Nguyễn Quang Lập's Blog, page 7
May 22, 2013
Đại biểu Quốc hội phê phán điều hành thị trường vàng của NHNN
Ông Hùynh Ngọc Ánh, đại biểu Quốc hội TPHCM đặt nhiều câu hỏi về cơ chế điều hành thị trường vàng của NHNN. Ảnh:TL
Đại biểu Quốc hội Huỳnh Ngọc Ánh (TPHCM) đã dành hầu hết phần phát biểu tại thảo luận tổ về tình hình kinh tế-xã hội sáng 22-5 để phản ứng về cách điều hành thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
“Báo cáo của Chính phủ cho rằng việc điều hành thị trường vàng theo cơ chế mới ổn định, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Báo cáo của Ủy ban Kinh tế (Quốc hội) nhận định điều hành thị trường vàng như thế còn dẫn đến nhiều ý kiến khác nhau. Chính phủ bảo cơ chế mới tốt. Vậy cơ chế mới là cơ chế gì?”, đại biểu Huỳnh Ngọc Ánh, hiện là Phó chánh án tòa án nhân dân TPHCM, đặt câu hỏi như thế.
Ông trả lời rằng phản ứng của xã hội cho thấy đó là cơ chế độc quyền. Ngay cả vấn đề ổn định tỷ giá do tình hình kinh tế đất nước ổn định chứ không phải nhờ cơ chế vàng ổn định.
“Cơ chế điều hành vàng mới đã tạo ra chênh lệch”, ông nói. Và ông phân tích rằng khi giải trình trước Quốc hội tại kỳ họp thứ 4 vào cuối năm ngoái, Thống đốc NHNN có hứa sẽ kéo giá vàng trong nước và giá vàng thế giới gần lại. Sau phiên giải trình đó 6 tháng, đến nay kết quả đạt được so với thiệt hại nhân dân phải gánh chịu, cái nào lớn hơn?.
“Người dân chịu thiệt nhiều hơn”, ông Ánh khẳng định.
Về vấn đề xuất nhập vàng, đại biểu này cho rằng đã tạm xuất tái nhập trên 10 tấn vàng dẫn đến chuyện phải tìm hiểu xem “doanh nghiệp nào được cấp quota tạm xuất tái nhập?”. Vì đây là tạm xuất tái nhập khối lượng vàng phi SJC. Ông Ánh băn khoăn về việc lấy đâu ra trong thời gian ngắn huy động được hơn 10 tấn vàng để tạm xuất kiểm định rồi nhập về. Ông đặt câu hỏi về chi phí tạm xuất tái nhập hơn 1 triệu đồng/lượng, chưa kể đến chi phí dập, đóng gói tạo ra chênh lệch ai được hưởng?
Song quan trọng nhất, theo ông Ánh: “Thống đốc và Chính phủ không thực hiện được nghị quyết của Quốc hội về việc kéo giá vàng trong nước và giá vàng thế giới thu hẹp khoảng cách”.
Ông cho rằng từ lúc Thống đốc giải trình đến nay, qua gần 20 phiên đấu thầu, giá vàng chênh lệch chỉ 3 triệu đồng nay khoảng cách là gần 6 triệu đồng/lượng.
“NHNN ấn định giá vàng để đấu thầu thì có thị trường vàng không? Hay NHNN thống lĩnh thị trường vàng”. Ông yêu cầu phải tìm được câu trả lời: Ai là người hưởng lợi?
Tính đến phiên đấu thầu thứ 20 của NHNN diễn ra sáng 22-5, NHNN đã bán ra tổng cộng 502.400 lượng vàng các loại, xấp xỉ gần 19,3 tấn, chủ yếu là giúp các ngân hàng thương mại huy động vàng tất toán tài khoản, đóng trạng thái ở thời điểm trước 30-6 theo quy định của NHNN.
Những phiên đấu thầu mới đây, các ngân hàng hầu như đã tất toán xong dư nợ huy động vàng nên nhu cầu mua vàng đấu thầu giảm xuống. Tuy nhiên, chênh lệch giá vàng trong nước và giá thế giới tính đến phiên đấu thầu sáng nay vẫn ở mức 5 – 6 triệu đồng/lượng.
[image error] [image error] [image error] [image error] [image error] [image error] [image error]

“Dân thấy sao cứ biết vậy đi”
Theo Chủ tịch Hội Thống kê Việt Nam, số liệu thống kê hiện nay ở nước ta luôn có hai số, một số dùng khi nghiên cứu sẽ chính xác hơn, và một số dùng để công bố công khai, con số này có thể bị tác động bởi nhiểu vấn đề.
Sau khi số thống kê tai nạn giao thông trong 10 ngày Tết vừa qua được công bố, với thống kê của Ủy ban ATGT Quốc gia là hơn 700 người thương vong do tai nạn giao thông, trong khi Bộ Y tế lại công bố có hơn 25.000 người nhập viện vì tai nạn giao thông trong 10 ngày Tết.
Đây không phải là lần đầu tiên các cơ quan của Việt Nam đưa ra các số liệu thống kê trái ngược nhau về cùng một vấn đề. Với thực tế đó, chiều 28/2 chúng tôi đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Tiến, Chủ tịch Hội Thống kê Việt Nam, nguyên Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Ông Tiến cho hay, số liệu thống kê hiện nay ở nước ta luôn có hai số, một số là để dùng khi làm việc với các chuyên gia, người nghiên cứu lâu năm, vì họ biết về con số, nên có thể số này sẽ chính xác hơn; còn con số dùng để công bố công khai, con số này có thể bị tác động bởi nhiểu vấn đề, có thể bị chỉ đạo, nên cũng có điều chỉnh.
“Như số liệu GDP, nếu thấp quá là phải tính lại cho cao lên, cái đó có. Nếu mời chuyên gia tới phân tích, sẽ có thể ra một con số khác, có thể không xa con số báo cáo, nhưng chắc chắn nó không phải con số trong các báo cáo đánh giá hàng năm”, ông Tiến dẫn chứng.
Hai số liệu cùng song hành
PV: – Theo ông, tiêu chí thống kê hiện nay đã được xây dựng chuẩn chưa? Phải chăng quy định thiếu, không rõ nên mỗi đơn vị thống kê một kiểu?
Ông Nguyễn Văn Tiến: – Cái đấy cũng có, như tôi được biết dự thảo Thông tư 01 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành hệ thống chỉ tiêu 4 cấp, gồm cấp trung ương (350 chỉ tiêu), cấp tỉnh, cấp huyện và cả cấp xã, phường. Cụ thể đấy, nhưng để đi được vào thực tế còn dài.
Nếu thực hiện đúng số liệu không qua sai, nhưng không đủ khả năng để làm như vậy, vì nhiều lý do, như lý do về chính trị đã bị ảnh hưởng, rồi lý do về nguồn lực…
Về mức độ chính xác, tùy từng con số phải có cách nhìn, phân tích khác nhau.
PV: – Số liệu công bố chuyên gia còn phải phân vân, còn người dân không biết gì, vậy làm sao để tin?
