Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 76
October 17, 2017
Tùy Hỷ: “món tình khó nhất !’’
Tùy Hỷ: “món tình khó nhất !’’
Đỗ Hồng Ngọc
“Tùy hỷ được thì mặt sáng, mắt trong, miệng tươi, môi thơm… như một suối nguồn tươi mát chảy mãi trong tâm hồn…’’ (Pháp Hoa).
Tin được không? Được quá đi chớ. Bởi tùy hỷ được thì như nhổ bỏ tận gốc rễ một thứ bản năng gốc của con người: lòng ganh tỵ, ghen ghét, đố kỵ… Nhiều khi trong đời sống người ta thường sống trong cảnh “vui là vui gượng kẽo mà’’ chớ lòng thì đầy hậm hực, tức tối, giận dữ, cho nên không thể nào có được mặt sáng, mắt trong, miệng tươi, môi thơm… như một suối nguồn tươi mát chảy mãi trong tâm hồn….
Tiếng Việt ta thiệt hay: Tức thì tối. Giận thì dữ. Khi tức thì mặt mũi tối sầm lại, Khi giận thì mắt long lên sòng sọc. Nhiều khi trông “bề ngoài thơn thớt nói cười” vậy nhưng đêm về lã chã giọt ngắn giọt dài, tìm mưu tính kế…
“Môi nào hãy còn thơm
Cho ta phơi cuộc tình
Tóc nào hãy còn xanh
Cho ta chút hồn nhiên…”
(Trịnh Công Sơn).
Rõ ràng phải hồn nhiên thì môi mới thơm, tóc mới xanh là vậy. Bởi khi lòng còn đầy ganh tỵ, ghen ghét, đố kỵ thì chỉ sống cô đơn trong cảnh
“Chiều hôm thức dậy
Ngồi ôm tóc dài
Chập chờn lau trắng trong tay…’’(TCS) mà thôi!
Trong tứ vô lượng tâm Từ Bi Hỷ Xả thì Hỷ có vẻ… là « món tình» khó nhất ! Thương người (Từ), giúp người bớt khổ (Bi), xả bỏ những vướng mắc, chấp thủ, tham ái (Xả)… có lẽ còn dễ, còn có thể huân tập được, thực hành dần dần rồi cũng biết bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn… Còn Hỷ, tùy hỷ hả? Còn lâu ! Bởi ấy là lúc phải triệt tiêu lòng ganh tị, ghen ghét, đố kỵ trong chính bản thân mình, tự trong thâm tâm mình, một mình mình biết một mình mình hay.
Ganh tị, ghen ghét, đố kỵ đó nó cắn rứt, nó nghiến ngấu, nó làm rơi nước mắt giữa đêm khuya, nó gây căm thù buổi sáng sớm, nó tạo hận lòng không thể nói ra, không thể sẻ chia… nó gần như là một « bản năng gốc » ở mỗi con người. Nó sẵn sàng dìm người ta xuống chín tầng địa ngục, âm ỉ đốt cháy niềm vui, làm tan nát cõi lòng mà bề ngoài vẫn phải nói nói cười cười, tỏ ra từ, bi, buông xả !
Lúc bấy giờ Di-lặc Bồ-tát bèn bạch Phật: « Thế Tôn ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe kinh Pháp Hoa này mà tùy hỷ thì đặng bao nhiêu phước đức ? »
Ối trời, các phẩm trước đều chỉ nói đến chuyện « thọ trì đọc tụng biên chép giảng nói » kinh Pháp Hoa… mới có được phước đức, bây giờ sao Bồ-tát Di-lặc lại hỏi kỳ cục vậy: chỉ “tùy hỷ” không thôi thì sẽ đặng bao nhiêu phước đức ?
Nhưng thật bất ngờ, Phật ân cần hỏi lại: Giả sử có một đại thí chủ bố thí cho khắp chúng sanh mọi thứ tiền tài của cải trong tám mươi năm, rồi bố thí pháp giúp chúng sanh đó đắc A-la-hán, thiền định, tự tại « đủ tám món giải thoát » thì công đức đó có nhiều không ?
Di-lặc đáp : Rất nhiều. Rất nhiều. Vô lượng vô biên công đức ! Nào tài thí, nào pháp thí… cho chúng sanh đạt quả A-la-hán, Vô sanh, Niết bàn, còn gì hơn !
Phật nói : Không ăn thua chi đâu ! Chỉ cần một người nghe kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ rồi đem kể lại cho người khác, rồi người đó lại tiếp tục tùy hỷ kể cho người khác nữa… cứ thế cho đến người thứ năm mươi thì công đức tùy hỷ của thiện nam tử, thiện nữ nhơn thứ năm mươi đó… gấp trăm nghìn lần, gấp trăm nghìn muôn ức lần… đại thí chủ kia, không thể tính đếm được !
Người thứ năm mươi đó mà còn phước lớn như vậy huống là người được nghe kinh Pháp Hoa trong buổi hôm nay mà có lòng tùy hỷ thì « phước đó lại hơn vô lượng vô biên a tăng kỳ không có thể so sánh đặng » ! Phật còn dặn Di-lặc Bồ-tát: « Nghe cho kỹ nha ! » Nghiã là không phải chuyện chơi !
Tức khắc đã có năm ngàn người rời bỏ thính chúng. Kỳ cục quá. Chịu không nổi. Khó tin khó nhận quá. Phật tủm tỉm cười. Cứ để họ đi. Không cần ngăn cản. Bởi chẳng bao lâu, họ cũng sẽ quay lại thôi.
Chỉ một chút « tùy hỷ » mà được phước đức lớn như vậy sao?
Nhưng, vậy mà không hẳn vậy.
Phật giải thích rõ hơn : Một chút tùy hỷ mà đã vậy huống là một lòng nghe, đọc, tụng, giảng nói, lại đúng như lời dạy mà tu hành !
« Đúng như lời dạy mà tu hành ».
Không tu hành mà chỉ đọc tụng suông dù đến ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa như Pháp Đạt thì cũng chỉ được Lục tổ Huệ Năng cười :
Tâm mê Pháp Hoa chuyển
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa.
Nhưng hãy bắt đầu bằng Tùy Hỷ. Tùy hỷ mà thực hiện được thì như “một suối nguồn tươi mát chảy mãi trong tâm hồn”, chắc chắn vậy. Tùy Hỷ thực lòng thì không có mặc cảm tự ti, tự tôn. Nó lâng lâng rộng mở như nụ cười sảng khoái của Di-lặc Bồ-tát, vị Phật của tương lai. « Tùy hỷ » giúp ta giải thoát tự trong gốc rễ, thứ « món tình » âm thầm mà thâm độc, cắn rứt ta từng phút giây.
Thoát ra, là đã đến bến bờ của yêu thương, của hạnh phúc.
(ĐHN)
………………………………………………………………………………..
Tạp chí Văn hóa Phật Giáo số 283, ngày 15-10-2017
October 13, 2017
Thư gởi bạn xa xôi (10/2017)
Thư gởi bạn xa xôi (10/2017)
Chuyện năm học mới ở trường Y
Có gì mới không hả? Nhiều chớ. Nhưng làm biếng quá rồi. Nói chuyện gẫu bên tách café với bạn bè thì khoái hơn viết lách. Nhưng thôi, để mình kể bạn nghe vài chuyện hay hay vậy.
