốc tế” .
Trong bối cảnh của đất nước hiện nay, cần phải có bước quá độ nhưng một số vấn đề quan trọng nhất sau đây cần phải được làm ngay, có tính chất mở đường  khi sửa đổi Hiến pháp 1992:
1. Đảng lãnh đạo thông qua quan điểm được thể hiện trong luật pháp và các chủ trương chính sách được Quốc hội thông qua, và qua đảng viên của mình trong hệ thống bộ máy nhà nước; Cần làm rõ Hiến pháp là tối thượng, chính quyền chỉ hoạt động theo quy định của Hiến pháp và hệ thống pháp luật. Sau khi làm rõ quyền và trách nhiệm của công dân, rồi đến quyền và trách nhiệm của hệ thống nhà nước trong chỉnh thể tam quyền phân lập. Cần có một chương mục chung quy định về các điều kiện phải có để được phép trở thành đảng chính trị tham gia bầu cử nhằm loại bỏ, sàng lọc các đảng phái không thực sự đại diện cho các lợi ích dân tộc mà chỉ mưu đồ cho mục đích của một nhóm cá nhân có khả năng làm ảnh hưởng đến lợi ích cùa toàn dân tộc.  Các điều kiện, vai trò lãnh đạo chỉ được công nhận qua bầu cử. Chương mục về đảng phái chính trị nên để chung vào chương mục bầu cử.
2.   Để đảm bảo quyết phúc quyết của dân, trước hết phải bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân, các quyền tự do ngôn luận, đi lại & cư trú, hành nghề, quyền sở hữu, quyền ứng cử và bầu cử
3.  Bảo đảm tự do báo chí. Tự do được hiểu là trong khuôn khổ của Hiến pháp và  quyền hạn gắn với trách nhiệm.
Quốc gia muốn phát triển bền vững đòi hỏi có bản Hiến pháp xứng đáng gọi là Hiến pháp, hay nói cách mạnh mẽ hơn cần có bản Hiến pháp dân chủ thể hiện nhà nước pháp quyền. Đảng nâng cao vai trò, chất lượng và nội dung lãnh đạo của Đảng bằng việc lãnh đạo tạo dựng được quyền nhân dân ta thực sự là chủ và thực sự làm chủ, lãnh đạo tạo dựng được một nhà nước mạnh, có một bản Hiến pháp đích đáng là Hiến pháp dân chủ và  một nhà nước có thực quyền.
 
 
II. Ý DÂN- LÒNG DÂN



 
Trong bài viết “Cảm xúc tháng tư” ngày 1/4/2010, tôi đã phân tích Thông báo số 316-TB/TW ngày 15-3-2010 của Bộ Chính trị các văn kiện công bố lấy ý kiến nhân dân gồm các dự thảo: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế-xã  hội 10 năm 2010-2020, và Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khoá X. Trong đó, có đề cập phải sau hơn 6 tháng, nghĩa là đến 15-10-2010, các văn kiện mới được công bố để lấy ý kiến nhân dân. Như vậy, việc lấy ý kiến chỉ diễn ra trong vòng một tháng (từ 15 tháng 10 đến 15 tháng 11 năm nay) là quá muộn, dễ trở thành hình thức. Nếu phải chờ đến tận ngày 15/10 mới được góp ý với Đảng, chắc nhiều người không đủ kiên nhẫn, để nghiên cứu, suy nghĩ, vắt óc hiến kế trong khung cảnh hẹp cả về thời gian và cả lòng tin vào lãnh đạo.
Người dân tích cực, hào hứng, tham gia đóng góp ý kiến với Đảng chỉ khi có lòng tin của họ và mong muốn của Đảng được xây dựng trên nền tảng dám nhìn thẳng vào sự thật, thảo luận một cách công khai và dân chủ cùng với cả nước để tìm lối đi cho đất nước. Phát huy dân chủ là tạo cơ chế để người dân, đặc biệt giới trí thức tham gia vào mọi mặt của cuộc sống, nhất là phản biện xã hội. Phản biện cần phải được thực hiện trong quá trình hình thành, tạo ra cơ chế, đường lối, chính sách chứ không phải sau khi đã ban hành để tránh không còn phải xé rào! Ngay khi tổng kết rút kinh nghiệm Đổi mới từ năm 1986 người dân đã được biết qua bài viết của GS Đặng Phong cho đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự “Những cuộc điều tra thăm khách quan, vai trò của báo chí, vai trò của Quốc hội, các cơ quan nghiên cứu độc lập đã không có điều kiện để phát huy hết hiệu quả. Có nơi, chúng chỉ mang nặng tính chất hình thức, như những vật làm cảnh hơn là những công cụ hữu hiệu của xã hội. Thay vào đó là một hệ thống những kênh thông tin khép kín, vừa chậm chạp, vừa nghèo nàn và méo mó. Trong nhiều trường hợp, sự méo mó đó cộng với quyền uy đã dẫn tới những sai lầm mang nặng tính chủ quan, duy ý chí, mà sau này Đại hội Đảng lần thứ VI đã kiểm điểm và phê phán nghiêm khắc.”
Có thể nhiều ý kiến của nhân dân, đặc biệt của các vị lão thành cách mạng, ít nhiều đã tác động đến những người có thẩm quyền, cho nên Ban chấp hành Trung ương mới công bố các dự thảo văn kiện trình đại hội Đảng XI sớm hơn 1 tháng so với thông báo trước đây.
Trong thời gian vừa qua, trên các phương tiện thông tin đại chúng đã có nhiều người viết góp ý với Đảng tùy theo chỗ đứng, góc nhìn về những điều mình mong  muốn nhất hoặc thấy rõ nhất. Có nhiều  bài viết chỉ 1 đến 3 trang nhưng có bài viết công phu đến hơn 40 trang, rất tâm huyết, quan tâm, trăn trở lo lắng về vận mệnh của đất nước. Nhiều phân tích, đề xuất sắc sảo, thẳng thắn mang tính đột phá về tư tưởng và hành động của các vị lão thành cách mạng, cán bộ nghỉ hưu, cựu chiến binh, giới trí thức, tiếc rằng vẫn chưa được làm rõ nét trong Dự thảo văn kiện! Phải chăng do ngôn ngữ bất đồng theo nghĩa nói bằng thứ tiếng khác nhau hay là do các vấn đề liên quan về phương thức, cách thức lắng nghe tiếp thu ý kiến?! Theo thiển nghĩ của tôi, nếu tiếp tục cất công làm phép quy chiếu, đem so sánh kết cấu, từng câu chữ, để tranh luận tìm ra vài ý mới hay nhiều chỗ thụt lùi so với văn kiện cũ, chẳng giải quyết được vấn đề gì, bởi vì gò bó vào câu chữ sẽ bị cuốn theo lối mòn.
Dù có viết góp ý hay đến mấy cũng thế thôi khi mà cốt lõi của vấn đề là người ta viết văn kiện vẫn theo lối tư duy, thói quen xưa nay là  “ý Đảng, lòng Dân” vừa không chuẩn, vừa quá cảm tính. Thực ra,  phải đặt ngược lại: Nguyện vọng của nhân dân phải trở thành ý chí của Đảng.  Nhận thức là cả quá trình, tiếc thay cho đến tận ngày nay, người ta vẫn coi câu khẩu ngữ  “ý Đảng, lòng Dân” như sự phát kiến vĩ đại. Ý là nói về lý trí, lý tính, duy lý có tính chất rất quan trọng, mang tính trí tuệ, thể hiện trong tư duy, định hướng, tầm nhìn, phương pháp luận, giải pháp v.v… Lòng có thể hiểu là thể hiện tình cảm, mong muốn. Chỉ khi nào viết văn kiện phù hợp với thực tế đúng đắn, sáng tạo, phong phú, sâu sắc được xây dựng trên quan điểm “ý Dân, lòng Dân” thì mới có giá trị đi vào cuộc sống. Ngày xưa, Tư Mã Thiên có nói đại ý như sau: “Người phụ nữ làm đẹp vì người mình yêu, còn kẻ sỹ dốc sức vì tri kỷ.” Ngày nay, suy rộng ra, nếu Đảng với Dân là tri kỷ thì Đảng phải nghe Dân và Dân sẽ dốc lòng vì Đảng.
Tôi chỉ đơn cử một vài ví dụ về quan điểm và các giải pháp đưa ra cần phải xem xét lại vì không logic, không được lòng dân. Trong lĩnh vực giáo dục mà lâu nay chỉ nói về đổi mới cơ bản và toàn diện, không nói về cải cách. Trong bối cảnh hội nhập, cần quan điểm mới, chính sách mới mà nhiều nước trên thế giới đã thực hiện cải cách giáo dục, có gì mà phải né tránh. Trong chiến lược phát triển giáo dục của nước ta vẫn chỉ chạy theo số lượng, chưa quan tâm đến chất lượng. Xin thử xem số liệu sau:




Năm


2006


2020


Tốc độ tăng năm




Dân số


84.155.800


97.208.267


1,5%




Độ tuổi 18-22


8.127.069


6.492.855


-2,2%




Số sinh viên


1.666.200


4.374.372


10,1%




Số sinh viên/10.000 dân


195


450


8,7%




          Theo đó, số sinh viên phải tăng 10,1% một năm thì mới có thể đạt 450 sinh viên trên 10 ngàn dân. Vậy thử hỏi phải làm các biện pháp gì, như thế nào, khi nào để có thể tăng số giáo sư ở mức độ hiện nay lên, để ít nhất là giữ được chất lượng như hiện nay? Nếu muốn giữ chất lượng cao hơn, tức là giảm số sinh viên trên 1 giáo sư thì tốc độ tăng phải cao hơn nhiều.
Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 có viết “Nhà nước tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng đường bộ và đường sắt cao tốc Bắc-Nam, một số cảng biển và cảng hàng không đạt đẳng cấp quốc tế, hạ tầng đô thị tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh”. Trong thời gian vừa qua, người dân, các nhà khoa học trong và ngoài nước đã phân tích thấu đáo, chỉ rõ những bất cập, không hiệu quả về kinh tế, xã hội, thậm chí ảo tưởng, phiêu lưu về dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam – Kim tự tháp của Việt Nam. Mặc dù chịu sức ép từ nhiều phía, Quốc hội đã sáng suốt, dũng cảm, bỏ phiếu bác bỏ dự án này, thể hiện ý chí, nguyện vọng  của cử tri.  Thật khó hiểu, trong chiến lược phát triển kinh tế của Đảng  đến 2020 (chỉ còn 10 năm nữa) trong  lúc rất khó khăn về  kinh tế, nhân lực hạn chế, nợ công, “nợ ngầm” đã đến mức báo động lại vẫn cứ đưa ra kế hoạch tập trung nguồn lực xây dựng đường sắt cao tốc Bắc-Nam!?  Lâu nay, nhiều vụ khiếu kiện gây bất ổn trong xã hội chính là liên quan đến vấn đề cho nhà nước toàn quyền phân phối “quyền sử dụng đất”! Câu hỏi được đặt ra là tại sao một chính quyền dù ở bất cứ vị trí nào từ trung ương đến địa phương có quyền lấy đất canh tác của dân để giao cho một doanh nghiệp khi cả hai về mặt luật pháp là hai thực thể kinh tế độc lập và giống nhau!? Ở các nước, chỉ có thể lấy lại đất tư nhân nếu như sử dụng để xây dựng công trình công cộng như đường sá, công viên, sân bay, bến cảng v.v… chứ không có quyền lấy đất giao cho doanh nghiệp. Làm như thế là phân biệt đối xử, vi phạm hiến pháp. Nếu vì lý do kinh tế mà lấy lại thì phải có cơ chế bảo đảm không có phân biệt đối xử, thí dụ  thông qua quyết định của cộng đồng và sau khi nhà nước lấy lại, phải có đấu giá để mọi người tham dự.  
          Một trong những vấn đề quan trọng, cốt tử liên quan đến sự ổn định và phát triển của đất  nước là việc lựa chọn nhân sự thì Đảng lại không hỏi Dân!? Nguyên Phó thủ tướng Đồng Sỹ Nguyên, một vị tướng đáng kính của nước nhà cũng bày tỏ quan điểm lựa chọn người lãnh đạo, rất hay, rất đẹp nhưng xin thưa rất khó thực hiện. Trong cơ chế hiện nay, và văn hóa của người Việt, đòi hỏi người đương chức, đương quyền tự đổi mới mình là việc rất khó.  Suy cho cùng cái “thói quen” (như Lenin nói) và tư duy nhiệm kỳ vẫn còn hằn sâu trong nếp nghĩ của không ít người có thẩm quyền. Muốn có giống nòi tốt, những hạt nhân để quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước thì phải đổi mới cơ chế bầu cử, cơ chế nhân sự, có tranh cử thực sự, hay nói theo cách khác là phải từ bỏ một tập tục “lấy nhau” trong đảng, giống như tập tục lấy nhau giữa những người cùng huyết thống. Cách làm cán bộ lãnh đạo cũ chọn hay chỉ định cán bộ mới ra để bầu cử, không phải tranh cử, tức là chọn những người giống mình, cùng suy nghĩ như mình, tệ hơn là sẵn sàng “hẩu” với mình. Cách chọn người lãnh đạo như thế thì dù có để mọi người bầu hay đại biểu bầu cũng thế thôi bởi vì sẽ không thể loại được cái gọi là sự xuống cấp của gene. Do chọn lựa trong nhóm quá nhỏ bé, và nếu phải gene tồi thì cái xã hội nhỏ bé đó sẽ lập lại cái gene tồi đó ở mức cao hơn và rộng hơn. Ở một xã hội rộng lớn hơn thì gene mạnh sẽ đánh bật gene yếu theo thuyết Darwin. Ở  một tập thể ngày càng teo lại thì làm gì có gene mạnh để được tuyển chọn.  Để  thực hiện “ý Dân, lòng Dân” trong công tác nhân sự, cách đơn giản nhất là tổ chức bầu cử các cơ quan và chức danh nhà nước trước ở tất cả các cấp: Ở cấp Trung ương thì bầu Quốc Hội, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chính phủ, Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao, Chánh án toà án tối cao, sau đó mới họp Đại hội Đảng bầu Trung ương Đảng và Bộ Chính trị, bầu Tồng bí thư). Sự tín nhiệm và kết quả bầu cử của dân là căn cứ rất vững chắc cho Đảng bầu cử các cơ quan và người lãnh đạo của Đảng.