Ông Nguyễn Văn Tiến: – Cái đó thì người dân thấy sao cứ biết vậy đi. Biết làm sao được. Anh cứ bảo sai, nhưng làm sao có con số đúng được. Đành chấp nhận công bố bao nhiêu biết bấy nhiêu.
Có nhiều con số không thể thống kê chính xác được, như điện lực, xăng dầu lúc nào cũng bảo lỗ, ai biết thực hư thế nào, cũng chỉ có thể dựa vào báo cáo của doanh nghiệp đó, ngành Thống kê cũng không thể tiếp cận doanh nghiệp họ được. Nếu thanh, kiểm tra cũng chỉ gọi là tiếp cận được gần sát với thực tế thôi, phải chấp nhận điều đó.
Tôi nói ngay con số mà chục năm nay ngành thống kê khắc phục không được, đó là chỉ số GDP địa phương cao hơn trung ương. GDP trong báo cáo các tỉnh bao giờ cũng phải 2 con số, trong khi năm 2012, GDP cả nước chỉ có 5%, vậy mà nhiều người vẫn nói con số 5% là còn cao, khi kinh tế đang khủng hoảng.
Bệnh thành tích làm thống kê bị sai
PV : -Phải chăng bệnh thành tích đang chi phối tới các số liệu thống kê quá nhiều?
Ông Nguyễn Văn Tiến: – Bệnh thành tích quá đi chứ, nếu anh muốn làm lãnh đạo mà các chỉ tiêu không tăng trưởng, không phát triển, thì ai còn bổ nhiệm cho làm? Tổng cục thống kê biết nhưng không làm được gì, vì cũng chỉ là một cơ quan nhỏ của Bộ.
PV: – Các con số thống kê của Tổng cục thống kê có thể xem là chuẩn nhất nước và hoàn toàn tin tưởng được không?
Ông Nguyễn Văn Tiến: – Về mặt pháp lý đúng như vậy, làm chính sách cũng theo những thống kê đó, còn các bộ ngành, địa phương khác công bố thì số liệu chỉ để tham khảo. Luật thống kê đã quy định thế. Nhưng trên thực tế, các bộ ngành, địa phương vẫn tự công bố, biết vi phạm cũng không làm được gì.
PV: – Nhưng nhiều lĩnh vực Tổng cục thống kê phải sử dụng số liệu của cơ quan khác, các địa phương gửi lên, trong khi số liệu này đã không chính xác, vậy số liệu của Tổng cục thống kê cũng không hoàn toàn đúng?
Ông Nguyễn Văn Tiến: – Cái này cũng có, không thể nói đúng tuyệt đối được. Nhưng khi đã công bố, Tổng cục thống kê phải chịu trách nhiệm về số đó, và theo quy định, nó là số chuẩn nhất.
PV: -Có một số số liệu Tổng cục thống kê không tham gia thống kê, công bố, mà các bộ ngành, địa phương tự làm, trong khi họ bị ảnh hưởng bởi bệnh thành tích, vậy làm sao số liệu có thể chính xác và chính sách đưa ra sao có thể giải quyết được đúng vấn đề?
Ông Nguyễn Văn Tiến: Cái đấy phải hỏi lãnh đạo.
PV: – Ông đánh giá thế nào về mức độ ảnh hưởng của số liệu sai tới chính sách?
Ông Nguyễn Văn Tiến: – Số liệu sai thì chính sách đưa ra chắc chắn sẽ không đúng. Nếu sai số ở mức độ vừa phải thì cũng không hẳn quá xấu. Nhưng nếu sai mức độ lớn thì sẽ ảnh hưởng lớn.
PV: – Nếu so sánh mức độ chính xác số thống kê thời ông còn làm và hiện nay, ông thấy có thay đổi nhiều không?
Ông Nguyễn Văn Tiến: Đã thay đổi nhiều, tôi không phải chê hay tự khen mình, nhưng số thống kê ngày xưa tốt hơn bây giờ. Ngày xưa hệ thống thông tin cơ sở từ dưới lên tốt hơn giờ nhiều. Giờ nhiều cấp rất thiếu nghiêm túc trong thống kê, nhiều khi chỉ làm cho xong, nên nhiều số liệu có hạn chế.
PV: – Xin cảm ơn ông!








Thà chịu đau một lần

Khi con người tác động vào tự nhiên bao giờ cũng có 2 mặt được và mất. Đây là bài toán “trade off” đánh đổi, đòi hỏi phải làm sao cho cái được lớn nhất và cái mất là ít nhất. Làm việc thì đương nhiên có thành công và có thất bại, có công và kể cả có tội hay gọi là “lỗi” cho nhẹ. Việc khai thác bô xít đòi hỏi phải được thực hiện một cách bài bản, khoa học, cụ thể hóa việc khai thác tài nguyên một cách thiết thực, hiệu quả, phải gắn liền quy hoạch chiến lược và quy hoạch ngắn hạn một cách toàn diện, chặt chẽ vì cuộc sống của nhân dân và cũng vì thế hệ tương lai của con cháu chúng ta. Thực tế cho thấy sau thời gian dài thực thi, dự án thí điểm bô xít Tân Rai-Nhân Cơ đã bộc lộ hết các bất cập về chính trị kinh tế xã hội và môi trường, việc tính toán chưa được cẩn thận, toàn diện và trong cách tiếp cận với các ý kiến góp ý của các chuyên gia, các nhà khoa học và nhân dân còn nhiều khuyết điểm, hạn chế.
Có thể nói dự án bô xít là một dự án gây chia rẽ sâu sắc nhất trong lòng người dân Việt Nam chính vì nó liên quan đồng thời cả ba vấn đề sinh tử của đất nước: kinh tế, môi trường và quốc phòng an ninh. Ấy là chưa kể văn hóa Tây Nguyên bị bào mòn, bị xâm hại đến thế nào. Lối ra rẻ nhất và cũng là có lợi nhất cho đất nước là đình chỉ và tiến tới xóa sổ dự án bô xít Tây Nguyên.

Thư Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Quả thật, chuyện dự án bô xít Tây Nguyên gây nên sự bức xúc trong nhân dân, đã lên đến đỉnh cao trào và là phép thử thực sự cho tiến trình dân chủ của đất nước. Nhiều chuyên gia, nhân sỹ, trí thức và đông đảo nhân dân ở trong và ngoài nước đã đồng loạt kiến nghị Đảng và Nhà nước dũng cảm dừng dự án khai thác bô xít Tây Nguyên dựa trên nhiều phân tích sâu sắc ở các góc độ khoa học kỹ thuật, kinh tế, xã hội và môi trường rất khách quan và thuyết phục. Kiến nghị đó được sự đồng thuận và nhất trí rất cao của nhân dân. Kết quả thăm dò của Diễn đàn kinh tế Việt Nam VNR500 và báo Dân Trí có đến 96% người dân đồng ý dừng dự án bô xít Tây Nguyên. Đấy là con số sống động phản ánh ý dân, lòng dân không thể bỏ qua trong một xã hội dân sự, nhà nước pháp quyền.
