Nguyễn Quang Lập's Blog, page 8
May 22, 2013
Thư viết từ Princeton gửi Quí vị Đại biểu Quốc hội khóa 12
Thư viết từ Princeton, ngày 27 tháng 5 năm 2009
NQL: Thư gs NBC viết từ 5/2009, đến nay là tháng 5/2013, đã bốn năm rồi mà vấn đề trong lá thư vẫn còn nóng hổi. Quê Choa đã email hỏi NBC có phải thư này là của ông không và được NBC trả lời: “
Vâng thư này em viết từ năm 2009. Không có hồi âm.”
Kính gửi Quí vị Đại biểu Quốc hội khóa 12:
Đã có khá nhiều phản biện thuyết phục về kinh tế, ảnh hưởng môi trường và an ninh của dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, tôi không có gì bổ sung thêm. Tôi mạn phép cầm bút viết cho Quí vị với tư cách là một công dân suy nghĩ và trăn trở với vận mệnh của đất nước. Phần lớn các Quí vị cũng như tôi không phải chuyên gia trong các vấn đề kể trên, nhưng với những tư liệu được cung cấp, chúng ta có thể chắt lọc một số sự thật hiển nhiên, gọi chúng bằng tên của chúng, sắp xếp chúng một cách có logic để mỗi người có thể có quan điểm riêng của mình. Đó là phương pháp làm việc khoa học mà qua trải nghiệm hàng ngày trong công việc của một nhà toán học, tôi biết nó không dễ dàng. Nhưng đó chính là trách nhiệm mà Nhân dân đã phó thác lên vai của Quí vị.
Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc dài và sâu như chính lịch sử Việt Nam. Người Việt Nam có phông văn hóa, cách suy nghĩ và ứng xử nhiều phần giống người Trung Quốc, không ít người Việt Nam có tổ tiên đến từ Trung Quốc. Quan hệ với Trung Quốc vừa là một phần hữu cơ vừa là một nguy cơ cho sự tồn vong của bản sắc Việt Nam. Đây là một dữ kiện lịch sử mà ta không nên mất thời gian bàn xem nó tốt hay xấu, đáng vui hay đáng buồn, mà dành thời gian để suy nghĩ đến hệ quả của nó. Suy nghĩ nghiêm túc có hệ thống tránh cho ta việc trong thời bình lại ứng xử tình thế như trong thời chiến: lúc thì “môi hở răng lạnh”, lúc lại xua đuổi Hoa kiều mà nhiều gia đình đã gắn bó với mảnh đất này qua nhiều thế hệ.
Cái tôi muốn đề cập đến trong bức thư này không phải là quan hệ giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc mà là chính sách “thực dân mới” của chính quyền Trung Quốc. Cũng như các nước Anh, Pháp trong thế kỷ 19, Mỹ trong thế kỷ 20, công nghiệp Trung Quốc trong thế kỷ 21 phát triển như vũ bão. Hệ quả hiển nhiên là Trung Quốc hôm nay, cũng như các nước kể trên hôm qua, đói nhiên liệu, nguyên liệu và thị trường tiêu thụ các sản phẩm của mình. Như trong sách lịch sử cho học sinh phổ thông, ta gọi các nước Anh, Pháp cho quân đi chiếm thuộc địa là chính sách thực dân cũ, Mỹ trong thế kỷ 20 và Trung Quốc hôm nay dùng uy thế chính trị và kinh tế để dành nhiên liệu nguyên liệu và thị trường là chính sách “thực dân mới”. Đây cũng là một dữ kiện lịch sử mà ta không nên mất thời gian bàn xem thực dân cũ, mới là tốt hay xấu, gọi tên như thế có quá đáng hay không, mà dành thời gian để suy nghĩ đến hệ quả của nó. Hệ quả cho các nước bị thực dân như ở châu Phi thì ta biết: tài nguyên khai thác bừa bãi, môi trường tàn phá, kinh tế phát triển lệch lạc do quá phụ thuộc vào việc khai thác tài nguyên kéo theo tệ tham nhũng và bất bình đẳng xã hội nghiêm trọng.
Trung Quốc thực hiện chính sách “thực dân mới” một cách có hệ thống ở châu Phi, châu Mỹ La tinh và mọi nơi có nhiên liệu, khoáng sản trong đó có Việt Nam. Trong trường hợp của Việt Nam, ảnh hưởng quá mức của Trung Quốc có thể kéo thêm hệ quả nguy hiểm sau đây: quan hệ hữu cơ vốn có của văn hóa Trung Quốc với văn hóa Việt Nam trở thành đô hộ văn hóa. Đất nước, con người, văn hóa Trung Quốc có nhiều thứ để ta cảm phục và học tập. Nhưng nếu ta rập khuôn theo mô hình của họ, đi theo con đường họ đã đi, làm theo cái họ nói tức là cái họ muốn, thì ta chỉ nhận phần thiệt thòi, còn bản sắc ta thì tồn vong được bao lâu. Vấn đề độc lập văn hóa, giữ gìn bản sắc vô cùng hệ trọng, xin Quí vị lưu ý…
Xin quay lại vấn đề khai thác bô xít ở Tây Nguyên. Đọc tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc năm 2001 khi Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh sang thăm Trung Quốc và năm 2006 khi Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào sang thăm Việt Nam, ta nhận thấy một điều hiển nhiên là Trung Quốc rất quan tâm đến tài nguyên này và muốn ta khai thác bằng được. Trong những trường hợp như vậy, chỉ suy diễn ta cũng thấy việc này có lợi cho họ nhiều hơn cho ta.
Tuy nhiên, suy diễn thôi không đủ. Nghiên cứu kỹ Báo cáo của Chính phủ và các phản biện đặc biệt quan tâm đến những con số, cá nhân tôi có ý kiến sau đây:
1) Dữ kiện chính của vấn đề là Việt Nam có nguồn tài nguyên bô-xít lớn thứ ba thế giới chủ yếu tập trung ở Tây Nguyên. Dữ kiện này kéo theo sự quan tâm của các nước công nghiệp đói bô-xít chứ không kéo theo ta phải khai thác bô-xít. Về phía ta, dữ kiện trên kéo theo ta có thể lựa chọn có khai thác bô-xít hay không và nếu có, ta có thể lựa chọn thời điểm và qui mô thích hợp.
2) Báo cáo của Chính phủ cho biết qui hoạch bô-xít được lập trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng. Tại thời điểm này, kinh tế toàn cầu đi vào khủng hoảng, có nguy cơ kéo dài.
Dữ kiện chính về kinh tế vĩ mô không còn đúng nữa, không rõ hiệu quả kinh tế đã được tính toán lại như thế nào. Trong báo cáo của Chính phủ, phần chắc chắn là phần lỗ những năm đầu, vì là lỗ kế hoạch. Ngay cả tính toán giả định ta cũng chưa rõ là sẽ lỗ kế hoạch bao nhiêu năm. Phần lãi sau đó phụ thuộc vào nhiều giả thiết: giá nhôm tăng trở lại, mưa đủ để có nước rửa quặng, nhà nước đầu tư thêm vào đường sắt để vận chuyển quặng. Nếu cứ cho mỗi giả thiết xác suất 50-50 như cách diễn đạt của lãnh đạo Than- Khoáng sản, xác suất có lãi sau một số năm lỗ kế hoạch, nhiều nhất là một phần tám, chưa tính đến chi phí cho môi trường.
3) Diện tích sử dụng cho khai thác bô-xít dự kiến là 8,6% tỉnh Đắc Nông là một con số khổng lồ nếu ta nghĩ đó là 8,6 m2 trên tổng diện tích 100 m2 nhà của ta.
4) Báo cáo cho biết khai thác bô-xít không thể tránh khỏi ảnh hưởng nhất định đến môi trường và có nêu một số giải pháp công nghệ khắc phục. Trong các phản biện có nêu khó khăn đặc thù của ta là khai thác bô-xít ở đầu nguồn một số sông lớn như sông Đồng Nai, chưa có tiền lệ trên thế giới. Cá nhân tôi băn khoăn nhất chỗ thiếu hoàn toàn dự toán chi phí cho việc bảo vệ môi trường. Ngay trong nhưng trường hợp đơn giản hơn như Vedan, công nghệ thì đã có, nhưng vi phạm môi trường thì vẫn đỡ được 30% chi phí. Như vậy phần ảnh hưởng đến môi trường là phần chắc, phần bảo vệ môi trường còn phụ thuộc vào nhiều giả thiết, có cái phụ thuộc vào ta (chọn công nghệ), có cái không phụ thuộc vào ta (thời tiết, địa thế), có cái ta chưa tính toán đến (chi phí), vì vậy rất đáng lo.
5) Báo cáo cho biết dự án có ảnh hưởng tốt cho xã hội, cụ thể tạo ra hàng ngàn công ăn việc làm cho nhân dân địa phương. Nếu so sánh với mức đầu tư hàng tỉ đô-la Mỹ, thì có nhiều cách hay hơn, an toàn hơn, hiệu quả kinh tế nhãn tiền hơn, để tạo vài ngàn việc làm. Lưu ý con số công ăn việc làm trong báo cáo tương đương với con số hộ dân bị di chuyển. Còn viễn cảnh xây dựng trung tâm dịch vụ, khách sạn, du lịch và giải trí xung quanh hồ chứa bùn đỏ, theo tôi, ít có sức thuyết phục.
Xin nhắc lại, cũng như phần đông Quí vị, tôi không phải chuyên gia ngành khai thác khoáng sản, nhưng qua nghiên cứu kỹ Báo cáo của Chính phủ và các phản biện của nó, tôi nhận thấy trong Quy hoạch chung khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, phần có hại thì cầm chắc, phần có lợi thì mong manh. Bối cảnh kinh tế thế giới rất không thuận lợi cho khai thác nguyên liệu thô, vậy cái gì thúc đẩy ta triển khai khai thác ào ạt vào thời điểm này.
