Nguyễn Quang Lập's Blog, page 73

February 24, 2013

Góp phần “giải mã” một thế hệ dấn thân

Hà Sĩ Phu

imagesI. ĐẶT VẤN ĐỀ


Sáng 19-2-2013 đọc báo mạng thấy trang Anhbasam có điểm hai bài tương phản:  “Tiêu Dao Bảo Cự: Từ Ngô Kha, soi rọi và giải mã một thế hệ dấn thân (Diễn Đàn); Blogger Caubay Thiem có bài phản biện lại bài này bên Facebook”.


Mặc dù tôi mới ở bệnh viện về, tình trạng mắt được bác sĩ yêu cầu hết sức hạn chế đọc và viết, tôi vẫn phải “đánh liều” viết đôi điều ngắn gọn về chuyện “xung đột” âm ỉ từ lâu này (nếu có thể gọi như thế), giữa những người đáng kính, vì mấy lẽ sau đây: 


- Thế hệ dấn thân theo con đường cộng sản như nhà văn TDBC bao hàm nhiều người (ở miền Bắc còn nhiều hơn miền Nam), trong đó số đã thức tỉnh ở những mức độ khác nhau, đang cố gắng làm những điều nhằm sửa lại hay chống lại thực tại sai lầm của ĐCS cũng ngày càng nhiều thêm, nhưng việc tự đánh giá giai đoạn quá khứ của mình xem chừng chưa có gì nhất trí, ổn thỏa, thanh thoát, như có những tâm trạng uẩn khúc bên trong nên phải đặt vấn đề “giải mã”. 


- Việc “giải mã” cũng liên quan đến cả những người CS hiện nay đang được dư luận ca ngợi, tán thưởng (kể cả dư luận khó tính ở hải ngoại), như nghệ sĩ Kim Chi khước từ sự có mặt trong nhà ở của mình chữ ký của một kẻ cao cấp “hại nước hại dân” – vì chị tự hào mình là một người “Cộng sản chân chính”! Những đảng viên trong 72 vị khởi xướng đợt góp ý Hiến pháp hiện nay cũng vậy, chắc phần đông cũng là những người muốn hành xử như những người “Cộng sản chân chính” để phân biệt mình với loại “CS thoái hóa”. Vậy có thể tồn tại khái niệm “người CS chân chính” hay không, cũng là điều cần xác định cho rõ. 


- Trong hàng ngũ những bạn bè thân hữu đang nỗ lực góp phần mình vào công cuộc dân chủ hóa xã hội hiện nay cũng có hai “phe” với hai cách nhìn ngược nhau trong việc đánh giá quá khứ tham gia Cộng sản. 


Tóm lại, tình hình khác nhau trong việc nhìn nhận giai đoạn quá khứ tham gia hoặc ủng hộ CS là điều tốt hay không tốt, là công hay tội, nên nhớ đến để tôn vinh hay nhắc đến chỉ thêm ân hận… là một thực tế rộng lớn, tuy không phải mâu thuẫn đến mức nặng nề nhưng vẫn âm ỉ như một chút gợn, một cái gai, hay một cái nhọt trong đội ngũ những người từng có nợ với quá khứ và đang phải băn khoăn về trách nhiệm với hiện tại và tương lai đất nước (còn những kẻ vô trách nhiệm, thờ ơ hay cố bám sự hủ bại thì không đáng bàn đến ở đây). 


Khoảng một hai năm gần đây, khả năng lãnh đạo của đảng cầm quyền ngày càng sút kém, bất lực, những mâu thuẫn đối nội và đối ngoại thúc đẩy phải có những thay đổi, kéo theo đó là sự phân hóa phức tạp trong xã hội về nhân sự, tổ chức, phong trào, phe nhóm… Bên cạnh chủ trương đối xử cứng rắn với giới dân chủ tiên phong là sự nới rộng có kiểm soát với giới trí thức cận thần, có cái mới vừa sáng tạo ra, có cái vốn cũ đang được dùng lại. Trong bối cảnh phân hóa đó, sự khác nhau tiềm ẩn trong quá khứ của giới “pro-Đảng” nay cần phải tách bạch. Việc điểm tin hai bài ngược chiều nói trên của “nhật báo Basam”, mà tránh không bình luận, có lẽ cũng là một biểu hiện nhạy cảm và tế nhị. Những người nhạy cảm thấy đã đến lúc nên có sự trao đổi thẳng thắn với tư cách giữa những người được giả thiết là “chung một chiến hào”. Vướng một cái gai, anh chiến sĩ vẫn có thể chiến đấu, nhưng “giải quyết” được cái gai tất nhiên sức chiến đấu sẽ tốt hơn nhiều.


Suốt trong quá khứ tôi không dính dáng trực tiếp gì đến chính trị, nhưng bạn bè thuộc cả hai “phe” cũng có nhiều thân hữu. Trong điều kiện sức khỏe không thuận lợi, tôi không dám hy vọng có thể đề cập vấn đề một cách thấu đáo, chỉ xin đưa ra một vài ý chung, tản mạn, để góp phần gọi là “giải mã” một thực tiễn khá nhiều tế nhị. 


II. MẤY ĐIỀU CƠ BẢN GỢI Ý CÓ THỂ DÙNG TRONG LÝ GIẢI


1/ Phải chăng sự hiểu biết lúc ấy chưa đủ tầm để sàng lọc?


Hiện tượng một chủ nghĩa ảo tưởng, phi lý và phản tiến hóa như chủ nghĩa CS lại rộ lên một thời rộng lớn, thu hút đám đông, trong đó có cả những trí thức lớn, nghịch lý quá lớn ấy khiến thiên hạ phải chiêm nghiệm mà đúc kết thành một quy luật, quy luật liên kết và hoán vị loại trừ lẫn nhau trong 3 thành tố, tạm gọi là luật“Loại trừ một trong ba” hay luật “Hai khử một”.


Ba thành tố ấy là Tâm hồn Lương thiện, Trí tuệ Thông thái và Lập trường Cộng sản, liên kết và loại trừ nhau như sau:


- Đã Thông thái và Cộng sản thì không Lương thiện ( phải mưu mẹo, gian hùng).


- Đã Lương thiện và Cộng sản thì không Thông thái ( phải nhẹ dạ, nông cạn).


- Đã Lương thiện và đủ Thông thái thì không theo Cộng sản [1].


Những ai tự nhận mình luôn lương thiện trong sáng và đã theo CS thì ứng với trường hợp thứ hai, tức là trí tuệ nông cạn, không đủ tầm để sàng lọc trước một vấn đề ở tầm thời đại. Trước mắt mới nhìn bề ngoài tưởng là tốt thì theo thôi. 


Xem ra nhiều đảng viên lương thiện không chịu nhận là lúc ấy mình ngu, cứ khẳng định khi ấy chỉ có theo đảng là thông minh nhất. Có vị còn khăng khăng rằng: Nếu bây giờ lịch sử lặp lại thì ông ta cũng lại chọn đúng con đường cũ chứ không thể khác. Sở dĩ có sự tự ái như vậy do chưa hiểu sự “ngu đần” có thể là tầm của cả một dân tộc trong một thời kỳ chứ chẳng riêng ai, người viết những dòng này cũng đâu thoát khỏi mê cung ấy? Phê phán bạn cũng là phê phán mình. Chỉ cần so sánh với một dân tộc văn minh và khôn ngoan hơn sẽ thấy ngay sự kém cỏi, dân trí lạc hậu của cả dân tộc mình thì sẽ tránh được tâm lý tự ái cá nhân. 


Hiện tượng có mấy nhà bác học nổi tiếng vẫn say mê CS cũng chẳng biện bạch được gì hơn vì có thể vị bác học ấy giàu lý tưởng, lý thuyết, hiểu biết chuyên môn nhưng rất ngây thơ, ảo tưởng, cũng dốt về chính trị-xã hội.  Chấp làm gì những vị trí thức nọ trí thức kia mù quáng thân Cộng, khi “ông trùm CS” của nước mình là Chủ tịch Hồ Chí Minh khi quyết định theo con đường Cộng sản cũng chưa hiểu Cộng sản là gì kia mà?


Cú “nhích chân” của Nguyễn Ái Quốc  từ Đảng Xã hội Pháp sang Quốc tế III của Lenin “chỉ vì Đệ Tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa”, “Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa Cộng sản là gì, thì tôi (tức Nguyễn Ái Quốc) chưa hiểu”. Thậm chí Sơ thảo luận cương về các dân tộc và thuộc địa của Lenin đăng trên báo L’humanité ngày 16-6-1920 thì “ngay cả chữ nghĩa trong văn bản” ấy Nguyễn Ái Quốc”cũng chỉ hiểu loáng thoáng thôi” [2]. 


Nhưng cũng không chấp ông HCM làm gì, khi chính ông Mác ông Lê cũng “khái quát vội, khái quát nhầm” ít nhất là 9 điều căn bản [3] tức là cũng hụt hẫng về Trí tuệ khi cả gan  nghĩ ra một chủ nghĩa mới toanh hòng cứu rỗi nhân loại nhưng vượt quá tầm Trí tuệ của mình (chủ nghĩa Xã hội khoa học ít nhất cũng có một khuyết điểm cơ bản là phi khoa học!), thì một đảng viên CS nhỏ bé có tự nhận là “Trí tuệ không đủ để sàng lọc” cũng chẳng có gì đáng phải băn khoăn! 


Vậy thì thôi, ta cứ yên trí nhận là trước đây ta theo CS vì chưa đủ thông thái để sàng lọc là ổn.


Nhưng mâu thuẫn vẫn chưa hết. Các bạn lại bảo: tôi theo CS không phải là yêu CS gì hết, chỉ vì yêu nước, yêu hòa bình-thống nhất, ghét Mỹ xâm lược. Nếu bạn chỉ mượn CS làm phương tiện như thế thì khi mục đích đã xong, Mỹ đã rút, đã có “hòa bình-thống nhất” thì bạn còn ôm cái “phương tiện” ấy làm gì, bạn phải chủ động rời bỏ nó ngay mới phải, như qua sông rồi thì bỏ con thuyền ở lại chứ? 


Nếu bạn lại bảo: tôi chưa hiểu gì về chủ nghĩa CS nên hãy cứ theo xem sao? Vậy đến hôm nay bạn đã hiểu chưa? Với tư cách một đảng viên bạn có tìm hiểu mọi thông tin trên mạng và trên thực tế không, có biết  nghị quyết 1481 của Nghị viện châu Âu, biết nhân loại đã vứt một Chủ nghĩa ảo tưởng vào sọt rác lịch sử? Nếu có đủ thông tin thì chắc bạn không còn đủ dũng khí để tự hào là một đảng viên CS, vì tôi tin bạn là người có trí óc bình thường và còn dây “thần kinh xấu hổ”. Theo lô-gich của môn “liêm-sỉ-học” (liemsiology!) thì bạn phải hành xử như Trần Độ, như Phạm Đình Trọng, như Nguyễn Chí Đức… mới phải.


Nhưng chưa, bạn chưa đến chân tường, vì bạn còn một câu trả lời khả dĩ hữu lý: Tôi phải ở lại trong Đảng để “chiến đấu”, với tư cách “người CS chân chính” chống bè lũ “CS thoái hóa”. Vâng, vậy xin chuyển tiếp sang phần sau. 


2/ Có hay không khái niệm gọi là “người Cộng sản chân chính”?


Những người tự hào là “CS chân chính” vì nghĩ rằng cái đảng mà mình gia nhập là một đảng chân chính, nay “một số không nhỏ” (tất nhiên nằm trong lãnh đạo tối cao) đã THOÁI HÓA và PHẢN BỘI, nên mình phải đấu tranh chống lại sự tha hóa để phục hồi một ĐCS chân chính, nghĩa là mình đấu tranh (chống những cán bộ lãnh đạo xấu) với tư thế của người “đòi nợ”, đòi cái món nợ mà đảng đã hứa (trong lời tuyên bố) trước nhân dân nhưng bây giờ họ “quỵt nợ, vỗ nợ”! 


Phải công nhận, nếu như vậy thì trong 3 yếu tố Lương tâm, Trí tuệ và Cộng sản bạn đáp ứng đầy đủ hai yếu tố Lương tâm và Cộng sản nhưng quá yếu về Trí tuệ (theo đúng quy luật Hai khử một đã nói ở đoạn trên), nên trở thành duy cảm, thiếu duy lý. Sự THOÁI HÓA và PHẢN BỘI đã nằm sẵn trong mớ tín điều của chủ nghĩa, đã được “chương trình hóa” ngay từ khi khởi lập. Những biểu hiện thoái hóa và phản bội mà bạn nhìn thấy bây giờ thực ra đã được tiền định từ đầu (trước khi bạn gia nhập đảng rất lâu): không một ĐCS cầm quyền nào có thể thoát khỏi tình trạng thoái hóa và phản bội! 


Về lý thuyết chính Mác đã tự chống lại mình, khi triết học Mác thì duy vật, chống duy tâm-duy ý chí nhưng chính trị Mác thì rất duy tâm, chủ quan, duy ý chí. Một lý thuyết ảo tưởng phi khoa học thì sẽ bị thực tế chống lại nên dần dần phải làm ngược lại hết, CS phải tự làm ngược lại những tín điều của mình mới mong tồn tại. Cuối cùng, ngày nay mỗi đảng viên đều phải chọn cho mình một sự giã từ, một sự “phản bội”: hoặc là trung thành với chủ nghĩa thì phản bội nhân dân, muốn trung thành với nước với dân thì phải phản lại chủ nghĩa [4]!


Khi bạn trung thành với nước với dân, với nhân tâm, với chân lý phổ quát thì bạn là “con người chân chính”, rất chân chính, tôi yêu quý bạn, nhưng bạn không còn là “người CS chân chính” nữa đâu, âu cũng là lối tự hào do cảm tính, xin đừng nhầm lẫn! 


Bạn lại bảo: Tôi trung thành với chủ nghĩa CS là trung thành với lý tưởng cao đẹp của nó. Bạn lại nhầm rồi. Nhân tố chủ yếu làm nên một chủ nghĩa, phân biệt chủ nghĩa này với chủ nghĩa khác không phải ở mục đích mà nó tuyên bố, mà ở con đường mà nó vạch ra, vì mục đích sau cùng thì bao giờ chẳng tốt đẹp, căn bản đều phải hướng đến tự do-hạnh phúc cho con người. Nhưng khi con đường sai hoặc ảo tưởng thì không đến đích mong muốn hoặc chỉ đem đến kết quả ngược lại như trường hợp chủ nghĩa Mác-Lênin [5]. 


Ngoài ra, có cách đi đến đáp án đơn giản hơn nhiều:


Khi một chủ nghĩa ảo tưởng chỉ đem lại kết quả ngược với mong muốn thì chủ nghĩa ấy không thể coi là CHÂN CHÍNH được. Chủ nghĩa đã không CHÂN CHÍNH thì làm sao tín đồ của nó lại CHÂN CHÍNH được? Bạn chỉ có thể là một CON NGƯỜI CHÂN CHÍNH vì thực ra bạn đã làm ngược tín điều của Chủ nghĩa rồi, chắc bạn là người nặng về duy cảm nên không nỡ hay không dám để cho bộ óc Duy lý được đứng trước gương mà phán xét đó thôi! Xin nói với nhau một lời thông cảm thực lòng như vậy. 


III. LẤY ĐÍCH DÂN CHỦ-ĐỘC LẬP-PHÚ CƯỜNG LÀM SỢI DÂY LIÊN KẾT


Chỉ cần nhìn các nước quanh ta với một xuất phát “same-same” như nhau đủ thấy trong cuộc chạy đua thế kỷ, ViệtNamchúng ta là kẻ thua cuộc, là đoàn khách nhỡ tàu.


