Trần Tiễn Cao Đăng's Blog, page 3
May 5, 2023
Arrobauth và Mănjíb (Trích từ "Ngoại truyện Gurun" đi kèm với "Cospolist Nổi Loạn", tiểu thuyết sắp in của tôi)
Arrobauth gặp Mănjíb trên đường cái quan từ Bergavóntai về Zänsurdén. Dù Arrobauth đã mấy lần thấy Mănjíb từ xa, song khi hai người đứng trước mặt nhau lần đầu tiên, Arrobauth cảm thấy có một cái roi bện căng bằng cây gai lạnh như băng quất vào ngực chàng. Hai người nghỉ trọ cùng lữ quán. Đêm, họ ngồi cạnh lò lửa trong căn bếp kiêm buồng ăn, sực mùi dầu mỡ, đầy bồ hóng, mỗi người ấp giữa hai bàn tay một cốc vại to bằng gỗ övgêlêm đựng rượu gừng hâm nóng. Ngoài cửa, gió rít.
Này Mănjíb, sau một hồi im lặng dài Arrobauth nói. Tôi muốn anh làm cho tôi một thanh gươm đặc biệt, thanh gươm mà dẫu là người chí thiện, chỉ cần dùng tới một lần là thành kẻ đại ác, dù ý định ban đầu của y là thế nào đi chăng nữa.Mănjíb lặng lẽ mân mê cốc rượu, mắt nhìn đăm đăm vào điểm nào đó của ngọn lửa trong bếp lò. Một cái gì đó giông giống nụ cười thoáng hiện trên mép chàng.
Anh nghe tôi nói chứ, Mănjíb?
Chầm chậm, Mănjíb ngoảnh lại, bóng tối đọng nơi gò má chàng phía khuất khỏi ánh sáng bếp lò.
Anh bạn gọi đó là thanh gươm đặc biệt. Anh thật sự tin thế sao?
Arrobauth cười xòa, đặt cốc rượu xuống sàn bếp đen nhẻm.
Mănjíb, Cha và Mẹ của Những Thanh Gươm, là một cái tên lừng lẫy, chàng nói. Nếu anh biết rõ hơn tôi thế nào là một thanh gươm đặc biệt, xin hãy chỉ giáo.
Mănjíb lại quay về phía ngọn lửa, một nụ cười mơ hồ như cái bóng của một làn khói phớt qua bên mép chàng.
Không một thanh gươm nào là đặc biệt đối với ta. Mỗi thanh gươm là độc nhất vô nhị theo cách của nó và đều tầm thường theo cách của nó.
Arrobauth im lặng, suy nghĩ.
ARROBAUTH: Cũng như con người, phải không? Người ta nói, đối với nhà làm gươm, mỗi thanh gươm như một con người, là một con người. Mỗi thanh gươm có cá tính của nó, linh hồn của nó. Cái gì làm một thanh gươm đặc sắc hơn hoặc gớm ghê hơn ngàn vạn con người?
MĂNJÍB: Có người nào mà, hơn cả thanh gươm anh vừa nói, một người chí thiện chỉ một lần gặp y, nhìn vào mắt y, chạm vào y là biến ngay thành kẻ đại ác? Anh từng biết bao nhiêu người như thế, hở Arrobauth?
ARROBAUTH (ngừng một chút): Tôi có biết. Giữa triệu người, có một người như thế.
MĂNJÍB: Và anh muốn một thanh gươm làm được cái việc mà giữa triệu người chỉ một người có thể làm?
ARROBAUTH: Tôi muốn một thanh gươm làm được nhiều hơn chứ không chỉ giết.
(Chàng ngừng một chút, dường như xúc động bởi điều mình sắp nói ra, tuy nhiên không một cơ nào trên mặt chàng động đậy).
Tôi muốn một thanh gươm có khả năng hủy diệt theo những cách vượt xa cái chết thường tình. Thanh gươm thường tình giết chết xác thân một con người. Thanh gươm tôi muốn là thanh gươm giết chết linh hồn một con người, và nó làm việc đó không phải bằng mũi nhọn hay cạnh bén của nó mà bằng chuôi của nó. Mũi và cạnh nó giết thân xác kẻ làm đích cho gươm, chuôi nó giết linh hồn kẻ cầm gươm.
MĂNJÍB: Hãy cẩn thận với điều anh nói, anh bạn. Hãy suy nghiệm lại điều anh vừa nói, để xem anh có đang nhầm lẫn không.
Cho dù kẻ chí thiện (nếu quả thật là chí thiện) có chuyển thành kẻ đại ác bởi cầm thanh gươm của anh trong tay hay không, song người ta không bao giờ có thể nói chắc rằng linh hồn hắn đã chết. Bởi, nếu trở thành kẻ đại ác là để thực hiện một nghĩa vụ mà hắn phải làm theo đúng cơ đồ của vạn vật, cho dù hắn có thu được lạc thú cho bản thân từ việc đó hay không, thì anh không thể nói về hắn như về một kẻ đã chết.
Và nếu kẻ chí thiện đó, mặc dù hoặc chính vì biết thanh gươm này có thể làm hắn trở thành gì đi nữa, vẫn cầm lấy chuôi gươm vung nó lên một cách hoàn toàn hữu thức, thì anh có thể nói gì về hắn, kẻ hoàn toàn làm chủ tâm trí và hành động của mình, hành động không phải với tư cách bản ngã hắn mà với tư cách công cụ của thiên cơ, cái vốn dĩ lớn hơn hắn?
Những kẻ làm gươm bọn ta, trong khi làm gươm, bọn ta không màng đến thiện ác. Thanh gươm, cũng như hùng tâm dũng khí của con người, tạo ra cái gì là tùy ở người sử dụng nó và điều này xét đến cùng là tùy ở thiên cơ. Cái thanh gươm anh nói với ta, anh tưởng nó là cái gì đặc biệt với ta sao. Đúng là tay ta chưa từng làm ra nó, nhưng tai ta đã nghe về những thanh gươm như thế, và dẫu chính mắt ta chưa nhìn thấy thì cũng có quan trọng gì một khi chúng chỉ là những thứ tầm thường như bất cứ con người nào ta từng gặp và không bao giờ gặp trong đời ta?
Nói vậy không có nghĩa là ta không thừa nhận rằng thanh gươm của anh, nghĩa là thanh gươm trong hình dung của anh, nổi bật vì sức mạnh. Nghề của bọn ta là sinh ra sức mạnh, sức mạnh không ngừng tăng tiến, sức mạnh hoàn hảo trong chỉnh thể của nó. Ta thừa nhận sức mạnh của nó, song ta không động tâm trước nó. Ta yêu cái ta đang làm ra, ta dửng dưng trước cái ta đã làm ra và trước cái ta biết ta có thể làm ra.
ARROBAUTH: Vậy anh có thể làm thanh gươm đó, và trong quá trình làm ra nó anh sẽ yêu nó? Tôi hiểu vậy có đúng không, Mănjíb? Nếu quả vậy, với tôi thế là đủ.
Mănjíb thong thả nhấp một ngụm rượu, ngước nhìn gié lúa tkhêbatăi chi chít hạt, màu vàng đã xỉn vì thời gian, mà chủ quán ghim lên tường bếp đầy bồ hóng để cầu may, dấu hiệu rõ ràng cho thấy y xuất thân từ tỉnh Sbergă màu mỡ của vùng châu thổ Păwgulém.
MĂNJÍB: Ta sẽ kể cho anh một câu chuyện.
March 12, 2023
Ofrangan (trích từ "Ngoại truyện Gurun" đi kèm với tiểu thuyết "Cospolist Nổi Loạn" của tôi, sẽ in trong năm 2023)
Ofrangan nghe trong gió hương thơm của một loài hoa lạ không ai biết hoa gì, và chàng mơ hồ hiểu đó là dấu chỉ rằng chàng rồi sẽ ra đi, dấn vào cuộc phiêu lưu lớn đầu tiên và duy nhất của đời chàng.
Phương xa, nơi mà nếu may mắn chàng sẽ gặp những góc nhỏ ngào ngạt những mùi hương chàng chưa từng biết, không chỉ hương hoa, và nơi mà kể cả dù được thần may mắn hộ trì chàng có thể sẽ chết.
Phương xa, hương đậm, cuồng hoan, cái chết. Đó là bản bi-tráng ca mà chàng sẽ tạo nên bằng cuộc đời chàng.
