Nguyễn Quang Lập's Blog, page 72
February 25, 2013
Viết tiếp về dự án Bauxite Tây Nguyên- Bài 2
TỔ HỢP BAUXITE NHÂN CƠ – CÁI BÁNH VẼ XƯƠNG XẨU?
Lê Trung Thành
Trong tất cả các văn bản liên quan đến việc “hợp tác” khai thác bauxite Tây Nguyên giữa Việt Nam và Trung Quốc đều ghi rõ “Sẽ tích cực thúc đẩy các doanh nghiệp hợp tác lâu dài trên dự án bô-xit Đắc Nông”, hoặc “Khẩn trương bàn bạc và thực hiện các dự án lớn như bô-xít Đắc Nông”… và “hai bên tăng cường hợp tác trong các dự án như bô-xít Đắc Nông”.
Cái tên Đăk Nông được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần như thế bởi tầm quan trọng chiến lược của vùng đất chiếm 67% trữ lượng bauxite cả nước và có thể khai thác được 1,5 tỷ tấn! Đây là nguồn nguyên liệu dồi dào vô tận dư sức đáp ứng nhu cầu cấp thiết của ngành công nghiệp nhôm Trung Quốc vì theo tính toán, nếu cứ khai thác với công suất lớn như trong chục năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, tới năm 2014, Trung Quốc sẽ cạn kiệt nguồn bauxite.
Được Chính phủ và Vinacomin chọn làm trung tâm khai thác và chế biến bauxite của Việt Nam, bản Quy hoạch năm 2007 đưa ra kế hoạch xây dựng các nhà máy alumin (nhôm oxit) Đăk Nông 1 (tức Nhân Cơ)… có công suất 0,3 – 0,6 triệu tấn/năm (T/năm) và Đăk Nông 2, 3, 4 đều có công suất từ 1,5 – 2 triệu T/năm trong giai đoạn đầu. Sau năm 2015 sẽ tăng lên 3 – 4 triệu T/năm theo sự phát triển của thị trường nhôm thế giới.
Tập đoàn công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) làm chủ đầu tư xây dựng trước nhà máy alumin Nhân Cơ vừa được nâng công suất 100.000 T/năm lên 300.000 T/năm (năm 2006) và tới tháng 5/2008, lại được nâng lên 600.000T/năm. Dưới hình thức thành lập công ty cổ phần có vốn điều lệ 600 tỷ đồng do Vinacomin chiếm tỷ lệ góp vốn 83,33%, còn các doanh nghiệp sản xuất than trong Tập đoàn góp “chút chút” để có tên trong các cổ đông sáng lập, tạo thuận lợi cho các cổ đông có công ăn việc làm mới và chia lợi nhuận trong tương lai. Vào thời điểm 2008, Tập đoàn Alcoa Hoa Kỳ và một công ty của Úc đã thương thảo với Vinacomin, đồng ý góp 40% vốn xây dựng nhà máy Nhân Cơ 1 nên trong văn bản ngày 2/5/2008, Chính phủ đã “cho phép TKV thành lập công ty cổ phần với sự tham gia của công ty alumin nước ngoài với mức cổ phần không quá 40%, TKV giữ 51%, bán cổ phần ra công chúng 9%. Hàng năm, công ty cổ phần này nộp ngân sách nhà nước 10% lợi nhuận sau thuế của công ty”.
Một quyết định có lợi cho TKV và cũng là dịp thí điểm hợp tác với những ông trùm công nghiệp nhôm trên thế giới để rút kinh nghiệm cho các dự án chuẩn bị triển khai tại Đăk Nông. Cái bánh ngon nhất đã dành cho Vinacomin khiến ông Đoàn Văn Kiển tổ chức buổi ra mắt công ty cổ phần rất long trọng và đầy phấn khích ngay tại Đăk Nông – thủ phủ của ngành công nghiệp bauxite – nhôm vừa manh nha của Việt Nam.
Thế nhưng, khi vừa được ông Hoàng Trung Hải đồng ý cho Vinacomin giao gói thầu chính cho Chalieco dựa trên khung giá đấu thầu xây dựng nhà máy alumin Tân Rai vào ngày 17/9/2008 thì sóng gió nổi lên. Những lá thư thống thiết, những bản kiến nghị rạch ròi, những ý kiến phản biện sâu sắc tại các cuộc hội thảo và dư luận xã hội dẫn tới bản thông báo ý kiến của Bộ Chính trị ngày 24/4/2009 (văn bản số 245- TB/TW) ghi rõ: “Chưa chủ trương bán cổ phần cho tổ chức và cá nhân nước ngoài” nên Alcoa rút chân khỏi Nhân Cơ và Tập đoàn luyện kim Vân Nam rút khỏi dự án Tân Rai.
Không có 40% vốn nước ngoài như thỏa thuận ban đầu, tổ hợp Nhân Cơ chỉ còn lại Vinacomin gánh chịu. Số vốn đầu tư hơn 680 triệu USD là khoản tiền quá lớn chưa rõ nguồn vay nên Chính phủ và Bộ Tài chính đồng ý cho Vinacomin phát hành trái phiếu nhưng không thành công. Mãi tới ngày 10/10/2011, khi quyết định số 44 TTg của Thủ tướng có hiệu lực, trong danh mục các dự án được Chính phủ xem xét bảo lãnh có ghi “các dự án đầu tư khai thác alumin và nhôm” thì Vinacomin mới tạm yên tâm thi công dự án Nhân Cơ đã được khởi công từ ngày 28/2/2010 với sự chứng kiến của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Khi phê duyệt dự án, Vinacomin tính toán giá thành sản xuất 1 tấn alumin ở mức 254 USD và giá xuất khẩu là 372 USD. Mỗi năm, nhà máy thu về trên dưới 200 triệu USD. Tỷ lệ nội hoàn (hoàn vốn nội bộ) IRR là 10,45%. Có nghĩa là, với lãi suất hơn 120 USD một tấn, nhà máy sẽ thu hồi vốn sau gần 9 năm! So với đời dự án là 30 năm thì tổ hợp bauxite Nhân Cơ sẽ mang lại lợi nhuận lý tưởng cho Tập đoàn, cho đất nước, cho địa phương. Để minh chứng sự đóng góp của mình, “Vinacomin sẽ: nộp thuế xuất khẩu (coi như nộp ngân sách nhà nước) 200 tỷ, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 287 tỷ, thuế tài nguyên 6,2 tỷ, thuế đất 1,9 tỷ và phí bảo vệ môi trường 110 tỷ. Số tiền thuế, tổng cộng 405 tỷ này Đăk Nông được thụ hưởng!”.
Người dân Đăk Nông hi vọng thị xã Gia Nghĩa trở thành thành phố có 200 ngàn dân nhờ công nghiệp nhôm – bauxite phát triển
Với tỉnh nghèo như Đăk Nông, số tiền trên là điều nằm mơ chưa bao giờ thấy nên nhiều người chờ mong ngày dự án Nhân Cơ xuất mẻ alumin đầu tiên chóng đến… Nhưng đã hai năm rồi, lời hứa cuối năm 2012 sẽ hoàn thành lại kéo dài tới giữa năm 2014, và cứ theo kinh nghiệm của Tân Rai thì qua năm 2015 dự án Nhân Cơ mới có thể hoạt động. Càng chậm tiến độ, tổng vốn đầu tư càng tăng mạnh. Nếu vào năm 2008, theo thời giá, số vốn cần khoảng 12.000 tỷ thì tới nay, phải điều chỉnh lên thành 17.000 tỷ tương đương 830 triệu USD, tăng 150 triệu USD. Các loại chi phí quản lý dự án, trả lãi tiền vay cùng tăng theo khiến chủ đầu tư lún sâu vào khó khăn, bế tắc không dễ gì tìm được cách tháo gỡ để đẩy nhanh tiến độ.
Cho đến tháng 1/2013, toàn dự án mới đạt 45% giá trị, nhiều hạng mục quan trọng chưa khởi động, chủ đầu tư mới giải ngân cho các nhà thầu khoảng 5000 tỷ đồng. Như vậy đã là một cố gắng lớn trong lúc Vinacomin đang nợ đầm đìa.
Tuy rằng sản phẩm alumin của Tổ hợp bauxite Nhân Cơ còn cả năm nữa mới ra lò (nếu thuận buồm xuôi gió), nhưng nỗi lo chi phí giá thành sản xuất cao, giá xuất khẩu thấp đang là bài toán hóc búa đến mức Vinacomin phải tính toán lại để báo cáo Chính phủ.
Nếu alumin Tân Rai phải chịu lỗ ngay trong quí 2/2013 thì Nhân Cơ còn cơ hội tìm biện pháp giảm thiểu lỗ thông qua các hợp đồng ký giữa Tân Rai và các khách hàng nước ngoài đồng thời nghiên cứu phương án vận chuyển sao cho có thuận lợi nhất mặc dù chặng đường từ Nhân Cơ về cảng Gò Dầu dài hơn từ Tân Rai 55-60 km.
Giữa lúc có nhiều ý kiến của các nhà kinh tế phân tích sự thua lỗ tất yếu của Tổ hợp bauxite Nhân Cơ và khuyến nghị Vinacomin dũng cảm đề nghị Chính phủ cho tạm dừng dự án thì các nhà lãnh đạo Vinacomin đã trả lời dứt khoát là không nên dừng. Họ vẫn tin tưởng vào giá alumin thị trường thế giới sẽ tăng lên 400 – 500 USD một tấn sau vài năm nữa. Bán được giá cao, Nhân Cơ sẽ có lãi và thu hồi vốn mấy chốc, ngoài ra còn mang lại nguồn lợi cho địa phương, tạo việc làm cho 1500 người lao động…
Chủ đầu tư – Vinacomin đang cố gắng bảo vệ quan điểm của mình trước dư luận bằng những ngôn từ chung chung, họ không dám công bố số liệu cần thiết để cho mọi người hiểu rõ thực hư. Những đám mây mù, vì thế cứ lởn vởn quanh hai dự án Nhân Cơ và Tân Rai khiến dư luận càng thiếu tin tưởng vì sự không minh bạch của nhiều doanh nghiệp nhà nước.
Tuy không đủ các số liệu chi tiết để tính toán chi phí giá thành sản xuất cho nhà máy Nhân Cơ hay Tân Rai (vì đến Viện Kinh tế của Bộ Xây dựng còn không dám nhận lời tính cho Vinacomin) nhưng trên các số liệu cơ bản, có thể “tạm” đưa ra những loại chi phí lớn dưới đây để tham khảo:
– Trong một năm, Tổ hợp bauxite Nhân Cơ tiêu thụ gần 500.000 T than cám 4B và than cục, tiền mua và vận chuyển đường biển từ Quảng Ninh tới cảng Gò Dầu – Đồng Nai khoảng 1.700 tỷ, phục vụ cho Nhà máy điện công suất 30MW và nhà máy Khí hóa than.
– Nhà máy alumin cần 52.000 T xút khô (NaOH rắn) để vận chuyển lên nhà máy dễ dàng, an toàn. Chi phí khoảng 200 tỷ. Nhà máy cũng cần 50.000 T vôi trị giá 100 tỷ, và 10.000 T đá vôi, khoảng 10 tỷ, cộng với 65 Taxit sunfuric (H2SO4) loại 95% khoảng 2 tỷ. Tổ hợp cũng tiêu thụ 2.000 T dầu FO và 70 T dầu DO, khoảng 38 tỷ… Cộng chung là 2.050 tỷ.
– Nếu tính tiền vận chuyển bình quân 600.000 đồng/1 tấn, chi phí chở nguyên vật liệu chiều lên nhà máy hết khoảng 350 tỷ đồng.
Tổng cộng là 2.400 tỷ.
– Tổng mức đầu tư cho toàn dự án chốt giá 17.000 tỷ thì tạm tính lãi suất 6% năm, chủ đầu tư phải trả lãi khoảng 1.000 tỷ đồng/năm. Tính đời dự án là 30 năm thì chi phí khấu hao xấp xỉ 600 tỷ/năm. Hai loại chi phí này cộng thêm các loại thuế Vinacomin “dự định” nộp vào ngân sách nhà nước và địa phương hơn 600 tỷ nữa là 2.200 tỷ đồng.
– Khoản chi phí sản xuất, tuyển quặng bauxite, vận hành các nhà máy, trả lương… khoảng 2.000 tỷ đồng. Nếu chạy hết công suất, Tổ hợp Nhân Cơ xuất xưởng 600.000 T alumin thì phải cộng thêm 360 tỷ đồng tiền vận chuyển từ nhà máy về cảng Gò Dầu.
