Nguyễn Quang Lập's Blog, page 105

January 7, 2013

Hố sâu cũng tương ứng với đỉnh cao đã dựng

Tô Văn Trường


SLSQ_Woman_Stepping_off_Red_CliffNQL: Hi hi mấy ngày nay bác Nguyễn Bá Thanh đọc bài viết về bác đau cả lưng!


Để quản lý đất nước xã hội phát triển bền vững, điều kiện đơn giản mà ai cũng thấy là cần có một hệ thống tốt và cả những con người có tâm và tầm. Hệ thống tốt thì sẽ đảm bảo công việc chạy tốt mà không quá phụ thuộc vào các cá nhân vận hành hệ thống đó. Hệ thống tốt còn có khả năng tự bảo vệ (loại trừ các cá nhân không tốt như là PC có cài đặt hệ thống diệt virus tự động). Hệ thống tốt cũng là một sự đảm bảo cho các cá nhân tốt (các mắt xích của nó) có được lợi thế và phát huy tối đa năng lực cũng như các yếu tố lành mạnh. Về mặt phòng chống tham nhũng thì đó là bộ máy mà “không ai muốn/ dám/ có thể tham nhũng”… Đó sẽ là mảnh đất màu mỡ cho các cá nhân có tâm, có tài và có các phẩm chất cống hiến cho cái chung. Một hệ thống không tốt thì ngược lại. Đáng tiếc là với các “lỗi hệ thống” mà công luận nhắc đến lâu nay, một hệ thống tốt của ta vẫn là cái đích còn rất xa. Trong điều kiện đó, các cá nhân dù xuất sắc đến đâu cũng khó có thể xoay chuyển thế cục.


Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 và 6 Khóa XI, hai Ban Nội chính Trung ương và Ban Kinh tế Trung ương đã được lập lại. Việc thành lập trở lại 2 Ban đã từng bị giải tán có thể được nhìn nhận ở các góc độ khác nhau. Thay đổi về 2 Ban này chắc chắn gây ra phản hồi đối lập nhau: Người thì nhìn như một quyết tâm “nói đi với làm”; Người thì cho là Đảng can thiệp sâu. Việc tái lập hai Ban là một bước lùi về thể chế. Nhưng trong tình thế sau Nghị quyết 4 và 5 của TW thì đây là việc làm vớt chót. Hy vọng thành công dù rất mong manh.


Về tổng thể, cũng là một bước lùi vì xu hướng cải cách là không nên để tình trạng chồng chéo chức năng nhiệm vụ giữa Đảng và Nhà nước/ Chính phủ. Tuy nhiên, trong tình trạng tham nhũng tràn lan và quyền lực không được kiểm soát như trong thời gian qua thì đây có lẽ là một bước lùi chiến thuật cần thiết trong ngắn hạn. Nói cách khác, vấn đề lỗi hệ thống của ta vẫn sẽ nan giải chừng nào chưa đảm bảo được dân chủ và quyền của người dân một cách thực chất theo xu thế tiến bộ của thời đại là Nhà nước pháp quyền, Xã hội dân sự và Kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó.


Thực tế, vai trò cá nhân đối với lịch sử cũng vô cùng quan trọng như các ông Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt, Kim Ngọc, và cả những lãnh tụ tưởng như rất thủ cựu như ông Trường Chinh…khi quan điểm “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” được lấy làm cơ sở. Mặt khác, rủi ro là dù có đi hết cuộc đời như các vị lãnh đạo đáng kính nói trên thì vẫn không sửa được lỗi hệ thống mà họ dường như ít khi ở vị trí thuận lợi nhất. Khi họ không còn quyền lực hoặc thành người thiên cổ thì số phận dân tộc vẫn còn dở dang và nếu những người kế tiếp không có phẩm chất tương đương hoặc thậm chí là “phú quý giật lùi” thì đất nước còn gặp nhiều rủi ro, bất hạnh.


Ông Vương Đình Huệ được bổ nhiệm là Trưởng ban kinh tế TW, con đường “quan lộ” rất hanh thông ( “vo tròn” để mà lăn). Khi làm Bộ trưởng Bộ Tài chính lời nói và việc làm của ông chẳng để lại dấu ấn gì đáng nhớ trong dân chúng. Ông còn trẻ, được học hành bài bản, rất biết túi tiền, thưng gạo của ngân khố, người dân mong ông biết vượt lên chính mình ở cương vị mới.


Trên công luận cả báo chính thống của Nhà nước và báo mạng đều nói nhiều về ông Nguyễn Bá Thanh Bí thư thành phố Đà Nẵng, tân Trưởng ban Nội chính TW được coi là một trong số ít các vị Trung ương ủy viên tâm huyết với vận nước, có chính kiến (qua một số phát biểu), để lại dấu ấn cá nhân, có nhiều việc làm khiến cho công luận có thể hy vọng.


Ở tầm địa phương, theo tôi biết có ông Trương Đình Tuyển (Nghệ An), ông Nguyễn Minh Nhị (An Giang) để lại dấu ấn rõ nét như ông Bá Thanh nhưng đến nay chỉ còn ông Bá Thanh là đang tại chức và bay bổng ở tầm cao hơn. Bất kỳ ai nếu có một lần đến Đà Nẵng, cũng có nhiều cảm xúc tốt về một thành phố phát triển nhanh, trật tự, có điểm PCI luôn trong top đầu. Có báo còn coi ông Thanh là Triệu Tử Long trên chính trường. Nếu vậy thì cần phải xem vậy ai là “Lưu Bị và Á Đẩu” của ông ấy! Có ai đó nhân trận đá bóng gây quỹ từ thiện ở Đà Nẵng coi ông Nguyễn Bá Thanh là trung phong có hạng và kết luận là trận bóng quan trọng nhất của ông còn ở phía trước trên sân Mỹ Đình. Trong vai trò mới mà dường như ai cũng cho rằng ông là một người phù hợp nhất, chắc là ông Bá Thanh sẽ phải sớm thể hiện bản lĩnh chính trị và năng lực của mình trong môi trường đầy thử thách cam go mới! Trải nghiệm mới này chắc chắn ở một tầm cao hơn nhiều so với kinh nghiệm đã qua của ông ở cấp địa phương.


Nhìn lại con đường “kinh bang tế thế” của ông Nguyễn Bá Thanh ở địa phương cũng trải qua nhiều khó khăn, sóng gió. Tôi nhớ cách đây đã lâu, có lần được nghe ông Võ Văn Kiêt trực tiếp kể lại câu chuyện ông Nguyễn Bá Thanh từ Đà Nẵng vào thành phố Hồ Chí Minh tham vấn ông Kiệt về việc Trung ương dự kiến điều ông ra đảm nhiệm chức Phó ban ngoài Hà Nội. Ông Kiệt khuyên đại ý : ”Đã làm quản lý không ai tránh được “đụng chạm”, kiện tụng. Nếu chấp nhận ra Hà Nội lúc này thì mang theo cây vợt tennis làm “bầu bạn”! Phải ở lại để sửa sai nếu có và khẳng định dấu ấn của mình…”. Ông Kiệt hiểu rõ ông Bá Thanh năng nổ, gần dân, quyết đoán và sáng tạo …Tất nhiên cái cách làm việc của người quyết đoán trong hệ thống của ta khó tránh khỏi gây ấn tượng độc đoán, thế nhưng con người như Bá Thanh rất cần cho đất nước. Người ta nói khá nhiều về Bá Thanh và cùng sự đi lên của Đà Nẵng với rất nhiều hi vọng tràn trề nhưng chưa ai nói được tầm và thế của ông trong phạm vi rộng của cả nước. Lúc này, nếu có linh thiêng ở cõi vĩnh hằng, ông Kiệt sẽ chúc mừng việc ông Thanh ra Hà Nội làm Trưởng ban nội chính để tạo ra những cú hích nhằm thay đổi hiện trạng trì trệ và nguy hiểm hiện nay nhưng ông cũng sẽ lo lắng cho người bạn đồng tâm vì “Hố sâu cũng tương ứng với đỉnh cao đã dựng”!


Ông Bá Thanh là người con của đất Quảng cho nên mang đặc chất Quảng. Ông là con liệt sỹ, lại lặn lội từ cương vị chủ nhiệm hợp tác xã đi lên, luôn gắn liền gần như trực tiếp với đời sống của người lao động nên ông hiểu họ như hiểu chính mình. Ông biết rằng chỉ cần ông hiểu họ, đứng về phía họ, bảo vệ họ những người lao động đất Quảng đầy gan góc, cần cù, sáng tạo và giàu truyền thống cách mạng thì sóng gió nào cũng sẽ vượt qua. Ông mang tiếng độc đoán mà không run sợ vì ông đồng nghĩa là người đại diện thực sự cho dân đất Quảng người dân tin ông, bảo vệ ông dù có những lúc họ phải hi sinh quyền lợi. Đó là lợi thế của ông, cái lợi thế này đôi khi cứu ông vượt qua cái tầm của ông vốn có. Ông là con người của hành động, nhưng ông chỉ hành động khi ông nhìn thấy, sờ thấy, cảm thấy …Sự nghiệp của ông không phải là một khối pha lê trong suốt, nhưng quả thật nếu tìm một ai đó vào cương vị Trưởng ban Nội chính ở thời điểm này thì người xứng đáng nhất vẫn là Nguyễn Bá Thanh.


Một người bạn của tôi biết ông Bá Thanh từ thời hàn vi, mừng cho ông một phần thì lo cho ông mười phần. Anh bạn kể lại câu chuyện nhớ lần “Hội Trỗi” trang bị cho bệnh viện đa khoa Đà Nẵng máy chụp cắt lớp đầu tiên vào năm 1996, ông ở đâu sồng sộc đi vào quát ầm ầm: “Máy chi mà mắc quá trời, mấy trăm ngàn đô la, Đà Nẵng lấy đâu tiền mua?”. Sau biết không phải trả tiền ông mừng lắm, kéo tất cả về nhà ông nhậu. Trời sui đất khiến thế nào ông vừa được người bạn học sinh miền Nam lấy vợ Bắc mới cho một can rượu làng Vân gần 10 lít . Sáu anh em đi hết cả can, làm sạch nồi cá kho nhà ông và say túy lúy vv… Đặc điểm của Bá Thanh là biết hòa đồng, cảm thông chia sẻ với mọi đối tượng trong xã hội.


Đọc các bài báo nói về Bá Thanh, trao đổi với người bạn đồng tâm, được xác nhận họ viết về ông là đúng nhưng không khỏi giật mình. Dư luận xã hội chưa từng có thêm sức mạnh cho những nhân tố mới nảy nở như nó vốn có mà phần nhiều là ngược lại. Chết yểu!. Dư luận (báo chí) chỉ có ca ngợi công lao, tài đức lúc đương thời của những người đã về hưu, thất sủng hoặc đã là mồ ma để an ủi họ thì thành công thấy rõ như ca ngợi ông Bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc. Từ sân chơi chủ nhà Đà Nẵng đến sân chơi Mỹ Đình là bất lợi lớn, rất khó lường thành bại nhưng có điều chắc chắn nó liên quan mật thiết tới trí tuệ, bản lĩnh của ông, sự ủng hộ của nhân dân và sự “thức tỉnh” của một số người có thực quyền đang điều hành quản lý đất nước. Lúc này, ca ngợi nhiều quá sẽ nguy hiểm cho Bá Thanh. Bởi vì cuộc sống là bất phương trình, các “bầy sâu” đang nở rộ sẽ tìm mọi cách để chống lại ông với các thủ đoạn khó lường. Để khẳng định mình, ông Thanh cần mạnh mẽ không chỉ trực tiếp vạch trần các “bày sâu” mà còn phải khéo léo, tránh thỏa hiệp, không đi theo “vết xe đổ” mượn cớ lấy “tinh thần nhân văn” để hành xử như có người đã từng bộc bạch! Thử thách và “cạm bãy” đối với ông Nguyễn Bá Thanh trong cương vị mới là rất nhiều. Phép thử đầu tiên là ông cần tỏ rõ thái độ vì dân của mình thông qua vụ án Đoàn Văn Vươn. Dư luận có quyền hy vọng ở ông, các fan của ông đang mong ông sẽ tiếp tục tỏa sáng trên sân bóng chính trị và sẽ có những “bàn thắng để đời” trên chảo lửa Mỹ Đình hiểu theo nhiều nghĩa. Nếu đoạn đường phía trước có trắc trở, không vượt qua được thì sẽ là tai họa mà hố sâu cũng sẽ tương ứng đỉnh cao đã dựng. Cha ông ta đã dạy đi vào đường đời thành công thì chưa chắc tương ứng với “đồng vốn” bỏ ra, vì vốn không tự sinh lãi. Còn cá nhân làm nên lịch sử thì theo tôi, bây giờ lịch sử chưa trao cho ai và cũng không có ai có khả năng làm nên lịch sử – Trừ phi lịch sử!