Chỉ nhìn kinh tế – kỹ thuật đã thấy thua các nước bạn trong khu vực vài chục năm nhưng sự thua kém về độc lập – tự do, về văn hóa – nhân phẩm còn đáng lo hơn nhiều. 


Nay muốn đoàn kết để thực hiện dân chủ ắt phải chấp nhận đa dạng đã đành, nhưng ở một nước vừa trải qua mấy cuộc phân ly kinh khủng, lại đang bị ngự trị bởi một Ý thức hệ đoàn kết giả để phân ly thật thì lòng người ly tán là một trở ngại khổng lồ, nếu không biết chấp nhận sự khác biệt thì lấy đâu sức mạnh cho một sứ mệnh cũng khổng lồ tương xứng? (Sứ mệnh lập lại một xã hội đã bị phá nát từ gốc, quay lại một con đường đã đi ngược trên nửa thế kỷ, chống lại một anh hàng xóm khổng lồ chỉ muốn kìm giữ Việt Nam yên vị như một con cừu Ý thức hệ vừa ngoan vừa chậm vừa ngu để hắn có thể ngoạm dần hết cơ thể con mồi trong cái áo choàng hữu nghị đểu). 


- Muốn có khối đoàn kết toàn dân tộc, trước hết hãy tìm khả năng đoàn kết giữa các khối người tích cực mà họ đang rất khác nhau như trên đã nói. Hãy quý sự khác nhau ấy vì đó chẳng những là thực tiễn buộc phải chấp nhận, là tất yếu trong tinh thần dân chủ, mà còn là thuận lợi để diễn tiến xã hội đi lên một cách hòa bình. Nếu không có những “trí thức cận thần”, còn rất khác những người có tư duy triệt để (biết phải thay đổi cái cũ tận gốc), đồng thời lại có những người trung gian giữa hai thái cực ấy thì sao có thể nối với nhau thành những nhịp cầu chuyển hóa dần dần? Nối tiếp với nhau được nếu tất cả đều hướng về phía trước, dẫu kẻ trước người sau nhưng phải chống những kẻ ngược chiều hoặc mưu toan cơ hội trụ lại nửa chừng để chia hoa lợi! 


Một ví dụ: trong những người đã có thời hăng hái theo đảng làm một cuộc gọi là “chống Mỹ cứu nước” có người không muốn nhắc lại “thành tích đáng buồn” cũ (như anh em Huỳnh Nhật Hải-Huỳnh Nhật Tấn) trong khi rất nhiều người vẫn muốn nhắc lại những kỷ niệm một thời tranh đấu “hào hùng”. Không sao, miễn là khi nhắc lại chuyện cũ phải nhìn dưới lăng kính mới, vượt trên cái cũ với óc phê phán để phục vụ cho cái mới. Chẳng hạn phải hiểu vì sao trong chế độ cũ (mà ta quyết đánh đổ) ta có thể ngang nhiên tranh đấu, tuyên bố hùng dũng, thậm chí lãng mạn bay bổng, thỏa chí tang bồng chống lại giới cầm quyền, còn trong chế độ mới (mà ta mơ ước) ta chỉ dám làm bằng 1 phần trăm thời xưa thôi mà đã phải rụt rè? Chẳng hạn ngày trước dưới cái nhìn bồng bột ta chỉ thấy cái gọi là “Mỹ Ngụy” là thấp hèn, tàn ác, đáng khinh ghét, nay dưới cái nhìn dân chủ và toàn cầu ta lại mong sao bây giờ được bằng cái mà ta đã quyết diệt [6], mong trở lại cơ hội cũ mà ta đánh mất, để rồi từ đó tiếp tục đi lên thì dễ dàng hơn. 


Chẳng hạn ta nhận ra sự “hào hùng” cũ thật là “bi tráng” (như nhà văn TDBC nhận thấy), nhưng “bi” không ở chỗ bị kẻ thù tàn sát, thất bại đau đớn như cái bi hùng của phong trào Nguyễn Thái Học, mà ngược đời, “bi” lại ở chỗ muốn thắng cuộc thì nhất thời đã thắng, nhưng nghĩ lại, thà đừng thắng thì hơn! “Bi” ở chỗ cái “tinh hoa phẩm chất” của tuổi thanh niên (nhưng còn bồng bột, cảm tính, bị tuyên truyền), tương tự như cái vốn quý giá mà Dương Thu Hương gọi là “một khối vàng ròng”, nhưng đã bị lợi dụng, bị dùng nhầm, dùng phí phạm, đáng tiếc. Song cái “bi” ở đây cũng không hề “bi lụy” nếu ta quyết hồi sinh cái “tinh hoa phẩm chất” của tuổi trẻ ấy, với sự bổ khuyết rất cần thiết bằng các tri thức hiện đại, trưởng thành, để dùng vào công cuộc hôm nay, như để bù đắp cho điều đáng tiếc cũ, thì sự hồi tưởng như thế thật là hồi tưởng vô cùng tích cực.


Nhà thơ Bùi Minh Quốc cũng vậy, nghĩ lại thời đã qua để thấy trách nhiệm của mình. “Cả tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt, để đúc nên chính cỗ máy này”, cái cỗ máy của sự “đểu cáng lên ngôi”. Hồi ức chuyện cũ để mà hối tiếc cho nhiệt huyết của mình không đem lại kết quả mong muốn, và thấy trách nhiệm của mình trong hiện tại! Một khi cùng hướng về phía trước và hành động cụ thể là nhất định gặp nhau. (Không biết trong hàng ngũ của các anh có ai muốn ôn chuyện cũ để kể công, để che dấu cái hèn hiện tại, để lập một cái gì đó chung chiêng hay không thì tôi không rõ, tất nhiên không bàn). 


- Hãy biết ơn những người tiên phong.


Nếu như trên mặt phẳng nằm ngang ta hình dung đoàn người nối tiếp nhau như cây cầu bắc từ chế độ độc tài toàn trị đến cuối cầu là chân trời Dân chủ-Độc lập-Phú cường, trong đó những tư tưởng tiên phong luôn dẫn đầu đi trước, thì đừng quên một đường dây thẳng đứng, người nọ đứng lên vai người kia, để đưa nhau từ đáy giếng lên bờ. Trên cái “chồng người” thẳng đứng ấy những người tiên phong đứng ở dưới cùng cho đồng đội được đứng lên vai. Những người tiên phong ấy sẽ lên bờ sau cùng hoặc lúc khải hoàn có thể không còn họ nữa


Về Độc lập dân tộc nếu không có những anh hùng liệt nữ đã hy sinh liệu ngày nay ta có còn quốc gia không để mà tranh đấu? Chúng ta đã đứng trên vai họ để có hôm nay. Về Dân chủ-Tự do cũng vậy. Nếu không có những người dân chủ tiên phong như Nguyễn Mạnh Tường, như Hữu Loan, như Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Kiến Giang, Lê Hồng Hà, Cù Huy Hà Vũ, Dương Thu Hương, Hòa thượng Thích Quảng Độ, cha Nguyễn Văn Lý, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Trần Huỳnh Duy Thức… vân vân và vân vân… mà hầu hết họ đều bị tù đày, và biết bao tiếng nói dân  chủ từ bên ngoài hỗ trợ thì làm sao có chút nền dân chủ cỏn con để có thể tồn tại những trang web dân chủ trong nước như trang Bô-xít, trang Basam và các blogger? Rồi đến lượt, nếu không có những trang web và blogger ấy làm chỗ tựa làm sao đoàn trí thức 16 vị có thể được đón tiếp để trao những kiến nghị và dự thảo Hiến pháp quá mạnh dạn kia, cũng như cá nhân tôi lúc này có thể công khai công bố những lời đóng góp thẳng thắn nhường này? Chúng ta đã được đứng trên vai họ, những người dân chủ tiên phong chịu nạn tù đày để giành lấy từng tý chút dân chủ cho ta tiếp tục. Hãy nhớ ơn họ!


Nói đến chuyện đứng trên vai nhau, tôi lại thầm hỏi mình: nếu không có đồng đội lấy vai cho mình đứng, lại không có một điểm tựa nào đó từ môi trường, dù là điểm tựa vô tình hay vô tri thì một cá nhân đơn độc làm sao có thể vượt qua cái vai của mình? Tự mình vượt qua chính mình mới thật là điều khó lắm thay! Làm sao có thể tự thắng cái khối lượng ì ạch của bản thân với tất cả những sức cản nặng nề đã ràng buộc mình vào cuộc đời này?


Đà Lạt ngày 24-2-2013


H.S.P.


Theo BVN


———————————————————————————-


[1] “Quy luật” tương tự này tôi đọc thấy đã lâu, gần đây thấy nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh và nhà báo Lê Diễn Đức nhắc tới. Tôi diễn đạt lại cho rõ hơn (HSP)


[2] Xưa nhích chân đi giờ nhích lại: HCM quyết định theo Quốc tế 3 khi chưa hiểu CS là gì ! Tư liệu trích từ:


-Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch, Nhà xuất bản Văn học, Hànội (in lần thứ tám), 1975, trang 44.


Hồ Chí Minh:Con đường dẫn tôi tới chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2000, trang 126.


Lữ Phương:Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh, THƯ NHÀ xuất bản,Australia, 2002, trang 40.


[3] Xem bài Từ Nguyễn Phú Trọng đến Lê Hiền Đức (HSP)


[4] Từ vụ Bauxite nghĩ về vận nước (www.hasiphu.com/baivietmoi_40.html)


[5] Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của Trí tuệ


[6]  Nguyên Ngọc (S: Tôi nghĩ giá như trong cuộc chiến vừa qua, miền Nam thắng, thì có lẽ sẽ tốt hơn …). Huy Đức: “bên (cần)được giải phóng hóa ra lại là Miền Bắc”.


 




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 24, 2013 18:27

Thơ hay… thơ gay?

tho tat


Nhà thơ Bùi Hoàng Tám gửi cho chúng tôi tấm ảnh chụp câu thơ hay được trưng ở Văn Miếu và thả lên cao xanh ngày thơ Việt Nam lần thứ 11. ( Theo TN) Thơ này gọi là thơ gay, vì  Xem ra người chọn gay gay thế nào



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 24, 2013 18:15

Thống đốc Bình có mắc chứng hoang tưởng vĩ cuồng?

Trần Ngân


 binh5Đặt ra câu hỏi này chắc hẳn sẽ làm nhiều người ngạc nhiên vì làm sao đương kim thống đốc ngân hàng trung ương của một quốc gia lại mắc chứng bệnh hoang tưởng vĩ cuồng vốn là một loại bệnh tâm thần được. Tác giả bài này không phải là một chuyên gia tâm thần học nên đây cũng chỉ là nhận định mang tính chủ quan dựa trên những phát ngôn của thống đốc trên báo chí.


Đầu tiên, một người mắc chứng “hoang tưởng” có những triệu chứng gì?


Hoang tưởng tự cao là dạng rối loạn thường gặp, bệnh nhân cho rằng mình có tài năng xuất chúng nhưng chưa được công nhận. Bệnh nhân bị hoang tưởng có một niềm tin, một kết luận hoàn toàn sai với sự thực nhưng lại được người bệnh tin tưởng một cách tuyệt đối, không thể bác bỏ được. Do đó, người thân không thể thuyết phục người bệnh là họ sai, cũng không thể lên án người bệnh vì niềm tin tuyệt đối đó (VTC 21-05-2010)


Vậy tại sao tác giả của bài này lại cho rằng thống đốc Bình có những triệu chứng của bệnh hoang tưởng theo như định nghĩa ở trên. Chúng ta hãy lấy hai phát ngôn thuộc hàng “nổi tiếng” nhất của ông làm ví dụ:


“Người ta tìm ra bộ 3 bất khả thi giữa tăng trưởng, lạm phát và tỷ giá, ông đó được quốc tế cho giải thưởng Nobel. Vậy mà hiện nay chúng ta phải vừa làm sao kiềm chế được lạm phát mà vẫn phải tăng trưởng. Tôi đã có lần nói đùa với Chủ tịch Quốc hội là em chỉ cần nửa giải thưởng Nobel cũng được, nếu em làm được một trong hai”, ông nói. (VnExpress 23-11-2012)


Ông Nguyễn Văn Bình chia sẻ: Hơn một năm qua, trong công việc mình chưa bao giờ nản lòng nhưng buồn thì có nhất là những khi đồng đội không hiểu, dư luận thì nghi hoặc. Có lần trong cuộc họp, một thành viên đã ví mỗi một ủy viên Trung ương là một ngôi sao, mình lên phát biểu liền bảo tôi không nghĩ mình là “sao” nhưng nếu có thì chắc “tôi là ngôi sao cô đơn”. (Tiền Phong 10-2-2013)


Như vậy, trong hai phát biểu ở trên, dù chỉ là “nửa đùa nửa thật”, thống đốc đã cho rằng mình xứng đáng được “nửa giải Nobel” và cũng tự cho mình là “ngôi sao cô đơn”. Tất nhiên người bênh thống đốc có thể nói rằng đây chỉ là cách nói ví von nhưng trên thực tế, nếu trong đầu thống đốc không nghĩ tới điều đó nhiều lần thì khi ra trước diễn đàn Quốc hội và trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí nghiêm túc thống đốc không thể nói ra điều đó. Trong đoạn trên, có thể thấy thống đốc cũng nói: “nhưng buồn thì có nhất là những khi đồng đội không hiểu, dư luận thì nghi hoặc”.


Như vậy, thống đốc đã có biểu hiện của triệu chứng về bệnh hoang tưởng đã nói ở trên là:


“Hoang tưởng tự cao là dạng rối loạn thường gặp, bệnh nhân cho rằng mình có tài năng xuất chúng nhưng chưa được công nhận”.


Trong bài phỏng vấn dưới đây, thống đốc Bình cũng tự khen mình là người “có kiến thức kinh tế, vừa bao quát, vừa chuyên sâu, từng trải, bản lĩnh…”:


Như lời một bài hát đã viết mà tôi rất tâm đắc: “Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng thì gian khổ biết dành phần ai”. Dù là “ghế nóng” nhưng nhất định là phải có ai đó ngồi vào để gánh vác trọng trách đó. Làm ngân hàng là một nghề, đòi hỏi có kiến thức kinh tế, vừa bao quát, vừa chuyên sâu, từng trải, bản lĩnh và cả sự nhạy cảm nữa. (VnEconomy 7-2-2013)


Chỉ có điều người “có kiến thức kinh tế, vừa bao quát, vừa chuyên sâu” lại phát biểu sai về “bộ ba bất khả thi”, là kiến thức cơ bản mà bất kỳ sinh viên chuyên ngành kinh tế nào cũng phải biết, trên diễn đàn Quốc hội (nói thêm là thống đốc có bằng TS kinh tế tốt nghiệp ở Nga dù theo TS Lê Hồng Giang thì luận án của thống đốc Bình giống với Kinh tế chính trị hơn là kinh tế):


Chẳng hạn, khi nói về “bộ ba bất khả thi”, thống đốc dẫn ra ba yếu tố là tăng trưởng, lạm phát và tỉ giá để cho rằng không thể đồng thời thực hiện ba mục tiêu này. Tuy nhiên, thật ra “bộ ba bất khả thi” đề cập tới ba mục tiêu là ổn định tỉ giá, tự do hóa dòng vốn và chính sách tiền tệ độc lập. Như vậy, thống đốc hoặc chưa hiểu chính xác về lý thuyết “bộ ba bất khả thi”, hoặc cố lấy sự thông cảm để né câu hỏi của đại biểu (Tuổi Trẻ 17-11-2012)


Trong bài trả lời phỏng vấn Thời báo Kinh tế Việt Nam dẫn ở trên, khi nói về chính sách quản lí vàng của NHNN, thống đốc Bình có nói:


Chúng tôi biết trước là sẽ bị phản đối quyết liệt nhưng không làm không được. Bởi con đường đã đi thì phải đi, đích đến vẫn phải đến. Sự chống đối của nhóm lợi ích có mặt khắp nơi, từ vận động hành lang chính sách đến các công cụ truyền thông, thậm chí, còn mượn cả “dân” để làm bình phong. Nếu không tin tôi thì cứ đi hỏi xem dân nào có đủ tiền đến mức lũng đoạn cả thị trường vàng? Chỉ những người buôn bán vàng đầu cơ mới quen làm mưa, làm gió thị trường, gây bất ổn cho kinh tế vĩ mô, bị đụng chạm lợi ích trong lần này thì mới bị thiệt hại thôi.. (VnEconomy 7-2-2013)


Chính sách quản lí vàng của NHNN với những phát kiến rất “độc đáo”, rất “Việt Nam” (tức là chẳng giống ai) đã bị rất nhiều chuyên gia phản đối với những lập luận, dẫn chứng hết sức thuyết phục. Chẳng hạn TS. Ngô Trí Long trong bài dưới đây đã nói rõ:


Từ góc độ Nhà nước, Việt Nam đang quản lý thị trường vàng theo kiểu “một mình một chợ”, thiếu hội nhập và liên thông với thế giới. Cả trong quá khứ và hiện tại, trên thế giới chưa một ngân hàng trung ương nào có chính sách chỉ duy trì một thương hiệu vàng và độc quyền sản xuất vàng miếng. Việc quản lý này đã lẫn lộn giữa chức năng quản lý Nhà nước và kinh doanh.