          Trong bối cảnh nguồn nhân sự và cách bầu cử như hiện nay, người dân chỉ mong sao có cơ chế phân bổ quyền lực, kiểm tra, kiểm soát hữu hiệu để những người được bầu vào cương vị lãnh đạo nhà nước ở trung ương cũng như địa phương luôn biết tự vấn, nhìn lại mình, hiểu được rõ năng lực và uy tín của mình đối với xã hội. Thực tế, trong cơ chế hiện nay, chúng ta không thể tìm được vĩ nhân, lãnh tụ như Hồ Chủ Tịch, hay những người học trò xuất sắc của Bác thời xưa, có tư duy chính trị, văn hóa, năng lực, phẩm chất  trí tuệ, luôn đấu tranh, biết hy sinh vì nền độc lập và quyền lợi cho dân tộc, cho đất nước. Bởi thế, càng cần có thể chế xã hội phải làm sao để tự nó vận hành trong khuôn khổ pháp luật, giúp cho người lãnh đạo thời nay hiểu được rằng làm công bộc của dân không phải dễ và khi họ có làm sai cũng hạn chế tối đa mức độ gây thiệt hại cho xã hội. 
Từ trước đến nay, chúng ta quen nói đến “ý Đảng, lòng Dân”. Lịch sử cũng đã chứng minh rằng sức mạnh của Đảng là nằm trong khối đại đoàn kết toàn dân, thành công của Đảng là bởi các quyết sách của Đảng đưa ra phù  hợp với “lòng Dân”. Bởi vậy đã đến lúc phải nhận thức rằng “ý Đảng” cũng là “”ý Dân”, từ đó có thể nói cụm từ quen thuộc trên thành “Ý Dân, lòng Dân” vừa đúng nghĩa, vừa sâu sắc hơn.  Để văn kiện của Đảng thực sự có sức sống, nội dung phải được xây dựng trên tinh thần cầu thị, dân chủ lấy “Dân làm gốc”. Các vấn đề Đảng nêu ra xuất phát từ ý Dân, lòng Dân sẽ được sự ủng hộ của Dân, chỉ khi đó nội dung văn kiện, các câu chữ, khẩu hiệu mới biến thành sức mạnh vật chất để toàn Đảng, toàn Dân phấn đấu đạt mục tiêu cho đại hội Đảng lần thứ XI.  
 
 
III. NHÂN SỰ HÌNH THỨC-NỖI LO HÔN NHẬN CẬN HUYẾT!
 
Trong bài viết “Ý Dân-lòng Dân” đăng trên báo Thanh Niên ngày 2/10/2010 trong mục “Góp ý các dự văn kiện trình Đại hội Đảng lần thứ XI” tôi đã phân tích dù có viết góp ý hay đến mấy cũng thế thôi khi mà cốt lõi của vấn đề là người ta viết văn kiện vẫn theo lối tư duy, thói quen xưa nay là  “ý Đảng, lòng Dân” vừa không chuẩn, vừa quá cảm tính. Thực ra,  phải đặt ngược lại: Nguyện vọng của nhân dân phải trở thành ý chí của Đảng.  Ý là nói về lý trí, lý tính, duy lý có tính chất rất quan trọng, mang tính trí tuệ, thể hiện trong tư duy, định hướng, tầm nhìn, phương pháp luận, giải pháp v.v… Lòng có thể hiểu là thể hiện tình cảm, mong muốn. Chỉ khi nào viết văn kiện phù hợp với thực tế đúng đắn, sáng tạo, phong phú, sâu sắc được xây dựng trên quan điểm “ý Dân, lòng Dân” thì mới có giá trị đi vào cuộc sống. Ngày xưa, Tư Mã Thiên có nói đại ý như sau: “Người phụ nữ làm đẹp vì người mình yêu, còn kẻ sỹ dốc sức vì tri kỷ.” Ngày nay, suy rộng ra, nếu Đảng với Dân là tri kỷ thì Đảng phải nghe Dân và Dân sẽ dốc lòng vì Đảng.
Một trong những vấn đề quan trọng, cốt tử liên quan đến sự ổn định và phát triển của đất  nước là việc lựa chọn nhân sự thì Đảng lại không hỏi Dân!? Nguyên Phó Thủ tướng Đồng Sỹ Nguyên, một vị tướng đáng kính của nước nhà cũng bày tỏ quan điểm lựa chọn người lãnh đạo, rất hay, rất đẹp nhưng xin thưa rất khó thực hiện. Trong cơ chế hiện nay, và văn hóa của người Việt, đòi hỏi người đương chức, đương quyền tự đổi mới mình là việc rất khó.  Suy cho cùng cái “thói quen” (như Lenin nói) và tư duy nhiệm kỳ vẫn còn hằn sâu trong nếp nghĩ của không ít người có thẩm quyền. Muốn có giống nòi tốt, những hạt nhân để quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước thì phải đổi mới cơ chế bầu cử, cơ chế nhân sự, có tranh cử thực sự, hay nói theo cách khác là phải từ bỏ một tập tục “lấy nhau” trong đảng, giống như tập tục lấy nhau giữa những người cùng huyết thống. Cách làm cán bộ lãnh đạo cũ chọn hay chỉ định cán bộ mới ra để bầu cử, không phải tranh cử, tức là chọn những người giống mình, cùng suy nghĩ như mình, tệ hơn là sẵn sàng “hẩu” với mình. Cách chọn người lãnh đạo như thế thì dù có để mọi người bầu hay đại biểu bầu cũng thế thôi bởi vì sẽ không thể loại được cái gọi là sự xuống cấp của gene. Do chọn lựa trong nhóm quá nhỏ bé, và nếu phải gene tồi thì cái xã hội nhỏ bé đó sẽ lập lại cái gene tồi đó ở mức cao hơn và rộng hơn. Ở một xã hội rộng lớn hơn thì gene mạnh sẽ đánh bật gene yếu theo thuyết Darwin. Ở  một tập thể ngày càng teo lại thì làm gì có gene mạnh để được tuyển chọn.
 Người bạn làm nghề bác sỹ giải thích cho tôi về “hôn nhân cận huyết” là những người có bà con, họ hàng gần kết hôn với nhau . Y học đã chứng minh rõ ràng rằng những cuộc hôn nhân cận huyết như thế này sẽ cho ra đời những đứa con dị dạng hoặc có những bệnh di truyền như: loạn sắc, mù màu, bạch tạng, da vảy cá….Người ta cũng ghi nhận ở những nhóm thổ dân, người thiểu số vì thường không có nhiều cơ hội để giao tiếp rộng, nên ít khi được kết hôn rộng rãi mà chỉ quanh quẩn “cưới” nhau trong cộng đồng bó hẹp của mình và việc hôn nhân cận huyết cũng đã xảy ra. Thống kê y học cho thấy ở những nhóm người này tỷ lệ mắc bệnh di truyền, bẩm sinh rất cao.
 Vì sao hôn nhân cận huyết dễ gây bệnh di truyền bẩm sinh? Câu trả lời đơn giản: con người có khoảng 500 đến 600 nghìn gene, các gene lặn tuy chưa gây bệnh, nhưng vẫn tồn tại, được di truyền từ đời này sang đời khác và hôn nhân cận huyết là cơ hội để các gene lặn bệnh lý này tổ hợp lại và gây bệnh. Một minh chứng rõ ràng và kinh điển về tác hại của hôn nhân cận huyết là sự diệt vong của vương triều dòng họ Habsburg. Dòng họ này cai trị nhiều thế kỷ một vùng đất rộng lớn ở châu Âu, bao gồm vùng Bohemia, Áo, Hungary và Tây Ban Nha. Do sợ quyền lực của mình rơi vào tay các dòng họ khác; triều đại Habsburg ra quy định các thành viên trong hoàng gia chỉ được kết hôn với người trong họ với nhau, hôn nhân cận huyết. Than ôi, cũng chính kiểu hôn nhân cận huyết này, để lại hậu quả khốc liệt về sau; đến đời cuối cùng của dòng họ này, vua Charles Đệ nhị, chính là đỉnh điểm hậu quả của kiểu hôn nhân tai hại này. Vua Charles Đệ nhị thấp bé, ốm yếu, còi cọc và mắc nhiều bệnh tật: đến 4 tuổi mới biết nói, đến 8 tuổi mới biết đi, nhà vua không thể có con cái, đau ốm liên miên và chết khi mới có 39 tuổi. Thống kê cho thấy trong khi tỷ lệ sống sót của trẻ sơ sinh của Tây Ban Nha thời đó là hơn 80% thì dòng họ “vua chúa” Habsburg này chỉ đạt 60% và một nửa số trẻ sinh ra sẽ chết trước 10 tuổi.
 Trong cuốn sách “Trăm năm cô đơn” của mình, nhà văn nổi tiếng người Colombia Gabriel Garcia Marquez đã “hư cấu” rất khoa học hậu quả của hôn nhân “cận huyết”. Dòng họ Accadio đã “loạn luân” với nhau, những đứa trẻ ra đời càng về sau càng suy thoái đến độ bị “mọc đuôi” như loài heo lợn.  Hiện nay, ở nước ta, trong cộng đồng một số nhóm sắc tộc thiểu số cả phía Bắc, phía tây Quảng Bình và trên Tây Nguyên vẫn còn nhiều nhóm sắc tộc thiểu số: Rục (sắc tộc Chứt), Dao, Lô Lô, Khơ Mú, Xinh Mun, Pu Péo, Cờ Lao, La Hủ, Si La… vẫn tồn tại hiện tượng hôn nhân cận huyết. Trong một số nhóm thiểu số này lại có thêm 2 hủ tục nguy hại là “nối nòi” và “tảo hôn”. Nối nòi tức là khi người vợ hoặc người chồng bị chết, gia đình và dòng họ người bị chết phải có nhiệm vụ tìm người để thay thế. Theo hủ tục nối nòi này, người vợ có quyền lấy anh, em, chú, bác, cậu ..khi chồng mất và ngược lại chồng có quyền lấy cô, dì, bác, chị, em…khi vợ mất.
Suy luận ra thực tế, trong xây dựng, người ta nhận thấy đống đá sỏi có cùng kích cỡ bao giờ cũng chiếm nhiều thể tích, nhiều khe hở và có nhiều khoảng trống nhất. Thiết nghĩ rằng một xã hội với vô số những đề án, đường lối, chính sách do một nhóm người tự đưa ra và tự chấp nhận, tự cổ vũ, tự khen ngợi kiểu “cận huyết” như thế, thì chắc chắn sẽ mắc nhiều lỗi và có nhiều sai lầm. Các cụ ngày xưa rất có lý khi đã răn dạy: “Có kẻ thù thông minh hơn là có bạn ngu dốt”. Mà với một đất nước, một dân tộc thì đường lối, chính sách là bậc vĩ mô, “sai một ly sẽ đi cả dặm” do đó, các cấp lãnh đạo, giới chức sắc cần nghiêm túc và thật lòng khi thăm dò ý dân, hòa nhã nghiêm túc  khi nghe dân phản biện.    
 Nhà thơ Việt Phương, một  trong những vị trưởng thượng của nước nhà, tâm sự với người viết bài này để  thực hiện “ý Dân-lòng Dân” trong công tác nhân sự, cách đơn giản nhất là tổ chức bầu cử các cơ quan và chức danh nhà nước trước ở tất cả các cấp: Ở cấp Trung ương thì bầu Quốc Hội, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chính phủ, Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao, Chánh án toà án tối cao, sau đó mới họp Đại hội Đảng bầu Trung ương Đảng và Bộ Chính trị, bầu Tồng bí thư. Sự tín nhiệm và kết quả bầu cử của dân là căn cứ rất vững chắc cho Đảng bầu cử các cơ quan và người lãnh đạo của Đảng. Thực tế, trong bối cảnh nguồn nhân sự và cách bầu cử đang tiến hành trong cơ chế hiện nay, chúng ta không thể tìm được vĩ nhân, lãnh tụ như Hồ Chủ Tịch, hay những người học trò xuất sắc của Bác thời xưa, có tư duy chính trị, văn hóa, năng lực, phẩm chất  trí tuệ, luôn đấu tranh, biết hy sinh vì nền độc lập và quyền lợi cho dân tộc, cho đất nước.
Theo thiển nghĩ của tôi, cách làm công tác nhân sự hiện nay của Đảng vẫn là “Ý Đảng-lòng Dân” không phải “Ý Dân-lòng Dân”, do đó, càng cần có thể chế xã hội phải làm sao để tự nó vận hành trong khuôn khổ pháp luật, có cơ chế phân bổ quyền lực, kiểm tra, kiểm soát hữu hiệu để những người được bầu vào cương vị lãnh đạo nhà nước ở trung ương cũng như địa phương luôn biết tự vấn, nhìn lại mình, hiểu được rõ năng lực và uy tín của mình đối với xã hội,  và khi họ có làm sai cũng hạn chế tối đa mức độ gây thiệt hại cho xã hội. 
Đất nước ta, từ xưa đến nay, lúc nào cũng có nhiều người tài, tuy nhiên từng thời kỳ, từng lúc mà nguồn hiền tài đó được khơi ra như thế nào. Có nghĩa là khi được quan tâm, trọng dụng thì hiền tài sẽ có, tri thức sẽ nhiều. Người có học vấn thường có khả năng phán đoán và nhận định tình hình sáng suốt hơn người thường. Thời phong kiến, ở nước ta đã có biết bao bài học khi biết trọng dụng trí thức thì công cuộc bảo vệ tổ quốc, chống ngoại xâm và xây dựng đất nước phát triển rất hiệu quả nhờ tầng lớp trí thức lãnh đạo biết khơi dạy, hòa đồng cùng với nhân dân xả thân vì nghiệp lớn. Hồ Chí Minh đã dạy :  “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý”. Người đã làm công tác cán bộ trên cơ sở dựa vào thành ý và minh tâm của dân để tuyển chọn và sử dụng người tài, chứ không cho rằng công tác tổ chức là chỉ thuộc về Đảng, làm trong nội bộ Đảng rồi đưa ra thuyết phục, thường là áp đặt, để dân chấp nhận. 
Thế hệ ngày nay, chắc nhiều người biết Thân Nhân Trung viết bài văn cho tấm bia đầu tiên ở Văn Miếu, ông  ghi  nhận về trí thức “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và ngày càng lớn, nguyên khí suy thì  nước yếu và ngày càng xuống cấp.”  Theo tôi hiểu, hiền tài là nguyên khí của quốc gia, đấy chính là khát vọng của cả dân tộc, sức sống của mỗi quốc gia. Hy vọng đến Đại hội Đảng XII, công tác nhân sự sẽ thực sự  là “ý Dân-lòng Dân”! Trước kia, bây giờ và mãi mãi sau này “hiền tài” luôn là “nguyên khí” của quốc gia, là nguồn tài nguyên và động lực to lớn để đất nước đi lên.
Theo NLG
…………………….