Năm học mới ở Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch đã bắt đầu. Ngày thứ Hai, 2/10, như thông lệ các năm trước đây, mình có một buổi ”trò chuyện” với các em sinh viên Y khoa năm thứ nhất (Y1).
Bài giảng của mình là Tổng quan về Y đức và về Khoa học hành vi & Giáo dục sức khỏe, vốn là Bộ môn mình phụ trách trước kia, nay là Cố vấn, nhưng sau buổi giảng này, đã không còn tiếp tục Hợp đồng với nhà trường do tuổi đã cao.
Một thầy thuốc già nói chuyện gì với các em sinh viên Y1, mới 18 tuổi bước vào trường Y trong buổi gặp gỡ đầu tiên này ư? Mình nói rằng hơn nửa thế kỷ trước, năm 1962, thầy cũng bước vào trường Y như các em hôm nay, lúc đó hẳn các em còn… bay bay trên trời! Rằng không có ai chọn học ngành Y với mong ước làm giàu cả, rằng thời của thầy thi vào Y phải trả lời 20 câu hỏi về ”kiến thức tổng quát” như về Hippocrates, Hải Thượng Lãn Ông, Biển Thước, về âm nhạc, hội họa, điạ lý… đặc biệt có hai câu hỏi rất hay: “Giá gạo trên thị trường bao nhiêu một ký?” và “Giá than trên thị trường bao nhiêu một ký?”… Một số nước còn có cuộc phỏng vấn, coi giò coi cẳng người sinh viên muốn học ngành Y, có nước có tới 4 người trong Ban phỏng vấn gồm một giáo sư, một bác sĩ, một điều dưỡng và một… bệnh nhân! Vậy đó. Vì y khoa là làm việc với con người. Và y khoa là phải học suốt đời.
Rồi mình kể những vui buồn trong những năm học ngành y dài đăng đẵng (xưa 7 năm, nay 6 năm). Năm thứ nhất, học cơ thể học, em nào nắm tay người yêu thì thường không phải âu yếm chi đâu mà chẳng qua mò mò mấy đốt xương lẩm bẩm học, rồi những ngày mổ xác chết, với lòng biết ơn vô hạn những người hiến xác cho khoa học, rồi những ngày đi lâm sàng, học ”nhìn, sờ, gõ, nghe” tuyệt vời đến thế nào, không để quá lệ thuộc vào xét nghiêm máy móc như bây giờ…
Biết bao nhiêu chuyện học, chuyện hành, chuyện đời, chuyện nghề, chuyện nghiệp… Rằng ”bác sĩ” nghĩa là người học rộng, đa văn hóa, trước hết phải giỏi… tiếng Việt, rằng các Nguyên lý căn bản (giá trị) của Y đức phải được tôn trọng thế nào: Primum non nocere (Trước hết không làm hại, First do no harm); Giữ bí mật nghề nghiệp, Tôn trong nhân phẩm, tôn trọng quyền tự quyết (autonomy)… Rồi khuyến khích các em duy trì và phát triển các năng khiếu về nghệ thuật, đừng để thui chột chỉ vì mải học Y: văn thơ nhạc họa, ca hát nhảy múa, thể dục thể thao… rằng phải biết giải stress, cân bằng cuộc sống…
Về Khoa học hành vi thì cần hiểu tại sao con người có hành vi này hay hành vi khác, đặc biệt các ”hành vi sức khỏe” và việc giáo dục sức khỏe là nhằm thay đổi hành vi thế nào… Dĩ nhiên, sau này các erm sẽ được học những bài học chi tiết hơn, với cả phần thực hành với Bộ môn. Cảm ơn thầy Trương Trọng Hoàng, Bs Mai Ngọc Thanh Ngân, Bs Nguyên Hùng, Bs Kim Chi đã hỗ trợ tích cực cho thầy Ngọc buổi hôm đó.
Buổi ”trò chuyện” của một thầy thuốc già và các bạn trẻ ”đồng nghiệp tương lai” chỉ có vậy, nhưng theo mình, đó thực sự quan trọng, dù thời gian chỉ có 2 tiết học. Mình vẫn nhớ mãi buổi học đầu tiên với Thầy Phạm Biểu Tâm ngày xưa khi thầy nói “Nghề Y là một nghề cao đẹp nếu mình muốn cao đẹp nhưng cũng là nghề thấp hèn nếu mình muốn… thấp hèn…v.v…”.
Đáng tiếc là lớp Y1 năm nay quá đông, cả ngàn em, nên chỉ có vài trăm em ở Giảng đường 508 là được tiếp xúc trực tiếp, còn các giảng đường khác, các em chỉ nghe tiếng và xem slides trên màn hình, thậm chí chẳng biết mặt thầy! Lớp quá đông thì khó mà có chất lượng đào tạo như mục tiêu đề ra được!
Hẹn thư sau,
ĐHN
Buổi ”trò chuyện” thân mật của một người thầy thuốc già Đỗ Hồng Ngọc với các em sinh viên y1 Trường ĐHYK PNT ngày 2/10/2017
Giảng đường 602
October 3, 2017
“Đời đầy kinh ngạc…”
tặng THT
còn nhớ không
căn nhà ốm nhom khu bàn cờ
bạn từng trú mấy hôm
đi coi mắt vợ
ngày đó mới thôi…
bọn mình rớt mồng tơi,
dĩa bánh cuốn ly café đã khó
tôi nằm chờ giải ngũ
bạn trốn trại về…
khu mình chẳng có gì vui…
ngoài mấy nhà bảo sanh
một nhà thương thí
phòng mạch bác sĩ
văn phòng luật sư…
nhà thuốc tây thuốc bắc
khu mình chẳng có gì vui
ngoài cái chợ ồn ào
mấy dãy phố thời trang dị hợm
quán ăn đầy ngõ hẽm
vài ngôi chùa trang nghiêm
và mấy trại hòm…
đâu có cần ra khỏi cổng thành
đâu có cần vượt sông anoma
chỉ quanh quẩn nơi đây
cũng đầy sanh bệnh lão tử…
ngày đó mới thôi,
căn nhà ốm nhom khu bàn cờ
bạn từng trú mấy hôm
đi coi mắt vợ…
rồi bảo sanh
rồi bệnh viện
rồi nursing home…
cuộc đời đầy kinh ngạc
phải không?
Đỗ Nghê
(8-2016)
September 30, 2017
“Thức ăn chưa từng có…”
Đỗ Hồng Ngọc
Lúc ấy, Xá-lợi-phất nghĩ bụng: “Sắp đến giờ thọ thực rồi. Các vị Bồ-tát này sẽ ăn thức gì đây?”.
“Các vị Bồ-tát này” dĩ nhiên là nói đến Bảo Tích và năm trăm vị vương tôn công tử, thiếu gia con nhà viên ngoại, vừa “phát tâm Bồ đề”, là những Bồ-tát tại gia tương lai, đối tượng đích của buổi “huấn luyện đặc biệt” tại cái thất trống trơn của Duy-ma-cật ở thành Tỳ-da-ly hôm đó.