Có lần, hồi bảy tuổi, chàng theo anh trai Shenjuren trèo lên cội cây cao nhất trong điền trang gia tộc. Không ai biết tuổi của Cây. Hồi đất này được sáp nhập vào điền trang, thời ông tổ bốn đời của anh em chàng là Cây đã có đó rồi, thân sáu bảy người ôm, rợp bóng đủ ba trăm người nương náu lúc trời nắng gắt. Tuy nhiên chẳng mấy ai có thể đứng trong bóng râm của Cây với con tim bình thản, hầu hết họ ít nhiều rùn lại bởi một niềm kính sợ giống như niềm kính sợ khi nhìn ngọn núi cao nhất. Có một người (loại này ở đâu và thời nào cũng có) phản kháng niềm kính sợ này bằng cách lấy dao khắc họ tên mình lên thân Cây và, ba ngày sau, bị sét đánh chết tức thì trong một cơn mưa. Không cần phải nói rằng từ đó trở đi không ai dám động đến Cây, cũng như không ai từng dám liều mạng trèo lên Cây, hoặc nếu có thử thì không đủ lớn cật hoặc không còn sống để kể lại. Từ tấm bé, mọi thành viên gia tộc đều được dạy về sự linh thiêng của Cây, về chuyện kẻ nào phạm đến Cây sẽ bị bắt mất linh hồn và không bao giờ có thể trở về.
Ba láp, Shenjuren nói. Đến cuối đời Ofrangan sẽ không quên chàng cảm thấy thế nào khi nghe câu đó. Nó là câu nói đã quyết định không chỉ cuộc đời ngắn ngủi và chói sáng như sét hòn của Shenjuren mà cả cuộc đời cho đến giờ vẫn lờ nhờ như nước rửa chén nhưng rồi sẽ rực cháy và chói sáng y như vậy của chính chàng. Nhiều năm sau người ta vẫn lạnh gáy khi nghe kể về ngày hôm đó, ngày cuối cùng người ta thấy Shenjuren trên thế gian. Cậu biến mất trên vòm lá tối tựa hang sâu của Cây, không bao giờ xuất hiện lại. Cây xóa Shenjuren khỏi nhân gian giống như cái chết xưa nay xóa lần lượt mỗi người khỏi nhân gian. Phần chàng, Ofrangan, chàng không bao giờ có thể kể ai nghe về chuyện cái gì làm máu chàng đông lại khi chàng leo lên tới chạc ba thứ nhì tính từ gốc của Cây. Gọi đó là nỗi sợ thì cũng giống như gọi lớp bọt đầu ngọn sóng là biển và coi đó là toàn bộ biển. Đúng hơn, chính trong khoảnh khắc đó chàng trực nhận ý nghĩa sâu nhất của thế giới, của hiện hữu. Từ khoảnh khắc đó chàng biết.
Sau sự kiện đó, chàng, khi đó bảy tuổi, trở thành một người khác. Đứa trẻ này giữ nguyên trong tâm khảm ký ức của mười ba kiếp trước, một pháp sư lừng danh nói về chàng như vậy một ngày trước sinh nhật thứ mười ba của chàng. Không ai muốn tin lời này. Không ai đủ sức bác bỏ nó. Nhìn chàng, có người nhớ đến câu chuyện về chiếc bình bí hiểm cao bằng đầu người, trong họng nó là bóng tối như đêm, người ta có thể trút vào đó toàn bộ nước của một con sông mà vẫn không đầy đến miệng, như thể bên trong nó là toàn bộ hư không của thế gian. Bên trong thằng bé Ofrangan dường như có một hư không như thế. Vào ngày sinh thứ mười hai chàng chợt nhận ra rằng chẳng biết tự bao giờ không ai từng nhìn thẳng vào mắt chàng. Chàng không phiền lòng vì điều đó, và không lấy làm lạ, chàng biết hoặc mơ hồ cảm thấy rằng một người nhìn bầu trời, nhìn biển, nhìn đồng bằng rộng lớn nhiều hơn nhìn con người thì sẽ mang bầu trời, biển, đồng bằng ở bên trong mình nhiều hơn mang con người ở bên trong mình. Đây là sự trả đũa của người đời một khi ta ít hoặc không quan tâm tới họ, chàng biết. Và như vậy, từ mươi mười hai tuổi chàng đã biết một trong những sự thật sâu xa nhất, nền tảng nhất của loài người: một giống loài gồm chủ yếu là những cá nhân hèn đớn, đê mạt, co rúm lại trước bóng tối, cơn mê dài, giấc mơ sâu, cái chết, những gì không thể biết, cõi vô hạn.
Năm chàng mười ba tuổi ông nội chàng mất, chàng thừa lúc không ai để ý, leo lên giường nơi thi hài nằm chờ nhập quan, nằm cạnh thi hài. Nhờ thân hình nhỏ bé, chàng có thể rúc dưới tấm chăn dày rộng suốt hơn nửa ngày không ai phát hiện. Có lúc, trong bóng tối tịch lặng toàn bích dưới chăn, chàng có cảm giác mình đã nhập làm một với thân xác người chết và, trong cái gì đó như một giấc ngủ sâu và mênh mông ngang với cõi vĩnh hằng, một góc còn le lói cuối cùng của ý thức chàng chợt nhận ra rằng nếu rạng sáng mai người ta cứ thế đưa chàng vào cỗ áo quan đẽo từ thân cây chindagérn ngàn năm tuổi thì đó cũng là điều tốt bởi vì đằng sau cơn ngủ dường như vô biên này là một cõi khác, rộng lớn hơn, khủng khiếp hơn, kỳ diệu hơn cõi đời ngoài kia, mà chàng phải khám phá. Tuy rằng sau đấy chàng đã chui ra khỏi chỗ nằm tuyệt diệu kia, âm thầm không ai thấy, giống như con sâu non nhô ra từ giữa tán lá dày, song, nhiều năm về sau, có những lúc chàng nhớ lại mà nghĩ, biết đâu chuyện sẽ tốt hơn nếu chàng đã nằm lại đó: một phần của chàng sẽ xuống đáy mồ, phần khác của chàng sẽ như gió lùa qua rặng cây ở một cõi khác, như sấm sét giáng xuống bãi biển ruộng đồng ở một cõi khác mà đến chết chàng cũng không mơ thấy được. Mặt khác chàng không hối tiếc mình đã trở dậy quay về với cõi người, bởi trong sâu xa chàng biết một cách mơ hồ rằng ở đây chàng có việc phải làm.
Và như vậy những năm niên thiếu của Ofrangan là một sự chờ đợi không ngừng không mệt mỏi, đợi một dấu hiệu, một cú thúc, một tiếng nói nhắc cho chàng nhớ chàng phải làm cụ thể việc gì để hoàn thành số phận mình. Cứ như vậy chàng chờ đợi, chờ đợi và chờ đợi trong khi lớn lên, trở thành một nam nhi hoàn hảo chưa từng có giữa thế gian, cho đến cái ngày chàng gặp Shireki và Hunzali và biết thời của mình đã tới. Thời của chàng. Thời giấc mơ trở thành thực tại. Thời thực tại trở thành mơ. Thời không còn ranh chia giữa thực và mơ. Thời không còn hôm qua, hôm nay, ngày mai, không còn sáng và tối, không còn tĩnh và động, không còn sống và chết, không còn phải và trái, tất cả là một. Đôi lúc chàng thảng thốt kinh ngạc trước ý nghĩ này của chính mình, nhưng rồi nhanh chóng yên tâm: chàng biết ý nghĩ này thuộc về một cõi lớn hơn chàng vô số lần, và đây chỉ mới là đôi lần đầu tiên nó tự hé lộ cho chàng thôi. Trước thời điểm đó, chàng luôn có một cảm giác mơ hồ, khó giải rằng hình như chàng chưa đủ kích thước, chưa đủ tầm cỡ để làm việc chàng sinh ra để làm. Chỉ sau khi gặp Hunzali và Shireki chàng mới nhận ra rằng không phải vậy. Không phải chàng chưa đủ kích thước, tầm cỡ. Sự thật là: chàng chỉ mới là một phần ba của cái chủ thể chàng cần trở thành. Với hai cấu phần còn thiếu mà bây giờ chàng mới gặp này, chàng-và-họ trở thành một, sinh thể duy nhất, chưa từng có, kỳ vĩ, đầu đội trời, hai chân hai tay ở hai rìa cách xa nhau nhất của đất. Để điều này thành sự thật, có vài việc không bình thường mà chàng phải làm. Những việc mà người phàm không ai có khả năng làm, không ai dám làm, không ai nghĩ tới chuyện làm. Không phải ngay lúc này: chàng biết rằng hiện tại việc của chàng là đợi - thiên cơ sẽ có cách của mình để cho chàng biết khi thời điểm tới. Thế giới này sẽ cho chàng biết điều chàng cần biết vào đúng lúc cần biết bởi thế giới này là mẹ của chàng. Người yêu thương chàng theo cách của Người, điều mà không phải đứa con nào của Người cũng có thể hiểu.