Những bài học nóng hổi tính cách mạng, khẳng định bản lĩnh, vai trò lịch sử và tấm lòng vì nước vì dân của những người đứng đầu nhà nước vẫn còn đó. Quyết định kéo pháo ra khỏi Điện Biên Phủ ngay trước thời điểm nổ sung đã ấn định của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là tấm gương trung thực, dũng cảm, khẳng định trách nhiệm sắt đá với công sức và xương máu của nhân dân, của chiến sỹ bộ đội đã được hậu thế ghi tiếng thơm mãi mãi vào sử sách. Người dân luôn nhớ Tổng bí thư Trường Chinh đột phá tư duy, dám lật ngược vấn đề, truy đến cùng những hạn chế của mình và hệ thống bấy lâu nay để vạch lối thoát cho Đảng, cho đất nước – viết lại Báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ VI và quyết liệt tổ chức đổi mới, sau đó khẳng khái bàn giao lại cho thế hệ kế cận. Ngày nay toàn Đảng nhớ ơn ông, coi ông là ví dụ sinh động về con người vì nước vì dân, vượt lên hạn chế bản thân, hạn chế thời đại để phản tỉnh kịp thời trước tụt hậu và bế tắc của hệ thống, đưa đất nước sang trang mới và hoàn thành sứ mệnh lịch sử, chia tay đỉnh cao quyền lực thanh thản, ung dung.
Sau những chuyến đi thị sát tình hình, nghe báo cáo cụ thể từ các chuyên gia, các địa phương, Thủ tướng đã có quyết định sáng suốt tuyên bố quyết định không làm cảng Kê Gà. Nỗ lực giải quyết hậu quả và trọn vẹn vấn đề bô xít là một cố gắng được trông đợi của nhiều tầng lớp nhân dân bởi tính hệ trọng của nó. Trong tình hình khó khăn hiện nay, còn rất nhiều vấn đề khác cần đến sự tỉnh táo, quyết liệt và nỗ lực vì nước vì dân như thế của Thủ tướng.
Nếu bây giờ dừng dự án bô xít được và mất gì? Dừng các dự án khai thác bô xít ở Tây nguyên, thì Nhà nước (tức là tất cả mọi người dân Việt Nam) đành phải chịu thiệt hại phải trả tiền đã đầu tư. Đấy là khoản mất không mà người ta đã không tính toán cẩn trọng gây ra, nhưng cả dân tộc phải chịu và nên chịu. Thà chịu đau, nhưng còn hơn là sẽ phải chịu tổn thất nhiều hơn rất nhiều do lỗ, do tổn hại môi trường, an ninh quốc gia, và lòng tin của người dân. Cái mất là mất tiền đã đầu tư vào dự án, làm thất vọng những người trong cuộc, ủng hộ dự án, kể cả đối tác và quyền lợi của một số nhóm lợi ích. Cái được mà ai cũng nhận thấy là được lòng dân, không tiếp tục đổ tiền, lãng phí tiền thuế của dân vào một dự án không hiệu quả về kinh tế, tác động xấu đến môi trường, bất an về xã hội, phá hỏng nền văn hóa Tây Nguyên. Cái được ở đây còn là dịp để Đảng và Chính phủ dẹp loạn tham mưu và làm ẩu của nhóm người không nghĩ đến quyền lợi của dân tộc, của đất nước. Rà soát mục tiêu phát triển dự án, nếu quyền lợi dân tộc và đất nước được minh bạch và bảo đảm thì cũng là dịp cho những người lãnh đạo được vẻ vang với nhân dân.
Cách đây 3 năm trong bài “Được và Mất” dựa trên các luận cứ phân tích khoa học và thực tế, tôi đã kết luận “Lối ra rẻ nhất và cũng là có lợi nhất cho đất nước cho dân tộc là đình chỉ và tiến tới xóa sổ dự án bô xít Tây Nguyên.”. Cái gốc cuối cùng vẫn phải là dân chủ hóa xã hội để mỗi quyết định quan trọng của đất nước được đưa ra đều phải có chất lượng dựa trên một quy trình khoa học, chuẩn mực. Thiết nghĩ lúc này, việc cần làm không phải là tập trung phê phán ai, mà trên hết hãy tin tưởng và khích lệ Đảng và Chính phủ cùng xã hội một lần nữa cầu thị và trách nhiệm, cùng nhau nhìn thằng vào các kết luận độc lập trên các mặt khoa học và công nghệ, kinh tế và tài chính, văn hoá và xã hội đã được vạch ra, làm rõ quyền lợi trước mắt và lâu dài của dân tộc và đất nước, của đồng bào Tây Nguyên để kịp thời điều chỉnh lại đúng đắn dự án phiêu lưu đã qua đồng thời sửa chữa, hoàn thiện lại chiến lược phát triển kinh tế xã hội sao cho thực sự bền vững, hiệu quả đáp ứng mong đợi của nhân dân cho giai đoạn từ nay đến 2020 và tầm nhìn đến 2030.
TVT








Bản góp ý “dự thảo sửa đổi Hiến pháp” của ông Lê Hồng Hà
BVN:Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc bản góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992 của ông Lê Hồng Hà, người tham gia cách mạng từ trước 194
5, nguyên Chánh văn phòng Bộ Công an, Chánh văn phòng Bộ Nội vụ và Chánh văn phòng Ủy ban Khoa học xã hội, cũng là người sớm có những tư tưởng đổi mới mạnh mẽ và từng chịu những hệ lụy về nó trong một thời gian dài.
1. Qua nghiên cứu lại 4 bản Hiến pháp trước đây của nước ta, trừ bản Hiến pháp năm 1946 là đúng đắn, còn 3 bản Hiến pháp sau tuy có nhiều điều tốt, nhưng cả 3 bản (năm 1959, 1980, 1992) đều mang nặng đường lối cách mạng XHCN thể hiện thể chế chính trị chuyên chính vô sản (theo Nghị quyết của Đại hội Đảng III, IV, VI, VII) tức là rất nhiều sai lầm.
2. Nội dung đặc trưng của đường lối xây dựng CNXH ở Việt Nam có thể tóm lại:
- Về kinh tế: kế hoạch tập trung, phủ nhận kinh tế thị trường, quốc doanh là chủ đạo, xóa bỏ kinh tế tư nhân.
-Về chính trị: là thực hiện chuyên chính vô sản, Đảng lãnh đạo độc tôn và Đảng lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin là thống soái, cán bộ, đảng viên và thanh niên đều phải học tập CN Mác – Lênin.
Đến Đại hội VI, có đổi mới chút ít, nhưng chỉ là nửa vời và vẫn một mực kiên trì Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Qua thực tế của các nước trên thế giới, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN cuối thế kỷ XX, đã chứng minh CNXH là sai lầm, mô hình CNXH Xô -viết là sai lầm, thế nhưng Đảng ta vẫn một mực phải đề cao CN Mác – Lênin, kiên trì đường lối XHCN ở Việt Nam.