Lần nào cũng vậy, cứ đến lúc mọi người đang bay bổng trên chín từng mây với những lý luận cao vời thì Xá-lợi-phất lại kéo ngay xuống mặt đất! Một lần ông đặt câu hỏi: “Các vị Bồ tát này rồi sẽ ngồi ở đâu?”. Một câu hỏi tưởng chẳng ăn nhập gì vào chuyện lớn đang bàn luận, thế nhưng, đó là một câu hỏi vô cùng quan trọng nhằm để xác định “vai trò, vị trí” của các Bồ-tát tại gia tương lai này. “Ngồi đâu?” sẽ nói lên nhiệm vụ chính của họ. Họ sẽ trở thành các Pháp sư, là “thầy giảng pháp” để giải thoát chúng sinh, để tạo cõi Phật thanh tịnh nơi Ta -bà đầy ô trược. Muốn vậy, họ phải “vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai” cái đã rồi mới xứng đáng “ngồi tòa Như Lai”!
Và tức khắc Duy-ma-cật đã mang về những “tòa sư tử” nghiêm chỉnh, cao vời để họ… hì hục trèo lên không dễ chút nào!
Bây giờ, giữa lúc mọi người đang sôi nổi hào hứng bàn những chuyện “trên trời” nào Hữu lậu Vô lậu, nào Hữu vi Vô vi, nào Động nào Niệm, nào Sinh tử nào Niết bàn… thì Xá-lợi-phất, vị đệ tử trí tuệ bậc nhất của Phật, một lần nữa lại đưa mọi người trở về “mặt đất”: “Sắp đến giờ ăn rồi. Các vị Bồ Tát này sẽ ăn thức gì đây?”.
Ăn không phải là chuyện hệ trọng sao? Ngay cả Phật mà tới giờ ăn còn phải khoác y, trì bát đi bộ vài cây số vào thành khất thực, mang về đạo tràng ăn uống dọn dẹp đâu đó rồi mới rửa chân lên ngồi… nhập định trước khi thuyết giảng kinh Kim Cang cho Tu-bồ-đề và thính chúng đó sao?
Mỗi khi gặp một vị Phật, sau khi cung kính đảnh lễ, thì câu chào hỏi đầu tiên bao giờ cũng là: “Việc ăn uống thức ngủ của Ngài ra sao ? Ngài ít bệnh ít não chăng? Khí lực được an ổn chăng?” (Pháp Hoa). Nghĩa là luôn luôn thăm hỏi một vị Phật về những “nhu cầu tồn tại” của cuộc sống (physical needs): hít thở, ăn uống, ngủ nghỉ, bệnh đau, phiền não…Những chuyện đó mà tầm thường ư?
Dĩ nhiên câu hỏi của Xá-lợi-phất “Sắp đến giờ thọ thực rồi. Các vị Bồ-tát này sẽ ăn thức gì đây?” mang một ý nghĩa khác: các vị Bồ tát tại gia tương lai này sẽ được nuôi dưỡng bằng “thức ăn”gì đây để có thể trưởng thưởng tâm Bồ đề mà thực hiện tốt các hoạt động của một vị Bồ-tát chân chánh nhằm “thành tựu chúng sanh” ở cõi Ta-bà. Nếu không được nuôi dưỡng đúng đắn, sau một lúc hào hứng bồng bột ban đầu, sẽ rơi rụng dần thì thiệt là đáng tiếc!
Duy-ma-cật bèn lên tiếng: “ Xin đợi cho giây lát, tôi sẽ khiến quý vị được thứ thức ăn chưa từng có.”.
“Thức ăn chưa từng có” ư? Với các vị vương tôn công tử, thiếu gia, con nhà trưởng giả này thì cao lương mỹ vị có gì là lạ. Tổ yến hồng sâm, nem công chả phượng, sữa béo thông minh, nấm quý ngàn năm… các thứ có gì là lạ!
Và họ háo hức chờ đợi Duy-ma-cật mang lại thứ “thức ăn chưa từng có” để coi cho biết!
Thế rồi…
Duy-ma-cật mang đến… một mùi hương! Một mùi hương thơm. Thứ “thức ăn” thừa xin được từ cõi Chúng Hương của Phật Hương Tích!
Cõi Chúng Hương? Phải, đó là một cõi mà mọi thứ đều làm bằng hương thơm, từ lầu gác, đất bằng, hoa viên, thức ăn, thức uống… thứ nào cũng làm bằng…một mùi hương! Và ở cõi đó, Phật Hương Tích cũng “chẳng cần thuyết pháp bằng văn tự. Ngài chỉ dùng các mùi thơm, làm cho chư thiên và người đắc nhập luật hạnh… Khi nghe mùi thơm vi diệu kia, liền thành tựu hết thảy các phép Tam-muội… “
Duy-ma-cật giải thích thêm: “ Có một cõi nước tên là Chúng Hương, hiện có Phật Hương Tích ngự tại đó. Nước ấy có mùi thơm bậc nhất đối với các mùi thơm của người và chư thiên ở các thế giới chư Phật mười phương. Khắp cõi ấy, mùi thơm tạo ra lầu gác. Người ta đi trên đất bằng mùi thơm. Các cảnh hoa viên và vườn tược đều bằng mùi thơm. Từ nơi thức ăn, mùi thơm bay tỏa ra khắp vô lượng thế giới..”.
Thì ra đó là hương Giới Đức. Thứ hương thơm có thể bay cao, bay xa, bay ngược chiều gió!
Hương thơm giới đức không thể có trong một ngày một buổi. Nó phải được huân tập lâu ngày chày tháng, mới đầy dần lên, mới sung mãn, tràn trề. Nên cõi đó, mới có vị Phật tên là “Hương Tích” đó vậy.
Duy-ma-cật mời: “Các nhân giả, hãy dùng món cơm cam-lộ của Phật Hương Tích”. Thứ « thức ăn chưa từng có” này không sợ thiếu, luôn đủ cho tất cả mọi người! Bởi đó là một thứ « vô tận hương ».
Một thứ hương thơm đủ để nuôi cả thân và tâm bất tận.
Đó chính là Giới đức.
Sự “tung hứng” của Xá-lợi-phất và Duy-ma-cật mới tuyệt vời làm sao!
(ĐHN)
September 21, 2017
“Con đường sỏi đá vẫn quanh co…”
Thư gởi bạn xa xôi (9.17)
“Con đường sỏi đá vẫn quanh co…”
Có bao giờ bạn thấy một đám đàn ông có tuổi ngồi xúm xít ”cụng dừa” không? Chắc là không. Lứa tuổi này, cụng là cụng rượu thôi! “Một chiều ngồi say một đời thật nhẹ ngày qua…” (TCS). Vậy mà có đó. Chuyến rồi mình về Mũi Né và ngồi ”cụng dừa” với các bạn…trẻ ở đó. Bạn trẻ? Phải, tất cả đều mới ngoài 60, mới hưu đôi ba năm! Đa số mình mới gặp lần đầu! Cả bọn kéo vào một quán cafe. Một bạn ôm bình rượu thiệt to nhưng mình nói mình không biết uống rượu, vậy là mọi người chiều ý đành cụng nước dừa mới dễ thương làm sao!
Từ trái: Mai Chí, Đặng Văn Quân, Đỗ Hồng Ngọc, Ngô Đình Miên
Sau đó mỗi lúc mỗi thêm đông, lại tiếp tục cụng dừa, để chờ đến giờ hẹn về dốc Bà Banh, đình Khánh Thiện tụ tập ở nhà anh 7 Du ”giao lưu” với Đỗ Nghê, tác giả bài thơ Mũi Né… một bữa!