Cộng “tất tần tật” mấy khoản lớn ấy, chi phí một năm cho Tổ hợp Nhân Cơ xấp xỉ 7.000 tỷ đồng. Lúc ấy giá thành 1 T alumin sẽ… hơn 10 triệu đồng. Quy đổi ra USD, là gần 500 USD/T.
Cứ tạm cho lập luận của Vinacomin hôm nay là đúng (cho tương lai mấy năm nữa), giá 1T alumin sẽ là 450 USD, thì Nhân Cơ vẫn lỗ 50 USD/1T. Một năm, lỗ khoảng 30 triệu USD. Đã lỗ như thế Vinacomin tìm đâu ra tiền để trả nợ gốc???
Còn theo chiều hướng của nền kinh tế thế giới và của ngành công nghiệp nhôm toàn cầu thì nếu có hồi phục, 1T nhôm chỉ tăng thêm 15-25 % nữa. Lúc đó, cả Nhân Cơ và Tân Rai ngắc ngoải vì lấy đâu ra tiền để chống đỡ khoản lỗ lớn kéo dài năm này qua năm khác???
Chủ đầu tư – Vinacomin đang cố gắng bảo vệ quan điểm của mình trước dư luận bằng những ngôn từ chung chung, họ không dám công bố số liệu cần thiết để cho mọi người hiểu rõ thực hư. Những đám mây mù, vì thế cứ lởn vởn quanh hai dự án Nhân Cơ và Tân Rai khiến dư luận càng thiếu tin tưởng vì sự không minh bạch của nhiều doanh nghiệp nhà nước.
Hàng trăm ha càphê đang mùa thu hoạch bị đốn phá để giao đất cho dự án bauxite Nhân Cơ
Mấy hôm trước, có một thông tin ngắn nhưng rất “lãng mạn”, đó là giá 6 tấn alumin… mới bằng 1 tấn cà phê! Người dân các xã Nhân Cơ, Nghĩa Thắng huyện Đak R’Lấp đã tự tay mình chặt phá gần 600 trăm ha cà phê và gần 200 ha điều, hồ tiêu… đang mùa thu hoạch để giao cho Vinacomin xây dựng dự án. Họ rời khỏi bản làng, nương rẫy, tìm kế khác mưu sinh để góp phần xây dựng quê hương mau giàu có mau đổi thay, nhưng liệu Vinacomin đáp đền ân nghĩa ấy như thế nào nếu cứ làm ăn thua lỗ???
L.T.T.








Vài lời với TBT ĐCS VN Nguyễn Phú Trọng
Nguyễn Đắc Kiên – Nhà báo, báo Gia Đình & Xã Hội
Lời bình của nhà báo Huy Đức: Tôi cực lực phản đối những người phê phán nặng lời Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khi ông gọi những người góp ý sửa hiến pháp theo hướng tam quyền phân lập, đa nguyên chính trị và phi chính trị hóa quân đội là suy thoái đạo đức. Điều này chỉ làm tổn hại uy tín của cá nhân Tổng bí thư (dân gian gọi là tự bắn vào chân mình). Ông Trọng không nói thì rất ít người tin nhận thức chính trị của một nguyên thủ trong thời đại ngày nay lại chỉ như tuyên huấn huyện ủy hồi thập niên 1980s. Theo tôi, chúng ta chỉ nên phê phán Tổng bí thư về hành vi tiết lộ bí mật quốc gia là được.
Chương trình Thời sự VTV1, 19h, ngày 25/2 đưa phát biểu tại Vĩnh Phúc của TBT ĐCS Việt Nam Nguyễn Phú Trọng như sau: “Vừa rồi đã có các luồng ý kiến cũng có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức … Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không? Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa!”(*)
Bằng tất cả sự tôn trọng với người đang đứng đầu một đảng chính trị của VN, tôi xin nói với ông Nguyễn Phú Trọng vài lời như sau:
Đầu tiên, cần phải xác định, ông đang nói với ai? Nếu ông nói với nhân dân cả nước thì xin khẳng định luôn là ông không có tư cách. Ông là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, nếu muốn dùng hai chữ “suy thoái” thì cùng lắm là ông chỉ có thể nói với những người đang là đảng viên cộng sản, ông không đủ tư cách để nói lời đó với nhân dân cả nước. Nếu ông và các đồng chí của ông muốn giữ Điều 4, muốn giữ vai trò lãnh đạo, muốn chính trị hóa quân đội, không muốn đa đảng, không muốn tam quyền phân lập, thì đó chỉ là ý muốn của riêng ông và ĐCS của ông. Ông không thể quy kết rằng đó là ý muốn của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh rằng, những ý muốn trên chỉ nên xem là của riêng ông TBT Trọng, chưa chắc đã là tâm nguyện của toàn bộ đảng viên cộng sản hiện nay.
Tiếp theo, xin đi vào nội dung, ông nói suy thoái về đạo đức. Tôi muốn hỏi ông, đạo đức của ông đang muốn nói là đạo đức nào? Đạo đức làm người? Đạo đức công dân? Đạo đức dân tộc VN? … Tôi tạm đoán là ông đang muốn nói đến đạo đức người cộng sản của các ông. Vậy, các ông cho rằng chỉ có đạo đức cộng sản của các ông là đạo đức đích thực? Thế ra, cha ông tổ tiên chúng ta, khi chưa có chủ nghĩa cộng sản vô đạo đức hết à? Thế ra, những người không theo đảng cộng sản trên thế giới là vô đạo đức hết à?
Tiếp theo, xin đi vào nội dung suy thoái chính trị, tư tưởng. Tôi muốn hỏi ông, chính trị, tư tưởng ông đang muốn nói là chính trị, tư tưởng nào? Có phải chính trị, tư tưởng của đảng cộng sản? Vậy ra chỉ có đảng cộng sản của các ông là duy nhất đúng à? Cá nhân tôi cho rằng, không một người có lương tri bình thường nào thừa nhận như thế. Cùng lắm ông chỉ có thể nói với các đảng viên cộng sản như vậy, nhưng ngay cả với các đảng viên cộng sản, ông cũng không thể quy kết tội suy thoái cho họ. Nếu không tin, ông thử đọc lại Cương lĩnh chính trị và Điều lệ đảng các ông ban hành xem. Không có điều nào nói xóa bỏ Điều 4 là suy thoái, muốn đa nguyên về chính trị là suy thoái, muốn phi chính trị hóa quân đội là suy thoái, chỉ có tham ô, tham nhũng… đi ngược lại lợi ích của nhân dân là suy thoái. Ông đương kim tổng bí thư ĐCS VN thử đọc lại và nghĩ lại chỗ này xem.
Bây giờ, tôi trân trọng tuyên bố những điều tôi muốn:
1- Tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong Hiến pháp hiện hành, mà tôi muốn tổ chức một Hội nghị lập hiến, lập một Hiến pháp mới để Hiến pháp đó thực sự thể hiện ý chí của toàn dân Việt Nam, không phải là ý chí của đảng cộng sản như Hiến pháp hiện hành.
2- Tôi ủng hộ đa nguyên, đa đảng, ủng hộ các đảng cạnh tranh lành mạnh vì tự do, dân chủ, vì hòa bình, tiến bộ của dân tộc Việt Nam, không một đảng nào, lấy bất cứ tư cách gì để thao túng, toàn trị đất nước.
3- Tôi không chỉ ủng hộ xây dựng một chính thể tam quyền phân lập mà còn muốn một chính thể phân quyền theo chiều dọc, tức là tăng tính tự trị cho các địa phương, xây dựng chính quyền địa phương mạnh, xóa bỏ các tập đoàn quốc gia, các đoàn thể quốc gia tiêu tốn ngân sách, tham nhũng của cải của nhân dân, phá hoại niềm tin, ý chí và tinh thần đoàn kết dân tộc.
4- Tôi ủng hộ phi chính trị hóa quân đội. Quân đội là để bảo vệ nhân dân, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ cương vực, lãnh thổ không phải bảo vệ bất cứ một đảng phái nào.
5- Tôi khẳng định mình có quyền tuyên bố như trên và tất cả những người Việt Nam khác đều có quyền tuyên bố như thế. Tôi khẳng định, mình đang thực hiện quyền cơ bản của con người là tự do ngôn luận, tự do tư tưởng; quyền này mỗi người sinh ra đã tự nhiên có, nó được nhân dân Việt Nam thừa nhận và tôn trọng; quyền này không phải do đảng cộng sản của các ông ban cho, nên các ông cũng không có quyền tước đoạt hay phán xét nó. Vì thế, tôi có thể xem những lời phán xét trên của ông, nếu có hướng đến tôi là một sự phỉ báng cá nhân. Và tôi cho rằng, những người nào chống lại các quyền trên là phản động, là đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, dân tộc, đi ngược lại xu hướng tiến bộ của nhân loại.
—–
(*) Nguồn: Chương trình Thời sự VTV1, 19h, ngày 25/2; phần âm thanh và gỡ băng của Anhbasam.








Quê Choa thứ ba ngày 26/02/2013
Cập nhật liên tục trong ngày
Biển Đông: Chỉ một lỗi ngu xuẩn có thể châm ngòi chiến tranh
Việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên hầu hết Biển Đông dường như đang tiến triển ngày càng nguy hiểm và chỉ cần một lỗi ngu xuẩn cũng có thể châm ngòi cho chiến tranh -tạp chí Chính trị Mỹ cảnh báo.
Phillippines, Việt Nam, Đài Loan và một số quốc gia khác đang phản ứng dữ dội với những tuyên bố chủ quyền ngang ngược của Trung Quốc, điều mà nhiều nhà phân tích cho rằng “chỉ cần một lỗi ngu xuẩn có thể châm ngòi cho một cuộc chiến tranh”. Bằng chứng là tân Tổng Bí thư Trung Quốc Tập Cận Bình đã ra lệnh cho quân đội nước này “chuẩn bị chiến tranh”.
12 NGÀY TRONG ‘THẾ GIỚI TÂM THẦN’ – PHẦN II
Việc phân biệt một người mắc bệnh tâm thần với một người tỉnh táo là điều không mấy khó khăn, nhất là đối với những người vẫn thường xuyên tiếp xúc với bệnh nhân tâm thần. Do vậy, trong thời gian ở trung tâm, phần lớn CBCNV đều xem tôi là một hiện tượng lạ, nhất là khi tôi không phải uống thuốc gì hết mà vẫn cứ ăn ngon ngủ kỹ (bệnh nhân tâm thần thiếu thuốc thì không ngủ được, mà mất ngủ sẽ dẫn đến rối loạn tâm thần).
Rộng hơn 2 ha nhưng trang trại này luôn đóng cửa im ỉm, những người bên trong không quan hệ với dân địa phương. Lúc thì họ nói mình là người Đài Loan, lúc là người Trung Quốc
Khi phóng viên Báo Người Lao Động đặt vấn đề xã có kiểm tra những người sống và làm việc trong trang trại làm gì hay không thì ông Thuận thừa nhận chưa lần nào kiểm tra. “Tôi sẽ báo cáo với chủ tịch UBND xã để kiểm tra” – ông Thuận nói.
Cuộc chiến tranh biên giới 1979 là một trong những trang sử vàng oanh liệt chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Dù chỉ kéo dài hơn một tháng nhưng sự khốc liệt và tinh thần anh dũng của quân và dân ta đã viết tiếp lịch sử hào hùng của đất nước.
Thế nhưng tiếc thay đã 34 năm qua, cuộc chiến ít được nhắc tới khiến thế hệ trẻ hôm nay không ít người mơ hồ, thậm chí không biết gì về cuộc chiến tranh anh dũng này. Nó xuất hiện trong sách giáo khoa chỉ vẻn vẹn hơn 10 dòng là điều day dứt bởi lãng quên lịch sử không chỉ có tội với những anh hùng liệt sĩ và những người đã khuất trong cuộc chiến tranh vệ quốc oai hùng này mà còn có tội với cả hậu thế mai sau.