***
Hai mươi tuổi Ofrangan gặp Tawilgen, nhạc sĩ lang thang người vùng Bongora Leiba, cuộc gặp làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời chàng.
Ofrangan gặp Tawilgen dưới bóng một cây bagrasoya lớn. Có người kể đó là một ngày nắng gắt oi nồng đến độ kẻ đầu trần đi trên đường chợt muốn cắn xé mọi thứ giống như chó dại, người khác thì cam đoan đó là một ngày mưa dầm dề tới nỗi ruột gan người bốc mùi như hai bàn chân mang giày ngâm bùn loãng quá lâu. Dẫu mưa hay nắng, dưới tán lá này là một cõi khác biệt. Tawilgen ngồi đó, quấn tấm vải thô vắt tréo che nửa thân hình gầy nhỏ dường như lúc nào cũng có thể chìm lẫn vào vùng tranh tối tranh sáng mát lạnh như chiều muộn cuối thu. Mắt Tawilgen có một vẻ là lạ, không mở, không nhắm, song vừa thoáng trông Ofrangan đã biết Tawilgen không thấy chàng. Tawilgen thấy chàng bằng một giác quan khác. Tawilgen xoay mặt về phía Ofrangan, và trong đôi nhãn cầu bất động của anh, Ofrangan thấy rõ rằng Tawilgen nhìn thấu tâm can chàng vào cái khoảnh khắc cách đây đã lâu, khi chàng còn niên thiếu, lần đầu tiên hẹn gặp được cô gái chàng si mê và, giáp mặt nàng, chợt nhớ mình quên cài cúc quần. Và Tawilgen biết rõ cái lần chàng ở trong rừng, lắng nghe tiếng hót của con chim mikoryana cuối cùng còn nán lại chưa bắt đầu chuyến thiên di hằng năm dài dặc về phương nam, mà tự nhủ chàng muốn giống con chim đó, trao cho thế gian tiếng hát cuối cùng đẹp nhất trong khả năng mình khi tất cả đồng loại mình đều đã đi hết, khi thế gian đang hoàn toàn tĩnh lặng - cái tiếng hát nó sẽ không phá vỡ sự tĩnh lặng mà ngược lại tô đậm và tôn lên sự tĩnh lặng đó, trở thành một phần khắng khít, khác biệt song hòa hợp với sự tĩnh lặng đó. Và Tawilgen còn thấy cái chốn mông lung vô dạng thể nơi tiếng hát đó của chàng có thể sẽ bắt đầu hình thành. Tawilgen nhìn thấy những lần chàng vấp ngã bươu đầu tét môi trên con đường đó, đôi lần chàng lạc lối sa xuống sình lầy hoặc rơi vào giữa lũ ác nhân, suýt nữa mất mạng và, trong phút cùng nguy cực khốn này, duy chỉ bài hát cuối đang động cựa trong ngực chàng là nguồn sức mạnh đủ cho chàng vượt qua tất cả, đưa mình về lại cõi sống nơi chàng rốt cuộc sẽ khai phóng được nó, bài hát cuối mà theo nghĩa nào đó cũng là bài hát cuối của thế gian và cần được trả về cho thế gian. Tawilgen thấy rõ những giọt nước mắt lăn trên má chàng khi mà, giữa đường lang bạt kỳ hồ, một lần chàng đột nhiên nghĩ không biết đã bao nhiêu năm rồi chàng không gặp lại mẹ. Tawilgen biết rõ cái nỗi thôi thúc khiến chàng lâu lâu lại lấy đầu lưỡi rà cái lỗ sâu hoắm còn lại sau khi thầy thuốc nhổ giúp chàng một chiếc răng sâu. Và trong tầm nhìn thông suốt của Ofrangan hình như còn có cả cảnh tượng những khoảnh khắc cuối của đời Ofrangan, những cảnh tượng mà chàng lạnh gáy khi nghĩ tới và, không đủ gan nhìn, chàng nhắm mắt lại. Trong cõi tối sau đôi mắt nhắm, chàng tiếp tục nhìn thấy đôi đường hầm không điểm cuối mà cặp mắt mù của Tawilgen xoi vào cõi vô biên thông qua chàng.
Chàng đứng trước Tawilgen, đầu cúi, như đứa con hoang đàng trở về nhà sau nhiều năm lang bạt, đứng trước đấng sinh thành. Da mặt Tawilgen nhẵn láng không một nếp nhăn, người thường mắt thịt sẽ nói rằng Tawilgen bất quá chỉ lớn hơn chàng mươi tuổi song chàng thì biết Tawilgen đã sống trọn nhiều kiếp trong nhiều thế kỷ qua và ngần ấy kiếp sống, hay còn nhiều hơn thế, tạo nên chiều sâu của tiếng đàn mà Tawilgen cho ra đời từ cây chimmusamin của anh, tiếng đàn mà Ofrangan chưa từng nghe song dự cảm được hai cánh tay chàng sẽ nổi gai ra sao khi nghe, và chàng biết đó là dấu hiệu cho thấy hồn chàng đang lớn bổng lên và, trong khi vẫn trụ chắc vào thân thể, đang vươn thẳng lên thinh không, chạm tới các vì sao nơi mọi thứ đều khác biệt và đồng thời thân thuộc với chàng.
Sau một hồi do dự, chàng tiến một bước, hai bước, ba bước lại gần Tawilgen. Bình thản, trong một phong thái chỉ mình Tawilgen có, vừa uy nghiêm vừa buông thả, vừa bỗ bã vừa cao vời, Tawilgen nhìn chàng, với nụ cười nhẹ như người cha nhìn đứa con mình đang chuẩn bị cho cha nó thấy một bí mật, cái bí mật mà anh ta thừa biết song làm bộ như không biết nhằm giữ vẹn niềm vui của đứa bé giống như giữ vẹn lớp sương muối phủ trên đóa hoa dại. Ngay khi đó Ofrangan chợt nghĩ rằng đôi mắt, cũng giống như sự sống, là một thứ không thể thiếu, tuy nhiên nó chỉ là phương tiện để ta vươn tới một cõi khác hoàn hảo hơn, thiện hơn, nơi mà mắt và sự sống không còn cần thiết nữa. Từ nay trở đi, chàng sẽ học cách nhìn thế giới giống như Ofrangan, cách bước qua cái cõi khác kia thông qua tiếng đàn vốn là hiện thân của cách nhìn đó.