Ối trời, mình về MN nhiều lần, chưa có lần nào họp mặt đông vui và cảm động như vậy.
Bạn coi hình thôi nhe. Làm biếng viết quá rồi.
Có người tận Ma Lâm xuống, có người từ Phan Thiết ra, có vài người ở Mỹ về, tình cờ tham dự buổi họp mặt đặc biệt này.
Ngô Đình Miên, Tuyết Nhi, Võ Đình Lang (mà các bạn đùa gọi là Võ Đại Lang, anh Võ Tòng), một cây đờn đáng nể, soạn cả một bản nhạc phỏng thơ Đỗ Nghê. Hôm đó Võ Đình Lang vừa đờn vừa hát thiệt hay. Rồi Đặng Văn Quân, Hồ Nhữ Phước, Mai Chí (người tổ chức buổi họp mặt này, nhà ở Rạng, đã cương quyết bảo bài thơ Mũi Né của Đỗ Nghê thiệt ra là viết cho Rạng chớ chả dính dáng gì tới Mũi Né!). Rồi còn có Hoàng Như Bảo, Hiếu (Hàm Thuận Nam), Võ Văn Trọng, Lê Ngư, Thu Thảo (Mũi Né), anh 7 Du và Cô Tuyết… chủ nhà.
Võ Đình Lang hát Mũi Né (do anh sáng tác, phỏng theo bài thơ Mũi Né của Đỗ Nghê) Anh cho biết bài này anh viết đã từ lâu, viết đi viết lại năm lần bảy lượt mới xong…
Jpeg
Hôm sau, Lang gởi bản nhạc tặng mình để kỷ niệm. Hóa ra anh là một người rất thân quen.
Rồi Lang đệm đàn cho Thu Thảo hát, cho Lê Ngư hát. Rồi không chỉ Lang, Mai Chí cũng ôm đàn hát… thì ra một buổi ”văn nghệ” bỏ túi bên ”con đường sỏi đá vẫn quanh co” ngày nào… Gần 60 năm rồi còn gì!
Thu Thảo bảo bài thơ Mũi Né ra đời trước cô một năm! Cô vẫn thuộc nằm lòng. Lê Ngư bảo cô giáo Mai Nương, xưa dạy Hải Long – hiện đang ở Mỹ- là người ”truyền tụng” bài thơ này cho các em những năm 70 ! Lê Ngư vừa phone cho cô giáo nói hôm nay gặp tác giả bài thơ, cô bèn gởi lời thăm Đỗ Nghê.
Không thể không nhắc Mai Chí. Chính anh bạn trẻ này (mới 63 tuổi) nhà ở Rạng, viết một bài trên Facebook “Chợ Rạng ngày xưa” có một đoạn về bài thơ Đỗ Nghê, thú vị với những nhận xét rất riêng của anh.
Đây là bài viết của Mai Chí:
Chợ Rạng ngày xưa! (tt).
Đầu thập niên 70, anh Đỗ Nghê đã làm những chàng trai cô gái vùng Mũi Né phải tốn không biết bao nhiêu là giấy mực và công sức, để nắn nót chép cho nhau bài thơ của anh, bài thơ Mũi Né!
Em có về thăm Mũi Né không
Hình như trời đã sắp vào xuân
Hình như gió bấc lùa trong Tết
Những chuyến xe đò giục bước chân…
…
Dài 20 câu, chia làm 5 đoạn, mỗi đoạn 4 câu, nhưng đoạn nào cũng xuất hiện 2 chữ Mũi Né. Nếu tính cả cái tựa đề, thì có cả thảy 6 chữ Mũi Né! Chỉ có điều là đoạn nào cũng hay cả, cứ đọc qua một lần là tự nhiên thuộc lòng!
Anh Đỗ Nghê bây giờ thì ra là bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, có lẽ anh có nhiều sáng tác, nhưng đối với tôi, bài thơ này là một ấn tượng quá đẹp, đọc đoạn nào cũng cảm thấy hình như có mình trong đó!
Từ khi lớn lên rồi đi đây đi đó khắp nơi, tôi đã có cái suy nghĩ cho rằng rừng dừa ở Rạng là đẹp nhất, và kỳ lạ thay, cho đến giờ cái suy nghĩ đó vẫn không thay đổi! Chính vì vậy mà bài thơ Mũi Né của Đỗ Nghê đã nghiễm nhiên đi vào và ở luôn trong tiềm thức, suy cho cùng với tôi, nó không khác gì so với truyện Kiều hay Chinh phụ ngâm học hồi nhỏ!
Dưới đây tôi có chép lại 20 câu thơ của bài thơ Mũi Né, quí vị sẽ thấy hai chữ “Mũi Né” được liên tục lặp đi lặp lại.
Thế nhưng, suy nghĩ một lát, sẽ thấy rằng cả bài thơ đều nói về Rạng! Không thể tìm thấy Mũi Né trong bài thơ!
Không có Bãi trước bãi sau, không có Động Bà Lựa (bây giờ kêu là Đồi cát Mũi né), không có dốc Bà Banh, không có trung học Hải Long và Lục thị Đậu phụng cúng, không có hòn Cù Lao Gành đá, không có Đồi Hồng hòn Rơm! Không có và không có, đúng không?
Chẳng hạn: “… Nhớ môi em ngọt dừa xứ Rạng. Nhớ dáng thuyền đi trong mắt trong…” là hình ảnh một cô gái Rạng, vừa mới uống xong một trái dừa xiêm mà đôi môi hãy còn… ngọt lịm và ngất ngây!
Xin phép thêm rằng biển Rạng đẹp quá, có mấy con thuyền bé nhỏ ngoài kia đã in hình vào đôi mắt “trong” của cô gái, đang ngồi ngắm biển mà mơ mà mộng!
Ngày Chủ nhạt, rảnh rang, viết chơi để góp vui, có gì sai sót, xin lượng thứ mà bỏ qua, một ông già lẩm cẩm!
Mai Chí (Rạng)
Mũi Né
Em có về thăm Mũi Né không
Hình như trời đã sắp vào xuân
Hình như gió bấc lùa trong Tết
Những chuyến xe đò giục bước chân…
Em có về thăm Mũi Né không
Mùa xuân thương nhớ má em hồng
Nhớ môi em ngọt dừa xứ Rạng
Nhớ dáng thuyền đi trong mắt trong
Em có về thăm Mũi Né xưa
Con đường sỏi đá vẫn quanh co
Hoàng hôn sóng vỗ bên trời biếc
Sóng vỗ trong hồn ta ngẩn ngơ
Em có về thăm Mũi Né yêu
Mười năm như một thoáng mây chiều
Mười năm vườn cũ chim bay mỏi
Áo trắng chân mềm em hắt hiu
Mũi Né ơi, người xưa đã xa
Mùa ơi gió bấc nhớ không ngờ
Năm nay người có về ăn Tết
Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ?