Ngân hàng Nhà nước điều tiết thị trường bằng biện pháp hành chính, mệnh lệnh (cấp giấy phép chuyển đổi, quản lý máy móc sản xuất của doanh nghiệp…), bỏ qua các yếu tố cung cầu của thị trường dẫn đến bế tắc trong sản xuất và lưu thông. Điều này đã tạo ra khan hiếm cung – cầu giả tạo.


Giá trong nước gần đây cao hơn 3-4 triệu đồng/lượng so với giá quốc tế. Trong lịch sử thế giới cũng như Việt Nam chưa từng có sự chênh lệch vô lý như vậy. (VnEconomy 27-12-2012)


TS Hoàng Công Gia Khánh, Trưởng khoa Tài chính ngân hàng Trường ĐH Kinh tế-Luật cũng cho biết:


Theo nguyên tắc chung trong quản lý vàng và kinh nghiệm ở hầu hết các nước phát triển như Mỹ, Úc, Canada, Nhật Bản… đều đã tự do hóa thị trường vàng từ rất lâu.


Còn như ở Ấn Độ và Trung Quốc:


sau cải cách, cơ quan nhà nước vẫn quản lý sản xuất, bán buôn, bán lẻ vàng nhưng đều được thực hiện theo cơ chế minh bạch và hoàn toàn không có sự độc quyền dù là độc quyền nhà nước hay tư nhân. Việc quản lý nhập khẩu vàng được thực hiện một cách linh hoạt trên cơ sở xử lý hài hòa giữa trạng thái cán cân thanh toán và tình trạng nhập lậu. Ngân hàng trung ương hoàn toàn không tham gia trực tiếp vào hoạt động nhập khẩu, sản xuất. Chính sách quản lý được thực hiện theo nguyên tắc thị trường, thông thoáng nhằm tạo được sự liên thông thị trường trong nước với thị trường nước ngoài khi đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện. (Pháp Luật TPHCM  20-1-2013)


Tức là ở trên thế giới hiện nay, không có Ngân hàng Trung ương nào lại đi quản lí thị trường vàng theo mô hình hiện nay ở Việt Nam mà thống đốc Bình tự chế ra cả. Nhiệm vụ của NHTW ở bất cứ nước nào quan trọng nhất là kiểm soát lạm phát và có thể thêm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với nguồn nhân lực và khả năng có hạn, NHNN ở Việt Nam thực hiện được hai mục tiêu trên đã rất khó rồi, tự dưng bây giờ lại ép buộc để sinh ra một thương hiệu vàng độc quyền quốc gia, tham gia kinh doanh, mua bán, cấp phép… trên thị trường vàng. Đây là mô hình trên thế giới cả các nước phát triển và đang phát triển không đâu có cả, chỉ do thống đốc Bình và êkíp nghĩ ra rồi tự cho là hoàn hảo, tốt hơn kinh nghiệm của thế giới. Chỉ riêng điều này đã cho thấy mô hình quản lí vàng như vậy chắc chắn sẽ thất bại, làm ảnh hưởng rất lớn tới quyền lợi người dân khi phải mua vàng giá cao, bán vàng giá thấp, ảnh hưởng tới hàng ngàn tiệm vàng trên cả nước… Chính sách này chắc chắn sẽ gây di hại hết sức lâu dài tới nền kinh tế. Cũng TS. Ngô Trí Long viết:


Trước đây, căn cứ Nghị định 174/1999/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng và Nghị định số 64/2003/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 174/1999/NĐ-CP, Ngân hàng Nhà nước đã cấp phép sản xuất vàng miếng cho 8 ngân hàng và công ty vàng. Mỗi đơn vị đã bỏ ra hàng chục tỷ đồng đầu tư máy móc, trang thiết bị, nhưng nay chỉ sau khoảng 10 năm đã trở nên vô giá trị do Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định độc quyền sản xuất vàng miếng từ 25/5/2012.


Chưa kể hàng nghìn lao động trở thành thất nghiệp do hoạt động của các đơn vị nói trên bị đình chỉ, thì một biện pháp hành chính đã gây lãng phí tài sản, nguồn lực của doanh nghiệp – cũng là tài sản của đất nước, nhân dân mà không có ai đứng ra đỡ hậu quả.


Sự hình thành mạng lưới các doanh nghiệp, cửa hàng kinh doanh vàng nhỏ lẻ là xuất phát từ nhu cầu tất yếu của thị trường, là hệ thống phân phối tự nhiên trên cơ sở cung – cầu xã hội. Không ai bỏ vốn đầu tư kinh doanh khi thị trường không có nhu cầu.Việc dẹp bỏ 12.000 doanh nghiệp, cửa hàng nhỏ lẻ đồng nghĩa với việc tước mất công ăn việc làm của hàng chục nghìn lao động, biến các doanh nghiệp này trở thành kinh doanh bất hợp pháp, ngoài ý muốn vì họ vẫn phải tiếp tục tồn tại và nuôi sống chính mình. (Cafef 19-11-2012)


Nhưng thống đốc Bình lại cho rằng những sự phản đối nói trên là do biểu hiện của “lợi ích nhóm” không tốt:  “Sự chống đối của nhóm lợi ích có mặt khắp nơi, từ vận động hành lang chính sách đến các công cụ truyền thông, thậm chí, còn mượn cả “dân” để làm bình phong.” (đã dẫn ở trên).


Trước những chứng cứ và kinh nghiệm rành rành ở thế giới mà thống đốc Bình nhất định bịt tai không nghe, lại còn trách báo chí là không đồng thuận và nói thẳng rằng “Báo chí có chiến đấu thế, chứ chiến đấu nữa thì kết quả vẫn vậy, cuộc sống là như thế”  tức là thống đốc Bình không cần quan tâm tới điều người khác nói, dù có chính xác tới đâu mà chỉ cho điều mình làm là đúng:


Tuy nhiên điều mà tôi trăn trở là trong 100% khó khăn thì báo chí gây ra chiếm 40-50%. Sự ủng hộ, đồng thuận của báo chí chưa cao, chạy theo vụ việc đơn lẻ, thổi lên quá đà, tạo dư luận chung của xã hội không tốt. Báo chí có chiến đấu thế, chứ chiến đấu nữa thì kết quả vẫn vậy, cuộc sống là như thế. Do đó, năm nay mong báo chí đồng thuận với Ngân hàng Nhà nước hơn (VTC 25-11-2012)


thì rõ ràng là thống đốc Bình đã có biểu hiện rõ ràng của triệu chứng hoang tưởng đã nói ở trên:


Bệnh nhân bị hoang tưởng có một niềm tin, một kết luận hoàn toàn sai với sự thực nhưng lại được người bệnh tin tưởng một cách tuyệt đối, không thể bác bỏ được. Do đó, người thân không thể thuyết phục người bệnh là họ sai, cũng không thể lên án người bệnh vì niềm tin tuyệt đối đó.


Nếu thực sự thống đốc có những dấu hiệu của chứng bệnh hoang tưởng thì đúng là không thể thuyết phục thống đốc được là thống đốc đã sai và cũng không thể lên án thống đốc. Tuy nhiên, tôi chỉ thấy thương cho Việt Nam, đã khó khăn chồng chất vì đồng chí X, nay lại có một thống đốc mắc chứng hoang tưởng vĩ cuồng và tự sướng thế này thì rồi nền kinh tế đất nước sẽ đi về đâu?


 Ngày 23-2-13


Theo viet-studies



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 24, 2013 15:41

Quê Choa thứ hai ngày 25/02/2013

Cập nhật liên tục trong ngày


images Bi kịch gia đình mang tên Dương Chí Dũng


Năm nay đã gần 90 tuổi, vị cựu đại tá – nguyên Giám đốc Công an Hải Phòng Dương Khắc Thụ không còn minh mẫn để thường xuyên theo dõi thông tin trên báo chí. Gia đình cũng tìm mọi cách giấu thông tin đến với ông Thụ bởi ông sẽ sốc nặng khi biết chỉ trong một thời gian ngắn, lần lượt các con trai Dương Chí Dũng, Dương Tự Trọng bị bắt; con rể Nguyễn Bình Kiên bị khai trừ đảng và hàng loạt những người thân tín như Vũ Tiến Sơn, Hoàng Văn Thắng, Nguyễn Trọng Ánh đều vướng vào vòng lao lý.


images 12 NGÀY TRONG ‘THẾ GIỚI TÂM THẦN’


Tôi lớn tiếng phản đối quyết định của họ, chỉ ra những điểm sai trái và tuỳ tiện trong quyết định kia. Các cán bộ của Phòng LĐ-TB-XH quận Thanh Xuân phân bua rằng họ chỉ là những người thừa hành thôi, và họ sẽ phản ánh lên cấp trên. Trong khi những người này đang bối rối trước phản ứng quyết liệt và lý lẽ của tôi thì một nhân viên của trung tâm hô hào mọi người xông vào áp chế tôi, buộc tôi phải đi vào khu vực nhốt bệnh nhân tâm thần. Bọn họ tước điện thoại của tôi, và cũng chẳng thèm hỏi xem tôi có đói bụng hay không, dù đã quá bữa trưa từ lâu. Lúc này khoảng 2h chiều.


hoanghuuphuoc-tuoitre2-600x337 Ông Hoàng Hữu Phước còn viết ‘tiền nhân Việt… ngu xuẩn’


Vào blog giao lưu của ĐBQH Hoàng Hữu Phước với cử tri (hhphuoc.blog.com) để xem lại sự hối lỗi, “phục thiện” của ông này sau khi xúc phạm rồi xin lỗi ĐBQH Dương Trung Quốc. Thế nhưng, tôi đã phát hiện ra điều đáng kinh ngạc và bất bình hơn, khi đọc những nội dung Hoàng Hữu Phước viết về chuyện lịch sử dưới triều nhà Hồ (1400-1407) và phê phán: “Chống (nhà – PV) Hồ rõ ràng đã là cái sai tệ hại và ngu xuẩn của tiền nhân Việt”.


images448497_1 Tướng Giáp 3 lần can gián chủ trương khai thác bauxite Tây Nguyên


Không phải đến bây giờ khi vấn đề bauxite Tây Nguyên bắt đầu đổ bể, ngay từ năm 2009, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã 3 lần gửi thư can gián đến Thủ tướng, Ban chấp hành trung ương đảng, Bộ Chính trị, Chính phủ và Quốc hội.  Xin giới thiệu lại toàn bộ nội dung 3 bức thư này để thấy rằng ngay từ đầu, chủ trương khai thác bauxite Tây Nguyên đã được tiến hành một cách vộị vã, bất chấp mọi lời cảnh báo từ các nhà khoa học, các bậc nhân sĩ trí thức tên tuổi và cả những lời can gián quyết liệt từ một vị khai quốc công thần như tướng Giáp.


lehieudang3 copie Luật gia Lê Hiếu Đằng: Việt Nam đừng bỏ lỡ cơ hội thoát khỏi vòng ảnh hưởng của Trung Quốc


Như chúng ta đã biết, ngày 17/02/1979, Trung Quốc đã xua hơn 30 vạn quân trang bị hùng hậu tràn vào xâm chiếm 5 tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam. Tuy bị bất ngờ và lực lượng yếu hơn, nhưng phía Việt Nam đã chống trả mãnh liệt, khiến quân Trung Quốc phải rút về nước ngày 18/03/1979.


Thế nhưng nếu Trung Quốc hàng năm rầm rộ tổ chức kỷ niệm cái gọi là « cuộc chiến phản kích tự vệ quân xâm lược Việt Nam ở Quảng Tây », thì phía chính quyền Việt Nam lại hoàn toàn im lặng trong suốt hơn ba chục năm qua. Thậm chí các hoạt động tưởng niệm của một số nhân sĩ và công dân ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh mới đây còn bị ngăn trở.


photo Trưng cầu dân ý


Như đã thấy, các cuộc « trưng cầu dân ý » ở VN hầu hết đều là « thủ thuật chính trị ». Nếu nó được tổ chức, như để « toàn dân phúc quyết hiến pháp », cũng sẽ là một thủ thuật chính trị.
 
Một điều ghi nhận qua « mùa xuân Ả Rập » đã xảy ra gần đây, ta thấy các nước độc tài trên thế giới, trước khi sụp đổ, thường hay diễn trò « trưng cầu dân ý ». Kết quả các cuộc trưng cầu này, các nhà lãnh đạo đều « thắng lớn ». Nhưng kết quả này không thể cứu chế độ, đôi khi kể cả sinh mạng, của các nhà độc tài này.
Hiến pháp bút Nỗi sợ hãi sự chuyên chế của đa số
Do vậy tôi nghĩ rằng yêu sách về phúc quyết Hiến pháp và những yêu sách khác về Hiến pháp chỉ là những phép thử, bước tập dượt cho tương lai. Nếu yêu sách về phúc quyết Hiến pháp được đáp ứng, vấn đề kỹ thuật và vấn đề bản chất của phúc quyết sẽ được soi xét kỹ hơn. Ngay cả trong trường hợp nếu đa số dân chúng ủng hộ bản Hiến pháp của nhà cầm quyền, bất kể do vấn đề kỹ thuật hay vấn đề bản chất trong phúc quyết, thì đấy cũng không phải là tổn thất, bởi vì không có phúc quyết thì bản Hiến pháp của nhà cầm quyền vẫn được thi hành. 
image
Để xây dựng một chế độ dân chủ, cần phải có những con người có hiểu biết về dân chủ, nhân quyền thì mới có thể xây dựng xã hội dân chủ. Nếu đa số người dân không hiểu biết gì cả, chỉ có một nhóm người thì điều đó sẽ không bao giờ xảy ra trên đất nước chúng ta. Cho nên những lời kêu gọi hay kiến nghị liên quan đến hiến pháp hay thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay, giúp cho người dân ngày một quan tâm hơn đến những quyền chính trị của họ trong đất nước này.”
clip_image002[3] GS NGUYỄN HUỆ CHI TRẢ LỜI PHỎNG VẤN BÁO YOMIURI (Nhật Bản)
Không phải chỉ riêng tôi mà bất kỳ người Việt có lương tri nào cũng phản đối, vì đây là một dự án chưa thấy đem lại lợi ích gì cho đất nước mà nguy cơ tàn phá môi trường, tiêu diệt hệ sinh thái phong phú, và để lại những hậu quả nghiêm trọng về nguồn nước độc hại cho không chỉ riêng Tây Nguyên mà cả một vùng đồng bằng rộng lớn phía Nam Việt Nam, và không phải chỉ trong dăm mười năm mà trong ba bốn  mươi năm hoặc lâu hơn thế, thì đã rành rành ra đấy. Đáng nói hơn nữa là nó đảo lộn đời sống của đồng bào người Thượng, thêm nhiều tập quán văn hóa lâu đời của nhiều tộc người Tây Nguyên rồi sẽ bị xóa bỏ. Sẽ nguy hiểm đến thế nào nếu người các dân tộc ở đây không còn không gian truyền thống để sinh hoạt và không còn duy trì được bản sắc văn hóa của mình?
chung-han-dong-8 Đặc sản cướp, gia vị chửi
Năm 2010, một trang web chuyên về du lịch phong Hà Nội là một trong những  “thủ đô ẩm thực” của thế giới. Thậm chí, Hà Nội “Điểm đến ẩm thực hấp dẫn thứ hai trên thế giới”, chỉ sau Barcelona của Tây Ban Nha, qua mặt cả Rome và Tokyo.

