Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 77
September 5, 2017
Thư anh Hai Trầu gởi Đỗ Hồng Ngọc
Thư anh Hai Trầu gởi Đỗ Hồng Ngọc
Kinh xáng Bốn Tổng ngày 05 tháng 9 năm 2017
Kính chào Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc,
Xin cảm ơn Bác sĩ gởi cho đọc bài:”Yếu tố bất ngờ trong bài thơ “Bông Hồng Cho Mẹ” của tác giả Tịnh Thy. Một bài viết được phân tích khá chặt chẽ, kinh điển.
Trong lần lên Sài Gòn hôm đầu tháng 6-2017, vợ chồng tôi ghé thăm Bác sĩ , dịp này tôi có ghi lại trong bài ký sự:”Lên Sài Gòn, Ghé Thăm Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc”, nhơn đây, xin trích phần nhắc về hai bài thơ “Bông Hồng Cho Mẹ” và “Mũi Né” của thi sĩ Đỗ Nghê ( bác sĩ ĐHN) mà tôi rất thích để chia sẻ cùng Bác sĩ :
“Buổi chiều hôm ấy Sài Gòn trời mưa lớn. Khi chúng tôi đứng chờ dưới bóng cây trong công viên nơi của ra vào thì Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cũng vừa tới trong chiếc xe Uber. Dù tôi và Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chưa ai gặp ai bao giờ nhưng cả hai bên cùng nhận ra nhau liền. Nhứt là tôi không thể quên tấm lòng của anh dành cho Hai Trầu với bài viết “Còn Thương Rau Đắng” nhằm giới thiệu cuốn “Mùa Màng Ngày Cũ” của tôi dịp in lại lần thứ nhứt vào năm 2015. Thế là bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc mời tui tôi đến ngồi nơi cái bàn ở chỗ góc hồ sen mà anh hay ngồi với bằng hữu của anh. Xa xa bên kia bờ hồ có cây phượng vĩ già đang mùa trổ bông đỏ rực. Có cái vui trong lần gặp đầu tiên này là cả hai chúng tôi rất thân nhau như bạn lâu ngày, trò chuyện rất tự nhiên, cởi mở, và thân ái. Dịp này tôi được Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nhắc qua một chút về nếp sống an lạc. Tôi thì nhắc về thơ Đỗ Nghê với hai bài thơ mà tôi rất thích: “Bông Hồng Cho Mẹ” cùng bài “Mũi Né” của anh. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc ký tặng vợ chồng tôi cuốn “Trò chuyện với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về Nếp Sống An Lạc”, để đáp lại tôi thân tặng anh cuốn “Nhớ Về Những Bến Sông” của tôi trong đó có những bài như “Đám cưới trên đồi”, “Lời tự sự của rừng già, nhân ngày trái đất”, “Nỗi niềm của loài cá sặt”, “Lời tự sự của loài cá rằm”… mà tôi rất thích.
Đỗ Hồng Ngọc và Hai Trầu
(Saigon, Tp HCM 2017)
Nói về bài thơ “Bông Hồng Cho Mẹ”, tôi có nói với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, bài thơ hay là do chữ dùng cùng vần điệu đã đành, nhưng cái hay ở bài thơ này chính là cái thần trong bốn câu thơ ngắn ngủi đó:
“Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông”
(Bông Hồng Cho Mẹ)
Đỗ Hồng Ngọc
Ở đó người đọc thử để lòng mình lắng xuống rồi nghĩ về Mẹ, về Ngoại rồi đọc thầm từng chữ từng câu, người đọc sẽ nhận ra trong bài thơ này không có sự chết, không có nỗi buồn, mà là tình thương yêu, là lòng hiếu thảo, là mạch sống mãi mãi nối tiếp dạt dào từ đời này sang đời khác. Con nhận cho mình bông hoa trắng, và dành cho me bông hồng và căn dặn mẹ nhớ gài lên ngực, vì Ngoại cũng đang chờ Mẹ bên kia sông… Chỉ có vỏn vẹn chừng ấy, giản dị, đơn sơ thế đó và ở đó không có thứ triết lý gì bí hiểm mà chỉ có tình yêu thương ruột thịt và một đạo lý mà thời nào cũng cần. Đó chính là đạo hiếu. Đạo làm con. Con hiếu với Mẹ. Mẹ hiếu với Ngoại… Nói rộng ra là đạo hiếu của con cái đối với cha mẹ, đối với ông bà!
Sở dĩ thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc làm cho người đọc thích bài thơ “Bông Hồng Cho Mẹ” cũng như bài thơ “Mũi Né”, và nhiều bài thơ khác của anh , theo tôi vì tác giả không dùng chữ nào mới, cao siêu, và cũng không muốn làm cho thơ khó hiểu mà chỉ muốn viết ra những vần thơ từ những rung động thật nó dâng lên tự chính trong lòng mình!
Chẳng hạn như bài thơ “Mũi Né” dưới đây, buổi chiều ngồi bên hồ sen Kỳ Hòa êm đềm sau cơn mưa nặng hạt ấy, tôi có nói với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, chỉ cần anh mở đầu bài thơ bằng một câu hỏi mà chừng như không phải là câu hỏi để được chờ đợi một câu trả lời của một người mình muốn hỏi, mà nhiều lúc để tự hỏi lòng mình, thì cũng đã làm tâm hồn mỗi chúng ta, những người đọc thơ anh, đã thấy nao nao xao xuyến rồi: “Em có về thăm Mũi Né không”.
Rồi bài thơ cứ thế liên tiếp hết câu hỏi nay bắt qua câu hỏi khác:
“Em có về thăm Mũi Né không
Hình như trời đã sắp vào xuân
Hình như gió bấc lùa trong Tết
Những chuyến xe đò giục bước chân
Em có về thăm Mũi Né không
Mùa xuân thương nhớ má em hồng
Nhớ môi em ngọt dừa xứ Rạng
Nhớ dáng thuyền đi trong mắt trong
Em có về thăm Mũi Né xưa
Con đường sỏi đá vẫn quanh co
Hoàng hôn sóng vỗ bên trời biếc
Sóng vỗ trong hồn ta ngẩn ngơ
Em có về thăm Mũi Né yêu
Mười năm như một thoáng mây chiều
Mười năm vườn cũ chim bay mỏi
Áo trắng chân mềm em hắt hiu
Mũi Né ơi người xưa đã xa
Mùa ơi gió bấc nhớ không ngờ
Năm nay người có về ăn Tết
Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ …
(Mũi Né)
Đỗ Nghê
(Trích trong thi phẩm “Thư Cho Bé Sơ Sinh & Những Bài Thơ Khác”)
Những câu hỏi trong bài “Mũi Né”, mà thi sĩ Đỗ Nghê cố ý lập đi lập lại đó làm tôi nhớ những câu hỏi trong thơ xưa có một thời làm xao xuyến lòng người, mà tôi là người đọc nhà quê già nay vẫn còn mê mẫn dù tôi không còn nhớ tên tác giả là ai. Chẳng hạn:
“Mai chị về em gửi gì không
Mai chị về nhớ má em hồng…”
Hoặc:
“Sao anh không về thăm thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên…”
Đó là chưa kể những chữ dùng trong bài thơ “Mũi Né” rất quen, rất gần mà âm điệu lúc nào cũng êm đềm, tha thiết, có những chữ như “gió bấc lùa”, “giục bước chân”, “mười năm vườn cũ”, “mùa ơi…”, theo thiển ý của tôi tác giả đã làm cho nỗi niềm nhớ nhung thêm tha thiết, dạt dào…
Chiều hôm ấy, trời Sài Gòn tiếp tục mưa lớn, chúng tôi chia tay sau buổi gặp dù ngắn ngủi nhưng mãi đến nay tôi vẫn nhớ trong lòng mình với niềm an lạc hiếm hoi giữa Sài Gòn đô hội. Tụi tôi không quên gởi lời cảm ơn Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, dù bận rôn nhiều, thời giờ của anh rất eo hẹp, nhưng ảnh vẫn nhín chút thời giờ hẹn gặp vợ chồng người nhà quê già tụi tôi từ dưới ruộng mới lên Sài Gòn ghé thăm anh trong thân tình và lưu luyến biết bao!”