Khác với các nước Châu Phi thế kỷ 19, đất nước chúng ta là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Quí vị, phần nhiều ở tuổi cha, tuổi chú của tôi, biết rõ hơn tôi: độc lập chủ quyền của ta không phải tự nhiên mà có. Nước ta có một Quốc hội do nhân dân bầu ra, một Chính phủ do Quốc hội chỉ định, một Quân đội phục tùng Chính phủ. Đó là một thành quả cũng không phải tự nhiên mà có.
Tôi kính mong Quí vị bỏ thời gian, nghiên cứu tường tận Báo cáo dự án khai thác bô-xít Tây Nguyên, các phản biện khoa học của nó, lắng nghe ý kiến cử tri và suy nghĩ đến sự tồn vong của đất nước, để rồi xây dựng quan điểm riêng của Quí vị, trình bày nó rõ ràng trong nghị sự của Quốc hội và chịu trách nhiệm về nó trước các cử tri. Tôi rất biết đây là việc khó, nhưng dù Quí vị muốn hay không muốn, nhân dân đã đặt niềm tin lên vai của Quí vị.
………………………………
GS. TSKH Ngô Bảo Châu
Giáo sư toán học Đại học Paris 11, Pháp,
Thành viên của Institute for Advanced Study, Princeton, Mỹ.
Địa chỉ hiện tại:
School of Mathematics
Institute for Advanced Study
Einstein Drive
Princeton NJ 08540 U.S.A.








May 21, 2013
Các thế lực thù địch không được xuyên tạc nữa, mà phải tin vào Ủy ban dự thảo hiến pháp!
Chiều hôm qua 20-5, đồng loạt các báo đưa tin: Không đổi tên nước, Vẫn giữ nguyên tên nước CHXHCN Việt Nam, Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng…
Ông Phan Trung Lý trong bản báo cáo đọc tại Quốc hội đã cho biết: Ủy ban dự thảo sửa đổi hiến pháp đề nghị giữ nguyên các vấn đề lớn về: Tên nước, vai trò lãnh đạo của Đảng, các lực lượng vũ trang và sở hữu toàn dân về đất đai.
Các “thế lực thù địch” lập tức có những bài, những câu tỏ ra không hài lòng, rằng: vở hài kịch hạ màn, vẫn giữ nguyên như thế thì lấy ý kiến của nhân dân làm gì cho tốn tiền, tốn sức và tốn thời gian, nguyễn y vân là vẫn y nguyên…
Dư luận viên Vo Văn Ve tôi lâu nay nằm im không buồn nói, nay thấy thế thì chịu không được, giống như cầu thủ đã giải nghệ lâu ngày nhớ sân cỏ đành xỏ giày tiếp tục ra sân “đá”.
Quí vị “các thế lực thù địch” có biết rằng đợt lấy ý kiến đóng góp của nhân dân vào dự thảo hiến pháp vừa qua là một đợt sinh hoạt chính trị vô cùng quan trọng và rộng khắp, với con số khổng lồ 26.091.000 lượt người góp ý kiến, hơn 28.000 cuộc hội nghị, hội thảo, tọa đàm về góp ý hiến pháp? Quí vị có tưởng tượng nổi không, nếu Ủy ban dự thảo sửa đổi hiến pháp có 100 người thì trung bình mỗi người phải đọc, ghi chép hơn 260.000 bản góp ý. Người ta đã làm việc vất vả khó nhọc đến mức phi thường như thế, quí vị không hoan nghênh thì thôi, lại còn đi nói thế này thế nọ.
Những con số trên cho dù có vẻ không thể tin nổi nhưng đó là con số thực một trăm phần trăm. Có được kết quả đáng tư hào như thế là do cách làm đầy thông minh sáng tạo, đưa phiếu về cho từng hộ gia đình, dù muốn hay không thì dân cũng phải góp ý. Về mặt này, chắn chắn anh bạn vàng Trung Quốc còn phải xách cặp đến học hỏi chúng ta nhiều.
Quí vị có biết vì sao Ủy ban dự thảo đề nghị giữ nguyên các vấn đề lớn nói trên không? Ấy là do sợ bị xuyên tạc rằng chúng ta xa rời mục tiêu, con đường lên chủ nghĩa xã hội. Ai có thể xuyên tạc? Thì chính là quí vị chứ còn là ai nữa. Qua đây, quí vị nên cảm thấy ân hận rằng giá như lâu nay quí vị không ồn ào, ý kiến ý cò lôi thôi, thì rất có thể lần này sẽ đổi tên nước thật, và cũng có thể có một số thay đổi khác mang tính tự nhiên. Chung qui cũng do cái tính bộp chộp của quí vị mà thôi.
Trong bối cảnh tình hình quốc tế vô cùng nhạy cảm như hiện nay, việc giữ nguyên những nội dung cơ bản nói trên là hết sức cần thiết và là tất yếu. Điều này đã được ông Phan Trung Lý nhiều lần khẳng định. Quí vị phải tin vào quá trình làm việc của Ủy ban dự thảo, phải tin vào ông Phan Trung Lý. Những vấn đề được Ủy ban dự thảo trình lên Quốc hội đều đã được đại đa số nhân dân đồng tình. Tôi khẳng định lại là đã được đại đa số nhân dân đồng tình. Sự đồng tình của đại đa số nhân dân, tuy rất khó chứng minh bằng con số cụ thể là bao nhiêu phần trăm, nhưng đã được ông Phan Trung Lý thể hiện rất rõ trong báo cáo. Vấn đề ở đây không phải là chuyện dễ hay khó chứng minh, mà là vấn đề niềm tin. Vấn đề cốt lõi phải là niềm tin. Nhân dân ta đã nguyện một lòng tin theo Đảng và Nhà nước, cho nên lời khuyên ở đây mà tôi muốn dành cho các thế lực thù địch, là hãy quay về với nhân dân, hãy tin vào Ủy ban dự thảo, tin vào lời nói của ông Phan Trung Lý.
Qua diễn biến của phiên họp chiều qua, các thế lực thù địch có thể thấy được tầm vóc to lớn và vai trò hết sức quan trọng của Ủy ban dự thảo sửa đổi hiến pháp và của ông Phan Trung Lý. Các vị ấy muốn đưa trình cái gì ra cho Quốc hội là quyền của họ. Và rồi Quốc hội sẽ quyết theo hướng mà họ đã gợi ý thôi. Cho nên các thế lực thù địch cần phải biết phân biết thận, í lộn, biết thân biết phận mà đừng có xuyên tạc nữa, đừng có ý kiến ý cò lôi thôi rắc rối nữa. Không những thế, các vị cần phải có niềm tin tuyệt đối vào những đề xuất của Ủy ban dự thảo và của ông Phan Trung Lý, nhá.
Nhiều kẻ trong các thế lực thù địch, không hiểu biết gì về nghệ thuật, bèn la toáng lên rằng: Tấn hài kịch đã hạ màn! Tưởng chừng như là một phát hiện vĩ đại lắm. Nói thật với quí vị, muôn đời không bao giờ nó là hài kịch. Một vở kịch hoành tráng về chính trị, về chính trường như thế, sao lại gọi là hài kịch? Phải gọi cho nó đúng với tên tuổi của nó: chính kịch. Quả tình Vo Văn Ve tôi chưa thấy ai yếu kém về cảm thụ nghệ thuật như thế, yếu đến nỗi không phân biệt được đâu là hài kịch, đâu là chính kịch.
Hỡi các thế lực thù địch! Quí vị là ai, ở đâu, hình hài quí vị ra sao… còn đang là một vấn đề khoa học gây tranh cãi. Nhưng qua các nguồn thông tin chính thống thì quí vị đang hiện diện khắp mọi nơi mọi chốn, đến mức có lúc tôi bi quan nghĩ rằng chưa có một đất nước nào lại có nhiều thế lực thù địch như nước ta. Ở đâu đâu cũng thấy có cụm từ ”thế lực thù địch”, từ các trang báo cho đến các bài diễn văn, các văn bản, văn kiện…
Nhưng cho dù thế nào đi nữa, tôi vẫn tin cho đến một ngày kia, quí vị sẽ thấm nhuần và chọn đi theo niềm tin vào chủ nghĩa xã hội. Khi đó, quí vị sẽ trở thành thù địch của các thế lực thù địch, quí vị sẽ được nhận lương cao của một dư luận viên như tôi đang được nhận lâu nay. Và điều quan trọng hơn, quí vị sẽ được nhận sổ hưu, đủ để nuôi vợ con và bồ nhí, cho đến ngày đi gặp Mác và Lê-nin…
Vo Văn Ve








Cơn ớn lạnh trong một ngày 40 độ
Cách đây một tuần, tác giả bài này có bình luận về những thay đổi không thể chối cãi diễn ra gần đây trong văn hoá chính trị Việt Nam, và kết luận mà không cần giả định nào về tương lai, rằng nền chính trị Việt Nam đã bước vào một giai đoạn mới. Và hôm nay tôi vẫn giữ quan điểm của tôi, là Việt Nam đang ở một vị thế mới và người Việt Nam đang cất lên tiếng nói chính trị của họ.
Chúa ơi, giờ đây có những dấu hiệu cho thấy là chiếc giày còn lại đã rơi (thành ngữ chỉ một việc không tránh khỏi đã xảy ra, một kết cục đã đến), bởi vì chỉ trong có nửa tháng trước khi Hội nghị 7 của Ban Chấp hành Trung ương bế mạc, chúng ta đã chứng kiến một loạt diễn biến cho thấy một nỗ lực “đàn áp” có thể đang diễn ra thật sự.