3. Do mấy chục năm qua cả nước ta đi theo con đường xây dựng chủ nghĩa sai lầm nói trên, nên đất nước ta lâm vào tình trạng suy yếu, xuống cấp về hầu hết các mặt của đời sống xã hội (không chỉ kinh tế mà cả chính trị, xã hội, văn hóa, đạo đức, v.v. ) và tụt hậu so với nhiều nước xung quanh, chủ quyền quốc gia bị xâm phạm. Chưa bao giờ lòng tin của dân đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Nhà nước ta thấp như ngày nay và tình hình nghiêm trọng tới mức trở thành nguy cơ lớn đối với sự sống còn của chế độ, của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nguyên nhân gốc rễ của tình hình ấy chính là do chế độ toàn trị của một đảng trên thực tế đang chi phối toàn bộ quyền lực Nhà nước và hệ thống chính trị đứng trên Nhà nước và pháp luật, đứng trên nhân dân, vô hiệu hóa nhiều quyền tự do, dân chủ đã được quy định trong Hiến pháp.
4. Để cứu đất nước ra khỏi tình trạng nghiêm trọng nói trên thì phải đổi mới căn bản thể chế chính trị, chuyển từ độc tài Đảng trị sang Dân chủ, mà sửa đổi Hiến pháp là cơ hội tốt, là bước đi đầu tiên mở đường cho đất nước đổi mới toàn diện, phát triển bền vững và bảo vệ chủ quyền quốc gia.
5. Đối với bản “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992” tôi thất vọng vì nó không góp phần đổi mới căn bản thể chế chính trị, mà cố giữ lại toàn bộ những sai lầm của các bản Hiến pháp trước đây, nó không thể là cơ sở để xây dựng một bản Hiến pháp mới thực sự là của nhân dân.
6. Trong thư này, tôi đề nghị cụ thể một số vấn đề về nội dung:
a/ Không nên dùng cụm từ Nước CHXHC Việt Nam, mà nên dùng từ ông Hồ đã dùng: Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa…, vì mô hình XHCN là một mô hình sai lầm.
b/ Không nên đề cao chủ nghĩa Mác- Lênin, vì đó là một học thuyết sai lầm, không nên nói “dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin”.
c/ Bỏ điều 4 nói về sự lãnh đạo của Đảng cộng sản vì Đảng chưa xứng đáng lãnh đạo việc xây dựng và phát triển đất nước (chưa kể những chính sách sai lầm như cải cách ruộng đất, cải tạo XHCN, đàn áp Nhân văn Giai phẩm), v.v.
d/ Quân đội phải trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân, không được nêu quân đội trung thành với Đảng.
e/ Không nên đặt vấn đề Hiến pháp nước ta phải thể chế hóa cương lĩnh xây dựng CNXH của Đảng cộng sản Việt Nam.
L.H.H.








Ngẫu hứng Trần Tiến 15
Trần Tiến
Trong bữa rượu nhỏ, bạn bè tổ chức bên ghềnh đá Vũng Tàu mừng anh 67 tuổi, lần đầu tiên , anh cảm thấy một ngày sinh nhật hạnh phúc. Hì, đàn ông thì khoái cái gì vụ sinh nhật. Nhưng có một cú mail gửi vào phone, báo rằng ban nhạc vừa thu xong bài “Cao Nguyên Đá” anh nghe để duyệt. Nghe xong anh cứ bần thần như cái thằng mất cái gì đó. Duyệt cái con mẹ ! Cỡ chúng nó anh duyệt thì có. Hay lắm em ạ. Anh gửi em nghe thử.
Nhiều khán giả than phiền với anh, nhạc bây giờ nghe..”tai này qua tai kia”. Anh trả lời : Thế giới cũng vậy, nữa là mình. Hôm nay anh đã nghĩ khác. Vẫn còn những người trẻ tuổi rất hay.
Nhớ một câu ai đó nói: “ Thế giới này không tàn mãi đâu, trong khu rừng chảy tàn tạ kia, thế nào cũng có một vài mầm sống còn sót lại. Ngày mai sẽ thành rừng. Thậm chí là rừng già. Thế nào cũng có những đứa trẻ kiến tạo lại thế giới âm nhạc đã mất. Ngày càng có nhiều kẻ đánh mất đi nhân phẩm, thì lại sẽ có một ít người lưu giữ lại tất cả những phẩm giá đã mất đi đó.
Tay chơi guitar của ban nhạc gọi anh là ông ngoại. Ngẩn ra một lúc mới nhớ ra, đúng rồi. Cháu ngoại chơi nhạc hard rock bài ông mới sáng tác, tặng ông. Cả ban nhạc là thế hệ 9x. Anh giả vờ quát: Sao dám cắt hai nốt nhạc của ông. Nó hì hì cười, bảo: cho ông đỡ già. Nghe “ghét” nhỉ.
Chợt nhớ lại cái ngày thế hệ đàn em: Sỹ Thanh mà Mary Linh ra khuấy đảo Hà Thành êm ả bằng lối hát rock và jazz bài “ Điệp khúc tình yêu” của mình. Phục và Sướng..tê người. Rồi đến thế hệ cháu, Hà Trần gửi về tặng chú nhân ngày sinh thứ 60 CD Trần Tiến, chú nó nghe hàng tiếng đồng hộ, tự sướng. Bây giờ lại đến thế hệ cháu gọi bằng ông. Anh sống khốn nạn như con chó, chỉ được cái sướng, người ta đồng cảm hát và nghe nhạc mình. Chết được rồi, Lập à.
Nói vậy, chứ anh chưa sẵn sàng chết.
Anh có mấy thằng bạn thơ nghèo như con chó rách: Lưu Quang Vũ, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật,…Nhiều lắm, nhớ chẳng hết. Chúng nó nghèo nên thương thằng nghèo mà chưa nổi tiếng. Nó động viên anh làm nhạc. Đến khi anh nổi tiếng rồi. Chưa có thằng nào nhờ anh phổ thơ. Thế gọi là … bạn. Bây giờ, lần đầu tiên anh tập phổ thơ, mà lại là thơ của một ông thứ trưởng trẻ tuổi. Bài “ Cao nguyên đá” là thơ của ông ta. Nhà thơ Trần Tuấn Anh, là con trai của bác Trần Đức Lương hình như ngày xưa… làm to lắm.
Lạ nhất là, ông thứ trưởng này lại biết thương dân. Khi đi công cán qua núi đá nghèo Hà Giang. Cảm tác mà thành bài thơ nhân ái. Chuyện như cổ tích.
Nếu bài này thành công, anh sẽ lục lại thơ bạn để phổ. Ưu tiên hai thằng đã thôi cuộc rượu. Anh tự thấy mang nợ với bạn bè thi cả của mình. Nhưng anh sợ lắm. Thơ chúng nó hay, mà mình phổ dở, nó hiện về, nó bóp cổ mình.
Phổ thơ khó lắm, chỉ trong nghề mới biết. Có loại thơ để đọc, có loại để ngâm, có loại chỉ để nhìn, đọc lên hay ngâm lên là hỏng bét. Còn loại thơ để hát thì chỉ có nhạc Trịnh tự phổ thơ mình thôi. Nhớ có lần nhạc sỹ Thanh Tùng đùa trêu ai đó: “Ông phổ thơ thế này, phải gọi là “Ngâm thơ tân kỳ” chứ không phải là nhạc, nếu bỏ lời đi, thì chẳng hiểu nó là cái gì.” Thanh Tùng cũng chưa phổ thơ ai bao giờ.