Tawilgen rất hiếm khi nói. Trong hơn ba năm hai người gắn liền nhau như bóng với hình, tất cả các lời Tawilgen nói với chàng cộng lại không nhiều bằng những lời chàng nói với bạn thân trong một đêm đầu bốc hơi men. Đôi lúc chàng có cảm tưởng nói bằng ngôn ngữ của loài người là một việc khổ nhọc đối với Tawilgen. Cũng vậy, mang thể xác con người là việc cực chẳng đã đối với Tawilgen, đó là nguyên do khiến Tawilgen đi lại, cử động chậm hơn người thường. Không phải vì anh không có mắt như người thường nên phải thận trọng hơn, mà do thân thể anh, nhỏ nhắn gầy gò như thế, là quá cồng kềnh, quá nặng đối với anh. Mặt khác đôi lần Ofrangan thấy anh bật dậy khỏi giường, đi tới đi lui nhanh lẹ, khoái hoạt khác thường giữa khi đang ngủ. Một lần, giữa khi đi tới đi lui thoăn thoắt tuy nhiên không có vẻ gì là nôn nả hoặc bồn chồn như vậy, đột nhiên Tawilgen chậm bước dần, dừng lại, cất tiếng hát. Đó là lần duy nhất trong hơn ba năm gắn bó bên anh Ofrangan nghe thầy và bạn của mình hát. Tóc gáy chàng dựng lên trước vẻ đẹp và sự quỷ dị của khoảnh khắc đó. Từ trong tủy mình chàng biết tiếng hát này không dành cho người phàm như chàng. Chàng như vừa nghe tiếng hát của các thiên thần dành cho các âm hồn hoặc của các âm hồn dành cho các thiên thần. Có phải đó là một thông điệp, một tiếng kêu mà đến cả giọng đàn của Tawilgen cũng không thể thành hiện thân được? Chàng thấy mình như kẻ dốt tự đưa chân vào vùng cấm, có thể sẽ chết. Sau một hồi sững lặng, gần quên thở, chàng đặt đầu xuống gối, nhắm mắt. Hơi thở khó, tim đập nặng nề, chàng tự nhủ sẽ khó ngủ lại được. Nhưng rồi chàng ngủ lúc nào không rõ và sáng ra, trở dậy, thấy Tawilgen đang nhìn mình, chàng hiểu rằng Tawilgen biết. Nụ cười trong mắt anh không làm chàng vui. Chàng như lọt vào trong một đám mây đen. Cái nhìn của Tawilgen như của người ở bên kia một vực sâu mà chàng vô phương vượt qua, đang nhìn chàng đầy cảm thông nhưng cũng đầy thương hại bởi vì ở đó, bên kia vực, mới có cái gì đó thực sự vô giá với linh hồn chàng. Và lần đầu tiên, phải, lần đầu tiên chàng cảm thấy Tawilgen xa lạ với chàng. Sáng hôm sau, lúc Tawilgen chào đón chàng bằng nụ cười sáng như nụ cười đứa bé trong nôi, hỏi chàng đêm qua ngủ ngon không, chàng đáp có với một cảm giác hể hả mà chàng biết rằng lý ra phải khiến chàng xấu hổ. Và chàng ngộ ra, như trong ánh sáng một sao băng, rằng nếu có lúc chàng chợt muốn ăn tươi nuốt sống Tawilgen và tự nhủ đó là cách tốt nhất để chàng có thể giữ gìn mãi mãi tâm hồn của bạn, tinh thần của bạn ở trong mình, thì thật ra đó là bởi trong thâm tâm chàng cũng muốn bằng cách đó xóa Tawilgen khỏi thế gian để chỉ còn duy mình chàng. Chàng sẽ còn đó để nhớ tới Tawilgen chứ không phải Tawilgen còn đó để nhớ tới chàng. Một sự hòa hợp tuyệt đối, một sự bất tử đích thực mà nếu khởi đầu từ chàng thì làm chàng an lòng hơn là khởi đầu từ Tawilgen.
Một lần, buổi sáng đẹp, Tawilgen và chàng ngồi trong vườn trước nhà, nhìn khói tỏa lên từ ống khói một căn nhà bên kia sông, nhìn sông chảy. Tịch lặng như thể là sông kia, khói đó thảy đều chảy ra, tỏa lên từ Tawilgen, từ cõi tịch lặng an nhiên vô biên và đáng sợ ở bên trong anh. Duy chỉ một nơi sâu kín và tịch lặng như vậy mới là nơi Quả Trứng sinh ra thế giới đang âm thầm nảy nở hình hài. Ngay tại đó, ngay lúc đó, một lằn chớp lóe lên trong óc và tim Ofrangan rằng Tawilgen đến thế giới này không phải để sống mà để chết. Ánh ngời trong tiếng đàn của Tawilgen là ánh ngời đưa anh vào cõi chết, đi cùng anh vào cái chết, và không có gì đáng buồn đáng tiếc trong chuyện đó bởi vì riêng với Tawilgen cái chết là cửa để anh bước vào cõi vĩnh hằng.
Đột ngột, trước khi nhận ra mình đang làm gì, chàng nói với Tawilgen:
Anh biết khi nào mình sẽ chết, phải không?
Nụ cười của Tawilgen khiến chàng hiểu rằng ngay từ đầu anh đã biết sẽ có ngày chàng hỏi anh câu đó. Và, sâu trong mắt anh, một tia sáng khiến chàng nghe rợn sống lưng, rằng anh biết, chàng, Ofrangan, chàng sẽ gắn liền với giờ chết của Tawilgen, cái chết của Tawilgen. Trong khoảnh khắc đó chàng cảm thấy rõ rệt điều chàng từng đọc trong một cuốn sách, rằng toàn bộ thế giới đang gào thét trong máu chàng. Và chàng hiểu, như trong một lằn chớp, rằng tiếng gào thét này và tiếng đàn của Tawilgen, của chàng, của tất cả các danh cầm đã, đang và sẽ hiện hữu trên cõi thế, tiếng rì rầm của hạt giống trong lòng đất, tiếng nước rỉ không ai nghe thấy trong hang sâu, tiếng máu tuôn từ họng con nai tơ bị bắn, tất cả là một. Sự ngắn ngủi của một tia chớp, sự trường cửu của bầu trời, tất cả là một.
Chàng cúi đầu, cảm thấy rõ mồn một, như cảm thấy trái tim chàng đang đập, cái sự thật rằng từ khoảnh khắc này trở đi, mỗi lời chàng nói, mỗi việc chàng làm đều có thể sẽ được lưu giữ trong vĩnh hằng. Nếu chàng có làm gì đó. Miễn chàng có làm gì đó. Như chàng đã làm trong hơn hai năm qua. Đàm đạo với Tawilgen. Im lặng cùng Tawilgen. Quan sát Tawilgen. Học từng ngón đàn của Tawilgen. Nhập vào từng xao động li ti trong tâm khảm Tawilgen.
Tawilgen nhìn chàng bằng cặp mắt đột ngột có vẻ đen như đêm. Sau một hồi, Tawilgen cười nhẹ. Và bằng gan ruột mình Ofrangan biết Tawilgen sắp nói một câu mà chàng sẽ nhớ đến chết.
Giờ của ta sắp mãn, Tawilgen nói.
Tim Ofrangan hẫng đi một nhịp. Cái bóng đen kịt một con chim khổng lồ như vừa vụt qua mắt chàng. Như thể Tawilgen vừa mời gọi chàng hãy rút ra con dao chuôi đồi mồi chàng mang trong người để phòng thân, và không ngần ngại, không run tay đâm thẳng vào ngực anh. Chàng cảm thấy, nhìn thấy, như trong một linh thị trong suốt, rằng nếu trong khoảnh khắc cuối tay chàng run lên và khựng lại ngoài khả năng kiểm soát của chàng, Tawilgen sẽ bật cười bạt tai chàng, hơi mạnh so với một cái tát yêu và bỡn cợt bình thường song vẫn là cái bạt tai bỡn cợt và thân thiết. Và lông gáy chàng dựng lên bởi chàng nhận ra rằng cái bạt tai này, bỡn cợt và thân thiết vô biên, là cử chỉ cuối cùng của Tawilgen trên cõi thế trước khi mũi dao của chàng biến trái tim anh thành hòn đá rơi vĩnh viễn vào hư vô và cái còn lại là bàn tay cầm dao của chàng, bàn tay cầm đàn của chàng, bàn tay chàng chôn sâu xuống đất những dấu vết hữu hình cuối cùng của chính chàng trước khi chết.
Ba tuần sau ngày không quên đó bên sông, Tawilgen chết. Về sau nhiều người kể rằng trong ba ngày trước khi Tawilgen chết có vài sự lạ xảy ra, tuy nhiên trong ký ức Ofrangan ba ngày đó là những ngày hoàn toàn bình thường. Chàng không nhớ có bất kỳ sự lạ (mà người ta suy ra là điềm gở) nào, chàng nhớ chẳng hạn như trong ba ngày đó chàng chỉ tắm một lần, phần vì trời mát mẻ, phần khác bởi chàng có lúc cảm thấy mình gây gấy sốt. Chàng hoàn toàn thoải mái với điều này, ngoại trừ một lần duy nhất chàng bỗng nghĩ tới chuyện nách mình có lẽ đang bốc mùi ra sao giữa khi chàng đang đọc một câu chuyện đẹp về tình mẫu tử. Chàng không khó chịu về bản thân mùi nách khá nồng của mình, chàng khó chịu vì không thật hiểu tại sao lại nảy ra mối liên tưởng đó. Tuy nhiên chàng mơ hồ hiểu rằng liên tưởng này có gì đó chung với chuyện, ngay khoảnh khắc hay tin Tawilgen chết, thứ đầu tiên chàng nghĩ tới là mấy cọng lông mũi mọc hơi quá dài mà sáng đó chàng phát hiện lúc soi gương cạo râu và đã định sẽ cắt đi nhưng sau đó lơ đãng thế nào chàng lại quên mất. Chàng biết đó không phải là trạng thái đờ đẫn, trống rỗng, vô cảm của một số người trước cái chết bất ngờ của một người họ rất yêu thương, như một cách để bảo vệ trái tim mình không bục vỡ và trí óc mình không sụp đổ. Chàng biết đó là do chàng tiếp nhận sự biến này như một điều tất yếu, một chuyện tất đến, mà chàng hẳn không mong muốn nhưng cũng không căm ghét và khiếp sợ. Chàng luôn sẵn sàng cho chuyện này cũng như luôn sẵn sàng cho cái chết của bản thân chàng.