Tin mới nhất, chỉ vừa cuối tuần trước, là sẽ không có tin tức nào không bị kiểm soát, cho đến khi BBC, CNN và các hãng tin nước ngoài khác chịu tuân thủ yêu cầu về giấy phép hoạt động ở Việt Nam, như quy định trong Nghị định 20. Các nhà cung cấp dịch vụ truyền hình cáp quốc doanh đã vừa chấm dứt hoạt động (thành ngữ: rút phích cắm, chỉ sự kết thúc một kế hoạch, cắt đứt một nguồn sống…) của những hãng tin ngoại quốc.
Điều này xảy ra chỉ vài ngày sau khi hai thanh niên bị kết án tù rất nặng vì tội dán cờ của “các chế độ cũ” (dán cờ phía dưới một khẩu hiệu đối đầu với hành vi cư xử của Trung Quốc trên Biển Đông Nam Á), và một ngày sau kỷ niệm sinh nhật của ông Hồ Chí Minh, khi thanh niên trên khắp Việt Nam (chỗ này tác giả viết sai, phải là “Hải Phòng” mới đúng) diễu hành với các khẩu hiệu, bảng chữ tuyên xưng niềm yêu kính và ngưỡng mộ theo đúng chỉ thị của họ đối với các cống hiến vĩ đại của ông Hồ.
Tuy nhiên, cách cư xử của đảng cầm quyền ở Việt Nam có vẻ mâu thuẫn với các nguyên tắc được nêu trong Tuyên ngôn Độc lập của ông Hồ, theo đó, ông mượn một câu từ Quyền con người để nói rằng “tất cả mọi người đều sinh ra tự do và có quyền bình đẳng”.
Ở đâu đó có những nhận định rằng dập tắt các kênh tin tức là một nỗ lực của các cơ quan chức năng có liên quan nhằm làm tăng khả năng truy cập vào các trang này và kiếm tiền nhanh cho một số người có khả năng dịch tốt, bằng cách bắt buộc các chương trình truyền hình quốc tế phải có phụ đề ở một tỷ lệ nội dung nào đó.
Một khả năng khác, đã được bóng gió ở trên, là đây thật ra là sự bắt đầu của những kế hoạch hưởng ứng lời kêu gọi thắt chặt kiểm soát, như đã được nêu ra trong phiên họp toàn thể gần đây của đảng. Khả năng thứ ba và gây tò mò nhất, cũng lại chỉ là suy đoán, là chấm dứt hoạt động của các kênh tin tức ngoại quốc chủ yếu vì những nỗ lực muộn màng của nhà nước hoặc của các quan chức nhà nước cụ thể nào đó nhằm làm giảm bớt khó khăn của ban lãnh đạo đảng trước các công dân của họ và trước thế giới, khi mà họ vừa có bản án quá nặng đối với hai người trẻ. Người ta có thể hình dung cảnh một quan chức cao cấp phun phì cả nước trà khi đang xem truyền thông quốc tế đưa tin về bản án, và sau đó là một cú phôn ngắn gọn, vào lúc khuya, với một giọng khàn khàn: “Chấm dứt đi!”.
Bản án, không còn nghi ngờ gì nữa, được sự tán thành của các phần tử thủ cựu canh giữ trong đảng, có quyền trấn áp, và cũng phải thừa nhận là nó được sự ủng hộ của một số đáng kể dân số – những người đánh đồng lá cờ vàng với bạo lực thời chiến và xung đột dân sự. Nhưng bản án quá nặng và không có lợi gì cho hình ảnh quốc gia, ở trong nước cũng như nước ngoài.
Bây giờ đang là thời điểm thú vị ở Việt Nam. Văn hoá chính trị đã phát triển và đang có sự bất mãn đáng kể ngay trong nội bộ đảng, về việc làm thế nào giải quyết tình hình hiện nay. Chuyện phe phái trong đảng tất nhiên là chẳng phải cái gì mới mẻ. Và sự đa nguyên trong nội bộ đảng đó, nếu nó đi xa hơn, thật sự có thể có lợi cho quá trình dân chủ hoá, cho dù dưới hình thức nào. Tất nhiên, đa số dân chúng Việt Nam hy vọng có một kết quả như thế.
Hôm thứ hai tại Hà Nội nóng tới 40 độ C. Nhưng một cơn gió lạnh vừa tạt qua. Đấy là điềm gở về một mặt trận đang đến gần hay một cú thở hắt ra của quá khứ, chúng ta sẽ chờ xem.








Mặt trái của biểu tình
Dưới đây là bài viết thứ 9 trong loạt bài “Nói với mình và các bạn: Vẻ đẹp của chính trị”. Mục đích mà loạt bài hướng tới là góp phần giúp độc giả, nhất là các bạn trẻ, hiểu hơn về chính trị, về sự tham gia, về tự do ngôn luận và sự phân biệt giữa tự do ngôn luận với xúc phạm người khác, về hiến pháp, quyền lập hiến và quyền tẩy chay hiến pháp, bất tuân dân sự, về kỹ thuật bầu cử và làm thế nào để có bầu cử tự do, công bằng.
Ở bài trước, chúng ta đã nói rằng văn hoá chính trị là cái quyết định một xã hội nhìn chung sẽ có thái độ như thế nào trước các hoạt động chính trị như biểu tình, đình công, kiện tụng… Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng biểu tình có những mặt trái của nó. Làm thế nào để giảm thiểu tác hại tiêu cực của biểu tình đây?
Phạm Đoan Trang
Kỳ 9
MẶT TRÁI CỦA BIỂU TÌNH
Một trong những mặt trái của biểu tình – và nó càng trở nên nghiêm trọng trong văn hoá chính trị “phản biểu tình” của Việt Nam – là sự cản trở tự do đi lại. Vì “phố phường chật chội, người đông đúc”, biểu tình có nguy cơ gây ảnh hưởng đến giao thông, mà đấy là người biểu tình ở nước ta còn chưa sử dụng biện pháp phong toả đường đi lối lại, cắm trại, dựng rào v.v. đấy nhé.
Ở một quốc gia dân chủ, với văn hoá chính trị thừa nhận và ủng hộ biểu tình, thì để vừa đảm bảo quyền tự do biểu đạt của nhóm người biểu tình, vừa đảm bảo quyền tự do đi lại của những người khác, chính quyền sẽ phải có các biện pháp như bố trí lực lượng hỗ trợ người biểu tình (dẹp đường, hướng dẫn giao thông…), đảm bảo những không gian công cộng thích hợp cho việc biểu tình. Ở Việt Nam thì khác: Chính quyền gộp tất cả những người đi biểu tình vào một rọ, gồm các “đối tượng” hoặc là phản động nhân danh yêu nước, hoặc là bị bọn phản động lợi dụng, lôi kéo. Từ quan niệm đó đến hành động cụ thể như thế nào thì chúng ta đều đã biết, nên người viết sẽ không “kể lể” thêm, mà sẽ bàn về các trường hợp có mâu thuẫn, xung đột thật sự liên quan đến biểu tình, ở phần tiếp sau.
“Ông Nguyễn Sinh Hùng và thế lưỡng nan”
Biểu tình hoàn toàn có thể cản trở nghiêm trọng quyền tự do đi lại của một cá nhân cụ thể. Ví dụ, đó là khi những người biểu tình chặn cổng Văn phòng Quốc hội, không cho ông Nguyễn Sinh Hùng ra đường khi đã hết giờ làm. (Xin các bạn lưu ý, đây chỉ là một ví dụ giả tưởng, trên thực tế bản thân người viết cũng không biết chính xác ông Nguyễn Sinh Hùng làm việc ở đâu). Trong trường hợp này, chúng ta đối diện với một thứ mà các nhà khoa học ưa gọi là “thế lưỡng nan”:
Vì ông Nguyễn Sinh Hùng là Chủ tịch Quốc hội, là quan chức, cho nên ông có nghĩa vụ phải lắng nghe ý kiến của người dân, tôn trọng quyền tự do biểu đạt và biểu tình của công dân;
Vì ông Nguyễn Sinh Hùng là một công dân Việt Nam, nên ông có quyền riêng tư, quyền tự do đi lại, tự do về thân thể, và ông phải được đi đâu tuỳ ý sau khi đã hết giờ làm việc. Do đó, khi bị cản trở tự do đi lại, ông có quyền khởi kiện.
Trên giác độ luật pháp thuần tuý, công dân Nguyễn Sinh Hùng quả thật có thể kiện những kẻ đã xâm phạm quyền của ông. Tuy nhiên, trong văn hoá chính trị ở nhiều nước, người ta thường quan niệm lãnh đạo, quan chức là luôn phải ở một thế chịu thiệt thòi trước công luận hơn người dân, và sẽ rất nực cười nếu lãnh đạo, quan chức muốn “ăn thua đủ” với dân – cái này trong tiếng Việt gọi là “tiểu nhân”. Đương nhiên là ông Hùng có quyền kiện và có thể kiện, nhưng nếu ông làm thế thì sẽ rất buồn cười trong mắt các chính trị gia đồng nhiệm, đồng nghiệp của ông ở nước ngoài.
Tương tự, chúng ta sẽ không thể thấy Tổng thống Clinton hay đảng Dân chủ tìm cách can thiệp, đóng cửa tờ báo nào dám bôi nhọ ông và chuyện tình ái, bồ bịch của ông. Tổng thống Bush cũng không thể truy tìm và khởi kiện kẻ nào dám vẽ bẩn vào ảnh ông rồi vác đi biểu tình, rồi đốt… Bởi vì văn hoá chính trị của người Mỹ, về căn bản, ủng hộ quyền tự do biểu đạt, ngôn luận của công dân và buộc lãnh đạo phải chấp nhận “chịu thiệt”, “tỏ ra quân tử” trong mắt dư luận.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng đừng quên rằng, trong các chế độ dân chủ, ghế của quan chức phụ thuộc vào lá phiếu của người dân, nên quan chức có xu hướng nhượng bộ trước những phản ứng của người dân và tìm cách thuyết phục họ, chứ không dám đối đầu.