Nhìn xa hơn, không chỉ chống tham nhũng, mọi việc vẫn còn ở phía trước, mà anh hùng cái thế thì không phải học đâu xa. Hãy nhìn sang Myanmar một đất nước quân phiệt, lòng dân ly tán, mất dân chủ, kinh tế xã hội trì trệ đã chuyển mình, cải cách mạnh mẽ cả đối nội và đối ngoại chủ yếu nhờ vai trò của 2 người hùng Tổng thống Thein Sein và bà Aung San Suw Kyi. Ở tầm thấp hơn chỉ mong sao 2 ông tân Trưởng ban “Bá – Vương” cứ lấy câu “Lấy dân làm gốc” làm căn cứ vững chắc cho mọi hoạt động của mình.


Theo NLG



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 07, 2013 02:31

Nhà báo Trần Đình Chính chào bán bản quyền bài thơ “Ở HAI ĐẦU NỖI NHỚ” để lấy tiền chữa bệnh

Nhà báo Trần Đình Chính

Nhà báo Trần Đình Chính


 NQL: Rất mong các đồng nghiệp xa gần, các nhà hảo tâm ra tay giúp đỡ nhà báo Trần Đình Chính ( tức Trần Hoài Thu) qua được cơn hoạn nạn. Ai chưa rõ nhà báo Trần Đình Chính xin đọc bài Ở hai đầu nỗi nhớ của nhà báo Kim Dung (tại đây). Nếu quí vị không có nhu cầu mua bài thơ thì rất mong quí vị hãy cùng nhau đóng góp giúp đỡ nhà báo Trần Đình Chính qua tài khoản đã ghi dưới đây. Mong lắm thay!


Say đây là thư của nhà báo Trần Đình Chính:


Thưa quý bạn đọc, tôi là Trần Đình Chính (tức Trần Hoài Thu) tác giả bài thơ “Ở hai đầu nỗi nhớ”, được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc. Tôi nguyên ;là p/v Báo Nhân Dân.


 Hiện tôi bị bệnh tiểu đường rất nặng, và phải chạy thận nhân tạo. Kinh phí cho việc chữa bệnh rất lớn. Do bệnh tật, sức khỏe giảm sút, tôi phải xin nghỉ, dù chưa đến tuổi hưu. Hiện, tôi chỉ còn được hưởng 75% lương cơ bản, khoảng 3,6 triệu đồng/ tháng. Trong khi tiền viện phí và thuốc thang tốn khoảng 12 triệu đồng/ tháng.


 Tôi có ý định chào bán bản quyền bài thơ “Ở hai đầu nỗi nhớ” của mình. Nhất là sau khi bài thơ được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc, được nhiều giọng ca tài năng như các ca sĩ, nghệ sĩ Thu Hiền, Bảo Yến, Anh Thơ, Tân Nhàn… thể hiện thành công.


 Bằng việc làm này, tôi hy vọng sẽ có một khoản tiền tiếp tục việc điều trị nhằm duy trì sự sống. Hoặc nếu khá hơn có thể thực hiện được ca phẫu thuật ghép thận và ghép giác mạc, mong trở lại cuộc sống lao động bình thường, tiếp tục sự nghiệp làm báo, làm thơ.


 Tại thời điểm này, tôi rất xúc động nhận được sự quan tâm, động viên của nhiều bạn yêu thơ ở trong nước và nước ngoài. Trước đó, tôi cũng nhận được lời động viên thăm hỏi của cán bộ, phóng viên báo Nhân Dân và quà tặng là 65,5 triệu đồng.


 Một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động và Cục quản lý Lao động ngoài nước (Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội) gửi tặng 112 triệu đồng. Và tôi cũng nhận được quà của các bạn đọc của Blog Hiệu Minh. Tôi xin gửi đến các bạn đã quan tâm, yêu mến, động viên lời cảm ơn chân thành.


 Bạn đọc nào quan tâm đến câu chuyện của tôi- nhà báo Trần Đình Chính (Trần Hoài Thu) tác giả của bài thơ “Ở hai đầu nỗi nhớ” có thể liên lạc qua số điện thoại 0903223495 hoặc qua địa chỉ nhim2_2_05@yahoo.com.


Số Tài khoản: 0011002389044

    Ngân hàng: Vietcombank

    Chủ Tài khoản: Đỗ Phương Anh


 Xin cảm ơn các bạn.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 07, 2013 02:00

DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH hay BẠO LỰC CÁCH MẠNG ?

Nhà văn Hoàng Lại Giang


Nhà văn Hoàng Lại Giang

Nhà văn Hoàng Lại Giang


HLG: “Tôi muốn gởi những dòng cuối này đến anh Nguyễn Phú Trọng, với tư cách là đồng môn – tôi học trước anh hai khoá. Tuy là học một trường, nhưng tôi và anh có hai cách tiếp cận khác về CNXH. Tôi nghiêng về CNXH dân chủ của Lassall, còn anh theo CNXH bạo lực của Lénin.”


 “Bạn bè chúng ta thời đại học nói với tôi rằng kể từ khi anh lên chức TBT đã có hơn 50 người yêu nước bị làm khó dễ, bị bắt, bị giam cầm vì nhiều lý do vu vơ.


Dấu ấn của những cuộc “Bạo lực cánh mạng”


Nếu phải chọn một trong hai hình thái trên, tôi chọn ”DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH “. Bởi “Bạo lực cách mạng“ là bước đường cùng để nhân dân bằng “sức mạnh cứng” của mình đập tan một thể chế chính trị tàn bạo, tham nhũng, một thể chế đối lập với nhân dân về mọi phương diện, trong thể chế ấy mọi quyền của dân đều bị tước đoạt và kẻ cầm quyền lộng hành … đẩy dân vào con đường cùng. Tức nước vỡ bờ, trên thực tế đây là sự đối đầu một sống một chết giữa nhân dân – kẻ bị trị và bên kia là kẻ cầm quyền – kẻ thống trị nắm giữ mọi quyền lực. Với tôi dù bên nào thắng thì vẫn gây ra những tấn thảm kịch cho nhân dân, dẫn đất nước vào chỗ suy vong.


 Nhưng nói thế không có nghĩa là tôi vô cảm với những cuộc “BẠO LỰC CÁCH MẠNG“ của nhân dân 13 xứ thuộc địa Anh cùng đứng dậy giành lại nền độc lập từ tay thực dân Anh và từ đó xây nên bản Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1791 ,trong đó có 10 tu chính án như đóng đinh vào lịch sử tiến hoá của nhân loại về quyền của con người và quyền của kẻ cai trị, trong đó dân có quyền “Tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tôn giáo …” Và cuộc “Bạo lực cách mạng” Pháp năm 1789-1799. Tuyên ngôn nhân quyền từ cuộc “Bạo lực cách mạng” này cho tới hôm nay vẫn là điểm son mà loài người tiến bộ nhớ ơn: “…Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. “Nguyên tắc chủ yếu đặt ở chủ quyền Quốc gia. Không một tổ chức, không một cá nhân nào có thể sử dụng quyền hành mà không xuất phát từ nguyên tắc đó”.


Chính những cuộc “Bạo lực cách mạng” trên đã tước đi những quyền mang tính tuyệt đối của các nhà cầm quyền độc tài, toàn trị, sa đoạ, và buộc họ phải coi dân làm trọng.

Cách mạng tháng Mười năm 1917 là “Bạo lực cách mạng” lật đổ chế độ Sa Hoàng bằng sức mạnh cứng của nhân dân và quân đội. Nhưng cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 của ta lại là cuộc “Diễn biến hoà bình”. Con đường thành công của cách mạng tháng Tám là cuộc tuyên truyền, vận động nhân dân…và chờ thời cơ chín muồi, chuyển hoá một chính thể thực dân – phong kiến sang chính thể dân chủ cộng hoà. Xét trên phương diện rộng, thì đây chính là chọn lựa của cụ Phan Chu Trinh: Khai dân trí,  Chấn dân khí, Hậu dân sinh.


Lịch sử những cuộc chuyển hoá quyền lực


“Diễn biến hoà bình” thực chất là sự chuyển hoá tư duy. Từ tư duy cũ theo truyền thống, vận động sang tư duy mới tiến bộ hơn, hợp xu thế thời đại và hợp lòng dân hơn. Rất tiếc loài người đang ở giữa thập niên 20 của thế kỷ 21 mà một vài quốc gia như Việt Nam lại không muốn thay đổi tư duy, thậm chí muốn quay lại tư duy truyền thống theo kiểu phong kiến, nghĩa là ai giành được nước thì sẽ giữ độc quyền cai trị dân hết thế hệ này sang thế hệ khác. Nếu trước đây theo kiểu cha truyền con nối thì ngày nay theo nhóm lợi ích có tôn chỉ mục đích đậm nét hình thức. Trên thực tế chính sách mị dân thuở ban sơ ấy đã mất lòng tin trong dân từ lâu lắm rồi. Quyền lực từ xưa tới nay bao giờ cũng có sức mê hoặc rất lớn, có sức hút đáng sợ, ngay cả những chính khách hay nhà văn hoá lớn cũng không dễ rứt ra được; và nếu quyền lực rơi vào tay những kẻ chủ yếu lao động bằng cơ bắp, mang “thành phần cơ bản”, thì quyền lực là mối nguy hiểm cho cả dân tộc! Và vì vậy họ rất sợ “Diễn biến hoà bình”. Những lý giải sai lệch “Diễn biến hoà bình” của họ hoàn toàn dựa theo cảm tính chủ quan, thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn lịch sử. Hãy đọc lại lịch sử nước nhà để thấy “Diễn biến hoà bình” là tất yếu của sự tiến hoá loài người, không có gì phải lo sợ.


Lịch sử Đại Việt còn ghi rõ ở triều Đinh, Đinh Tuệ lên ngôi lúc 6 tuổi. Vào lúc quân Tống chuẩn bị xâm chiếm nước ta, cả triều thần tôn Lê Hoàn lên ngôi. Thái hậu họ Dương, vượt qua lệ ước dòng họ, đã đứng về phía Lê Hoàn, chấp nhận phế đế, chung lòng chống kẻ thù tuyền kiếp của Đại Việt. Cuộc phế lập trong ôn hoà của Dương Thái hậu và đình thần triều Đinh đã xoay chuyển tình thế, làm chỗ dựa cho cuộc chống Tống kết quả và đưa nhà tiền Lê vào lịch sử như một vương triều có công chống xâm lược của Đại Việt.


Cuối nhà tiền Lê, bắt đầu bằng cuộc tranh giành ngôi vương và sự bạo ngược của Lê Long Đỉnh …Triều thần tiền Lê đã sáng suốt tôn Lý Công Uẩn lên ngôi. Tất nhiên công đầu thuộc về nhà sư Vạn Hạnh. Không ngờ đây lại là một triều đại có tầm nhìn của trăm năm, nghìn năm, cấp tiến, để lại cho hậu thế những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể sáng giá cho đến tận hôm nay. Văn hoá đời Lý là văn hoá từ bi hỷ xả của Phật giáo. Nhớ lại cuối thời tiền Lê, xã hội Đại Việt lấy quyền lực làm quốc sách, anh em tranh giành nhau quyền lực, giết hại nhau vì quyền lực, tàn bạo, sa đọạ, dâm đãng … mới thấy Lý Thái tổ tôn vinh Phật giáo, lấy tư tưởng nhà Phật làm tư tưởng chính thống của Đại Việt là có lý do của Ngài. Con người ấy, tư tưởng ấy, tầm nhìn ấy đã không do dự dời đô về La Thành – Đại La và sau đổi thành Thăng Long. Về chính trị, ngoại giao,… Lý Thái Tổ đã tự mình làm gương, bắt các thái tử phải cầm quân ra trận. Dư âm của các sứ quân, rồi Chiêm Thành, Chân Lạp đều lo sợ không còn đất sống, phải triều cống Đại Việt để “bảo toàn đất nước và sinh mạng nhân dân”. Đại Việt bước vào thời kỳ nước yên, biển lặng, giặc Tống cũng nể sợ, muốn mà không dám gây hấn.


Vua tôi đồng lòng, đấy là thời kỳ giữa vua và dân ít có khoảng cách nhất. Suy đi ngẫm lại, phế và lập theo con đường “Diễn biến hoà bình” là cần thiết cho một xã hội tàn bạo, hủ bại, tham nhũng, hách dịch, chuyên quyền chuyển hoá bằng con đường hoà bình sang một xã hội tiến bộ hơn, tốt đẹp hơn, nhân ái và hợp lòng dân hơn mà ít tốn xương máu, thì ai lại nỡ lên án, thậm chí căm thù, dùng quyền lực mà triệt tiêu.