Trên đời anh chỉ phục anh Hoàng Hiệp, Lê Yên và vài người nữa. Phổ thơ hay cực. Thế mới biết phổ thơ là một nghề. Sự kết hôn tài tình giữa nhà thơ và nhạc sỹ.
Ở Tây không có chuyện đó. Lời của họ không có dấu sắc, huyền, hỏi..Muốn hát kiểu gì, vẫn nghe được lời. Một bài hát tuyệt vời của người Việt: “Buổi sáng em lên rẫy..” Các bạn thử hát đúng nốt xem. Con gái Bắc kỳ sẽ hét lên ,bậy quá, bậy quá…
Anh cũng lại sợ , phổ thơ xong, người ta mang thơ bạn mình vào quán Karaoke, bia ôm để hát như “Thuyền và biển”, kể cả vừa ôm gái vừa hát “ Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân”thì thôi rồi. Anh cũng được may mắn và đau lòng góp vào thế giới “bia ôm ca” hai bài : “Sao em nỡ vội lấy chồng “ và “ Tuỳ hứng Lý qua cầu” đấy. Nhớ ngày nào, cụ nhạc sỹ Nguyễn xuân Khoát khuyên anh : Một bài hát hay khi ra đời chưa nhiều người biết nó hay. Thời gian sẽ thử thách, nếu nó hay, tự nó sẽ sống, không cần quảng cáo. Những bài hát đang nổi tiếng phát ra rả trên đài truyền thanh ( ngày đó có cái đài này) chưa chắc sẽ sống lâu đâu, con à .
Anh chỉ mong bài phổ thơ “Cao nguyên đá” này không bị “ vào tai này ra tai kia”, không bị đưa vào bia ôm( anh tính rồi), viết theo kiểu nhạc rock, đố ai hát được ở nơi các em nạ dòng chỉ thích tỷ tê.. nhạc sến.
Hơn nữa, bản nhạc của anh đã được những người rất trẻ chắp cánh. Ban nhạc Ngũ cung. Anh thấy mình thật hạnh phúc.
Cao nguyên đá
Thơ Trần Tuấn Anh
Kìa bát ấu tẩu, nằm trên triền núi,
Dằn lòng một chiều cuối đông
Kìa bát ấu tẩu sưởi ấm con người
Một đời rừng già , núi cao
Mênh mông đá, cao nguyên ơi
Cao nguyên đói, mênh mông đá.
Hạt ngô nảy mầm vượt lên sỏi đá
Bật dậy, bật dậy nghiến răng
Hạt ngô nảy mầm, thương bé H’mông
Đợi một mùa vàng ngóng trông
Mênh mông đá, cao nguyên ơi
Cao nguyên đói, mênh mông đá.
Biết làm gì, và sẽ làm gì
Ngẩng lên, ngẩng lên chỉ thấy đá
Cúi đầu cắm mặt, đá quê hương
Vẫn vẹn toàn cuộc sống trường tồn








Trấn áp chỉ đưa chế độ đi tới sụp đổ!
Ông Hồ Ngọc Nhuận coi cách thức tiến hành vụ xử án Nguyễn Phương Uyên – Đinh Nguyên Kha ở Long An là một việc làm ô nhục. Luật sư Lê Hiếu Đằng coi bản án dành cho vụ này thể hiện xu hướng phát xít hóa của chế độ. Trong vòng chưa đầy 24 giờ hàng nghìn người có lương tri sống ở trong nước và ở nước ngoài đã ký tên vào Lời kêu gọi ngày 20-05-2013, nội dung: phản đối bản án đánh vào lòng yêu nước của hai sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, và đòi trả lại tự do cho họ ngay tức khắc. Dư luận tiến bộ trên thế giới bầy tỏ sự bất bình về bản án, đồng thời cảnh báo việc xử án như vậy cho thấy sự vi phạm ngày càng nghiêm trọng Công ước về Quyền con người mà Chính phủ Việt Nam đã ký kết tham gia.
Không thể nói khác, bản án Long An ngày 16-05-2013 kết tội tổng cộng 14 năm tù dành cho hai thanh niên yêu nước Uyên và Kha mang tính khủng bố. Bản án này là bước leo thang mới tiếp theo các bản án trước đó dành cho những người yêu nước có hành động biểu thị chính kiến một cách ôn hòa và đã bị kết án tù đày trong những năm vừa qua.
Điều vô cùng tệ hại là bản án Long An ngày 16-05-2013 trên thực tế đã trực tiếp đánh vào khát vọng tự do và tinh thần yêu nước của của thanh niên cả nước ta.
Đấy là bản án muốn khuất phục và nô dịch hóa giới trẻ, để phục vụ cho việc củng cố, bảo toàn chế độ hiện hành. Thử hỏi, trước những thách thức mất còn đất nước đang phải đối mặt, chúng ta không dựa vào thanh niên trong sự ngiệp xây dựng và bảo vệ đất nước thì sẽ dựa vào ai? Đánh vào thanh niên như thế không phải là trực tiếp đánh vào đất nước?
Tại Hội nghị Trung ương 7 khóa XI, lãnh đạo ĐCSVN coi “công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược…, – nhấn mạnh – …đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận là rất cần thiết trong tình hình hiện nay…”, đồng thời “hoan nghênh và cảm ơn đồng bào, chiến sĩ cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài đã nhiệt tình hưởng ứng, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992… So với bản dự thảo được công bố, đã có rất nhiều ý kiến của nhân dân được tiếp thu, tập trung vào nhiều vấn đề quan trọng…” Trong bối cảnh như vậy, bản án Long An ngày 16-05-2013 bóc trần sự khác biệt đen/trắng đối chọi nhau giữa những lời nói tốt đẹp này và sự thật đầy không khí trấn áp của bản án Long An. Sự thật cũng cho nhân dân cả nước thấy: Ngày 17-05-2013 Ủy ban Dư thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã đưa ra phiên họp Quốc hội lần này bản dự thảo mới, với nội dung về cơ bản vẫn giữ nguyên như cũ những điều quan trọng nhất trong Hiến pháp 1992. Vân vân…
Không thể không đặt ra những câu hỏi:
- Nói và làm đối nghịch nhau sống sượng như vậy, phải chăng những người nắm thực quyền trong ĐCSVN tin rằng có thể đánh lừa được nhân dân, để tiếp tục xiết chặt quyền lực mình đang nắm giữ?
- Làm như thế, đất nước sẽ giữ vững được chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đất nước sẽ tiếp tục phát triển?
- Nói và làm đối nghịch nhau như thế, phải chăng những người có thực quyền trong ĐCSVN dứt khoát vứt bỏ con đường hòa bình cải cách thể chế chính trị đang được mở ra qua việc sửa đổi hiến pháp lần này?
- …
Không phải những gì Uyên và Kha đã làm và đã bị kết án một cách tàn bạo, mà là chính bản án Long An 16-05-2013, chính những bản án Long An như thế tiếp nối nhau trong suốt những năm vừa qua, cùng với sự bất nhất giữa nói và làm của những người có thực quyền trong ĐCSVN, đang từng ngày từng giờ uy hiếp sự tồn vong của đất nước!