Nếu chúng tôi thích “biểu tình chống biểu tình”, thì sao?
Trường hợp nói trên là khi biểu tình cản trở quyền tự do đi lại của một cá nhân cụ thể – một quan chức. Còn trường hợp sau đây hơi khác.
Giả sử sau khi Trung Quốc ra lệnh cấm đánh bắt cá trên vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam chỉ nói vài câu phản đối như thường lệ. Giả sử khoảng 300 người ở quận Nhất, TP.HCM nổi giận – trong đó một nửa phẫn nộ với Trung Quốc, một nửa bất mãn về chính sách ngoại giao của Chính phủ Việt Nam – và họ xuống đường biểu tình. Giả sử cùng lúc, có khoảng 300 người dân ở quận Hai, TP.HCM lại suy nghĩ ngược lại hoàn toàn – một nửa trong số họ cho rằng Trung Quốc cấm đánh bắt cá là đúng (cần phải bảo vệ và khai thác tiết kiệm tài nguyên thuỷ hải sản chứ, bất luận tài nguyên ấy của quốc gia nào), một nửa ủng hộ chính sách ngoại giao của Việt Nam (phản ứng ở mức độ như người phát ngôn đã phản ứng thôi chứ còn làm gì hơn được nữa).
Câu hỏi đặt ra là: 300 người ở quận Hai có thể đi biểu tình phản đối 300 người ở quận Nhất không?
Câu trả lời: Có, nếu như đúng là tất cả công dân Việt Nam đều được hưởng quyền tự do ngôn luận và tự do tụ tập.
Vậy sẽ ra sao nếu trên đường phố, các nhóm cư dân bất đồng quan điểm cứ biểu tình qua lại như thế?
Chẳng sao cả, chuyện đó là… bình thường trong một xã hội dân chủ, có nền văn hoá chính trị thiên về các giá trị dân chủ, tự do, nhân quyền. Có điều, trong mọi trường hợp, bạo lực phải bị lên án và loại bỏ; xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác là một tội có thể bị kiện và bị xử lý theo pháp luật. Khi ấy, vai trò của luật pháp và của Nhà nước càng trở nên quan trọng hơn trong việc bảo vệ quyền tự do ngôn luận và tụ tập của các bên, quyền tự do đi lại của những người khác, giữ gìn trật tự trị an và điều hoà các lợi ích mâu thuẫn. Việc này, tất nhiên, chưa bao giờ dễ dàng.
Tuy nhiên, bạn cần lưu ý một điểm quan trọng: Sẽ là một nhà nước lưu manh, phản động, nếu chính nhà nước bí mật tổ chức cho một nhóm trong xã hội chuyên đi “biểu tình chống biểu tình”. Nói cách khác, nếu chính quyền dùng tiền ngân sách, dùng quyền lực của lãnh đạo, để huy động lực lượng “phản biểu tình”, “đấu tranh với các luận điểm sai trái, thù địch” của một số công dân, mà thực chất là tấn công vào quyền tự do ngôn luận của những công dân ấy, thì đó là biểu hiện của một nhà nước độc tài đáng ghê tởm.
Khi văn hoá chính trị khó chấp nhận biểu tình
Ở đâu cũng vậy, biểu tình có những hành động đặc thù như gây tiếng ồn, phong toả đường đi lối lại, thậm chí có khi còn kéo theo bạo lực – giữa công an, cảnh sát với những người tuần hành, hoặc giữa chính những người dân với nhau, nhóm phản đối gây lộn với nhóm ủng hộ như trong ví dụ giả tưởng nêu trên. Đó chính là các mặt trái của biểu tình, và trong văn hoá chính trị của Việt Nam thì những hạn chế đó càng bị khuếch đại: Bạn hãy hình dung một nơi đường phố chật hẹp, bụi bặm, vỉa hè là không gian kinh doanh (mà đoàn người đi biểu tình có thể gây ảnh hưởng đến việc kinh doanh đó), và đa số dân chúng thì tới gần 70 năm nay không có ý niệm nào về việc “tự nhiên ra ngoài đường hò hét”.
Liệu văn hoá chính trị như thế có tạo ra một môi trường tâm lý-xã hội ủng hộ biểu tình và các hoạt động chính trị khác không? Chúng ta thấy ngay là không.
Vậy khi văn hoá chính trị về cơ bản là chống lại việc biểu tình, thì một số ít người muốn thể hiện chính kiến thông qua hành động biểu tình có thể và nên làm gì? Có nên hò hét, chửi bới kể tội “phe kia”, đốt cờ/ảnh, phong toả đường xá v.v.? Chúng ta sẽ tiếp tục vấn đề gây tranh cãi này ở kỳ sau, với câu chuyện về một hình thức hoạt động chính trị khác, xuất phát từ một phương pháp đấu tranh của vị anh hùng dân tộc Ấn Độ Mahatma Gandhi: bất tuân dân sự.
Kỳ sau: Bất tuân dân sự hay phản động?








Lời cuối cho Bauxite Tây Nguyên
Tôi tự nhủ trong suốt thời gian qua, mình đã viết hơn chục bài về dự án bauxite Tây Nguyên là quá đủ rồi nhưng nay được nghe ông Trần Xuân Hòa Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam khẳng định sẽ tiếp tục thực hiện dự án nhà máy Alumin Nhân Cơ và chỉ trong vòng 2 tháng nữa sẽ thấy tương lai của bauxite, đành phải gác tất cả công việc lại để viết bài “Lời cuối cho bauxite Tây Nguyên”!
Kiểm nghiệm các tuyên bố có cánh của lãnh đạo TKV
Tuyên bố của ông Trần Xuân Hòa không có gì lạ, nó chỉ là sự tiếp nối hùng hồn khẳng định trước đây của các vị tiền nhiệm ở TKV và người trong cuộc. Chính vì các tuyên bố này mà lãnh đạo Đảng và Nhà nước càng tin tưởng để cho làm dự án thí điểm bất chấp lời khuyên can của đại tướng Võ Nguyên Giáp và hàng ngàn ý kiến phản biện của người dân và các nhà khoa học.
Ông Đoàn Văn Kiển- Bí thư đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng quản trị TKV (Ủy viên dự khuyết BCHTU khóa IX) đã báo cáo bằng văn bản tại hội nghị của Ban tuyên huấn TW ngày 25/12/2008 tại Thành phố HCM, nguyên văn như sau (về hiệu quả của dự án bô xít):
“Mặt khác, ý nghĩa đóng góp phát triển kinh tế xã hội địa phương vùng Tây Nguyên và Nam Trung bộ là rất lớn vì với tổng doanh thu do xuất khẩu Alumina từ 2 nhà máy Nhân Cơ và Tân Rai trừ năm 2011 ước đạt 300 triệu USD/năm và tham gia đóng góp ngân sách địa phương (các khoản thuế) là khoảng 10-15% doanh thu để phát triển kinh tế xã hội, thì thực sự Tập đoàn đã góp phần phát triển Tây Nguyên giầu mạnh“.
Ông Đặng Đức Yến- Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Nông trong bài báo “Giải pháp cho bô xít Tây Nguyên” của tác giả Phan Anh đăng mục Kinh tế-Xã hội đã khẳng định: “Nếu dự án alumina này vào, tính từ các khoản thuế, phí bảo vệ môi trường… sẽ đóng góp cho tỉnh khoảng 1600 tỷ đồng và đến năm 2011 thì có thể đạt hơn 2000 tỷ đồng“
Trong thực tế, TKV lẫn lộn, không phân biệt nổi hiệu quả kinh tế-tài chính (là của doanh nghiệp), hiệu quả kinh tế-xã hội (của xã hội). Các nước gần đây còn chú trọng đến hiệu quả kinh tế-môi trường là những khái niệm không thể lập lờ. Đến hôm nay, TKV công khai “lờ” đi cái khoản thu to nhất của ngân sách là thuế xuất khẩu!?
Lập luận của ông Trần Xuân Hòa về thuế xuất khẩu không chuẩn, cần phải chỉnh. TS Nguyễn Thành Sơn đã chỉ ra rất chính xác về thuế xuất khẩu của Quốc hội ban hành từ năm 2008 (trước khi TKV làm alumina), nên chỉ có danh điểm “quặng nhôm” (chứa Al2O3). TKV cũng hiểu alumina (cũng đều chứa Al2O3) cũng là “quặng nhôm”, như vậy là chính xác về mặt khoa học. Chính vì vậy, trước đây, như báo chí đã đưa tin Phó TGĐ của TKV là ông Nguyễn Văn Biên khẳng định phải xin giảm thuế xuất khẩu alumina từ 20% xuống 5% hoặc =0% thì có lãi. Gần đây, tại cuộc họp báo, người phát ngôn của TKV cũng khẳng định với các nhà báo là trước mắt doanh nghiệp khó khăn nên nhà nước hỗ trợ bằng cách cho thuế xuất khẩu = 0%, sau này kinh tế hồi phục TKV sẽ nộp bình thường. Như vậy, bản thân TKV cũng thấy mặt hàng “alumina” được hiểu là “quặng nhôm” không thể không đóng thuế xuất khẩu như ngụy biện của ông Hòa.
Nhân việc TKV cứ “quanh co” và “mập mờ”, để đảm bảo lợi ích của người đóng thuế, cần có kiến nghị rõ với Quốc hội bổ sung vào biểu thuế xuất khẩu danh điểm “Alumina” và xác định cụ thể thuế xuất cho alumina còn đang thiếu. Còn mức thuế suất là bao nhiêu % là do Quốc hội qui định chứ không thể áp thuế suất của nước ngoài (Brazin, hay Ấn Độ) cho Việt Nam. Về cái gọi là “chế biến sâu” của TKV: Alumina có hàm lượng Al2O3 cao thì gọi là được chế biến sâu cũng đúng, nhưng, alumina của Tân Rai và Nhân Cơ có đặc điểm là do công nghệ lạc hậu, giải pháp công nghệ ấu trĩ, đòi hỏi tiêu hao nhiều than (0,679 tấn than cho 1 tấn alumina). Không ai khuyến khích “chế biến sâu” để xuất khẩu như kiểu của TKV cả. Vì, đối với alumina của TKV, xuất khẩu alumina cũng là xuất khẩu than (cái mà chúng ta còn đang thiếu).