“Quân sư” cho “diễn biến hoà bình” ở Việt Nam là Trần Thủ Độ. Nếu không có sự tận diệt con cháu nhà Lý cho chắc vương triều Trần vô cùng dã man thì đây là cuộc chuyển giao quyền lực đẹp nhất từ vương triều Lý đang suy vong sang vương triều Trần đầy sinh lực. Lịch sử không có “giá như”, nếu cho phép “giá như” thì tôi “giá như” không có cuộc phế lập bằng con đường “Diễn biến hoà bình” này, thì Đại Việt ta chắc khó bề đương nổi với đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh đang tung vó ngựa từ Đông sang Tây. Chính trong cái hoạ binh đao Nguyên Mông thế kỷ 13, dân tộc ta xuất hiện nhiều danh tướng và hiền tài cho tới hôm nay vẫn còn là những vì sao chói sáng trên bầu trời nhân loại.


Thật là một thiếu sót, nếu lịch sử quên cuộc phế – lập, “Diễn biến hoà bình” triều đại Lê Thánh Tông. Triều Lê Nhân tông tưởng suy bởi sự tranh giành quyền lực, các nhóm triều thần gian xảo làm những cuộc đảo chính, lập thái tử Nghi Dân lên ngôi. Nhưng chỉ 6 tháng sau, cuộc “Diễn biến hoà bình”của các đại thần còn chút lòng yêu nước thương nòi đã lập Tư Thành lên ngôi, hiệu là Lê Thánh tông. Khác với các vua trước cùng thời, Lê Thánh Tông tỏ rõ bản lĩnh và đức độ của một đấng anh quân, đã khai sáng triều đại mình.


Cho đến hôm nay, là người Việt, dù có đi bốn phương trời, nhưng không ai không tự hào về đất nước nghìn năm văn hiến của mình. Nhưng cái gốc của nghìn năm văn hiến khởi nguồn từ đâu? Tôi nghĩ có thể nó bắt đầu từ đời Lý với việc định đô ra Thăng Long của Lý Thái tổ, với việc lập Văn Miếu của Lý Thánh Tông… Nét Văn hoá từ bi hỷ xả sâu đậm nhất ở thời kỳ này.


Văn hiến thời Trần là Hội nghị Diên Hồng, tìm sự đồng lòng trong công cuộc chống kẻ thù mạnh hơn ta trăm lần, nghìn lần, là “Sát thát!” với kẻ thù, là văn hoá độ lượng dung tha, gác lại quá khứ hướng về tương lai của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông sau khi thắng trận. Một nét văn hoá đậm tính nhân văn của cha ông một thời cực đẹp vậy mà ở thời hiện đại nhiều nhà lãnh đạo của chính thể mới lại e dè, lo ngại và hướng về tư tưởng bảo vệ vương triều hơn là tư tưởng nhân văn thời Trần. Điều đó tạo nên sự hận thù của người trong một nước, chứ không hề nghĩ về Hội nghị Diên Hồng, nghĩ về hai chữ “Sát thát!”, về khoan dung. Nói cách khác, ý thức hệ đã đẩy chủ nghĩa nhân văn ra khỏi tầm với của nền văn hiến có tự ngàn xưa! Mối nguy hiểm mà cha ông thời nào cũng cảnh giác là đưa đất nước xích lại gần hơn với kẻ thù và đẩy nhân dân ra khỏi tầm của Hội nghị Diên Hồng.


Nhưng nét văn hiến nghìn năm đậm nét nhất là ở văn hoá đời Lê với tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi, tư tưởng “Tâm công sách” của nhà văn hoá kiệt xuất này. Sau Nguyễn Trãi là Lê Thánh tông. Đây là một vị vua để lại sau mình nhiều giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lớn nhất trong các triều đại. Ngoài việc “định phép thi hương, sửa phép thi hội” nhằm chọn hiền tài cho đất nước, danh xưng tiến sĩ bắt đầu từ triều đại này. Trong văn bia đời Lê Thánh Tông, tiến sĩ Thân Nhân Trung để lại cho hậu thế những câu bất hủ: “… Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết.” Với 24 điều dạy của vua Lê Thánh Tông, chúng ta cảm nhận được giá trị của một nền văn hoá cốt lõi của Việt Nam hôm nay: nền văn hoá lấy dân làm trọng, quan lại là nô bộc của dân, ý dân là ý Trời. Và cũng bắt đầu từ vua Lê Thánh Tông, cương vực lãnh thổ, trên bộ, trên biển đảo được các quan sở tại trình báo chi tiết từ nơi mình ở có núi, sông, hồ, biển đảo, … lên triều đình để lập địa đồ cho nước được chính xác. Ngài còn căn dặn các tướng sĩ: 

“Ta phải gìn giữ cho cẩn thận đừng để cho ai lấy một phân núi, một tấc sông của vua Thái Rổ để lại .”


Trần Trọng Kim viết trong “Việt Nam sử lược”: “… Xem những công việc của vua Thánh Tông thì ngài thật là một đấng anh quân. Những sự văn trị và võ công ở nước Nam ta không có đời nào thịnh hơn thời Hồng Đức. Nhờ có vua Thái Tổ thì giang sơn nước Nam mới còn, và nhờ có vua Thánh Tông thì văn hoá nước ta mới thịnh.”


“Diễn biến hoà bình” không phải như những gì người ta gán ghép


Lật lại lịch sử phát triển Việt Nam ta thì “Bạo lực cách mạng” thường xảy ra khi cần lật đổ ách đô hộ của kẻ thù dân tộc, còn hầu hết những chuyển hoá các triều đại đều là từ việc phế – lập mà ngày nay gọi là “Diễn biến hoà bình”. Đấy cũng là sự vận động khách quan của quy luật. Không hiểu từ cơ sở nào mà có người lại định nghĩa: “’Diễn biến hoà bình’ là một trong những chiến lược có ý nghĩa và phạm vi toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, được hình thành từ những năm cuối thập kỷ 40 đầu thập kỷ 50, hoàn chỉnh ở thập kỷ 80 của thế kỷ 20, nhằm chống các nước XHCN, phong trào độc lập dân tộc và phong trào tiến bộ trên thế giới…” (Báo điện tử của Đảng CSVN).


Quả thật tôi chưa bao giờ dám nghĩ có một Thánh nhân nào đó lại có thể lật đổ được CNXH ở Đông Âu và Liên Xô. Bởi lẽ các chế độ này qua một bộ máy tuyên truyền lớn nhất trong mọi thời đại đã bám rễ sâu từ trung ương đến tận hang cùng ngõ hẻm các làng xã trên 50 năm ở các nước Đông Âu và 70 năm ở Nga. Hơn một lần tôi nói trên mạng Internet rằng sự sụp đổ ấy bắt nguồn từ ý chí chủ quan của nhiều nhà lãnh đạo các nước XHCN. Chính họ đã bất chấp quy luật tiến hoá của lịch sử phát triển loài người. Sau trên 2 thập kỷ, tôi chưa thấy Đảng cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu trở lại nắm quyền lãnh đạo ở nước họ – mặc dù chế độ mới ở các nước ấy không cấm Đảng cộng sản hoạt động. Vì vậy, một Khrutsov, một Gorbachev không thể có sức mạnh siêu phàm nào để giữ cái chính quyền ra đời từ ý chí luận của các bậc tiền nhiệm! Nói cách khác, Khrutsov nhận ra tính không tưởng của thể chế mà họ đang dắt nhân dân Nga đi, nhưng đến Gorbachev nhận ra sự bất đồng quyết kiệt của nhân dân Nga với chính quyền mà ông là đại diện, và sự chuyển biến của ông nằm trong cái thế tất yếu của lịch sử.


Những cuộc “Diễn biến hoà bình” gần đây nhất là những cuộc cách mạng mang tên hoa nhài ở các nước Bắc Phi. Những cuộc xuống đường của nhân dân đã buộc những nhà lãnh đạo cao nhất, từng có thâm niên trị vì nước họ, phải từ chức, hoặc phế bỏ. Ai cưỡng lại sức mạnh của nhân dân, người đó hãy noi gương Gaddafi ở chiếc cống ngầm!


Nhưng tôi lại thiện cảm với đất nước Miến Điện. 40 năm trong chế độ quân phiệt, nhưng dân tộc này lại “Diễn biến hoà bình” theo đúng nghĩa của cụm từ trên để lột xác thành một nước tự do, dân chủ và nhân quyền đích thực, những nhà chính trị khác chính kiến đã được tự do ra khỏi trại giam và tiếp tục hoạt động trở lại. Người tù nhân tiêu biểu là bà Suu Kyi. Báo chí và xuất bản đã được tháo “vòng kim cô” định hướng, khống chế và kiểm duyệt. Dân được quyền ra báo và xuất bản, lập hội, biểu tình, … như những gì mà Nguyễn Ái Quốc đòi thực dân Pháp phải trao cho nhân dân VN từ đầu những năm 20 của thế kỷ trước. Vậy mà hôm nay Quốc hội VN vẫn chưa thông qua được luật xuất bản trong đó tư nhân được lập nhà xuất bản. Còn Miến Điện thì …coi đó là chuyện tất yếu để trở thành một nước dân chủ.


Công lao vĩ đại này trước tiên thuộc về tổng thống Thein Sein.


Lịch sử các triều đại chứng minh, những kẻ nắm quyền lực, thường có xu hướng giữ chặt quyền lực, tăng thêm uy quyền để dễ trị vì dân chúng, và vì vậy trường hợp vị tổng thống đương nhiệm Thein Sein là một ngoại lệ. Hành động của tổng thống Thein Sein chắc chắn được nhân dân thế giới tôn vinh như là bậc vĩ nhân của thời hiện đại, dám chia xẻ quyền lực, đúng hơn là trao lại quyền lực về tay nhân dân, làm một tấm gương cho không ít nhà lãnh đạo một số nước đang còn mê muội bởi quyền lực, coi nhân dân như những tù nhân của chính mình dưới lớp vỏ hào nhoáng: Chính quyền của dân, do dân, vì dân!


Việt Nam thời hiện đại vẫn còn đó những tấm gương trung dũng kiên cường, học rộng tài cao chí lớn …mưu lược một thời. Ở đây tôi xin nhắc đến Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc. Cả ba nhà chí sĩ này theo 3 con đường cứu nước khác nhau. Phan Bội Châu thì nhờ đồng lân, đồng chủng là Nhật Bản giúp ta chống Tây. Phan Chu Trinh theo con đường “thức tỉnh nhân tâm, hợp quần, hợp xã, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, ai nấy thấy rõ ngọn nguồn, đồng tâm hiệp lực đạp đổ cường quyền …” (Thư của Phan Chu Trinh gởi Nguyễn Ái Quốc ở Marseille 18-12-1922). Còn Nguyễn Ái Quốc thì theo Quốc tế 3. Ở đây tôi không đề cập đến nội dung của hai con đường cứu nước(giữa PCT và NAQ) mà tôi chỉ nói tới phương pháp cách mạng không đồng nhất giữa hai người, cũng trong thư PCT gởi NAQ: “…từ thời xưa tới nay, từ Á sang Âu chưa có một người nào làm cái việc như anh (NAQ), anh lấy cái lẽ ở nước mình lưới giăng tứ bề, mà về nước ắt là sa cơ, gia dĩ dân tình sĩ khí cơ hồ tan tác, bởi cái chính sách cường quyền nên sự hấp thụ lí thuyết kém cỏi, bởi thế mà anh cứ khư khư cái phương pháp “ngoạ ngoại chiêu hiền đãi thời đột nội”


Nhưng cuối cùng Nguyễn Ái Quốc đã thành công. Cuộc Cách mạng tháng Tám dựng lên nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, cùng với Tuyên ngôn độc lập, Bản hiến pháp năm 1946 … là sự tích luỹ bao kinh nghiệm, bài học, thành quả của nhân loại tiến bộ cho tới thời ấy mà Nguyễn Ái Quốc có được.


Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc là tấn công chính quốc ngay trên chính quốc. Và khi có điều kiện thì về nước. Cuộc “Diễn biến hoà bình” cách mạng tháng Tám năm 1945 đã được Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị và mai phục từ những năm 20 của thế kỷ 20. Rất tiếc sau đó cuộc “Diễn biến hoà bình” lại trở thành “Bạo lực cách mạng” do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, mà hôm nay chưa dễ có sự đồng thuận của nhiều nhà lịch sử, nhà khoa học, học giả trong và ngoài nước. Nhưng nhìn vào thực tế thì ai cũng thấy Quốc tế 3 thất bại và Quốc tế 2 thành công ít nhất là ở các nước Tây Âu. Lãnh tụ của Quốc tế 2 là Enghen. Những năm cuối đời, Enghen nhìn thấy sai lầm của chủ nghĩa L.A. Blanqui (lãnh đạo thuộc phái bạo lực trong Quốc tế 1): Dựa vào bạo lực cách mạng là có thể tạo ra một xã hội không có áp bức và bóc lột! “…Tuy nhiên, đừng tưởng đó là toàn bộ nền chuyên chính của toàn bộ giai cấp cách mạng tức là giai cấp vô sản, mà là chuyên chính của số ít người …số người này lại phục tùng chuyên chính của một hoặc vài người” (Toàn tập Marx-Enghen, cuốn 18, tr 580-581 bản Hoa văn). Thời hiện đại TBT Ziuganov cho rằng: “Nguyên nhân cơ bản khiến Liên Xô và Đảng cộng sản sụp đổ là sự lũng đoạn đối với tài sản, quyền lực và chân lý”. Ở đây không có kẻ thù địch và “Diễn biến hoà bình” nào cả!


Cái giá của “Bạo lực cách mạng” và nền văn hiến Đai Việt thời hiện đại


Tôi nghĩ giá như – lại giá như – chúng ta đứng trên nền tảng của chủ nghĩa dân tộc như hầu hết các nước ở Đông Nam Á thì biết đâu chúng ta tránh được cuộc “Bạo lực cách mạng” kéo dài suốt 30 năm cùng với những cuộc cách mạng gọi là “dân chủ” gây ra cho dân tộc chúng ta bao nhiêu cảnh nồi da xáo thịt, hàng bao nhiêu triệu gia đình tan nát, mẹ mất con, vợ mất chồng, anh mất em, những cuộc ly tán mất nhà mất cửa mất cả quê hương. Một thứ văn hoá phi văn hoá làm đảo lộn văn hoá trong sáng của người Việt được giữ gìn trong trường kỳ lịch sử, qua các cuộc giảm tô, cải cách ruộng đất, cải tao tư sản. Con người Việt thời cách mạng nhìn đâu cũng thấy kẻ thù … Con tố cha, vợ tố chồng, anh tố em. Cho đến tận hôm nay kẻ thù lại mai danh ẩn tích trong “Diễn biến hoà bình”, còn chính kẻ thù đã và đang cướp biển đảo của ta thì gọi là đồng chí vàng, bạc! Thế hệ chúng tôi lớn lên trong cách mạng, số còn sống hôm nay vẫn không hiểu đây là thứ văn hoá gì? Cho đến hôm nay tôi vẫn nhớ như in lời dạy của vua Trần Nhân tông lúc tôi còn là sinh viên: “Các người chớ quên ,chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họạ lâu đời của ta là họạ Trung Hoa…”(Di chúc của Trần Nhân tông).


Cốt lõi của một dân tộc là văn hoá chứ không phải là đất rộng hay hẹp, nhiều tài nguyên hay ít tài nguyên, không phải người đông hay thưa. Tất cả chỉ là chất xúc tác để tạo ra bản sắc văn hoá của một dân tộc. Bản sắc văn hoá ấy nông hay sâu, dày hay mỏng, rộng hay hẹp, đa tầng hay ít tầng… sẽ quyết định tâm thức của dân tộc ấy. Tâm thức văn hoá quyết định sức mạnh của một dân tộc, quyết định cả sự tồn vong của dân tộc.


Chúng ta tự hào nghìn năm văn hiến là dựa trên cái cốt lõi của một nền văn hoá được vun xới, bồi đắp qua hàng nghìn năm dựng nước và mở cõi của tiền nhân, tạo thành nhân cách của một dân tộc. Nhân cách ấy là bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy là khác giống nhưng chung một dàn, là lá lành đùm lá rách, là anh em như thể tay chân, là người trong một nước phải thương nhau cùng – trong ca dao, tục ngữ. Là lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo, là việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Nguyễn Trãi. Là quyền biến, lúc bình thì khoan sức cho dân để làm kế sâu rễ bền gốc – Trần Hưng Đạo.


Giá trị của văn hoá là giá trị tiềm ẩn, mang đậm dấu ấn riêng của một dân tộc. Theo UNESCO thì “Văn hoá là hệ thống tổng thể những giá trị biểu trưng quy định cách ứng xử, thái độ giao tiếp của một cộng đồng và làm cho cộng đồng đó có đặc thù riêng”.


Tóm lại “Diễn biến hoà bình” xuất hiện tự thời cổ đại thường được gọi là phế – lập, khi xã hội loài người có vương quyền (có kẻ cai trị và người bị trị). Nó là sự vận động khách quan của các mối quan hệ giữa người và người, giữa kẻ thống trị và người bị trị, hoàn toàn không phải là khái niệm của “kẻ thù gần đây”. Sự vận động ấy hướng tới một định chế hợp xu thế thời đại, hợp lòng dân hơn và vì vậy nó là sản phẩm của sự tiến bộ. Nó đồng thời cũng cảnh cáo mọi sự bảo thủ, hám quyền và chuyên quyền! Bước tiếp theo của chuyên quyền là độc quyền. Từ độc quyền đến độc đoán, độc tài, quân phiệt, … là một bước ngắn. Một học giả phương Tây đã khái quát những xã hội chuyên chế rằng: “Một đất nước kỳ lạ khi nó nhìn mọi sự thay đổi như một sự tấn công, mỗi biến chuyển như là một sự giật lùi và mọi sự thích nghi như những cuộc đầu hàng” (theo báo Gilles Delafon trích trong cuốn Hello Earth).

Không một nhân dân nào chấp nhận sự chuyên chế và độc tài. Chuyên chế và độc tài là kẻ thù của nền dân chủ. Phan Bội Châu đã từng nói: “Không có dân thì đất đai không thể còn ,chủ quyền không thể lập ;nhân dân còn thì nước còn. Nhân dân mất thì nước mất. Muốn xem nhân dân còn mất thế nào thì nhìn xem cái quyền của người dân còn mất thế nào?”


Bình tâm nhìn lại, hôm nay người dân còn được quyền gì? Nhân dân có trăm tai nghìn mắt, không nhà cầm quyền nào đánh tráo được giữa sự bạo ngược và lòng nhân ái. Hồ Chí Minh đã từng lo sợ về một nhà nước mà ông là người sáng lập, đất nước ấy, dân chủ là kẻ thù của nền chuyên chính vô sản: “Các chú diễn giải hai tiếng dân chủ sao mà rắc rối, dài dòng thế? Dân chủ thực ra có nghĩa là: Để cho dân được mở miệng. Dân chủ là đừng bịt miệng dân.” Đúng, trong trường hợp này Hồ Chí Minh là một thiên tài. Ông tiên đoán chính xác sự bất bình thường của “đứa con” mà mình “mang nặng đẻ đau”.


Và vì vậy hôm nay nếu có “Diễn biến hoà bình” thì đấy chính là sự chuyển hoá một cách ôn hoà trạng thái vô tổ chức, trên nói dưới không nghe, tình trạng cát cứ có dấu hiệu phục hồi, tham nhũng, mua quan bán chức,… từ hiện tượng đang trở thành bản chất của chế độ, lòng tin của dân với đảng cầm quyền suy giảm đến mức báo động, thì sự chuyển biến ấy chính là đại phúc cho nhân dân, chứ có gì mà phải … sợ? Và dẫu anh có sợ cũng không được. Hãy gia cố con đê trước khi nước tràn! Khi nước đã tràn thì có Thánh cũng chịu!


Ổn định và trì trệ


Cái dễ của nhà cầm quyền là vui vẻ, là hài lòng trước quyền lực của mình ngày hôm nay, và mong xã hội ổn định mãi như ngày hôm nay để tiếp tục giữ quyền lực.


Cái khó của nhà cầm quyền là dám nghe những phản biện và tự vượt lên chính mình ngày hôm nay để theo kịp sự chuyển hoá khách quan của xã hội – sự chuyển hoá cần thiết cho sự tồn tại và phát triển đất nước trong đó có mình và dòng họ mình. Điều ấy lý giải vì sao ngay cả thời phong kiến nhà vua vẫn phải chấp nhận “Giám sát ngự sử” bên cạnh mình. Thực tế chứng minh vương triều nào can đảm lắng nghe lời can gián, những lời “nghịch nhĩ” điều chỉnh phương pháp trị dân của mình thì xã hội lành mạnh hơn. Đấy mới là sự ổn định thực thông qua “Diễn biến hoà bình” chính tư duy của mình. Không ít nhà lãnh đạo chủ chốt của cách mạng Việt Nam chưa nhận thức đúng học thuyết Marx về ổn định đồng nghĩa với trì trệ. “Thực chất cách mạng của phép biện chứng duy vật không dung hoà với bất cứ sự trì trệ và bất động nào, làm cho phép duy vật trở thành công cụ cải tạo thực tiễn xã hội, giúp tính toán một cách khách quan tới những yêu cầu lịch sử của sự phát trển xã hội, tình trạng những hình thức cũ không phù hợp với nội dung mới, sự cần thiết phải chuyển đến những hình thức cao thúc đẩy sự tiến bộ của loài người…” (Từ điển triết học – nxb VH TT 2002, tr 84).


Hãy nhìn sự ổn định của xã hội VN và các nước theo chúng ta là không ổn định như Thái Lan, Nhật Bản,… thì ai cũng dễ đồng tình xã hội của họ vẫn phát triển vượt xa chúng ta nhiều, nhiều lắm.


Chúng ta đánh đổ phong kiến, chúng ta đánh đổ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đâu phải để xây dựng một xã hội ổn định theo kiểu không có phản biện hay phản biện giả. ( Phản biện giả là phản biện có sự lãnh đạo của đảng cầm quyền.) Có ai đó chê Hoàng đế Quang Trung là độc tài quân phiệt, nhưng tôi chưa thấy tài liệu nào nói Ông bắt giam, bỏ tù một ai mắc tội vu khoát. (Trong Chiếu cầu lời nói thẳng Quang Trung mong nhận được những lời nói thẳng, nói thực, không bắt tội vu khoát một ai). 


Vậy mà hôm nay chính tôi lại nhìn thấy bao nhiêu người yêu nước bị bắt, bị giam cầm chỉ vì yêu nước mà không chịu yêu CNXH, chỉ vì có chính kiến khác với chính thống. Trong thực tế Marx chưa bao giờ đồng nhất yêu nước và yêu CNXH! Và với CNCS, Marx cũng chỉ dám dự đoán thôi.


Những nhà lãnh đạo hôm nay nên dũng cảm nhìn thẳng vào thực tế để thấy phong kiến và đế quốc thối nát thực, nhưng chúng nó vẫn cho những người yêu nước, những người cộng sản ra báo tư nhân, lập nhà xuất bản tư nhân, dân được lập hội và biểu tình phản đối chúng nó. Năm 1925 Phan Chu Trinh từ Pháp về Sài Gòn, và sau đó không lâu ông tổ chức diễn thuyết lên án chính quyền. Năm 1925 cụ Phan có ít nhất 2 lần diễn thuyết ở Sài Gòn. Và ngày 26 tháng 3 năm 1926, khi ông qua đời, gần một nửa dân Sài Gòn đi dự đám tang nhà yêu nước Phan Chu Trinh mà không ai bị bắt bớ, tù đày. 96 năm sau ngày cụ Phan ra đi vĩnh viễn, bác sĩ Huỳnh Tấn Mẫm giữa thềm nhà hát Lớn Sài Gòn lên án Trung Quốc xâm chiếm biển đảo thuộc chủ quyền VN thì bị công an xua đuổi cùng nhiều trí thức tên tuổi như nguyên Viện trưởng Viện xã hội học Tương Lai, kiến trúc sư Trọng Huấn. Hai thể chế đối lập ấy, người dân thường cũng biết đối chiếu so sánh dễ dàng huống chi là những trí thức tầm cỡ như GS Hoàng Tuỵ, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, GS Phan Đình Diệu, GS Ngô Bảo Châu, nhà văn Nguyên Ngọc, GS Nguyễn Huệ Chi, GS Tương Lai, BS Huỳnh Tấn Mẫm, … để từ đấy lãnh đạo nhà nước hôm nay nên coi “Diễn biến hoà bình” hoàn toàn không phải là kẻ thù địch nào cả mà sự trì trệ trong chính những nhà lãnh đạo của Đảng CS, là phương sách chuyển hoá tư duy chính mình và chuyển đổi xã hội phù hợp quy luật khách quan thì tự khắc lòng dân lại thuận.


Một thời chúng ta đã từng quy kết và dùng nhục hình dã man với bao nhiêu người có công với cách mạng, những dân oan vô tội, tôi mong những người nắm quyền lực hôm nay đừng đẩy những người yêu nước vào cái gọi là bọn thù địch “Diễn biến hoà bình” mà rơi vào những sai lầm đã khắc vào lịch sử trong quá khứ chưa xa những tội lỗi trời không dung đất không tha!( cụm từ của Nguyễn Trãi).