Đọc thêm:

Nguyễn Sĩ Dũng: 1531. Hiến pháp là một bản Khế ước xã hội  (Tia sáng/ BS). – Nguyễn Quang A: 1530. Lấy ý kiến nhân dân và trưng cầu dân ý (Sửa đổi Hiến pháp) (LĐ/ BS). - Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Sẽ tổ chức bảy phiên hội nghị lấy ý kiến sửa đổi Hiến pháp (SGTT).

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 04, 2013 07:03

TÔI ĐỨNG VỀ PHÍA ANH ĐOÀN VĂN VƯƠN

Ngô Minh
t440633 Vụ cưỡng chế thu hồi 19,3 ha diện tích đầm nuôi trồng thủy sản của anh Đoàn Văn Vươn ở khu vực Cống Rộc, xã Vinh Quang, H.Tiên Lãng, TP.Hải Phòng.vào buổi sáng cưỡng chế, 5.1.2012, rồi sau đó đập phá ngôi nhà của vợ chồng anh Vươn là việc làm trái pháp luật của chính quyền huyện Tiên Lãng, là vụ án chưa từng có , làm cho nhân dân cả nước phẫn nộ lên án gay gắt trong những ngày giáp Tết Tân Mão. Chính phủ đã phải có một cuộc họp bàn về vụ này.  Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phải hứa sẽ điều tra toàn bộ sự việc để xử lý công bằng.
  Thực hiện ý kiến chỉ đạo của  Thủ tướng, trong thời gian dài, cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an TP.Hải Phòng cũng đã có kết luận điều tra số 03/KLĐT đề nghị truy tố Nguyễn Văn Khanh, 51 tuổi, nguyên Phó Chủ tịch H.Tiên Lãng; Phạm Xuân Hoa, 57 tuổi, nguyên Trưởng phòng TN-MT H.Tiên Lãng; Lê Thanh Liêm, 49 tuổi, nguyên Chủ tịch xã Vinh Quang (H.Tiên Lãng) và Phạm Đăng Hoan, 52 tuổi, nguyên Bí thư Đảng ủy xã Vinh Quang cùng về hành vi hủy hoại tài sản của người khác theo điều 143 của bộ luật Hình sự.  Những ngày đầu năm 2013, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an TP.Hải Phòng vừa ra quyết định khởi tố bị can đối với ông Lê Văn Hiền, nguyên Chủ tịch UBND H.Tiên Lãng về hành vi “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” theo điều 285 của bộ luật Hình sự. Như vậy toàn bộ bộ máy huyện Tiên Lãng trực tiếp cưỡng chế thu hồi đất và phá hoại tài sản của anh Đoàn Văn Vươn đều đã bị truy tố. Hẳn nhiên còn sót một nhân vật quan trọng, đó là ông Đỗ Hữu Ca – Giám đốc Công an thành phố Hải Phòng, nhân vật đã trực tiếp điều động lực lượng công an đi cưỡng chế và khoái chí về cuộc cưỡng chế  và phá hủy tài dân công dân bằng câu nói nổi tiếng ”đây là một trận đánh đẹp, có thể viết thành sách”.
 Tôi rất đồng tình với việc khởi tố bị cán đối với  5 vị lãnh đạo chủ chốt của huyện Tiên Lãng này. Tôi cho đây là bọn cướp ngày rất dã man ( cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan) . Bọn lợi dụng chức quyền để cướp phá tài sản của dân. Nhưng tôi lại không đồng tình  với Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) – Công an TP.Hải Phòng khi tống đạt kết luận điều tra vụ án anh em ông Đoàn Văn Vươn phạm tội “giết người – chống người thi hành công vụ”. Cụ thể  tội giết người đối với anh Đoàn Văn Vươn (50 tuổi); Đoàn Văn Quý (46 tuổi, em trai ông Vươn); Đoàn Văn Sịnh (53 tuổi, anh trai ông Vươn) và Đoàn Văn Vệ (38 tuổi, cháu ruột ông Vươn) cùng ở H.Tiên Lãng. Cơ quan điều tra (CQĐT) đề nghị truy tố tội “chống người thi hành công vụ” đối với Phạm Thị Báu (31 tuổi, tức Hiền, vợ Đoàn Văn Quý) và Nguyễn Thị Thương (43 tuổi, vợ Đoàn Văn Vươn), cùng ở H.Tiên Lãng. Nghe nói từ nay đến trước Tết Quý Tỵ tòa án sẽ xét xử vụ này, nên tôi xin có mấy ý kiến như sau :
        1. Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an TP.Hải Phòng chưa công bằng, đã nhẹ với bọn cướp, năng với nạn nhân . Như trên tôi đã nói, bọn cưỡng chế và phát hủy nhà anh Vươn ( tức các quan chức Tiên Lãng) là bọn cướp ngày, là bọn chủ động gây tội ác đối với  gia đình anh Đoàn Văn Vươn, lại bị truy tố tội nhẹ hơn (hành vi hủy hoại tài sản của người khác theo điều 143 của bộ luật Hình sự), còn anh Đoàn Văn Vươn là nạn nhân lại bị truy tố tội năng hơn ( “giết người”). Phải chăng do Lê Văn Hiền , Nguyễn Văn Khanh ,Phạm Xuân Hoa, Phạm Đăng Hoan là người của Đảng, của Nhà nước, nên được Cơ quan điều tra của nhà nước bảo vệ, còn dân thường thì “sống chết mặc bay” ? Hàng cử kiểu ấy sẽ làn cho hình ảnh của Đảng, Nhà nước ngày càng xấu đi trong  nhận thức và cách nhìn của người dân. Cách ứng xử thiên kiến kiểu này chắc chắn sẽ giao mầm cho những vụ án Đoàn Văn Vươn mới.
         2. Anh em Đoàn Văn Vươn là người tự vệ thuần túy trước bọn cướp, không hề mưu tính chuyện giết người. Tội giết người là dành cho bọn đầu gấu, bọn cướp giật, bọn tình địch  mưu tính giết người để cướp của, giết người để trả thù, để hại nhau.v.v..Ở đây anh em ông Đoàn Văn Vươn là những người học hành tử tế, những người lao động chăm chỉ, hiền từ. Do uất ức trước quyết định cưỡng chế trái pháp luật, phải đứng lên chiến đấu bảo về tài sản của mình thì không thể gọi là giết người được. Nghĩa là hành động cài mìn, bắn súng hoa cải là do bị bọn quan tham, tiêu cực đẩy vào  chân tường, không chịu được phải hành động. Giống như nhân dân miền Nam trước năm 1975 cầm súng chống lại bọn ác ôn hại dân của chính quyền Sài Gòn vậy . Hơn nữa anh em ông Đoàn Văn Vươn đã có một thành tích lớn là bằng hành động của mình, tố cáo cho của Đảng và Nhà nước biết rằng ở nông thôn Việt Nam hiện nay đang có một lũ quan lại thối nát chuyên ăn cướp tài sản của người dân. Thành tích đó rất quan trọng, Đảng, Nhà nước phải cảm ơn và khen thưởng thích đáng. Nếu kết tội anh em  nhà anh Vươn tội giết người, ngồi tủ mục xương, hóa ra Nhà nước của chúng ta dứng về phía bọn cướp sao ?
        3. Không thể coi bọn ăn cướp, đi phá tài sản nhân dân là “người thi hành công vụ”. Hai chị Phạm Thị Báu (31 tuổi, tức Hiền, vợ Đoàn Văn Quý) và Nguyễn Thị Thương (43 tuổi, vợ Đoàn Văn Vươn), cùng ở H.Tiên Lãng bị truy tố về tội “chống người thi hành công vụ” cũng hoàn toàn không  thuyết phục. Vì bọn quan chức Tiên Lãng lúc đó là quan chúc đã bị cơ quan điều tra truy tố trước pháp luật, nghĩa là bọn chúng lã lũ phạm pháp, là bọn cướp bọn thực sự vì quyền lợi riêng tư của chúng , chứ chúng không hề thi “thi hành công vụ” chút nào. Nếu gọi bọn cưỡng chế trái pháp luật đất nhà ăn Vươn là “thi hành công vụ”, hóa ra Nhà nước này đồng lõa với cướp ngày à ? Hơn nữa hai chị Báu và Thương bảo là hai chị không có mặt ở hiện trường khi sự việc xảy ra, thì làm sai mà truy tố được ?
          Khởi tố kết tội, rồi xét xử tội phạm là để làm cho xã hội trong sạch, con người sống tốt đẹp với nhau hơn. Đó là mục tiêu của nền Pháp Luật Văn Minh. Muốn như thế, những người đi điều tra tội phạm, những người ngồi phiên tòa xử an phải biểu dương những người dám đứng lên chống lại bọn xấu, đặc biệt là bọn quan xấu trong bộ máy nhà nước – Chứ không thể truy tố , xử án theo định kiến, làm tăng mâu thuẫn giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, hiện nay vốn đã rất nặng nề. Đó là mong mỏi của người viết entry này đối với vụ án Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng.
Tôi nghĩ đây là một vụ án mẫu để giáo dục lãnh đạo Đảng, chính quyền cấc cấp luôn sống vì dân vì nước. Nên tôi đứng về phía anh em anh Đoàn Văn Vươn trong vụ án này.

Theo blog NM



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 04, 2013 02:43

Con trai chú Sáu Dân

Nhà thơ Thanh Quế


Anh Võ Dũng. ảnh: Phuntutoday

Anh Võ Dũng. ảnh: Phuntutoday


Tôi quen biết với Dũng – Con trai chú Sáu Dân – một cách bất ngờ.


Vào tháng 9-1969, sau khi chạy gõ cửa chú Phan Triêm, Phó Ban Tổ chức Trung ương và các chú ở Vụ miền Nam để xin đi Nam, tôi được triệu tập đến Trường 105B, trường huấn luyện cán bộ đi B ở Hòa Bình. Chúng tôi được tập bắn súng, mang gạch, đi bộ để chuẩn bị đi B (về Nam). Tôi ở Chi (*) II đi Khu V. Hằng ngày, tôi vẫn được anh chị em chỉ cho một cậu thanh niên độ 18, 19 tuổi, người roi roi ở Chi I đi Nam Bộ:
 
Con ông to đấy. Nghe nói hư lắm nên ông bố gọi về Nam để rèn luyện.
 
Nghe anh em nói vậy, tôi thấy có cảm tình với con ông “quan” này, nhưng cậu ta ở chi khác nên tôi không làm quen vì sợ “thấy người sang bắt quàng làm họ”. Dạo ấy, tôi học xong đại học đã 2 năm, đang làm ở Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương thì xin đi B.
 
Một hôm, vào tối thứ 7 Trường tổ chức liên hoan văn nghệ. Các bạn biết tôi võ vẽ làm thơ nên ép tôi lên đọc thơ. Tôi đọc bài “Ta sẽ trở về” nói lên nguyện vọng tha thiết về Nam của mình với lời dạo đầu là tôi viết để hưởng ứng bài thơ “Về đi em” của nhà thơ Lê Anh Xuân, một người anh tôi quen biết, kêu gọi các bạn học sinh miền Nam trở về quê hương chiến đấu. Xong cuộc liên hoan văn nghệ, trên đường về chi thì cậu ta níu tôi lại:
 
- Em là Dũng (tôi nhớ hình như cậu nói cậu là Phan Chí Dũng, bây giờ đi Nam cậu đổi là Võ Dũng cho giống họ ba cậu đang mang), em nghe anh đọc thơ tình cảm quá, lại có quen nhà thơ Lê Anh Xuân người Nam Bộ của em nên em muốn làm quen và từ nay anh em chơi với nhau.
 
Vậy là lúc rảnh, Dũng hay rủ tôi ra đồi nói chuyện chơi. Dũng bảo Dũng là con chú Sáu Dân (ngày ấy tôi cũng không tò mò hỏi chức vụ này nọ, tôi cứ chơi với Dũng như anh em thôi). Dũng ra Bắc có 2 anh em, Dũng và em gái nữa. Sau này tôi có gặp em lên trường thăm Dũng, em độ 12, 13 tuổi.
 
Dũng bảo, ba Dũng có ra Bắc họp một vài lần. Ba gửi Dũng cho mấy chú chăm sóc. Mấy chú nói sẽ lo cho Dũng còn hơn con mình. Nhưng đôi lúc Dũng chơi với con họ, con họ sai mà họ đổ cho Dũng này nọ, Dũng chán, bắt đầu nghịch ngợm, đánh lộn. Đứa nào “chơi” Dũng là Dũng “chơi” lại liền.
 
Đến năm 17, 18 tuổi, Dũng lại gặp chuyện buồn trong tình yêu đầu đời, vì thế Dũng bắt đầu “phản bội” luôn những cô gái khác. Dũng đưa cánh tay cho tôi xem dòng chữ màu xanh mà Dũng xăm: “Tôi là kẻ bất hạnh”. Tôi nói, cậu mà bất hạnh cái nỗi gì, tớ tới 24 tuổi mà chưa được cầm tay con gái. Dũng cười bảo, bất hạnh chớ, bất hạnh vì còn nhỏ mà đã hư thân mất nết, làm phiền lòng ông già.
 
Thế là Dũng bị các chú viết thư báo tin cho ba. Ba Dũng buồn lắm. Ông viết thư cho Dũng, Dũng lục dưới đáy ba-lô đưa cho tôi xem một lá thư. Bây giờ tôi nhớ đại ý: “Từ khi má con mất ba buồn lắm. Ba lại nghe các chú nói con rất hư, ba buồn hơn. Thôi, con hãy về đây, cha con mình có nhau, để ba có điều kiện giúp đỡ con tiến bộ, trưởng thành, để con sưởi ấm lòng ba…”. Nghe lời ông già, thế là Dũng tình nguyện về Nam. Các chú ở Ban Tổ chức Trung ương bảo:
 
- Các chú cho cháu đi máy bay qua Campuchia rồi giao liên đưa về chỗ ba cháu.
 
Dũng bảo:
 
- Thưa các chú. Con không đi máy bay đâu. Đã đi Nam là phải vượt Trường Sơn. Nhiều chú, bác, anh chị là cán bộ còn vượt Trường Sơn, con mới là học sinh lớp 9, làm sao con lại đi máy bay.
 