Không thể chịu trách nhiệm chính trị trên tiền thuế của dân
Ông Trần Xuân Hòa cho rằng dự án bauxite không việc gì phải xin ý kiến của Quốc hội vì đó là thẩm quyền của Chính phủ.Người dân thưa hiểu đó là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước thì việc chia nhỏ dự án, mang danh thí điểm, “lách luật” cũng không có gì lạ! Đừng quên rằng dù chất lượng đại biểu Quốc hội còn hạn chế vì “Đảng cử-Dân bầu” nhưng không ít người có lòng tự trọng, biết lắng nghe ý kiến của Dân, điển hình như Quốc hội khóa trước đã từng bỏ phiếu bác bỏ dự án đường sắt cao tốc Bắc-Nam.Muốn sòng phẳng, công khai minh bạch thì TKV phải tìm nguồn vốn bổ xung cho nguồn vốn tự có. Về cơ bản có hai cách bổ xung đi vay và huy động vốn góp, trong đó có góp vồn theo phương thức góp vốn cổ phần, gắn với hình thành và phát triển thị trường sơ cấp trên thị trường chứng khoán. Cần phải tính toán hiệu quả của phương án sử dụng vốn đầu tư. Trong lĩnh vực này, luôn phải có tối thiểu hai phương án thực hiện mục tiêu để lựa chọn phương án có hiệu quả nhất. Việc đưa ra hai phương án kết nối Tân Rai-Nhân Cơ với cảng biển bằng đường bộ hay đường sắt là sự thể hiện vấn đề này. Do đó, để làm cho ngân sách nhà nước, cũng như vốn đầu tư của các chủ đầu tư thuộc các thành phần kinh tế khác nhau có thể là nằm ở việc lập một hay nhiều phương án đầu tư để thực hiện mục tiêu đề ra? Thủ trưởng, người có quyền quyết định chủ trương đầu tư là người đòi hỏi bộ máy giúp việc phải lập và tính toán chính xác phương án đầu tư và hiệu quả của vốn đầu tư, trình Thủ trưởng phê duyệt hay loại xẩy ra tình trạng Thủ trưởng là người quyết định chủ trương đầu tư một cách chủ quan, duy ý chí, … để rồi bắt buộc bộ máy giúp việc phải lập phương án đầu tư để thực hiện chủ trương của Thủ trưởng chứ không phải là để đạt hiệu quả kinh tế cao.Thông thường để ngân sách được sạch sẽ thì phải có phương án gây vốn. Vốn phải dựa vào bán trái phiếu doanh nghiệp (enterprise bonds) cho dân chúng, thông qua 1 công ty đánh giá tài chính. Muốn bán được thì phải có đánh giá khả năng hoàn vốn và trả lãi vốn. Người mua như thế thấy rõ được rủi ro của loại bonds này mà quyết định mua hay không mua. Nguyên tắc là nếu doanh nghiệp quốc doanh trên lỗ thì người mua bonds có thể mất vốn. Theo cách làm trên, nếu thị trường đánh giá là đầu tư trên không thể có lời thì tất nhiên không bán được trái phiếu, và do đó không thể xây dựng doanh nghiệp. Cách làm này là cách làm của các doanh nghiệp gọi là phi lợi nhuận (hay tự quản) ở Mỹ và nhiều nước. Doanh nghiệp có thể làm lời nhưng lời phải tái đầu tư chứ không thể đem chia cho cổ phần vì không có cổ phần viên. Chỉ có cách làm này mới tránh được cái gọi là doanh nghiệp quốc doanh mà ngân sách phải chịu trách nhiệm bù lỗ.
Ở Mỹ và các nước tiên tiến, người ta rất xa lạ với vốn cổ phần công ty nhà nước, nói chung là xa lạ với công ty quốc doanh. Công ty tự quản phi lợi nhuận, dịch từ chữ (non-profit organization). Nếu là tư nhân thì thường với mục đích từ thiện hay văn hóa, như lập nhà thương, bảo tàng. Nếu là nhà nước thì với mục đích phục vụ xã hội và nền kinh tế nói chung. Ở Mỹ không có ý niệm công ty quốc doanh, mà chỉ có công ty phi lợi nhuận nhà nước tự quản. Thí dụ như Tennesse Valley Authority nhằm cung cấp điện cho khu vực Tennesse, New York and New Jersey Port Authority nhằm quản lý các phi trường và hải cảng và chuyên chở trong khu vực nằm giữa hai bang NY-NJ. Đây là công ty nhà nước địa phương nhưng tự quản. Trong các công ty tự quản, hội đồng quản trị do nhà nước hai bang chỉ định theo nhiệm kỳ, nhưng giám đốc điều hành do hội đồng quản trị thuê. Lợi nhuận công ty tự quản tùy mục đích có thể được miễn thuế. Công cụ để gây vốn là bán trái phiếu dài hạn (bonds) ít nhất là 10 năm trở lên. Các công ty tự quản nhà nước dựa vào vốn bán trái phiếu, mà không dựa vào thuế hay vốn vay ngân hàng. Lý do không dựa vào vốn vay ngân hàng vì hai lý do: bấp bênh lãi suất và qua hình thức trái phiếu, Chính phủ có thể miễn thuế đối với lãi trái phiếu do đó khuyến khích dân chúng mua. Việc gây vốn qua trái phiếu cũng chính là cách làm cho dân chúng gắn bó với các đầu tư trên vì chính họ bị ảnh hưởng nếu như doanh nghiệp thua lỗ mất khả năng trả lãi/vốn trái phiếu.
Phản biện cho TKV khó như giảng toán lớp 10 cho học sinh lớp 3
Có chuyên gia nhận xét quan trọng đối với Tây Nguyên (trong đó có bauxite) là hạ tầng phải đi trước một bước như Bộ Chính trị đã yêu cầu trong Thông báo 245. Trong hạ tầng (giao thông vận tải, điện, nước), nếu có nhiều tiền cũng chỉ phát triển được giao thông vận tải, còn điện (thủy điện) và nước thì không thể. Muốn giải quyết triệt để, và khi nay đã có tiền làm đường sắt, thì bauxite chắc chắn phải là theo lời dạy của COMECON (SEV) trước kia là đưa các nhà máy alumina xuống bờ biển. Như vậy kiểu gì cũng nên đóng cửa ngay Nhân Cơ để chờ cơ hội. Phản biện bây giờ khó thật nhất là nói với TKV cũng khó giống như giảng toán lớp 10 cho học sinh lớp 3.
Từ tháng 2/1010 đến 3/2013, tức là chỉ sau có 25 tháng, tổng mức đầu tư của dự án Nhân Cơ đã tăng từ 11.365 tỷ (lấy chẵn) lên 14.889 tỷ, tức là, bình quân mỗi tháng tăng lên thêm 140,9 tỷ đ/tháng. Tốc độ tăng tổng mức đầu tư là 1,3%/tháng. (Con số tương tự của Tân Rai có khá hơn, chỉ tăng 93,5 tỷ đồng/tháng). Như vậy, cứ cái “đà” này, với cung cách quản lý dự án như ở Nhân Cơ, kiểu gì cũng tăng, càng kéo dài càng tăng, càng nhanh chóng dừng sớm Nhân Cơ thì mỗi tháng còn đỡ thiệt hại thêm 140,9 tỷ đồng vốn đầu tư.
Về thải “ướt” và “khô”: Bùn đỏ của Tân Rai có 2 pha rắn và lỏng. Pha rắn chủ yếu gồm các chất ô xít kim loại, pha lỏng là chất xút NaOH độc hại nguy hiểm. Nếu tỷ lệ 2 pha rắn/lỏng là 50/50 thì TKV gọi là gì (“khô” hay “ướt”) cũng được (không ai thèm chấp). Nhưng nếu pha rắn chỉ có 46,5% thì đó là “ướt” vì pha lỏng (NaOH) chiếm hơn 50% trong chất thải ra. Cái “công nghệ” như TKV nói, chính là công nghệ thải “ướt”. Tất nhiên, do chất xút vừa độc hại cho người ngoài, nhưng cũng rất đắt đối với chủ đầu tư (khoảng 14 triệu đồng/tấn) nên phải thu hồi lại. Chỉ có điều khác nhau: “khô”- thu hồi ngay tối đa trong dây truyền nhà máy, còn “ướt” cứ thải ra ngoài, chờ một thời gian để 2 pha rắn và lỏng tách nhau ra rồi sẽ thu về tái sử dụng (giống hệt như ở Hungary).
Chất lượng alumina: Alumina của TKV có tên gọi chung là Cancined Alumina. Nhưng nếu căn cứ theo thành phần hóa học và vật lý thì khách hàng Marubeni gọi alumina của TKV thuộc dạng “Coarse Alumina” hay (Sandy Type). Cũng giống như đường ăn, ta thường gọi loại đường tốt là “đường trắng”, còn loại chất lượng thấp hơn là “đường cát” vì mầu giống như cát. Trong Alumina người ta cũng dùng khái niệm “cát” (sỏi) là “Sandy Type” để gọi alumina của TKV.
Cũng giống như bùn đỏ có chứa hơn 50% chất xút nhưng TKV vẫn gọi là “khô”, TKV có gọi alumina của mình là “vàng” hay “bạch kim” cũng được, nhưng trong kỹ thuật thì phải rõ ràng theo các con số, và trong thương mại quốc tế cũng chẳng lừa được ai.