Nhược điểm kinh tế của Việt Nam
Vừa qua, chúng ta đã có năm chương trình liên tiếp về các yếu tố đem lại sự thịnh vượng cho các quốc gia và về những vấn đề gây ra sự nghèo khốn. Câu kết luận của hôm nay là dân Việt Nam vẫn còn nghèo và nếu xét theo tiêu chuẩn của quốc tế để đánh giá mức độ nghèo khốn thì thật ra còn nghèo hơn người ta thường nghĩ.Và sau hai thập niên bất cập với quá nhiều vấn đề mà tiết mục chuyên đề này đã phân tích từ 16 năm qua, kể từ Tết Đinh Sửu 1997, việc giải quyết nạn nghèo đòi ấy thật ra sẽ khó khăn hơn trong giai đoạn tới và nếu không khéo thì Việt Nam còn tụt lui vào hố sâu nghèo khổ của năm xưa. Trách nhiệm thuộc về chính quyền, là cơ chế vốn dĩ đã biết vì được quốc tế khuyến cáo từ 20 năm nay về những gì cần cải tổ. Cơ chế này ngần ngại cải cách và không chịu trưởng thành vì chỉ lo cho sự tồn tại của chính nó, với cái giá là người khác phải trả.
Trung Quốc dùng chiêu “ông nói gà, bà nói vịt” (Bài 1)
Trung Quốc sẽ không dám ra tòa, điều này không ngoài dự đoán của các chuyên gia. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra, Tòa án Trọng tài về Luật biển có thụ lý đơn của Philippines hay không? Trung Quốc có tiếp tục “lẩn tránh” được không? Trước những câu hỏi hết sức thời sự và cũng liên quan mật thiết đến quyền lợi, chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông, Infonet đã trở lại vấn đề với TS Trần Công Trục, Nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ.
Nếu cổ nhân như Chu Văn An là “người thoái hóa” trong triều đại Trần Dụ Tông theo cách nói ngày nay, thì tôi tin, không chỉ mình tôi, nhiều người sẽ xin được làm học trò nhỏ của Người.
Và, sẽ còn nhiều “trảm sớ” được kiến nghị cho đến ngày đất nước được thay đổi, phát triển, tự do, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc…
Sẽ ngày càng có nhiều người đứng vào hàng ngũ để được “thoái hóa”, thưa đảng.
Tổng bí thư ĐỪNG “QUY VÀO” NHƯ THẾ !
Suy thoái đúng nghĩa là “một bộ phận không nhỏ có chức có quyền” như NQTW 4 đã kết luận, chứ không phải những người trung thực, thẳng thắn đấu tranh, góp ý kiến nghị vì một bản Hiến pháp hoàn hảo, vì sự thuận đường cho khôi phục uy tín và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Cuộc sống bị chính quyền, công an quy chụp, áp đặt, bẻ xẹo, hà khắc nhiều quá đã ngột ngạt rồi, nay bị chính TBT “quy vào” nữa thì …dân ta biết sống ra sao? Chắc chết!
Khó khăn vây bủa dầu khí Việt Nam (PVN)
Với mục tiêu đạt 25,2 triệu tấn dầu khí khai thác quy đổi, đảm bảo gia tăng trữ lượng 30-40 triệu tấn quy dầu trong năm 2013, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đang phải đối mặt với nhiều thách thức.
Sản lượng khai thác dầu khí tại mỏ lớn nhất bị sụt giảm, các mỏ mới phát triển chưa cho hiệu quả cao trong khi các dự án đầu tư tìm kiếm dầu khí ở nước ngoài cũng không hề thuận lợi.
Nhưng lần này “lời nguyền” còn cay độc hơn bội phần, bởi vì khai thác dầu khí hay vàng không tạo ra hàng triệu tấn bùn đỏ nguy hại, không tạo ra nguy cơ ô nhiễm những nguồn nước cung cấp cho hàng triệu người dân sống phía dưới hạ lưu, không đe doạ huỷ diệt môi trường văn hoá và môi trường sống của hàng triệu cư dân bản địa. Và nhất là không diễn ra ở những vùng chiến lược xung yếu của quốc gia… Thiết nghĩ kể thêm nữa cũng bằng thừa, các nhà khoa học cùng với những người hoạt động trong lĩnh vực văn hoá và quân sự đã nói quá đủ rồi.
Những cuộc chiến tranh mạng tại Việt Nam
Những chính sách đóng-mở đầy mâu thuẫn khiến cho các phóng viên và blogger khó hiểu được giới hạn của quyền tự do ngôn luận. ”Làm phóng viên ở đây không dễ. Áp lực từ xếp rất cao và hiện tại dường như họ chỉ quan tâm đến việc doanh số bán bị sụt giảm và tìm cách để trục lợi từ Internet,” một nhà báo trẻ yêu cầu giấu tên cho biết. ”Đôi khi tôi tự hỏi tại sao tôi lại quyết định làm nghề này và tại sao tôi lại phải chú trọng vào những vấn đề nhạy cảm khi có nguy cơ bị đuổi việc hoặc thậm chí tệ hơn nữa, bị truy tố”.
Cuộc chiến bảo vệ biên giới 1979 cần được trình bày trong SGK mới
“Chủ trương khép lại quá khứ, hướng tới tương lai không có nghĩa là quên đi quá khứ. Cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc 1979 cần thiết phải tiếp tục được đưa vào SGK mới”- PGS.TS Ngô Minh Oanh – Viện trưởng viện Nghiên cứu Giáo dục (Trường ĐHSP TP.HCM) góp kiến khi trao đổi với VietNamNet.
Hơn nữa chúng ta cần phải ghi nhớ công ơn của những người đã hi sinh bảo vệ từng tấc đất biên cươngcủa tổ quốc, cho thế hệ trẻ biết được sự thật đã diễn ra như thế nào.
Tiến tới một định nghĩa khác về xã hội dân sự
Các định nghĩa khác nhau ấy không phải là một phủ định của ý niệm xã hội dân sự mà là một bằng chứng cho thấy tính chất đa dạng và phức tạp của vấn đề. Trước tính chất đa dạng và phức tạp ấy, giới nghiên cứu, một mặt, phải duy trì một số điểm chung nào đó để bảo đảm không lạc sang một vấn đề và một khái niệm khác; mặt khác, phải tôn trọng cái đối tượng đặc thù mà mình đang khảo sát.
Có ý kiến cho rằng sự giả dối nảy nở ngay từ trong phong trào thi đua mà sai động cơ, chạy theo thành tích. Tiếp đến là sự phát triển với những bài bản và thủ đoạn mới hơn kể từ khi những người có trách nhiệm tiếp xúc với kinh tế thị trường, không biết cách quản lý, sản xuất đình trệ, sa sút, đất nước nghèo đi, sợ mang tiếng nên mới sinh ra bệnh nói dối, dưới nói dối trên, trên nói dối dân!
SỢ CÁI KHÔNG CÓ, NÓI -VIẾT MÉO MÓ!
Tôi không ngạc nhiên, vì đã viết trong bài “Hiến pháp của ai” và “Dân tộc ta sẽ còn trầm luân”: “Nói những điều không biết / Viết những điều không hiểu / Sợ mất những điều không có”. Cần phải hiểu rằng cuộc sống không như ông ta mong muốn nữa ví dụ rõ nhất là bế mạc hội nghị Trung ương, ông ta đã phải mếu máo cơ mà. Chúng tôi tin vào quy luật với những chuyển biến nội tại của hệ thống mà không ý chí chủ quan của một nhóm người nào có thể cưỡng lại được. Sự chây ỳ và lạc lõng trơ trẽn của những người kiểu Ng Viết Thông ở Hội đồng lú luận TƯ hôm qua cũng cho thấy sắp tới xã hội sẽ phản ứng mạnh hơn.
Sửa đổi hiến pháp: Kiến nghị tới đâu?
Nhưng gần như ngay sau đó, ông Phan Trung Lý, Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật Quốc Hội, Trưởng ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, đã gởi văn thư cho nguyên Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc – nhân vật chủ chốt trong nhóm dâng “thất trảm sớ”, giải thích đại ý rằng “Kiến Nghị 72” tâm huyết của các nhân sĩ, trí thức ấy là “không đúng với quy định của Nghị quyết 38 của Quốc Hội”. Như vậy là, điều mà ông Phan Trung Lý trước đó khẳng định “ không có vùng cấm” thì giờ biến thành có “vùng cấm”. Đó là chưa kể hồi cuối năm ngoái, ông Phan Trung Lý có khẳng định về dự thảo Hiến Pháp của phía cầm quyền rằng “ Mỗi lần trình và thảo luận đều có những vấn đề cụ thể được sửa đổi, nhưng những định hướng lớn, nguyên tắc cơ bản vẫn giữ nguyên”.
Những vùng trắng trong lịch sử
Những phân tích trên, thật ra, hầu như ai cũng có thể hiểu. Nhà cầm quyền Việt Nam vốn trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh, và trong các cuộc chiến tranh ấy, đã từng biết sử dụng ký ức và tưởng tượng tập thể như những nguồn sức mạnh chiến lược, lại càng hiểu rõ. Trong các cuộc chiến tranh chống Pháp cũng như chống lại miền Nam và ngay cả trong cuộc chiến tranh đầu tiên chống lại Trung Quốc vào năm 1979, người ta đã biết viết lịch sử, hơn nữa, viết lại cả lịch sử trước kia, để, nói như Tố Hữu, “bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”.
Biển Đông : Việt Nam cần hỗ trợ Philippines trong vụ kiện Trung Quốc
Cho dù bị Bắc Kinh từ khước, Manila vẫn kiên quyết tiếp tục nhờ Tòa án Trọng tài Liên Hiệp Quốc phân xử về tính chất phi pháp của đường chín đoạn mà Trung Quốc vạch ra nhằm tranh giành chủ quyền tại Biển Đông. Trong lúc Philippines mạnh dạn đối đầu với Trung Quốc trên hồ sơ này, Việt Nam – nước có nguy cơ bị đường lưỡi bò gây thiệt hại nhiều nhất – lại duy trì một thái độ hết sức thận trọng, không công khai ủng hộ việc làm của nước đồng hội đồng thuyền với mình.
Nhà hàng Trung Quốc bài người Việt
Thật đáng tiếc cho một đất nước tự xưng có nền văn hóa rực rỡ, lâu đời và đang mơ tới ngày trở thành cường quốc hàng đầu có trách nhiệm với thế giới lại có thể tồn tại tư tưởng dân tộc cực đoan, chà đạp lên các quy tắc cư xử văn minh tối thiểu của nhân loại ngày nay như vậy.
Công dân mạng xã hội Paul Mooney viết: “Đây là lỗi của Đảng và chính quyền. Họ nói dối về các nước khác và xuyên tạc lịch sử và những người Trung Quốc thiếu hiểu biết đáp lại điều đó với sự ngu dốt. Thực nản quá.”
Góp ý sửa đổi Hiến pháp: Cái bẫy và tác dụng ngược
“… để biết ai ‘muốn’ cái gì thì là rất khó, vì trong xã hội Việt Nam thời Cộng sản, việc nói dối, làm dối, báo cáo dối, xử sự dối… đã thành nét ‘văn hóa mới’. Càng như vậy thì đọc được ý muốn, ý nghĩ người khác đâu phải dễ dàng. Vì vậy mà Đảng mới giở trò ‘Góp ý mà không có vùng cấm’ này đây chăng? Tưởng rằng trò tương tự này đã được thể hiện trong các cuộc ‘lấy ý kiến nhân dân’ cho Dự thảo Báo cáo chính trị mỗi kỳ Đảng họp rồi cơ mà?
3. “Treo đầu dê bán thịt chó”
Vì sao một nước cần hiến pháp? Một thể chế xiển dương đức trị, hay độc tài trị, hay bạo lực (cảnh sát, quân đội, dân phòng…) trị thì không cần theo đuổi việc nhào nặn, chế tác một bản hiến pháp nghiêm túc làm gì. Một việc thừa! Chẳng phải bấy lâu nay Hiến pháp (dù do đảng đúc sẵn) vẫn luôn nem nép ép mình ngồi co ro một xó, còn quyền bính luôn vênh váo tung tẩy cùng các nghị quyết của TWĐ, ý kiến của BCT, của các cụ, của anh ba, anh tư, anh năm , anh sáu…đó sao? Dẫu chỉ thị miệng mà uy lực đâu có kém cạnh các chiếu chỉ vua ban ngày trước.
Hết chuyện đánh thuế bà đẻ thì nay ngành thuế nước nhà lại bắt đầu tận thu cả đối tượng chính sách và học sinh. Theo thông tư hướng dẫn thực hiện nghị định về phí và lệ phí có hiệu lực từ ngày 25-2, thương bệnh binh và học sinh dưới 10 tuổi bắt đầu phải trả tiền mua vé qua phà.