Hai Trầu, Lương Thư Trung
September 1, 2017
Tịnh Thy: Yếu tố bất ngờ trong bài thơ “Bông hồng cho mẹ”
NGUYỄN THỊ TỊNH THY (*)
Yếu tố bất ngờ
trong bài thơ bông hồng cho mẹ
Bông hồng cho Mẹ của bác sĩ – thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bài thơ hay về mẹ. Hay đến mức nào? Hay đến mức lặng người, lạnh người. Hay đến mức phải gọi đó là tuyệt tác. Và tuyệt tác này xứng đáng được hiện diện trong tang lễ của những bà mẹ. Bởi vì Bông hồng cho Mẹ là một cách viếng mẹ, khóc mẹ vô cùng đặc biệt – đầy uyên áo nhưng rất đỗi giản đơn. Bài thơ được viết theo thể tứ tuyệt ngũ ngôn, chỉ vẻn vẹn bốn câu, hai mươi chữ nhưng đủ để khiến người đọc có nhiều phức cảm buồn vui, thấu đạt lẽ sinh tử, cảm ngộ điều được mất… để có thể tỉnh thức, an nhiên trước sự nghiệt ngã của quy luật sinh ly tử biệt.
“Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đoá hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông…”
Toàn bài thơ, kể cả nhan đề, đề tài, hình ảnh đều rất đỗi thân quen đối với người dân Việt, đặc biệt là các Phật tử. Có thể nói, Mẹ, lễ Vu Lan, hoa hồng màu trắng, hoa hồng màu hồng và cả nghi thức cài hoa hồng lên ngực dường như đã trở thành những biểu tượng mang tính liên văn bản trong văn chương nghệ thuật, trở thành tập quán trong đời sống và tâm thức bao người. Vậy mà, nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc vẫn tìm ra được một tứ thơ lạ làm ta sững sờ, khiến ta bất ngờ. Đúng! Bất ngờ chính là yếu tố làm nên hồn cốt của bài thơ.
Bất ngờ đầu tiên là nghịch lý của hai câu thơ đầu:
“Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng”
Lạ chưa! Con cài hoa trắng, nghĩa là con không còn mẹ. Theo lẽ thường, mẹ càng phải cài hoa trắng, vì mẹ của mẹ (bà ngoại) cũng không còn. Vậy mà, con cài bông hoa trắng – bông hoa của tang tóc, mất mát; nhường cho mẹ đóa hoa màu hồng – màu của diễm phúc, viên mãn. Hẳn bạn đọc sẽ không khỏi thắc mắc về nghịch lý này. Trong thưởng thức nghệ thuật, thắc mắc, hoài nghi, cảm thấy mâu thuẫn… là khởi đầu của mỹ học tiếp nhận. Bạn đọc chờ đón lời giải thích ở câu tiếp theo. Nhưng không. Câu thứ ba lại càng khẳng định sự vững chắc của hai câu đầu: “Mẹ nhớ gài lên ngực”. Lại thêm một tầng thắc mắc nữa: Mẹ đã mất, vậy mà có thể thực hiện động tác “gài” hoa lên ngực. Mà chắc là mẹ có thể làm được việc đó, nên con mới dặn mẹ là “nhớ gài”. Quả là nghịch lý chồng nghịch lý! Cho đến câu cuối cùng: “Ngoại chờ bên kia sông…”, tất cả mọi thắc mắc, nghịch lý đều được cởi bỏ. Cởi bỏ bằng một sự bất ngờ – bất ngờ đến mức khiến ta ngỡ ngàng, sững sờ, xúc động, rưng rưng…
Cấu tứ bất ngờ là nét độc đáo chuyển tải chủ đề của bài thơ. Kiểu cấu tứ này khiến cho bài thơ đảm bảo được nguyên tắc “mạch kỵ lộ” của thi pháp thơ Đường. Người làm thơ phải biết rằng, mạch thơ tối kỵ là bị để lộ, nhà thơ phải làm sao đó để đến câu cuối cùng, điều mình muốn ký thác, bộc bạch mới lộ ra, gây bất ngờ cho người đọc, thậm chí bẻ gãy được những đoán định của họ. Bất ngờ càng lớn, ý thơ càng sâu sắc, sức lay động càng mãnh liệt. Vì thế, câu cuối cùng thường là câu gánh vác nhiệm vụ thể hiện chủ đề của bài thơ. Cũng vì thế, nhiều người cho rằng, trong thơ Đường luật, những câu đầu dù nói nhiều điều, tả nhiều thứ, có thể bao quát cả không gian mênh mông vô tận và thời gian vô thủy vô chung thì vẫn chỉ là sự chuẩn bị cho sự xuất hiện của câu cuối. Làm thơ Đường, trong tâm tưởng của nhà thơ, câu cuối chính là câu khởi đầu.
“Ngoại chờ bên kia sông…”
Vậy là không còn nghịch lý nữa. Mẹ về với ngoại. Ngoại đã đi trước, và đón chờ mẹ ở bên kia sông. Ngoại đón con gái của ngoại, mẹ về trong vòng tay của mẹ mình. Tất cả mọi việc đều thuận chiều. Và vì thuận chiều như thế nên nỗi mất mát, chia xa bỗng trở nên nhẹ nhàng hơn.
Viết về cái chết, về nỗi đau tử biệt nhẹ nhàng như thế, nhà thơ đã thấm nhuần triết lý của nhà Phật. “Vô thường”, “sắc không”, “tứ khổ”, “diệt khổ”, “từ ái”… được chất chứa trong từng câu chữ giản dị tưởng chừng như không còn là thơ, không phải là thơ. Tất cả hai mươi chữ trong bài thơ tứ tuyệt này đều là từ thuần Việt, cả danh từ, động từ, đại từ…; cả hình ảnh, biểu tượng… cũng đều rất đời thường và dân dã đến mức người đọc, người nghe ở trình độ nào cũng có thể hiểu, có thể cảm, có thể xúc động. Mặc dù bài thơ đậm chất triết lý, nhưng chất triết lý ấy đến một cách đơn giản, không trau chuốt gọt giũa, không cao đàm khoát luận. Mọi cảm xúc, tình cảm trong bài thơ vừa như có, vừa như không; vừa rất nặng, vừa rất nhẹ; vừa hiện thực, vừa kỳ ảo. Tất cả đều tùy thuộc vào cách mà mỗi người cảm nhận về cái chết, về tình mẫu tử, về lẽ tử sinh. Sâu sắc và đa nghĩa như thế, Bông hồng cho Mẹ là cả một chân trời nghệ thuật mà ở đó, mọi đường nét nghệ thuật dường như tan biến trong tình cảm sâu nặng của người con đối với mẹ, để rồi lan tỏa đến người đọc. Khiến cho người đang nằm có thể bước đi, khiến cõi chết trở thành cõi sống, khiến âm dương cách biệt trở nên gần lại, đậm chất nghệ thuật nhưng không thấy dấu hiệu của nghệ thuật, như vậy là bài thơ đã đạt đến cảnh giới cao siêu của nghệ thuật: “áo của thợ trời không nhìn thấy đường may” (thiên y vô phùng). Chỉ trong hai mươi chữ, từ một tấm lòng, nhà thơ đã nói hộ muôn tấm lòng. Ước mong của tác giả là ước mong của mọi người, tiếng thơ của anh nhưng là tiếng lòng của tôi, của tất cả chúng ta.
“Ngoại chờ bên kia sông…” là hình ảnh mang tính biểu tượng, giàu sức gợi, chất chứa nhiều hàm nghĩa ý tại ngôn ngoại. Câu thơ tạc nên hình ảnh của người mẹ muôn thuở: yêu thương, dịu dàng, nhẫn nại, chở che, bảo bọc, hy sinh. Từ vị trí của người mẹ ở ba câu đầu, mẹ trở thành vị trí của người con ở câu cuối. Mẹ được về trong vòng tay yêu thương của ngoại, lại một lần nữa được làm con của ngoại, nghĩa là mẹ được tái sinh. Câu thơ còn toát lên một chân lý: có mẹ, dù ở bất cứ nơi đâu, dù ở cõi sống hay cõi chết, ta cũng sẽ được chở che, được bình an. Vì thế, dù “bên kia sông” là một thế giới vô cùng lạ lẫm thì mẹ cũng sẽ khỏi phải ngỡ ngàng, ngơ ngác, bơ vơ, lạc lõng. Có ngoại rồi, con yên tâm cho mẹ, con được an ủi rất nhiều khi nghĩ về bước chân cuối cùng của mẹ trong chuyến độc hành này.