Có người gọi Tawilgen ra khỏi nhà giữa khi anh cùng Ofrangan đàm đạo trong đêm. Đợi bạn quay vào, Ofrangan ngồi cạnh bếp lò, đắm mình trong mênh mông sa mạc Sürülekh mà một câu nói dường như vu vơ của Tawilgen trước đó vài khoảnh khắc đã đưa chàng đến. Sa mạc mênh mông, chỉ mình chàng. Trong nhập nhoạng hoàng hôn đang xuống rất nhanh, chàng không thấy Tawilgen đâu. Căng mắt tưởng chừng bục mí, không thấy, tuy nhiên trong đáy tim chàng biết Tawilgen đang ở không xa và đang dõi theo chàng, trông chừng chàng. Rất có thể Tawilgen ở ngay cạnh chàng, mà chàng không thấy. Hình tướng của anh không phải để mắt thịt của chàng thấy. Nó thuộc về một cõi cao hơn, đẹp hơn, một sự cao và đẹp mà chàng không thể thấy chừng nào chàng còn đi đứng, ngồi, nằm trong thân thể thô, nặng, mong manh này. Thô, nặng, mong manh, dễ bẩn và dễ hoại. Có nhiều từ khác nhau trong nhiều ngôn ngữ khác nhau hòng cố gọi tên dạng hình tướng này. Chàng biết hầu hết các từ đó, song chàng không dùng bất cứ từ nào để gọi Tawilgen bởi, dù anh là gì đi nữa đối với thế gian, anh luôn luôn và mãi mãi là thầy, anh, bạn của chàng, là bản thân chàng. Rồi chàng chợt nhớ không rõ từ bao lâu rồi Tawilgen không trở lại. Ghế của Tawilgen, đối diện chàng, trống trơ như lòng giếng cạn. Sự trống trơ này chất đầy đá vào tim chàng. Ofrangan đứng dậy, lao qua sân, ra cổng, và một khoảnh khắc trước khi mở cổng chàng đã biết từ trong ruột rằng mình sẽ không bao giờ thấy lại Tawilgen nữa, không bao giờ nữa.
Không ai biết những kẻ nào đêm đó đã gọi Tawilgen ra khỏi nhà và sau đó Tawilgen đi đâu, còn sống hay đã chết, những gì đã xảy ra với anh trong những giờ khắc cuối cùng của anh. Không ai có thể nói một cách xác quyết Tawilgen có những kẻ thù nào muốn trừ khử anh. Và với một cái rùng mình Ofrangan nhớ tới giai thoại về sự biến mất của người thầy, người bạn lớn của Rumi, thi hào xứ Ba Tư ở thế giới Terra huyền thoại, cái bóng đổ của thế giới chàng sống, câu chuyện chàng từng được một ca nhân lang thang kể cho nghe cách đây đã lâu và chàng chẳng mấy khi nhớ tới, coi đó chỉ là chuyện huyễn hoặc chỉ đáng quan tâm đối với những kẻ không đủ sức và đủ gan để sống hết mình với cõi đời có thật. Té ra chuyện như thế này đã từng xảy ra thật sao? Phải chăng, bởi nó là bóng đổ cho nên, tùy theo hướng và góc của nguồn sáng mà có những lúc bóng đi trước hình, xuất hiện trước hình? Rốt cuộc, có gì thực sự khác nhau giữa chuyện chàng và Tawilgen là hình còn Rumi và thầy-bạn của anh ta là bóng với chuyện Tawilgen và chàng là bóng còn cặp kia mới thật là hình? Trong khi đứng trước cổng nhà, để cho dần dần ngấm vào trong thịt và tủy mình cái thực tế rằng từ nay trở đi chàng hoàn toàn đơn độc, chàng có lúc nhìn xuống bàn tay mình nhờ nhợ trong tranh tối tranh sáng, tự hỏi phải chăng lúc này sự phân biệt giữa hình và bóng ở chính chàng không còn rạch ròi dễ thấy và có thể không còn hiện hữu. Nếu chàng và toàn bộ thế giới quanh chàng thật ra là bóng, thì phải chăng Tawilgen giờ đây đang là bóng của bóng và nếu vậy thì đối với một cõi khác Tawilgen đã từ chỗ một bóng không có thực chuyển thành một hình có thực?
Cảm trạng lưỡng phân, nhập nhằng bất định này từ đó về sau trở thành một trong các đặc chất của Ofrangan, khiến cho mọi điều chàng nói, mọi thứ chàng làm đều vừa như là hình vừa như là bóng. Shireki nhận thấy điều này khi, lần đầu tiên gặp Ofrangan thổi sáo giữa bãi chợ chiều vắng người, nàng bất giác vòng tay ra trước, như đang ôm lấy một Ofrangan vô hình, tuy hai là một với Ofrangan bằng xương thịt đang cách nàng hơn ba chục bước. Không ai ngoài Shireki biết có phải cũng trong khoảnh khắc đó Ofrangan đã nhận ra nàng giữa cõi người hay không. Người ta chỉ biết rằng không lâu sau đó đã diễn ra ngày định mệnh khi Shireki và Ofrangan đối mặt nhau, nói lời đầu tiên với nhau, cái ngày sẽ đi vào truyền thuyết của người Bongora như một trong những ngày đẹp nhất và bất hạnh nhất từng có trong trời đất. Chẳng phải vô cớ mà có đôi người nói rằng trên thực tế Bộ Ba Tuyệt Bích Ofrangan - Shireki - Hunzali không phải Bộ Ba mà là Bộ Bốn hoặc Bộ-Gần-Như-Bốn bởi vì có cả Tawilgen trong đó. Hoặc đó là Số Ba Thiên Giới, Số Ba Đen (bởi một trong các điểm xuất phát của nó là một Số Không thuộc về Cõi Khác, một Số Không mà hiện thể ở cõi này là một vùng, một lõi ánh sáng đen. Phần lớn là do ánh sáng đen này, Số Không Cõi Khác này mà bộ ba Ofrangan - Shireki - Hunzali có được sức mạnh gắn kết không rời đến độ phi thường đó, một sức mạnh không thuộc về cõi người thường. Để thắng được sức mạnh đó, hòng phá vỡ Bộ Ba này, thì phải có một sức mạnh lớn hơn nó nhiều lần, và sức mạnh ấy chỉ có thể tìm ở một cõi khác. Cõi khác đó, người đời chỉ lâu thật lâu, có khi cả đời chỉ một lần chợt nhớ thoáng qua và một cách mơ hồ bảng lảng giống như bờ bên kia xa tít của một dòng sông mênh mông chìm trong biển sương mù.
Ofrangan không đi tìm Tawilgen. Đúng hơn là chàng có đi tìm, tới một số nơi, hỏi một số người, giống như người khác ở địa vị của chàng sẽ làm, tuy nhiên chàng làm giống như cậu thiếu niên mơ mộng và kiêu hãnh vốn chẳng ưa gì các bước tuần tự theo nhau của nghi thức trưởng thành tuy nhiên vẫn cứ làm theo, bình tĩnh, xa cách, thâm tâm luôn hướng về phẩm giá đích thực của mình, cái phẩm giá chỉ có thể đạt được bằng một con đường khác. Nếu đó không phải là con đường băng qua những vùng nhẹ tênh đầy ánh sáng thiên giới, thì nó chỉ có thể là con đường dấn sâu vào những vùng chưa ai biết và sởn gáy của cõi âm. Với chàng, đó là ánh sáng thiên giới hay bóng tối cõi âm cũng không khác gì nhau, điều quan trọng là chàng băng qua được đến bên kia, chàng thấy, chàng biết. Mặt trời thiên đỉnh lúc nửa đêm hay một quầng đen kịt vây quanh mặt trời lúc thiên đỉnh, cả hai đằng đều đẹp và cuốn hút như nhau đối với chàng. Chàng sẽ tuyệt đối sung sướng nếu có thể bước từ cõi này sang cõi khác mà ở đó Tawilgen là bóng của chàng hoặc chàng là bóng của Tawilgen, cái bóng đen mà vào khoảnh khắc nào đó, trong hoàn cảnh thuận thiên cơ nào đó, rực sáng. Mặt khác chàng biết sự tồn tại của chàng và tiếng đàn chàng trong trời đất cần phải giống như sự tồn tại của đóa hoa dại bên vệ đường, mà màu sắc và hương thơm chỉ tỏ lộ trọn vẹn với số ít những ai đủ thông tuệ và hồn nhiên để dừng chân quỳ xuống lặng nhìn. Chàng không nên giống như một thứ huyền lực khiến búp hoa mới nhú trong nháy mắt bừng nở thành đóa mãn khai hoặc một đóa mãn khai hiện ra từ chỗ trống không, bởi vì đã có thứ huyền lực tạo ra chuyện đó thì tất có thứ huyền lực chấm dứt chuyện đó.