Thay lời kết


Tôi muốn gởi những dòng cuối này đến anh Nguyễn Phú Trọng, với tư cách là đồng môn – tôi học trước anh hai khoá. Tuy là học một trường, nhưng tôi và anh có hai cách tiếp cận khác về CNXH. Tôi nghiêng về CNXH dân chủ của Lassall, còn anh theo CNXH bạo lực của Lénin. Nhưng tôi không nói chuyện đúng sai ở đây. Ở đây tôi chỉ mong với tư cách một người lãnh đạo Đảng, anh cố gắng giữ cho xã hội dưới thời anh trên dưới đồng lòng, coi dân làm trọng, xoá cách biệt giữa dân với Đảng, hết sức tránh dùng cường quyền và bạo lực đối với những người yêu nước khác chính kiến. Muốn vậy chính anh và những đồng chí của anh phải tự mình chuyển hoá tư duy hoặc là chấp nhận “Diễn biến hoà bình” (Không phải Diễn biến hoà bình theo định nghĩa của báo Điện tử ĐCS, mà theo truyền thống, hợp xu thế). Đấy là hai con đường ôn hoà nhất để xây dựng một xã hội lành mạnh và hợp quy luật khách quan .


Tôi tin anh làm được bởi trước anh đã có Trường Chinh một thời thiên tả, cứng nhắc, rồi đã tự phủ định mình hôm qua. Thời ấy kinh tế thị trường là cụm từ cấm kỵ, đồng nghĩa với xét lại. Ai dính vào cái “mũ” này thì coi như cuộc đời chấm dứt. Nói như thế để thấy vai trò vô cùng quan trọng của cụ Trường Chinh. Tôi mong anh học tập cố TBT Trường Chinh và mới đây là Thein Sein – người vừa được báo Straits Times Singapore tôn vinh nhân vật của châu Á năm 2012.


Bạn bè chúng ta thời đại học nói với tôi rằng kể từ khi anh lên chức TBT đã có hơn 50 người yêu nước bị làm khó dễ, bị bắt, bị giam cầm vì nhiều lý do vu vơ. Xã hội hôm nay dưới quyền anh làm tôi nhớ lại thời Nhân văn Giai phẩm ở trong nước thời hiện đại, và thời cổ đại Trung Hoa tôi lại nhớ thời Tống Thần tông, Vương An Thạch làm tể tướng. Vương là một người học rộng tài cao, một nhà thơ uyên thâm. Vậy mà dưới thời Vương An Thạch kẻ sĩ bị bắt, bị đi đày nhiều nhất. Một thi nhân như Tô Đông Pha chỉ vì không đồng chính kiến với Vương An Thạch mà gần suốt cuộc đời phải chịu đi đày, có lúc đói quá phải “hớp nắng” để đỡ đói trên đảo Hải Nam. Trên cái nền này tôi có viết cuốn “Thăng trầm Tô Đông Pha” (Nhà XB Văn nghệ TP HCM năm 2000) với hy vọng những nhà lãnh đạo VN hôm nay lấy đó làm bài học. Nhưng dường như người ta nghĩ nhiều về quyền lực và quyền lợi mà nhẹ về văn hoá – văn hoá đời Lê lấy chí nhân thay cường bạo, văn hoá đời Trần lấy khoan dung làm trọng.


Tôi nay đã ngoài 70, không hề biết sợ chết, chỉ sợ trước khi chết mà vẫn phải nhìn đất nước như thời Vương An Thạch!


Chắc anh thừa biết lịch sử không quên công lao một ai và lịch sử cũng không bỏ sót tội lỗi một ai.


H.L.G.


Theo ABS



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 07, 2013 00:31

January 6, 2013

Có một điều gì đó rất Lã Bất Vi

Huỳnh Ngọc Chênh


cau-hoi-thiet-ke-websiteĐến liệt sỹ chống Trung cộng trong chiến tranh biên giới phía bắc năm 1979 cũng bị viết thành là do bọn côn đồ nào đó sát hại thì hết chỗ nói. Mà không phải chỉ có một tờ báo tránh né vì sợ úy kị mẫu quốc thiên triều mà có rất nhiều tờ báo gọi là chính thống của đảng đều né tránh như vậy. Bằng chứng về sự chỉ đạo từ cấp cao đã rõ ràng ràng. Chẳng lẽ nghi vấn đặt ra trong bài viết dưới đây đăng trên blog nầy hồi tháng 4.2012 đã trở thành xác thực.


Có quá nhiều sự việc phát sinh trong thời gian qua không khỏi không làm ta suy nghĩ về cái gì đó khó hiểu đang xảy ra.
[image error]
 
Bia kỷ niệm của sư đoàn 337 chiến đấu chống “quân Trung Quốc xâm lược” bị đục bỏ đi chữ “Trung Quốc xâm lược”

  7883
 
 Bia ghi công Nguyễn Huệ đánh tan “giặc Tàu” bị đục bỏ để thay bằng một tấm bia vô thưởng vô phạt khác.

images
Bia mộ của anh hùng liệt sỹ Trần Văn Phương hy sinh trong trận chống quân Trung Cộng xâm chiếm Gạc Ma năm 1988 bị đục bỏ đi chữ “anh hùng”

 Cờ sáu sao bổng dưng xuất hiện trên truyền hình quốc gia VTV khi đài nầy đưa tin về chuyến viếng thăm của ông Trọng đến Trung Cộng.


 Cờ sáu sao lại oai vệ xuất hiện một lần nữa tại phủ chủ tịch khi đón quốc khách Tập Cận Bình qua thăm và làm việc tại Việt Nam.

 
 Thực hiện cầu truyền hình “Láng giềng gần”  giữa đài truyền hình địa phương của  tỉnh Quảng Tây tự trị với đài truyền hình quốc gia của nước CHXHCN Việt Nam VTV.






Hà Nội Việt Nam- Nam Ninh Quảng Tây  láng giềng hảo hảo



Chủ tịch nước Trương Tấn Sang chính thức đón tiếp tỉnh trưởng tỉnh Vân Nam và sau đó ký 7 thỏa thuận hợp tác  giữa tỉnh Vân Nam với nước CHXHCN Việt Nam.






Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tỉnh trưởng tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) Lý Kỷ Hằng.  (Ảnh: Nguyễn Khang – TTXVN)



  Trấn áp tàn bạo những người biểu tình chống Trung Cộng xâm lược Biển Đông. Đến nay còn giam giữ không lý do và chưa đưa ra xét xử những người từng tham gia biểu tình chống Trung Cộng như Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Anh Ba Sài Gòn, Bùi Hằng…



 
 
 
Cấm đoán hoặc gây khó dễ hầu hết các buổi hội thảo hoặc chiếu phim do nhân dân tổ chức liên quan đến chủ quyền Hoàng Sa- Trường Sa. Cuốn phim ” Hoàng Sa VN- Nỗi đau mất mát” của ông Hồ Cương Quyết hoàn toàn bị cấm chiếu ở Việt Nam.






Hồ Cương Quyết đang pv vợ một ngư dân bị mất tích trên vùng biển Hoàng Sa trong phim Hoàng Sa VN nỗi đau mất mát



 
Ngăn cản các hoạt động gặp mặt, trợ giúp các chiến sỹ hải quân sống sót sau trận xâm chiếm đảo Gạc Ma. Ngăn cản cả những hoạt động tưởng niệm các chiến sỹ đã hy sinh trong trận chiến trên.
Thậm chí người dân ghi ký hiệu “NO U” để phản đối yêu sách ngang ngược về đường lưỡi bò của Trung Cộng trên áo quần hoặc vật dụng cũng bị cấm đoán hoặc gây khó dễ. Hàng chục ngàn áo “no u” của báo SGTT làm ra bị niêm kín trong kho không cho bán ra ngoài. Doanh nghiệp hợp đồng với báo SGTT sản xuất ra áo đó cũng bị gây khó dễ.
 






Những chiếc áo thế này cũng không được bán ra, không được mặc!



Tất cả những sự việc đó nói lên điều gì?  Ai chủ trương làm những điều nầy? Ai lén lút giật dây để tạo ra nhiều lần “sai sót” một cách cố ý?
Ngày trước, miền Nam bị 500.000 quân Mỹ  chiếm đóng, chính quyền miền Nam cũng do họ tạo dựng nên, thế nhưng nhân dân miền Nam không hề sợ sệt Mỹ. Ai cũng có thể công khai chửi bới “Đế Quốc Mỹ”, báo chí miền Nam công khai chỉ trích Mỹ, cờ Mỹ bị đốt công khai giữa Sài Gòn, xe Mỹ bị sinh viên học sinh ném bom xăng trên đường phố… 
Bây giờ Trung Cộng là cái gì của Việt Nam? Là mẫu quốc? Là kẻ thống trị? Tại sao lại bắt cả nhân dân rúm ró hèn nhược trước chúng?   Đường đường một quốc gia độc lập mà lại tự nguyện xếp ngang hàng với một tỉnh biên giới của chúng là cớ gì? Hào khí một thời chống Pháp, chống Mỹ mất tiêu đâu rồi?
                                            *              *
                                                    *
Trung Hoa có truyền thống cài người vào chính quyền các nước lân bang. (Đài Loan vừa phát hiện một ổ gián điệp TQ gồm 40 tướng Đài Loan-NQL).  Ngày xưa Lã Bất Vi là thương gia nước Triệu, thấy Tử Sở là hoàng tử nước Tần, là cán bộ có tiềm năng, đang bị khổ sỡ làm con tin ở nước Triệu, y mang về nuôi dưỡng, gã tì thiếp đã có thai với mình cho Tử Sở để vừa dụ dỗ vừa khống chế. Sau đó y bơm tiền ra lobby cho Tử Sở về nước và được lên ngôi vua. Y được làm tướng quốc nước Tần rồi điều khiển chính trường Tần theo ý mình
Nhiều doanh nhân trong nước và nhiều Việt Kiều kể rằng bên Quảng Châu có một khu ăn chơi kiểu “nhất dạ đế vương” với hàng trăm cô gái đẹp tuyệt trần như cung tần mỹ nữ. Các doanh nghiệp Trung Cộng hoặc Hồng Công thường mời quan chức nước ngoài vào đó chiêu đãi ăn chơi, rồi có kẻ bí mật ghi lại hình để khống chế và sử dụng lâu dài. Những quan chức nầy về sau lại được TC bơm tiền vào để lobby cho nhanh thăng quan tiến chức, giữ các vị trí trọng yếu trong chính quyền nước mình. 
Khu ăn chơi đó đã có từ 20 năm trước và rất gần với Việt Nam. Quan chức ta có dịp qua đó ký kết làm ăn không tránh khỏi được các doanh nhân Trung Cộng mời vào đó chiêu đãi. Không biết cách đây 15, 20 năm có ai bị ghi hình ở đó không nhỉ? Có ai bị ghi hình nhưng sau đó về lên chức vùn vụt không nhỉ?
Có hay không có chuyện đó thì khó mà biết được vì đó là bí mật tình báo vào tầm chiến lược của Trung Cộng.
Tuy vậy, có một điều gì đó rất khó hiểu, rất Lã Bất Vi đang xảy ra ở nước ta  mà chúng ta cần phải cảnh giác. 

Nhưng liệu bây giờ mới cảnh giác thì có quá trễ hay không?
Theo blog HNC


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 06, 2013 18:39

Định mệnh lót cho ông chữ “Bá”

Cánh Cò
6NQL: Bác Cánh Cò viết dễ sợ quá, có đôi điểm mình không đồng tình nhưng mình thích cái nhìn lý trí thế này.