Phải chăng những người soạn thảo, ban hành quy định này lại đi theo bánh xe đổ “đánh thuế bà đẻ”? Liệu ngân sách Nhà nước có khó đến mức phải tận thu đến độ gạt cả đạo lý sang một bên hay không?
Hiến pháp là đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật của quốc gia, phản ánh rõ ràng nhất, sâu sắc nhất nguyên tắc bản chất của quyền lực nhà nước là thuộc về nhân dân. Chính vì vậy, quyền lập hiến phải thuộc về nhân dân. Hiến pháp thực chất là một hợp đồng giữa chính quyền và người dân, theo đó quyền lực của chính quyền có được là do người dân trao cho. Nói ngắn gọn, đó là ‘Hiến pháp của dân’.








Nghe cụ Tổng nói, nhớ thơ Nguyễn Duy
Chỉ đạo lấy ý kiến cho dự thảo Hiến pháp tại Vĩnh Phúc, TBT Nguyễn Phú Trọng nói:“… Vừa rồi đã có các luồng ý kiến cũng có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức, … Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không? Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa! … Tham gia khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể … thì đó là cái gì? …” ( Theo NLG)
Nếu cụ Tổng nghĩ sao nói vậy thì nói thật nhé, cụ còn kém hơn nhiều so với mấy cụ hưu trí ở phường, xã.
Tự nhiên thấy nhạt miệng, muốn văng tục quá.
Bỗng nhớ thơ Nguyễn Duy, bài Đánh thức tiềm lực:
Tiềm lực còn ngủ yên
trong quả tim mắc bệnh đập cầm chừng
Tiềm lực còn ngủ yên
trong bộ óc mang khối u tự mãn
Tiềm lực còn ngủ yên
trong con mắt lờ đờ thủy tinh thể
Tiềm lực còn ngủ yên
trong lỗ tai viêm chai màng nhĩ
Tiềm lực còn ngủ yên
trong ống mũi khò khè không nhận biết mùi thơm
Tiềm lực còn ngủ yên
trong lớp da biếng lười cảm giác
Năng động lên nào
từ mỗi tế bào, từ mỗi giác quan
cố nhiên cần lưu ý tính năng động của cái lưỡi
Thơ Nguyễn Duy cũng không giúp mình đỡ nhạt miệng, vẫn muốn văng tục, tức thế chứ!
Sáng nay ngủ dậy, thấy thiên hạ bàn tán rầm trời lời vàng ngọc của cụ Tổng. Nhà báo Đỗ Hùng có lời than rất vui, ghi ra đây coi như lời kết của mình vậy:
Vẻ mặt bác rất tỉnh bơ
Mà sao nói tựa nằm mơ ban ngày
Bác phát biểu rất hăng say
Lập trường, bản lĩnh dạn dày ôi thôi!
Em nghi bác lú thật rồi
Để em đưa bác ra nơi Biên Hòa
NQL








Quả báo
Minh Diện
NQL: Mình tin đây là chuyện có thật về một ông tướng công an nào đó. Mình cũng biết vài ba chuyện tương tự, những ông quan vừa tham vừa ác tất nhiên sẽ bị quả báo ở hậu vận.
Lân về hưu để lại một câu nói nổi tiếng: “ Bụp đi!”
Bụp đi có nghĩa là bắt đi, bắt nóng!
Bất kỳ vụ án nào, đối tượng nào được phân công phụ trách, thì câu đầu tiên Lân nói với lính là “Bụp đi!” (bắt ngay, bắt nóng!). Quan điểm cùa Lân, bắt nóng là phương pháp đánh án nhanh, gọn, hiệu quả nhất. Cứ bắt là có tội. Không tội lòi tội! Quy đựo tội là có thành tích (!?).
Không chứng cứ lòi chứng cứ! Ông dạy lính bài học nhớ đời: “Phàm là doanh nhân, cha nào cũng có tội. Người ta nói đằng sau sự giàu sang luôn ẩn dấu tội ác! Muốn moi được của thì phải bụp. Giỏi là tạo ra được cái cớ bụp hợp lý”.
Gần bốn chục năm trước, Lân trong đoàn quân tiếp quản Sài Gòn, ve áo gắn quân hàm thượng sỹ. Cũng như bao người lính xuất thân từ miền quê nghèo miền Bắc, vào Sài Gòn, Lân choáng ngợp trước thành phố lộng lẫy, xa hoa, lớ ngớ như chim chích lạc rừng, chỉ muốn được trở về quê hương sau những năm tháng vảo sống ra chết.
Nhưng Lân không ra quân mà được chọn đi học khóa sĩ quan công an khẩn cấp bổ sung cho thành phố Sài Gòn mới giải phóng. Hết khóa học ấy, Lân được đi phép 10 ngày. Trong thời gian ngắn ngủi, Lân cưới vợ người cùng làng, cô gái xinh xắn, kém mình một tuổi, ngày xưa học sau mình một lớp.
Lân để vợ ở nhà chăm sóc cha mẹ, vào Sài gòn nhận công tác, làm phó công an một phường, nơi có ngành tiểu thủ công nghiệp và giàu có nhất nhì một quận. Đó là thời kỳ cải tạo công thương nghiệp miền Nam, nói gọn là đánh tư sàn. Lân lao vào cơn lốc soáy bụi bặm ấy, trái người lính bị nhuộm đen từ đó.
Một hôm vô tình, Lân ghé vào nhà một người trong khu phố, làm nghề kinh doanh vàng bạc, mới bị kiểm kê mấy hôm trước. Nhìn gương mặt nhợt nhạt thất thần của vợ chồng chủ nhà, Lân định hỏi bệnh gì? Nhưng mới chỉ nói mấy câu “hình như ông bà” thì người vợ chủ nhà đã chắp tay vái Lân, thừa nhận khi kiểm kê còn dấu giếm hơn chục lượng vàng Kim Thành. Rồi không đợi Lân nói gì, bà móc cạp quần lấy ba lượng vàng ra, dúi vào tay Lân.
Đó là lần đầu tiên Lân nhận tiền hối lộ, cũng từ đó Lân rút ra bài học nghề nghiệp: âm lý hốt hoảng khiến đối tượng chưa khảo đã khai!
Từ một anh lính lớ ngớ ngày nào, Lân hòa nhập vào cuộc sống đô thị rất nhanh. Lân thuộc đường ngang ngõ tắt thành phố, biết mánh ăn chơi của bọn bụi đời, ma cô, giang hồ, đĩ điếm. Đặc biệt Lân nắm lý lịch từng người trong phường từ bà bán sạp hàng tạp hóa nhỏ đến ông chủ một xưởng dệt, từ cô gái điếm tới ông giáo sư.
Lân để mắt tới đâu, ở đó có đối tượng. Con mắt Lân mỗi ngày một nhọn sắc như kim, soi mói vào tận gan ruột người dân. Con mắt sắc bao nhiêu, trái tim chai tình người bấy nhiêu! Và tiền chảy vào túi Lân từ mọi ngả, dễ dàng như nước chảy chỗ trũng
Chỉ một lần đi “thăm” vài hợp tác xã dệt, nhuộm, hoặc ghé vào mấy quán cà phê đèn mờ, là túi Lân đã nặng phong bao. Lân không ăn nhậu xả láng như những “anh hai”, mà kín đáo, bên ngoài vẫn tỏ ra giản dị, khiêm tốn, chí công vô tư. Nhờ khôn ngoan như vậy, lại biết đút lót đúng cửa, Lân được đề bạt rất nhanh .
Lân đưa vợ vào, được cấp căn nhà tám chục mét vuông, một trệt một lầu. Gia đình có hai vợ chồng một đứa con, vậy là rộng rãi chán. Nhưng lòng tham không có điềm dừng. Cách nhà Lân có ngôi biệt thự sang trọng. Gia đình ấy con là lính không quân chế độ cũ,bố mẹ làm nghề kinh doanh tơ sợi, dù đã được cải tạo nhưng vẫn luôn nớp không yên. Lân nhòm ngó ngôi biệt thự như cú nhòm nhà bệnh, nghĩ cách chiếm bằng được.
Nghĩ sao làm vậy, Lân tạo ra mọi cớ kiềm tra hết ngày lại đêm, ép cặp vợ chồng già, cô con dâu cùng ba đứa cháu đến nghẹt thở. Cái tội có con, có chồng là lính Plot di tản thì tày đình còn gì?
Vào một đêm cuối năm 1979, cả gia đình 6 người trong ngôi biệt thự ấy liều mình vượt biên. Ba hôm sau, 6 cái sác già trẻ được vớt lên cùng hơn hai trăm cái sác ở ngã ba sông Cát Lái.
Lấy danh nghĩa bảo quản nhà vắng chủ, Lân dọn sang ở ngôi biệt thự, rồi chiếm luôn. Thanh tra cơ quan rồi chính quyền phường, quận làm tới làm lui, nhưng như viên sỏi ném xuống ao bèo tấm, đâu lại vào đó. Thay đổi duy nhất là Lân không làm trưởng công an phường nữa mà lên quận, làm trưởng bộ phận điều tra tội phạm kinh tế. Chả khác gì chuột chui kho gạo, Lân phất lên như diều gặp gió. Chẳng bao lâu, Lân lên thành phố rồi lên bộ.
Khuôn mặt Lân mỗi ngày một bự ra , vuông vức , hồng hào , cặp mắt gườm gườm dữ dằm nham hiểm. Người ta nói tướng tại tâm, không sai chút nào. Cái ác từ trong tâm hiện lên từ khuôn mặt đến giọng nói và cả dáng đi đứng của Lân. Ông nghênh ngang khệnh khạng, dửng dưng trước nỗi khổ đau của đồng loại. Lân mỗi ngày một lấn sâu vào cái ác, lấy cái ác tạo nên uy quyền, từ uy quyền tạo ra của cải. Người Lân càng đẫy đà, mặt mũi càng phương phi láng bóng thì tình người càng tóp teo, nhợt nhạt. Con người ông chứa đầy mưu mô thủ đoạn hại người để làm tiền.
Một lần họp đồng hương đầu năm, Luân chìa bàn tay múp míp cho tôi , nhếch mép cười, hỏi trịch thượng:
- Sao không tới chỗ tôi?
- Để làm gỉ anh?
Lân kéo tôi ra một góc , nói nhỏ:
- Tôi muốn ông hợp đồng tác chiến , trị những thằng rắn mặt? Tôi cung cấp tài liệu, ông tương lên báo, tạo sức ép dư luận, hai mũi giáp công bóp lòi ruột nó ra!
- Ác quá?
- Ở đời làm gì có cái thiện? Cái thiện chỉ là một điều mơ ước viển vông, một bến bờ không bao giở đi tới!
- Nhưng cũng không nên để cái ác ngự trị tuyệt đối ông ạ!
- Ông sĩ bỏ mẹ! Tôi muốn tạo điều kiện cho đồng hương vừa nổi tiếng vừa có miếng! Ông biết tay nhà báo HL không ?
Tôi chẳng lạ gì HL và cách làm ăn của anh ta. Tôi làm báo, nhưng cũng là một nhà doanh nghiệp, không hợp tác với Lân như HL được.
Gần hai mươi năm qua nhanh, tôi không gặp Lân, thỉnh vẫn nghe bạn bè đồng hương kể chuyện về Lân, nói Lân giàu lắm, ba bốn ngôi nhà, tiền bạc như nước, ăn chơi như quý tộc, có những bộ gậy Golf hàng chục ngàn đô la …
Buổi chiều cuối năm vừa rồi, tôi đang ngồi một mình bên ly cà phê đen cạnh công viên Bàu Cát thì tình cờ gặp lại Lân.
Lân mặc quần lửng qua đầu gối, áo thun, đi dép lê , nhìn bệ rạc như ông bán vé số. Khuôn mặt Lân chảy xệ, miệng hơi méo, mắt thâm quầng, da nhợt nhạt , mái tóc lởm chởm, bước xiêu vẹo.
- Ô kìa anh!
Lân nhận ra tôi , vổ vập bắt tay, bàn tay Lận khô và lạnh, không múp míp nóng hổi như ngày nào.
- Sao thay đổi nhều thế này!Tôi hỏi.
Lận nói hơi bị ngọng:
- Năm ngoái bị tai biến hút chết ông anh ạ!