Dũng được phát võng ni-lông, bọc võng vải dù, nhưng lại từ chối, chỉ nhận như các anh chị là võng kaki và màn vải.
 
Những ngày hành quân, Dũng ở Chi I (đi Nam Bộ), tôi ở Chi II nhưng bao giờ Dũng cũng đi chậm lại để cùng đi với tôi. Dạo đó tôi được phân vào Khu V làm báo nên mang máy ảnh, thuốc rửa ảnh, giấy ảnh nhiều lại thêm tư trang nên rất nặng. Dũng nói, anh nhỏ con, lại yếu, mà mang nặng nên để em mang giúp gạo, ba-lô cho. Biết tôi nghiện thuốc lá nên Dũng mang thuốc lá theo (Dũng cũng hút ít) để thỉnh thoảng cho tôi một gói. Lạ nữa, là khi chúng tôi đến gần Khu V, tôi hết thuốc lá, xin Dũng, Dũng chỉ cho nhin nhín, bảo “Em hết rồi”.
 
Vào những ngày nghỉ dọc đường, Dũng thường đến chơi với tôi. Tôi quên nói, cùng đi với Dũng có một cậu lớn hơn Dũng mấy tuổi, tên là Quốc. Cậu ấy cũng rất mến tôi nên 3 anh em hay chơi với nhau. Chúng tôi thường tán gẫu, đánh tú lơ khơ là chính, ít nói chuyện gì khác. Một lần nghỉ, tôi tìm được một khóm lá lốt, đang hái thì Tuấn ở Chi III, đoàn đi Trị Thiên cũng xông vào hái. Chẳng rõ thế nào mà tôi và Tuấn to tiếng với nhau. Chợt Dũng từ đâu ùa tới, nạt nộ Tuấn:
 
- Mày “chơi” với anh hai tao hả mày, coi chừng tao “tẩn” đó.
 
Tôi biết Dũng thương tôi, nhưng bênh tôi không đúng, tôi nhớ cả tôi và Tuấn đều sai vì ăn nói hơi quá đà, tôi can Dũng:
 
- Thôi đi em, anh cũng sai mà.
 
Tôi dắt tay Dũng đi, Dũng càm ràm:
 
- Từ nay đứa nào “láo” anh cứ gọi em.
 
Càng đi vào phía Nam, sắp tới Khu V, Dũng càng chăm sóc, mang vác giúp tôi nhiều hơn. Một đêm, tôi nghe Chi trưởng báo ngày mai chúng tôi sẽ rẽ xuống Khu V. Tôi chạy sang Chi Nam Bộ chia tay Dũng và Quốc. Dũng cầm tay tôi rất lâu, không nói gì.
 
Sáng hôm sau, khi tôi đến đường rẽ về Khu V thì thấy Dũng và Quốc ngồi bên đường. Thấy tôi, hai cậu reo lên:
 
- Chi em đi trước rồi, bọn em xin phép ở lại để chia tay anh.
 
Dũng lấy từ trong ba lô ra 2 tút thuốc Tam Đảo bao bạc đưa tôi:
 
- Anh cầm đi mà hút, anh ghiền hơn em. Bữa trước em không cho anh biết em còn để dành thuốc, vì sợ anh “đục” mãi, hôm nay không còn để tặng anh lúc chia tay….
 
Ba anh em tôi ôm chặt nhau đứng rất lâu. Dũng rút từ trong túi áo ra một tờ giấy nho nhỏ đã ghi sẵn “Liên hệ em qua chú Sáu Dân, hòm thư…”
 
Sau đó Dũng cầm tay tôi bảo:
 
- Anh có làm thơ, viết báo thì cứ ghi tên Thanh Quế để người ta đọc trên đài, ghi trên báo, em sẽ nhận ra. (Khi đi Nam, tôi định sau này có viết gì sẽ lấy tên là Đông San Vĩ, cái tên tôi lấy bút danh để làm thơ từ hồi còn ở trường Học sinh miền Nam. Nhưng nghe Dũng dặn vậy nên sau này tôi lấy bút danh là Thanh Quế luôn).
 
Dũng lại ôm tôi, mắt rưng rưng:
 
- Thống nhất anh em mình nhớ tìm nhau nghe. Địa chỉ em đưa đó…
 
Suốt những năm tháng sau đó, chúng tôi không có dịp liên hệ nhau. Sau giải phóng Sài Gòn, tôi hỏi nhà thơ Diệp Minh Tuyền:
 
- Anh có biết chú Sáu Dân là ai không? Ổng bây giờ ở đâu?
 
Diệp Minh Tuyền hỏi lại tôi:
 
- Mày hỏi chú Sáu Dân làm gì?
 
- Tôi có quen với thằng Dũng con chú ấy, nó hẹn liên hệ gặp nó qua ổng.
 
Mắt Diệp Minh Tuyền sáng lên:
 
- Mày quen thằng Dũng à? Nó đi Nam một đợt với mày à?
 
- Đi một đợt.
 
- Tao báo mày một tin buồn: Thằng Dũng vào Nam, xin làm lính trinh sát ở Quân khu 9. Nó dũng cảm lắm, mọi người đều khen nó. Nó cứ bám đơn vị miết. Ông Lê Đức Anh, Tư lệnh Khu 9 được ai nói đó, biết thằng Dũng là con chú Sáu Dân (ông không biết chính chú Sáu Dân, Bí thư Khu 9 là người gửi Dũng vào lính trinh sát để rèn luyện phấn đấu) nên nhắn đơn vị đưa nó về Quân khu để đỡ tổn thất. Chưa kịp rút nó về thì nó hy sinh rồi. Tội nó quá. Tội chú Sáu nữa…
 
- Anh có biết thằng Quốc bạn thằng Dũng không?
 
- Thằng Quốc cũng hy sinh rồi.
 
Tôi đứng lặng hồi lâu ứa nước mắt rồi nói với anh Diệp Minh Tuyền:
 
- Chú Sáu Dân có ở Sài Gòn không? Tôi đến nhà thăm chú có được không?
 
Diệp Minh Tuyền cười có vẻ bí mật:
 
- Mày không biết chú Sáu Dân là ông Võ Văn Kiệt à (Lúc đó ông làm Chủ tịch Ban quân quản Sài Gòn-Gia Định).
 
Tôi sửng sốt:
 
- Thế à. Tôi đâu biết. Tôi chỉ nghĩ Dũng là con ông to to cỡ tá tiếc gì đó, chớ đâu có ngờ. Tôi chơi với nó vì tình anh em thôi. Bây giờ biết nó là con ông Kiệt… mà nó lại hy sinh rồi… thì thôi, tôi không đến tìm ông nữa… ngại quá…
 
Bây giờ, sau mấy chục năm đã trôi qua, ngồi viết lại những kỷ niệm này, tôi càng thương nhớ Dũng, một người em. Dũng, một con người nhìn bề ngoài cứ ngỡ là ngỗ ngược lắm nhưng đằm sâu bên trong là một con người giàu tình cảm, đầy ân tình ân nghĩa. Dũng ra chiến trường với tư cách một cậu bé “hư” bị cha mình kêu về rèn giũa và em đã rèn luyện hết mình, phấn đấu hết mình để làm nhiều việc có ích và đã hy sinh anh dũng.
 
Tôi còn muốn nói thêm điều này nữa: Người cha ở đây có chức vụ cao có thể can thiệp cho con mình đi học ở nước ngoài để bảo toàn tính mạng giữa đất nước đầy bom rơi đạn nổ và sau này, có kiến thức để có địa vị cao, có tiếng tăm. Nhưng không, ông đã gọi con mình quay lại chiến trường để tham gia chiến đấu và chính ông đã gởi con mình xuống cơ sở, làm một chiến sĩ trinh sát, một nhiệm vụ rất cần lòng dũng cảm, rất dễ hy sinh để rèn luyện con trưởng thành…
 
Người cha đó, người con đó là ông Võ Văn Kiệt và Dũng, con trai ông…
Theo báo NLĐ

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 04, 2013 02:18

Những “cái nhìn thiên kiến về lịch sử”

Trần Minh Khôi


BenThangCuoc_CoverNQL: Trong bài “Thắng mình trước đã” ( tại đây) Đông Phụng Việt đã đặt câu hỏi: “Làm báo ở Cộng hòa XHCN Việt Nam quả thật là rất khó nhưng nếu bạn không muốn, chẳng ai có thể bắt bạn làm bồi. Ngay cả khi chấp nhận làm bồi thì ít nhất cũng có hai loại bồi. Một loại hiểu và xấu hổ vì chuyện làm bồi nên chỉ dùng bút danh. Loại còn lại vừa hám lợi, vừa chuộng hư danh tới mức mụ mẫm, nên sẵn sàng vỗ ngực, xưng tên. Nguyễn Đức Hiển, bạn thuộc loại nào vậy?” Câu hỏi thật đau, chắc chắn sẽ làm Đức Hiển khó ngủ.   Dưới đây là bài viết của Trần Minh Khôi cho thấy có thể Đức Hiển không chịu khuất thân làm bồi nhưng không thoát được lối tư duy lịch sử  đã được nhà trường nhồi sọ mấy chục năm nay. Mình thiên về quan điểm của Trần Minh Khôi.


Trong một không gian mà ở đó sự kiện, của cả quá khứ và hiện tại, luôn bị bóp méo để phục vụ cho quyền lực chính trị, sự khao khát sự thật của những điều đã xảy ra dẫn chúng ta vào một ngõ cụt: khao khát một thứ lịch sử không thiên kiến. Điều này là bất khả; tất cả những cái nhìn về quá khứ đều thiên kiến.


 Chúng ta lẫn lộn giữa quá khứ và cái chúng ta gọi là lịch sử. Lịch sử không phải là quá khứ; lịch sử là cái nhìn về quá khứ với tham vọng giải thích quá khứ, giải thích hiện tại, và dự phóng tương lai. Không có cái nhìn và cách giải thích duy nhất. Ngay cả khi có một phiên bản lịch sử nào đó được số đông chấp nhận thì nó cũng không loại trừ những phiên bản lịch sử khác của thiểu số. Các phiên bản lịch sử này có giá trị như nhau, cho đến khi có ai đó cố gắng áp đặt, trong nhiều trường hợp bằng bạo lực, một tiêu chuẩn duy nhất “đúng”, “sai” cho chúng: những người chủ trương độc quyền lịch sử.


 Vấn đề vẫn là: chúng ta có khả năng tạo dựng lại quá khứ không? Câu trả lời là có, và quá khứ luôn luôn được tạo dựng lại dưới ánh sáng của những hiểu biết mới, của những nhu cầu mới, và quan trọng hơn hết là của sự thôi thúc hướng tới tương lai. Nhưng chúng ta chỉ có thể làm được điều này với sự bao dung trước thực tại đa nguyên của lịch sử. Những kẻ độc quyền lịch sử không có khả năng hiểu những gì đã xảy ra. Và do đó, họ đi vào tương lai, nhắm mắt.


 Chúng ta lăn tăn với những ý tưởng mà trong một không gian đa nguyên không còn ý nghĩa nữa. Thế nào là một cuốn sách sử? Thế nào là viết sử? Thời đại của những cuốn sách sử, với cái nhìn đơn nguyên (thường là của quyền lực chính trị), mà chúng ta trông đợi đã đi qua. Quá khứ sẽ được tạo dựng lại rõ ràng hơn, chính xác hơn từ những thiên kiến lịch sử đối nghịch.


 Trở về lại với “cái nhìn thiên kiến về lịch sử”.


 Nguyễn Đức Hiển đã chọn một vấn đề cốt lõi để bàn về cuốn Bên Thắng Cuộc của Huy Đức: nền tảng tư duy lịch sử của nó. Nếu cái nền tảng tư duy này sụp đổ thì toàn bộ cuốn sách sụp đổ. Nguyễn Đức Hiển không chấp nhận tư duy lịch sử của Huy Đức, do đó không chấp nhận những vấn đề còn lại. Đơn giản như thế. Nếu để “đánh”, Nguyễn Đức Hiển cũng chỉ cần đánh vào một điểm đó thôi là đủ.


 Chúng ta không có lý do gì để có thể nghĩ khác hơn và sẽ dừng lại ở giả địch rằng việc Nguyễn Đức Hiển chia sẻ tư duy lịch sử của quyền lực chính trị chỉ là một sự trùng hợp. Điều này bình thường. Bất cứ ai cũng có quyền sở hữu hoặc chia sẻ bất cứ một tư duy lịch sử nào. Điều đáng tiếc có lẽ là ở chổ tác giả bài báo đó đã không chọn một không gian truyền thông tự do để bày tỏ quan điểm của mình. Tranh luận về ý tưởng chỉ có ý nghĩa khi nó xảy ra trong không gian truyền thông tự do. Trong không gian truyền thông độc đoán không có tranh luận mà chỉ có áp đặt. Với chọn lựa đó, có vẻ như Nguyễn Đức Hiển đã hành xử theo thói quen của những kẻ độc quyền lịch sử: tác giả chọn một kênh truyền thông mà ở đó tác giả có thể nói và không ai có thể nói điều ngược lại. Tuy nhiên điều này chỉ đáng tiếc chứ không thể là lý do cho những tấn công cá nhân đối với tác giả của bài báo. Làm như thế là không xứng đáng. Phải hành xử tử tế mới có đủ sự tử tế để bàn về lịch sử. Phải tôn trọng nhân phẩm của người khác thì mới có đủ nhân phẩm để bàn về lịch sử.


 Một vấn đề khác nữa là nhiều người nghi ngờ sự bám víu vào thiên kiến lịch sử của quyền lực gợi ý về một cố gắng bám víu vào chính quyền lực. Đối với một cuộc tranh luận thì điều này vô nghĩa: chúng ta tranh luận về ý tưởng của một người chứ không tranh luận về cá nhân của họ. Nguyên tắc tôn trọng nhân phẩm cũng không cho phép chúng ta giả định thêm.


 Nguyễn Đức Hiển không nói điều gì mới. Cái tư duy lịch sử mà tác giả thể hiện trong bài báo đó là tư duy lịch sử chính thống của quyền lực chính trị hiện tại. Nó biện minh cho tính chính đáng của quyền lực, và trong trường hợp của những sự kiện xảy ra được đề cập đến trong Bên Thắng Cuộc, nó biện minh cho tội ác mà quyền lực đã gây ra. Nó là một thiên kiến lịch sử. Như đã nói, nó chỉ có giá trị như những thiên kiến khác. Thiên kiến lịch sử này sẽ tiếp tục tồn tại ngay cả khi mà quyền lực chính trị đẻ ra nó sụp đổ.