January 3, 2023
Khai bút đầu năm
Ảnh của Giorgio BisettiOctober 23, 2022
Về 'Ngoại truyện Gurun' trong 'Cospolist Nổi Loạn' của tôi
-----
... Mattai ngừng nói, và một lần nữa âm thanh duy nhất chiếm hữu không gian và đôi tai cùng trái tim người là tiếng củi nổ lách tách trong lửa. Vài cặp mắt hướng về phía Arrobauth, chờ đợi, giữa khi chàng ngồi đó chìm trong trầm tư. Faínâhind nhìn chàng với vẻ dịu dàng. Nếu chàng nhìn lại Faínâhind, chàng sẽ thấy rằng chưa khi nào nàng nhìn chàng với sự dịu dàng đến như vậy. Tuy nhiên chàng không nhìn Faínâhind. Chàng như đang thấy, xuyên qua bầu máu và thịt nóng của một sinh thể nào đó thuộc về đất mà chàng yêu thương, hình bóng mơ hồ khó nắm của một giấc mơ nào đó chàng từng có trong quá khứ mà lúc này bỗng trở lại trong tâm trí chàng, thoảng nhẹ và ám ảnh, như làn gió ẩm lạnh duy nhất ở trong lòng bừng cháy của mùa hè khô kiệt nhất. Một vẻ buồn khác lạ thấm đượm chàng, giống như ánh mờ của một ngôi sao đen. Nếu có ai nhìn Mattai lúc này, người đó sẽ biết chàng đang nhìn Arrobauth với một vẻ trìu mến và dịu dàng ra sao. Như thể chàng đang nhìn một người anh em ruột thịt cho dẫu chàng biết người anh em đó có thể giết chàng bất cứ lúc nào bởi người anh em đó không biết việc mình làm. Và cái im lặng tỏa ra từ hai người này, từ Arrobauth kẻ đang chiêm quan cái gì đó chỉ một mình chàng thấy, và từ Mattai kẻ đang chiêm quan cái gì đó bên trong Arrobauth mà có lẽ chỉ một mình Mattai thấy, là một im lặng mà mọi người khác đều cảm thấy mình không nên phá vỡ cho dù bản chất của nó họ không thật hiểu.
"Lửa cháy", tranh của Konstantin VasilievOctober 11, 2022
Về mái tóc nàng
Nhìn mái tóc nàng, gã hình dung một cõi khác nơi nàng và gã là hai người yêu nhau. Gã hình dung, rằng vào khoảnh khắc đầu và khoảnh khắc cuối của mỗi lần gặp giữa hai người, gã sẽ vuốt tóc nàng như thể là lần đầu tiên và lần cuối cùng gã vuốt. Rằng bất kể nàng và gã đã gặp nhau và bên nhau bao nhiêu lần, tình yêu của gã, mà một trong các biểu hiện là động tác vuốt tóc này, đều luôn như vậy, không suy giảm không hao tổn, vào khoảnh khắc cuối vẫn cứ thanh tân và tròn đầy như khoảnh khắc đầu, vào khoảnh khắc đầu là đã chắc chắn và bất hoại như khoảnh khắc cuối.
Tranh của Serge Marshennikov
September 24, 2022
Một đoạn ngắn từ 'Cospolist Nổi Loạn'
-----
... Tôi nhận thấy mình đang nhổm dậy khỏi sàn, cơ thể tôi đang cử động ngoài kiểm soát của tôi. Nhưng rồi mắt tôi lại chuyển xuống sinh vật đang nằm ở dưới tôi. Ý thức tôi lại chuyển sang tập trung vào cảm giác về sự tiếp xúc giữa thân thể tôi với thân thể nó. Đầu gối tôi vẫn đang đè lên bụng nó, cổ tay tôi chưa rời khỏi vùng cổ nó. Cổ tay đó là chỗ khiến tôi cảm nhận rõ nhất rằng mình vẫn đang run tuy rất nhẹ. Tiếng thút thít vẫn còn, chính xác hơn là tiếng hít vào thở ra quá mạnh khi một cơn khóc chưa qua dứt. Ý thức tôi nhận thức được rằng linh hồn tôi vẫn đang tiếp tục khóc.
-----
Tranh của Zdzisław Beksiński.
August 4, 2022
Một đoạn viết của tôi, từ cuối thập niên 1980
-----
"... Nhà Thơ vô cùng hứng khởi trước sự dịu dàng vô hạn của Xamba; anh không còn cách nào hơn là nhảy với nàng. Nàng chưa hề biết thế nào là xarikakeo ; nhưng nhiệt tình hừng hực bùng lên từ cặp mắt anh, từ đôi tay cuồn cuộn bắp của anh, từng thớ thịt trên thân thể anh, nó làm cho không khí rực lửa; không khí cuộn thành vòi rồng; nàng bị cuốn theo vòi rồng, nàng xoáy tõm vào vòi rồng (nàng dường như quá nhẹ) ; nàng cũng múa xarikakeo; anh truyền sinh lực và linh hồn cho nàng - linh hồn của anh, của xarikakeo - và nàng trở thành người múa xarikakeo thần diệu nhất thế giới. Rồi trong cơn tuyệt thú anh vọt sang múa trống Chăm H’roi; lưng anh mềm và dai, dẻo và sóng cuộn tràn trề như con trăn thật lớn bóng nhẫy; đầu anh chạm đất, rồi anh bật lên mạnh và dữ dội với tiếng rền vang oai hùng từ cổ họng kim khí làm ta nhớ lại phát cung siêu phàm của Arjuna ; nó làm cho bóng đêm kinh hoàng ở Chulakorn phải rùng mình run rẩy và nhường chỗ cho ánh sáng; tiếng rền của con người này, nó rực lên như chớp, và người ta thấy rõ từng giọt mồ hôi trên trán những người Irôca đang chơi trò săn bò rừng. Bóng tối đen như mực và nặng hơn nghìn triệu quả núi chẳng làm họ sợ hơn tiếng voi gầm; tự họ làm nên ánh sáng bằng cặp mắt tươi cười và hàm răng toe toét - cũng cười - của họ."
(trích từ "Nhà thơ", một trong nhiều tuyến truyện của cuốn tiểu thuyết tôi viết vào cuối thập niên 1980 - nhan đề "Vũ trụ loài người", hiện đang bỏ dở)
July 6, 2022
A short biography of myself in terms of a "professional career"
"I write to define myself."
Self-description:
A writer and literary translator.
Key publications:
• Fiction: - "Baroque và ẩn hoa" ("Baroque and the Hidden Flower", story collection, 2005); - "Life Navigator 25: Người tình của cả thế gian" ("Life Navigator 25: He Who Is in Love with the Whole World", novel, 2016); - "Những gặp gỡ không thể có" ("Impossible Encounters", story collection, 2018).
• Translations: - "Dictionary of the Khazars" by Milorad Pavic (2005); - "2666" by Roberto Bolaño (2021); - "Never Let Me Go" by Kazuo Ishiguro; - "The Wind-up Bird Chronicle" by Haruki Murakami (2007); - "Dune" by Frank Herbert; - "If on a Winter Night a Traveller" by Italo Calvino; - "Guns, Germs, and Steel" by Jared Diamond.