Chúng tôi ngồi bên nhau nói chuyện. Lân run run cầm chiếc thìa quấy ly cà phê. Hai mí mắt chảy xệ , ánh mắt mệt mỏi vô hồn. Những náo động của một thời tuổi trẻ, những háo hức đua chen , những mưu toan tham vọng , cả những thủ đoạn nghề nghiệp , trước kia ngùn ngụt như lửa trên mặt Lân, giờ đã tắt ,để lại sự nham nhở, méo mó như một chiếc mâm thau đồng nát.
Lân cho biết đã ly dị người vợ cùng quê sau khi có ba thằng con trai, lấy người vợ thứ hai có một đứa con gái, nhưng hiên tại sống ly thân.
Một ông già bán vé số đi tới, Lân ngừng nói chuyện, lấy mấy tờ vé số ra so, chả trúng tờ nào. Luân sé vứt xuống gầm bàn, sau đó cẩn thận lựa mua năm tờ khác. Ô hay, sao thế này? Ba bốn căn nhà, tiền như nước mà mới về hưu chưa được 5 năm, giờ tìm may rủi từng tờ vé số? Bị tai biến đâm ra lẩn thẩn mất rồi chăng? Tôi tự hỏi và nhìn Lân, cố hình dung ra một khuôn mặt của quá khứ.
Cạn ly cà phê, Lân hỏi tôi:
- Nhờ đồng hương giúp tôi một việc được không?
- Việc gì? Không phải chuyện hợp đồng tác chiến chứ?
- Quên chuyện ấy đi!
Tôi theo Lân tới ngôi nhà ở đường Trương Định, cách quán cà phê chỉ vài trăm mét. Lân để ngôi biệt thự chiếm được cho người vợ đầu cùng ba đứa con, chuyển về đây với người vợ thứ hai.
Ngôi nhà phố hai tầng, bình thường, nhìn có vẻ xơ xác.
Tôi chưa kịp quan sát căn phòng phách bày biện lộn xộn thì chạm ngay phải ánh mắt dữ tợn của hai gã đàn ông đứng bên bộ salon. Một người khoảng gần bốn chục tuổi, một người trẻ hơn, khuôn mặt giống nhau như đúc, cả hai đều gân guốc.
Người lớn tuổi đầu trọc, mặc quần Jean đen , áo thun màu cà phê, cổ đeo sợi dây Inox có chiếc răng hổ nhọn hoắt. Người nhỏ tuổi tóc nhuộm nửa đỏ nừa vàng, tai đeo khuyên, lỗ mũi đeo vòng, mặc quần bò áo sơ mi. Trên ngực hai người đều xăm hình trái tim có mũi tên xuyên qua như hình xăm của những tên cướp biển.
Lân nói với tôi:
- Hai ông con tôi đấy!
Tôi mỉm cười làm quen với hai người đàn ông Lân giới thiệu là con, nhưng lạnh người vì ánh mắt hằn học của họ.
Người lớn tuổi hỏi tôi, dằn từng tiếng:
- Ông là ai, tới đây làm gì?
Tôi đáp:
- Tôi là đồng hương với ông Lân, tình cờ ghé thăm thôi!
Ông Lân nói thêm:
- Ông ấy là nhà báo nổi tiếng đấy!
Người lớn tuổi nhe răng cười gằn:
- Hết đưa đồng nghiệp về dọa, lại đưa nhà báo về dọa! He he ! Một trăm nhà báo thằng này cũng đéo sợ!
Thì ra ông Lân kéo tôi về nhà dọa hai đứa con? Gần hết cuộc đời ông ấy vẫn lợi dụng người khác!
Ông Lân nói với tôi:
- Anh xem con cái mất dạy thế đấy!
Thằng con lớn cướp lời bố:
- Nói sai rồi, không mất dạy mà thực hiện đúng lời dạy của ông đấy. Đã thế nói cho nhà báo biết luôn ! Ông ta bỏ vợ già lấy vợ trẻ, rồi lại ly thân, theo bồ nhí. Không bị tai biến thì bây giờ đang hú hí với bồ nhí !
- Câm miệng đi!
Ông Lân thét lên, lào đảo ngồi xuống chiếc ghế salon. Ông cầm ly nước lạnh uống ực rồi nói với tôi:
- Chúng nó lao vào con đường ăn chơi, nghiện ngập, cờ bạc phá hết mấy ngôi nhà của tôi, giờ ngày nào cũng nã tiền có khổ tôi không? Tôi làm gì có tiền ?
Hai đứa con trai ông Lân tiến lại trước mặt ông. Một chân chúng đặt lên bàn Salon, một chân dưới đất. Hai khuôn mặt nổi gân, rắn đanh, bốn con mắt gườm gườm dữ dằn soi mói. Đây chính là gương mặt, ánh mắt của Lân trong dĩ vãng, nó hiển hiện như tấm gương soi vào quá khứ.
Thằng con lớn trợn mắt hỏi bố:
- Có chịu chi 40 mươi chai sài tết không?
Ông Lân ú ớ:
- Tao lấy đâu ra 40 triệu?
Thằng anh liền ra lệnh cho thằng em:
- Bụp đi!
Tôi giật thót người. Hai tiếng “Bụp đi” Lân thường ra lệnh cho thuộc hạ đánh án, giờ con Lân dùng để tống tiền ông. Một kịch bản đời thường được lặp lại và hình như tàn nhẩn hơn nhiều.
- Phập !
Thằng con thứ hai từ đầu lặng im, gườm gườm nhìn bố, giờ rút con dao găm nhọn hoắt cắm phập xuống mặt bàn Salon .
Ánh mắt nó long lanh, thỏa mãn khi ông Lân bước trệu trạo đến tủ, run rẩy mở khóa.
Hai thằng con ôm tiền bỏ đi.
Lân nói với tôi:
- Chỉ còn mỗi ngôi nhà này, phài bán chia cho mẹ con bà vợ sau! Hết nhẵn rồi ông ạ!
Tôi muốn nói với Lân, một thiên đường xây bằng những thứ không phải của mình, nó tan đi nhanh là phải. Nhưng tôi im lặng, bởi nhìn ông đã khổ sở lắm rồi!
M.D








Nghe cụ Tổng nói, nhớ thơ Nguyễn Duy
Chỉ đạo lấy ý kiến cho dự thảo Hiến pháp tại Vĩnh Phúc, TBT Nguyễn Phú Trọng nói:“… Vừa rồi đã có các luồng ý kiến cũng có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức, … Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không? Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa! … Tham gia khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể … thì đó là cái gì? …” ( Theo NLG)
Tự nhiên thấy nhạt miệng, muốn văng tục quá.
Bỗng nhớ thơ Nguyễn Duy, bài Đánh thức tiềm lực:
Tiềm lực còn ngủ yên
trong quả tim mắc bệnh đập cầm chừng
Tiềm lực còn ngủ yên
trong bộ óc mang khối u tự mãn
Tiềm lực còn ngủ yên
trong con mắt lờ đờ thủy tinh thể
Tiềm lực còn ngủ yên
trong lỗ tai viêm chai màng nhĩ
Tiềm lực còn ngủ yên
trong ống mũi khò khè không nhận biết mùi thơm
Tiềm lực còn ngủ yên
trong lớp da biếng lười cảm giác
Năng động lên nào
từ mỗi tế bào, từ mỗi giác quan
cố nhiên cần lưu ý tính năng động của cái lưỡi
Thơ Nguyễn Duy cũng không giúp mình đỡ nhạt miệng, vẫn muốn văng tục, tức thế chứ!
NQL








Sơn Tinh đã từng thỏa hiệp với Thủy tinh như thế nào
Võ Đắc Danh
Viện khảo cổ học NGỌC DƯƠNG TRUNG SƠN ( trên đường Dương Bá Trạc – quận 8 ) vừa công bố kết quả khôi phục và giải mã bộ đĩa DVD hóa thạch được khai quật dưới chân núi Nghĩa Lĩnh, trong đó có nhiều tài liệu liên quan đến truyền thuyết về Sơn Tinh và Thủy Tinh như sau: Đời Hùng Vương thứ 18, vào một sáng tinh mơ, vừa đến giờ nhập chầu thì có hai chàng trai lái hai chiếc Rolls-Royce đến, quỳ gối trước nhà vua mà tâu rằng:
-Thần là Sơn Tinh, chủ tịch hội đồng quản trị tổng công ty Sơn Lâm, chuyên kinh doanh gỗ nhóm một và thú rừng quý hiếm.
-Thần là Thủy Tinh, chủ tịch hội đồng quản trị tập đoàn Vinasiba, kinh doanh tất cả những gì liên quan đến biển.
Nói xong, hai chàng trình lên nhà vua bản khai tài sản có công chứng. Nhà vua xem xong rồi ra chiều bối rối:
-Cổ phiếu bằng nhau, bất động sản cũng bằng nhau. Tài nguyên rừng và tài nguyên biển, cái nào cũng quý. Sừng tê, cao hổ cốt, mật bò tót ta cũng thích mà hải mã ta cũng mê, nhưng khổ nỗi ta chỉ có một nàng công chúa . . .
Sơn Tinh liền nói:
-Tâu bệ hạ, sừng tê, cao hổ cốt, mật bò tót của thần thì bao la, còn hải mã, tuy không có nhưng thần vẫn mua được.
Thủy Tinh nguýt Sơn Tinh:
-Ta không bán, giá bao nhiêu cũng không bán
Nhà vua can:
-Thôi được rồi, hai khanh đừng cải vả, Bây giờ ta quyết định thế nầy, sáng mai, ai đến sớm thì được cưới công chúa. Bãi chầu !
Theo truyền thuyết thì đêm ấy Sơn Tinh ém lại dưới chân núi Nghĩa Lĩnh nên đến sớm, còn Thủy Tinh về tới vịnh Hạ Long nên đến trể, bị phổng tay trên. Nhưng theo tài liệu lưu lại trong bộ DVD hóa thạch – có cả âm thanh thì ngay trong buổi sáng hôm ấy, Sơn Tinh mời Thủy Tinh đi nhậu và massage ở Đồ Sơn
-Lúc nảy, ngươi có thấy Mỵ Nương núp sau rèm nhìn ra hai đứa mình không ? – Sơn Tinh hỏi.
-Thấy chớ sao không.
-Ngươi thấy nàng thế nào ?
-Cũng thường thôi, chẳng hơn gì mấy cô người mẩu.
-Vậy thì ngươi quyết làm phò mã để làm gì ?
-Ngươi trả lời xem ?
-Với ta, mục tiêu của ta là giang sơn chới không phải là mỹ nhân
-Thì ta cũng như ngươi thôi.
Ngẫm nghĩ một lúc, Sơn Tinh nói:
-Ta có cách, chẳng cần thi thố gì cả mà ta với nhà ngươi, mỗi thằng một nửa giang sơn, với điều kiện là, Mỵ Nương phải thuộc về ta.
-Cách nào ? Thủy Tinh lo lắng hỏi.
Sơn Tinh ra hiệu cho hai ẽm tiếp viên rời khỏi bàn rồi nói nhỏ với Thủy Tinh.
Khi giải mã đến đoạn nầy thì phần âm thanh không nghe được vì họ nói với nhau quá nhỏ, chỉ nghe được đoạn cuối khi họ chia tay, Sơn Tinh nói:
-Thế nghen, khi tiệc cưới sắp tàn thì ngươi xuất hiện, quậy cho tưng bừng lên, nhớ xả đập sông Đà. Ta nghĩ rằng chỉ có cách nầy thì nhà ngươi mới mong trả được món nợ Vinasiba.
Đám cưới của Sơn Tinh và Mỵ Nương đang vui say thì bất thần giông gió cuồng phong nổi lên, nước lũ dâng cao tràn ngập cả đồng ruộng, phố phường.
- Thế là thế nào ? – Vua Hùng hỏi.
- Tâu phụ vương – Sơn Tinh đáp – Thủy Tinh ghen tức vì không cưới được Mỵ Nương nên nhậu say rồi quậy phá.
- Vậy khanh tính sao ?
- Tâu phụ vương, con sẽ lập dự án chống lại Thủy Tinh.
- Thì làm nhanh lên, nước dâng sắp ngập ngai vàng ta rồi !
- Nhưng muôn tâu phụ vương, dự án nầy rất tốn kém mới có thể chống lại được sức mạnh của Thủy Tinh.
- Tốn bao nhiêu cũng phải làm !
- Nhưng con e rằng số vàng bạc dự trữ trong ngân khố của chúng ta sẽ không đủ để đầu tư cho dự án.