Về với mẹ, về bên mẹ là một cách nói giảm nhẹ tuyệt vời để xua tan đi nỗi đau xé lòng, nỗi mất mát không gì bù đắp được. Câu thơ khiến ta bình tâm hơn, thanh thản hơn, thấu đạt hơn, an nhiên hơn khi đón nhận quy luật nghiệt ngã của tạo hóa. Câu thơ còn đặt ra vấn đề về cách nhìn nhận, đón nhận và lý giải những biến cố của đời sống. Trắng – hồng, sống – chết, được – mất, đi – về, sắc – không… ranh giới của những cặp đối lập ấy chỉ là tương đối. Sắc sắc không không, “có thì có tự mảy may, không thì cả thế gian này cũng không”, tất cả đều tùy thuộc vào cách chúng ta đón nhận sự việc. Nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc đã chọn cách nhìn thấy niềm vui trong nỗi đau, đổi chất trẻ thơ cho sự già nua, biến chia ly thành đoàn tụ, thay mất thành được, biến ra đi thành trở về.
Từ hình ảnh và ý nghĩa đẹp đẽ của câu cuối, đối sánh với ba câu đầu theo lối đọc ngược bài thơ từ dưới lên, ta sẽ thấy mọi ẩn số của nghịch lý đều được giải đáp tường tận. Vì mẹ được về với ngoại (câu 4) nên mẹ nhớ cài hoa hồng lên ngực (câu 3), con dành cho mẹ đóa hồng là hợp lý (câu 2), con nhận phần mất mát cho riêng mình, và con vĩnh viễn không còn mẹ trên đời (câu 1). Cũng từ câu 4, đọc lại câu 3, ta sẽ thấy câu thơ – lời dặn của người con – thấm đẫm nỗi niềm. “Mẹ nhớ gài lên ngực”. “Mẹ nhớ…”, nghĩa là mẹ đừng quên làm điều đó nhé, bởi đóa hoa hồng dường như là dấu hiệu để ngoại nhận ra mẹ, là tín vật để xác nhận hạnh phúc đoàn viên của mẹ và ngoại. Và con mong như thế, mong lắm thay! “Mẹ nhớ gài lên ngực”. Lời thơ như dặn dò nhắc nhở, như van xin cầu khẩn, như vỗ về dỗ dành, như an ủi động viên… trong giờ phút bịn rịn tiễn đưa. Lời nói ấy là tấm lòng, là nỗi âu lo, là yêu thương chan chứa bật lên từ nỗi đau nén chặt trong lòng. Khóc không nước mắt, nỗi đau lớn tựa càn khôn!
Mở đầu bằng những nghịch lý và kết thúc bất ngờ bằng những chân lý, Bông hồng cho Mẹ đưa chúng ta ra khỏi bến mê để bước vào bờ đạt ngộ. Dẫn dắt người đọc đi từ mê muội đến tỉnh thức về lẽ tử sinh như thế, quá trình nhận thức của bài thơ mang đậm dấu ấn của Thiền tông. Bài thơ là cái nhìn khác biệt và sống động về một trong “tứ khổ” sinh lão bệnh tử, thấm đượm chân lý về tình mẹ. Nếu có mẹ, được ở bên mẹ thì cõi chết cũng là cõi bình yên. Đối diện với cái chết bằng tâm thế ấy, ta còn sợ nỗi gì? Ai rồi cũng có ngày được về với mẹ, hãy nhẹ nhàng, nhẹ gánh mà đi. Rồi ta sẽ được mẹ ta đón bên kia sông. Hiểu là giải thoát. Vẫn biết như thế, nhưng sao nước mắt vẫn cứ chảy dài khi nghĩ đến ngày ngoại đón mẹ. Ta mê muội quá chăng?
———————————-
Nguồn: Đặc san LIỄU QUÁN, số 12, tháng 8.2017. Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán-Huế
(*) Nguyễn Thị Tịnh Thy, giảng viên Đại học Sư Phạm, Huế
August 31, 2017
Thư gởi bạn xa xôi… (tiếp)
Dĩ nhiên là có. Phải thơ thẩn cho vui chớ phải không. Mình hay làm thơ kiểu ”trời ơi” như vậy mà. “Tháng” Sinh nhật này của mình, ngoài những buổi cà phê, cà pháo trò chuyện ”tào lao” với bạn bè, mình cũng có cao hứng viết một… bài thơ dài… vài câu! Chia sẻ liền với bạn… xa xôi chứ. Chẳng ngờ được đáp ứng mau lẹ, gọi là ”cảm tác” gì đó. Cũng vui quá. Đọc nhé.
Sinh nhật
anh không có ngày sinh nhật
nên mỗi ngày
là sinh nhật của anh
cảm ơn em
nhớ đến anh
ngày sinh nhật!
Đỗ Nghê
Ngay tức khắc có một bài cảm tác của Nguyệt Mai:
Mỗi ngày mỗi mới
(Kính tặng anh DHN)
Nếu mỗi ngày
đều là sinh nhật của anh
thì niềm vui không bao giờ tắt
để em bắt gặp
mỗi ngày
mỗi điều mới nơi anh
vẫn là anh
rất mới
nguyệt mai
Rồi một bài của duyên:
mừng “sinh nhật”
mỗi ngày tôi chọn một niềm vui (*)
nên anh chọn mỗi ngày là “sinh nhật”.
nhớ anh ngày sinh nhật
là nhớ anh cả đời…
duyên
……………………………………………………..
(*) TCS
Và khánh minh viết mấy dòng lúc còn đang dưỡng bệnh:
Niềm vui
(Mừng sinh nhật anh Ngọc)
Vì mỗi ngày anh chia sẻ
Quà vui cho mọi người
Nên mỗi ngày đều là
Sinh nhật của anh
Nên mỗi ngày
Ai cũng nhớ
Sinh nhật của niềm vui…
khánh minh
Không ngờ lại có một bài đầy thiền vị của Vũ Hoàng Thư:
sinh nhật
gửi bác sĩ ĐHN
anh vốn
không
có ngày sinh?
tự vòng tròn
một chỗ thình lình ra
tìm điểm mốc
em khéo đùa
sinh là khởi
cơn gió lùa về không
Vũ Hoàng Thư
Dĩ nhiên không thể thiếu thơ… thấm thía của ”bạn già” (vieux ami) TVL:
Mừng Tháng “Sinh nhật” bạn mình
Bạn sinh vào tháng Tám mà…chẳng có Ngày Sinh. Hồi đó, hồi chiến tranh, làm khai sinh…khai vậy!
Cho nên bạn nói đúng: Mình Chỉ Có Tháng Sinh! Tháng hay ngày, long lanh của đôi vầng Nhật Nguyệt…
Dòng thời gian mải miết, coi như chẳng có ngày, chẳng có phút, có giây, chẳng có gì bận trí!
(…)
Hôm nay, cuối tháng Tám, gửi bạn một lời Mừng. Tôi không thể dửng dưng…vì tôi yêu quý Bạn!
Trần Vấn Lệ
Café Đường Sách, tháng 8.2017
Từ trái: Huyền Chiêu, Thu Vàng, Kim Quy, Lê Ký Thương, Đỗ Hồng Ngọc
Nhóm bạn cũ Trung tâm Truyền thông & Giáo dục sức khỏe (T4G)… đang xẻ bánh…
Từ trái: Hòa Bình, Thục Đoan, Kim Phượng, Hoàng, Huệ Trinh, và Bích Thủy (chụp hình)
August 29, 2017
VU LAN: Về bài thơ “Bông Hồng Cho Mẹ”
Đỗ Hồng Ngọc
(Báo Văn hóa Phật giáo, số 280, Vu Lan 2017)
Mùa Vu lan. Thật may mắn cho những ai được cài đóa hồng trên ngực áo. Bởi họ còn Mẹ. Tôi thì cài bông trắng. Nhưng điều tôi tin chắc là mẹ tôi đã gặp… bà Ngoại, và vì thế, mẹ đã có thể gài lên ngực một đóa hồng thật tươi từ đó…
Bông hồng cho Mẹ
Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông…
Đỗ Hồng Ngọc
(Vu Lan 2012)
Võ Tá Hân, người nhạc sĩ đã có đến hơn 30 CD nhạc Phật giáo và hằng trăm khúc tình ca nổi tiếng, một hôm tình cờ đọc được bài thơ ngắn ngủn này đã cảm xúc viết nên khúc hát Vu Lan thật thiết tha dành cho những người con… không còn Mẹ.