Hiển nhiên, trấn áp như thế đang đấy chế độ hiện hành đi tiếp tới chỗ sụp đổ, hầu như chắc chắn với thảm kịch đẫm máu. Nhân dân cả nước hãy cảnh giác!
Các bậc cha mẹ trong cả nước, xin hãy cùng nhau bảo vệ và hậu thuẫn khát vọng tự do và tinh thần yêu nước của con em chúng ta!
Hà Nội, ngày 22-05-2013








Lương trên 9 tấng giời, lỗ dưới 3 thước đất
Vào buổi chiều ngày thứ 2 của phiên họp Quốc hội, các ĐBQH mắt phải đọc một báo cáo kiểm toán tràn đầy bi thảm về chuyện lỗ, nợ, nguy cơ mất vốn của những “quả đấm thép”, trong khi miệng vẫn phải bàn để giảm từng đồng thuế GTGT, thuế Thu nhập DN hòng cứu vãn các DN chủ yếu thuộc khối phi Nhà nước. Quả là nan giải.
Nan giải ở chỗ 23/27 tổng công ty, tập đoàn kinh tế báo cáo “lãi”, nhưng đồng lãi, so với một gang tay thống kê những lợi thế, nó bèo bọt đến mức tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu chỉ đạt dưới 5%. Mọi sự so sánh đều khập khiễng. Nhưng cho dễ hiểu, chỉ cần biết là mang tiền đi gửi ngân hàng thì lợi nhuận thu về hơn đứt hoạt động kinh doanh của các quả đấm thép.
Nan giải ở chỗ, tuy không phải là ngân hàng, nhưng tổng nợ phải thu của các TĐ, TCT lên đến 54.133 tỷ đồng, tức chiếm 20,56% trên tổng tài sản và 82,97% trên vốn chủ sở hữu. Khoản nợ xấu này được cho là cao. Nguy cơ mất vốn lớn. Và hầu hết đều từ những nguyên nhân chủ quan mà có lẽ, không một DN phi nhà nước nào phạm phải. Chẳng hạn: Ứng trước tiền mua hàng với số lượng lớn nhưng không áp dụng các hình thức bảo lãnh, bảo đảm cho tiền ứng trước dẫn đến nguy cơ mất vốn; chưa phân loại nợ làm cơ sở trích lập dự phòng…Thậm chí, “cho các đơn vị, cá nhân vay vốn trong khi đang (cũng) phải đi vay vốn để sản xuất kinh doanh”…
Không nan giải không xong khi tổng các khoản đầu tư tài chính của các TĐ, TCT trong diện kiểm toán lên tới 25.750 tỷ. Con số đầu tư khổng lồ này nhận lại một “hiệu quả” y như “hậu quả”: Nhẹ thì hiệu quả thấp, nặng thì thua lỗ, mất vốn.
Nhưng hiệu quả thấp, lỗ vốn, nợ và bị nợ, đầu tư ngoài ngành đâu phải có gì là mới. Sự cố hữu đến mức giống như một cái tật, một căn bệnh thâm căn cố đế, không thể thay đổi. Nói nữa, nói mãi, nhưng cứ đụng đâu là phạm đó.
Hôm qua, khi phát biểu về việc giảm thuế, ĐBQH Trần Du Lịch nói không ít ngậm ngùi: “DN hiện còn gì để quan tâm đến thuế thu nhập DN là bao nhiêu!” Chưa kể đến việc “Các công ty kiểm toán mà đoàn ĐBQH Thành phố mời tham gia góp ý cho Luật nói 25% là thuế danh nghĩa, chứ còn nhiều khoản DN thực chi những không được khấu trừ. Thực tế phải 27%”.
1-2% thuế thu nhập đang được các ĐBQH “đấu tranh” để cứu DN, trong một thực tế ở đầu tàu kinh tế của cả nước, chỉ “chưa tới 30% DN còn có khả năng đóng thuế”, trong lời than giời về việc không tiếp cận được vốn. Và một thực tế khác là không ít trong các quả đấm thép một mặt hoạt động chủ yếu bằng nguồn vốn vay và chiếm dụng, một mặt đem vốn ném vào “sòng bạc” có tên là “chứng khoán”.
Phải nói cho hết nhẽ là trong khi gần 200.000 DN phải trả giá cho sự thua lỗ của mình bằng bi kịch “đi nước ngoài chữa bệnh” hoặc bằng toàn bộ tài sản cả đời tích cóp thì không ít các tác giả của sự thiếu hiệu quả, thua lỗ, nợ nần và bị nợ nần của các DNNN đang được hưởng những mức lương trên trời. Lãnh đạo Vinafood2 chẳng hạn: Hưởng mức lương 79,749 triệu đồng/tháng, trong khi nợ phải trả trên tổng nguồn vốn lên tới 65%, trong khi lợi nhuận sau thuế nhờ những mức lương khủng này, là 113 tỷ đồng. 113 tỷ, nhưng là giảm chứ không phải là tăng.
Hình như muốn cứu DN nói chung, cần một lẽ công bằng về nhân-quả, bắt đầu từ DNNN.








“Không, tôi không cần sự khoan hồng”
Alvaro Marino (1959-1981?) là một sinh viên văn khoa ở đại học La Habana và là một nhà thơ trẻ. Từ năm 1979 đến 1980, Alvaro đã bị công an tạm giữ và thẩm vấn nhiều lần vì “thái độ chính trị”. Ngày 11 tháng 3 năm 1981, trong khi đang dán một tấm bích chương chống chế độ độc tài Fidel Castro, anh đã bị bắt bởi một nhóm người mặc thường phục. Alvaro Marino vĩnh viễn mất tích kể từ đó.
Ofelia González, người yêu của anh, còn giữ được cuốn nhật ký của anh, trong đó có một số tuỳ bút và 3 bài thơ. Cô đã lén gửi cuốn nhật ký ấy ra nước ngoài, và sau đó, bài thơ “No, yo no necesito el perdón” [“Không, tôi không cần sự khoan hồng”] đã được đăng trong tuyển tập Los poetas cubanos disidentes [Những nhà thơ bất thoả hiệp ở Cuba] do Xavier Mudarra biên tập, xuất bản tại San Martín, Peru, năm 1992.
Không, tôi không cần sự khoan hồng
Nếu ngày mai bọn chúng đến đây bắt tôi,
tôi sẽ không cần tự biện hộ,
tôi sẽ không cần ai biện hộ cho tôi,
tôi cũng không cần một gã luật sư công chức
- kẻ chỉ biết đứng trước toà và nói: “Xin hãy khoan hồng…”
Không, tôi không cần sự khoan hồng
vì tôi không có tội.
Tôi chỉ khao khát sự tự do cho đất nước này
và tôi sẵn sàng chết cho điều đó.
Hãy treo cổ tôi lên với bản án: “Đây là kẻ ngoan cố
- kẻ đã dám khao khát tự do.”
Ở đất nước này mọi bản án đều đã được viết sẵn
và đã được để sẵn trong hộc bàn của những quan toà.