Vài ngày nay khi có tin ông Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ giữ hai chức vụ quan trọng của Trung ương vừa mới “tái sinh”: Ban Nội chính và Ban Kinh tế Trung ương, các trang báo chính thống rộ lên các bài viết phấn khởi nhưng chỉ dành cho một trong hai nhân vật này là Nguyễn Bá Thanh còn ông Huệ không ai nhắc tới.
Người ta còn nhớ, khi ông Vương Đình Huệ lên tiếng về giá xăng dầu và khẳng định rằng sẽ không thể vì quyền lợi của 11 doanh nghiệp đầu mối mà phải vì hơn 80 triệu dân”. Thậm chí, ông Huệ khẳng định như đinh đóng cột sẽ “chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định giảm giá xăng dầu”.
Những hân hoan sau lời tuyên bố có tính cách “hùng hồn” khó thấy trong thời buổi “chung một tư cách” của các bộ trưởng không sống sót lâu quá ba tháng. Ông Huệ trượt dài dưới cái nhìn của báo chí khi giá xăng vẫn ung dung đi lên còn ông thì ung dung hỏi tờ Sài Gòn Tiếp Thị: Báo kinh tế tại sao lại viết về chính trị?
Những tiếng thở dài lượt thượt cũng không lâu tắt ngấm. Ông Huệ tiếp tục làm Bộ trưởng Tài chánh và không thèm tuyên bố một lời nào nữa. Ông cảm thấy làm dư luận chú ý đã đủ và bây giờ là lúc ông thu hoạch những gì mà ông bỏ ra trong nhiều năm để leo lên chức vụ này.
Ông Huệ biết rất rõ Trưởng ban Kinh tế Trung ương không phải là cây đũa thần có thể giúp ông hô biến cho tình hình khủng hoảng nợ xấu, lạm phát cùng hằng trăm vấn đề kinh tế vĩ mô hiện nay. Đối với ông Huệ, chức vụ mới sẽ là bậc thang đưa ông lên chức Phó Thủ tướng và vì vậy cứ làm những việc cầm chừng, không phạm sai lầm và nhất là… không tuyên bố linh tinh là cách mà ông sẽ chọn.
Vậy thì báo chí không kỳ vọng một chút gì vào ông là điều hợp lý. Còn ông Nguyễn Bá Thanh thì sao?
Những ai tới Đà Nẵng cách đây 10 năm và quay trở lại với thời gian hiện tại sẽ thấy rằng một sự thay đổi khó tin đối với một thành phố miền Trung có quá nhiều khó khăn vì các tỉnh vây chung quanh nó, sự nghèo đói kinh niên đã trì kéo mọi nỗ lực phát triển.
Người đứng ra chỉ đạo các cải tổ và phát triển cần thiết cho Đà Nẵng là ông Nguyễn Bá Thanh. Trong vai trò vừa là Chủ tịch vừa là Bí thư ông Thanh không khác gì một lãnh chúa miền Trung. Ông đưa ra quyết định nào thì theo dõi nó có được thực hiện đầy đủ hay không. Ông nói chuyện với thuộc hạ vừa như anh em bạn bè trong các buổi nhậu thân tình, vừa sẵn sàng đập bàn vỗ mặt nếu anh nào theo quán tính của một cán bộ cộng sản “cứ làm sai rồi sửa”. Ông Thanh cho cả nước thấy Đà Nẵng có thể làm bất cứ điều gì miễn là phát triển và ổn định.
Phát triển thì khó ai từ chối thành quả của ông còn ổn định thì còn phải xem lại.
Ông Nguyễn Bá Thanh trong cương vị chủ tịch Hội Ðồng Nhân Dân và bí thư Thành ủy Ðà Nẵng đã khiến Tổng Lãnh sự Mỹ tại Việt Nam hoảng hồn khi liệt kê các chi tiết mà ông đã đối xử với địch thủ là Thiếu tướng Trần Văn Thanh, trong vai trò Chánh thanh tra Bộ Công an được cử về điều tra vụ ông Bí thư ăn hối lộ 200 ngàn đô la. Ông tướng này chẳng những không làm gì được lãnh chúa Đà Nẵng mà trái lại còn bị chơi ra trò khi đang nằm hôn mê bất tỉnh trên giường bệnh viện vẫn bị đẩy ra trước vành móng ngựa.
Chiêu này của ông Nguyễn Bá Thanh cho thấy tính chất gian hùng của một thủ lĩnh chính trị của ông có thừa đối với ai dám chống lại ông.
Vụ án Cồn Dầu là một mặt khác của sự ổn định mà ôngThanh sẵn sàng áp dụng.
Người dân Cẩm Lệ ở cửa ngõ tây nam thành phố Đà Nẵng còn nhớ như in cái chết tức tưởi của anh Thành Năm sau khi giáo dân Cồn Dầu chống lại chính quyền phường Hòa Xuân giải tỏa trắng 430 ha để thực hiện dự án khu du lịch sinh thái Hòa Xuân. Nằm trong địa bàn phường, thôn Cồn Dầu với diện tích 100 ha cũng bị giải tỏa lấy mặt bằng phục vụ dự án.
Anh Năm bị công an trả về gia đình sau khi lấy khẩu cung và hai ngày sau thì qua đời trong tình trạng không thể nào thương tâm hơn.
Trong dự án thu hồi đất để giao cho tập đoàn Sun Group xây dựng khu sinh thái đã gây tranh cãi mạnh mẽ với người dân Hòa Xuân này chính ông Nguyễn Bá Thanh trong một cuộc họp với dân xác định rằng không chấp nhận những yêu cầu không thể đáp ứng. Ngay trong phiên họp ngày 5/11/2009 ông Thanh đã không giấu diếm sự răn đe của một lãnh chúa: “nếu hộ dân nào không đồng ý với việc kiểm định thì chính quyền sẽ tiến hành kiểm tra hành chính về nhà cửa đất đai.”
Ông Nguyễn Bá Thanh đã nổi lên như một nhà cai trị thép. Người dân Đà Nẵng nếu ai không bị mất đất, không bị công an tới tận nhà bắt phải ký tên giao đất như dân Cồn Dầu sẽ nhìn ông như một nhà cải cách mang lại cho Đà Nẵng nét đẹp đẽ hoành tráng. Ngược lại đối với người dân Cồn Dầu thì ông Thanh vĩnh viễn là một ác bá không hơn không kém.
Đối với Trung ương, nếu thỏa hiệp với ông Nguyễn Bá Thanh sẽ có hai cái lợi, thứ nhất ông Thanh không ngại tiêu diệt đối thủ chính trị như đã từng làm đối với tướng Trần Văn Thanh. Thứ hai ông Nguyễn Bá Thanh dù sao cũng là gương mặt ít lem luốc nhất nếu so với toàn bộ Ban Bí thư từ ông Dũng tới ông Sang, ông Trọng cho nên mang ông Bá Thanh vào ngồi ở cái ghế “lửa” này là phù hợp với tình hình hiện nay. Vừa gây niềm phấn khích giả tạo cho báo chí, người dân vừa tạo hình ảnh “nhiều chiều” của nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam trước dư luận trong và ngoài nước.
Nếu ai là người lo ngại ông Bá Thanh nhất có lẽ là Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh.
Qua bài phát biểu của ông Vịnh trên Tuổi Trẻ vừa qua, ai cũng thấy rõ vai trò và bộ mặt thật của ông này trong ván bài Trung Quốc. Ông Vịnh và một số rất lớn trong bộ máy thượng tầng đã âm thầm tán trợ chính sách đi đêm với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông và không ai ngây thơ tin rằng hai Đảng bắt tay nhau giải quyết vấn đề này trên tinh thần Cộng sản.
Ông Nguyễn Bá Thanh có lẽ sẽ rất cô đơn trong Bộ chính trị nếu ông không thay đổi chính kiến của mình về vấn đề Trung Quốc.
Cách đây vài năm, một audio clip cho thấy chính ông Thanh là người ra lệnh cho gần 400 tàu cá của ngư dân ra khơi bao vây tàu cá Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam. Vụ bao vây bất ngờ này làm cho Bộ chính trị mất ngủ và không một thông tin chính thức nào được công khai trên báo chí.
Sau biến cố này, ông Thanh được nhìn với đôi mắt khác: Sẵn sàng chống Trung Quốc kể cả bằng những phương tiện thô sơ nhất. Hình thức mà ông Thanh dùng chỉ có thể xem là phản ứng xốc nổi nhưng nếu xét cho kỹ thì chính nó làm cho Trung Quốc khó đối phó nhất. Không lẽ đem tàu chiến ra tiêu diệt hàng trăm tàu cá của thường dân khi họ không có tấc sắt trong tay và trong chính phạm vi chủ quyền của Việt Nam?
Nếu ông Nguyễn Bá Thanh vẫn giữ bản tính quyết đoán và không sợ hãi, khi ra Hà Nội ông sẽ gặp phản ứng mạnh nhưng âm thầm từ thế lực đang khuynh loát hệ thống chính trị Việt Nam, nói trắng ra là Trung Quốc và các nhóm lợi ích dựa vào Trung Quốc.
Các nhóm lợi ích này không những nằm trong khu vực kinh tế mà chính trị mới là chỗ quan trọng nó tìm chỗ dựa vào. Nguyễn Chí Vịnh là một điển hình cho nhóm này khi công khai bênh Trung Quốc, hạ bệ Mỹ và những người biểu tình chống Trung Quốc.
Ông Thanh có làm được gì hay không là một chuyện rất khó đoán. Dĩ nhiên thế lực ủng hộ ông trong Bộ Chính Trị đã có nước cờ để đi nhằm cân bằng quyền lực. Ít ra nước cờ này có thề giải thích vai trò ông Thanh là làm cho dân chúng tin rằng nếu ông Thanh ngồi vào ghế trưởng ban Nội chính thì cơ may chống tham nhũng sẽ tiến triển tốt hơn.
Cái cơ may ấy nếu tỉnh táo mà nói sẽ không có lý do gì để tồn tại.
Thứ nhất một người từng có tì vết tham nhũng sẽ không bao giờ chống được tham nhũng.
Thứ hai một người từng nổi tiếng ngang trái trong cách giải quyết oan sai tại Cồn Dầu không hy vọng gì có thể đặt quyền lợi người dân lên trên quyền lợi của Đảng vì số tiền các tập đoàn đóng góp vào ngân sách sẽ là liều thuốc giữ cho Đảng sống còn trong khi người dân kiệt sức vì cái chủ trương nguy hiểm ấy.
Thứ ba, ông Thanh có tiếp tục chống Trung Quốc như đã từng làm tại Đà Nẵng hay không tùy vào vây cánh mà ông đang có và sẽ tạo thêm trong những ngày sắp tới. Thế nhưng rất không may cho ông, hầu hết những người sẵn sàng ngồi chung thuyền với ông lại rất ưa sự hào phóng của Trung Quốc và không coi sinh mệnh đất nước là quan trọng hơn sinh mệnh của Đảng, của gia đình.
Ông Nguyễn Bá Thanh tại Đà Nẵng sẽ rất khác với Ông Nguyễn Bá Thanh tại Bộ chính trị. Ở Đà Nẵng ông là vua, ở Hà Nội ông chỉ là một viên tướng.
Ở Đà Nẵng ông có thể gõ đầu các giám đốc sở nhưng ở Hà Nội không có ai để ông bị ông gõ đầu.
Ở Đà Nẵng ông muốn làm gì cũng được kể cả tầy chay ngân hàng, kêu gọi người dân chống không cho hoạt động, nhưng ở Hà Nội không ai cho phép ông mở một cuộc họp chỉ mặt vào Ngân hàng Nhà nước mà ra lệnh này lệnh nọ.
Ở Đà Nẵng ông quyết định quyền lợi cho chính ông và thuộc hạ. Ở Hà Nội người khác quyết định thay ông và có thể ông sẽ trở thành thuộc hạ, một thuộc hạ có máu mặt thế thôi.
Cuối cùng của entry này tôi chia sẻ niềm vui với tất cả các trang blog có cảm tình và hy vọng rất nhiều vào ông Nguyễn Bá Thanh. Tôi đồng cảm và thao thức cùng các bạn về một hy vọng mơ hồ của mọi người nhưng bấm bụng không nói ra những khiếm khuyết quan trọng của ông Thanh chỉ vì không muốn thanh kem ngắn ngủn của niềm hy vọng tan chảy quá nhanh trong bầu không khí chính trị hiện nay.
Nhưng ngồi mút hoài thanh kem ấy trong tâm cảm tự đánh lừa mình là một sự cay đắng. Phải không bạn bè của tôi?
Theo blog CC


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 06, 2013 18:07

Hiến pháp của ai và ai nên bàn?

Hà Đình Sơn


1277712861_luat 020Hiến pháp của một nhà nước pháp quyền là một bản khế ước xã hội. Nó là kết quả phản ảnh mối tương quan thế lực giữa các lực lượng trong xã hội. Hiến pháp là kết quả của quá trình đấu tranh chính trị – xã hội chứ không phải là nguyên nhân hay cội nguồn sinh ra đấu tranh xã hội. Trong xã hội quyền lực nhà nước thuộc về ai thì kẻ đó là người làm ra luật chơi hay làm ra Hiến pháp.


Nếu quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thì nhà nước là công cụ của nhân dân, Hiến pháp – ý chí nhân dân là tối thượng, tổ chức nhà nước và hoạt động nhà nước phải tuân theo hiến pháp và chỉ có nhân dân là người có quyền làm ra Hiến pháp và là người có quyền thay đổi Hiến pháp. Ngược lại khi nhà nước là công cụ của tầng lớp thống trị xã hội thì Hiến pháp chỉ là phương tiện của nhà nước.