Và tiếng hát da diết của ca sĩ Thu Vàng thấy trên youtube:
Rồi Bội Hoàng, từ Cần Thơ đã cảm tác :
Tình yêu còn mãi
Đọc bài thơ mà mắt lệ đoanh tròng
Ai thấu hiểu một tình yêu đã mất
Ai tự hào cài hoa hồng lên ngực
Dù đã qua cái tuổi cổ lai hi!
Con chỉ muốn luôn được cài hoa đỏ
Dù tuổi đời Má đã rất mong manh,
Dù con Má đã con cháu vây quanh,
Vẫn muốn được mỗi ngày chăm sóc Má.
Được bón cơm, được đút cháo, châm trà
Được tắm rửa, được thay quần áo mới
Được ngồi bên nghe những lời Má nói
Mà dậy lên niềm thương cảm riêng tư
Má bỏ con năm Má chín mươi tư
Rời cõi tạm, Má lên đường thanh thản
Con cài hoa cho màu áo Má đỏ
Để Má về gặp Ngoại vui đoàn viên
(Bội Hoàng, 2014)
Nguyễn Thị Khánh Minh từ Santa Ana, mùa Vu Lan 2016 viết trong bài “Ngoại Chờ Bên Kia Sông”:
“Lại đến mùa Vu Lan. Những đóa hồng đỏ hạnh phúc bung nở vành môi vẽ một vòng xum vầy thỏ thẻ Mẹ Ơi. Những đóa hồng trắng ngân đọng nước mắt lung linh đôi bờ xa vắng âm vang tiếng gọi Mẹ Ơi. Trong niềm, vừa hân hoan vừa cảm động, tôi nhớ đến bài thơ về Mẹ mà khi đọc nhịp tim tôi như bị nghẹn,
Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông
(Bông Hồng Cho Mẹ, Đỗ Hồng Ngọc)
Thử xem. Đọc. Nghe. Rồi hít vào một hơi thở sâu, im vắng, thì mình như nghe được tiếng nước mắt đang vỡ ra… Vỡ bung như ngọn sóng xanh lấp lánh biển pha lê. Vỡ tung như ngọn pháo hoa rơi vô vàn sợi ánh sáng trong đêm. Những cái vỡ, không tan mà thăng hoa, phải chăng đó là tận cùng của Đẹp? Như hạt nước mắt này, nó bung bung. Ánh lên bóng của Ngoại đang đứng bên kia sông, bên kia là bên của miên viễn không còn sinh tử? Và Mẹ, Mẹ đang từ cõi chết đi vào cõi sống ấy để lọt vào vòng ôm ấm áp của Ngoại. Mẹ đi từ nụ hồng đỏ nở duyên trùng phùng Ngoại. Ý thơ mầu nhiệm làm sao.
Tôi thấy không nói nên lời được để tả cho chính xác cảm giác của mình về sự mênh mang “ý tại ngôn ngoại” trong sâu thẳm bài thơ này. Về cái rất không nghĩa của Mất Còn. Đến với tôi là ý niệm con đường sinh tử đang xóa đi dưới cảm xúc của đứa con, -là Đỗ Hồng Ngọc đây-, người chiêm nghiệm sống chết thật là như không, đóa hồng trắng người đang đeo là một thực tại, đóa hồng đỏ đang rưng rưng trên áo Mẹ kia, là áo nghĩa của thực. Tất cả đều ở thì đang, không còn hôm qua ngày mai phút tàn giây tới. Sinh mệnh không khởi đi và chấm hết bằng hai đầu tiếng khóc nữa. Là Đây. Là Đang. Một thực tại sống động xóa hết biên giới không gian và thời gian. Hình dung Mẹ, trong hơi thở hắt ra bỗng trong suốt nhẹ nhàng đứng lên, trong ngày hội tưng bừng của Tình Mẫu Tử, cúi nhìn bàn tay đứa con run run cài lên ngực áo mình một đóa hồng đỏ, và Mẹ phất phới đi trong nôn nao cho kịp giờ hẹn với Ngoại. Ôi ta mất mẹ và ôi Mẹ vừa có Ngoại. Vô biên lâng lâng nỗi Còn Mất… Huyễn ảo vô cùng khiến những giây tơ vi tế nhất trong cảm xúc ta bị đánh động.
Ngoại Chờ Bên Kia Sông, tôi viết hoa vì mỗi mỗi chữ của câu thơ này là khởi đề dẫn đến chiêm nghiệm ảo hóa về sinh tử. Và toàn bài thơ là tấm tình trong vắt ban sơ của người con, rất nhỏ, mà cũng đã rất già. Bởi rất nhỏ thì mới yêu thương Mẹ được hồn nhiên như thế. Và phải chăng, rất già mới có thể biến yêu thương ngây thơ thành một tình yêu vượt qua được đau đớn của chia lìa sinh tử, như thế.
Cảm ơn Nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, cho tôi biết thêm một nhịp đập thương yêu nữa của Hiếu Tử, cho tôi từ bây giờ đã có thể chấp nhận một cách nhẹ nhàng khi nghĩ đến một lúc nào đó phải xa Mẹ. Không phải là một cái xa hẳn rồi, mất hẳn rồi như tôi vẫn thường nghĩ nữa. Trong hạt nước mắt rơi lại thấp thoáng nụ cười, nhìn Mẹ của ta lại cài hoa hồng đỏ về bên Ngoại. Ôi! Cái không nói của Ngoại Chờ Bên Kia Sông đã lấp đầy cảm xúc và ý nghĩ của tôi đến thế!
Và lúc này đây, còn được thấy mẹ ra vào thì hãy thỏ thẻ bên vai mẹ rằng,
… mỗi ngày đi qua đang cài cho con một bông hồng… (thơ Đỗ Trung Quân)
Trong hoan hỷ địa mẫu tử, tôi đọc thầm cho riêng mình, gửi đến các con tôi,
… tận cùng hạt lệ mẹ
là nước mắt con rơi
tận cùng tiếng cười mẹ
là nụ cười con vừa mở
và con ơi
tận cùng hư vô mẹ
sẽ một ánh nhìn theo con. trở lại
(thơ NTKM)
Thưa có phải cũng có chút gặp gỡ giữa “sẽ một ánh nhìn theo con. trở lại” và “Ngoại Chờ Bên Kia Sông”?
NTKM
Santa Ana, Mùa Vu Lan
mà nhà phê bình Tô Thẩm Huy cảm thán:
“Bài thơ ngắn, vỏn vẹn 20 chữ, mà thâm thúy, ảo diệu vô cùng. Đọc lên điếng cả hồn.
Phải chép lại ra đây.
Con cài bông hoa trắng
Dành cho Mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực,
Ngoại chờ bên kia sông
Rõ ràng Nguyễn Thị Khánh Minh đã cảm bài thơ đến vô cùng, đến “tận cùng của đẹp”, tận cùng của ý nghĩa sinh tử kiếp người, không khởi đầu, không chấm dứt. Thời gian tan biến mất. Thơ tuyệt, mà người cảm thơ cũng quá tuyệt. Thật là may mắn có được người đồng điệu như thế.
Bài phổ nhạc hay, hai giai điệu khác nhau mà hòa hợp, hỗ tương lẫn nhau. Tuy thế, cảm xúc khi đọc bài thơ nó đến ào ạt, như cùng một lúc nó trào dâng, bủa vây tứ phía, làm bàng hoàng, run rẩy khắp cả châu thân. Cảm xúc từ bài nhạc nó đến khoan thai, từ tốn, êm đềm”.
Lê Uyển Văn từ Trà Vinh viêt: Bài viết tuyệt vời được khơi nguồn từ bài thơ đẹp. May mắn cho chúng ta được thưởng thức những tuyệt phẩm này. Xin đa tạ!