Cre. Nguyễn Hoàng Anh ThưJune 28, 2022
Pigs and Viruses (or Account of an Emigrant III)
This is translated by myself from the Vietnamese original, "Lợn và Virút (hay Tự sự của một di dân III)", part of my novel, "Life Navigator 25: Người tình của cả thế gian" / "Life Navigator 25: He Who is in Love with the Whole World" (published 2016)
-----
I’d call him a guy with a pervert, morose imagination, if you ask me. A moron. An idiot. Yes, that’s the word. He has no idea of the most obvious fact that, in comparison to the will to survive of those “underprivileged” people with whom he’s willing to incorporate himself, the one of ours is by countless times stronger. Not to mention our power to survive. And yet he sounds like we possess next to no will to survive whatsoever. Doesn’t he have the ability to think about the fact that, with so many things to lose, we can be thousands of times more cruel and violent than those with nothing to lose in times of necessity? Give me a break, man.I was born into one of the families from the highest social order not only of my country but of the whole mankind as well. This entitled me the right to know, from the very moment I began to be aware of the world, one essential thing. Here it is. That power, the supreme power, the biggest possible power on earth, belongs to me. In the same way that air and sunlight naturally belong to me. And I know I deserve it. Not a second in my life, including those spent in dreams, passes by without me bearing in mind the fact that I exist in order to fulfill things no other human has been and will ever be able to, go to places no other human has been and will ever be able to, and possess things no other human has been and will ever be able to. This is my lot. My destiny. This I inherited and learned from my parents. My father – surely my contemporaries know him, whereas those living before my lifetime would never be able to hear of him, which is natural, and this, for them, is a shame. Perhaps it suffices to say just the following. My father belongs to the fewest, the rarest ones who, with the sheer power of their will and talent, change the world as they want. My father was among the founders of Global Mind Network, GMN. He did not invent it, yet he made it possible and commercially productive. Those of you living before my lifetime will have no idea what GMN is like. At best they would roughly imagine it as something similar to the age-old (to us) worldwide IT network, the only difference being that, instead of computers and their associated parts, i.e. hubs, switches, and so on, here you have human brains, either in the physical sense or technologically upgraded brains, along with their associated paraphernalia. In fact, anybody with an average sensitiveness and delicateness would be aware of the utter crudeness of this comparison. It’s no better than comparing a virtual human residing within GMN with a ghost in the traditional sense. And yet the following would not escape their comprehension: the advent of GMN in the middle of our century transformed our world the same way the birth of computers, of Windows and similar operating systems and global internet changed their world. It proved how inexhaustible the self-renewing potentials of humankind are. It proved how limitless the capabilities of human intelligence can be. The sci-fi of the past is the reality of the present.
The ultimate goal of the existence of humankind in the universe is to attain the stage where humans can become God themselves, create things that God had never created himself, and make decisions that God had never made himself. Decision for the survival of Earth, for example. The fate of Earth. Humans can truly be themselves only when they are capable of deciding the fate of their planet. Like God himself had done when he decided to create the Flood. When he decided to destroy Sodom and Gomorrah. Humans can only be themselves if and when they’re capable of transcending the psychological barrier that forces them to feel bound to certain incontestable obligations. Take, for instance, that of preserving the cradle where they were born. If the cradle had become to small to accommodate them no matter how hard they have been trying to shrinking themselves, and once they have attained sufficient awareness of the situation, then they will become themselves only if and when they’re able to find enough wisdom and courage within themselves to realize and accept that the only righteous obligation for them in this situation is to break free from within this cradle once and for all and move to a more appropriate place for their existence. Whether this place is natural or created by them makes no difference. What counts is that humans have another place for their survival. And this - this is the good.
And when I say humankind will survive, I mean a certain part of humankind, not the whole of it. It so happens with all species in all times: after a colossal catastrophe, only part of a species survives. The most adaptive, of course. The strongest, the best. And is the mere fact that this is only part of the once existed species the sufficient reason to say this species as a whole has ceased to exist? A single couple of humans who survive are enough for humankind to survive. Is that not true? Aren’t we the humankind itself?
We’re still alive, is this not sufficient to say humankind still exists?
Is it mandatory that all those several billions of humans be still alive together with us for us to have the right to consider ourselves humankind?
Once, when I was quite a small child, Father make me take part, for the first time, in a meeting between Him and some of His men where plans to care for the poor all over the world were to be discussed. It’s still vivid in my mind, as if it happened yesterday, how I realized from the very first moment the reason for this gathering, what it was that those people were debating. From where it had sprang up, this problem. Its true nature. Its significance. Why it was that we had to deal with it. Why it was that to avoid dealing with it was unthinkable. Which means to deal with it were better than other ones. I didn’t need any explanation from Father. All what He had to do was to sit me there, let me be there and listen, and I did so and I understood everything, exactly as He had foreseen. And I was four years old then. Which might be inconceivable to some, and which was the truth. I’m not a genius. I’m not one of those born with outstanding intellectual brilliance. I’m an ordinary individual possessing the characteristics typical of my bloodline. This belongs to me in the same way as does my body size, my muscular system, my immune system, my blood type, the colour of my hair, my eyes, my skin. What I ought to do is to accept it and, in my turn, do everything I can so as to let it develop to the utmost its potentials. At seven years old, I began to actually, officially participate in these meetings. I would debate about whether, all things taken into account, you really have to protect and preserve the earth and the humankind as it is at any cost.
The memory’s still vibrant in my mind of how the meeting in question was being unfolded. Father was lying on the bed entirely of water floating at 1,5 meter above the ground, of a dazzling golden colour, a transparent cube of liquid gold at the temperature of 24 Celsius degree. Separating the bed surface and his body was a bedsheet from purple silk, a kind of watertight silk as smooth as a maiden’s skin. His pajama, too, was of pure silk, dark orange, with emerald velvet linings, wrapping him from neck to heels, covering almost his entire body, like the cocoon covering the chrysalis, and yet, despite of this, or exactly because of this, I saw him as nearly naked, a horribly cadaverous body, with all the deeply engraved signs of death so to speak, which reminded me, against my will, of Steve Jobs in one of his final days. Father, however, was not suffering from a fatal disease like the famous man. On the contrary: with that emaciated body, which seemed to carry more death than life, he had the ability to consume a huge turkey for a meal. He had more than enough strength to do so. Yet he didn’t. What left the far deeper imprint in my memory, however, was the look in his eyes as I presented my arguments. No. Present is not the right word. Better to say, as I blurted out whatever I had in mind. I was seven years old then, after all. I said: If I embark Noah’s Ark (about which everybody was talking, using it as a symbol), I’ll bring along with me Hachiko and only Hachiko, the rest I kill all. Hachiko and I make a perfect pair. (Hachiko was one of the ten dogs my parents allowed me to have, me who from a very early age had begun to show an immense love for animals, especially dogs.) Having heard the first two or three words I said, Father turned his head towards me with such a gaze that made all the others fall silent and listen to and look at me as if this seven-year-old boy was delivering his speech in a thunderous voice on the same level with that of Hitler. And, at that very instant, during those seconds, I was living through the so-called revelation or epiphany that I would fall within those whose destiny is to lead the humankind, or, to put it more correctly, lead the ultimatehumankind, the one who has broken themselves, once and forever, from the cradle where they had been born, Mother Earth.
Why not to simply let toxic gases, radiations, volcano eruptions, tsunamis, pandemics, or famines kill them off instead of doing away with them with our own hands? someone asked after a short silence. I did not give an answer. I did not look at him. And I remembered how afterwards they said, What will be, let it be. Let the Fourth World War take place, and then Nature will do what is left to do. Present at the meeting, together with Father, were those wielding the utmost power on the planet at the moment. And, like I had said earlier, I came to know right there and then the obvious fact that I would grow up to become one of those to take part in making decisions that deal with the fate of the humankind. Not because I’m son of my father - even if this one fact does play a role - but because I am myself. Together with the gradual growing of my body throughout the childhood and the adolescence, also grew and solidified the transparent, crystal-like awareness of the fact that somebody like me cannot help become one who decides the fate of the mankind.