Chắc là biên tập viên trang web chưa từng thưởng thức “bún mắng cháo chửi” Hà Nội. Bởi bọn “khoai tây” sẽ không thể như người Tràng An thanh lịch, quen nổi thứ “gia vị chửi”, cay hơn ớt, đắng hơn bồ hòn.
 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 24, 2013 15:35

“Không phục vụ người Nhật Bản, Philipine, Việt Nam và chó”

237


Biển hiệu này ở trước của một nhà hàng mang tên “Snacks Bắc Kinh” hoặc “百年 卤煮 gần Prince Gong’s Mansions (恭王府), một địa điểm du lịch nổi tiếng nằm về phía Bắc của Tử Cấm Thành. Ảnh này  chụp vào ngày 21 tháng 2 năm 2013. ( Theo NLG) Chủ nghĩa dân tộc cực đoan không chỉ có ở TQ, ở đâu cũng có. Vấn  đề là  ĐCSTQ, ông bạn vàng của ĐCSVN, đã dạy dỗ dân họ thế nào để ra nông nổi này.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 24, 2013 01:02

GS Phan Đình Diệu góp ý về dự thảo Hiến pháp 1992 -Một bài phát biểu cách đây 21 năm nhưng vẫn còn nguyên tính thời sự

phan-dinh-dieuLời dẫn của Diễn Đàn: Bài viết mà bạn có thể mở ra bằng cách bấm vào tên bài ở dưới đây, là bản ghi lời phát biểu của giáo sư Phan Đình Diệu tại Hội nghị Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày 12.3.1992 (nghĩa là cách đây gần đúng 21 năm), “góp ý” về dự thảo Hiến pháp 1992, bản Hiến pháp mà ĐCS và Nhà nước VN đang chuẩn bị “tân trang” như chúng ta đã biết.


Với những ai đã liếc qua bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, và theo dõi các bài báo chính thống về những buổi “góp ý” về bản dự thảo này, không khó để thấy rằng tư duy của ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước hôm nay chẳng khác gì mấy so với hơn 20 năm qua dù rằng chính vì cái tư duy ấy mà tình hình đất nước đã xấu đi rất nhiều, cả về nguy cơ mất độc lập do sự đe doạ trắng trợn của anh bạn láng giềng khổng lồ phương bắc, và về các tệ nạn của nền chính trị trong nước. Trong khi nền kinh tế lún sâu vào khủng hoảng, giáo dục và y tế tụt hậu hàng chục năm so với các nước láng giềng, thì bộ máy cầm quyền tha hoá và bất lực trong việc giải quyết các vấn đề cơ bản của xã hội ấy lại tỏ ra ngày càng hung hãn hơn đối với người dân. Tìm mọi cách bám chặt lấy quyền lực rõ ràng là phương châm chủ đạo của bộ máy đó trong kịch bản “sửa đổi hiến pháp” mà họ đang đạo diễn, bắt các “đoàn thể quần chúng” phải tổ chức trình diễn và báo chí chính thống phải vỗ tay phụ hoạ dù chẳng lôi cuốn được bao nhiêu người xem.


Nhưng tình hình không phải là khác biệt duy nhất so với khi dự thảo Hiến pháp 1992 được đưa ra “lấy ý kiến nhân dân”. Với sự phát triển của các phương tiện truyền thông mới (điện thoại, internet), một “người chơi” mới đã nhảy lên sân khấu, khiến vở kịch sôi động hẳn lên : các blogs, website tư nhân, mà mức độ phản ánh tình hình vừa đa dạng vừa đúng đắn hơn nhiều so với các phương tiện truyền thông chính thống. Dù rất muốn (và đã thử dùng nhiều biện pháp cả kỹ thuật và trấn áp) nhà cầm quyền đã không thể giập tắt tất cả những cơ quan ngôn luận “ngoài luồng” đó. Từ bản Kiến nghị của 72 nhân sĩ tới trang Cùng viết Hiến pháp, và rất nhiều bài viết khác (mà mặt báo này đã phản ánh, cả qua các bài viết trong mục thời sự Việt Nam và qua các đường dẫn trong mục “Thấy trên mạng”), như những bài của giáo sư Hoàng Xuân Phú, của ông Nguyễn Trung, của nhà báo Huy Đức…, nhờ các cơ quan “lề dân” đó mà nhiều tiếng nói “ngoài kịch bản” đã vang lên, dõng dạc, mạnh mẽ, chỉ những người giả điếc mới không nghe thấy. Những tiếng nói đòi một Hiến pháp dân chủ; cho một đất nước dân chủ, không còn chịu sự kềm kẹp của vòng kim cô ý thức hệ, của “điều 4″ hay “16 chữ vàng”; không còn “sự lãnh đạo” của Đảng nào được coi như đương nhiên, bất biến – không đảng phái nào được đứng trên dân tộc, trên nhân dân… 


Những đòi hỏi đó, những ý kiến tâm huyết, trí tuệ đó, chắc những ai từng đọc những bài viết của GS Phan Đình Diệu sẽ không ngạc nhiên khi tìm lại chúng trong bài phát biểu mà Diễn Đàn hân hạnh giới thiệu hôm nay. Như một chứng từ mà lịch sử cần ghi nhận, và cũng như một đóng góp vào cuộc thảo luận đang diễn ra, khi những ý trong bài phát biểu dũng cảm này – chẳng may cho chúng ta – vẫn không hề mất tính thời sự. 


Phát biểu của ông Phan Đình Diệu tại Hội nghị ủy ban Trung ương Mặt trận Tồ quốc Việt nam ngày 12 tháng 3 năm 1992.


Kính thưa Đoàn chủ tịch,


Kính thưa tất cả các vị đại biều,


Tôi xin phép có một số ý kiến tham gia cuộc thảo luận kỳ này – tức là về dự thảo Hiến pháp.


Ý KIẾN THỨ NHẤT: Chúng ta đang sống trong một tình hình mà đất nước và thế giới có rất nhiều vấn đề cần được nhận thức và lý giải một cách tỉnh táo. Về những khó khăn của đất nước, tôi xin không phải nói lại. Nhưng vấn đề cốt lõi là hiện nay đất nước đòi hỏi gì? Theo tôi nghĩ, cái lớn nhất mà đất nước đòi hỏi là phải phát huy được tất cả mọi năng lực của tất cả các thành viên cùa dân tộc trong tinh thần đoàn kết, hòa hợp, tự cường để đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng và tiến kịp với thế giới. Phải trên cơ sở phát huy thật sự mọi năng lực của dân tộc thì mới có thể tận dụng được những thành tựu của thế giới hiện đại, tận dụng được những khả năng hợp tác với bên ngoài, và do đó, mới có th sử dụng được mọi thuận lợi để xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, có cuộc sống no ấm hạnh phúc trong cộng đồng thế giới đang bước sang một giai đoạn văn minh mới. Tôi nói điều đó bởi vì hiện nay, trong điều kiện mở cửa, nhiều khi ta hy vọng quá nhiều vào những quan hệ với nước ngoài, đầu tư của nước ngoài, v.v… Điều đó là hết sức quan trọng, nhưng cái quan trọng hơn nữa, cái cốt lõi nhất là phài làm sao phát huy được mọi năng lực của chính bản thân chúng ta. Bởi vì dân tộc ta, nếu không phát huy được năng lực của chính mình, thì dù người nước ngoài có ồ ạt đầu tư vào, chúng ta cũng chỉ đóng vai trò của những kẻ đầy tớ hèn mọn mà thôi. Cho nên vấn đề làm chủ, vấn đề phát huy thật sự năng lực của mọi thành phần của dân tộc, không phân biệt đối xử, không có hận thù, hòa giải, hòa hợp, mới là cái cốt lõi, cái cơ bản nhất. Năng lực ấy chúng ta có. Còn thi hành bất kỳ một chính sách phân biệt nào, bất kỳ sự chia rẽ nào, bất kỳ sự duy trì tình trạng đối địch thù hận nào, cũng đều nguy hiềm cho quá trình đoàn kết để chấn hưng đất nước. Vì vậy, Hiến pháp, theo tôi nghĩ, cần phải được bàn trên tinh thần đó, tạo điều kiện cho xã hội Việt nam tiến theo hướng đó. Và cũng cần nói thêm rằng với tư cách một bộ luật cơ bản, cao nhất, thì hiến pháp phải thực sự là bộ luật cơ bản và cao nhất, không có bất kỳ một thứ luật nào khác, thành văn hay không thành văn, cao hơn nó.


Ý KIẾN THỨ HAI: Vậy những đòi hỏi đó của đất nước hiện nay cần được phản ánh trong thể chế xây dựng nhà nước, tức là được phản ảnh trong Hiến pháp, như thế nào? Như chúng ta đã biết, qua sự vận động của đất nước ta cũng như trên thế giới vừa qua, thì điều đã rõ là chúng ta phải từ bỏ mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ để xây dựng một đất nước, một thể chế có nền kinh tế thị trường thật sự (dĩ nhiên là có sự điều tiết của nhà nước) và một chế độ chính trị dân chủ đoàn kết dân tộc, có nghĩa là một xã hội dân sự và một nhà nước dân chủ pháp quyền. Vì thế, ở đây có nhiều vấn đề cần phải dứt khoát và phải có những quan điểm rõ ràng. Bởi vì, nếu theo hướng đó thì rõ ràng chế độ xã hội chủ nghĩa với tư cách là một thể chế xã hội, tức là một hình thái tổ chức xã hội trong đó chế độ sở hữu công cộng là cơ bản hay gần như là duy nhất, trong đó nền kinh tế được quản lý tập trung bằng kế hoạch thống nhất của nhà nước, trong đó có một chế độ chính trị do một đảng lãnh đạo theo mô hình chuyên chính vô sản, đã chứng tỏ là không thể duy trì được nữa và là sự cản trở cho mọi tiến bộ của dân tộc. Và cũng như đã được chứng tỏ, nó là sự cản trở và đã bị phá bỏ ở nhiều nơi trên thế giới. Vì vậy, chúng ta phải dũng cảm để nhận thấy rằng chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình đó, tức là theo chủ nghĩa Mác – Lênin, không còn đáp ứng được mục tiêu phát triển của dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Một vấn đề đặt ra là có thể chăng cố gắng kết hợp một nhu cầu không thể bác bỏ được là phát triển nền kinh tế thị trường với một ý đồ duy trì thể chế chính trị “xã hội chủ nghĩa” kiểu chuyên chính vô sản do một đảng lãnh đạo? Tôi nghĩ, ở đây mỗi thể chế, mỗi cách tổ chức xã hội có logic của nó và trong mỗi logic đó có những yêu cầu về tính nhất quán của nó. Không thể dễ dàng từ bỏ một số yếu tố này mà lại giữ nguyên một số yếu tố khác. Thực tế mấy năm qua cho thấy trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, nhưng vẫn giữ sự độc quyền lãnh đạo, thì không phải chúng ta phát huy được tính tích cực của cả hai thể chế đó, mà thật ra xã hội đồng thời chịu tác động tiêu cực của cả hai thể chể. Bởi vì, trong một nền kinh tế không có hàng hóa thì người ta không thể dùng quyền để bán đi được. Nhưng một nền kinh tế thị trường mà vẫn giữ độc quyền thì quyền cũng là một thứ hàng hóa. Và trong mấy năm qua, nạn tham nhũng không thể trị được chính là hình thức kết hợp sự độc quyền và nền kinh tế hàng hóa. Vì không có thứ hàng hóa nào lại dễ ăn dễ lãi như quyền lực. Tham nhũng về thực chất là việc biến một cách phi pháp quyền lực thành hàng hóa. Cho nên không thể kết hợp những yếu tố không thể dung hòa được của hai thể chế để hy vọng tạo ra một hình thái tích cực được. Chúng ta cần nhanh chóng khắc phục những yếu tố cộng lại cái tiêu cực như vậy. Thật ra, kinh tế thị trường không phải cái gì cũng tốt cả. Kinh tế thị trường cũng có nhiều mặt tiêu cực của nó. Chính vì vậy, để phát triển được nền kinh tế thị trường và để nó có thể phát huy được mặt tích cực và hạn chế được mặt tiêu cực, thì đòi hỏi phải tăng cường luật pháp, đòi hỏi phải có một hệ thống luật pháp thật đầy đủ và có khả năng điều chỉnh mọi mối quan hệ phức tạp trong một xã hội có kinh tế thị trường. Do đó, phải tăng cường luật pháp, tăng cường dân chủ, phải xóa bỏ độc quyền. Để làm được như vậy phải bảo đảm quyền tự do dân chủ, đặc biệt những quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tư tưởng, tự do phê phán của nhân dân. Trong điều kiện đó, tôi đề nghị phải dũng cảm nhìn vào sự thật và có sự lựa chọn khoa học và logic. Trong sự lựa chọn này, tôi hoàn toàn đồng ý với nhiều ý kiến đã được phát biểu là: khi khái niệm chủ nghĩa xã hội theo kiểu cũ không còn thích hợp nữa, còn theo một kiểu mới nào đó thì chúng ta chưa hề định hình được, thì không nên ghi những từ như vậy trong một văn bản pháp luật có tính chất bắt buộc đối với toàn dân trên đất nước này. Chúng tôi đề nghị những thuật ngữ “chủ nghĩa xã hội”, “chủ nghĩa Mác – Lênin”, v.v… trong Hiến pháp đều nên tạm gác lại. Có bỏ vĩnh viễn hay không, chuyện đó ta hãy xét sau, nhưng ít nhất là nên tạm gác lại. Tổ quốc này chưa phải là “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, tài sản công cộng cũng không phải là “tài sản xã hội chủ nghĩa”, những chữ ấy không mang một nội dung gì cả. Vì vậy chỉ cần nói chúng ta bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, chúng ta xây dựng đất nước Việt Nam, chúng ta bảo vệ tài sản công cộng trên đất nước này, thế là đủ. Ban nãy, Linh mục Vương Đình Bích có nói: vì có sự khác biệt tư tưởng giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và tôn giáo, do đó nếu ghi chủ nghĩa Mác – Lênin vào Hiến pháp thì rất khó xử đối với đồng bào tôn giáo. Tôi không theo một tôn giáo nào, tôi là một người làm khoa học, nhưng vì là một người làm khoa học, tôi hiểu rằng trong học thuyết của Mác và cả trong sự phát triển về sau của Lênin có những yếu tố tích cực cần giữ, đồng thời có rất nhiều yếu tố mà thời đại chúng ta đã vượt qua, khoa học đã bác bỏ. Với tư cách là một nhà khoa học, tôi cũng không thể đội lên đầu một chủ nghĩa, xem như nó là một thứ ánh sáng bất biến, một ánh sáng vạn năng chiếu rọi cho mọi tư duy của mình. Chúng ta cũng không nên bắt cả dân tộc ta phải đội lên đầu bất kỳ một chủ nghĩa nào, bất kỳ một cá nhân nào. Dân tộc phải trên hết.