Còn Trieu Minh (Úc) ghi cảm nhận khi nghe bài hát từ giọng ca Thu Vàng: “ Doc va nghe Nhac, nghe Nghen o nguc, nuoc tu lan tren Ma”.
ton t thì comment: “Nghe nhức xương, thấm tới tủy”;
chrslam thì ghi: Đã nghe đi nghe lại cả chục lần bài hát này. “…Mẹ nhớ gài lên ngực. Ngoại chờ bên kia sông…” Một cảm giác khó tả. Cám ơn thi sĩ và nhạc sĩ.
Và E-Temple ghi nhận: “ Chỉ có 4 câu ngắn ngủn thôi mà thành lời ca, và hát mãi không muốn dừng. Con dập đầu lạy Phật, xin Mẹ được vãng sinh ‘ Nam mô Đại Từ Đại Bi A-Di-Đà Phật….’”
Nguyễn Thị Tịnh Thy từ Huế viết trong “Yếu tố bất ngờ trong bài thơ bông hồng cho mẹ”:
“Bông hồng cho Mẹ của bác sĩ – thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bài thơ hay về mẹ. Hay đến mức nào? Hay đến mức lặng người, lạnh người… Bài thơ được viết theo thể tứ tuyệt ngũ ngôn, chỉ vẻn vẹn bốn câu, hai mươi chữ nhưng đủ để khiến người đọc có nhiều phức cảm buồn vui, thấu đạt lẽ sinh tử, cảm ngộ điều được mất… để có thể tỉnh thức, an nhiên trước sự nghiệt ngã của quy luật sinh ly tử biệt.
(…)
Viết về cái chết, về nỗi đau tử biệt nhẹ nhàng như thế, nhà thơ đã thấm nhuần triết lý của nhà Phật. “Vô thường”, “sắc không”, “tứ khổ”, “diệt khổ”, “từ ái”… được chất chứa trong từng câu chữ giản dị tưởng chừng như không còn là thơ, không phải là thơ. Mặc dù bài thơ đậm chất triết lý, nhưng chất triết lý ấy đến một cách đơn giản, không trau chuốt gọt giũa, không cao đàm khoát luận. Mọi cảm xúc, tình cảm trong bài thơ vừa như có, vừa như không; vừa rất nặng, vừa rất nhẹ; vừa hiện thực, vừa kỳ ảo. Tất cả đều tùy thuộc vào cách mà mỗi người cảm nhận về cái chết, về tình mẫu tử, về lẽ tử sinh. Sâu sắc và đa nghĩa như thế, Bông hồng cho Mẹ là cả một chân trời nghệ thuật mà ở đó, mọi đường nét nghệ thuật dường như tan biến trong tình cảm sâu nặng của người con đối với mẹ, để rồi lan tỏa đến người đọc. Khiến cho người đang nằm có thể bước đi, khiến cõi chết trở thành cõi sống, khiến âm dương cách biệt trở nên gần lại, đậm chất nghệ thuật nhưng không thấy dấu hiệu của nghệ thuật…”
(đặc san Liễu Quán, số 12, Vu Lan 2017).
Mùa Vu Lan này, xin gởi bạn đôi dòng về bài thơ Bông Hồng Cho Mẹ như một lời chúc mừng đến bạn, người đã rất sướng vui, tự hào, khi còn được cài một bông hồng đỏ thắm trên ngực áo của mình! “Rồi một chiều nào đó anh về, nhìn Mẹ yêu, nhìn thật lâu… rồi nói nói với Mẹ rằng…Me ơi, Mẹ ơi, Mẹ có biết hay không?…” (Phạm Thế Mỹ).
ĐHN
(Văn hóa Phật giáo, số 280, Vu Lan 2017)
August 22, 2017
Lõm bõm học Phật: “Con mắt còn lại”…
Đỗ Hồng Ngọc
Phật bỗng hỏi Tu-bồ-đề, ông nghĩ sao? Như Lai có “mắt thịt” không? Dạ có! Như Lai có mắt thịt! Tu-bồ-đề vội đáp. Hỏi ta, chắc ta ấp úng, không dám trả lời. Ta dễ nghĩ rằng Phật hẳn chỉ có Phật nhãn (mắt Phật) còn phàm phu chúng ta mới có nhục nhãn (mắt thịt) chứ, ai dè kinh Kim Cang nói Phật cũng có nhục nhãn như phàm phu, chẳng cũng khoái ru? Thế rồi Tu -bồ-đề dạ có, dạ có, năm lần cả thảy! Thì ra Phật có đủ cả năm thứ con mắt: nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn… Những 5 thứ con mắt ư, có nhiều quá không?
Dĩ nhiên “mắt” là để nhìn, để “thấy”! Và, nhiều loại con mắt là để thấy nhiều … kiểu khác nhau – nói khác đi là để nhìn dưới nhiều “quan điểm”- chứ không khư khư bám chặt lấy quan điểm của mình, khư khư cho rằng mình đúng người sai để chí chóe hoặc để thượng cẳng tay hạ cẳng chân! “Thấy” như thế nào là một chuyện hệ trọng. Thấy thế nào sẽ dẫn tới nghĩ suy, nói năng, hành động thế đó! Cho nên Quán Thế Âm bồ tát mới có nghìn mắt nghìn tay mà trên mỗi bàn tay đều có một con mắt!
Trong Bát chánh đạo thì Chánh kiến ở vị trí số một! “Kiến” mà không chánh thì dễ lệch lạc! Có chánh kiến rồi mới có chánh tư duy được! Không thì cứ loay hoay không lối thoát hoặc hý luận chẳng tới đâu!
Thấy và biết có khi xa lơ xa lắc dù cũng căn đó cũng trần đó! Chuyên kể hai vợ chồng nhà kia đang xem xiếc trong rạp. Cô diễn viên trẻ đẹp mặc một bộ đồ biểu diễn rất hấp dẫn đang treo toòng teng trên chiếc đu bay! Người vợ bỗng kêu lên: Bên dưới không có gì hết!Anh chồng gật đầu đồng ý. Nhưng sau một lúc nhìn kỹ lại, anh nói: Không phải! Bên dưới có lớp vải màu da người đó chứ! “Tôi muốn nói không có lưới bảo đảm dưới cái đu bay, còn ông đang nói về cái gì vậy hử?”! Thì ra, yêu nhau là cùng nhìn về một hướng nhưng thấy… khác nhau! Người vợ thì… từ bi, ông chồng thì… từ ái!
Chỉ riêng nhục nhãn, mắt thịt, đủ lôi thôi rồi! Nhãn cầu to hơn một chút đã sinh tật cận thị, trông gà hóa cuốc Giác mạc cong không đều một chút, đã sinh loạn thị, nhìn cái gì cũng méo mó. Rồi loạn sắc, quáng gà… đủ thứ! Rồi cườm nước, cườm khô, bong võng mạc, thoái hóa hoàng điểm, hoa đốm hư không. Cứ tưởng tại không gian ai ngờ mắt mình lão hóa! Khi mất dao thì cái mắt thịt đó thấy người nào cũng giống kẻ ăn cắp dao. Mắt thịt chỉ là một cấu trúc của “tứ đại” giúp ta thấy – mà không giúp ta biết. Cái biết nằm ở đằng sau kìa. Nằm ở vỏ não, ở thùy chẩm kìa. Mắt thịt chỉ tiếp thu ánh sáng, hình thể, màu sắc… rồi dẫn truyền về cho não phân tích, tổng hợp, so sánh… Tâm thức thế nào thì vạn pháp thế đó. Mặc sức mà vẽ vời. Mặc sức mà diễn dịch, mà phê phán, nhận xét, rồi chí chóe, rồi sứt càng mẻ gọng vì những “nhỡn quan” khác nhau! Mắt thịt không có lỗi! Căn trần gặp nhau tạo ra “tướng” thì cái tướng không có lỗi! Chính cái tâm nhiễu sự, “dán” vào cái tướng đó mới thành cái “tưởng”, mới sinh sự. Mà sinh sự thì sự sinh!
Vấn đề là chuyển hóa cái tâm đó cách nào, huấn luyện cái tâm đó ra sao, để thấy cho đúng và biết cho đúng. Từ cái tâm “điên đảo mộng tưởng”, cái tâm luôn sinh sự, xuyên tạc, lăng xăng, căng thẳng, mệt mỏi đến cái tâm “vô sinh”, vô sự, vô hành… thảnh thơi vui thú có khó lắm không? Khó, nhưng có thể. Miễn là phải tinh tấn, phải thiền định… để đạt đến trí huệ. Khi rèn tập như vậy, dần dà ta có những con mắt… mới!