Đỗ Nghê (1970).
sent by my Samsung
(chiphanthiet@gmail)
”Con đường sỏi đá vẫn quanh co…”
Dĩ nhiên mình vẫn không quên đi lại trên ”con đường sỏi đá vẫn quanh co…” ngày xưa, không xa lạ lắm, dẫu bước chân đã khập khiểng, đắn đo. Những ngôi nhà đơn sơ bên bờ sóng còn đó, và cả những căn nhà xưa cũ đầy dấu rêu phong…
Thôi vắn tắt, hẹn thư sau nhé,
Đỗ Hồng Ngọc
(9.2017)
với những ngày biển động…
September 20, 2017
Hỏi–Đáp về Thở và Thiền
Hỏi (HNTài)
Dạ kính thưa Bác sĩ, con có duyên nghe được buổi hướng dẫn về ứng dụng hơi thở bụng vào thiền của Bác sĩ. Con vô cùng cảm ơn Bác sĩ đã mở một hướng thực hành thiền cho con ạ. Con đang thực hành theo phương pháp thở bụng và có một vài câu hỏi mong được Bác sĩ tư vấn giúp con:
1. Khi ngồi thiền, mình thót bụng vào và phình bụng ra ở chừng mực nào là hợp lí? Vì con để ý khi thót bụng dường như mình đang dùng lực để đẩy cơ hoành lên. Mà nếu dùng lực vậy có đúng với quy tắc buông thư cơ bắp khi ngồi thiền không? Theo kinh nghiệm của Bác sĩ thì mình dùng lực thế nào cho hợp lí hay chỉ để tâm cho bụng thót và phình nhẹ nhàng?
2. Tầng suất thót và phình bụng như thế nào là hợp lí? Nên duy trì đều đều hay nhanh chậm khác nhau?
Con kính cảm ơn Bác sĩ và kính chúc Bác sĩ thân tâm an lạc. Con rất mong phản hồi của Bác sĩ để con tiếp tục thực hiện cho đúng.
Trả lời
Cảm ơn HNTài đã đặt câu hỏi quan trọng.
1. Khi ngồi thiền, mình thót bụng vào và phình bụng ra ở chừng mực nào là hợp lí? Vì con để ý khi thót bụng dường như mình đang dùng lực để đẩy cơ hoành lên. Mà nếu dùng lực vậy có đúng với quy tắc buông thư cơ bắp khi ngồi thiền không?
Trả lời: Thở bụng là cách thở sinh lý bình thường, bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu cũng thở bụng cả, chớ không phải lúc Thiền mới thở bụng. Do đó, trong Thiền vẫn thở bình thường, không ráng sức gì cả. Ráng sức “phinh xep” là sai. Có dịp nào gặp sẽ trình bày cụ thể hơn.
2. Tầng suất thót và phình bụng như thế nào là hợp lí? Nên duy trì đều đều hay nhanh chậm khác nhau?
Trả lời: Mỗi người có “tần suất” thở khác nhau tùy tuổi tác, tùy công việc, tùy sinh học… Cũng như nhịp tim, mỗi người mỗi khác nhau ít nhiều. Ta cứ theo sinh lý bình thường của cơ thể mình là tốt. Đừng có ráng. Khi “thiền quán niệm hơi thở” thuần thục hơn sẽ có hơi thở nhẹ và đều… thậm chí không biết mình đang thở!
Thân mến,
Bs Đỗ Hồng Ngọc
HNTài
Dạ con rất cảm ơn Bác sĩ đã nhắc về điểm đa dạng của đặc điểm sinh lí từng cá nhân. Điều này đã giúp ích con rất nhiều trong việc ‘thoát’ ra các phương pháp hít thở với các ‘patterns’ khác nhau của mỗi vị thiền sư khác nhau. Những ‘kiểu’ hay patterns này thường làm con bị rối tung lên và ‘hoang mang’ vì không biết phải theo vị nào cho đúng nhất. Cuối cùng con lạy Phật cầu Phật gia hộ cho con thực hành được phương pháp đúng nhất. Và chắc nhờ Phật nên con quyết định quay về phương pháp thở trong lời kinh Phật dạy. Khi thực hành thì theo cách Phật dạy thì con thấy an ổn lại ngay. Con ‘ngộ’ có nhiều cách thở khác nhau mà các thiền sư dạy nhưng duy chỉ có cách Phật dạy là ‘universial’, có thể áp dụng cho tất cả chúng sinh. Có lẽ vì vậy mà Phật không đưa ra một cách thở dài ngắn hay theo nhịp này nhịp kia vì mỗi người có một đặc điểm sinh lí khác nhau. Con cám ơn Bác sĩ rất nhiều vì nhờ quan điểm của Bác con đã ‘quay về nương tựa Phật’ ạ.
Con kính chúc Bác sĩ thân tâm thường an lạc.
Fususu:
Con chào bác Ngọc và cả nhà,
Cảm ơn bác Ngọc đã thêm một bài rất chi tiết về Tập thở và Cơ hoành. Con chỉ xin góp ý nhỏ về cách ngắt đoạn để tiện cho theo dõi và in ấn như ở dưới. Trân trọng cảm ơn cả nhà.
====
Hỏi:
Phương pháp thở bụng để chữa bệnh phải chăng là “đưa hơi xuống huyệt đan điền” như người xưa thường nói, thấy trong luyện nội công, trong kiếm hiệp?
tt.huynh@ yahoo.com.
Trả lời:
Giống mà không giống. Một đằng là luyện nội công để trở thành thiên hạ vô địch, còn một đằng chỉ là tập thở ra thở vào để chữa bệnh cho mình, cốt sao vui khỏe, ít ốm đau bệnh họan, đỡ tốn tiền tốn bạc, tốn thì giờ chạy chữa khắp nơi, từ bác sĩ đến… lang băm!
Đọc kiếm hiệp ta thường thấy cụm từ “đua hơi xuống huyết đan điền” trong lúc luyên công hoặc chữa thương, dưỡng thương. Đan là thuốc quý, linh đan diệu dựơc, điền là rụông. Đan điền là ruộng thuốc quý. Huyệt đan điền nằm ở dưới rún chừng 3cm, còn đựơc gọi là huyệt khí hải, “biển khí”. Kiếm hiệp không bày đặt ra chuyện đó mà chỉ “phóng đại” thêm thôi.
Đưa hơi xuống huyệt đan điền là phương pháp khí công, thiền tập, đã có tự ngàn xưa, trong hệ thống huyệt đạo, kinh mạch của y lý Đông phương. Vấn đề là làm sao đưa đựơc hơi (khí) đến tận huyệt đan điền, dưới rún đến 3cm đựơc?
Ta biết cơ hoành chính là cơ chủ lực của bộ máy hô hấp, đó là một cơ lớn và mạnh, nằm vắt ngang giữa ngực và bụng. Cơ hoành như một cái pit-tông (piston) đẩy lên đẩy xuống để đua hơi vào ra 2 lá phổi.
Vì cơ hoành có khả năng di chuyển rộng đến 7-8 cm, nên có thể hạ xuống thấp đến tận rún. Do vậy, để đưa hơi xuống huyệt đan điền ta chỉ cần tập thở bụng, nghĩa là luyện tập cơ hoành, bằng cách phình bụng lên xẹp bụng xuống thế thôi. Mỗi lần cơ hoành di chuyển 1 cm, đã hút hoặc đẩy đựơc 250ml không khí, vậy nếu di chuyển 7-8 cm, thì đã hút hoặc đẩy được 1,5 lít không khí! Cơ sở sinh lý học và cơ thể học ở đó.
Ngoài ra về mặt tâm lý, những lúc căng thẳng, tức giận, lo âu, sợ hãi… cũng như những khi tập trung cao độ làm một việc gì đó, ta thường nín thở mà không hay nên dễ thấy đuối sức, hụt hơi!