Here’s one example. One of my close friends (who name can be recognized immediately by my contemporaries without me even vaguely hinting about it) is the owner of one of the three biggest commercial spaceship manufacturers of the world. In anticipation of the Apocalypse, many a government has (in a secret or not-that-secret manner) ordered him to make whole arsenals of big and superbig spaceships which will be used solely for the purpose of urgent mass-people evacuation when the time comes. And our guy, full of alertness and self-confidence, decided to produce a lot more than the ordered quantity. To prevent the Fourth World War at the last minute means the huge quantity of his colossal spaceships, already as finished products or still work-in-process, will not of no use (at least in the predictable future) and in that case to whom can he sell them? How can he dispose of them? In response to his look, a look so nervous, so disoriented, so terrified (a word which seemed utterly inappropriate to someone like him), I said, in a perfectly calm, soft voice, that the magnitude of the needs for those spaceships depends on us and nobody else. Judging by the sudden spark in the bottom of his eyes that came right after I’d finished my words, I knew what I had just said was exactly what he had been intending to say, things he’d better die rather than let the world (not me) realize as having always been there in his mind before I started to speak them out, and I knew also that the nervous, disoriented, terrified look I’d seen just moments before about him could be interpreted as either residing deep within him like any of his internal organs or forming a flimsy fabric that covered him like one of his numerous different skins. What counts was that, the idea I’d just spoken aloud, it is the ultimate truth about the world, the world within our hands. I gently smiled, looking at him. Those big, superbig spaceships, capable of accommodating thousands, tens of thousands of people and travelling for many months and years without the need of replenishment, they were not his only concern. This man, he owned a huge amount of shares in a huge corporation specialized in building semi-military and civil facilities in space colonies_Moon, Mars, Cosmic Islands. Residential areas had been constructed there, completed with all the associating utilities, ready to welcome huge masses of emigrants from Earth, and this was another concern, not a bit lesser, that was weighing him down. And a simple sentence from me rendered whatever was weighing him down as weightless as thin air. No, I’m just kidding. It’s still there, and yet it’s both weighty and light like a sheet of duralumin. And the truth is, more or less weighty as it may be, it’s in no way as weighty as you can imagine just by looking at him. Part of his, no doubt the greater part, knew all too well I was going to say exactly what I said. For, after all, it was not without reason and not for nothing that we were friends.
It was but one of the factors that played an essential role in the process of my thinking and decision making. Other factors, too, played a similarly, if not more, essential role. Love for Mother Earth, for example. My hope is that not everyone who reads these lines would naturally assume such a love does not exist within me. Those who read these lines must know better. This hope of mine, I believe, does have a basis to rely on. It’s inevitable. I am a human. It’s true that I differ from most other humans. It’s true that I possess too many things they don’t. And yet I am a human. Like they are. No less so than they are. And, perhaps, more so than they are. How many of them have seen more different parts of the Earth than I have and carry more of them inside their heads and hearts than I do? Are they numerous? If you say yes, I’m ready to forgive you no matter whether you are deliberately kidding. I often dream of Sahara desert. Like a Tuareg. Of frozen oceans. Like an Inuit. Of pristine Amazon forests. Like a Yanomami. Of steppes. Like a Mongolian. Of tropical jungles. Like a Papua New Guinean. Or like myself, a citizen of the world. A child of the Earth. I love this Earth, it’s that simple. I love the Earth in no way less than they do, if not more. And yet I did take part in making the ultimate decision for the humankind to leave it. This is not to mention the fact that nobody and nothing could ever ensure the decision we had made was really our own one, a decision made by our own will. What we do is simply this: A cow is there standing on the brink of an abyss, about to fall into it and well aware of her situation and yet unable to do anything except stepping forward. And we give her a whip, an breathtakingly painful whip that renders her paralyzed on the spot, unable to proceed forward even for one single millimeter, and then seize her by the neck and mercilessly jerk her to another direction. That’s all to it. You can take a mad pig or a whole herd of mad pigs as an example instead of a mad cow, of course, this does not make any difference to the nature of the matter in question, and yet if I’m to relate this in a more straightforward and precise manner then yes, I did let that herd of mad pigs to plunge down the abyss, the only difference from what you’d usually read in Bible is that, I did keep aside some of those pigs, saving them from plunging down the abyss, those who are the only ones possessing sufficient mental strength or spiritual integrity so as not to be infected with madness like the others. They are the few pigs I’d selected beforehand, the chosen ones.
That’s a long process, and a difficult one. If we’re to go on with the herd-of-pigs metaphor then the chosen pigs, the marked ones to that matter, are separated from the herd not in a single time but into numerous batches, one or several ones per batch, which takes place throughout a really long time. While the whole herd, amidst the madness, continue to rush toward the abyss and hurl themselves into it (the magnitude of the herd being such that it may take several hundreds of years until it comes to the turn of the last one of them, provided that no one of the herd is permitted to give birth to any offspring during all these centuries). That is what needs to be done. To save each of the chosen pigs, one after another, and take them to a safer zone, to the Promised Land, the New Land already transformed in such a way as to meet their specific needs, prepared and waiting for them. To do so in a really long time, before it becomes too late, before everything becomes an uncontrolled and uncontrollable chaotic mess. To keep going along with this in such a way that, the moment the final event comes, the number of remaining marked pigs yet to be saved and evacuated will not be large or not that large and this ultimate evacuation will be a strategy which, albeit colossal in its magnitude, falls completely within our control, constantly on the edge of the abyss of chaos and disorder and, at the same time, perpetually ready to be held back at the right moment thanks to our strong hands and our sober heads. Yes, that’s all what make up our innate excellence, our unrivaled quality as the individuals whose responsibility it is to decide upon the fate of the whole species: strong hands and a sober, clear head. And a sufficiently warm heart, of course.
José Saramago, our old-aged sage, if you remember his name, has these unrivalled words to say about humankind: “Sometimes I tell myself: I hope we’ll never be able to leave this planet for if we expand to the universe then we’ll act there in the same way we’ve acted here. If we are to really migrate to the universe, which I do not think is possible, we may very well infect the universe. Perhaps we are some kind of virus that, fortunately, concentrates only on this planet.” Now, on the basis of all what has happened and is happening, and with the whole respect to one of the indisputably most brilliant and venerable individuals of our humankind, it must be noted that he was wrong about at least two things. First: humankind had in fact been capable of migrating to the universe, and this is a fact to be well taken into account, although it’s also worth making a sideline comment that this involves just a tiny part of humankind. Second, which is a more important point: it’s not that humans are likely to be a kind of virus, they are, and not merely any virus but the most lethal one, which have appeared and multiplied on the planet of Earth to the point of destroy their initial home, and this is a kind of virus capable of evolving into a species higher than itself, better than the species of virus it had been before, and, once again, only a tiny part of this species of virus is capable of doing so. And my task, the task of people similar to us, is to do everything possible to ensure that only those belonging to this infinitesimal minority get aboard. And, apart from being capable of transcending its virus fate, this minority, much like all other viruses, also possesses the capability of transmuting into another, more lethal, more destructive, more dangerous species of virus. This possibility does exist. Many things do exist. Only if and when this tiny population is put into an appropriate situation and environment and given a long enough period of time can you begin to learn what species can be born out of this germ. So long as this does not happen, statements the like of Mr. Saramago are nothing more than a Nostradamus-like prophesies, a sort of dough you can knead any way you like, that is, something akin to good-for-nothing. It’s nothing more than the growls and grumbles in utter powerlessness of a world-weary, cynical, idealist old man wobbling through a world he thinks he understands and yet in fact he does not, and, for that reason, nothing more than trashy words, having no value whatsoever.
Tranh của Zdzisław BeksińskiFebruary 13, 2022
Thư tình gửi cả thế gian
----
Anh muốn là gốc cây rắn, vững ở ngay gần em, mà em có thể vịn vào đứng dậy nếu không may em vấp ngã.
Anh muốn là con chim duy nhất bay ngang trời đúng lúc em ngã lòng nhất và đang nghĩ: chẳng còn gì đáng cho mình mong muốn trên đời. Nhìn cánh chim, em chợt nhận ra mới vài giây trước mình ngu ngốc ra sao.
Anh muốn là vách tường gần bếp lò hơn hết, mà em có thể tựa lưng thiu thiu ngủ sau một ngày vất vả.
Anh muốn là làn gió làm se mát những giọt mồ hôi trên hõm ngực em.
Anh muốn là tấm gương mà em tình cờ soi vào và phát hiện rằng một bên vai áo em lấm chút bụi.
Anh muốn là bài hát đẹp mà em chợt nghe giữa đêm khuya và, lòng tràn ngập một cảm xúc lạ lùng, chưa từng có, em nhận ra rằng dẫu thế nào đi chăng nữa mình vẫn không thôi tương tư những vẻ đẹp của thế gian.
Anh muốn là chàng trai Tây Ban Nha trong mấy câu thơ:
Quisiera ser el sepuleroDonde a ti te han de enterrar.Para tenerte en mis brazosPor toda la eternidad.
Anh muốn là nấm mồNơi người ta sẽ chôn em.Để ôm em trong tay anhMãi mãi không rời.
Anh muốn là ánh ngời tỏa ra từ em vào khoảnh khắc em nảy ra một ý tưởng đẹp và hữu hiệu nhằm cứu chữa thế giới.
Trần Tiễn Cao Đăng's Blog
- Trần Tiễn Cao Đăng's profile
- 57 followers