Thiên nhãn- mắt thần – là những loại… siêu âm, nội soi, chụp cắt lớp (MRI) bây giờ! Nó cũng là… kính hiển vi điện tử, phóng lớn hằng triệu lần, là viễn vọng kính khổng lồ… nhìn xa hằng triệu năm ánh sáng! Thời Phật chưa có hiển vi điện tử, chưa có viễn vọng kính, chưa có siêu âm, chụp cắt lớp… vậy mà Phật vẫn thấy đựơc trong ly nước kia có vô số những vi sinh vật, thấy đựơc tam thiên đại thiên thế giới chớ không phải chỉ mình ta cô độc trên quả địa cầu! Các nhà khoa học thường dừng lại ở thiên nhãn. Bởi họ chỉ lo tìm kiếm, phát hiện những thứ ở bên ngoài mà quên nhìn vào bên trong. Gần đây có vẻ các nhà vật lý học, các nhà y sinh học, với những tiến bộ khoa học kỹ thuật của mình đã có thể “thấy” ra nhiều chuyện lạ, khiến họ giật mình không ít. Huệ nhãn là con mắt thứ ba, con mắt bất nhị, con mắt nhìn rõ chân không mà diệu hữu, vô thường, vô ngã. Huệ nhãn có khi là đã đủ. Đủ để dừng chân, Đủ để đặt gánh nặng xuống. Đủ để tủm tỉm cười một mình. Ung dung. Tự tại.
Thế nhưng, nếu chỉ vậy thì đức Phật có lẽ sẽ quanh quẩn dưới gốc cây Bồ đề việc gì phải lặn lội gió mưa đi khất thực và truyền trao giáo pháp suốt cả cụôc đời? Cho nên cần có “Pháp nhãn”! Con mắt pháp (pháp nhãn) là một “con mắt” lý tưởng, hoài bão cao đẹp, có phần “lãng mạn” nữa! Muốn vậy họ phải xả thân, phải chí nguyện, và trước hết phải… “chủng ngừa” đầy đủ cho chính mình trước khi xuống núi! Không chủng ngừa đầy đủ, họ dễ bị nhiễm ô, mắc bệnh! Có pháp nhãn rồi mới có thể tùy duyên mà bất biến, bất biến mà tùy duyên, thõng tay vào chợ!
Tu-bồ-đề! Ư ý vân hà? Như lai hữu Phật nhãn phủ? Tu-bồ-đề, ông nghĩ sao? Như Lai có Phật nhãn không? Phật mà không có Phật nhãn thì ai có? Nhưng Phật nhãn là gì? Là cái thấy cái biết của Phật, là “tri kiến Phật”. Nhưng đừng quên rằng Phật thì có đủ cả “ngũ nhãn” cùng lúc.
“Gươm báu tra tay” viết về kinh Kim Cang của Đỗ Hồng Ngọc, bản dịch tiếng Anh của Diệu Hạnh Giao Trinh, Thiện Tri Thức xb, 2015
Bùi Giáng, một thi sĩ thấm đẫm Kim Cang thường hạ những câu “hà dĩ cố” trong thơ có lần viết “ Còn hai con mắt khóc người một con…” mà Trịnh Công Sơn đã nối theo: Còn hai con mắt một con khóc người! Con mắt còn lại…? Ừ, con mắt còn lại thì sao? Con mắt còn lại… nhìn một thành hai, nhìn em yêu thương nhìn em thú dữ…(TCS). Phải rồi, cái con mắt còn lại quả thực là con mắt gây phiền hà! Nó bị diplobie, nhìn một thành hai! Nhưng người bị diplobie thì nhìn một thành hai giống hệt nhau còn đầu này nó nhìn em… yêu thương thành em thú dữ, rồi còn “ nhìn tôi lên cao nhìn tôi xuống thấp…”, nghĩa là cái nhìn đầy “phân biệt đối xử”! Nó như của ai khác- nó quan sát ta, nhìn ngắm ta và rồi nó …thở dài thấy mà ghét (Con mắt còn lại là con mắt ai? Con mắt còn lại nhìn tôi thở dài! TCS)! Thở dài, bởi nó thấy ta tội nghiệp! Thấy ta đáng đời! “… đời tôi ngốc dại, tự làm khô héo tôi đây…” (TCS). Đó chính là con mắt của “Thức”. Của biện biệt, so sánh, đếm đo. Khi “thức” biến thành “trí” thì mọi chuyện đã khác! Lúc đó,
Con mắt còn lại
nhìn đời là không
nhìn em hư vô
nhìn em bóng nắng!
Là không, chứ không phải bằng không! Là không, đó là cái không của có, cái có của không… Tóm lại, còn hai con mắt… “khóc người một con” kia là con mắt của Bi! “Con mắt còn lại nhìn đời là không” này chính là con mắt của Trí. Bi mà không Trí thì cứ sẽ khóc hoài, dỗ không nín!
(báo Văn hóa Phật giáo, số 279 ngày 15-8-2017)
Buổi nói chuyện đề tài: “Vận dụng tư tưởng Kim Cang Bát Nhã trong cuộc sống” tại Chùa Xá Lợi Tp.HCM.
August 21, 2017
Thư gởi bạn xa xôi (tiêp): Tháng “Sinh Nhật”
Thư gởi bạn xa xôi (tiêp):
Tháng “Sinh Nhật”
Đỗ Hồng Ngọc
Kể bạn nghe những chuyện ”tào lao” ngày Sinh nhật mình ư? Thì kể. Nghe qua rồi bỏ nhe. Năm ngoái, bạn biết đó, blog Nguyệt Mai làm một ”surprised” bất ngờ, cảm động và thú vị với tranh vẽ của duyên, bài của TVL, NM, km v.v… Trời, lần đầu mới thấy chuyện đó. Nhưng thiệt ra, mình đâu có ngày SN, cho nên mình tạm gọi là “Tháng” SN thôi. Số là ông già mất sớm, bà già đưa đám con nheo nhóc trên rừng về Phan Thiết tạm trú nhà Cô Hai trong chùa HN. Khi được đi học lại, cần giấy khai sanh, không có. Hỏi, Má nói sanh tháng Tám, lúc khuya, còn ngày thì không nhớ. Làm cái ”Thế vì khai sinh” ghi đại ngày 15, sụt 3 tuổi để đi học như đa số bạn bè trong thời chiến tranh buổi đó.
Cho nên bây giờ mình coi tháng Tám là ”tháng sinh nhật” đó vậy. làm gì ư? Đi về Lagi, Phan Thiết, Mũi Né một vòng. ”Đi cho đỡ nhớ” như tựa bài thơ mình viết năm 1973, mơ một chuyến tàu Nam Bắc. Ông Nguyễn Hiến Lê đọc, khen hay, và nói ông cũng mơ như vậy để được uống nước dừa Tam Quan, ăn Cam Xã Đoài, cốm làng Vòng rồi về thăm mùa nước lũ Bạch Hạc quê hương ông dưới chân núi Tản sông Đà… Mình về Lagi thì thăm Đập Đá Dựng như thư trước đã viết cho bạn, rồi đi Mũi Né. Gặp Khoa, MuiNe Bay trò chuyện rất vui. Khoa nói mơ ước làm cái gì đó bảo vệ môi trường thật tốt, nâng cao văn hóa cho vùng biển nghèo, mặc dù resorts mọc lên như nấm, chủ yếu cho du khách và người giàu! Mình có nhắc làng chài Tam Thanh ở Tam Kỳ, Quảng Nam, nhờ các bức bích họa do một nhóm họa sĩ Hàn Quốc vẽ mà nay trông sạch sẻ, dân vui. Khoa nói cũng đã có nghĩ đến và định phát triển ở khu Thạch Long, có nhiều di tích…
Rồi có một bữa cơm chay với một nửa ”gánh hát”: Lê Ký Thương, Kim Quy, Thu Vàng. Rồi một buổi cafe với Thân Trọng Minh, Huyền Chiêu. Tóm lại, chỉ còn thiếu Tùng Duyên, Nguyệt Mai, Khánh Minh, Ngọc Vân… Dĩ nhiên không thể thiếu ông Thầy Hoàng Quốc Bảo.