 Chúng ta đang cố gắng xây dựng một không gian tư duy mà ở đó không có ý tưởng/hệ thống ý tưởng nào là duy nhất hay duy nhất đúng. Trong tất cả những ý tưởng về đa nguyên, đa nguyên lịch sử là quan trọng nhất. Sự hiểu biết về quá khứ chi phối hành xử hiện tại và toan tính cho tương lai. Không có đa nguyên lịch sử thì sẽ không có đa nguyên, và do dó sẽ không có một xã hội tự do. Không phải ngẫu nhiên mà quyền lực chính trị độc đoán, ở mọi thời đại, cộng sản hay không, muốn và sẽ làm tất cả những gì cần thiết, kể cả bạo lực, để duy trì một tư duy lịch sử duy nhất do nó tạo ra. Bất cứ sự xuất hiện của tư duy lịch sử nào khác đều được coi là mối đe dọa và cần phải tiêu diệt. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những người chia sẻ hay vay mượn tư duy lịch sử của quyền lực chính trị: anh có nguy cơ trở thành những kẻ độc quyền lịch sử, nghĩa là nguy cơ trở thành độc tài.


 Sự thay đổi số phận của một quốc gia luôn luôn được bắt đầu bằng sự thay đổi tư duy lịch sử. Khi có đủ một số đông không còn chia sẻ tư duy lịch sử do quyền lực chính trị tạo ra thì quyền lực đó không còn lý do chính đáng để tiếp tục tồn tại nữa.


 Và chính ở đây chúng ta bắt gặp sự hứa hẹn và đe dọa của Bên Thắng Cuộc.


Theo blog TMK




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 04, 2013 00:11

January 3, 2013

Hãy đợi đấy, hồi sau sẽ rõ!

Bùi Văn Bồng
nguyen-ba-thanh-300x200NQL: Có cảm giác ta đang ở tình trạng  “chết đuối vớ phải cọc”. Chưa bao giờ một quan chức được điều về TƯ lại được bàn tán nhiều như thế này. Liệu cái cọc ấy sẽ hành xử thế nào cho ra cái cọc, hay là “cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không”? Thôi thì đợi hồi sau sẽ rõ vậy.
1. Quyền và hành đến đâu?

Việc chuyển giao Ban Chỉ đạo PCTN từ Chính phủ sang Trung ương Đảng là đúng với tư tưởng của đường lối “Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện”, là việc cần thiết xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, lấy lại niềm tin của nhân dân. Nhưng nếu Ban NCTW chủ yếu là người phát hiện, báo cáo tiêu cực lên TBT để xem xét xử lý, lại họp tập thể cân nhắc, “nâng lên đặt xuống”, rồi xem xét kỹ lại vụ việc theo sự cẩn tắc quá mức: “nguyên nhân, lịch sử-hiện tại, tương lai, thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập”, rồi thì “cân đối, tổng hòa các mối quan hệ”, lại phải tính toán “khách quan, biện chứng”… thì cũng khó mà đưa các vụ việc cùng người phạm tội ra ánh sáng pháp luật một cách công minh. Vì thế, trong tình hình hiện nay, nên chăng cần mạnh dạn giao thực quyền như kiểu “Thượng phương bảo kiếm” trao cho Ban NCTW, tự chịu trách nhiệm trước nguyên tắc, điều lệ Đảng và Pháp luật Nhà nước, có quyền kịp thời tạm đình chỉ chức vụ trong đảng từ cấp ủy trở xuống và báo cho Tổ chức, chính quyền biết để tạm ngưng chức vụ bên phía chính quyền trong quá trình điều tra để có kết luận đúng sai, tránh những vụ như Dương Chí Dũng và một số trường hợp khác đã xảy ra! Nhiều vụ đã “ngâm lâu cho trầu khô úa”, “để lâu cứt trâu hóa bùn”, rồi dẹp qua luôn, cuối cùng để cho vụ việc cho dù tày đình đến mấy cũng được đặc ân “chìm xuồng”, ù xọe hòa cả làng. 
Về vấn đề này, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, ông Vũ Quốc Hùng, cho rằng đây là sự thay đổi sáng suốt và tích cực. Nhưng có người lại cho rằng việc chống tham nhũng hiện nay đầy gay go, phức tạp, chưa hẳn Ban chỉ đạo Phòng-chống tham nhũng do ai nắm mà có thể tin vào hiệu quả được. Đảng đứng ra kiên quyết vào cuộc lãnh đạo chống tham nhũng mà như Hội nghị Trung ương 6 mới rồi thì cũng coi như “hòa cả làng”, chỉ là “cảnh báo, cảnh tỉnh, giáo dục, răn đe” là chính; vẫn là dĩ hòa vi quý: “trên tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, giúp nhau cùng tiến bộ”…. Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII đã thảo luận Luật Phòng-chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm và chống lãng phí, cho rằng cần phải có Ban Chỉ đạo PCTN, nhưng dứt khoát không phải do cơ quan hành pháp thực hiện. Nhưng đề nghị này khi đó đã không được chấp thuận. Việc chuyển đổi mô hình từ trực thuộc Chính phủ sang thuộc Bộ Chính trị là coi như cuộc thay đổi “mã đáo”, như chạy một vòng quanh sân vận động, nay lại trở về chỗ cũ.
Sang đầu năm 2013, câu hỏi: “Bao giờ Ban nội chính Trung ương tái lập, ai sẽ giữ chức Trưởng ban?” đã rõ. Ông Nguyễn Bá Thanh đã được giao nhiệm vụ chính thức làm Trưởng ban Nội chính Trung ương năm thứ 41, sau khi gián đoạn 5 năm. Ông Nguyễn Bá Thanh (59 tuổi), quê huyện Hòa Vang, Đà Nẵng, từng là Giám đốc Sở Nông nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng (cũ), Chủ tịch UBND Đà Nẵng và Bí thư Thành ủy Đà Nẵng. Ông hiện là Ủy viên trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy kiêm Chủ tịch HĐND thành phố Đà Nẵng.

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói với cử tri Hà Nội sau kỳ họp Quốc hội vừa qua rằng lý do phải tái lập lại Ban Nội chính Trung ương và Ban Kinh tế Trung ương, cho dù vừa được giải tán, là vì “Đã sinh ra quyền lực thì phải có cơ quan giám sát quyền lực ấy”..
Thời gian gần đây, ông Nguyễn Bá Thanh là nhân vật được truyền thông chú ý nhiều sau những thông điệp khá thẳng và mạnh liên quan tới tình hình kinh tế xã hội của đất nước. Dư luận trong nước cho rằng so với nhiều chính khách “không nói cũng không làm”, “nói mà không làm”, hoặc “nói X, nhưng làm Y”, thì ông Nguyễn Bá Thanh là một lãnh đạo biết tạo ấn tượng cả qua lời nói và việc làm. 

Trong bối cảnh này, ông Nguyễn Bá Thanh ‘xoay trở’, chí quyết, vũng lòng để hoàn thành được “đại trọng trách” này quả là không dễ. Đã ở ương vị mới giữa thời điểm “nước sôi lửa bỏng” của mặt trận chống tham nhũng và chỉnh đốn Đảng, mong sao ông Thanh sẽ làm được như ông đã nói: Vấn đề là phải có người chịu trách nhiệm cá nhân chứ không thể cuối cùng rồi hoà cả làng…  Miễn sao biết đội xã tắc lên đầu, một lòng vì dân. Làm thì phải có lửa! Ai mệt quá thì giơ tay xin nghỉ!”. Không biết sắp tới ‘xã tắc và vì dân’ được ông đội trên đầu như thế nào? Và cái ‘lửa’ của ông tại Ban Nội chính Trung ương ‘mã đáo’ lần này có độ nóng và tỏa sáng đến đâu? Từ đây, cả nước đang xem-nghe-nhìn-bình phẩm… ông Thanh thể hiện quan điểm, tư tưởng, bản lĩnh, tâm và tầm, trách nhiệm trước dân trước Đảng đến đâu? 

Trước sự kiện ông khỏa sóng sông Hàn, rời sân Chi Lăng ra sân Mỹ Đình, trang blog của nhà văn Nguyễn Quang Lập chiều 3-12 đã có sự chia sẻ, ‘cạnh khóe’ và nhắc khéo rằng: “Cố lên ông Thanh! Làm vài quả thủng lưới bọn tham nhũng nhé. Nhưng hãy cẩn thận và tỉnh táo, đừng mắc bẫy việt vị của chúng nó. Sân Mỹ Đình không dễ chơi như sân Chi Lăng, ông rất khó có cơ hội một mình một bóng. Nhất là trọng tài cũng phải cảnh giác. Trọng tài sân Mỹ Đình nếu không gian cũng lú thì rất khó chơi đấy ông Thanh!”. 

   Nhìn xưa lựa nay thì thấy cái thực quyền trong xã hội không thuộc người có tâm có tài, mà thực quyền nhất vẫn là túi hầu bao cá nhân, là thủ đoạn ngang ngược, liều lĩnh  đầy tội ác và sự cố kết phe nhóm bất tuân pháp luật, coi người như rác. Suy cho cùng, tình thế hiện nay cái ghế Trưởng ban Nội chính cũng chẳng thực quyền và chẳng có vai trò gì nếu mọi sự chung quanh vẫn vậy. Với chủ kiến, tính khí và phong cách Nguyễn Bá Thanh làm cái việc nội chính lúc này quả là trần thân cơ lược, nhất là trừng mắt trước “cả bầy sâu chúa sâu chùm lâu năm đã  đã thành tinh hóa quái”.
 

   Đối trận trước cả “rừng họng súng phản pháo” của “một bộ phận không nhỏ” quả là không đơn giản chút nào. Ban Nội chính “mã đáo”, nhưng thành công được bao nhiêu, phát huy vai trò, nhiệm vụ, quyền hành và hiệu quả thế nào có lẽ ai cũng phải chờ.  Chờ đợi những kết quả tốt đẹp, có hứa hẹn tin cậy, được nhân dân đồng thuận.




2. Cải tổ hay đưa hổ vào ” Vườn bách thú”?

Ông Nguyễn Bá Thanh với sự thẳng thắn, bộc trực, muốn “minh bạch hóa”, không ngần ngại chỉ ra tại Nghị trường những lỗ hổng về yếu kém quản lý Nhà nước: “Vinalines thua lỗ, chủ tịch bỏ chạy, công an không bắt không được. Nói ra cứ như chuyện đùa, cử tri bức xúc hỏi mà không biết trả lời thế nào, mặt cứ trơ ra. Trong khi 70.000 hộ gia đình chính sách, hỗ trợ chẳng được bao nhiêu tiền mà cứ đưa lên đưa xuống, chưa quyết được. Đằng này, hàng nghỉn tỉ đồng tiền đổ sông, đổ biển sót hết cả ruột”. Phát biểu đó càng khiến cho nhiều người đang giữ ghế trọng trách chạm nọc, và càng coi ông là cái gai, thậm chí coi như “đinh tặc”!
              Ông có nhiều hoạt động tôn trọng dân chủ, tôn trọng quyền con người, xông xáo đi cơ sở, gần gũi người lao động. Ông nói năng, phát biểu khá cẩn trọng, biết cách với từng đối tượng, từng trình độ  phải giao tiếp thế nào cho phù hợp, hầu như rất ít khi ông thả lưỡi để bị  ”cướp cò…mồm” như nhiều vị quan chức khác. Ông cũng tìm cách đặt ra chính sách để chống tiêu cực trong lực lượng cảnh sát giao thông Đà Nẵng, sẵn sàng “đấu trận” với ngân hàng, ủng hộ doanh nghiệp… 
           Nghĩa là: Tuy đã nhiều năm rồi, nhưng mà những kinh nghiệm đổi mới ở Đà Nẵng không được tỉnh, thành phố nào học theo, không được Trung ương coi là điển hình là mô hình áp dung ra cả nước, trước hết là ngay tại cấp Trung ương. Không khéo, và đã có, ông Thanh bị coi là “lập dị”, lạc lõng giữa “một bộ phận không nhỏ” mà NQTW 4 đã đúc kết, khẳng định. Vậy, càng thấy, đã rõ: Cách mạng không thể “xuất khẩu”, và “Trên không cần học dưới”.
            Cái khoảng trời riêng của ông Thanh ở Đà Nẳng có sự “tạnh ráo” mà đa số người dân tán đồng, đặt kỳ vọng, đem lại hiệu quả chính trị-xã hội thiết thực. Nhưng khoảng trời ấy khó có thể làm tạnh mưa gió bão bùng, xua giá buốt ở những nơi còn gian khó, lầm than khác, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Ông Thanh được điều ra Trung ương giao cho chức Trưởng ban Nội chính – đó là “chọn mặt gửi vàng”, một cách cải tổ, tin cẩn giao việc trọng đại, việc hóc búa lúc này nhằm  có lợi cho “quốc kế dân sinh”, hay là một cách “điệu hổ ly sơn, đưa hổ vào vườn bách thú”? Muốn thẩm định sự thể ‘con tạo xoay vần” thế nào? ‘Hồi sau sẽ rõ!’.
 Theo BVB, Rút từ  bài  Xã tắc và ” lửa”  Nguyễn Bá Thanh Cải tổ, hay đưa hổ vào “Vườn bách thú” ?


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 03, 2013 20:29

Lê Quốc Quân “trốn thuế”, cơ quan thuế đã nói gì?

Vĩnh Nguyên


timthumb.phpNQL: Theo NVCL: Ls Lê Quốc Quân tuyệt thực trong nhà tù Hà Nội sang ngày thứ 6 ( tại đây). Đây là tin quan trọng, ảnh hưởng đến sinh mệnh một con người, chính quyền không thể phớt lờ. Nếu phớt lờ nhất định CQ sẽ bị trả giá, nhất định thế.


Mấy hôm nay, chờ đợi xem cơ quan công an có thêm thông tin gì cho báo chí về vụ việc Lê Quốc Quân. Chỉ thấy các thông tin trên các báo Vietnamplus, ANTĐ, NLĐ, SGGP trong ngày 27,28/12/2012 đưa tin Lê Quốc Quân Giám đốc Cty TNHH Giải pháp Việt Nam bị bắt về tội “trốn thuế”.


Theo đó “Kết quả điều tra ban đầu xác định, từ khi thành lập Công ty TNHH Giải pháp Việt Nam năm 2001 đến nay, công ty này đã có 13 lần thay đổi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, lần cuối cùng vào ngày 5-6. Công ty này có ngành nghề kinh doanh là cập nhật, tìm kiếm, lưu trữ, xử lý dữ liệu, dịch vụ nghiên cứu và cung cấp thông tin thị trường.