Hiện nay, ở Việt Nam Hiến pháp là gì? Hiến pháp là của ai? Như quan điểm tôi nêu ở trên thì về mặt thực tế khách quan là khác với thừa nhận chủ quan. Lấy thước đo nào để đánh giá thì trong xã hội hiện nay không có một phương tiện khách quan nào được mọi người thừa nhận. Ở các nước trên thế giới việc xác định ý kiến đa số của người dân thì cũng ít khi người dân thực hiện được quyền biểu quyết trực tiếp mà thông thường biểu quyết gián tiếp thông qua cơ chế đại diện là các đại biểu nhân dân (nghị sĩ) hoặc thông qua các tổ chức chính trị, đảng phái. Ở Việt Nam chỉ có một đảng và các vị đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp và đại biểu Quốc hội chịu sự lãnh đạo của Đảng. Đảng cộng sản Việt Nam không phải là không biết ý nguyện của nhân dân.



Ai muốn thay đổi Hiến pháp hiện nay? Hiến pháp hiện nay là Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, đã có hơn hai mươi năm nhưng nhiều quyền cơ bản của công dân chưa được luật hóa, nói cách khác là nhiều quyền cơ bản của công dân còn bị treo. Có những quyền cơ bản của công dân đã được luật hóa nhưng nhà nước lại không bảo đảm những quyền đó trong thực tế. Vì vậy, chỉ khi nào Hiến pháp, pháp luật là tối thượng thì người dân mới hy vọng ở Hiến pháp và mong muốn nó hoàn thiện. Thực tế lịch sử từ năm 1946, khi có bản Hiến pháp đầu tiên cho đến nay, Hiến pháp chưa bao giờ đóng vai trò đúng nghĩa của nó. Vậy cả xã hội đi tìm kiếm một bản Hiến pháp hoàn thiện để làm gì? Hơn nữa, từ khi Nhà nước có chủ trương thay đổi Hiến pháp đã không ít người đã bị đi tù về “tội tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” cũng chỉ vì đề nghị bỏ điều này, thêm điều kia… của Hiến pháp hiện hành.


Các lần thay đổi Hiến pháp từ trước cho đến nay đều có chứng cứ là từ phía Đảng và Nhà nước vì nói từ phía nhân dân là không có chứng cứ vì nhân dân chưa bao giờ được biểu quyết về vấn đề này.


Nhưng dù Hiến pháp là phương tiện của nhà nước hay là ý chí của nhân dân thì xã hội vẫn cần đến nó chứ không thể tiếp tục khước từ vai trò vốn có của nó như đã từng xảy ra trong lịch sử. Việc mà nhà nước cần thay đổi hiện nay là phải để cho Hiến pháp được tôn trọng và thực thi đầy đủ trong xã hội; còn vấn đề nội dung của nó tiến bộ hay lạc hậu nên để sau. Nếu sửa đổi Hiến pháp lần này thì chỉ nên ghi những điều gì nhà nước có thể thực hiện, còn điều gì chưa thực hiện được thì hãy loại bỏ khỏi Hiến pháp mặc dù có là bước lùi so với Hiến pháp trước đây. Vì những điều tiến bộ ghi vào Hiến pháp mà nhà nước không thực hiện thì còn tai hại hơn là không có nó và làm cho bản Hiến pháp trở thành không còn giá trị. Theo nguyên tắc thực tiễn ai nắm quyền lực nhà nước thì Hiến pháp thể hiện ý chí của người đó và chỉ nên hỏi người đó là đủ.


Hà Nội, 06/01/2013


H.Đ.S.


Theo BVN



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 06, 2013 16:32

Hèn hạ khiếp nhược

Trương Duy Nhất


le-dinh-chinh-300x193Hôm nay 6/1/2013, các báo đồng loạt đưa tin cải táng hài cốt Lê Đình Chinh, người anh hùng liệt sĩ  đầu tiên trong cuộc chiến biên giới Việt- Trung 1979. Điều kỳ lạ là hầu hết các báo đều không dám nhắc đến cái tên kẻ thù của cuộc chiến tàn khốc bi thương đó. Duy nhất một tờ Thanh Niên (có lẽ do lọt sàng)  đã nêu được đích danh tên kẻ thù- đó là “quân xâm lược Trung Quốc”.


hưa có thời nào bi hề và nhục nhã thế. Thủ tướng thì phải gọi trại ra là “đồng chí X”. Tàu của bọn cướp biển thì phải gọi là “tàu lạ”. Kẻ thù xâm lược tàn phá quê hương, bắn chết Lê Đình Chinh và hàng vạn đồng đội của anh trong cuộc chiến Việt- Trung 35 năm trước thì không dám gọi thẳng tên mà phải bóng gió xa xôi ám chỉ bằng những cách chung chung khôi hài như: “quân xâm lược từ bên kia biên giới”, “những tên côn đồ từ bên kia biên giới”…


Đến mức mấy chữ “quân Trung Quốc” khắc trên tấm bia ghi chiến tích của quân đội Việt Nam trong cuộc chiến tranh biên giới 1979 cũng bị đục nát như bằng chứng cho sự khiếp nhược đã tới mức không thể diễn tả bằng lời:


[image error]


Xin đừng ngụy biện bằng những “mười sáu chữ vàng” với “bốn tốt”. Hà Nội, Điện Biên, Sài Gòn, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Thừa Thiên… trên khắp nước Việt này vẫn còn nhiều chứng tích của các cuộc chiến tranh Việt- Pháp, Việt- Mỹ, những dòng chữ  khắc ghi “tội ác thực dân Pháp, đế quốc Mỹ”…  vẫn còn đầy ra đấy. Có ai đục bỏ đâu, có “mười sáu chữ vàng” với “bốn tốt” đâu mà tình hữu nghị Việt- Pháp, Việt- Mỹ vẫn nồng thắm. Thậm chí  bao thế hệ người Pháp người Mỹ còn thích tìm đến những nơi chốn đó, thắp hương quỳ lạy và cảm thấy yêu cái nước Việt này hơn.


Thế nhưng tại sao cái chữ “quân Trung Quốc xâm lược” lại phải đục bỏ. Đến mức người dân biểu tình phản đối Trung Quốc xâm chiếm biển đảo cũng bị đàn áp, bắt giam. Đến cái tên kẻ thù xâm lược bắn giết đồng bào mình cũng không dám gọi tên. Húy kỵ đến hèn hạ, tránh né đến khiếp nhược như thế nhưng tại sao quan hệ Việt- Trung vẫn chẳng lúc nào yên.


35 năm nằm im trong lòng đất, liệt sĩ anh hùng Lê Đình Chinh và hàng vạn đồng đội của anh đã ngã xuống, thấm máu vùng biên cương kia, có ngờ được rằng hôm nay tổ quốc của các anh lại không dám gọi thẳng cái tên kẻ thù đã nã đạn vào đầu các anh ngày ấy.


Đọc những dòng tin trên báo hôm nay, có ai nhận ra mình đã khóc, nước mắt sót cay? Có ai phải nghiến răng bóp chặt tay thành nắm đấm căm giận…


Không có sự hèn hạ nào hèn hạ bằng. Không có sự khiếp nhược nào khiếp nhược đến thế.


Theo blog TDN



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 06, 2013 07:45

Ai sát hại báo Dân Trí?

question[1]Mình ít khi chê bai quở trách đồng nghiệp nhưng lần này ức quá, không thể không nói.


Báo Dân Trí là tờ báo rất đáng đọc, đặc biệt mục blog có nhiều bài khá hay. Đặc biệt nữa, có anh bạn văn Bùi Hoàng Tám, một nhà báo sắc sảo, chính trực, một thư kí tòa soạn thuộc loại vững nhất nước tại thời điểm này.


Thế nhưng trong bài Anh hùng, liệt sĩ Lê Đình Chinh được đưa về quê an táng ( tại đây), khi nói về nguyên nhân cái chết Lê Đình Chinh đã viết: “Ngày 25/8/1978, trong khi đang chiến đấu bảo vệ đồng đội mình bị những tên “côn đồ” từ bên kia biên giới kéo sang đánh giết, Lê Đình Chinh đã bị sát hại.” 


Thật rõ ngao ngán.


Wikipedia ( tại đây) đã ghi rành rành thế này: “Lê Đình Chinh là chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam đầu tiên mất trong chiến tranh biên giới Việt-Trung 1978-1989, tại mặt trận Lạng Sơn trong khi thi hành nhiệm vụ ngăn cản quân Trung Quốc tràn qua biên giới Việt Nam.Tên tuổi của Lê Đình Chinh trở thành một trong những biểu tượng anh hùng của thế hệ thanh niên Việt Nam trưởng thành trong khói lửa chiến tranh vệ quốc.” Chẳng cần viện đến Wikipedia, gần chín chục triệu dân Việt ai cũng biết rõ điều này.


Vì sao báo Dân Trí không chỉ đích danh kẻ sát hại anh hùng Lê Đình Chinh là bọn Trung Quốc xâm lược mà gọi đó là côn đồ? Đã côn đồ còn đóng ngoặc kép, thật mỉa mai thay!


Ai, kẻ nào đã cấm báo Dân Trí không được nhắc đến hai tiếng Trung quốc, kẻ đó nhất định là đồng bọn của lũ bán nước cầu vinh.


Nếu bị cấm nhắc đến, ít nhất cũng viết được như báo Tiền Phong ( tại đây): “Ngày 25- 8- 1978, anh Lê Đình Chinh đã hy sinh khi đang chiến đấu bảo vệ đồng đội và người dân khỏi quân xâm lược từ bên kia biên giới.” Gọi thế cũng là hèn nhưng dễ chấp nhận hơn.


Mình ức quá đã viết lên FB thế này :Nếu Lê Đình Chinh bị ” côn đồ” sát hại thì tác giả bài báo và báo Dân Trí đã bị nỗi sợ hãi sát hại.


NQL



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 06, 2013 05:54

Nhìn lại 3 ngôi sao sáng của “thế hệ Bộ trưởng mới”

Trương Duy Nhất


nvb5Với những phát ngôn mạnh bạo cùng hành động quyết liệt, không né tránh, ngay từ khi mới nhậm chức, Vương Đình Huệ, Đinh La Thăng, Nguyễn Văn Bình nổi lên như những ngôi sao sáng, khiến dư luận kỳ vọng nhiều về “một luồng gió mới”, một nhiệm kỳ chính phủ mới trẻ trung, năng động, nhiều khác biệt. Đến BBC cũng kỳ vọng khi gọi những “hiện tượng” Vương Đình Huệ, Đinh La Thăng, Nguyễn Văn Bình là “”. Một năm qua, 3 ngôi sao sáng của “thế hệ Bộ trưởng mới” bây giờ ra sao?