À, bài Mũi Né, ngoài clip rất đẹp do Thuý Vy Trần-kiêm làm trước đây với giọng ca Thu Vàng, ban nhạc Randy Ames Orchestry với nhiều cảnh Mũi Né tuyệt vời thì nay có thêm một clip mới rất đẹp nữa của Hoàng Khan Nhan. Phải nói Thúy Vy là cảnh, nhiều cảnh cảm động… thì Hoàng Khan Nhan là tình dằng dặc mênh mông! Văn Sơn Trường, nhóm bạn y khoa cùng khóa với mình đã gởi về, kêu rất hay, rất hay đó Ngọc ơi! Rồi Trần Vấn Lệ, Thúy Vy cùng lúc cũng gởi về. Bạn thử nghe xem nhé.
Rồi mình ra Đường Sách, tình cờ gặp lại ông bạn già Nguyễn Văn Ích, năm nay mới 89 tuổi, thường xuyên mang labtop ra quán cafe viết lách.
Chuyện trò cùng ông Nguyễn Văn ích 89 tuổi ở Đường Sách Saigon 8.2017
Mình ‘phòng vấn’: Tuổi này, có chút nuối tiếc gì chăng? Có. Đó là lúc nhỏ muốn học văn mà bị học khoa học (kỹ sư hóa). Và một mối tình? Đó là lúc 17 tuổi nằm dưới hầm tránh bom, ngu dễ sợ. Rồi khi đi du học về gặp lại cũng ngu dễ sơ!…
Mấy ngày này, bỗng nhiên nhận được thư rất quý của Kiều Minh Mạnh từ Dran, nói về tuổi già, rồi bài viết của Nguyễn Thị Tịnh Thy từ Huế về bài thơ Bông hồng cho Mẹ, một bài viết rất hay, từ góc nhìn của người dạy Văn học ở Đại học Sư phạm Huế. Nguyên Minh, Quán Văn phone khoe ngay và gởi cho mình đọc qua, dặn, chưa được phổ biến, để báo in ra trước đã nhé.
Một buổi cafe SN cùng Bs Trương Trọng Hoàng, Bs Mai Ngọc Thanh Ngân ở Bộ môn và mấy em SV trường Phạm Ngọc Thạch. Mái lá đơn sơ, bên bờ hồ quen thuộc, yên ả, đầy chim và sóc…
Nhưng có lẽ phải nói thêm một kỷ niệm đẹp khác nữa: đó là buổi ”bế giảng” của một khóa học đặc biệt dành cho các vị tu sĩ trẻ đang vào mùa ”An cư kiết hạ” ở Chùa Xá Lợi. Nói ”đặc biệt” vì đó là những buổi trao đổi thân mật giữa nhóm cư sĩ gồm có Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn, cư sĩ Minh Ngọc và bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc với các vị tu sĩ trẻ, mỗi tuần 2 buổi, suốt hơn 2 tháng. Buổi đầu còn có chút bỡ ngỡ của các thầy, nhưng càng về sau càng thân thiết vì đã cùng nhau chia sẻ, trao đổi, thảo luận… khá sôi nổi về nhiều vần đề thiết yếu như về lịch sử Phật giáo, về Thiền lâm bảo huấn, về Phật học ứng dụng trong đời sống… Đây là một sáng kiến khá độc đáo của Thầy Đồng Bổn, trụ trì chùa, mà khóa đầu tiên đã thực hiện từ 2 năm trước với kết quả tốt đẹp.
Kỷ niệm Lớp An cư kiết hạ tại chùa Phật học Xá Lợi, 18.8.2017.
Nhóm cư sĩ: Minh Ngọc, Đỗ Hồng Ngọc, Trần Đình Sơn.
”Thảo luận nhóm”
Dưới đây là clip Mũi Né của Hoàng Khan Nhan với tiếng hát Thu Vàng. Rảnh nghe thử nhé.
Đa tạ Thúy Vy, Hoàng Khan Nhan, Thu Vàng… và dĩ nhiên nhạc sĩ, Thầy Đăng Châu Hoàng Quốc Bảo!
Thân mến,
ĐHN
(22/8/2017)
August 15, 2017
thư gởi bạn xa xôi 8.17 (tiếp)
Thư gởi bạn xa xôi (tiếp)
Về Phan Thiết
Với mình thì ”Phan Thiết” luôn bao gồm cả Lagi và Mũi Né, cả Ma Lâm và Mương Mán. Vậy là đông tây nam bắc có đủ cả. Cái vùng đó thật lạ. Ngoài địa danh Lagi (đọc là La Di, giọng Nam bộ) thì còn có La Gàn, La Ngâu, La Ngà… Núi thì có Tà Cú, Tà Zône, Tà Đặng, Tà Lài, Tà Mon… Hàm thì có Hàm Tân, Hàm Thuận, Hàm Đức, Hàm Tiến… Có người bảo La là sông, Tà là núi và Hàm là ruộng. Mình chỉ biết vậy. Mương Mán nổi tiếng với Ga Mương Mán, trên tuyến đường xe lửa Bắc Nam, bỗng dưng sau 75 bị đổi tên thành Ga Bình Thuận, chẳng hiểu tại sao. Có lẽ rồi đây Ga Tháp Chàm sẽ đổi thành Ga Ninh Thuận… và rồi ga Diêu Trì, ga, ga… tiếp tục đổi tên.
Về Phan Thiết, lúc nào cũng ghé Lagi. Thế nào cũng ghé Đập Đá Dựng. Một ly cà phê. Nhìn dòng nước chảy xiết. Ngày nào, mới đó mà đã hơn 60 năm, cùng bạn bè đạp xe vượt đồi, qua các trảng cỏ cao hơn đầu người, lên Đá Dựng tắm sông. Trần truồng như nhộng. Đến khi co cái đập nước, có cái nhà một cột giữa dòng, có những con lân đá mang tên mới là Đập Đá Dựng thì vẫn trần truồng như nhộng tắm sông cả bọn. Mới thôi.
Về Mũi Né lúc này muốn ngắm dừa “xứ Rạng” thì phải vào các resort may ra. Mà rừng dừa cũng già quá đỗi rồi.
Thuyền thúng (Thúng chai) bây giờ cũng lạ. Xanh xanh đỏ đỏ cũng khá tươi.
Bàu Trắng, Bàu Sen xưa là một vùng tuyệt đẹp với đồi cát mênh mông, hồ nước mênh mông xanh ngút ngàn mà nay dấu xe đặc chủng du lịch cày xới không thương tiếc… Nhớ ngày nào đưa đoàn T4G đến thăm còn hoang sơ lắm.
May còn một chút làng chài ở Hóa Thắng, nơi có cái đảo nhỏ trông giống như một con Rùa biển gọi là Hòn Đú (Rùa biển vùng mình gọi là con Đú, nhớ không? Đú lên cát để trứng hằng trăm quả, như trái bóng bàn, mềm mềm và dai chắc, vùi trong cát để ấp, khi nở ra hằng trăm con đú con đua nhau bò xuống biến, nhớ không?).
Lần này về Phan Thiết mình còn ghe 1le6n Ma Lâm. Tính gặp Ngô Đình Miên thăm mà bạn đi Saigon. Thôi ghé chụp cái hình chiếc ga xép nhỏ, ngày nào 12 tuổi, đi theo Chị Ba Oanh từ chùa HN lên thăm bác Năm H, anh Lìn, chị Nhạn…bằng xe lửa. Nay anh Lìn (Lâm Hồng Lân cũng vừa mới mất). Ma Lâm chỉ cách Phan Thiết 15km, thuộc Hàm Thuận Bắc, có đường đi thẳng lên Di Linh Đà Lạt, quốc lộ 28, ngang qua khu rừng nguyên sinh mênh mông ma quái nên từ xưa đã được gọi là Ma Lâm chăng? Ở đó có Đập Sông Quao hùng vĩ. Sông Quao đổ về Lương Sơn, Phan Rì, nhớ chứ? Lần này mình cũng có ghé. Năm xưa, còn Má, đã đưa Má đến đây.