Vua Hùng trầm ngâm một chút rồi bảo:
- Không sao, để chống lại Thủy Tinh bảo vệ muôn dân, bảo vệ mùa màng, cứu lấy nền kinh bang tế thế, ta có thể vay vốn ODA của các nước lân bang. Hoặc cắt giảm một số dự án giáo dục và y tế.
Sơn Tinh triển khai dự án rầm rộ chưa từng có. Từ kinh thành cho đến các vùng nông thôn sâu xa, đâu đâu cũng thấy nào là xáng cạp, xáng thổi, xe ủi, xe cuốc, xe bel, kobe, cần cẩu . . . thi công sáng trời sáng đất. Chẳng bao lâu, đường xá, đê điều, cầu cống, kinh thủy lợi, các cụm tuyến dân cư vượt lũ mọc lên như nấm. Kèm theo đó là một loạt khu Rì-sọt, sân gôn mọc tơi tới. Nhiều căn hộ chung cư cao cấp giá triệu đô được mưng lên. Sơn Tinh lái trực thăng đưa vua Hùng đi tham quan, thị sát. Qua các khu Rì-sọt, các khu đô thị mới, những tòa nhà chọc trời, nhà vua ngạc nhiên hỏi:
-Chỗ đó là gì mà uy nghi quá dzậy khanh ?
-Tâu phụ vương, đó là những khu nhà dành cho người có thu nhập thấp.
Nhà vua lấy làm mừng rỡ, vừa đưa tay vuốt chòm râu bạc, lại đưa tay vỗ vỗ vào vai Sơn Tinh mà khen rằng:
- Ôi, trời ban phúc cho ta, ta đã chọn được hiền tài làm phò mã ! Ngươi muốn ta ban thưởng gì thì cứ tâu, ta sẵn sàng chuẩn tấu.
Sơn Tinh khiêm tốn thưa rằng:
- Dạ muôn tâu phụ vương ! Phụ vương đã ban cho con công chúa Mỵ Nương xinh đẹp là phần thưởng lớn nhất đời con rồi, con chỉ mong đền ơn cho phụ vương thôi chớ đâu dám đòi hỏi gì hơn nữa.
Ngẫm nghĩ hồi lâu, vua Hùng nói:
- Hay là ta phong cho con cái danh hiệu “Anh hùng lao động trong thời kỳ… tiền sử ” nghen !
- Dạ, vạn tạ phụ vương !
Sơn Tinh sung sướng định quỳ xuống cabin lạy tạ, nhưng vừa buông tay thì chiếc trực thăng chao đảo. Vua Hùng hốt hoảng nói:
- Đừng con, coi chừng rớt máy bay !
****
Trong khi triều đình đang chuẩn bị làm lễ ăn mừng chiến thắng Thủy Tinh và trao danh hiệu “Anh hùng lao động thời kỳ . . . tiền sử” cho Sơn Tinh thì quan cơ mật và quan thống đốc tối cao pháp viện trình lên nhà vua bảng cáo trạng dày 400 trang, kèm theo chứng cứ bằng ảnh chụp và video kỹ thuật số, rằng: Sơn Tinh đã móc nối với Thủy Tinh để lập dự án nhằm rút ruột công trình. Tất cả các công ty, tổng công ty, các tập đoàn thi công các công trình hầu hết là sân sau của Sơn Tinh được giao cho Thủy Tinh nắm quyền cai quản. Quan cơ mật chứng minh gía thi công mỗi khối đất của các nước lân bang là năm lạng bạc, trong khi đó Sơn Tinh kê khống là mười tám lạng. Giá mỗi dặm đường cao tốc của nước Kiệu là 80 ngàn lạng thì Sơn Tinh kê lên cho Thủy Tinh thi công là 250 ngàn lạng. Lại còn gian dối, những công trình bê tông thay vì đúc bằng cốt thép thì Sơn Tinh lại cho đúc bằng . . . cốt tre tầm vông. Đặc biệt một vài nơi đúc bằng cốt … mía. Sơn Tinh lập dự án trồng cao su, cà phê xuất cảng nhưng thực chất là để khai thác gỗ quý và đặc sản rừng. Thủy Tinh câu móc với Sơn Tinh lập dự án đóng tàu thủy nhưng thực chất là mua tàu phế liệu của các nước lân bang. Trong khi nhà vua đi vay vốn của nước Tề thì Sơn Tinh lại ôm tiền đi gởi nhà băng bên nước Kiệu . . .
Quan thống đốc tối cao pháp viện mới đọc được một phần tư cáo trạng và chiếu vài đoạn phim thì vua Hùng đã ngất xỉu. Mười ngày, mười đêm qua đi một cách nặng nề. Triều đình trong tình trạng u trì, ngưng trệ. Tất cả các tụ điểm vui chơi, văn hóa, biểu diễn thời trang vắng hoe như chùa bà Đanh. Khi tĩnh dậy, Vua Hùng vương vươn vai, người run rẩy, hét:
- Chém ! Chém !
Công chúa Mỵ Nương quỳ xuống van xin:
- Tâu phụ vương, con biết tội của Sơn Tinh trời không dung đất không tha. Nhưng nếu ta đem ra xét xử công minh thì sẽ gây tai tiếng cho triều đình, lại còn uy tín với các nước lân bang, sắp tới ai mà dám cho ta vay tiền vay bạc. Vết nhục nầy dẫu có lấy hết nước sông Hồng, sông Lô, sông Đà Rằng cũng không rửa sạch, để lại tấm bia miệng cho muôn vạn đời sau. Con vật đầu xin phụ vương cho xử lý chuyện nầy theo quy ước “Xử lý nội bộ” của triều đình, để con không phải mang tiếng là gái góa chồng, để phụ vương còn mặt mũi mà thay trời trị dân trị nước . . .
- Trẫm . . .
Vua Hùng vừa nói, vừa thở hổn hển, vừa ôm ngực ho sù sụ. Mỵ Nương và các bá quan văn võ hồi hộp chờ sự phán quyết của người.
- Trẫm . . . trẫm chuẩn tấu !
Tất cả đồng thanh:
- Thánh thượng vạn tuế ! Vạn vạn tuế !
Hôm sau, quan cơ mật và quan thống đốc tối cao pháp viện bị bắt giam về tội tiết lộ bí mật quốc gia. Mỵ Nương cũng cảnh báo với các văn võ quần thần rằng, ai tiết lộ bí mật nầy, sẽ bị tru di tam tộc. Lễ ăn mừng chiến thắng Thủy Tinh và trao danh hiệu “Anh hùng lao động thời kỳ . . . tiền sử” cho Sơn Tinh cũng được tổ chức theo nghi thức quốc lễ. Trước đó ba tháng, Mỵ Nương đã phát động toàn quốc cuộc thi sáng tác ca khúc theo chủ đề ca ngợi Sơn Tinh để chọn một bài hay nhất đem ra trình diễn trong ngày lễ. Bài hát như sau:
Đất nước gấm hoa, đất nước Âu Lạc thái bình, thái thái bình.
Muôn hoa xinh tươi, có một cô Mỵ Nương tuổi xuân vừa đang đôi tám.
Xinh như tiên nga, đẹp như trăm hoa, da nàng trắng tinh, da nàng trắng tinh.
Cho đến một hôm, đâu đó xuất hiện hai chàng, hai chàng.
Vai mang cung tên, đến xin cầu hôn Mỵ Nương công chúa
Hai trai hiên ngang, liệt oanh như nhau, vua Hùng bó tay, vua Hùng bó tay.
Ôi khó làm sao, vua biết phân xử thế nào, thế thế nào
Ta đây Thủy Tinh, có tài gọi mưa kêu gió
Ta đây Sơn Tinh, có tài đốn cây, có tài đốn cây
Cao kiến làm sao, vua mới ra lệnh thế nầy, thế thế nầy
Mỵ Nương con ta, từ lâu thèm ăn thịt chó
Ai đem ra đây con cầy sáu cái chân
Con cầy là sáu cái chân.
Sáng sớm hôm sau, Sơn Tinh vớ được một con chó dại, chó chó dại
Đến trước Thủy tinh, dắt tay nàng tiên mơ ước
Đi trong muôn hoa
Muôn chim reo ca buôn lời ái ân
Buôn lời ấn ấn ai
Thôi thôi thôi thôi, Thủy Tinh đến chậm mất rồi, mất mất rồi
Sơn Tinh kia ơi, thù sâu ngàn năm ghi nhớ
Mỵ Nương em ơi, thôi rồi chết ta, thôi rồi chết ta
Ơi hỡi Sơn Tinh, mi giết chết ta rồi, ta ta rồi
Biển khơi bao la, hỏi ta mò đâu ra chó,
Vua cha đi ra, Thủy Tinh kêu la
Kêu rằng chết cha, kêu rằng chết cha.








Trần Đăng Khoa mắng Joel Brinkley
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ
TRẦN ĐĂNG KHOA
Cái tên như chân lý, có tính cảnh báo sắc lẹm này, không phải do tôi nghĩ ra đâu. Làm sao một “gã thợ cày không có trâu” lại sâu sắc thâm thúy được đến như thế. Đó là kinh nghiệm đúc kết từ ngàn đời mà ông bà, cụ kỵ truyền lại cho chúng ta đấy. Các cụ bảo: “Trăm năm bia đá thì mòn – Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Khiếp không? Cứ tưởng chạm trổ dấu ấn của mình lên bảng vàng, bia đá thì sẽ vĩnh cửu. Chả phải. Mọi giá trị đều bị thời gian sàng lọc, đào thải và chắt lại . Nhưng cũng có những dấu vết không làm sao xóa được, nhất là khi nó đã thành “bia miệng” của thế gian. Đến cái nỗi ấy, thì chả có “cái cống” nào để mà tẩu thoát.
Đấy là hai trường hợp, hai “tiêu điểm” nổi cộm, gây bất bình lớn trong dư luận xã hội. Một ông Tây và một ông Ta. Ông Tây là ngài Giáo sư Joel Brinkley và ông Ta là ngài nghị sĩ Quốc hội Hoàng Hữu Phước. Cả hai ông này có tuổi tác khác nhau, hình dáng khác nhau, số phận khác nhau, ở hai vùng văn hóa hoàn toàn khác biệt nhau, vậy mà lại giống nhau đến kỳ lạ: Đều phải hứng chịu những trận mưa đá của đông đảo công chúng và cộng đồng mạng. Đều ngỡ ngàng, kinh ngạc vì không ngờ bài viết của mình lại bị dư luận phản ứng dữ dội đến như thế. Và khủng khiếp hơn, đều bị công chúng đề nghị sa thải, đuổi khỏi trường Đại học và phế truất khỏi Nghị trường. Và điều thú vị giống nhau nữa: Những người nổi giận, đòi sa thải hai ông, đều không phải là những đối tượng bị các ông chỉ trích, lăng mạ, mà toàn là những người ngoài. Đấy là những tiếng nói trung thực và khách quan. Ở ông nghị sĩ Quốc hội Hoàng Hữu Phước, nhiều Luật sư còn lên tiếng, muốn đưa ông ra Tòa vì họ còn tìm thấy trong bài viết của ông, có những dấu hiệu của tội phạm hình sự. Đến cả như thế thì khủng khiếp quá. Sự nổi giận có phần thái quá này cũng là điều dễ hiểu. Tôi gọi đó là sự nổi giận của văn hóa trước những hành vi thiếu văn hóa.
Vậy sự thực thế nào? Đầu đuôi ra làm sao mà hai ông phải “chịu trận” khủng khiếp đến như vậy?
Cứ như thông tin trên công luận, thì mới đây, giáo sư Joel Brinkley đã đăng một bài báo viết về Việt Nam: “Dù ngày càng giàu có, nhưng khẩu vị của người Việt chẳng giống ai”, kể lại những gì vị giáo sư “quan sát”, “nghe ngóng” trong 10 ngày ông ta du lịch tại Việt Nam. Ngay lập tức, bài báo đã cuộn lên những làn sóng phẫn nộ không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Ông ta viết: “Ở Việt Nam, bạn dễ dàng nhận thấy những điều bất thường. Bạn không nghe tiếng chim hót, không thấy sóc leo cây hay chuột lục lọi trong những đống rác. Thậm chí, cũng chẳng có con chó nào chạy rông. Thực tế, hầu như bạn không thấy được một con thú hoang hay thú nuôi nào cả. Chúng đi đâu cả rồi? Bạn có thể ngạc nhiên khi biết rằng: Chúng đều bị ăn thịt cả…”. Chưa dừng lại ở đấy, ông Giáo sư này còn cho rằng, vì ăn nhiều thịt, nên “Việt Nam luôn là một quốc gia hung hãn. Đã có 17 cuộc chiến tranh với Trung Quốc kể từ khi giành được độc lập hơn 1.000 năm trước và đã xâm chiếm Cambodia vô số lần và gần đây nhất là vào năm 1979. Trong khi đó, những quốc gia ở phía tây của nó đa phần là hòa bình trong những thế kỷ gần đây”.