Lũ hèn nhát sẽ lấy một bản án ra và điền tên tôi vào,
và tôi sẽ nghe bọn chúng đọc thuộc lòng
những ngôn từ mà mọi người đều đã biết.
Không, tôi không cần sự khoan hồng cho tôi,
vì tôi cũng sẽ không khoan hồng cho bất cứ kẻ nào
dám giẫm đạp lên sự tự do như giẫm đạp lên rác rưởi.
Không, tôi không cần sự khoan hồng.
Ở đất nước này mọi bản án đều đã được viết sẵn.








Việt Nam: giữ tên nước sẽ bỏ qua thời cơ?
Một buổi tưởng niệm các tử sĩ Hoàng Sa do ông Lê Hiếu Đằng tổ chức. (Credit: ABC)
Không trình Quốc hội phương án đổi tên nước trong kỳ họp từ ngày 20/5 đến 22/6. Ông Phan Trung Lý, chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật, ủy viên ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cho biết trong ngày khai mạc kỳ họp.
Trước đó tại buổi họp báo vào chiều ngày 17/5, ông Nguyễn Hạnh Phúc, chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội đã thông báo sẽ đưa việc sửa đổi tên nước ra bàn thảo trong kỳ họp lần này.
Ông Lê Hiếu Đằng, cựu phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh khẳng định: “Việc đổi tên nước là thời cơ rất lớn để thay đổi một số điều trong hiến pháp, làm đòn bẩy cho sự phát triển của đất nước. Nếu vẫn như cũ thì rất tiếc, thời cơ qua đi.”
Qua việc kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII không đưa phương án đổi tên nước ra bàn thảo, ông Đằng đã dành cho Radio Australia () buổi phỏng vấn.
Radio Australia (RA): Thưa ông, Việt Nam có nên thay đổi tên nước vào lúc này?
Ông Lê Hiếu Đằng (LHĐ): Theo tôi, nguyện vọng chung của người dân qua tham dò và góp ý về hiến pháp phải xác định rằng, lúc này không phải là giai đoạn xã hội chủ nghĩa (CNXH). Và cũng không có giai đoạn đó, đây chỉ là ảo tưởng thôi. Nhưng lại đặt tên nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam là không trung thực với người dân và không đúng với tính chất của tình hình đất nước hiện nay.
Vì vậy việc thay đổi tên nước lúc này hợp với lô-gich, đúng với thực tế. Chính não trạng của một số vị sợ thay đổi, không thấy rằng thay đổi sẽ lợi rất nhiều, trong nước cũng như với tình hình thế giới.
Bản thân tôi không tin việc sửa đổi hiến pháp năm 1992 sẽ có bước chuyển gì ghê gớm, hay mới cả. Một việc dễ như đổi tên nước mà vẫn không có được, huống gì Điều 4 và một số điều khác. Thành ra tôi cho rằng cái này do đầu óc bảo thủ, không muốn đổi mới đã ngăn cản sự thay đổi hiến pháp và từ đó sẽ cản trở sự phát triển của xã hội, đất nước Việt Nam.
Quan điểm của tôi không trông chờ vào quốc hội, mặt trận, chính phủ gì hết, mà người dân phải xây dựng xã hội dân sự đủ mạnh để tác động đến. Đây là hướng phải làm, như vậy mới sự thay đổi nào đó.
RA: Đặt lại tên nước, theo ông nên lấy tên nào để hợp lý nhất vào lúc này?
LHĐ: Khuynh hướng chung không muốn có sự xáo trộn nhiều, thì trở lại lấy tên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và hiến pháp năm 1946 sẽ hợp lý nhất. Hiến pháp năm 1946 có nhiều tiến bộ, cũng khỏi phải suy nghĩ thế này thế kia, thuận lợi hơn, được nhiều người chấp nhận, thống nhất hơn.
RA: Việc trở lại dùng tên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa liệu có đúng bản chất của chính trị hiện tại, phát triển tương lai của đất nước, cũng như việc hòa giải dân tộc?
LHĐ: Thực tế là thể chế cộng hòa, thêm chữ dân chủ vào cũng không sao cả. Năm 1946, quốc hội thể hiện sự đoàn kết dân tộc với nhiều đảng phái, phe phái. Thậm chí nhường 70 ghế cho các đảng phái khác. Thành ra lấy tên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa dễ chấp nhận, tạo sự đồng thuận lớn hơn.
Lấy tên Việt Nam Cộng Hòa thì sẽ kẹt. Vì nhiều người nghĩ trở lại chế độ Sài Gòn trước 1975, sự đồng thuận không cao. Đứng về mặt hợp lý thì thêm chữ dân chủ không có gì là tai hại cả.
RA: Với suy nghĩ của ông việc thay đổi tên nước có làm thúc đẩy nhanh quá trình dân chủ trong nước và hội nhập với thế giới?
LHĐ: Tôi nghĩ là vậy. Vì thế giới có còn nước nào XHCN nữa đâu. Ngay cả Trung Quốc cũng vậy. XHCN chỉ là ảo tưởng mà thôi. Mình cứ duy trì mãi nó không đúng sự thật. Do đó trở lại Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sẽ phù hợp với xu thế tiến bộ trên thế giới. Về mặt ngoại giao dễ chấp nhận hơn.
RA: Tên nước hiện nay được chọn vào ngày 2/7/1976, theo ông có phải đã vội vã và bắt chước nhiều nước XHCN lúc đó?
LHĐ: Đây là việc làm hết sức vội vã. Vì đặt tên nước mà không trên cơ sở nghiên cứu kỹ và phân tích tình hình thực tế của Việt Nam.
Ngay cả nước Lào vẫn giữ như cũ. Ngay cả Trung Quốc vẫn lấy tên Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Chỉ có Việt Nam có tên Cộng Hòa XHCN Việt Nam đi ngược lại trào lưu hiện nay.
Ngay cả các nước giống với nhà nước Việt Nam, với bản chất toàn trị, thì người ta cũng khôn ngoan hơn. Việt Nam lấy tên XHCN không có nghĩa gì và không phù hợp với tình hình đất nước hiện tại.
RA: Tên nước hiện tại có gây bất lợi cho Việt Nam trong ngoại giao quốc tế?
LHĐ: Trước hết với nhân dân Việt Nam tên nước hiện tại không chính danh. Làm gì cũng phải chính danh, không sẽ trở thành lừa người dân. Bởi vì đâu có phải XHCN mà gọi là Cộng Hòa XHCN Việt Nam. Do đó chính danh thì bản chất nó như thế nào thì đặt đúng tên như thế đó. Chứ không thể bản chất thế này đặt tên thế khác làm cho mơ hồ, không tin tưởng, người ta cười.
XHCN gì mà hiện nay vẫn còn quá nhiều lộn xộn, vẫn đủ thứ chuyện. Y tế, giáo dục thu tiền tràn lan, đạo đức xuống cấp.
RA: Thực tế nhiều quốc gia tên gọi có tên “dân chủ”, “nhân dân” lại hay vi phạm những nguyên tắc cơ bản về dân chủ, vậy theo ông tên nước có cần để những mỹ từ trên?