Trên tinh thần đó, tôi nghĩ rằng nếu đặt vấn đề đổi tên nước, thì tôi hoàn toàn đồng ý với anh Lê Đình Hoan phát biểu ban sáng là nên lấy một cái tên cực kỳ đơn giản, nhưng phản ánh mọi tình cảm tha thiết nhất của mọi người dân đất nước này, dù ở bất kỳ góc trời nào, đó là tên NƯỚC VIỆT NAM. Việt nam thôi, không cần có mĩ từ nào bên cạnh cả.


Ý KIẾN THỨ BA: Dẫu biết rằng nhiều người không muốn nói đến một vấn đề khá tế nhị và không phải dễ phát biểu, tôi cũng xin mạnh dạn đề cập. Đó là vấn đề đảng lãnh đạo. Chúng tôi nghĩ đã đến lúc cần lựa chọn: Một Hiến pháp theo mô hình chuyên chính vô sản, do Đảng cộng sản lãnh đạo, hay một Hiến pháp dân chủ pháp quyền? Nửa vời thì sẽ tự mâu thuẫn. Tôi không có thì giờ phân tích kĩ ở đây, nhưng rõ ràng có rất nhiều mâu thuẫn trong bản dự thảo Hiến pháp hiện nay. Không chỉ là mâu thuẫn, mà còn có nhiều chỗ phản ảnh không thật và nhiều điều bị che giấu đằng sau những ngôn từ của văn bản. Vì, nếu đã giữ điều 4, tức là giữ điều nói đảng là lực lượng lãnh đạo của Nhà nước và xã hội, thì cần có một chương qui định rõ ràng về đảng lãnh đạo. Để trung thực với dân tộc thì cần nói rõ đảng lãnh đạo là như thế nào? Trong điều kiện đó, quốc hội có còn là cơ quan quyền lực cao nhất nữa không? Hay đảng là cơ quan quyền lực cao nhất, còn quốc hội chỉ là cơ quan thể chế hóa các nghị quyết của đảng? Những điều như vậy cần được ghi rõ thành những điều trong Hiến pháp, có vậy mới sòng phẳng và trung thực với nhân dân. Nếu không làm như vậy, thì Hiến pháp sẽ là hình thức và sự chuyên quyền tùy tiện sẽ thực tế ngự trị như ta đã biết từ trước đến nay. Còn nếu quả thực đã thừa nhận Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất thì để không mâu thuẫn, phải không có điều 4. Trong trường hợp đó đảng phải giành quyền lãnh đạo bằng sự tín nhiệm, bằng cách ra ứng cử Quốc hội trong cuộc bầu cử thực sự tự do và bình đẳng, và giành đa số trong Quốc hội. Đảng lãnh đạo, như vậy, là phải đứng trong dân tộc, nằm trong dân tộc, cùng với dân tộc để tranh quyền lãnh đạo, chứ không phải tự đặt mình đứng trên dân tộc, đứng ngoài dân tộc, đứng trên Nhà nước để tự áp đặt quyền lãnh đạo của mình. Thế là công minh và minh bạch. Như thế, tôi chắc rằng uy tín của đảng sẽ cao hơn. Biết bao thời kỳ trước đây, làm gì có điều qui định trong Hiến pháp là đảng lãnh đạo, mà đảng vẫn được nhân dân thừa nhận, và rõ ràng uy tín của đảng hồi đó cao hơn cả thời kỳ mà sự lãnh đạo được ghi vào Hiến pháp. Tôi không chống lại sự lãnh đạo của đảng. Tôi mong muốn có một đảng với tư cách là một lực lượng chính trị có tổ chức và có kinh nghiệm, có trí tuệ và có năng lực tập họp, giành được sự tín nhiệm của nhân dân và lãnh đạo đất nước trong một thể chế dân chủ. Nhưng tôi cũng không mong có một đảng tự áp đặt quyền lãnh đạo tối cao, bất chấp mọi luật pháp, đứng trên Nhà nước. Điều đó chỉ làm giảm uy tín của đảng và đưa thiệt thòi đến cho dân tộc mà thôi.


Ý KIẾN THỨ TƯ: Vấn đề quyền con người và quyền công dân. Trong bản dự thảo có một chương dài, nhưng sắp xếp chưa thỏa đáng lắm. Mỗi chúng ta ở trong xã hội đều có quyền con người và quyền công dân, bởi vì mỗi cá nhân sống trong xã hội với hai tư cách: tư cách là một cá nhân cần được bảo vệ, cần được tôn trọng để tồn tại như một con người cá thể và tư cách thứ hai là như một thành viên của cộng đồng dân tộc. Quyền con người là quyền để tồn tại như một cá thể, quyền công dân là quyền để tồn tại và để góp phần như một thành viên của cộng đồng dân tộc. Những quyền như bất khả xâm phạm, tự do cư trú, tự do tư tưởng, tự do đi lại, v.v… là những quyền con người. Còn quyền công dân cơ bản là quyền tham gia công việc của cộng đồng: tham gia lựa chọn những người xứng đáng vào bộ máy cai quản cộng đồng, tức là quyền bầu cử, ứng cử, quyền hội họp, quyền lập hội. Nhưng nên nhớ rằng nhân dân không chỉ thực hiện quyền dân chủ thông qua các cơ quan dân cử, nghĩa là cứ 4-5 năm đi bầu một lần là xong. Nhân dân còn có quyền tham gia quản lý nhà nước trong quá trình hoạt động hàng ngày và thường xuyên của nhà nước và của xã hội. Nhưng tham gia bằng cách nào? Dĩ nhiên không phải lúc nào cũng tập hợp dân lại để lấy phiếu về từng vấn đề. Cũng không phải lúc nào cũng có thể tập họp dân lại để bàn chuyện này, chuyện khác. Vì vậy, quyền cơ bản của dân trong việc thường xuyên phê phán và góp phần vào việc quản lý Nhà nước là thông qua dư luận, tức là quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Quyền này cực kỳ quan trọng. Quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí không chỉ nằm trong phạm vi quyền con người, mà đây là quyền của nhân dân góp phần vào công việc của cộng đồng. Cho nên chúng tôi đề nghị phải thật sự tôn trọng những quyền này và tạo điều kiện cho những quyền này có vị trí thích đáng. Một xã hội sẽ hoàn toàn tê liệt nếu như không có quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, tức là những quyền mà danh từ khoa học gọi là tạo ra những “feedback”, những liên hệ ngược. Trong hệ điều khiển của xã hội, không có nó thì xã hội bị tê liệt và sự thao túng của quyền lực là điều không thể tránh khỏi. Những chuyện tham nhũng, những chuyện đặc quyền, đặc lợi, trong đó có những chuyện tày đình như đã xảy ra trong thời gian vừa qua, sẽ không thể nào khắc phục được, là bởi vì nếu chỉ giao cho những cơ quan quyền lực thì làm sao chống được những tệ nạn mà nguồn gốc chính là từ quyền lực? Những chuyện như hóa giá nhà ở thành phố Hồ Chí Minh chẳng hạn,tại sao không công bố trên báo chí danh sách những người được hưởng nhà hóa giá? Nếu công bố như thế thì sẽ rõ ra ai là người tham nhũng và cần phải chống tham nhũng như thế nào. Cho nên, mối liên hệ ngược, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tự do phát biểu của nhân dân trong đời sống hàng ngày, quyền tạo ra dư luận là quyền cơ bản, rất cơ bản, nằm trong các quyền công dân của chúng ta. Tôi đề nghị trong Hiến pháp các quyền công dân đó được ghi thành một nhóm, còn các quyền con người thì ghi thành một nhóm khác.


Ý KIẾN THỨ NĂM: Về Quốc hội. Muốn quốc hội trở thành cơ quan quyền lực cao nhất, phải có hai điều kiện: 1) đại biểu quốc hội phải có năng lực thật sự để hiểu được quyền lực cao nhất đó và có khả năng thực hành quyền lực đó. 2) đại biểu phải có thì giờ để làm công việc đại biểu của mình. Còn nếu quốc hội chỉ gồm cho đủ thành phần, kể cả những người không hiểu gì về công việc Nhà nước, xuân thu nhị kỳ ngồi với nhau để gọi là có ý kiến về những vấn đề trọng đại của đất nước thì làm sao có “ý kiến” được. Tôi đồng ý đại biểu quốc hội phải có những tiêu chuẩn về kiến thức, năng lực, nhưng cũng phải có tiêu chuẩn này nữa: đại biểu quốc hội phải bảo đảm dành hoàn toàn thì giờ lo việc của quốc hội trong nhiệm kỳ cùa mình. Nếu tự xét thấy không đủ điều kiện đó, thì không nên ứng cử đại biểu. Một Quốc hội làm việc thường xuyên thật sự đại diện cho trí tuệ của dân tộc là hết sức cần thiết để bảo đảm cho Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Hiện nay, khi chuyển sang kinh tế thị trường, cần có hệ thống luật pháp thật đầy đủ và hoàn chỉnh, nếu cứ như hiện nay, mỗi năm Quốc hội họp hai lần, mỗi lần chỉ thông qua vài ba luật một cách không đầy đủ trí tuệ lắm, tất nhiên sẽ không bao giờ có đủ luật cho một nền kinh tế phát triển lành mạnh. Mà không có luật đầy đủ và hoàn chỉnh thì chỉ có thể có một nền kinh tế què quặt, chứa đựng rất nhiều tiêu cực hoành hành mà thôi.


Do đó, tôi đề nghị cần thực sự đổi mới việc bầu cử đại biểu Quốc hội, đặc biệt là việc tôn trọng quyền tự do và bình đẳng trong ứng cử. Quyền ứng cử là quyền bình đẳng của mọi công dân. Chỉ cần thỏa mãn một số điều kiện qui định là đều có quyền ứng cử. Điều kiện đó có thể là người ứng cử phải hội đủ một số chữ ký đề cử của cử tri (có thể là 5 nghìn chữ ký chẳng hạn). Những chữ ký đó có thể là của cử tri trong một đoàn thể hay trên địa bàn dân cư. Việc hiệp thương có thể được tiến hành giữa các đoàn thể để giới thiệu các ứng cử viên chung. Sau đó, cần nộp đơn ứng cử cho ban bầu cử, chứ không phải nộp đơn cho ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc. Mặt trận là một tổ chức của các đoàn thể, không phải là một cơ quan nhà nước để tổ chức bầu cử. Việc lập danh sách bầu cử là của cơ quan Nhà nước về bầu cử ở trung ương và địa phương.


Ý KIẾN THỨ SÁU: Về tổ chức Nhà nước. Đó là vấn đề phức tạp. Chúng ta dường như thích phê phán cái gọi là “tam quyền phân lập” (tức quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp) như là một cái gì đó của chế độ tư bản. Thật ra đó là một hình thức tổ chức nhà nước tiến bộ của loài ngườỉ. Dĩ nhiên, chúng ta có thể theo hoặc không theo, có thể chế biến theo cách này hay cách khác. Theo tôi, trong điều kiện thực tế của chúng ta hiện nay, cần tôn trọng tính chất độc lập của các quyền đó, nhưng có thể không theo một hình thức tổ chức hoàn toàn phân lập. Về quyền hành pháp nên có qui định trách nhiệm cá nhân thật rõ ràng và đầy đủ của thủ tướng. Còn về Quốc hội, tôi đồng ý với những ý kiến như của giáo sư Lý Chánh Trung vừa rồi. Nếu Quốc hội làm việc thường xuyên thì không cần có ủy ban thường vụ Quốc hội, mà chỉ cần có chủ tịch và các phó chủ tịch. Các kỳ họp không nên cách nhau sáu tháng mà phải ngắn hơn. Do đó, cũng không cần ủy ban thường vụ Quốc hội. Chức chủ tịch nước như bản dự thảo trình bày là hoàn toàn cần thiết. Hệ thống hành pháp thì rõ ràng cần phải có sự chỉ đạo tập trung và thống nhất. Do đó, phải bổ nhiệm những viên chức chịu trách nhiệm hành pháp tại các địa phương. Có thể tham gia ý kiến người này, người khác, nhưng phải bổ nhiệm. Và người được bổ nhiệm phải chịu trách nhiệm trước cấp bổ nhiệm mình.


Ý KIẾN THỨ BẢY: Về vai trò của Mặt trận và các đoàn thể. Tôi đề nghị cần xem xét nghiêm túc là có nên tiếp tục nhà nước hóa các đoàn thể như hiện nay không ? Bởi vì hiện nay, chúng ta cái gì cũng dựa vào nhà nước cả. Thật đau lòng là mỗi khi Mặt trận làm gì, cũng nghe kêu Nhà nước đối xử với Mặt trận như thế này, như thế kia, nhà nước cần có chế độ thế này, thế kia, v.v… Nếu chúng ta là tổ chức quần chúng, tức là một tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyện của quần chúng, thì cái rễ của chúng ta là quần chúng, chứ không phải nhà nước. Và như vậy, sức mạnh của chúng ta là sức mạnh phản ảnh nguyện vọng, tâm tư, đề nghị của quần chúng, chứ không phải là cái đuôi nhạt nhẽo của bộ máy nhà nước. Tôi đề nghị: trong việc chuyển biến nhà nước thành một nhà nước dân chủ pháp quyền, các tầng lớp nhân dân, các thành phần nhân dân có quyền thành lập các đoàn thể, các hội đoàn của mình một cách hoàn toàn tự nguyện, và điều đó cần được bảo đảm trong hiến pháp về quyền lập hội, thế là đủ. Cũng không cần nêu trong Hiến pháp là có những đoàn thể nào. Đặc biệt, không nên xem các đoàn thể của nhân dân là nằm trong cơ cấu của hệ thống nhà nước, là những thành phần của một hệ thống chính trị chịu sự điều khiển của Đảng và Nhà nước. Dĩ nhiên, như vậy thì các đoàn thể chúng ta cũng phải dũng cảm không ăn lương của Nhà nước. Tôi đề nghị ngân sách Nhà nước chỉ chi cho bộ máy Nhà nước, không chi cho bất kỳ đoàn thể nào. Vì vậy, các cơ quan đảng, các cơ quan đoàn thể không ăn lương từ ngân sách nhà nước.


Cuối cùng, tôi không hy vọng những điều trình bày nói trên sẽ được xem xét phân tích trong một thời gian ngắn, cũng như ý kiến của nhiều vị đã trình bày trong hội nghị này chắc chắn sẽ còn được nghiên cứu kĩ. Như nhiều vị đã phản ảnh, việc thảo luận dự thảo Hiến pháp lần này quá vội vàng, nhân dân chưa có điều kiện góp ý đầy đủ. Do đó, nên chăng lần này chỉ nên đưa ra một số điều sửa đổi Hiến pháp 1980 để tạo thuận lợi cho những công việc trước mắt, ví dụ như những điều khoản về chế độ kinh tế, những điều khoản về vấn đề bầu cử quốc hội, v.v… Còn việc sửa đổi toàn diện để xây dựng một Hiến pháp mới thì giao cho Quốc hội mới tiến hành trong cả nhiệm kỳ sắp tới./.


Theo ABS


——


Tác giả: Ông Phan Đình Diệu là giáo sư, nhà toán học của Việt Nam. Mời xem thêm: (ĐHQG HN).