Đập sông Quao
Rồi ghé tạt ngang Chùa HN, nơi ở mấy năm tuổi thơ đi học Trường tiểu học Bạch Vân của cô Tiểu Sính (Hồ Thị Tiểu Sính, con Út cụ Hồ Tá Bang) rồi trường Phan Bội Châu, Phan Thiết (1954). Mới thôi.
Nhưng không thể không kể thêm rằng về Phan Thiết thế nào cũng phải đi ăn Bánh Căn và ăn chè “Mộng Cầm”, rồi uống trà Lipton đặc biệt chỉ thấy có ở Phan Thiết, quán cafe BM bên bờ biển Vĩnh Thủy (Thương Chánh).
Trà lipton nóng, tự pha chế. tự vắt cam, chanh, quất vào tách trà, có sẵn táo tàu, xí muội, cam thảo… các thứ! Rất ngộ. Chỉ thấy có ở Phan Thiết.,
Vậy đó, vài chuyến về Phan Thiết gần đây của mình. Phải kể cho bạn nhớ quay quắt chơi!
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
August 13, 2017
thư gởi bạn xa xôi 8.17
Thư gởi bạn xa xôi,
Đã bắt đầu làm biếng tổ rồi! Phải đợi bạn nhắc vài lần mới chịu ngồi gõ đây. Tay chân cũng lọng cọng hơn rồi đó.
Thấy thời đại internet có gì hay ư? Có đó.
Chẳng hạn một bài viết của ai đó, bỗng nhiên thấy tên mình là tác giả, phát tán tùm lum. Một cô giáo hỏi ”đọc không thấy giọng của Ngọc?” và ”sao lạ vậy? hay là bị ức chế lâu quá nên bây giờ mới xổ ra?”… Rồi hai vợ chồng người bạn cũng khá thân tình, e dè hỏi: lâu nay có chút thắc mắc, nếu anh cho phép… có phải anh vừa mới viết bài nọ bài kia không? Ối trời. Đính chính cả chục lần chẳng ai thèm để ý!
Rồi có bài thì bị cắt khúc giữa, giữ đoạn đầu đoạn cuối của mình, thêm hẳn một khúc theo ý chủ quan của người sửa, chẳng biết để làm gì…!
Có người tử tế hơn, giữ nguyên bài mình viết, giữ nguyên tên tác giả, chỉ có Bold đậm chỗ này chỗ khác theo ý riêng, rồi thêm hình ảnh minh họa, thêm video, thậm chí… quảng cáo cái gì đó nữa. Thật vui.
Mới đây, ngày CN 18/6/2017 mình có buổi Nói chuyện tại Pháp viện Minh Đăng Quang cho khoảng 500 sinh viên. Đề tài cho mình tự chọn. Mình chọn: Tại sao tôi học Phật? Vì nói với các bạn trẻ, sinh viên nên có lẽ tốt nhất là giải đáp cái thắc mắc của họ: Học Phật để làm gì? Tại sao lại học Phật?…
Các Sư ở pháp viện có thu hình, thu âm. Hôm nọ, Sư ML phone nói bác sĩ ơi, video có đoạn đầu bị rè, khó nghe, nhóm thực hiện đề nghị bác sĩ nói lại giùm đoạn này được không? Làm sao nói lại được? Nói là nói với ai, nói lúc nào, nói cái gì… nữa chứ! Rồi Sư bảo hay là, bên nhóm quay clip đề nghị bác sĩ cho họ chọn một giọng nói của ai đó giống giọng bác sĩ nói lại đoạn này vậy nhé? Lại càng tệ! Mình phải từ chối ngay.
Thôi thà nghe rè rè một đoạn (vài chục phút) rồi nghe tốt đoạn sau còn có lý hơn.
Vậy đó, thời buổi của Internet, của truyền thông… đa phương tiện hiện nay.
Bạn nghe thử vậy nhé,
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc
August 11, 2017
thơ Trần Vấn Lệ: Mùa Vu Lan…
Trải Chiếu Nhìn Trăng
Cũng muốn lắm làm bài thơ thật êm, một bài thơ thật dịu, thật mềm…như tóc thề em hồi em mười bảy, như cành soan hoa nở và chim…
Cũng muốn lắm để hồn dang cánh và thơ bay trong cảnh thanh bình, lướt qua tai em những lời nhỏ nhẹ, lướt qua vai em hơi thở của anh…
Cũng muốn lắm đại dương hẹp lại như con sông Hương uốn lượn giữa hai bờ, thấy ai đó như là dáng Ngoại giữa vườn cau bay bay sáng mưa…
Cũng muốn lắm mình là tảng đá nằm bên đường gội nắng giầm sương, em tan học về ngồi nghỉ mệt…có đôi khi chợt thấy em buồn…
*
Cũng muốn lắm che đầu nón lá có bài thơ cho Huế bốn câu mà cây bút cầm lên để xuống tưởng quê nhà có lẽ đang Thu…
Đừng nói nhé một lời đau đớn! Đừng thở dài, Non Nước đã dài! Đừng hỏi sao mặt trời tắt muộn? Ngôi sao chiều lấp lánh chờ ai…
Một bài thơ mở lời không có, nói vu vơ không điệu không vần. Đợi nắng tắt và đêm rồi sẽ trải chiếu nằm nhìn tha thiết ánh trăng…
Trần Vấn Lệ
Khói Quyện Trầm Hương
Hôm nay em nói em đi Chùa, em sẽ ăn trưa ở đó trưa, ăn cho được nhẹ lòng ham muốn, cho thấy đời không có thiếu, thừa…
Em muốn hồn nhiên như lúc nhỏ níu tà áo Mạ nép lưng Ba, em quỳ tay chắp Nam Mô Phật…lòng tự nhiên bừng một đóa hoa…
Em nói dễ thương như tiểu thuyết để anh mặc sức diễn thành thơ. Chúng ta rồi sẽ như chim sẻ ríu rít bên nhau trước bệ thờ…
Em nói líu lo như chim rừng hôm nào về đậu ở Dran, áng mây Ngoạn Mục trùm Eo Gió, hoa anh đào nở rực sáng Xuân…
Em nói như là chuông thánh thót, ờ em hôm nay em đi Chùa, Sư Ông sẽ tặng phong bì đỏ, em cúi đầu, em ấp úng thưa…
Ôi em, em vẫn là cô bé, vẫn nhé như trăng tháng Bảy Rằm, xá tội vong nhân, đời hạnh phúc với người kề cạnh kẻ xa xăm…
*
Hồi tối anh mơ thấy dọc đường, một o xinh lắm áo mù sương, anh đưa tay hứng vầng trăng bạc rồi gọi âm thầm em-cố-hương…
Em nói nữa đi, em cố quận, con đò, bến cũ, bóng cây đa…Mái tranh quán lá ngày mưa bão, khói quyện trầm hương anh thiết tha!
Trần Vấn Lệ
thơ Trần Vấn Lệ: Trải Chiếu Nhìn Trăng
Trải Chiếu Nhìn Trăng
Cũng muốn lắm làm bài thơ thật êm, một bài thơ thật dịu, thật mềm…như tóc thề em hồi em mười bảy, như cành soan hoa nở và chim…
Cũng muốn lắm để hồn dang cánh và thơ bay trong cảnh thanh bình, lướt qua tai em những lời nhỏ nhẹ, lướt qua vai em hơi thở của anh…
Cũng muốn lắm đại dương hẹp lại như con sông Hương uốn lượn giữa hai bờ, thấy ai đó như là dáng Ngoại giữa vườn cau bay bay sáng mưa…
Cũng muốn lắm mình là tảng đá nằm bên đường gội nắng giầm sương, em tan học về ngồi nghỉ mệt…có đôi khi chợt thấy em buồn…
*
Cũng muốn lắm che đầu nón lá có bài thơ cho Huế bốn câu mà cây bút cầm lên để xuống tưởng quê nhà có lẽ đang Thu…
Đừng nói nhé một lời đau đớn! Đừng thở dài, Non Nước đã dài! Đừng hỏi sao mặt trời tắt muộn? Ngôi sao chiều lấp lánh chờ ai…
Một bài thơ mở lời không có, nói vu vơ không điệu không vần. Đợi nắng tắt và đêm rồi sẽ trải chiếu nằm nhìn tha thiết ánh trăng…
Trần Vấn Lệ
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