Lợi dụng pháp nhân trên, ông Lê Quốc Quân đã trực tiếp chỉ đạo nhân viên dưới quyền tìm một số cán bộ, chuyên gia kinh tế để lấy thông tin cá nhân, sau đó làm các hợp đồng thuê chuyên gia tư vấn, cộng tác viên khống nhằm mục đích để hợp thức việc tăng chi phí của công ty, rồi sau đó làm thủ tục kê khai với Cơ quan Thuế nhằm trốn thuế thu nhập doanh nghiệp.


Tính đến thời điểm này, Cơ quan chức năng đã đủ chứng cứ kết luận công ty TNHH Giải pháp Việt Nam đã trốn thuế với tổng số tiền là 437.500.000 đồng.


Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an TP Hà Nội đang tiếp tục điều tra làm rõ những hành vi vi phạm pháp luật của ông Lê Quốc Quân và các đối tượng có liên quan để xử lý trước pháp luật.” (NLĐO 2812).


Là người đang điều hành và có cổ phần ở một vài Cty lại có quen biết Lê Quốc Quân, xin chia sẻ với cộng đồng vài thông tin và suy nghĩ.


Trước hết ta phải nhất trí với nhau rằng đã kinh doanh thì phải nộp thuế cho nhà nước, còn việc nhà nước đó dùng tiền thuế đó có hiệu quả hay không , có tham nhũng nhiều hay không… lại là câu chuyện khác ta không bàn ở đây. Ở hầu hết các nước văn minh dân chủ khác, tiền thuế hằng năm của doanh nghiệp hay cá nhân là tiêu chí số 1 để đánh giá tư cách công dân của họ. Tôi được nghe bà con ở bên Úc nói; càng đóng nhanh và nhiều thuế thì càng sớm có quốc tịch Úc.


Việc áp dụng luật thuế Giá trị gia tăng (VAT) là một tiến bộ lớn ở VN. Theo đó thuế được “đánh” vào “người tiêu dùng”, nghĩa là khi đưa sản phẩm bán ra thị trường thì người mua hàng là người phải nộp thuế. Như vậy hằng ngày chúng ta từ em nhỏ uống hộp sữa, đến cụ già hưu trí mua cái gậy để chống… cũng đều phải nộp tiền thuế cho nhà nước. Nói như vậy để mấy chị nhà quê lên Hà Nội bán hàng rong hay mấy anh xe ôm đón chở khách ở bến xe Miền Tây – Sài Gòn không phải hổ thẹn về tư cách Công Dân của mình: “Tôi đóng thuế nuôi các anh (công an, cán bộ…), các anh đừng có mà bắt nạt tôi. Còn thuế thu nhập doanh nghiệp là tiền phải đóng cho nhà nước khi cuối năm trên báo cáo quyết toán thể hiện: tổng thu nhập trừ đi tổng chi phí (hợp lý được cơ quan thuế xác nhận) thì doanh nghiệp phải nộp một phần thu nhập đó cho nhà nước. Ở Việt Nam trước là 28%, nay là 25% trên tổng số thu nhập đó. Lại có chuyện là ở nhiều địa phương cơ quan thuế ấn định số tiền tạm đóng thuế thu nhập hàng quý, bắt các doanh nghiệp phải nộp.


Còn bao nhiêu loại thuế, phí có tên và không tên khác nhất là vào dịp cuối năm này ở VN ai cũng biết.


Lê Quốc Quân ý thức hơn ai hết về chuyện thuế má. Anh kể có năm thu nhập được 2 tỷ đóng thuế thu nhập doanh nghiệp 560 triệu (thuế suất 28%). Công ty anh đã từng được khen thưởng về thành tích nộp thuế.


Trước đây vài năm Quân đã kể với bạn bè anh là văn phòng C/ty TNHH Giải pháp VN luôn bị sách nhiễu đe dọa. Có chủ nhà cứng rắn: mình làm việc đúng pháp luật thì sợ gì, tao cho mày thuê nhà, thằng nào đến bảo tao!… Nhưng thời gian sau thì: “Mày thông cảm,.. mày làm gì mà chúng nó nhiễu quá”. Thế là lại chuyển. Thậm chí nhiều chủ nhà chấp nhận đền bù thiệt hại do phá hợp đồng, chả biết tiền ấy ở đâu ra!?


Là một C/ty nhất là C/ty cung cấp tín nhiệm, thị trường chẳng điên mà phải thường xuyên thay đổi địa điểm hay “13 lần thay đổi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Độc giả cũng cần biết chỉ cần thay đổi địa điểm kinh doanh thôi đã phải đổi lại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh rồi (13 lần trong 10 năm).


Ngày 2/4/2011 Quân bị bắt trên vỉa hè cùng BS Phạm Hồng Sơn khi đi dự phiên tòa công khai xét xử TS Luật Cù Huy Hà Vũ. Trong thời gian giam giữ công an đã khám nhà, văn phòng c/ty khuân về các loại sách báo, chứng từ, hồ sơ cơ quan… nhưng sau 9 ngày trước sức ép của dư luận vả lại cũng chẳng tìm thấy bằng chứng”trốn thuế” nào, nên họ đã buộc phải thả hai anh. Suốt thời gian qua anh bị sách nhiễu, hành hung thế nào trên mạng đã có cả.


Đầu năm 2012 tôi có tình cờ gặp môt vị khá to của cục Thuế Hà Nội, biết tôi có quen biết Lê Quốc Quân, ông ngạc nhiên. Trong câu chuyện về Quân, ông có nói cơ quan ông bị ép phải làm vụ này. Ông bảo: “Bọn an ninh nó bảo thằng này nguy hiểm lắm, nhưng tớ thấy về thuế má, nó chẳng có gì.” Lần khác khi nói chuyện về Quân ông bảo: cứ yên trí xã hội còn nhiều người tử tế lắm em ạ.


Quý một năm 2012 Cty TNHH Giải pháp Việt Nam thanh tra về thuế. Độc giả cũng cần biết theo luật Quản lý thuế năm 2006 thì Thanh tra về thuế là mức độ cao hơn Kiểm tra thuế và kết quả thanh tra có thể là tài liệu dẫn đến việc hình sự hóa quan hệ kinh tế này.


Điều bất ngờ là ngày 18/4/2012 bằng quyết định 7439/QĐ-TTr3, Cục trưởng Cục thuế Hà Nội đã hủy bỏ Quyết định thanh tra trước đó (61/QĐ-CT-TT3): “Điều 1; Bãi bỏ quyết định thanh tra số 61/QD-CT-TTr3 ngày 04/1/2012 v/v thanh tra thuế tại công ty TNHH giải pháp Việt nam mã số thuế 0101124273 thời kỳ thanh tra 2001-2010)”. Một QĐ hiếm hoi mà không phải Cty nào cũng nhận được sau quá trình thanh tra.



Mọi sự so sánh đều là khập khiểng nhưng tôi cho rằng QĐ trên của Cục thuế Hà Nội ví như cử chỉ Quan Toàn quyền Philatô rửa tay trước bàn dân thiên hạ và nói đại ý: ta không dây vào máu của người (vô tội ) này trong vụ án lịch sử: luận xét Chúa Giêsu mà Philatô thấy Chúa vô tội thì bênh vực nhưng đành bất lực trước đám đông đang đòi đóng đinh Chúa.


Trở lại câu chuyện của Quân. Quan kể sau khi bắt em trai Quân là Lê Đình Quản Giám đốc Cty Vietnam Credit (Cty Tín nhiệm VN) và các nhân viên trong đó có cô em họ đang bụng mang dạ chửa, công an liên tục gọi những cá nhân, đại diện c/ty đã có hợp đồng với C/ty giải pháp Việt Nam. Những người này cho biết người thì bị dụ dỗ, người khác bị đe dọa để nói hoặc khai khác những điều đã ký kết trước đây với Cty của Quân. Phải chăng công an chỉ dựa vào lời khai của các nạn nhân? (Bên ngoài và đang bị giam giữ) để ra tay bắt Quân?! Quân kể sau bao lần bị chuyển và bị cướp hồ sơ của Cty Giải pháp VN chẳng có và chẳng còn. Cá nhân tôi chả lo vụ Cty Quân trốn thuế. Tôi nhớ lại câu nói trên của một quan chức ngành thuế: Cứ yên trí xã hội còn nhiều người tử tế lắm em ạ.


Theo DCCTVN



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 03, 2013 18:45

Việt – Trung: ‘Những điều không thể không nói’

TS Vũ Cao Phan


SDC14763VNN: Làm cho nhân dân hai nước hiểu được, hiểu đúng mối quan hệ lịch sử này là một việc làm cần thiết, thậm chí rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.



Có thể khẳng định, quan hệ hai nước Việt Nam và Trung Quốc là một mối quan hệ đặc biệt. Nó đặc biệt ở sự gần gụi, tương đồng. Không chỉ tương đồng về chế độ chính trị, về phương thức tổ chức xã hội và phát triển kinh tế trong thời kỳ hiện đại mà trước hết ở sự gần gụi láng giềng, ở sự gần gụi văn hóa, lịch sử. Ít  nhất mối quan hệ này đã tồn tại từ khi lịch sử thành văn được ghi lại, hơn hai ngàn năm trước.


Một ví dụ là ngay từ thời Tần Thủy Hoàng đã lưu truyền câu truyện về tướng Lý Ông Trọng, một người to lớn dị thường và có tài thao lược của đất Giao Chỉ, làm đến chức Tư lệ hiệu úy của nước Tần, giúp Hoàng đế dẹp loạn miền Tây Vực khiến quân Hung nô còn khiếp oai ngay cả khi ông đã nằm xuống.


Làm cho nhân dân hai nước hiểu được, hiểu đúng mối quan hệ lịch sử này là một việc làm cần thiết, thậm chí rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay, khi mà những sự tranh chấp về lợi ích lãnh thổ có nguy cơ vượt khỏi tầm kiểm soát và phủ mây đen lên mối quan hệ ấy.


Trong tinh thần đó, chúng tôi hoan nghênh loạt bài viết dưới mái chung: “Những điều không thể không nói ra” mà Tạp chí “Tri thức thế giới” của Trung Quốc đăng tải vào dịp này năm ngoái. Đó là các bài: “Lịch sử và sự thật: Diễn biến quan hệ Trung – Việt trước năm 1949″ (Tôn Hồng Niên, Nghiên cứu viên Trung tâm Nghiên cứu lịch sử biên cương, Viện KHXH Trung Quốc) – “Quan hệ Trung – Việt từ 1949 đến nay” ( Vu Hướng Đông, Giám đốc Học viện Chủ nghĩa Mác, Chủ nhiệm Phòng Nghiên cứu Việt Nam, Đại học Trịnh Châu) – “Những biến thiên trăm năm qua trong chiến lược ngoại giao với các nước lớn của Việt Nam” (Tôn Hồng Niên, Vương Thâm, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam, Đại học Trịnh Châu) – “Viện trợ Trung Quốc cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ” (Lục Đức An, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam, Đại học Trịnh Châu) và “Vấn đề biên giới trên đất liền và trên biển giữa Việt Nam với các nước láng giềng Đông Nam Á” (Trương Minh Lượng, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Đại học Tế Nam).


Tất cả được đăng trong số 14, ra tháng 7 năm 2011. Như cách đặt vấn đề và như chúng tôi có thể hiểu, các tác giả muốn vẽ lên một bức tranh chân thực về những gì diễn ra trước hết trong quan hệ Việt – Trung, và sau nữa là trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng, qua đó góp phần điều chỉnh nhận thức của người này người khác, ở phía bên này hoặc bên kia.Ý định ấy là tốt và cần thiết. Lời lẽ trong các bài viết cũng tương đối vừa phải, trừ vài ngoại lệ.


Tuy nhiên, hoặc do quan điểm, nhận thức, hoặc do nguồn tư liệu dựa vào thiếu khách quan, nhiều nội dung trong loạt bài này đã không phản ánh sự thật, làm hỏng mục đích mà người viết có thể muốn đặt ra.


Vì một số lý do, trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi chưa có ý định trao đổi toàn bộ và triệt để các vấn đề mà “Những điều không thể không nói ra” đã đề cập. Chúng ta còn có nhiều dịp và nhiều cách để cùng nhau tìm đến sự thật.


*   *


1.  Lịch sử thành văn của nước Việt – nghĩa là những điều được ghi lại trên giấy trắng mực đen – xuất hiện khá muộn, hàng ngàn năm sau công nguyên. Hai lý do chủ yếu: chữ viết xuất hiện muộn và cả một thiên niên kỷ mất độc lập được gọi là “thời kỳ Bắc thuộc” – một ngàn năm Bắc thuộc. Lịch sử Việt Nam trong những năm tháng này còn là một phần lịch sử Trung Hoa, điều dù muốn hay không cũng phải thừa nhận. Và dù muốn hay không cũng phải thừa nhận, với Việt Nam một ngàn năm ấy là một ngàn năm không bình yên, nói một cách khiêm tốn.


Liệu có cần thiết phải nhắc lại những chuyện ” sát phu, hiếp phụ”, “bỏ xác cho hổ đói lên rừng bắt chim chả, chặt ngà voi; chịu để giao long ăn thịt xuống biển mò ngọc trai, kiếm đồi mồi” cung phụng các quan cai trị? Rồi một ngàn năm độc lập, những cuộc xâm lược từ phương Bắc đã để lại những gì tưởng chỉ cần nhắc đến một câu của thi hào Nguyễn Trãi thế kỷ thứ XV, “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn / Vùi con đỏ dưới hầm tai họa”, viết trong ” Đại cáo bình Ngô”.


Những cuộc xâm lược của Tống, Nguyên, Minh, Thanh trong kỷ nguyên độc lập của Việt Nam đều hết sức khốc liệt, đâu có phải quan hệ giữa hai nước trong thời kỳ này“trên tổng thể là hòa bình, hữu nghị”. Tác giả của “Diễn biến quan hệ Việt – Trung trước năm 1949″chỉ thừa nhận một cuộc xâm lược đến từ phía Bắc, đó là cuộc xâm lược của nhà Nguyên trong thời kỳ này (và lịch sử chính thống của Trung Quốc cũng chỉ thừa nhận như vậy) còn thì “phần nhiều những cuộc xung đột và chiến tranh giữa hai nước là do giới phong kiến Việt Nam quấy nhiễu biên giới Trung Quốc gây ra”.