Thật kỳ cục và bậy bạ. Rất nhiều học giả viết về Việt Nam. Nhưng tôi không thấy có tác giả nào lại thiển cận, ấu trĩ và trẻ con như cái ông Giáo sư này. Đã thế, ông ta lại rất tự tin, cứ phán khơi khơi về những điều ông ta chẳng hiểu gì cả. Đến Việt Nam mà ông ta lại cứ muốn xem chó hay súc vật chạy rông ở ngoài đường thì đúng là một gã say xỉn. Xin mời ông hãy nghe chính một người nước ngoài, bà Naomi Doak, làm ở tổ chức bảo vệ động vật Traffic: “Tôi không đồng ý với nhiều ý kiến của Joel Brinkley, vì ông toàn nhầm lẫn cả. Ở Việt Nam, chim, chó hay nhiều động vật, hầu hết đều là vật nuôi. Họ không thả rông, vì chúng có chỗ của chúng ở những nơi quy định”. Nói người Việt ăn nhiều thịt, ông “không hề thấy bóng dáng của loài động vật nào ở Việt Nam vì người Việt đã ăn thịt hết cả” là một võ đoán điên rồ của gã say rượu. Thực chất, trong tư duy người Việt không có thịt. Món ăn chính, thông dụng của người Việt là: Cơm – Rau – Cá. “Lậy giời mưa xuống. Lấy nước tôi uống. Lấy ruộng tôi cày. Lấy bát cơm đầy. Một khúc cá kho.” Đấy là khấn trời của người Việt. Khúc cá là mơ ước từ ngàn đời của người Việt. “Có cá đổ vạ cho cơm”. “Cứt cá còn hơn lá rau”. Trong đồng dao, ngay cả một đứa trẻ, khi bị khói ngột ngạt, muốn xua khói, cũng lại mang cá ra để dỗ dành: “Khói về đằng kia ăn cơm với cá. Khói về đằng này lấy lá dập đầu”. Rồi đây nữa: “Anh đi anh nhớ quê nhà. Nhớ canh rau muốn, nhớ cà dầm tương”. Cà thì cũng vẫn là một loại rau thôi. Trong món ngon đến tuyệt đỉnh của cặp uyên ương cũng không thấy có thịt: “Canh tôm nấu với ruột bầu. Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”. Đến cả sản vật quý dâng biếu bố mẹ cũng vẫn là …rau: “Có con mà gả chồng gần. Có bát canh cần nó cũng đem cho”. Có thể liệt kê hàng trăm câu ca dao, tục ngữ ngạn ngữ tương tự như vậy. Trong tư duy văn hóa người Việt, có hơi hám thịt đâu. Thậm chí, thịt còn là nỗi bất an: “Ăn cơm với cáy thì ngáy o o. Ăn cơm thịt bò thì lo ngay ngáy”. Tôi cũng đã có lần kể về ông bạn Tây I van Navichxki của tôi bàn về bữa ăn của người Việt: “Cậu trông cái bàn ăn có sinh động không? Đúng là hai quốc gia riêng biệt nhé. Tớ thì đĩa và dao rĩa. Còn cậu thì bát và đũa. Đũa là biểu tượng của cái gậy chọc lỗ gieo hạt. Tớ có xem một bộ phim tư liệu khoa học của người Thuỵ Điển về Việt Nam. Trong phim có một anh chàng vừa hát, vừa chọc gậy! Mọi cái tồn tại đều có lý của nó. Cái rĩa trên đĩa tớ kia nó mang dáng của mũi lao phóng thú. Người Nga thích săn bắn lắm. Mà nói chung, người phương Tây đều thích săn bắn cả. Họ vốn quen ăn thịt. Còn các cậu lại chỉ ăn rau. Trông mâm cơm cứ xanh lè. Đũa thích hợp với việc cặp rau. Chẳng ai dùng dao, rĩa để xiên cắt rau cả”. Người nước ngoài thường hiểu Việt Nam như thế đấy. Bởi vậy mà họ đã nổi khùng trước bài báo võ đoán thiếu thiện chí của Giáo sư Joel Brinkley. Họ cho đó là “thiếu thông tin, đầy cảm tính, hồ đồ, trịch thượng và phân biệt chủng tộc”. Học giả Graeme Nye không giấu được nỗi bất bình: “Tôi là một người Anh đang sống ở Việt Nam. Tôi từng là nhà nghiên cứu ở Hạ nghị viện và Quốc hội Canada. Quan điểm của Joel Brinkley thật thiển cận và hoàn toàn không có tư duy của người nghiên cứu khoa học”. Pamela McElwee, người đã sống ở Việt Nam 5 năm , hiện đang làm trợ lý về lĩnh vực hệ sinh thái con người tại Đại học Rutgers và là chuyên gia về bảo tồn động vật hoang dã ở Việt Nam chứng minh: “Lịch sử của Đông Nam Á là hầu hết mọi quốc gia đều đã trải qua chiến tranh. Nước Mỹ có dân số ăn thịt lớn thứ hai thế giới tính theo trung bình đầu người”. Joshua Woerthwein, một công dân ở thành phố Norwalk, Hoa Kỳ thì bức xúc. “Không thể hình dung được đấy lại là một bài viết của một giáo sư từng giành được giải thưởng Pulitzer. Tôi cũng không hiểu sao một người như thế lại được cấp phép để “dạy dỗ” những đứa trẻ tại trường đại học?”. Và giận dữ hơn, cộng đồng mạng đang kêu gọi ký vào một lá đơn yêu cầu Đại học Stanford, Hoa Kỳ, sa thải vị giáo sư vì đã phỉ báng người dân Việt Nam. Lá đơn đòi đuổi việc Joel Brinkley được Mark Nelson, công dân Mỹ ở thành phố Boston khởi thảo. Lá đơn công bố trên Change viết: “Giáo sư mà thiếu hiểu biết như thế này không thể có chỗ tại Stanford hoặc bất kỳ trường đại học nào khác trên thế giới. Brinkley phải xin lỗi công khai và yêu cầu các chuyên gia về Việt Nam sửa sai lầm của ông ta. Nếu không, Stanford cần phải sa thải ngay ông ta.”.
Cho đến thời điểm này, lá đơn yêu cầu sa thải giáo sư Joel Brinkley đã có gần 1000 chữ kí đến từ khắp nơi trên thế giới. Điều thú vị là, tất cả những người “nổi giận” ấy, đều không phải người Việt Nam. Đó là những tiếng nói khách quan của lương tri nhân loại. Điều ấy, cũng cho thấy cái thời bưng bít đã qua rồi. Không thể cứ nhắm mắt mà nói càn hay làm càn được. Gieo gió thì ắt sẽ gặt bão. Quy luật ấy không ngoại trừ bất kỳ một ai, cũng không phân biệt bất cứ quốc gia hay một đảng phái nào….
(Còn tiếp)








February 24, 2013
Thư của TS Tô Văn Trường gửi PTTg Hoàng Trung Hải
Dự án bô xit đúng là chủ trương lớn của Đảng gây ra nhiều tranh cãi. Chỉ riêng cá nhân tôi tính đến nay đã có 11 bài viết dưới các góc nhìn khác nhau về dự án này. Bài viết mới nhất CON “CHUỘT BẠCH” KHỐN CÙNG được đăng tải rộng rãi trên các trang mạng xã hội đã nói hết những gì cần nói.
Có thể khẳng định dự án bô xít là một dự án gây chia rẽ sâu sắc nhất trong lòng người dân Việt Nam, là phép thử thực sự cho tiến trình dân chủ của đất nước. Nhiều chuyên gia, nhân sỹ, trí thức và đông đảo nhân dân ở trong và ngoài nước đã đồng loạt kiến nghị Đảng và Nhà nước dũng cảm dừng dự án khai thác bô xít Tây Nguyên dựa trên nhiều phân tích sâu sắc ở các góc độ khoa học kỹ thuật, kinh tế, xã hội và môi trường rất khách quan và thuyết phục. Kiến nghị đó được sự đồng thuận và nhất trí rất cao của nhân dân. Kết quả thăm dò của Diễn đàn kinh tế Việt Nam VNR500 và báo Dân Trí có đến 96% người dân đồng ý dừng dự án bô xít Tây Nguyên. Đấy là con số sống động phản ánh ý dân, lòng dân không thể bỏ qua trong một xã hội dân sự, nhà nước pháp quyền.
Những bài học nóng hổi tính cách mạng, khẳng định bản lĩnh, vai trò lịch sử và tấm lòng vì nước vì dân của những người đứng đầu nhà nước vẫn còn đó. Quyết định kéo pháo ra khỏi Điện Biên Phủ ngay trước thời điểm nổ súng đã ấn định của Tổng tư lệnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp là tấm gương trung thực, dũng cảm, khẳng định trách nhiệm sắt đá với công sức và xương máu của nhân dân, của chiến sỹ bộ đội đã được hậu thế ghi tiếng thơm mãi mãi vào sử sách. Người dân luôn nhớ Tổng bí thư Trường Chinh đột phá tư duy, dám lật ngược vấn đề, truy đến cùng những hạn chế của mình và hệ thống bấy lâu nay để vạch lối thoát cho Đảng, cho đất nước – viết lại Báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ VI và quyết liệt tổ chức đổi mới, sau đó khẳng khái bàn giao lại cho thế hệ kế cận. Ngày nay toàn Đảng nhớ ơn ông, coi ông là ví dụ sinh động về con người vì nước vì dân, vượt lên hạn chế bản thân, hạn chế thời đại để phản tỉnh kịp thời trước tụt hậu và bế tắc của hệ thống, đưa đất nước sang trang mới và hoàn thành sứ mệnh lịch sử, chia tay đỉnh cao quyền lực thanh thản, ung dung.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mới tuyên bố quyết định không làm cảng Kê Gà nhưng vẫn chưa đủ can đảm nỗ lực giải quyết hậu quả và trọn vẹn vấn đề bô xít như mong muốn trông đợi của người dân. Tôi hiểu và chia sẻ cái khó của người đang “cưỡi trên lưng hổ”! Là người trực tiếp giúp việc Thủ tướng, nếu Anh Hải dũng cảm nhận thấy cái sai của người thừa hành sẽ tạo thành động lực, chia sẻ để Thủ tướng có những quyết định tỉnh táo, quyết liệt vượt lên chính mình.
Riêng về bài toán kinh tế của dự án , cách đây hơn 2 năm khi VNN- TuanVN vừa mới đăng bài viết của tôi phê phán về phương pháp luận, cách tính kinh tế sai lầm của Tập đoàn khoáng sản, nhận được điện thoại của PV (Ban biên tập) cho biết ngày mai phía Tập đoàn sẽ có phản hồi bài viết của tác giả. Tranh luận về khoa học phải công khai sòng phẳng cả về lý luận và số liệu, tôi nhờ PV chuyển tiếp một loạt câu hỏi cần phải làm rõ của bài toán kinh tế. Biết chắc là THUA lại sợ “vạch áo” cho người xem lưng nên họ rút lui, không gửi bài phản hồi nữa. Tôi đã trao đổi với các chuyên gia kinh tế độc lập cả trong và ngoài nước dù có ngụy biện cách nào thì bài toán kinh tế bô xit chỉ có lỗ và lỗ chưa kể các mặt tác hại về môi trường và văn hóa xã hội.
Cái gốc cuối cùng vẫn phải là dân chủ hóa xã hội để mỗi quyết định quan trọng của đất nước được đưa ra đều phải có chất lượng dựa trên một quy trình khoa học, chuẩn mực. Việc cần nhất để danh chính ngôn thuận thì phải thành lập BAN hội đông gồm các nhà khoa học độc lập, có uy tín cao đánh giá toàn diện dự án làm tham mưu cho Đảng và Nhà nước ra quyết định cuối cùng.