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 24, 2013 00:14

February 23, 2013

Viết tiếp về dự án Bauxite Tây Nguyên- Bài 1

I. DỪNG DỰ ÁN XÂY DỰNG CẢNG KÊ GÀ – TIÊU TÀN MỘT GIẤC MƠ HOA!


Lê Trung Thành



Mũi Kê Gà

Mũi Kê Gà


Với tham vọng xây dựng cảng nước sâu Kê Gà tại xã Tân Thành huyện Hàm Thuận Nam tỉnh Bình Thuận để phục vụ cho việc phát triển công nghiệp nhôm khu vực Tây Nguyên Nam Trung bộ, Tập đoàn công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam (VINACOMIN) dự kiến vốn đầu tư ban đầu (thời giá 2007) khoảng 600 triệu USD cho giai đoạn 1: 3040 tỷ và giai đoạn 2: 6060 tỷ, bảo đảm cho loại tàu trọng tải 30.000- 50.000 DWT ra vào cảng. Họ cũng “phấn đấu” đến 2015 bốc xếp 10-15 triệu tấn (T)/năm và tới 2025, bốc xếp 25-30 triệu T/năm. Những chỉ tiêu này được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt trong bản “Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng quặng bauxite giai đoạn 2007-2015 có xét đến năm 2025” tại quyết định số 167/2007 QĐ-TTg ngày 1/11/2007.


Hy vọng sẽ đầu tư từ 11,8-15,6 tỷ USD trong giai đoạn 2007-2015, Vinacomin bồng bềnh trên mây xanh với kế hoạch sẽ sản xuất được 6-8,5 triệu T alumin (nhôm oxit) và 0,2- 0,4 triệu T nhôm tại 6 nhà máy chế biến alumin và 1 nhà máy điện phân nhôm đặt ở Đăknông và Lâm Đồng. Cũng vào thời điểm ấy, tuyến đường sắt Tây Nguyên đi từ Đăknông qua Bảo Lộc – Lâm Đồng về cảng Kê Gà có khổ rộng 1,435 m dài 270 km sẽ được thiết kế gấp gáp và tổ chức thi công một đường đơn và sau năm 2015, sẽ nâng thành đường đôi. Công suất vận chuyển giai đoạn 1 (đến năm 2015) khoảng 10-15 triệu T/năm và giai đoạn 2 (sau năm 2025) khoảng 25-30 triệu T/năm!


Sống giữa những con số ảo nhưng từ nguời ký quyết định phê duyệt đến những nguời được giao nhiệm vụ thực hiện đều mơ mộng chỉ dăm bảy năm nữa, ngành công nghiệp nhôm Việt Nam sẽ sánh vai với các cường quốc, chẳng khác gì Vinashin muốn đứng hàng thứ 5 thế giới trong ngành đóng tàu!


Sự hoang tưởng về số vốn khổng lồ của Vinacomin “sắp có” khiến bao người trong cuộc mờ mắt, tối mũi, không còn phân biệt được đâu là thật, đâu là giả bởi họ tin và buộc phải tin rằng “dự án khai thác bauxite Tây Nguyên là chủ trương lớn của Đảng đã được mấy kỳ Đại hội ghi vào nghị quyết!”. Từ niềm tin vô tiền khoáng hậu ấy, họ đặt cả tương lai của Đại dự án bauxite Tây Nguyên vào sự giúp đỡ “chí tình” của đối tác số 1 là Tập đoàn công nghiệp nhôm Trung Quốc – Chalco thông qua những “văn kiện” ký giữa Đảng cộng sản Trung Quốc và Đảng cộng sản Việt Nam từ sau chuyến đi thăm Trung Quốc năm 2001 của ông Tổng bí thư Nông Đức Mạnh.


Họ cũng quá tin vào khả năng huy động vốn, bằng kiểu phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường thế giới như Chính phủ đã từng vay 750 triệu USD cho tập đoàn Vinashin cuối năm 2005 quá dễ dàng. Mặt khác, khi chuẩn bị bản Quy hoạch năm 2007, ngành công nghiệp nhôm toàn cầu đang sôi sục, giá nhôm từ năm 2005-2008 thường ở mức 1,35-1,45 USD/1 pound, tức vào khoảng 2900-3150 USD/1T. Với giá cao ngất ngưởng này, Vinacomin tin sẽ có nhiều Tập đoàn của Úc, Mỹ, Nhật Bản, Tây Ban Nha… rầm rập kéo vào xin bỏ vốn đầu tư xây dựng nhà máy chế biến alumin, xây dựng đường sắt và cảng Kê Gà… Trên thực tế, cũng có một số nhà đầu tư tới khảo sát, tỏ ý muốn hợp tác như tập đoàn Alcoa – Hoa Kỳ tại Đăknông.


Tới năm 2008, Vinacomin triển khai kế hoạch đấu thầu xâu dựng tổ hợp bauxite Tân Rai “lựa chọn” được nhà thầu Chalieco, một thành viên của Chalco. Sau đó, theo ý kiến chấp thuận của ông Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải, Vinacomin giao hợp đồng xây dựng tổ hợp Nhân Cơ cho Chalieco dựa trên giá thắng thầu Tổ hợp Tân Rai.


Giữa lúc “bừng bừng khí thế”, dự án bauxite Tây Nguyên vấp phải sự phản đối quyết liệt của dư luận xã hội. Các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu bauxite Tây Nguyên từ đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, khi Việt Nam còn là thành viên khối SEV, đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ với nhiều dẫn chứng cụ thể. Đại tướng Võ Nguyên Giáp hai lần gửi thư cho lãnh đạo nhà nước, tiếp sau đó, là những bản kiến nghị của giới nhân sĩ, trí thức, các nhà xã hội học, dân tộc học cùng hàng ngàn người ký tên đồng lòng đòi dừng ngay dự án. Kết quả là, dự án Tân Rai và Nhân Cơ vẫn tiếp tục thi công nhưng thông qua chuyến đi thị sát của thường trực Bộ Chính trị Trương Tấn Sang, Bộ Chính trị đã chỉ đạo chỉ làm “thí điểm” Tân Rai và Nhân Cơ, tạm dừng xây dựng các nhà máy khác đồng thời không cho nước ngoài hợp tác đầu tư.


Ngay từ thời điểm đó, bản Quy hoạch năm 2007 đã bị phá vỡ về mặt lý thuyết.


Chờ ngoại viện không còn nữa, chờ vốn vay quốc tế gặp khó do đế chế Vinashin lâm vào cảnh khốn cùng do vung tay quá trán dẫn đến sự sụp đổ thảm hại. Vinacomin bắt đầu nao núng tinh thần. Không xây hàng loạt nhà máy ở Đăknông, Lâm Đồng như kế hoạch ban đầu thì chẳng bao giờ có tuyến đường sắt Tây Nguyên tốn gần 3 tỷ USD, không có sản lượng 10- 15 triệu T alumin thì xây dựng cảng Kê Gà với dự toán đã lên tới hơn 1 tỷ USD sẽ dẫn tới thua lỗ nghiêm trọng, làm tan rã mộng tưởng hoang đường của Vinacomin, nhưng đó cũng chỉ là “khúc nhạc dạo đầu” cho những phiền toái và hậu quả ngoài ý muốn của Vinacomin!


Trong bản Quy hoạch năm 2007, Chính phủ và Vinacomin chỉ chăm chăm vào việc xây dựng ngay tuyến đường sắt Tây Nguyên chọc xuống cảng Kê Gà (mặc dù biết Kê Gà không phải nơi thuận lợi để xây cảng nhưng lại là điểm kết nối thuận tiện nhất của toàn tuyến vận chuyển alumin tương lai). Họ không ngờ tới việc bản Quy hoạch khai thác và chế biến bauxite Tây Nguyên vĩ đại như vậy, từng làm vừa lòng ông bạn vàng và hấp dẫn bao kẻ thèm muốn nguồn bauxite 7-8 tỷ tấn của Việt Nam, lại bị mấy ông trí thức phá hủy toàn bộ!


Không làm đường sắt thì vận chuyển nguyên vật liệu và alumin theo lối nào, đường nào?


Vì vậy, mới có chuyện ông Hoàng Trung Hải phải đích thân mấy lần thị sát cùng bầu đoàn thê tử để chọn hướng tuyến đường bộ mới đi từ Nhân Cơ, Tân Rai về Kê Gà. Tiếp đó là phương án chữa cháy là từ hai nhà máy ấy theo quốc lộ 20, quốc lộ 51 về cảng Gò Dầu- Đồng Nai… như bây giờ.


Phương án này là phương án bổ sung, bất đắc dĩ nên họ đâu có đưa vào quy hoạch, đâu có tính trong giá thành sản phẩm. Trong lúc tiền đầu tư xây dựng hai tổ hợp Nhân Cơ và Tân Rai còn thiếu quá nhiều, chạy vạy mãi mới vay được 300 triệu USD của Citi Việt Nam thì lấy tiền đâu xây dựng đường mới hay sửa chữa đường cũ đang hư hỏng nặng nề để chuyên chở sản phẩm?


Loay hoay mãi, kêu gào mãi, Chính phủ và Bộ Tài chính, Bộ Công Thương mới đồng ý cho Vinacomin vay vốn làm đường 725 từ cửa nhà máy Tân Rai ra QL20 và đường 769 nối từ ngã ba Dầu Giây về Long Thành giáp QL51 với một quy chế thoáng, là Tập đoàn mẹ được khấu trừ trong 5 năm. Nhờ vậy, hai đoạn đường đang được cải tạo và nâng cấp sau mấy chục tháng nằm chờ vốn. Còn QL20, đoạn từ Bảo Lộc về ngã ba Dầu Giây được Tổng cục Đường bộ VN – Bộ Giao thông Vận tải sửa chữa, nâng cấp, giao cho Ban quản lý dự án 9 làm chủ đầu tư. Số tiền trên dưới 5000 tỷ đồng dành cho việc sửa chữa đường và hàng loạt cầu yếu, trọng tải thấp trên tuyến khó lòng thu hồi được từ Vinacomin vì dự án Tân Rai và Nhân Cơ không có lãi suất 10% như chỉ đạo ban đầu của ông Hoàng Trung Hải.


Chỉ cải tạo và nâng cấp đường cũ mà đi đã gặp nhiều khốn khó thì Vinacomin làm sao có vốn để mở đường mới nối Nhân Cơ với Tân Rai, nối Tân Rai với cảng Kê Gà?


Bởi vậy, việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chính thức công bố dừng việc chuẩn bị dự án xây dựng cảng Kê Gà là điều tất yếu phải xảy ra.


Tuy nhiên, những người có trách nhiệm trong dự án bauxite Tây Nguyên và Vinacomin vẫn loanh quanh, vòng vo chuyện chọn cảng nào thay thế cảng Kê Gà.


Điều đó, càng thể hiện sự yếu kém trong công tác điều hành và kiểm tra, giám sát dự án.


Quyết định ngừng dự án Kê Gà dẫu có muộn màng, vẫn còn kịp cho Bình Thuận chuyển đổi lại các phương án và kế hoạch phát triển du lịch, nghỉ dưỡng ở vùng ven biển Phan Thiết. Giải quyết những hậu quả, đền bù cho các dự án bỏ hoang 5- 6 năm rồi cũng sẽ xong nhưng với Vinacomin và Chính phủ, đây là sự thừa nhận thất bại một cách miễn cưỡng vì bản quy hoạch 2007 đổ vỡ chứng tỏ sự vội vã, hấp tấp và nông cạn của các tác giả lẫn người phê duyệt.


clip_image004


Làng chài Kê Gà đang xây dựng kè dọc bờ biển và làm đường mới để phục vụ du lịch


Bản quy hoạch mới do Bộ Công Thương soạn thảo và lấy ý kiến của nhiều bên liên quan được đệ trình từ gần cuối năm 2011 đến nay chưa thấy hồi âm.


Hiệu ứng “domino” từ cái chết yểu của dự án cảng Kê Gà làm tiêu tàn một giấc mơ hoa”!


L.T.T.


Theo BVN



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 23, 2013 20:17

Lối ra có lợi nhất cho đất nước cho dân tộc

Tô Văn Trường
3Chot_8db8bTài nguyên được xem là vốn quý của quốc gia nhưng không phải là vô hạn. Trong điều kiện của nước ta, việc khai thác nguồn khoáng sản bô xít dồi dào còn tiềm ẩn để phát triển kinh tế có thể xem như là một cố gắng của Đảng và Chính phủ nhằm tăng thu ngân sách, đầu tư cho Xã hội với nhiều vấn đề nổi cộm về Giáo dục, Y tế, An sinh còn thiếu vốn liếng trầm trọng hiện nay.
Khi con người tác động vào tự nhiên bao giờ cũng có 2 mặt được và mất. Đây là bài toán “trade off” đánh đổi,  đòi hỏi phải làm sao cho cái được lớn nhất và cái mất là ít nhất. Làm việc thì đương nhiên có thành công và có thất bại, có công và kể cả có tội hay gọi là “lỗi” cho nhẹ. Việc khai thác bô xít đòi hỏi phải được thực hiện một cách bài bản, khoa học, cụ thể hóa việc khai thác tài nguyên một cách thiết thực, hiệu quả, phải gắn liền quy hoạch chiến lược và quy hoạch ngắn hạn một cách toàn diện, chặt chẽ vì cuộc sống của nhân dân và cũng vì thế hệ  tương lai của con cháu chúng ta. Thực tế cho thấy sau thời gian dài thực thi, dự án thí điểm bô xít Tân Rai-Nhân Cơ đã bộc lộ hết các bất cập về chính trị kinh tế xã hội và môi trường, việc tính toán chưa được cẩn thận, toàn diện và trong cách tiếp cận với các ý kiến góp ý của các chuyên gia, các nhà khoa học và nhân dân còn nhiều khuyết điểm, hạn chế.    
 
Có thể nói dự án bô xít là một dự án gây chia rẽ sâu sắc nhất trong lòng người dân Việt Nam chính vì nó liên quan đồng thời cả ba vấn đề sinh tử của đất nước: kinh tế, môi trường và quốc phòng an ninh. Ấy là chưa kể văn hóa Tây Nguyên bị bào mòn, bị xâm hại đến thế nào. Lối ra rẻ nhất và cũng là có lợi nhất cho đất nước là đình chỉ và tiến tới xóa sổ dự án bô xít Tây Nguyên.
 
Quả thật, chuyện dự án bô xít Tây Nguyên gây nên sự bức xúc trong nhân dân, đã lên đến đỉnh cao trào và là phép thử thực sự cho tiến trình dân chủ của đất nước. Nhiều chuyên gia, nhân sỹ, trí thức và đông đảo nhân dân ở trong và ngoài nước đã đồng loạt kiến nghị Đảng và Nhà nước dũng cảm dừng dự án khai thác bô xít Tây Nguyên dựa trên nhiều phân tích sâu sắc ở các góc độ khoa học kỹ thuật, kinh tế, xã hội và môi trường rất khách quan và thuyết phục. Kiến nghị đó được sự đồng thuận và nhất trí rất cao của nhân dân. Kết quả thăm dò của Diễn đàn kinh tế Việt Nam VNR500 và báo Dân Trí có đến 96% người dân đồng ý dừng dự án bô xít Tây Nguyên. Đấy là con số sống động phản ánh ý dân, lòng dân không thể bỏ qua trong một xã hội dân sự, nhà nước pháp quyền.
 