TKV phải tính lại bài toán kinh tế
Tạm gác các vấn đề còn nhiều bất cập của dự án bauxite về tác động xấu đến môi trường, ý nghĩa chính trị an ninh quốc phòng, theo tôi hiểu chỉ riêng về bài toán kinh tế TKV phải tính lại theo phương pháp luận và cách tiếp cận cụ thể dưới đây:
Cách tính lợi nhuận theo kế toán doanh nghiệp
A.
Giá thành f.ob. (có thể tính cho toàn bộ sản lượng nhà máy rồi tính cho 1 tấn aluminia)
DIỄN GIẢI
=
Giá quặng bauxit dùng để sản xuất ra alumina
Chính là resource rent mà VN trong trường hợp tài nguyên do nhà nước sở hữu được gọi là thuế tài nguyên. Đây là chi phí mà công ty khai thác phải trả để sử dụng tài nguyên. Nó được định nghĩa là thu nhập (thí dụ một tấn alumina) trừ đi tổng chi phí sản xuất cộng thêm lợi nhuận trung bình cho số vốn bỏ ra để sản xuất ra nó.
Thí dụ giá 1 con tôm hùm là $5.00, chi phí sản xuất (lao động và vật chất) cộng với chi phí vốn bỏ ra và lợi nhuận trung bình là $3.00, thì resource rent là $2.00.
Việc tính này là điều bình thường cần tính khi một quốc gia thương lượng để đi đến ký kết hợp đồng khai thác dầu thô. Điển hình nhất là khi một bên bỏ 100% vốn khai thác và điều hành khai thác. Bên có sở hữu nguồn dầu thô được phân chia một tỷ lệ dầu thô nhất định sau khi bơm dầu lên. Cơ sở để tính toán là phân chia thu nhập thuần thu được từ dầu thô (tức là giá dầu thô trên thị trường trừ đi chi phí khai thác).
Giá của quặng này có thể tính dựa vào các hợp đồng đã đạt được giữa các nhà khai thác tài nguyên bauxit trả cho chính phủ các nước trên thế giới. Giá này phải cần đến chuyên gia quốc tế đã làm việc trong ngành.
Chi phí về hàng hóa và dịch vụ để sản xuất ra alumina
Gồm tất cả chi phí về hàng hóa và dịch vụ dùng để sản xuất ra 1 tấn alumina. Hàng hóa dịch vụ ở đây bao gồm toàn bộ chi phí về:
Điện, nước, than, chi phí bảo quản và các chi phí quản lý khác
Chi phí bảo vệ/hoàn nguyên môi trường
Chi phí về lao động
Công trả cho lao động kể cả lao động quản lý
Chi phí trả lãi
Thuế sản xuất nếu có (thuế đăng ký doanh nghiệp, thuế sản phẩm, thuế đất)
Chi phí khấu hao tài sản nhà xưởng và máy móc
Chi phí chuyên chở ra cảng kể cả bốc dỡ đưa hàng lên tầu
Thuế xuất khẩu
B
Giá bán được trên thị trường f.o.b.
Đây là giá mà người mua sẵn sàng trả sau khi hàng được đưa lên tầu. Chi phí về chuyên chở khỏi cảng bảo hiểm là trách nhiệm của người mua.
C
Thu nhập thuần theo giá hiện tại (net present value)
=
B-A
C gọi là thu nhập thuần chính là lợi nhuận theo cách tính của doanh nghiệp.
Tỷ lệ lợi nhuận = C/vốn tự có. Vốn tự có = giá trị tài sản – giá trị vốn vay.
II. Cách tính hiệu quả trong đánh giá dự án
Để tính tổng thu nhập thuần (net present value) của cả dự án thì phải tính. Trong trường hợp có C0 thì Ci sẽ lớn hơn vì giá thành không cần tính khấu hao (tức là khấu hao vốn đầu tư ban đầu C0). Nếu tính như ở phần I thì C0=0.
Thời kỳ
0
1
2
T
- C0
C1
C2
CT

C0 = vốn đầu tư (gồm cả vốn tự có và vốn vay).
Ci = thu nhập thuần thời kỳ i, tính theo giá giá trị của thời kỳ hiện tại tức là thời điểm 1. Nếu chúng được tính theo giá của thời kỳ i thì phải đưa về giá hiện tại, tức là trừ khử đi lạm phát. Khi giá bán trong hợp đồng dài hạn cố định thì rõ ràng là giá trị hiện tại của giá bán đó sẽ nhỏ đi. Nếu 100 là giá trị nhận được trong năm thứ 5 mà lạm phát p là 3% mỗi năm thì giá trị 100 đó chỉ có giá trị trong hiện tại bằng =
r là suất chiết khấu thực (sau khi trừ lạm phát) thường là tính giống nhau cho từng thời kỳ. Suất chiết khấu hoàn toàn khác chỉ số tăng giá (hay lạm phát). Thí dụ trong 5 năm nữa, chúng ta được trả giá là 100 và với lạm phát 2.5% năm thì giá trị hiện tại là 88.4 như đã nói ở trên. Tuy nhiên như thế phải 5 năm nữa chúng ta mới nhận được 88.4. Như thế nếu muốn nhận ngay vào thời kỳ 1 thì phải chiết khấu 88.4 và như thế chỉ được giá trị là
Có hai cách tính hiệu quả của dự án:
1) Với công thức ở trên, NPV là thu nhập thuần thu được của dự án nếu như trong năm năm, mỗi năm nhận được Ci (đã đưa về giá hiện tại). Cách tính này thường giả định suất chiết khấu thật r = 0.03. Dự án chỉ nên làm nếu như NPV dương. Có nghĩa là nếu âm thì sẽ không lấy lại được vốn.
2) Tính suất hoàn vốn nội tại, tức là tính ra r, khi cho NPV = 0. Nếu r nhỏ hơn lãi suất thực (tức là khử lạm phát) trên thị trường thì không nên đầu tư. Cách tính này có thể so sánh tỷ suất hoàn vốn với lãi suất thực trên thị trường.
Lãi suất thực (real rate) =
(1 lãi suất danh nghĩa (nominal rate) / (1 lạm phát) – 1
= (1 6%) / (1 4%) – 1 = 1.9%
ở đây, lãi suất danh nghĩa là 6%, lạm phát là 4%.
Nếu có hơn 1 phương án thì chọn phương án có tỷ lệ hoàn vốn cao hơn hoặc NPV lớn hơn.
Xử lý vấn đề lạm phát:
NPV là giá trị theo giá hiện tại.
· Có thể tính C theo giá thu được tại thời điểm thu tương lai và như thế suất chiết khấu là suất chiết khấu danh nghĩa.
· Cũng có thể đưa C về giá hiện tại, khi đó suất chiết khấu phải tính theo lãi suất thực.
Có lạm phát = 4%. Tiền vào ra theo giá thời điểm chi/thu. Suất chiết khấu danh nghĩa = 6%. NPV tính bằng suất chiết khấu danh nghĩa.
0
1
2
3
4
Tổng
Tiền vào
0
624
648.96
674.9184
701.9151
Tiền ra
1500
104
108.16
112.4864
116.9859
Tiền vào thuần
-1500
520
540.8
562.432
584.9293
NPV
-1500
490.566
481.3101
472.2288
463.3188
407.4236
Không lạm phát (hay là mọi chi phí đưa về giá hiện tại, suất chiết khấu thật = 1.019231)
0
1
2
3
4
Tổng
Tiền vào
600
600
600
600
Tiền ra
1500
100
100
100
100
Tiền vào thuần
-1500
500
500
500
500
NPV
-1500
490.566
481.3101
472.2288
463.3188
407.4236
Thay cho lời kết
Dự án bauxite Tây Nguyên ngày càng được thực tế chứng minh là chủ trương sai của Đảng và Nhà nước. Nếu ngay từ đầu, giá như người ta biết lắng nghe ý kiến của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và phản biện xã hội coi bauxite như của để dành cho thế hệ con cháu chờ 25-30 năm sau khi khoa học công nghệ phát triển, đất nước đủ tiềm lực mới khai thác. Lịch sử không có 2 từ giá như. Chính TKV cũng không thể trốn tránh trách nhiệm “bóc ngắn-cắn dài” đã góp phần làm tan hoang mảnh đất nghèo khó hình chữ S thân yêu của chúng ta.
(bản gốc của tác giả)








“Bất ổn ở nông thôn là bất ổn xã hội, bất ổn chính trị”.
Bức tranh kinh tế ảm đạm thể hiện qua những con số biết nói. Năm 2010 con số doanh nghiệp (DN) ngừng hoạt động, phá sản là 43.000; Năm 2011 là 53.000; Năm 2012 lên trên 54.000; Ngay trong những tháng đầu năm 2013, mỗi tháng có 4.900-5.000 tiếp tục ngừng hoạt động hoặc phá sản. Ngay cả những DN còn thoi thóp cũng đang ở vào tình trạng “sống không bằng chết”. 69% báo lỗ trong năm 2012, với số lỗ lên tới hơn 50 ngàn tỷ đồng. Không ngẫu nhiên, Ủy viên Ủy ban Kinh tế, TS Trần Hoàng Ngân trong phiên khai mạc QH ngày hôm qua, đã
dùng từ “dịch phá sản” khi nói về “lực lượng tạo ra của cải vật chất và việc làm của xã hội”.
DN cần phải được cứu khẩn cấp bởi có cứu được DN mới mong chặn đứng được suy giảm kinh tế, giải quyết được công ăn việc làm, an sinh xã hội. Và xa hơn, mới chặn đứng được sự hoang mang có tính chất dây chuyền đang nằm trong những bản báo cáo với mấy chữ nghe qua tưởng chuyện nhỏ “suy giảm lòng tin”.