Vấn đề thứ hai, liên quan đến dự án cảng tỷ đô Lạch Huyện. Tôi là thành viên trong Hội đồng thẩm định nhà nước về báo cáo đánh giá tác động môi trường ĐTM của dự án này. Có thể nói chưa có Hội đồng nào phải họp nhiều lần như thế và cũng chịu sức ép như thế! Mặc dù kết quả bỏ phiếu cuối cùng có 3 phiếu không thông qua (trong đó có tôi) nhưng các phiếu còn lại chỉ đồng ý thông qua với điều kiện phải sửa 20 điểm theo góp ý của Hội đồng. Buổi họp mới đây nhất, tôi vắng mặt vì đang đi công tác ở Nhật Bản, được biết rất nhiều điểm góp ý của Hội đồng lần trước vẫn chưa được chủ đầu tư là Bộ giao thông vận tài và tư vấn JICA Nhật Bản giải đáp thế nhưng người ta vẫn đá “quả bóng” lên lãnh đạo Bộ Tài nguyên môi trường để xem xét, quyết định. Xin lưu ý Anh là vấn đề xin chủ trương đồng ý đầu tư của Quốc hội theo quy định của Nhà nước, Bộ giao thông vẫn tìm cách “lách luật”. Ngay cả phát biểu của đại diện Bộ Văn hóa và công văn trả lời chính thức của Bộ Văn hóa cũng không hề khẳng định đồng ý với dự án cảng Lạch Huyện!???
Trí tuệ, tầm nhìn, và cách hành xử của hai ông Bộ trưởng giao thông Đinh La Thăng và Bộ Tài nguyên môi trường Nguyễn Minh Quang, tôi chưa muốn bàn luận ở đây nhưng xin nói rõ nếu họ “cố đám ăn xôi”, và mượn danh theo chỉ đạo của Chính phủ (có thể kể cả Anh Hoàng Trung Hải) để phê duyệt báo cáo ĐTM của dự án thì dù là chỗ quen biết Anh, tôi vẫn phải gọi đúng tên là tội đồ của đất nước.
Tôi đang phải dành thời gian tham gia viết cuốn sách liên quan đến tài nguyên nước và môi trường với APU (Nhật Bản) và viết góp ý cho một số báo cáo nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước dạng tiềm năng thuộc chương trình KC08/11-15 của Bộ KHCN. Tuy bận, nhưng trong một ngày gần đây, tôi sẽ tiếp tục chỉ rõ các “lỗ hồng” không thể sửa chữa của bài toán khuếch tán và lan truyền bùn cát của việc nạo vét 40 triệu mét khối ở cảng Lạch Huyện do JICA thực hiện để rộng đường công luận.
Thời gian không chờ đợi ai. Chúng ta, bất cứ ai sinh ra dù quyền lực, tiền bạc đến đâu rồi cũng về với cát bụi. Thời đại thông tin ngày nay không phải chờ đến khi lâm trung hay về cõi vình hằng mới được lịch sử phán xét. Xin mượn lời Alexandre Đại Đế để kết luận cho bức thư này: ” Ta muốn chính các bác sĩ giỏi nhất khiêng quan tài của ta để chứng tỏ rằng, đối diện với cái chết, chính họ cũng không có quyền năng chữa lành bệnh. Ta muốn mặt đất được phủ đầy kho báu của ta để mọi người hiểu được rằng những tài sản vật chất thu gom được tại đây sẽ ở lại trên mặt đất này. Ta muốn hai bàn tay ta được thò ra ngoài quan tài và đong đưa theo gió để cho dân chúng thấy rằng chúng ta đến cõi đời này với hai bàn tay trắng, và chúng ta sẽ ra đi cũng với hai bàn tay trắng khi chúng ta đã xài hết kho tàng quý giá nhất của mỗi chúng ta là thời gian!”
Chúc Anh luôn mạnh khỏe, mọi sự tốt lành
Kính
Tô Văn Trường
Theo NLG








Chuyện mẹ con GS Ngô Bảo Châu và việc “uốn lưỡi” của ĐB Phước
Bùi Hải
PGS.TS Trần Lưu Vân Hiền – thân mẫu của GS. Ngô Bảo Châu
Tôi đã không định viết tiếp về ông nghị Phước, nhưng khi đọc thêm được những phát biểu “kinh thiên động địa” của ông, tôi lại không dừng được.
Năm 2012, trong lễ khai trương Lớp học Nhân ái, một lớp học dành cho trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo, có một chi tiết rất nhỏ nhưng đã khiến PGS. TS Trần Lưu Vân Hiền (thân mẫu của GS Ngô Bảo Châu) lo sợ. Đó là khi người dẫn chương trình dùng từ “công chúa” để nói về 3 cô con gái của GS Châu, cũng đang có mặt để trao quà từ thiện.
Ngay lập tức, PGS Hiền lên diễn đàn với vẻ mặt lo lắng. Bà nói: “Xin các anh chị nhà báo đừng dùng từ “công chúa” với các cháu. Dù là con ai, các cháu cũng là những người hết sức bình thường, làm việc thiện cũng là những công việc hết sức bình thường trong xã hội. Các cháu không bao giờ là những công chúa quyền quý, được nuông chiều…”
Trước đó, năm 2010, một ngày sau khi GS Châu lên bục nhận giải toán học Fields danh giá, từ Việt Nam, tôi gửi email tới GS Châu một đề án thành lập Quỹ bồi dưỡng nhân tài Ngô Bảo Châu. GS Châu đồng ý.
Trong hội nghị trù bị thành lập Quỹ diễn ra sau đó chục ngày, gần như tất cả các nhà khoa học, GS hàng đầu Việt Nam đều quyết liệt bảo lưu ý kiến: Trong tên Quỹ nhất thiết phải có chữ “Ngô Bảo Châu”, thì mới trực tiếp cổ vũ, động viên được tinh thần khát khao vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao của người Việt trẻ. Quan trọng hơn nữa, chữ “Ngô Bảo Châu” trong tên Quỹ, sẽ là sự đảm bảo để thu được số kinh phí khổng lồ cho việc ươm mầm tài năng. Phương án tối ưu sẽ là “Quỹ khuyến học Ngô Bảo Châu”.
Thế nhưng, bằng thái độ lịch duyệt và cương quyết đến sắt đá, GS Châu đã nói không. Và cái tên quỹ “Vì tinh thành hiếu học” ra đời. Sau hội nghị, khi chỉ còn vài người, GS Châu nhẹ nhàng: “Quỹ là vì các em học sinh chứ không phải để tôn vinh, ghi nhớ một ai đó”. Về sau, một lần nữa, Quỹ được đổi tên thành “Hạt vừng”. Những hạt vừng nhỏ bé, bình dị có thể mở ra những kho báu ngỡ ngàng.
Là con một bà mẹ, một ông bố cẩn trọng, chín chắn trong từng suy nghĩ như thế (thân phụ GS Châu cũng là người điềm đạm, khiêm nhường) thì rất ít khi con cái có thể hấp tấp vội vàng. GS Châu vốn kiệm lời, nhưng mỗi lời nói của ông đều ẩn chứa nhiều thành công lực, thậm có những phát biểu khiến người ta phải kinh ngạc – điều không thường thấy ở những nhà khoa học siêu phàm về toán.

ĐB QH Hoàng Hữu Phước
Quay trở lại chuyện ông nghị Hoàng Hữu Phước. Trong 500 đại biểu quốc hội, hẳn phải có người điềm đạm, người trực ngôn. Phàm những ai càng nói nhiều, càng nói thẳng, thì càng không tránh khỏi những sơ suất ngôn từ.
Ông Phước không thuộc tuýp người biết phải uốn lưỡi 7 lần trước khi nói, vì vậy, ông có thể gặp sơ xuất về ngôn từ. Nhưng nếu ông Phước chỉ lỗ mãng, lệch lạc trong ngôn từ, thì dư luận cũng không phẫn nộ đến dường ấy.
Cái phạm nặng nhất của ông Phước là lỗ mãng, lệch lạc trong tư duy.
Một năm trước, trên diễn đàn quốc hội, ông kịch liệt chống việc ban hành Luật biểu tình với lập luận rằng: Biểu tình từ trước đến nay luôn luôn là chống chính phủ.
Vì chỉ nhìn lệch lạc, lỗ mãng ở góc độ chống phá và góc độ nhà cầm quyền, nên ông không hiểu được, về sâu xa, biểu tình là cách mà số đông nhân dân bày tỏ sự ủng hộ hoặc phản ứng của mình trước những vấn đề thời sự của cuộc sống, một cách để phản biện xã hội – điều mà tất cả xã hội dân chủ đều mong muốn để thúc đẩy sự phát triển.
Sự lệch lạc, lỗ mãng trong tư duy của ông Phước còn thể hiện rất rõ ở việc coi việc chính luận về những vấn đề rất lớn của đất nước: Mại dâm, biểu tình, tư cách, trình độ của một đại biểu được lòng dân là ông Quốc, như một “thùng nước đá để ngoài đường, ai muốn xem thì xem”.
Sự lệch lạc, lỗ mãng trong tư duy xuất hiện cả trong cách hành xử của ông. Cử tri chất vấn tại sao ông lại chê dân trí thấp đến nỗi không nên ban luật biểu tình, ông Phước đã đem mẹ ruột của mình ra làm ví dụ: “Mẹ của tôi cũng như nhiều người dân không đủ trình độ, không đủ hiểu biết để thực hiện quyền biểu tình”.
Phần trả lời ấy khiến cho những cử tri có “dân trí thấp nhất” cũng thấy ông Phước “vừa nói không đúng vừa không giữ được đạo hiếu với người sinh ra mình”.
Sự lệch lạc này được ông Phước đẩy cao hơn trong những màn đánh giá “đặc sắc” về chính bản thân mình. Phát biểu trên một kênh truyền hình hải ngoại, ông Phước hết sức tự tin: “Tôi nói với anh một cách chắc như đinh đóng cột là một khi tôi đã tranh luận một điều gì về ngữ nguyên thì không bao giờ trên đời này có ai có thể nói lại với tôi cả”;
“Đọc cách hành văn của tôi, một vị Phó giám đốc Manulife Canada mà tôi từng làm giám đốc nhân sự ở đó nói rằng: Cả khu vực Bắc Mỹ- Canada không người Việt nào được như tôi. Nếu ai hỏi ổng cái gì thì ổng nói cứ gặp Mr. Phước hỏi”.
Đọc đến những dòng này, hẳn quý vị đã giải mã được phần nào mục đích tối cao của bài viết tứ đại ngu tấn công ông Dương Trung Quốc.
Với những ngôn từ hoa mỹ, những tầm chương trích cú, viện dẫn cổ kim tây dày đặc, Lăng Tần Hoàng Hữu Phước muốn nhiều triệu người biết đến mình như một “ngôi sao Hollywood trên nghị trường”, một nhân vật có một không hai, không chỉ riêng khu vực Bắc Mỹ- Canada mà còn ở cả Việt Nam, một người đã nói điều gì thì trên đời này không một ai bắt bẻ được chứ nói gì đến một ông cử nhân như Dương Trung Quốc. Ông Phước đã mượn mũ ĐẠI BIỂU để thỏa mãn cái CÁ NHÂN của mình.
Tướng Nguyễn Quốc Thước, một vị đại biểu nảy lửa trên nghị trường tâm sự rằng: “Nhiều lúc tớ phát biểu gay gắt lắm kể cả với các vị lãnh đạo cấp cao, nhưng tại sao tớ không bị phản ứng? Vì đơn giản là tất cả những ý kiến ấy đều đứng về phía mất mát, đau khổ, bức xúc của người dân. Cá nhân chủ nghĩa là chết”.
Chiếc áo không làm nên thầy tu. Khi làm việc và hành xử, mẹ con GS Ngô Bảo Châu cũng như tướng Thước không xuất phát từ cái danh hão của mình, của con cháu mình.
Sự nghiêm cẩn trong tư duy của PGS Hiền đã góp nhiều viên gạch xây nên tính cách một nhà khoa học lớn như Ngô Bảo Châu. Sự nghiêm cẩn trong tư duy và hành động của Ngô Bảo Châu đã góp những viên gạch cho thành công của Bổ đề cơ bản.
Muốn trở thành một đại biểu lớn, ông nghị Phước phải bắt đầu từ việc biết uốn lưỡi trước khi nói để có tư duy nghiêm cẩn, chứ không phải bằng những danh xưng “kinh ngạc” dài dằng dặc gắn trước cái tên cách đây ít lâu vẫn còn rất xa lạ của ông: Nhất thạc bàn cờ, Lăng tần Hoàng Hữu Phước, Nhà Việt Nam Cộng hoà học, nhà Khổng Tử học, nhà tiếng Anh học, nhà thánh kinh học…
Theo báo GDVN








Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