Những bài nóng hổi tính cách mạng, khẳng định bản lĩnh, vai trò lịch sử và tấm lòng vì nước vì dân của những người đứng đầu nhà nước vẫn còn đó. Quyết định kéo pháo ra khỏi Điện Biên Phủ ngay trước thời điểm nổ sung đã ấn định của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là tấm gương trung thực, dũng cảm, khẳng định trách nhiệm sắt đá với công sức và xương máu của nhân dân, của chiến sỹ bộ đội đã được hậu thế ghi tiếng thơm mãi mãi vào sử sách. Người dân luôn nhớ Tổng bí thư  Trường Chinh đột phá tư duy, dám lật ngược vấn đề, truy đến cùng những hạn chế của mình và hệ thống bấy lâu nay để vạch lối thoát cho Đảng, cho đất nước – viết lại Báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ VI và quyết liệt tổ chức đổi mới, sau đó khẳng khái bàn giao lại cho thế hệ kế cận. Ngày nay toàn Đảng nhớ ơn ông, coi ông là ví dụ sinh động về con người vì nước vì dân, vượt lên hạn chế bản thân, hạn chế thời đại để phản tỉnh kịp thời trước tụt hậu và bế tắc của hệ thống, đưa đất nước sang trang mới và hoàn thành sứ mệnh lịch sử, chia tay đỉnh cao quyền lực thanh thản, ung dung.
 
Sau những chuyến đi thị sát tình hình, nghe báo cáo cụ thể từ các chuyên gia, các địa phương, Thủ tướng đã có quyết định sáng suốt tuyên bố quyết định không làm cảng Kê Gà. Nỗ lực giải quyết hậu quả và trọn vẹn vấn đề bô xít là một cố gắng được trông đợi của nhiều tầng lớp nhân dân bởi tính hệ trọng của nó. Trong tình hình khó khăn hiện nay, còn rất nhiều vấn đề khác cần đến sự tỉnh táo, quyết liệt và nỗ lực vì nước vì dân như thế của Thủ tướng.
 
Nếu bây giờ dừng dự án bô xít được và mất gì? Dừng các dự án khai thác bô xít ở Tây nguyên, thì Nhà nước (tức là tất cả mọi người dân Việt Nam) đành phải chịu thiệt hại phải trả tiền đã đầu tư. Đấy là khoản mất không mà người ta đã không tính toán cẩn trọng gây ra, nhưng cả dân tộc phải chịu và nên chịu. Thà chịu đau, nhưng còn hơn là sẽ phải chịu tổn thất nhiều hơn rất nhiều do lỗ, do tổn hại môi trường, an ninh quốc gia, và lòng tin của người dân. Cái mất là mất tiền đã đầu tư vào dự án, làm thất vọng những người trong cuộc, ủng hộ dự án, kể cả đối tác và quyền lợi của một số nhóm lợi ích. Cái được mà ai cũng nhận thấy là được lòng dân, không tiếp tục đổ tiền, lãng phí  tiền thuế của dân vào một dự án không hiệu quả về kinh tế, tác động xấu đến môi trường, bất an về xã hội, phá hỏng nền văn hóa Tây Nguyên. Cái được ở đây còn là dịp để Đảng và Chính phủ dẹp loạn tham mưu và làm ẩu của nhóm người không nghĩ đến quyền lợi của dân tộc, của đất nước. Rà soát mục tiêu phát triển dự án, nếu quyền lợi dân tộc và đất nước được minh bạch và bảo đảm thì cũng là dịp cho những người lãnh đạo được vẻ vang với nhân dân.
 
Cách đây 3 năm trong bài “Được và Mất” dựa trên các luận cứ phân tích  khoa học và thực tế, tôi đã kết luận “Lối ra rẻ nhất và cũng là có lợi nhất cho đất nước cho dân tộc là đình chỉ và tiến tới xóa sổ dự án bô xít Tây Nguyên.”.  Cái gốc cuối cùng vẫn phải là dân chủ hóa xã hội để mỗi quyết định quan trọng của đất nước được đưa ra đều phải có chất lượng dựa trên một quy trình khoa học, chuẩn mực. Thiết nghĩ lúc này, việc cần làm không phải là  tập trung phê phán ai, mà trên hết hãy tin tưởng và khích lệ Đảng và Chính phủ cùng xã hội một lần nữa cầu thị và trách nhiệm, cùng nhau nhìn thằng vào các kết luận độc lập trên các mặt khoa học và công nghệ, kinh tế và tài chính, văn hoá và xã hội đã được vạch ra, làm rõ quyền lợi trước mắt và lâu dài của dân tộc và đất nước, của đồng bào Tây Nguyên để kịp thời điều chỉnh lại đúng đắn dự án phiêu lưu đã qua đồng thời sửa chữa, hoàn thiện lại chiến lược phát triển kinh tế xã hội sao cho thực sự bền vững, hiệu quả đáp ứng mong đợi của nhân dân cho giai đoạn từ nay đến 2020 và tầm nhìn đến 2030. 
 
T.V.T
Theo NLG

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 23, 2013 17:53

Vì sao cần kiến nghị sửa đổi hiến pháp?

Nhân sự kiện Kiến nghị Hiến pháp của sinh viên – cựu sinh viên Luật


1277712861_luat 020Nguyễn Anh Tuấn (*)


Vì sao các kiến nghị về Hiến pháp lại nở rộ thời gian qua? Phải chăng những người tham gia kiến nghị ngây thơ về chính trị? Không. Hoàn toàn không. Họ thừa hiểu nhà cầm quyền sẽ phớt lờ ý kiến của họ. Nhưng họ vẫn làm, vì hơn ai hết, họ hiểu rằng, điều cần hơn cho xã hội Việt Nam lúc này và mai sau là sự lan tỏa của tinh thần hợp hiến (đặc trưng bởi sự chế ước quyền lực nhà nước bằng pháp luật, tập quán, và các giá trị xã hội), chứ không phải một bản Hiến pháp thành văn, ngay cả với những câu chữ tuyên xưng dân chủ, tự do.


Thiếu vắng các cuộc thảo luận về Hiến pháp


Những ngày gần đây, các cuộc thảo luận xoay quanh chủ đề Hiến pháp ở Việt Nam diễn ra khá sôi nổi, dưới nhiều hình thức và trong nhiều không gian khác nhau. Một cách hình thức, các cuộc thảo luận này dựa trên căn cứ pháp lý là Nghị quyết số 38/2013/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Tuy nhiên, khi xét một cách kỹ lưỡng, chúng ta nhận ra phía sau các cuộc thảo luận là những vận động của xã hội Việt Nam đang thời kỳ chuyển đổi.


Nhìn về quá khứ,  Hiến pháp 1946, tuy được soạn thảo trong lúc nước sôi lửa bỏng của những ngày đầu lập quốc nhưng đã ấp ủ không ít những ý tưởng, tinh thần của chủ nghĩa hợp hiến hiện đại. Tuy nhiên, trong cảnh loạn ly của thời cuộc, chẳng những một cuộc phúc quyết Hiến pháp toàn dân đã không được thực hiện mà quốc dân đồng bào cũng không có cơ hội trải nghiệm những cuộc thảo luận về Hiến pháp – điều có ý nghĩa lớn lao với việc xây dựng tinh thần hợp hiến trong xã hội Việt Nam.


Sau đó, triết lý chính trị mà những nhà cầm quyền Hà Nội theo đuổi đã biến các Hiến pháp 1959 và 1980 trở thành vật trang trí. Xã hội cộng sản với nền chuyên chính vô sản theo đúng bản chất toàn trị độc đảng của nó, vận hành dưới các chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy đảng; và trong bối cảnh đó, Hiến pháp đơn giản chỉ có chức năng phát ngôn cho cương lĩnh chính trị của đảng cầm quyền. Thực trạng này tiếp tục tước bỏ cơ hội thảo luận về Hiến pháp – đạo luật gốc giới hạn quyền lực nhà nước, bản khế ước tuyên xưng các nguyên tắc chung sống cộng đồng – của người dân Việt Nam trong vài chục năm.


Đổi mới 1986 đã thiết lập nền  kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Việc xác lập khuôn khổ pháp lý ổn định trở thành yêu cầu tất yếu để nền kinh tế thị trường có thể tồn tại. Điều này dẫn đến đòi hỏi về một bản Hiến pháp mới – Hiến pháp 1992. Tuy vậy, cả khi soạn thảo và ban hành bản Hiến pháp 1992 lẫn khi sửa đổi vào năm 2001, dường như nhà cầm quyền vẫn ‘một mình một chiếu’. Cả hai bản văn Hiến pháp này dù bước đầu ghi nhận một số nguyên tắc của chủ nghĩa hợp hiến hiện đại song vẫn chưa thoát khỏi ‘thân phận’ công cụ thể chế hóa cương lĩnh của đảng cầm quyền. Bên cạnh đó, người dân đa phần tiếp tục diễn vai ‘quan sát viên’ thờ ơ với công cuộc lập hiến được chính quyền đơn phương thực hiện, hoặc một số may mắn hơn được đóng vai ‘góp ý viên’ trong các buổi tổ chức lấy ý kiến của các cơ quan đoàn thể quốc doanh khắp cả nước, để chứng tỏ sự đồng thuận với hiến pháp – cương lĩnh được thể chế hóa của đảng cộng sản.


Nỗ lực thảo luận Hiến pháp: Qua trường hợp Kiến nghị của sinh viên Luật


Sau nhiều cơ hội bị bỏ lỡ, lần sửa đổi Hiến pháp 2013 lần này chứng kiến những nỗ lực của người dân đòi lại quyền lập hiến của mình, vốn lâu này bị nhà cầm quyền cố tình lờ đi hoặc biến hóa thành những quyền khác như ‘quyền quan sát’, ‘quyền ủng hộ Hiến pháp của Đảng’, ‘quyền đồng thuận với dự thảo của Quốc hội’. Từ các thư ngỏ, kiến nghị cá nhân được đăng tải trên các mạng xã hội, đến các ý kiến thảo luận, tranh biện dài ngắn khác nhau của nhiều tầng lớp nhân dân được gửi trực tiếp đến website của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Trong nhiều ý kiến đóng góp, đáng chú ý là  Kiến nghị 72 của các nhân sỹ, trí thức và gần đây là  Kiến nghị Hiến pháp của sinh viên – cựu sinh viên Luật Việt Nam.


Nếu như Kiến nghị 72 với một phương án Hiến pháp được đính kèm hàm chứa hàng loạt các ý tưởng mới mẻ (khi so sánh với các bản Hiến pháp trước đây) về nguyên tắc tổ chức, vận hành hệ thống chính trị cũng như mối quan hệ giữa các thiết chế bên trong hệ thống chính trị và mối quan hệ nhà nước-công dân thì Kiến nghị của sinh viên – cựu sinh viên Luật, với hai đề nghị chính là bãi bỏ thời hạn góp ý và tiến hành thủ tục nhân dân phúc quyết Hiến pháp- lại nổi bật lên ở hai khía cạnh:


Thứ nhất, chủ thể kiến nghị là các sinh viên – cựu sinh viên Luật Việt Nam. Như kiến nghị lập luận, “lịch sử lập hiến của các quốc gia trên thế giới cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của những người tốt nghiệp từ trường luật, nếu không muốn nói rằng chính họ là những người dẫn dắt và thúc đẩy sự tiến bộ của tư duy lập hiến ở khắp mọi nơi.” Quả thực là, không chỉ trên thế giới mà ngay trong lịch sử vận động của chủ nghĩa hợp hiến của Việt Nam, một trong những văn bản đầu tiên gây tiếng vang có đề cập đến nền pháp quyền là Bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Versaille 1919, đã được chấp bút bởi một số người Việt yêu nước từng là sinh viên luật như Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh. Do đó, những người đã và đang là sinh viên ngành Luật ở Việt Nam hiện có nhiều lợi thế nhất về chuyên môn để nhận lãnh “trách nhiệm to lớn trong việc xây dựng nên nền tảng cơ bản của hệ thống pháp luật Việt Nam,” kế thừa trọng trách mà các bậc tiền bối của họ đã để lại. Dưới góc độ lịch sử, đây là lần đầu tiên những người học Luật ở Việt Nam ‘chung vai sát cánh’ trong một kiến nghị có tính chất dân sự về Hiến pháp, để hiện thực hóa những nguyên tắc pháp quyền mà họ đã từng thượng tôn lúc ở giảng đường đại học vào bản Hiến pháp mới của quốc gia.


Khía cạnh nổi bật thứ hai của bản kiến nghị là dự phóng thái độ của những người chấp bút và ký tên. Kiến nghị viết, “chúng tôi cho rằng, một bản Hiến pháp ban hành mà không thông qua thủ tục phúc quyết sẽ mất đi phần lớn ý nghĩa vốn có và không được nhân dân cũng như cộng đồng quốc tế ghi nhận”. Dù được trình bày dưới hình thức một nhận định nhưng câu văn này của bản kiến nghị gợi ý khả năng những người soạn thảo và ký tên sẽ không công nhận bản Hiến pháp sửa đổi nếu thiếu vắng thủ tục nhân dân phúc quyết. Điều này, đến lượt nó, phủ nhận tính chính danh của hệ thống chính trị dựa trên bản Hiến pháp mới – điều mà lực lượng cầm quyền ở Việt Nam đang theo đuổi. Đây cũng là lần đầu tiên có bản kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp triển khai một tuyên bố thái độ như thế.


Cả hai bản kiến nghị này đã lan truyền nhanh chóng trên Internet và được đông đảo người dân bình luận, trao đổi. Đây là lần đâu tiên trong lịch sử Việt Nam tồn tại một không gian thuần túy dân sự để người dân bàn luận vấn đề hệ trọng bậc nhất của quốc gia là lập hiến.


Ý nghĩa thực sự của các kiến nghị


Trong thực tế chính trị Việt Nam hiện nay, có lẽ đến người ngây thơ nhất cũng không tin vào khả năng lực lượng cầm quyền tiếp thu nghiêm túc các ý kiến đóng góp tâm huyết, khoa học và hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong lần sửa đổi Hiến pháp này. Nguyên nhân cốt yếu là lợi ích: Việc tiếp thu các ý kiến này và chuyển hóa chúng thành nội dung của bản Hiến pháp mới đồng nghĩa với việc tự tước bỏ những đặc quyền đặc lợi lâu nay của lực lượng cầm quyền. Đơn cử, nhà cầm quyền nếu chấp nhận tự do báo chí, tự do ngôn luận thì phải chịu áp lực trách nhiệm giải trình. Hoặc, tham nhũng đất đai sẽ không dễ được nhà cầm quyền thực hiện nếu chấp nhận sơ hữu tư nhân về ruộng, đất.


Vậy câu hỏi là: Vì sao các kiến nghị về Hiến pháp lại nở rộ thời gian qua?


Phải chăng những người tham gia kiến nghị ngây thơ về chính trị? Không. Hoàn toàn không.


Họ thừa hiểu nhà cầm quyền sẽ phớt lờ ý kiến của họ. Nhưng họ vẫn làm, vì hơn ai hết, họ hiểu rằng, điều cần hơn cho xã hội Việt Nam lúc này và mai sau là sự lan tỏa của tinh thần hợp hiến (đặc trưng bởi sự chế ước quyền lực nhà nước bằng pháp luật, tập quán, và các giá trị xã hội), chứ không phải một bản Hiến pháp thành văn, ngay cả với những câu chữ tuyên xưng dân chủ, tự do. Thiếu gì trường hợp các quốc gia có Hiến pháp ‘tốt’ nhưng thực trạng xã hội tồi tệ. Cũng có quốc gia, như Vương quốc Anh, chẳng cần đến Hiến pháp thành văn vẫn sống dưới tinh thần hợp hiến, đủ khả năng điều chỉnh hành vi của nhà nước theo hướng tự do, dân chủ.


Cần phải thừa nhận rằng, tinh thần hợp hiến vẫn chưa là một thành tố chính yếu của văn hóa chính trị Việt Nam. Thực tế này được phản ánh qua (1) số lượng các văn bản cũng như hành vi vi hiến của chính quyền và (2) sự hiếm hoi của hành vi viện dẫn Hiến pháp của người dân trong đời sống pháp lý và xã hội . Điều này thật dễ hiểu nếu đặt trong bối cảnh thiếu vắng các cuộc thảo luận về Hiến pháp trong suốt chiều dài lịch sử đất nước. Người ta không thể tường minh những điều người ta ít hoặc chưa từng nghe tới.