Cần phải nói rõ những điều này. Một, chỉ một lần duy nhất nhà nước phong kiến Việt Nam có cuộc Bắc phạt và cũng chỉ với một mục đích duy nhất là phá cuộc chuẩn bị xâm lược Việt Nam của nhà Tống. Đó là vào ngay thời kỳ đầu sau Bắc thuộc, năm 1075, nhà Lý (Việt Nam) phát hiện nhà Tống (Trung Quốc) lập các tiền đồn tích trữ  binh lương ở Quảng Tây nhằm chuẩn bị tiến đánh “Giao Châu” (nước Việt) nên đã xuất quân, đánh xong lập tức rút ngay về phòng ngự mà vẫn không tránh khỏi cuộc tiến quân ồ ạt sau đó của nhà Tống.


 









“Hoàn thành phân giới cắm mốc biên giới”. Tác giả: Nhan Sáng/ Ảnh đoạt giải cuộc thi Khoảnh khắc vàng




Hai, có lẽ chỉ dựa vào chính sử do các triều đại phong kiến Trung Quốc để lại mà các tác giả của “Những điều không thể không nói ra” không thừa nhận có các cuộc xâm lược Việt Nam của Tống, Minh, Thanh. Bởi vì “chính sử” luôn tìm cách mô tả đấy là những cuộc hành binh khôi phục trật tự, lập lại ngôi vương chính danh được các triều đình phong kiến Trung Quốc thừa nhận (nhưng là những phế để, phế triều đã bị sóng triều lịch sử Việt Nam gom về bến rác).


Sự thực như thế nào? Lấy ví dụ cuộc tiến quân dưới danh nghĩa “phù Trần, diệt Hồ” của nhà Minh đầu thế kỷ XV. “Phù Trần diệt Hồ” ở chỗ nào khi diệt xong cha con Hồ Quý Ly rồi liền bắt các kỳ hào, bô lão ký vào một tờ biểu dâng lên rằng: “Nay họ Trần không còn ai nữa, vả đất An Nam vốn là Giao Châu ngày trước, xin được đặt lại quận huyện như cũ” (theo “Minh sử”).


Nhưng có một thực tế là con cháu nhà Trần vẫn nổi lên ầm ầm chống lại quân Minh, lập nên một triều đại được lịch sử gọi là “kỷ Hậu Trần” thì người Minh lại gọi là “giặc” và phái binh đàn áp! Một thời kỳ “Bắc thuộc mới” kéo dài 20 năm với chính sách đồng hóa quyết liệt (tất cả sử sách nước Nam đều bị thu hết về Kim Lăng), với sưu cao thuế nặng, bắt phu khai mỏ vàng mỏ bạc rồi “chim chả, ngà voi” tận thu tận diệt khiến dân tình vô cùng khổ sở. Phải một cuộc kháng chiến gian khổ máu xương dằng dặc 10 năm của Lê Lợi – Nguyễn Trãi cuối cùng mới đưa được “cuộc phù Trần” về bên kia biên giới.


Làm sao có thể nói trong kỷ nguyên độc lập của Việt Nam ở thiên niên kỷ thứ hai, “giới thống trị Trung Quốc bấy giờ hoàn toàn không chủ động can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam” được? Và ngay trong thời kỳ được coi là giao kết hòa hiếu giữa hai nước trong quan hệ “tông phiên” thì các triều đình phong kiến Việt Nam vẫn luôn bị sách nhiễu, áp lực.


Chỉ riêng việc đòi hỏi cung phụng, cống nạp – nhất là những sản vật quý hiếm – cũng trở thành gánh nặng tài chính cho nước Việt, gánh nặng khổ ải cho thứ dân, không thể nói là “không đáng kể”,tổng giá trị (của các đồ cống nạp) luôn thấp hơn đồ “hồi tặng” (từ phía triều đình Trung Quốc)” được.


Năm 1950, khi đích thân tiếp và tiễn đoàn cố vấn quân sự của nước Trung Hoa nhân dân sang giúp Việt Nam kháng Pháp, Chủ tịch Mao Trạch Đông căn dặn: “Các đồng chí phải nói với nhân dân Việt Nam rằng tổ tiên chúng ta đã có lỗi với Việt Nam, chúng ta xin tạ tội và nguyện một lòng một dạ ra sức giúp Việt Nam đánh bại thực dân Pháp” (trích Hồi ký xuất bản bằng tiếng Hán của các Cố vấn Trương Quang Hoa, Vũ Hóa Thẩm, Đặng Kim Ba).


Thủ tướng Chu Ân Lai trong lần đầu tiên sang thăm Việt Nam năm 1955, việc đầu tiên mà ông làm là đến thắp hương Đền thờ Hai Bà Trưng, những nữ tướng Việt Nam kiệt xuất trong thế kỷ thứ nhất cầm quân nổi dậy chống quân xâm lược nhà Hán và đã anh dũng hy sinh. Thiết nghĩ không cần phải dẫn thêm những ý kiến phát biểu của các nhà lãnh đạo khác như Diệp Kiếm Anh, Vi Quốc Thanh… xung quanh vấn đề này.


Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định, mối quan hệ tổng thể giữa hai nước láng giềng Việt Nam và Trung Quốc suốt mấy ngàn năm lịch sử không phải là một bức tranh tối màu, nhất là quan hệ dân gian. Trong sự phát triển và trưởng thành của mình, người Việt, nước Việt đã tiếp thu và học tập được nhiều từ nền văn hóa – văn minh Trung Hoa. Đấy cũng là một trong nguyên nhân dẫn đến sự gần gụi, hiểu biết giữa nhân dân hai nước. Đấy cũng là thực tế hiển nhiên không thể phủ định. Không thể có chuyện giới nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lịch sử Việt Nam trong trăn trở tìm về nguồn cội lại bỏ qua những giá trị xác định để thay bằng những lập luận“khoác lác”, “hư cấu”? Càng không thể tưởng tượng ra rằng nó có mục đích “đưa vào nội dung giáo dục quốc dân” để làm băng hoại quan hệ hữu nghị giữa hai nước, hai dân tộc.


2.    Nửa sau của thế kỷ trước (thế kỷ XX), Việt Nam đã phải liên tục chiến đấu chống lại hai cuộc chiến tranh không cân sức: Kháng Pháp và kháng Mỹ. Cùng với nhân dân toàn thế giới, Trung Quốc đã có sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn, có hiệu quả về cả vật chất lẫn tinh thần cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Vào thời kỳ cao điểm, khi Mỹ trực tiếp đổ quân vào tham chiến – có lúc lên đến hơn nửa triệu – nhiều chính phủ và tổ chức nhân dân trên thế giới đã tuyên bố sẵn sàng gửi quân chí nguyện đến giúp đỡ Việt Nam, nếu được phía Việt Nam chấp nhận.


Với tinh thần tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính và cũng xét tới các hệ lụy, Chính phủ Việt Nam không chủ trương nhận quân tình nguyện chiến đấu, đặc biệt là bộ binh, và đã bày tỏ sự cảm ơn chân thành của mình đến thiện chí năm châu. Những quân nhân nước ngoài có mặt ở phía Bắc Việt Nam lúc ấy bao gồm một số lượng hạn chế các cố vấn và chuyên gia quân sự Liên Xô trong các binh chủng kỹ thuật (tên lửa phòng không, không quân …), một vài biên đội không quân của CHDCND Triều Tiên mà lãnh đạo nước này mong muốn được đưa sang để thực tập chiến đấu.


Chính phủ Trung Quốc cũng đã nhiều lần bày tỏ thiện chí sẵn sàng gửi quân tình nguyện đến Việt Nam trong các tuyên bố công khai cũng như trong những lần gặp gỡ trực tiếp lãnh đạo Việt Nam. Kết quả là đã dẫn tới các ký kết giữa hai nước về việc đưa bộ đội hậu cần (công binh) của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc vào giúp việc khắc phục giao thông bị phá hoại bởi cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ở Miền Bắc.


Trung Quốc cũng đề nghị đưa vào cả bộ đội pháo cao xạ để bảo vệ lực lượng công binh tác nghiệp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến lực lượng này. Người yêu cầu các nhà lãnh đạo Quân đội Việt Nam không đưa bộ đội Trung Quốc đến những vùng quá khó khăn ác liệt vì bạn chưa quen.


Thời kỳ đó, không quân Mỹ chia chiến trường Bắc Việt Nam thành ba vùng tác chiến: Vùng đánh phá tự do suốt ngày đêm từ Thanh Hóa trở vào vĩ tuyến 17, là vùng ác liệt nhất. Vùng thứ hai, vùng đánh phá có trọng điểm bao gồm Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và các vị trí chiến lược phía nam đường số 5. Vùng thứ ba, đánh phá có chọn lọc, là các tuyến giao thông phía bắc đường số 5.


Chấp hành chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bộ đội Trung Quốc đã được bố trí tác nghiệp trong vùng từ phía bắc đường số 5 đến biên giới Việt – Trung. Các lực lượng chí nguyện Quân Giải phòng Trung Quốc đã chiến đấu, phục vụ chiến đấu dũng cảm, quên mình vì nghĩa lớn, đồng cam cộng khổ với nhân dân Việt Nam, không chỉ góp phần khắc phục đường sá bị phá hoại, giúp Việt Nam làm mới nhiều con đường, nhiều công trình mà còn tham gia chiến đấu, trực tiếp bắn rơi hơn 100 máy bay Mỹ. Tổng cộng đã có hơn 310.000 lượt bộ đội Trung Quốc có mặt trên chiến trường miền Bắc Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1968 (nói chung, 6 tháng thay quân một lần) trong đó hơn 1000 chiến sĩ hy sinh (hơn 4000, bao gồm cả các chiến sĩ bị thương).


Theo đề nghị của phía Trung Quốc, các liệt sĩ Trung Quốc đã được chôn cất tại trên 40 nghĩa trang ở Việt Nam và hiện nay vẫn được chính quyền và nhân dân các địa phương coi sóc, tu tạo.


3. Phía Trung Quốc từng xuất bản một cuốn sách công bố 7 lần xuất quân ra nước ngoài của Quân Giải phóng Nhân dân từ sau ngày thành lập nước CHND Trung Hoa, trong đó quá nửa là xuất quân sang Việt Nam. Điều đau lòng là, hầu hết những lần xuất quân đến Việt Nam ấy đều được mô tả là để “đánh trả”, “trừng phạt” cái quốc gia mà Trung Quốc từng coi là anh em (đến bây giờ có lẽ vẫn là “anh em” vì lãnh đạo hai bên nói chung vẫn ôm hôn nhau theo kiểu “các nước anh em” thường làm).


Chúng tôi sẽ không đề cập đến ở đây bản chất các cuộc “đánh trả”“trừng phạt” ấy – xin trở lại một dịp khác, nếu cần thiết – mà chỉ xin trao đổi những gì liên quan được nêu ra từ các bài viết trong “Những điều không thể không nói ra”.


Thứ nhất, phải khẳng định rằng, trừ cuộc “tiến quân” trong giai đoạn 1965 -1968 nhằm chi viện nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ mà tôi vừa đề cập, tất cả các cuộc tiến quân khác (1974: đánh chiếm Hoàng Sa – Trung Quốc gọi là Tây Sa; 1979: Chiến tranh biên giới Việt – Trung; 1983 – 1984: đánh chiếm các điểm cao chiến lược ở tỉnh Hà Giang – Trung Quốc gọi là Lão Sơn (và xung quanh); 1988: đánh chiếm một số đảo ở Trường Sa – Trung Quốc gọi là Nam Sa) đều do Trung Quốc âm thầm khởi binh rồi bất ngờ đánh úp, nhằm lúc đối phương chưa sẵn sàng chuẩn bị. Tất cả đều giống nhau, không ngoại lệ. Làm gì có cái gọi là “sự xâm lăng, khiêu khích từ phía Việt Nam”? Mưu kế chiến tranh từ thời Tôn Tử đã chẳng lạ gì phương sách mà sau này L.Hart và nhiều tác gia quân sự đông tây phải ngả mũ, “Nguyên cớ ư ? Ở ta!”


Thêm nữa, sau năm 1975, mặc dù giành được nguyện vọng ngàn đời là độc lập dân tộc, thống nhất non sông, Việt Nam hoàn toàn bị kiệt quệ bởi ba mươi năm chiến tranh (nền kinh tế Việt Nam bị tụt đến đáy trong thập niên 75 – 85 là một minh chứng). Lo ăn, lo mặc cho dân mình còn chưa xong lẽ nào Việt Nam còn muốn mang sức kiệt đi đánh nước người? Mà đó lại là quốc gia hùng mạnh Trung Quốc và còn hơn thế nữa, một đất nước đã có sự ủng hộ to lớn cho Việt Nam trong kháng chiến! Ơn vừa mới đó mà đã quên được ư? Trọng ơn là truyền thống của dân tộc này, không ai có thể bới ra được chứng cứ ngược lại!


Và do đó phải thừa nhận là Việt Nam đã bị bất ngờ khi cuộc chiến tranh tháng 2/1979 xảy ra. Có thể có xung đột cường độ thấp nhưng là cả một cuộc chiến tranh với sự tiến quân ồ ạt của hàng chục sư đoàn đối phương trên toàn tuyến biên giới là điều chưa được phía Việt Nam tiên liệu.


Thứ hai, cần phải nói rõ một điều: Việt Nam chưa bao giờ tuyên bố Trường Sa và Hoàng Sa (Nam Sa và Tây Sa) là của một quốc gia nào khác ngoài Việt Nam. Và càng không có việc Việt Nam đã “hoàn toàn thay đổi lập trường” về vấn đề này. Câu chuyện như sau: Năm 1958, sau khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền về lãnh hải 12 hải lý, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi thư cho Thủ tướng Chu Ân Lai bày tỏ sự ủng hộ tuyên bố ấy, chỉ đơn giản như vậy. Sự ủng hộ đó là thiện chí nếu tính tới cuộc xung đột giữa nước Trung Hoa nhân dân với Đài Loan trong vùng Kim Môn, Mã Tổ lúc bấy giờ. Còn trong năm 1974, khi xảy ra sự việc Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa (Tây Sa), chính các bên đang quản lý thực tế vùng biển này là Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối.