Học sinh nín thở học bài, nín thở làm bài thi, nín thở chơi games… Người lớn nín thở để vẽ, để viết, để tranh luận, để… đấu đá! Một lúc đã thấy bãi hoãi cả người, bắp cơ căng cứng, đau gân, nhức mỏi, đau cột sống cổ, đau thắt lưng… và vô số các thứ bệnh khác mà y học cũng đành bó tay tìm không ra bệnh đành gán cho những cái tên mơ hồ như “mệt mỏi kinh niên”, “ rối lọan thần kinh thực vật”… càng gây thêm hoang mang. Đại học Harvard công bố có hơn 60% các bệnh nhân ở Mỹ đến bác sĩ là do stress.
Họ đau đủ thứ, chữa hoài không khỏi, chữa bệnh này sinh bệnh kia vì cái gốc stress đã không đựơc quan tâm. Stress nặng, gây mất ngủ, trầm cảm, thậm chí dẫn đến tự tử… thì đành vào bệnh viện tâm thần thôi! Những người hay “thở dài não nuột” rất có thể là những người hay…nín thở đó. Họ chìm đắm trong suy tư, quên ăn, quên ngủ… nên phải thở bù.
Các loại bệnh kiểu này bác sĩ đâu có chữa nổi nên bệnh nhân dễ đến lang băm, dễ tin tưởng vào những quảng cáo nhảm nhí. Người quen “ đưa hơi xuống huyệt đan điền”, thì có cả một “biển khí” ở đó, đủ xài trong một quãng thời gian. Ngoài ra, nếu biết tập trung chú ý vào hơi thở nữa thì sẽ quên giận, quên lo, bớt căng thẳng, giảm stress vậy.
BS Đỗ Hồng Ngọc.
Nói rõ thêm:
Hai ngàn sáu trăm năm trước, một nhà minh triết phương Đông – Đức Phật – bảo đừng vội tin, cứ đến nếm thử đi rồi biết! Đến là thực hành. Nếm thử là cảm nhận. Phải tự mình thực hành và tự mình cảm nhận. Không thể nhờ ai khác. Rồi Ngài vạch ra một con đường “thoát khổ” cho chúng sanh.
« Đây là con đường độc nhất dẫn tới thanh tịnh cho chúng sanh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng đắc Niết-bàn »…
Con đường độc nhất? Đó là thiền Tứ niệm xứ (Satipathana), thân-thọ-tâm-pháp, 4 lãnh vực để quán niệm. Rồi hình như thấy Tứ niệm xứ hãy còn có vẻ phức tạp quá, Ngài giản lược vào Thân hành niệm, rồi lại giản lược lần nữa cho phổ cập đến tất cả mọi người: Anapanasati (còn gọi là An-ban thủ ý, Nhập tức xuất tức niệm) để ai ai cũng có thể tiếp cận mà thực hành con đường “giải thoát”, bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào .
Ana là thở vào, Apana là thở ra và Sati là niệm, là nhớ, nghĩ. Nhớ nghĩ về sự thở vào thở ra. Chỉ có vậy thôi sao ? Chỉ có vậy. Mà vô vàn. Mà “bất khả tư nghì”.
Thiền Anapanasati có cơ sở sinh y học vững chắc, dựa vào hơi thở của mỗi cá nhân, không sợ đi lạc đường dẫn đến những hậu quả không hay. Chỉ cần nắm những nguyên tắc chung rồi tự mình áp dụng riêng cho bản thân mình. Không nôn nóng. Không ráng sức. Theo tôi, thiền tập Anapanasati cần 3 giai đoạn:
1) Thở bụng.
Thở bụng đúng cách đã có thể giúp cải thiện sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống; Chánh niệm hơi thở có thể đưa đến “diệt trừ khổ ưu” và Quán niệm hơi thở thì dẫn đến “thành tựu chánh trí”!
Thở bụng. Nói đến thở, ta nghĩ ngay đến ngực. Thiệt ra, thở ở bụng chớ không phải ở ngực. Thở bụng (abdominal breathing) hay còn gọi là thở cơ hoành (diaphragmatic breathing) là cách thở sinh lý nhất. Nhìn một em bé ngủ say thì biết. Chỉ có bụng phình lên xẹp xuống. Nhìn con ếch, con thằn lằn thì biết.
Thiền tập Anapanasati nên bắt đầu bằng thở bụng. Dĩ nhiên ở giai đoạn thiền sâu hơn thì không còn thấy “phình xẹp” gì nữa cả!
2.“Chánh niệm hơi thở”.
Niệm là nhớ, là nghĩ. Chánh niệm hơi thở là tâm ý chỉ “nhớ, nghĩ » đến hơi thở đang vào, đang ra chớ không để tâm ý đi lăng xăng nơi này nơi khác. Chỉ có vậy. Tưởng dễ mà không dễ. Tâm ý vốn lăng xăng trăm nghìn thứ, bay nhảy như khỉ như ngựa (tâm viên ý mã) không ngưng nghỉ. Lúc thì lòng tham nổi lên, tính tính toan toan. Lúc thì sân giận ào ào đến, rồi dằn vặt, rồi lo âu, nghi kỵ, ngờ vực, hoang mang… Tiêu tốn biết bao nhiêu năng lượng cho những chuyện vô bổ đó! Bộ não chỉ chiếm có 2% thể trọng mà tiêu hao Oxygen đến 25-30%, phần lớn cho những chuyện “nhảm nhí” vô bổ này. Nếu chánh niệm được vào hơi thở thì những thứ tham, sân, nghi, lăng xăng, bực dọc kia… sẽ âm thầm lặn đi rồi… biến mất!
Đây chính là “thiền chỉ” (samatha). “Chỉ” là ngưng. Ngưng sự lăng xăng của tâm ý. Ngưng sự bứt rứt của cơ thể.
Chánh niệm vào hơi thở cách nào? “Thở vô dài, biết thở vô dài. Thở ra dài, biết thở ra dài. Thở vô ngắn biết thở vô ngắn, thở ra ngắn biết thở ra ngắn”(Kinh Tứ niệm xứ). Chỉ có vậy. Chữ “biết” ở đây có thể gây hiểu lầm. “Biết” ở đây không phải là “biết” mà là nhận thức được (recognize), ý thức rõ (realize), cảm nhận được (perceive) cái sự thở, cái hơi thở đang đi vào và đang đi ra, lúc dài lúc ngắn lúc sâu lúc cạn kia kìa. Nhận thức, ý thức, cảm nhận, ấy chính là niệm (nhớ) về sự thở, về hơi thở. Vỏ não ta có cái hay: vùng này được kích hoạt thì vùng khác tắt ngấm. Đã nghĩ tới điều này thì không thể cùng lúc nghĩ tới điều khác. Nhờ đó mà ta giải thoát tâm ta khỏi những vướng mắc lăng xăng, tiêu tốn năng lượng vô ích! Điều này dẫn tới “diệt trừ khổ ưu”, giải thoát tâm vậy.
3.“Quán niệm hơi thở”.
Quán niệm hơi thở chính là “thiền quán” (vipassana). “Quán” không còn là “dõi theo” hơi thở đơn thuần nữa mà đã có sự phân tích, soi sáng (quán chiếu) dưới nhiều góc cạnh khác nhau để nhìn cho ra những điều mà bình thường không “thấy biết”. Cái thấy biết bấy giờ đã vượt khỏi cái trình hiện, cái giả tướng bên ngoài để nhìn được cái thực tướng bên trong, bên bờ kia.