Do đó, điều cần làm lúc này là, bất luận việc sửa đổi Hiến pháp lần này do ai khởi xướng và kết quả ra sao, vẫn tồn tại trong đó một cơ hội để quốc dân đồng bào thảo luận về Hiến pháp. Và đồng thời, cũng là cơ hội để tinh thần hợp hiến được lan tỏa trong xã hội, nhằm dựng xây một văn hóa chính trị hiện đại cho Việt Nam. Người viết cho rằng, đây mới là ý nghĩa quan trọng nhất của các bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp lần này.


Theo ABS


——


(*) Tác giả: Nguyễn Anh Tuấn sinh năm 1990, là cựu sinh viên Học viện Hành chính. Đây cũng chính là “sinh viên tự thú”, người mà vào tháng 4/2011 đã gửi đơn “tự thú” việc “tàng trữ” một số bài viết của TS.Cù Huy Hà Vũ và đề nghị “được” Viện KSNDTC truy tố (Chú thích của BTV TTXVH).


- Mời xem lại bài cùng tác giả: + Đơn Tự thú của sinh viên Nguyễn Anh Tuấn (26-04-2011). + Thư ngỏ của Sinh viên Nguyễn Anh Tuấn (20-05-2011).



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 23, 2013 16:14

Quê Choa chủ nhật ngày 24/02/2013

Cập nhật liên tục trong ngày


115401_quanthe2wap_380 Lời thề…


Nhưng một xã hội văn minh chẳng thể được vận hành chỉ bằng những lời thề. Thần linh có thiêng mấy cũng chẳng bằng những cơ chế giám sát hữu hiệu và những công cụ chế tài nghiêm minh. Bằng không, bên cạnh câu “thệ hải minh sơn”, dân gian đã chẳng có câu “thề cá trê chui ống” đó sao!


Ngẫm chuyện xưa, nghĩ chuyện nay và thấy có nét giống nhau: Làm đi, chứ nói không là chưa đủ.


ImageHandler.ashx Quân đội làm Kinh tế: Tướng tá vừa ăn Lương Nhà nước vừa chia Lợi nhuận kinh doanh, không rõ viêc đóng thuế và kiểm toán… như thế nào?


Hiện tại, Bộ quốc phòng đang quản lý hơn 110 doanh nghiệp, hoạt động đa dạng trên nhiều lĩnh vực kinh doanh như: Cơ khí, hóa chất; Nông, lâm và hải sản; Điện, điện tử, viễn thông; Dệt may, da giày; Thực phẩm, đồ uống, dược phẩm; Thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ; Thương mại và dịch vụ; Xây dựng, Vật liệu xây dựng…


images “Tứ đại ngu” không thể của ĐB. Phước?


Đó không phải chỉ là hi vọng của riêng tôi mà có lẽ còn của nhiều người, trong đó có Phó chủ nhiệm UB VH, GD, TN – Thiếu niên và Nhi đồng QH Lê Như Tiến. Vì thế, tôi đã từng tìm mọi cách để chứng minh điều này. Thế nhưng, tôi đã nhầm…


Lý do khiến tôi không tin là vì tuy có nhiều điểm tương đồng giữa những ý kiến phát biểu trên nghị trường với quan điểm trong bài viết nhưng tôi không thể ngờ ĐB. Phước lại ứng xử thiếu văn hóa, hồ đồ, xuyên tạc đến như vậy.


20130206120358_victoria-kwakwa06022013 ‘Đã đến lúc nghĩ về cuộc cải cách mới’


Tuy nhiên, có lẽ đến lúc này, VN đã tận dụng hết những lợi thế và kết quả của công cuộc Đổi mới. Đã đến lúc nghĩ về một cuộc cải cách tiếp theo để tạo ra năng lực cạnh tranh mới, tăng trưởng hiệu quả hơn, sử dụng tài nguyên, vốn và nhân lực khôn ngoan hơn, khôi phục tốc độ tăng trưởng 8-10% của những thập kỷ trước.


Triển vọng tương lai của kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào những thay đổi như vậy. Tôi nghĩ Chính phủ Việt Nam nhận thức được điều đó.


DOJI-56eec “Để dân không “yêu” vàng nữa, phải cần một quá trình”


Nhưng với năm 2013 thì dấu ấn có lẽ nằm ở chỗ quyết định để Ngân hàng Nhà nước – với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước – nhưng cũng trực tiếp tham gia vào kinh doanh, quản lý kinh doanh.


Cùng với Nghị định 24, đây là một vấn đề rất mới cả về chính sách, quan điểm, điều chỉnh hành vi của cả ba chủ thể tham gia thị trường là cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị kinh doanh, người tiêu dùng. Nghĩa là, cả ba đối tượng này đều phải thay đổi cách nghĩ, làm, hành vi. Tình trạng người mua đi bất cứ đâu cũng mua được vàng miếng, dễ như mua rau chấm dứt, thay vào đó, phải đến các điểm có uy tín, cấp phép. Các đơn vị kinh doanh phải đủ điều kiện, có khả năng đáp ứng được mới bán, chưa không phải chỉ cần mở một cửa hiệu với tủ kính nhỏ là bán được vàng.


NQL: Đến đây phải đặt câu hỏi: Có hay không một lộ trình cướp vàng của dân?


hoanghuuphuoc-tuoitre2-600x337 “Nghị khùng”


Đó là cách gọi thể hiện sự dè bỉu của nhiều người đối với một ông đại biểu Quốc hội khi ông này bất thần dùng những lời lẽ hết sức kinh dị, quái dị và không hề bình dị để viết bài đăng blog nhằm phê phán, “tranh và luận” về các ý kiến của một đại biểu khác mà ông cho là “đại ngu” – hơn nữa lại tụ hội đến “tứ đại ngu”.


 


sjc-large Vụng chèo lại chưa khéo chống


Dư luận đang lo ngại và bức xúc trước quy định chỉ vàng miếng SJC loại 1 lượng mới được sử dụng trong giao dịch (dự thảo Thông tư hướng dẫn hoạt động mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước) sẽ khiến vàng miếng  loại nhỏ bị ép giá. Về vấn đề này, đại diện Ngân hàng Nhà nước đã lên tiếng giải thích, đây là sự hiểu lầm. Bởi việc này chỉ áp dụng trong mua, bán vàng miếng của các tổ chức với Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chứ không phải mua bán trên thị trường. Giải thích thế này thật đúng là “vụng chèo mà không khéo chống”.


20130222183720_NOXAU91929307-92570 Nợ xấu sẽ tăng đột biến


Những thay đổi về tiêu chí phân loại và xử lý nợ xấu mới có thể khiến nợ xấu các ngân hàng tăng lên đột biến.


Nhiều chuyên gia cho rằng trên thực tế số nợ xấu còn lớn hơn bởi nó vẫn đang được che giấu. Theo nguyên tắc, những khoản nợ xấu đã được trích lập dự phòng rủi ro sẽ đưa ra ngoại bảng kế toán và tất nhiên số nợ xấu này sẽ không thể hiện trên sổ sách nữa, nhưng thực chất số nợ xấu này vẫn còn


dai-ta-Duong-Tu-Trong.jpg;pv1715d3a751f5723f Lộ dần “mảng tối” vụ Dương Chí Dũng


“Ngoài làm rõ những kẻ đã giúp Dương Chí Dũng bỏ trốn thì các cơ quan tố tụng cần phải tiếp tục làm rõ ai đã bao che cho người phạm tội”, đây là ý kiến của ông Nguyễn Đình Quyền – Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội.


 Theo ông Quyền, việc ông Dương Tự Trọng, một cán bộ cấp cao của Bộ Công an bị bắt giữ cho thấy Bộ Công an đã rất nỗ lực làm rõ tất cả những hành vi vi phạm pháp luật xung quanh vụ tiêu cực xảy ra tại Tổng công ty hàng hải Việt Nam (Vinalines), đồng thời thể hiện không có bất cứ vùng cấm nào trong hoạt động tố tụng.


Cam 4Những bí hiểm khi Trung Quốc ‘đổ tiền’ vào Campuchia


Những sự vô lý cứ hiển nhiên tồn tại khiến người ta không thể không đặt câu hỏi: Vậy ý đồ thực sự của Trung Quốc trong những dự án này là gì? Phải chăng đây chỉ là món quà “đáp lễ” trá hình mà Campuchia trả cho Trung Quốc? Trong khi đó ở Campuchia, gần như không một ai dám lên tiếng “thắc mắc” về những dự án của Trung Quốc. Dù là dự án đầu tư kinh tế thông thường nhưng không hiểu sao chúng đều được quân đội hoặc cảnh sát quân sự canh gác vô cùng cẩn thận, thậm chí công nhân người Trung Quốc làm việc ở đó còn được mặc quân phục


clip_image002[5] Bí ẩn việc dừng cảng Kê Gà, xây cảng Vĩnh Tân


Đề cập đến việc dừng đầu tư cảng Kê Gà nhưng lại chọn cảng Vĩnh Tân để đầu tư, ông Lê Minh Chuẩn cho hay, Tập đoàn đã thuê Công ty Tedi chuyên nghiên cứu đánh giá về đầu tư cảng. Tedi đưa ra 3 phương án, nếu lựa chọn cảng Kê Gà thì tổng mức đầu tư 5.095 tỷ đồng, lựa chọn cảng Mũi Gió, mức đầu tư là  4.528 tỷ đồng và cảng Vĩnh Tân là 2.131 tỷ đồng.


3Chot_8db8b Dự án bauxite: Phớt lờ cảnh báo


Công nghệ bùn đỏ khô là phù hợp với sản xuất bauxite ở Tây Nguyên, áp dụng công nghệ bùn ướt là thất sách vì không phù hợp với khí hậu Tây Nguyên và trên thế giới hiện cũng chẳng mấy nơi áp dụng vì quá lỗi thời


Thạc sĩ Phạm Quang Tú, Phó Viện trưởng  Viện Tư vấn phát triển (CODE), sau chuyến khảo sát sản xuất alumin tại Tây Nguyên cho biết đến thời điểm này, phía Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) và Bộ Tài nguyên – Môi trường (TN-MT) chưa có đánh giá cụ thể về tác động của quặng đuôi bauxite trong dự án bauxite Tây Nguyên. 


20130121142841_hienphap PGS. TS. Hà Nguyên Cát, PGS. TS. Nguyễn Thanh Tú và Thiện Văn “xúi” Đảng đánh cắp “quyền lực” của Dân?


Nhiều người góp ý cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 cũng là dấu hiệu của sự cởi mở, dân chủ và phản ánh trình độ hiểu biết, nhận thức của người Dân. Một khía cạnh khác không thể không nhắc tới, đó là sự tự tin, bản lĩnh vượt qua sự “ngại ngùng” để tham gia bàn thảo một vấn đề mà từ trước đến nay mọi người cho là “nhạy cảm, kiêng kỵ”, đó là chính trị, mà cụ thể là đề cập đến việc xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp 1992 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Vì nhận thức được sự “thiêng liêng” của bản Hiến pháp của một quốc gia, dân tộc nên tôi rất quan tâm và đọc khá nhiều bài góp ý cả trên các báo chính thống và mạng xã hội. Từ góc nhìn của một chú “ếch ngồi đáy giếng”, tôi có cảm nhận, có lẽ là Đảng và Dân chưa hiểu nhau…





20130220170503_6 Ông Phước làm trái với quy chế hoạt động của ĐBQH


Điều này càng được khẳng định hơn tại điều 3 của quy chế là ĐBQH phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, có nhiệm vụ tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật, động viên nhân dân và người thân trong gia đình chấp hành pháp luật, tham gia quản lý Nhà nước. Nếu ĐBQH vi phạm pháp luật, không tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng cũng tức là xúc phạm danh dự, uy tín của nhân dân, của Nhà nước”, ông Tô Văn Tám nhấn mạnh. 


qt4 LỊCH SỬ HAY NHỮNG MỐI THÂM THÙ TRUNG-VIỆT !


Tại sao Trung Quốc nhân tiện đưa quân kéo về chiếm thủ đô Hà Nội? và tuyên bố chiếm toàn bộ Việt Nam, vì không mấy chốc tràn vào đến Cà Mau. Như thế mới là chiến thắng ngoạn mục. Đằng này, cuộc chiến tranh biên giới tháng 2-1979 giữa ta và xâm lược Trung Quốc chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn rồi buộc TQ phải “thu quân” với những thất bại nặng nề? Theo các giới thạo tin, trong cuộc chiến này, TQ đã có 27 – 28 vạn quân sĩ bị tiêu dệt và bị thương, trong khi Việt Nam có 6000 người thương vong. Nhưng cái quan trọng để khẳng định chiến thắng không chỉ so sánh số người bị chết và bị thương mà cái chính là ai đã thực hiện được ý đồ chiến lược, chiến thuật của mình, ai đã gây ra cuộc chiến và ai đã phải rút quân một cách nhục nhã ?

KTX NGO GIA TU NĂM 1989- SINH VIÊN SAIGON ĐÃ BIỂU TÌNH


  Tin truyền miệng giữa các sinh viên quan tâm tới thời sự về việc sinh viên Trung Quốc biểu tình ở Thiên An Môn tháng 5-6/1989 làm mọi người “ngứa ngáy”. Sự thất vọng về thể chế cầm quyền cùng với sự không hài lòng về  các chủ trương, chính sách kinh tế làm cho mức sống dân chúng  quá thấp, mà sinh viên là tầng lớp dễ cảm nhận nhất. Ai cũng trông ngóng một cái gì đó, tuy rất mơ hồ nhưng có thể chắc là khác hẳn hiện tại.
images Chủ nghĩa hợp hiến là gì?
Do đó chủ nghĩa hợp hiến tất nhiên quy định một hệ thống của chính quyền, trong đó quyền lực của chính phủ được giới hạn. Các viên chức chính phủ, dù do dân cử hay không, đều không được hành động chống lại hiến pháp của chính họ nếu hiến pháp ấy phù hợp. Hiến pháp là thể thức luật pháp cao nhất của một đất nước, trong đó mọi công dân, kể cả chính phủ, đều phải tuân thủ. Khá nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng các hình thức của chủ nghĩa hợp hiến trong chính phủ của họ.
ff5c07efbeb6e87051c2d377764fac64-Le-Nhu-Tien-1-d988b ‘Ông Phước cần phải xin lỗi cử tri’
“Tôi đã từng hi vọng những lời thóa mạ vô văn hóa đó không phải của ông Hoàng Hữu Phước mà là của một người giả mạo. Nhưng ĐB Hoàng Hữu Phước đã xác nhận. Đó thực sự là điều khiến tôi thực sự buồn”. Đó là những chia sẻ của ông Lê Như Tiến, phó chủ nhiệm UB Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Quốc hội.

13674_458793634181199_757907843_n-300x143 Lắng nghe người điếc
Tour Phnom Penh ngẫu hứng cùng nhóm bạn trẻ câm điếc trước Tết Nguyên đán để lại nhiều ấn tượng thú vị. Những giá trị câm như họ nói: nhiều khi điếc vẫn hơn là nghe, câm vẫn hơn là nói. Đó là câu của “cô nàng điếc” Đỗ Thị Thanh, sinh viên năm 2 khoa điếc Đại học Đồng Nai. Một cô nàng điếc nhưng nói gì cũng nghe, nhanh nhẹn, thông minh tạo ấn tượng mạnh trong tôi. Thanh có nhiều suy tư và trăn trở đáng khâm phục. Bài viết này Thanh vừa gửi tôi tối qua sau vài mẩu chát đẩy tâm trạng- TDN

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 23, 2013 16:01

Nguyễn Quang Lập's Blog

Nguyễn Quang Lập
Nguyễn Quang Lập isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Quang Lập's blog with rss.