LHĐ: Quan trọng nhất là thể chế cộng hòa, còn cái đuôi dân chủ, hay nhân dân cũng có thể chấp nhận được. Bản chất chế độ cộng hòa chứ không phải XHCN. Nói đến XHCN là nói đến nhà nước toàn trị. Còn chế độ cộng hòa có lưỡng viện, thế này thế kia, dân trực tiếp bầu, đảng phải đặt trong pháp luật, chứ không phải như hiện nay.








Đất nước ổn định?
Ở các nước tư bản có trộm cắp, có biểu tình phản đối chính sách chính quyền, có giết người… như ở Việt Nam. Ở Đức này xe đạp mà không khóa cũng bay luôn không biết khi nào. Túi xách để trong ô tô coi chừng cửa kính xe bị đập vì cái túi. Đa số bọn ăn cắp là dân lang thang kiểu di gan, những người ăn bảo trợ xã hội, không muốn đi làm chỉ rượu bia lướt khướt rồi ra đường ăn xin hay đi trộm cắp. Một số dân châu Á (nước nào thôi chả nói rõ, cứ nói chung chung cho lành) sang châu Âu cũng làm những việc chẳng khác gì dân di gan. Nhưng ít ra dân châu Á còn chịu khó làm hơn dân di gan, có điều họ làm ẩu hoặc làm tắt cho đỡ mất công sức, bỏ qua những quy định về an toàn này nọ. Mấy cái việc đó cũng gây ra lắm chuyện ảnh hưởng đến an ninh trật tự đời sống.
Chả bao giờ thấy chính quyền phương Tây, các chính khách phương Tây đăng đàn ba hoa tự ca ngợi là chính trị ở nước họ ổn định, an ninh trật tự ổn định cả. Chắc vì họ thấy đất nước họ còn nhiều điều chưa được vẹn toàn cho lắm, bởi chuyện mất cắp, biểu tình, giết người, làm hàng giả, ăn xin… vẫn còn xảy ra.
Nhưng ở phương Tây điểm xem nước nào mà một năm phải đưa ra tòa xử hàng chục người vì tội chống chính quyền, âm mưu lật đổ chính quyền, tuyên truyền chống phá chính quyền như ở Việt Nam?
Phải chăng bọn cảnh sát, an ninh phương Tây vì không khám phá ra nhiều vụ chống chính quyền như ở Việt Nam, nên bọn lãnh đạo phương Tây nó không dám công nhận là nước nó ổn định chính trị. Chừng nào an ninh phương Tây phải bắt bọn chống chế độ nhiều như ở Việt Nam, chừng ấy bọn Tây mới dám vỗ ngực là nước nó ổn định chính trị và cho đó là công lao, là niềm tự hào.
Thôi! cái bọn tư bản thối nát không bàn làm gì, chúng cũng đã biết nhục mà không dám nhận mình là đất nước ổn định chính trị, cũng bỏ qua cho chúng. Người Việt nói chuyện Việt vậy.
Nhìn xem những vụ xử chống chính quyền ở Việt Nam là những ai? Hòa thượng, Linh mục, Tu sĩ, nhà văn, nhà thơ,nhà báo,nhạc sĩ, giáo sư, kỹ sư,tiến sĩ, nhà giáo, sinh viên, nông dân, doanh nhân, công nhân, người già, thanh niên, phụ nữ… cựu chiến binh thậm chí là cả quan chức nhà nước. Đủ mặt mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2013, trong vòng chưa đầy nửa năm, các bản án cho người chống phá, tuyên truyền chế độ ở Việt Nam lên đến 100 năm tù. Kỷ lục nhất trên thế giới này về số người chống chính quyền và số năm tù phạt người vì tội chống chính quyền chưa? Nước nào trên thế giới này sánh được điều đó, trừ người anh em hữu nghị Trung Quốc. Còn nếu tính theo tỷ lệ dân số thì người anh Trung Quốc có khi còn nghiêng mình bái phục đàn em Việt Nam về những án tù cho người bị kêu tội danh “chống phá chính quyền”.
Vậy thử hỏi sự ổn định chính trị ở Việt Nam là do “tuyệt đại đa số dân chúng tin tưởng vào giai cấp lãnh đạo” hay là “tuyệt đại đa số những ai không tin vào giai cấp lãnh đạo mà bày tỏ sự bất tin tưởng này đều bị trừng phạt bằng những án tù rất nặng”.
Xem trong nhiều phản hồi trên báo chí Việt Nam về vụ xử hai sinh viên Uyên, Kha vừa rồi. Mới thấy sự hăng say bảo ổn định chế độ, bằng củng cố niềm tin hay là bằng bạo lực, bằng trừng phạt? Thậm chí một kẻ tư xưng là sinh viên năm thứ ba đã kêu gào như thế này trên báo Người Lao Động.
“Nguyễn Hoàng Nguyên Huy
1
17/05/2013 01:35
Là một sinh viên năm thứ 3 mà cái nhận thức về quá kém. Mà cái nhận thức đó còn thua các cháu thiếu nhi nữa. Và cũng tiết thương công sức cha mẹ cho ăn học mười mấy năm trời mà cái nhận thức càng kém đi. Tôi cũng xin đề nghị Bộ Công an cần kiến nghị nhà nước ta tăng mức hình phạt đối với tội tuyên truyền chống phá Nhà nước thật cao để răn đe và làm gương cho những người khác. Hình mức phạt này còn quá thấp chưa răng đe người khác được.”
Tinh thần của cậu sinh viên này là điều quan trọng mà báo chí cần nhấn mạnh. Đó là kêu gào xử tù nặng hơn nữa với những sinh viên cùng trang lứa với cậu ta vì tội nói xấu Đảng, nói xấu Trung Quốc. Nhưng qua phản hồi của cậu sinh viên này được báo đăng, cho chúng ta thấy một điều là những biện pháp khắc nghiệt, dã man luôn luôn được ưu ái dùng đến trong cái gọi là bảo vệ ổn định chính trị. Đến một cậu sinh viên cũng khát khao đòi hỏi tăng án tù cho bạn mình, một xã hội quá nhân bản!!!
Không thấy phản hồi nào nói đến chuyện ổn định chế độ bằng củng cố niềm tin, bàn bạc đi đến đồng thuận… chỉ có những kêu gào đầy hứng chí và hả hê là xử nặng hơn nữa, trừng phạt tàn bạo hơn nữa để kẻ khác sợ không dám màng đến chuyện bày tỏ bất đồng với chính quyền.
Đất nước chưa đầy nửa năm có đến 20 người thanh niên ra tòa vì tội chống phá chế độ, chính quyền thản nhiên cho 100 năm tù kết án họ. Đất nước có những sinh viên năm thứ ba kêu gào một cách phấn khích như tìm thấy niềm hưng phấn khi đòi kết án tù người sinh viên thật nặng hơn. Chỉ vì những sinh viên ấy bày tỏ chính kiến một cách ôn hòa bằng những tờ giấy.
Chả nói đến kinh tế suy thoái, doanh nghiệp vỡ nợ, giải thể, các dự án lớn thua lỗ.
Chỉ nhìn thế thôi, đã hiểu sự ổn định trên đất nước này có hay không? Nếu có thì chúng được xây bằng gì?








Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