Vi, tiếp đầu ngữ có nghĩa là “một cách khác”, “một cách đặc biệt”, còn passana là “thấy”, là “biết”. Vipassana là thấy biết một cách khác, một cách đặc biệt! Một chiếc lá vàng rơi, người thi sĩ có thể thấy cả mùa thu, thấy con nai vàng ngơ ngác, nhưng người có quán chiếu lại thấy sự vô thường, vô ngã, sự bất sinh bất diệt…
Khi vào sâu trong định, hành giả sẽ không cảm nhận mình thở nữa. Hơi thở nhẹ gần như ngưng bặt. An tịnh. Hòa tan. Tan biến. Lúc đó sẽ không còn ý niệm về không gian, thời gian, về ta, về người…
(đọc thêm: Thở để chữa bệnh, Ai có thể thờ giùm ai? Thả lỏng toàn thân… trên www.dohongngoc.com).
Bs Đỗ Hồng Ngọc
September 15, 2017
“Quán” NHƯ LAI như thế nào?
Lúc ấy, Thế Tôn hỏi Duy-ma-cật: “Như ông muốn thấy Như Lai thì quán Như Lai như thế nào?”
Duy-ma-cật thưa: “Như tự quán cái ‘thật tướng’ của thân, quán Phật cũng như vậy”(*)
Phật đã không hỏi “Như ông muốn thấy Phật thì quán Phật như thế nào?” mà hỏi “quán Như Lai như thế nào?”.
Bởi thấy Phật thì dễ quá! Phật đang đứng trước mặt đó thôi. Phật vẫn đi đứng nằm ngồi, thuyết giảng cho các đệ tử hàng ngày đó thôi.
Cho nên Phật là Như Lai nhưng Như Lai không phải Phật. Như Lai là Như Lai!
Phật là Như Lai bởi vì Phật luôn sống trong Như Lai, sống với Như Lai, nói khác đi, Phật luôn sống trong pháp thân mình, trong thật tướng mình. Khi cần thì Phật mới hóa hiện, ứng hiện cho phù hợp với mỗi tình huống. Vì thế, Phật và Như Lai tuy “không một’’ mà cũng “không khác” là vậy.
Khi ‘’quán’’ thấy được cái pháp thân của Phật, cái thực tướng của Phật thì ta thấy… Như Lai. Còn nếu chỉ nhìn vào 80 vẻ đẹp hay 32 tướng tốt của Phật thì còn lâu mới thấy Như Lai. Hay dùng âm thanh chũm chọe, ánh sáng chớp lòe… thì chẳng những còn lâu mới thấy được Như Lai mà còn bị Phật chê là “hành tà đạo”. Như Lai không có cái gì để thấy cả!
Khi Phật “thấy biết” Như Lai rồi thì Phật chỉ cười tủm tỉm, thôi nhé, đừng làm phiền ta nữa nhé. Và từ đó, với lòng từ bi, Phật “khai thị” cho chúng sanh được “ngộ nhập” như Phật, bởi chúng sanh đều có Phật tánh.
Phật có nhiều danh hiệu: Thế Tôn, Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện Thệ, Thế gian giải, Điều ngự trượng phu, Vô thương sĩ, Thiên nhân sư v.v… Đó là tại chúng sanh ‘’thương kính’’ Phật nên xưng tụng vậy. Phật chỉ luôn tự xưng mình là Như Lai “vô sở tùng lai diệc vô sở khứ’’ (chẳng đền từ đâu, chẳng đi về đâu): Như Lai nói thế này, Như Lai dạy thế kia…
Phổ Hiền Bồ-tát bảo gặp Phật thì kính lễ (Lễ kính chư Phật), còn khi gặp Như Lai thì chỉ còn có cách xưng tán (Xưng tán Như Lai!), tức khen ngợi, trầm trồ, thán phục, gật gù, ú ớ, bởi vì ‘’nói không được’’! Kinh Pháp Hoa bảo muốn làm Pháp sư chân chính thì phải “vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai” chớ không nói vào nhà Phật, mặc áo Phật… cũng như nói về Như Lai thọ lượng chớ không Phật thọ lượng… Kim Cang cũng bảo muốn ‘’thấy Như Lai’’ thì phải nhìn xuyên qua bên kia cái tướng’’ (kiến tướng phi tướng tức kiến Như Lai).
Duy-ma-cật giải thích thêm cách ‘’quán’’ Như Lai. Như Lai thì “ vô danh, vô tướng; không sạch, không nhơ; không phải hữu vi cũng không phải vô vi…; không định, không loạn; không trí cũng không ngu; không thành thật cũng không lừa dối;
không đến không đi, không vào không ra; không xứng đáng cúng dường cũng không phải không xứng đáng cúng dường;
không vẩn đục, không phiền não, không tác, không khởi, không sanh, không diệt, không sợ, không lo, không mừng, không chán;
Như Lai thì “lìa mọi kết buộc, không thể định danh, không thể đo lường, không phải lớn, không phải nhỏ; không phải cái được thấy, không phải cái được nghe, không phải cái được tri giác, không phải cái được nhận biết;đồng đẳng với trí, đồng với chúng sinh; không phân biệt với các pháp;
Như Lai thì ”không thể lấy trí để biết; không thể lấy thức để nhận thức; dứt tuyệt tất cả con đường ngôn thuyết ; không thể bằng tất cả ngôn thuyết để hiển thị hay phân biệt.(*)
***
Thế Tôn hỏi Duy-ma-cật: “Như ông muốn thấy Như Lai thì quán Như Lai như thế nào?”
Duy-ma-cật thưa: “Như tự quán cái ‘thật tướng’ của thân, quán Phật cũng như vậy”(*)
***
Muốn thấy Như Lai thì phải quán, mà trước hết là quán cái thực tướng của chính thân mình và… ‘’quán Phật cũng như vậy’’.
Cho nên Phật day: “Hãy nương tựa chính mình!”.
Đỗ Hồng Ngọc
(9-2017)
………………………………………………………………………………..
(*) Duy-ma-cật sở thuyết kinh, Tuệ Sỹ dịch Việt, 2008.
September 14, 2017
Rùng mình…
Tùng địa dũng xuất
(Pháp Hoa)
Người rùng mình hỏi vì sao động đất sóng thần cứ triền miên
hết ngày này sang ngày khác?
vì sao núi lửa cứ phun trào?
vì sao băng tan vì sao bão táp…?
vì sao trẻ con người già bị cuốn trôi bị thiêu đốt
thành phố tan hoang cửa nhà đổ nát như món đồ chơi
của một đứa trẻ đang giận dữ
vì sao và vì sao?…
Nhưng hãy lắng nghe
Dù trong giây lát
Trái đất cũng đang rùng mình tự hỏi vì sao
những ngọn núi cứ triền miên đổ sập?
vì sao những dòng sông nghẽn tắt?
vì sao những mủi đao cứ ngày đêm xoáy sâu vào lòng đất?
vì sao chim rừng cá biển không chốn nương thân
vì sao cổ thụ mầm xanh bị tận diệt
vì sao lúa bắp phải cấy ghép gen người?…
vì sao và vì sao?
Ta nương tựa vào nhau.