Thứ ba. Bắt đầu từ sự xâm lược của thực dân Pháp thế kỷ XIX lập nên xứ Đông Dương thuộc Pháp rồi tiếp đến là cuộc chiến tranh do Mỹ gây ra giữa thế kỷ XX mà mà vận mệnh của ba nước Đông Dương gắn chặt với nhau: chung một kẻ thù, chung một mục đích giải phóng và độc lập dân tộc. Trong cuộc đấu tranh chung, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của nhân dân Lào, nhân dân Campuchia anh em và Việt Nam cũng hết lòng vì đất nước và nhân dân bạn. Làm theo lời dạy đầy ý nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giúp bạn là giúp mình”, hàng chục vạn chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam đã không tiếc xương máu chiến đấu quên mình trên đất nước Lào và đất nước Campuchia, không nhằm một mục đích tiểu bá, đại bá hay Liên bang Đông Dương nào hết.


Một khi chiến tranh kết thúc, tình hình yên ổn trở lại và được nhân dân bạn cho phép, tất cả các lực lượng này đã rút hết về nước, bao gồm cả những liệt sĩ đã nằm xuống trên đất Lào, Campuchia cũng được quy tập về đất mẹ Việt Nam (con số được quy tập đến nay đã là gần 50.000 liệt sĩ). Việt Nam, Lào, Campuchia ngày nay lại cùng đoàn kết, giúp đỡ nhau phát triển đất nước mình, với tư cách là những quốc gia độc lập, có chế độ chính trị riêng biệt, điều mà cả thế giới đều thấy rõ.


Đáng ngạc nhiên là trong bài “Vấn đề biên giới trên bộ và trên biển giữa Việt Nam và các nước Đông Nam Á”, tác giả gợi lại vấn đề không có thực là “lãnh thổ K.K.K”“một phần đất đai Campuchia bị mất vào tay Việt Nam”. Với mục đích gì vậy? Tác giả có biết rằng trong tháng 8 năm 2012 vừa qua chính đại diện của nước CHND Trung Hoa tại Liên Hợp quốc đã bỏ phiếu bác bỏ yêu cầu được có tiếng nói tại tổ chức quốc tế này của cái gọi là “phong trào K.K.K”? Sự trung thực cộng sản – nếu có thể gọi như vậy – là ở chỗ nào?


Thứ tư. Có những sự thực ít người biết đến, nhưng chẳng lẽ những người chủ trì một tạp chí có tên tuổi trong ngành như “Thế giới tri thức” lại ở trong trường hợp như vậy? Tôi muốn đề cập câu chuyện về điểm cao khống chế 1509 mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn. Trong bài “Quan hệ Việt – Trung từ năm 1949 đến nay”, tác giả đã mô tả những trận đánh đẫm máu, ác liệt để giành khu vực này vào năm 1984 như là cuộc chiến đấu vinh quang chống lại sự xâm lược của quân đội Việt Nam.


Hơn nữa, chúng tôi còn được biết, nơi đây nay đang trở thành một điểm du lịch của phía Trung Quốc với những trưng bày và thuyết minh bất chấp chân lý, bất chấp mọi sự nhẫn nhịn, trên thực tế phá hoại quan hệ Việt-Trung mà các bạn bày tỏ muốn vun đắp. Liệu có cần phải đánh thức “sự thật lịch sử”?


Cuối cùng, về câu chuyện hoang đường “Việt Nam bắt nạt Trung Quốc“, “Việt Nam luôn áp dụng phương châm đối đầu trực diện với Trung Quốc, một bước không lùi”, để thay lời kết luận, tôi xin kể hai chuyện nhỏ : Tháng 1/1979, khi quân đội Việt Nam mở chiến dịch phản công đánh trả cuộc xâm lấn toàn diện của chế độ Pôn Pốt với một tốc độ tiến quân mà các hãng thông tin trên thế giới mô tả là nhanh như điện sẹt, các mũi tiến công và vu hồi đã sẵn sàng khép chặt biên giới Campuchia – Thái Lan trong “tích tắc”, thì lập tức nhận được lệnh buông lỏng, nhờ đó mà bộ sậu lãnh đạo Khơme đỏ chạy thoát. Nhưng mục đích đã đạt được: Không để một ai trong số hàng ngàn chuyên gia cố vấn quân sự và dân sự “người nước ngoài” bị kẹt lại hoặc bị bắt giữ.


Câu chuyện thứ hai là tháng 2 năm ấy (1979), bị bất ngờ bởi cuộc tấn công của Quân đội Trung Quốc, các lực lượng phòng ngự Việt Nam tạm thời bị đẩy lui khỏi tuyến biên giới. Nhưng ngay sau cuộc phòng ngự, bộ đội Việt Nam đã tổ chức phản công và một chiến dịch – chiến lược tiến công quy mô với lực lượng mạnh cả xung lực lẫn hỏa lực nhằm vào đối phương đang tập trung ở một thành phố biên giới đã được triển khai. Mọi sự đã sẵn sàng và đây chắc chắn là một đòn giáng trả mạnh mẽ, gây thương vong nặng nề. Chỉ ít giờ trước thời điểm nổ súng, chiến dịch được hủy bỏ khi phía Trung Quốc tuyên bố bắt đầu cuộc triệt thoái.


Thẳng thắn và mà nhìn nhận, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc bản chất là một mối quan hệ tích cực và cần phải như vậy. Xin được đề cập đến vào một dịp khác. Bài viết này của tôi không có mục đích tranh luận, ngay cả về phương diện học thuật. Nó đơn giản chỉ là “những điều không thể không nói ra”, không thể không làm rõ vậy thôi.


TS Vũ Cao Phan


Theo VNN


—-


Chú thích: Những chữ để nghiêng trong bài này là trích từ “Những điều không thể không nói ra” hoặc từ các cuốn sách xuất bản ở Trung Quốc (TG).




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 03, 2013 16:03

Đảng không phải là cọp

Đào Tuấn


1Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của QH Phan Trung Lý đã có lời khẳng định: “Nhân dân có thể cho ý kiến đối với điều 4 Hiến pháp như với tất cả các nội dung khác trong dự thảo, không có gì cấm kỵ cả”.


Điều 4 Hiến pháp quy định Đảng Cộng sản Việt Nam “lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.

Đảng không phải là cọp để phải gọi húy thành “ông ba mươi”.

Đảng cũng không phải là vua chúa phong kiến để dân đen phải kỵ húy không dám nói đến.

Hiểu đúng tinh thần những gì mà Trưởng Ban biên tập Dự thảo Hiến pháp sửa đổi thì có nghĩa là người dân có quyền đóng góp vào toàn bộ nội dung bản hiến pháp sửa đổi, không có vùng cấm, cũng chẳng phải lo phạm, kỵ gì cả.|

Nhìn chung, có nhiều “đất” để người dân đóng góp. Chẳng hạn đó “khoảng trống” mà Ban biên tập hoàn toàn không vô ý quên, khi bỏ đi quy định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Hoặc các thiết chế mới, không khó để nhận thấy rằng sẽ nhận được sự ủng hộ của người dân: Thiết chế Hội đồng Hiến pháp với nhiệm vụ phát hiện các vi phạm Hiến pháp, đặc biệt trong các văn bản quy phạm pháp luật; Thiết chế Hội đồng bầu cử quốc gia, để tạo ra sự độc lập trong vấn đề bầu cử. Và Kiểm toán Nhà nước, cơ quan về nguyên tắc là sẽ độc lập hoàn toàn với hành pháp…

Tuy  nhiên, vẫn phải nói đến hai chữ tuy nhiên.

Trong chỉ thị (số 22-CT/TW) mới nhất về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Bộ Chính trị lưu ý các cấp ủy Đảng, tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân các cấp: Quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai (Nghị quyết 2) và kết luận Hội nghị lần thứ năm (Nghị quyết TƯ5) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Nghị quyết của Quốc hội. Nghị quyết 2 khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Về kinh tế, Nghị quyết cũng khẳng định:  Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa …. Còn TƯ 5, khẳng định lớn nhất là vấn đề sở hữu đất đai “thuộc sở hữu toàn dân”.

Trên Pháp luật TP,  Viện trưởng Viện Khoa học Pháp lý Bộ Tư Pháp, GS TS Lê Hồng Hạnh thật thà: Hội nghị Trung ương 5 đã tái khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân nên dự thảo sửa đổi HP 1992 cũng quy định như vậy.

Câu này của ông bắt đầu bằng hai chữ “Tuy nhiên”.

Vấn đề không thể không đặt ra là nếu “không có gì phải cấm kỵ”, chắc chắn sẽ ó những ý kiến khác với các kết luận của Nghị quyết 2 và Nghị quyết TƯ 5.

Trong tất cả các bản Hiến pháp, đều gì nhận quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, một trong những quyền cơ bản của người dân. Và việc thực hiện cụ thể nhất, sinh động nhất, chính là việc để người dân được tự do thể hiện trong việc đóng góp cho hiến pháp sửa đổi.

Nhấn mạnh, đây là lần đầu tiên trong lịch sử, người dân có quyền, một cách trực tiếp, đóng góp ý kiến để xây dựng đạo luật gốc, luật mẹ của các luật. Và có lẽ, để việc đóng góp thực sự là phát huy quyền làm chủ, huy động trí tuệ, tâm huyết của nhân dân, tạo sự đồng thuận của nhân dân, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân trong việc sửa đổi Hiến pháp thì không nên đặt ra bất cứ một chữ “tuy nhiên” nào, không nên đặt ra một vấn đề “húy kỵ” nào. Bởi thật khó để chấp nhận một mệnh đề kiểu “Lòng dân, tuy nhiên, ý Đảng”.


Theo blog ĐT



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 03, 2013 06:44

Quán xôi của Cường đô la

Đào Tuấn


xoiThủ tướng Chính phủ vừa có bài viết “công cộng” với tiêu đề 27 chữ, in hầu hết trên các báo: “Kiên quyết khắc phục yếu kém, vượt qua khó khăn, tiếp tục kiềm chế lạm phát, bảo đảm tăng trưởng, đưa đất nước phát triển bền vững”.

Không khó để nhận thấy, điều mà Chính phủ quan tâm, trăn trở, và có lẽ là điều mà Chính phủ chưa làm được trong năm 2013, được tái khẳng định trong thông điệp đầu năm: Sẽ cứu Doanh nghiệp.

Cụ thể, đó là việc “tạo cầu, trên cơ sở tạo cầu mà khơi thông nguồn cung, hướng ưu tiên của chính sách tài khóa, tiền tệ vào các đối tượng, lĩnh vực có mức tăng cầu lớn. Đó là khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn, mở rộng thị trường xuất khẩu, phát triển hạ tầng kinh tế xã hội, nhà ở xã hội, ký túc xá…”. “Trong hạn mức bội chi ngân sách được phê duyệt, phải tìm các nguồn lực để tăng tổng cầu, hỗ trợ thị trường; sớm công bố các biện pháp về thuế để giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp. Tăng nguồn cung tín dụng với thời gian dài hơn và lãi suất thấp hơn cho người mua nhà để ở nhằm giảm tồn kho bất động sản. Hỗ trợ thích hợp, kể cả khoanh nợ cho các doanh nghiệp gặp khó khăn tạm thời. Ban hành cơ chế mới về bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động ”Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Kiên quyết ngăn chặn nạn buôn lậu, nhập khẩu các mặt hàng không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh, an toàn, phòng dịch”.

Không khó để nhận ra, những biện pháp dành cho DN là đúng, trúng, nhưng chưa đủ.

Bởi trước thông điệp, là cái chết của Mai Linh, tập đoàn vận tải tư nhân chi phối thị phần vận tải hành khách cả nước. Và liền ngay sau đó, là sự khó, chính xác là sự “bốc hơi” 1.200 tỷ của tên tuổi Cường đô la.

Cùng ngày với thông điệp đầu năm, báo chí, hoàn toàn công khai, đăng tin DN ngàn tỷ “Quốc Cường Gia Lai” của mẹ con Cường đô la “đã bốc hơi hơn 1.200 tỷ đồng”. Số tiền có thể tậu hàng chục chiếc siêu xe Bugatti hay sắm một du thuyền hạng sang.

Xây dựng. Cao su. Bất động sản. Thủy điện. Không ngành nghề siêu lợi nhuận mà tập đoàn tư nhân này không đầu tư. Và thứ nhận lại, có thể, khoản bốc hơi quy siêu xe hay du thuyền là chưa đủ.

Một năm mới bắt đầu với Mai Linh, với Cường đô la theo một cách thức không thể tồi tệ hơn: Phí ô tô, xe  máy được chính thức áp dụng từ 1-1, không nhiều, so với vài chiếc siêu xe Bugatti, nhưng là cú đấm đối với 12.000 xe của Mai Linh. Giá nước, tại TP HCM tăng 10%. Các mặt hàng này thuộc 208 dòng thuế sẽ cắt giảm để thực hiện cam kết WTO, với mức thuế suất cắt giảm thấp nhất là 0,29% và cao nhất là 25%. Hàng tiêu dùng của Trung Quốc, vốn đã rẻ đến “đè chết DN” sẽ tiếp tục được giảm thuế theo cam kết Hiệp định tự do thương mại AFTA.

Cú đòn ngớ ngẩn nhất là cả nước chỉ có 225 giấy phép phân phối rượu, trong bối cảnh Việt Nam tiêu thụ bia nhiều nhất Asean với 2,6 tỷ lít năm 2011. Cú đòn nặng đô nhất là lương tối thiểu vùng sẽ tăng từ 1.650.000 đến 2.350.000 đồng/tháng.

Không khó để nhận thấy, bỏ mặc sự nỗ lực trong những tuyên bố của Chính phủ, câu chuyện thực tế là các bộ ngành vẫn không hề “nương tay” trong các khoản thuế phí đầu năm giáng vào DN. Mà giáng vào DN, cũng có nghĩa là giáng vào người tiêu dùng.

Trong thông điệp đầu năm, Chính phủ nhắc tới việc “tạo lập niềm tin cho thị trường”, nhưng niềm tin, muốn có, phải bắt đầu câu chuyện lãi suất, thuế phí. Phải bắt đầu từ niềm tin của những DN còn thoi thóp, chẳng hạn của Cường đô la.

6 tháng trước, một cách hài hước, nhưng không ngẫu nhiên, một quán xôi đã lấy tên là Cường đô la.


Theo blog ĐT



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 03, 2013 00:32

January 2, 2013

Cố lên ông Thanh!

6


Cố lên ông Thanh! Làm vài quả thủng lưới bọn tham nhũng nhé. Nhưng hãy cẩn thận và tỉnh táo, đừng mắc bẫy việt vị của chúng nó.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 02, 2013 20:46

Nguyễn Quang Lập's Blog

Nguyễn Quang Lập
Nguyễn Quang Lập isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Quang Lập's blog with rss.