1. Vương Đình Huệ


          “Nếu doanh nghiệp nào không làm được thì rút lui. Kể cả Petrolimex, nếu không làm được chúng tôi sẵn sàng cho giải tán để lập tổng công ty khác. Nhà nước không dọa ai và cũng không ai dọa được Nhà nước… Không thể vì 11 doanh nghiệp xăng dầu đầu mối mà phải vì hơn 80 triệu dân… doanh nghiệp đừng có dọa cơ quan quản lý nhà nước, nếu cần tôi sẽ lập doanh nghiệp khác…”
          Tuyên bố nức lòng được ông Vương Đình Huệ tung ra ngay khi vừa ngồi ghế Bộ trưởng Tài chính.
          Gần một năm qua, hoạt động của các doanh nghiệp đầu mối xăng dầu vẫn y nguyên, thậm chí còn có xu hướng lũng đoạn hơn. Câu chuyện xăng dầu vẫn lùng nhùng, giá cả lên xuống nhập nhằng. Mỗi khi doanh nghiệp kêu lỗ thì tình trạng găm hàng, ngừng bán lập tức xảy ra trên diện rộng. Ngay cả việc minh bạch lỗ lãi, giá nhập khẩu hàng của các doanh nghiệp đầu mối… cũng vẫn tù mù như ma trận.
          Chẳng thấy doanh nghiệp nào bị giải tán, cũng chẳng có doanh nghiệp khác nào được thành lập như cam kết hùng hồn của Bộ trưởng Vương.
          Thực tế khác xa với những tuyên bố của Vương Đình Huệ. Hay nói thẳng ra là ông bất lực. Để chống lũng đoạn các mặt hàng chiến lược, cho dù mới chỉ  “thử” với xăng dầu, có vẻ như Bộ trưởng Vương đã bị “tẩm xăng đốt cháy” đúng như lo ngại của nhà báo Huy Đức trước đây.
          2. Đinh La Thăng
          “Tôi là người máu lửa, đã làm phải ra làm, nếu không là nghỉ… Là tư lệnh ngành, phải cho tôi toàn quyền như vị tướng ra trận, phải được toàn quyền quyết chiến đấu hay không, tiến hay lùi thì mới làm được. Chứ lại cứ ra vào để xin phép thủ trưởng ở nhà có cho em bắn không, sau bảo không được thì chậm mất, lỡ cơ hội”.
          Trong lớp Bộ trưởng mới, Đinh La Thăng nổi lên như một ngôi sao sáng, một “hiện tượng” gây sốc với những hành động quyết liệt và phát ngôn táo bạo (nhiều khi liều lĩnh, ẩu tả).
          Phải thừa nhận ông là con người nhiệt huyết. Nhưng sự nhiệt huyết trong khí chất của một gã Bí thư đoàn, cộng với tư duy làm tiền của một “thằng” giám đốc doanh nghiệp trong ông đã biến Đinh La Thăng thành một con rối trên chính trường. Từ một nhân vật được kỳ vọng nhiều, ông thành vị Bộ trưởng bị dân chửi nhiều nhất. Lịch sử chưa thấy Bộ trưởng nào lại bị dân chửi thậm tệ đến thế. Các chủ trương, quyết sách từ ông luôn tạo nên những làn sóng giận dữ và chửi bới thậm tệ. Đến mức dư luận có lúc phải đặt câu hỏi: hay bộ trưởng Thăng có vấn đề về… thần kinh?
          Theo kết quả thăm dò trên website Trương Duy Nhất- Một góc nhìn khác, có đến 95% ý kiến của hơn 1 vạn bạn đọc phản đối những chủ trương trái khoáy của Đinh La Thăng và 90% ý kiến đòi bãi nhiệm ông.
          3. Nguyễn Văn Bình
          “Là một đại diện cho thế hệ lãnh đạo mới của chính phủ, cùng với Bộ trưởng Giao thông Đinh La Thăng hay Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ, Thống đốc ngân hàng Nguyễn Văn Bình gây ấn tượng với dư luận ở những quyết định nhanh chóng, quyết liệt và hiệu quả ngay sau khi nắm quyền”
          Với nhận định ấn tượng trên, Thống đốc Nguyễn Văn Bình được bạn đọc VnExpress bình chọn là nhân vật của năm 2011”.
          Ông Bình được đánh giá cao bởi những nỗ lực tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, khởi đầu bằng việc “dẹp loạn” vượt trần lãi suất và định hướng hợp nhất, sáp nhập các ngân hàng.
          Kết quả một năm tái cấu trúc của ông Bình đến đâu?
          Sự kiện bầu Kiên đã cho thấy dường như cả một hệ thống ngân hàng như một lâu đài cát. Chiến dịch tái cấu trúc của ông Bình đã hở sườn. Chỉ một “cú sút bầu Kiên” đã làm rúng động cả hệ thống ngân hàng. Lần đầu tiên, Thủ tướng chính phủ phải lên tiếng yêu cầu ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật được cho là “nhằm thâu tóm và gây mất ổn định trong hoạt động ngân hàng”.
          Từ một “nhân vật của năm” nhiều kỳ vọng, ông Bình trở thành vị Thống đốc để tại ảnh hưởng tồi tệ nhất trong lịch sử.
          Dựa trên kết quả kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và quản lý lãi suất, tạp chí Global Finance vừa xếp Thống đốc Nguyễn Văn Bình của Việt Nam là 1 trong 10 vị Thống đốc kém cỏi và tồi tệ nhất thế giới.
          Chỉ với 3 ngôi sao sáng của “thế hệ Bộ trưởng mới” như thế, đủ nói lên chất lượng chính phủ thế nào.
Theo blog TDN

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 06, 2013 03:26

‘Chống tham nhũng không tới sẽ bị ‘đánh trả’

N.C. Khanh thực hiện


Ls Trần Quốc Thuận

Ls Trần Quốc Thuận


TP: Ngay sau khi Bộ Chính trị quyết định tái lập Ban Nội chính Trung ương và Ban Kinh tế Trung ương, bổ nhiệm người đứng đầu, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Trần Quốc Thuận trao đổi với phóng viên Tiền Phong về vấn đề rất được quan tâm này.


Chống tham nhũng phải có thực quyền


Thưa ông, thời điểm tái lập Ban Nội chính Trung ương và Ban Kinh tế Trung ương có ý nghĩa như thế nào?


Luật sư Trần Quốc Thuận: Việc tái lập Ban Nội chính Trung ương và Ban Kinh tế Trung ương là thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 và Trung ương 6, khóa XI.


Lập lại Ban Nội chính Trung ương, là cơ quan tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương, mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về các chủ trương, chính sách lớn thuộc lĩnh vực nội chính; đồng thời là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng.


Tóm lại, có thể nói việc tái lập Ban Nội chính Trung ương và Ban Kinh tế Trung ương là một bước thực hiện nguyên tắc “đã giao quyền lực thì phải kiểm soát quyền lực”.


Theo quan điểm của ông, Ban Nội chính Trung ương và Ban Kinh tế Trung ương cần tổ chức, hoạt động ra sao để đạt hiệu quả cao nhất?


Luật sư Trần Quốc Thuận: Theo thông tin từ báo chí, đã có Quyết định số 159-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Ban Nội chính Trung ương; Quyết định số 161-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Ban Kinh tế Trung ương. Nhưng, tôi chưa nắm được thông tin cụ thể của các quyết định này. Với Ban Kinh tế Trung ương, tôi không có nhiều hiểu biết so với Ban Nội chính Trung ương.


Bằng kinh nghiệm công tác từ khi còn là Thẩm phán tại TAND TPHCM (từ năm 1983) cho tới 14 năm làm Phó Chủ nhiệm thường trực Văn phòng Quốc hội (từ năm 1994 – 2008), theo tôi, để đạt hiệu quả cao nhất, hai Ban này cần có vị trí độc lập, chịu trách nhiệm trước pháp luật với nhiệm vụ của mình.


Ví dụ, Ban Nội chính Trung ương cần có thẩm quyền tham gia vào các ban chỉ đạo, khởi tố, đôn đốc điều tra các vụ án trọng điểm. Ban Nội chính cũng cần có thực quyền đối với các Ban tương ứng trực thuộc Chính phủ, Quốc hội. Chỉ có như vậy, Ban Nội chính Trung ương mới đáp ứng được yêu cầu của công tác phòng chống tham nhũng.


Việc lựa chọn nhân sự cho bộ máy hoạt động của Ban Nội chính Trung ương và Ban Kinh tế Trung ương nên như thế nào, thưa ông?


Luật sư Trần Quốc Thuận: Ban Nội chính và Ban Kinh tế Trung ương cần được giao cho những người am hiểu về pháp luật, am hiểu chuyên môn sâu sắc, có kinh nghiệm thực tiễn, dám nghĩ, dám làm. Nếu không họ sẽ rất khó trong việc tham mưu “gác gôn, thổi còi”.


Liệu việc lập lại Ban Nội chính Trung ương và Ban Kinh tế Trung ương lần này có tạo ra sự chồng chéo, lấn sân trong hoạt động với các cơ quan khác có cùng chức năng, nhiệm vụ thuộc Quốc hội, Chính phủ?


Luật sư Trần Quốc Thuận: Như chúng ta đã biết, các cơ quan của Đảng ra nghị quyết, đường lối, Chính phủ thực hiện, Quốc hội là cơ quan giám sát, đại diện ý kiến nhân dân. Mỗi cơ quan có một góc độ làm việc khác nhau.


Việc có chồng chéo hay không giữa các ban, ủy ban, bộ ngành đã được bàn từ trước. Chính vì vậy, Ban Kinh tế Trung ương và Ban Nội chính Trung ương đã chuyển thành các vụ, tổ trực thuộc Văn phòng Trung ương Đảng.


Dù đã có quyết định tái lập nhưng nhiệm vụ và quyền hạn của Ban Nội chính Trung ương và Ban Kinh tế Trung ương chưa được công khai. Vì vậy, chưa thể đánh giá vai trò thực tế của hai ban này. Theo tôi, quan trọng là các ban này có thực quyền hay không?


Cá nhân ông cảm nhận thế nào về ông Nguyễn Bá Thanh trong vai trò Trưởng Ban nội chính Trung ương và ông Vương Đình Huệ trên cương vị Trưởng Ban Kinh tế Trung ương?


Luật sư Trần Quốc Thuận: Ông Nguyễn Bá Thanh là nhân vật được nhiều người nhắc đến, như một nhà cải cách. Ông ấy là con người hành động, năng nổ, dám nghĩ, dám làm. Ông đã đưa Đà Nẵng trở thành đầu tàu phát triển của cả miền Trung, một thành phố năng động.


Ông Vương Đình Huệ trước đây là Tổng kiểm toán Nhà nước, sau đó Bộ trưởng Bộ Tài chính. Ông Huệ là người có kinh nghiệm kiểm toán, tài chính lại am hiểu kinh tế, tuy nhiên, tôi vẫn chưa thấy trong quá trình làm việc ông Huệ có nhiều thành tựu nổi bật. Vì vậy, tôi cũng đang chờ đợi hành động của hai ông.


“Đánh trả’ nếu làm không tới nơi tới chốn


Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhận định chống tham nhũng chính là chống giặc nội xâm, trên mặt trận này ông đánh giá thế nào về tình thế hiện nay giữa “ta” và “giặc”?


Luật sư Trần Quốc Thuận: Trước kia, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, tham nhũng là giặc nội xâm. Hiện nay, chúng ta gọi tên tham nhũng bằng những cụm từ như “suy thoái tư tưởng” “tệ nạn tham nhũng”, “vấn nạn tham nhũng”…


Theo tôi, đã xác định là giặc nội xâm thì không thể chỉ chống bằng “phê và tự phê”, không thể chống tham nhũng theo kiểu đóng cửa hô hào, mà còn phải có quyết tâm chính trị từ cấp cao nhất, đồng thời tiến hành quyết liệt nhiều giải pháp đồng bộ khác mới mong có kết quả tích cực.


Muốn đánh “giặc” tham nhũng, chúng ta phải sử dụng lực lượng, vũ khí, cách đánh cụ thể. Lực lượng đó chính là nhân dân, vũ khí là công luận, là sự công khai minh bạch, cần có dũng khí dám công khai cả những sai lầm, khuyết điểm. Nói cách khác, muốn chống tham nhũng phải dựa vào dân, đứng về phía nhân dân.


Qua kinh nghiệm 14 năm làm Phó Chủ nhiệm thường trực Văn phòng Quốc hội, vừa là luật sư, ông nhận xét thế nào về nỗ lực chống tham nhũng hiện nay? Ông có niềm tin gì với công cuộc chống tham nhũng?


Luật sư Trần Quốc Thuận: Việc chống tham nhũng, chống lãng phí, nghị quyết của Đảng rất nhiều, pháp luật cũng khá đầy đủ. Từ nghị quyết Trung ương 4 tới nghị quyết Trung ương 6 vẫn tiếp tục chỉ ra “nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Xét xử nghiêm những vụ án tham nhũng, trước hết là những vụ nghiêm trọng, phức tạp, được nhân dân quan tâm”. Tuy nhiên, hiệu quả của công tác phòng chống tham nhũng vẫn chưa được như mong đợi.


Nếu chống tham nhũng không được công khai minh bạch, người dân không biết sẽ không mang lại hiệu quả. Bởi, chống tham nhũng không phải công việc của riêng ai.


Theo tôi, cái thiếu lớn nhất trong việc chống tham nhũng là tính độc lập của tư pháp và sự can dự tích cực của cơ quan công luận. Nếu công cuộc chống tham nhũng không được làm tới nơi tới chốn, có nguy cơ sẽ bị “đánh trả”. Bởi, có thể người dân sẽ đi từ sự tin tưởng công cuộc phòng chống tham nhũng của Đảng tới sự hụt hẫng, tới mất niềm tin nếu chúng ta không quyết liệt, triệt để.


Tôi không dùng từ niềm tin mà là hi vọng. Theo tôi, chống tham nhũng là công việc đồng bộ, cần song hành cải cách kinh tế và cải cách chính trị. Tuy nhiên, cho tới hiện tại, từ Đại hội X tới Đại hội XI, vấn đề cải cách hệ thống chính trị dường như chưa có lộ trình cụ thể.


Cải cách hệ thống chính trị sẽ tiếp thêm hy vọng cho công cuộc chống tham nhũng. Nhưng trước tiên, Đảng cần thực hiện những gì mà nghị quyết Đại hội XI đã đề ra, cần làm tới nơi tới chốn chứ không dừng lại ở những khẩu hiệu.


Xin cảm ơn ông.


Theo báo TP



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 06, 2013 02:25

Nguyễn Quang Lập's Blog

Nguyễn Quang Lập
Nguyễn Quang Lập isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Quang Lập's blog with rss.