Nhưng nền kinh tế không phải chỉ có các DN cần cứu. Bản thân nông nghiệp, từ nhiều thập kỷ nay luôn được coi là “cứu cánh” của nền kinh tế cũng đang cần được cứu hơn bao giờ hết.
Bản thân báo cáo thẩm tra cũng xác nhận tình trạng giá gạo xuất khẩu đang giảm ở mức “hai con số”: 10,9%. Bản thân chính sách mua tạm trữ lúa, gạo còn nhiều bất cập, gây bức xúc trong nông dân vì số lượng người được hưởng lợi trực tiếp còn ít, việc triển khai mua tạm trữ còn chậm, thời hạn thực hiện ngắn trong khi thời gian thu hoạch cao điểm ở các tỉnh chênh lệch nhau. Và tồn tại lù lù trong các báo cáo là đội ngũ ”thương lái” như những tên cướp đường, thủ phạm trực tiếp gây ra tình trạng ”ép giá vẫn xảy ra phổ biến”.
Những tác giả của “cứu cánh”, người nông dân đang rơi vào lỗ kép. Vị quan chức Quốc hội phân tích: Lỗ kép ở đây là giá nông sản (lương thực, chăn nuôi) đang giảm, dẫn đến nguồn thu của nông dân giảm nhưng các khoản chi khác lại tăng như cho thức ăn giá súc, phân bón, vật tư nông nghiệp.. chưa kể giá các dịch vụ y tế, giáo dục từ lâu đối với nông dân đã trở thành những gánh nặng đến mức có người đã quẫn bách khi không tìm thấy lối thoát. Lỗ kép là trong khi tất cả các mặt hàng hầu hết đều tăng chỉ có lương thực, sản phẩm chăn nuôi là giảm. “Chính từ việc lương thực giảm giá đã dẫn đến lạm phát thấp vì chỉ số giá lương thực chiếm tỷ trọng lớn trong rổ hàng hóa. Chứ không phải là do giải pháp kiềm chế lạm phát hữu hiệu”- TS Ngân nói.
Nông nghiệp là ngành duy nhất luôn xuất siêu với những đồng ngoại tệ cứu cánh thấm đẫm mồ hôi nông dân. 67% dân số đang sống ở nông thôn, làm nông nghiệp. Câu kết sau đây là lời Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân “Vì thế cứu doanh nghiệp phải song hành với cứu nông dân, nông nghiệp”. Bởi bất nông nghiệp bất ổn thì nền kinh tế không còn cứu cánh. Bởi “Bất ổn ở nông thôn là bất ổn xã hội, bất ổn chính trị”.








Vĩnh biệt nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú
Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú sinh ngày 25 tháng 12 năm 1942. Quê quán: Hà Nội. Nơi ở hiện nay: Ba Đình, Hà Nội. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1968). Đã tạ thế hồi 17 giờ ngày 20-5-2013 tại bênh viện 108. Hưởng thọ 72 tuổi.
Lễ viếng hồi 10 giờ đến 12 giờ ngày 23-5-2013 tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng số 5 Trần Thánh Tông Hà Nội
Xin chia buồn với nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ và gia quyến. Cầu mong chị Tú bình an ở chốn vĩnh hằng.
Tác phẩm chính của nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú
Huệ (Tiểu thuyết, 1964); Người hậu phương (truyện ngắn, 1966); Đất làng (Tiểu thuyết, 1974); Buổi sáng (Tiểu thuyết, 1976); Ngõ cây bàng (Tiểu thuyết, 1980); Câu chuyện dưới tán lá rợp (truyện ngắn, 1982); Những dấu chân phía chân trời (truyện ngắn, 1983); Hạt mùa sau (Tiểu thuyết, 1984); Giã từ mùa đông (Tiểu thuyết, 1989); Khoảng trời phía sau nhà (truyện ngắn, 1989); ảo ảnh trắng (Tiểu thuyết, 1990); Chỉ còn anh và em (Tiểu thuyết, 1990); Hai người và những con sóng (Tiểu thuyết, 1992); Truyện ngắn tuyển tập (1994); 20 truyện ngắn mi ni (truyện ngắn, 1996); Phút thoáng qua (thơ, 1990); Cỏ ấm (truyện ngắn, 1998)








Tiểu sử người “kỳ diệu nhất hành tinh” qua ảnh
Chỉ còn 2 ngày nữa là chàng trai không chân không tay Nick Vujicic sẽ đến Việt Nam để truyền cảm hứng cho các bạn trẻ về niềm tin và nghị lực sống. Nhân dịp này, mời độc giả đón đọc loạt bài về thời thơ ấu, những câu nói đi vào lòng người và tình yêu đẹp như cổ tích của chàng trai tuyệt vời Nick Vujicic
Một chặng đường đầy nghị lực mà người “không chân không tay” đã trải qua như để chứng minh anh là “chàng trai kỳ diệu nhất hành tinh”.
Nick Vujicic sinh ngày 4/12/1982 tại Melbourne, Australia và hiện đang sống tại Mỹ. Không may mắn như những đứa trẻ khác, Nick đã ra đời với cơ thể không lành lặn, thiếu chân, thiếu tay. Bố mẹ Nick gần như ngất đi sau khi nhìn thấy đứa con bé bỏng đáng thương của mình chào đời. Nhưng họ luôn cố gắng giúp con trai có một cuộc sống bình thường như bao đứa trẻ khác.
Gương mặt Nick khi còn nhỏ luôn tràn đầy hạnh phúc, vì cậu không không biết mình khác biệt với mọi người và những trở ngại mà cậu phải đối mặt trong tương lai.
Mặc dù bị khuyết tứ chi nhưng ngay từ bé Nick đã rất khéo léo trong việc giải quyết các hoạt động thường ngày
Nick khi mới 6 tháng tuổi đang chơi đồ chơi rất thành thục.
Ngay từ lúc 18 tháng tuổi, Nick đã được bố cho xuống bể bơi và cố gắng dạy con trai học bơi, rồi sau đó là chơi gôn, lướt sóng…
Đến năm anh 6 tuổi, bố dạy anh cách dùng chân để đánh máy và mẹ đã chế tạo một dụng cụ bằng nhựa để giúp anh có thể cầm bút chì. Cũng có lúc anh cảm thấy chán chường và không muốn tiếp tục sống. Đó là lúc anh 8 tuổi, anh đã sợ hãi khi nghĩ rằng một ngày nào đó không có bố mẹ bên cạnh để chăm sóc. Nhưng với sự giúp đỡ của gia đình, bạn bè anh đã vượt qua tất cả trở ngại đó
Bức ảnh chụp Nick ở trường khi cậu được 10 tuổi. Bố mẹ Nick quyết định gửi anh vào học tại một trường học bình thường thay vì một trường dành cho những người khuyết tật. Nick cho rằng đó là quyết định tuyệt vời nhất mà bố mẹ anh đã làm.
Nick kể trên blog của mình: “Ở trường tôi luôn bị bạn bè bắt nạt, miệt thị và tẩy chay trong nhiều năm. Tôi tổn thương trầm trọng và sụp đổ đến mức không muốn tồn tại nữa. Nhưng mẹ đã đưa cho tôi xem một bài báo về người đàn ông tật nguyền, khát khao được sống khỏe để tiếp tục giúp đỡ cho cộng đồng. Hình ảnh ấy đã thay đổi tôi hoàn toàn và tôi bắt đầu tìm lại sự tự tin, niềm ham sống và khát khao thể hiện mình”
Bằng nghị lực phi thường cùng phương châm sống: “Tật nguyền lớn nhất trong đời là khi mất hi vọng. Hãy tin tôi đi, mất hi vọng còn tồi tệ hơn nhiều so với chỉ mất chân tay”, Nick Vujicic đã vươn lên để trở thành nhà diễn thuyết nổi tiếng thế giới.
Những bài diễn thuyết của anh truyền nghị lực sống cho người nghe.
Bàn chân trái tí xíu chỉ có 2 ngón – Nick hay gọi đùa là “chiếc đùi gà nhỏ” – đã trở thành bàn tay, giúp anh rất nhiều trong sinh hoạt hằng ngày. Nick hăng hái hòa nhập cuộc sống qua các hoạt động thể thao, gây kinh ngạc nhất là bơi lội và nhảy cầu.
Lướt ván điêu luyện.
và bóng đá.
Tháng 2/2012, anh đã kết hôn và đứa con trai đầu lòng, bé Kiyoshi James Vujicic, đã chào đời ngày 13/2/2013.
Trong một hành trình mới, Nick Vujicic sẽ tới Việt Nam từ ngày 22 đến 26/5 và sẽ có 8 buổi diễn thuyết (45 phút/buổi) với các đối tượng khác nhau. Anh sẽ trình bày trước 25.000 sinh viên tại sân vận động Mỹ Đình (Hà Nội) từ 18h30 – 21h30 ngày 23/5 và trước 15.000 người tại sân vận động Thống Nhất (TP.HCM) từ 18h – 21h ngày 25/5.
Xem clip Nick Vujicic làm việc thường ngày:








Nếu tất cả đều được tín nhiệm thì…

499 vị đại biểu Quốc hội khóa 13, sáng 20/5 cùng bước vào kỳ họp thứ 5, kéo dài một tháng tại Thủ đô Hà Nội.
Rất nhiều đại biểu Quốc hội khi được hỏi về dự cảm kết quả lần đầu tiên Quốc hội lấy phiếu sẽ thế nào, đều cho rằng: nếu cả 49 chức danh trong diện được lấy phiếu tín nhiệm, chức danh nào cũng đều được tín nhiệm cao, đều tốt đẹp, thì dân sao tin được!
Trong báo cáo tổng hợp từ kiến nghị của hơn 1.700 ý kiến cử tri, Chủ tịch ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Huỳnh Đảm cho biết: “Đây là lần đầu tiên Quốc hội tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, vì vậy các đại biểu Quốc hội cần nêu cao ý thức trách nhiệm trước cử tri và nhân dân cả nước để việc lấy phiếu tín nhiệm được tiến hành thực chất, không hình thức, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Nhà nước thực sự có năng lực, đạo đức tốt, liêm khiết, gương mẫu, có tinh thần kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”.