Nay có vẻ đã không còn cần nhau nữa!
Đất rùng mình phận đất…
Người rùng mình phận người…
Đỗ Hồng Ngọc
(2011)
BRIVIDI !
Rabbrividendo, l’Uomo chiede :
Perche’i terremoti e gli tsunami
Continuano ad arrivare un giorno dopo l’altro?
Perche’ i vulcani continuano ad eruttare?
Perche’ i ghiacciai si sciolgono, i tifoni distruggono?
Perche’ i bambini e i vecchi vengono trascinati e inceneriti?
Le case crollano e le citta’ sono distrutte come fossero i giocattoli
di un bambino arrabbiato.
E perche’, perche’..???
Ed ora ascolta
Solo un istante……
Rabbrividendo anche la Terra chiede:
Perche’ le montagne continuano a crollare ?
Perche’ i fiumi vengono bloccati?
Perche’ si continua a perforare il fondo della terra?
Perche’ gli uccelli delle foreste, i pesci del mare non hanno un posto dove stare?
Perche’ gli alberi secolari vengono sradicati?
Perche’ il riso, il granoturco vengono modificati geneticamente?
E perche’, perche’ ?
Una volta ci si appoggiava uno all’altro
Sembra che ora non abbiamo più bisogno l’uno dell’altro
La Terra rabbrividisce
L’Uomo rabbrividisce
Ognuno per proprio conto.
Đỗ Hồng Ngọc
(2011)
( Bản dịch tiếng Ý của Trương Văn Dân e Elena Pucillo Truong)
FRISSONS !
Frissonant, l’Homme demande:
Pourquoi les tremblements de terre et les tsunamis
Continuent à arriver un jour après l’autre?
Pourquoi les volcans continuent à éclater ?
Comment arrive-t-il que les glaciers fondent, les typhons détruisent?
Pourquoi les enfants et les personnes âgées
Sont entraînés et sont reduits en cendres ?
Les maisons s’effondrent et les ville sont détruites
Comme si elles étaient des jouets d’un enfant en colère.
Et pourquoi, pourquoi ?
Et maintenant écoute
Seulement un instant…..
Frissonant la Terre demande également:
Comment arrive-t-il que les montagne continuent à s’effriter ?
Pourquoi les rivières viennent bloquées?
Comment arrive-t-il qu’on continue à percer le fond de la terre?
Pourquoi les oiseaux de forêts, les poissons de la mer
n’ont plus un endroit où vivre?
Pourquoi les arbres sont déracinés?
Pourquoi le riz , le maïs sont génétiquement modifiés?
Et pourquoi, pourquoi?
Une fois on s’appuyait l’un à l’autre
Il semble que maintenant nous n’avons plus besoin les uns des autres.
La Terre frissonne
L’Homme frissonne
Chacun pour son propre compte.
Đỗ Hồng Ngọc
(2011)
( Bản dịch tiếng Pháp của Elena Pucillo Truong)
………………………………………………………………………………………………………………………………..
Ghi chú: Bão Harvey ập vào Houston, Irma ập vào Florida, rồi bão số 10 ập vào miền Trung…
Đất vẫn run từng cơn của Đất. nước run từng cơn của Nước, và Gió và Lửa…
Cảm ơn Trương Văn Dân, tác giả của Bàn tay nhỏ dưới mưa, cảm ơn Elena Pucillo Trương đã… rùng mình dịch Rùng mình…
Đỗ Hồng Ngọc
(9-2017)
Giả sử
Giả sử
gởi Gvan
giả sử sóng thần ập vào Nha Trang
ập vào Mũi Né
anh chỉ kịp quẳng em lên một chiếc thuyền thúng
vút qua những ngọn dừa
những đồi cát trắng
em nhớ mang theo đôi quả trứng
vài nắm cơm
vài hạt giống
đừng quên mấy trái ớt xanh…
biết đâu mai này
ta làm An Tiêm
trở về làng cũ
nơi này ta sẽ gọi là Nha Trang
nơi kia gọi là Mũi Né…
cho nên
sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?
Đỗ Nghê
(2011)
September 7, 2017
“Ăn chay và Sức khỏe”
Thư gởi bạn xa xôi,
Về buổi Nói chuyện tại Tu Viện Tường Vân, Bình Chánh,
Vu Lan 2017
Nói Tu viện Tường Vân Bình Chánh chắc bạn khó hình dung, nhưng nói chùa của Thầy Thích Phước Tiến thì bạn sẽ nhớ ra ngay phải không? Đi qua khỏi cầu Bình Điền, quẹo phải vào Chợ Đệm, dọc theo ”con kênh xanh xanh” đó. Hồi xưa (1987) bọn mình vẫn phải đi thuyền về xã Tân Nhựt để thực hiện Chương trình Săn sóc Sức khỏe Ban đầu (Primary Health Care) nhớ không? Xưa đây là vùng ngoại thành hẻo lánh, nay đô-thị-hóa nhìn không ra nữa!
Đề tài cũ quá phải không? Ai chẳng biết ăn chay có lợi cho sức khỏe, bảo vệ môi trường, tránh sát sanh, thực hiện ngũ giới… Nhưng nhà chùa đã ”đặt hàng” như vậy mà! Ở đây đông đảo bà con ăn chay nhưng một số bệnh tật lại nhiều, khi đi khám bác sĩ, bác sĩ bảo tại ăn chay, buộc phải “ăn mặn” trở lại mới hết bệnh! Bác sĩ nói đúng một phần. Thiệt ra không phải tại ăn chay chi đâu! Chẳng qua ăn không đúng cách. Ăn chay mà mặn quá, béo quá, nhiều đường bột quá, nhiều đạm quá… thì bệnh là phải rồi! Ăn chay mà không đúng cách thì béo phì, tim mạch, huyết áp, tiểu đường, stroke… là phải rồi. Ngược lại có người ăn chay lại thiếu chất, thiếu lượng, suy dinh dưỡng, gầy ốm tong teo, hạ đường huyết, chóng mặt, ngất xỉu… Một số các vị tu sĩ ngày nay bệnh nhiều, cũng do Phật tử…thương quá, quý trọng quá, bao nhiêu món ngon món bổ, sữa béo, sâm cao ly, nước yến… cung dưỡng cho thầy, hại thầy mà không hay!
Vì thế mà với đề tài này, mình đã đề cập ở 3 góc độ 1) Trước hết nói về sức khỏe là gì cái đã; 2) sau đó nói về tại sao ăn? ăn để làm gì? ăn cái gì? ăn bao nhiêu? ăn cách nào?... và sau cùng mới là 3) ăn chay. Chay là gì? Tại sao “chay”? Ăn chay ích lợi gì cho sức khỏe, cho tâm linh v.v…
Đại khái buổi nói chuyện kiểu ”tào lao” của mình khá… sôi nổi. Rất nhiều câu hỏi đáp. Nghe nói nhà chùa sẽ thực hiện một DVD. Hôm nào có đĩa thì mình sẽ đưa lên bạn ”xem” nhé. Hình như hôm đó còn có livestream gì đó nữa thì phải! Ái chà, kỹ thuật truyền thông bây giờ hiện đại mình… bí rồi!
Dưới đây là vài hình ảnh.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc
Thầy Thích Phước Tiến và Bs Đỗ Hồng Ngọc (Tu viện Tường Vân 14.7, Vu Lan 2017)
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