Còn Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa Lê Nam có những đánh giá không mấy “bình yên” với một số chức danh trong số 49 chức danh thuộc diện lấy phiếu này – bởi theo ông, họ nói không thuyết phục, không làm cho người khác tin tưởng.
Ông Nam cho rằng nếu tất cả 49 chức danh đều đạt tín nhiệm cao và rất cao thì không phải là kết quả tốt bởi trong tình hình đất nước hiện tại, dư luận hiện tại, với những vấn đề đang đặt ra cho thấy không phải mọi thứ đang tốt đẹp.
“Nếu kết quả mà tất cả đều được tín nhiệm cao thì tôi nghĩ niềm tin của nhân dân sẽ thêm sứt mẻ”, ông Nam nêu quan điểm.
Cùng quan điểm, Ủy viên thường trực Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Đỗ Văn Đương đánh giá, trong bối cảnh đất nước đang nổi lên nhiều vấn đề bức xúc, nóng bỏng như hiện nay thì kết quả bỏ phiếu ra sao có ý nghĩa rất lớn: “Giả sử việc bỏ phiếu không được thực chất, kết quả bỏ phiếu “tròn vo” thì sẽ ảnh hưởng rất nặng nề đến niềm tin của cử tri với uy tín của Quốc hội. Khi đó, các đại biểu Quốc hội sẽ nói gì trước cử tri đây?”, ông Đương lo lắng.
Ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa – Giáo dục và Thanh thiếu niên nhi đồng của Quốc hội, Nguyễn Thanh Hải nhận định: “Việc cùng lúc tiến hành lấy phiếu đánh giá tín nhiệm với 49 chức danh quan trọng nhất quả thật sẽ ít nhiều gây áp lực đối với các đại biểu Quốc hội”.
Tuy nhiên, bà Hải tin rằng Quốc hội sẽ thực hiện công việc này một cách thực chất vì “với một tập thể gần 500 người, đại diện cho mọi vùng miền, mọi thành phần cử tri trong xã hội thì việc “chạy phiếu” là rất khó.
Thực tế còn cho thấy rất khó có thể thuyết phục đa số các cá nhân trong một tập thể lớn, đa dạng để có ý kiến hướng theo ý muốn chủ quan của cá nhân nào đó, khi mà các kết quả công việc từ thực tiễn quản lý, điều hành mà cá nhân đó thực hiện không đủ tốt để thuyết phục họ”.
Còn theo đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng Lê Thanh Vân thì việc Quốc hội sẽ dễ dãi cho qua khuyết điểm của những người được đưa ra lấy phiếu theo kiểu “hòa cả làng” vẫn có thể diễn ra.
“Nếu như vậy, tác dụng của việc bỏ phiếu tín nhiệm sẽ không cao và không có chuyện mở lối cho văn hóa từ chức”, ông Vân nói.








Nhân trị, Pháp trị hay Kỹ trị

Những UV BCT mới
Chuyện đổi tên nước, thay đổi hiến pháp, điều 4, quân đội của ai… coi như giải quyết gọn nhẹ ngay từ vòng … gửi xe ở nhà Quốc hội. Thôi thì ta bàn chuyện trên trời cho vui. Với lại chủ nhà cũng hết…”zốn”.
Trong bối cảnh hiện nay, sự lựa chọn thể chế Nhân trị, Pháp trị hay Kỹ trị, cho con đường đi lên của một quốc gia là vô cùng quan trọng.
Nhân trị
Đó là cách cai trị dựa vào đạo đức của con người thuở Nho giáo thịnh hành cách đây mấy ngàn năm. Họ đưa ra bốn biện pháp quản lý xã hội: lễ, nhạc, chính, hình. Như vậy lễ, nhạc đứng đầu rồi mới đến hành chính và hình pháp. Yếu tố con người được đề cao, nhất hàng ngũ lãnh đạo.
Nhân trị cho rằng “lãnh đạo thích gì thì đó là luật”. Trong xã hội dựa vào Nhân, không có hạn chế về sự việc lẫn phương cách nhà lãnh đạo có thể làm.
Vua chúa phong kiến thời xưa và các quốc gia độc tài thời nay là điển hình của xã hội Nhân trị.
Pháp trị
Trong thể chế Pháp trị, luật pháp phải độc lập. Pháp trị là công cụ điều chỉnh quyền lực, đảm bảo sự bình đẳng trước pháp luật và có quyền tài phán. Không ai có quyền ngồi trên pháp luật.
Pháp trị giúp giới hạn sự chuyên quyền và lạm quyền, giúp cho lãnh đạo sáng suốt và tạo ra được những chính sách khôn ngoan.
Các nước văn minh phương Tây đang đi theo thể chế pháp trị, tam quyền phân lập, và lấy báo chí là quyền lực thứ 4.
Như vậy, Pháp trị và Nhân trị khó mà đi với nhau.
Kỹ trị
Cuộc cách mạng KHCN phát triển mạnh mẽ cuối những năm 1950 đã làm cho một số người nghĩ đến dùng kỹ thuật để lãnh đao. Thế là thuyết Kỹ trị ra đời, lấy nhân tố “Vật” làm chính mà xem nhẹ nhân tố “Người”.
Phương pháp cai trị xã hội bằng giới khoa học kỹ thuật, là một xu hướng mới trong quản lý nhà nước hiện nay. Kỹ trị là việc đưa giới trí thức tinh hoa lên nắm quyền và áp dụng tri thức – kỹ thuật vào quản lý. Họ phải hội đủ hay yếu tố: hiểu biết về chính trị và thấu đáo về khoa học.
Nếu trong Hội nghị TW 7 vừa qua và được quyền bỏ phiếu bổ sung cho thành viên BCT, giữa anh Nguyễn Thiện Nhân và Nguyễn Bá Thanh, tôi sẽ chọn anh Nhân. Bởi đơn giản, anh là người thuộc phái Kỹ trị (Technocrat).
Chuyện nước mình
Ví dụ về khai thác Bauxit Tây Nguyên. Nếu như đó là dự án của các nhà Kỹ trị, thì phải được tính toán kỹ lưỡng về hiệu quả kinh tế và kỹ thuật tối ưu.
Tuy nhiên, bởi hệ thống chính trị quyết định, nên dự án này là sự mặc cả giữa các thế lực chính trị, xem thường yêu cầu hiệu quả kinh tế, để đổi lấy sự đồng thuận.
TBT, rồi Thủ tướng VN từng nói, khai thác Bauxit là một chủ trương lớn của đảng.
Hậu quả thiệt hại về kinh tế thế nào sau vài năm đã rõ. Sự thiếu vắng của giới Kỹ trị đã làm cho dự án đang bên bờ vực thẳm, chưa nói đến chuyện quốc phòng và an ninh quốc gia.
Vinalines, Vinashin và nhiều dự án lớn hàng tỷ đô la dựa trên quyết tâm chính trị nên cuối cùng thất bại, người ta chỉ chịu trách nhiệm…chính trị.
TBT Nguyễn Phú Trọng từng nghẹn ngào khi bế mạc Hội nghị TW 6 khi ông và BCT đã lấy chữ “Nhân” (Nhân trị) làm trọng, để giải quyết tham nhũng, làm trong sạch đảng, mà không phải là Pháp trị để thẳng tay với quốc nạn đục khoét đất nước.
Sau Hội nghị TW 7, kết quả thế nào cũng đã rõ. Sự nhóm lò của ông đã tắt ngóm sau nửa năm, hết mọi hy vọng về một cuộc “tắm rửa”.
Nhân trị, Pháp trị hay Kỹ trị luôn là câu hỏi lớn cho mỗi vị khi ngồi vào chiếc ghế quyền lực cao nhất. Mỗi thời, mỗi quốc gia, mỗi hoàn cảnh đều có lựa chọn riêng cho mình.
Những quyết định liên quan đến hàng chục hay hàng trăm tỷ đô la không thể bỏ phiếu bởi sự đồng thuận bằng cách giơ tay trên hội trường, nếu người bỏ phiếu không hiểu gì về kinh tế, môi trường và chỉ dùng ý chí giúp cho lá phiếu.
Đã dùng ý chí cho lá phiếu rồi, khi “ý chí” nhầm tai hại, chẳng ai lại bỏ phiếu tín nhiệm một cách công bằng nữa.
Không thể để Pháp trị ghi trong Hiến pháp nhưng ngoài đời lại dùng Nhân trị một cách không đến nơi đến chốn, chỗ này dùng luật khắt khe, ác độc, chỗ kia tha thứ vì bạn bè đồng chí, một cách tùy tiện.
Xu hướng thời nay, khoa học kỹ thuật, internet phát triển như vũ bão, không còn chỗ đứng cho những lãnh đạo không biết đến máy tính hay Google.
Giới Kỹ trị có học hành và hiểu biết thế giới phẳng với biển thông tin sẽ đóng vai trò đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, tụt hậu và dẫn dắt quốc gia đi lên.
Chủ nghĩa lý lịch, cơ cấu hay hạt giống đỏ… thế nào cũng lỗi thời, chẳng chóng thì chầy. Trong khi đó, Kỹ trị tinh hoa không thể móc trong túi ra là có ngay. Đó là một quá trình đào tạo qua vài thế hệ.
Nếu không hiểu những bài học vỡ lòng về “Trị” (Nhân, Pháp, Kỹ) và không biết rằng, công nghệ đang “Trị” thế giới, thì khó nói đến sự tồn vong của chế độ như chính các vị lãnh đạo cấp cao từng than trên truyền thông.
Hiệu Minh. 16-05-2013








Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
