Nguyễn Quang Lập's Blog, page 54

March 27, 2013

Quê Choa thứ năm ngày 28/03/2013

Cập nhật liên tục trong ngày


xo420uku.e3v.png Ai sai phạm trong vụ án Đoàn Văn Vươn?


Vụ việc UBND huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng tiến hành cưỡng chế trái pháp luật để thu hồi đất của gia đình ông Đoàn Văn Vươn đã dẫn đến việc gia đình ông tự chế mìn và trang bị súng bắn đạn hoa cải để tự vệ. Điều này cho thấy những người dân vốn hiền lành quanh năm lao động bán mặt cho đất, bán lưng cho trời để kiếm sống, nay khi họ bị chính quyền ức hiếp, đối xử bất công nhằm tước đoạt mồ hôi, nước mắt, vốn liếng của họ đã bỏ ra biết bao năm trời.


image +Giảm lãi suất để cứu ai?


Nhìn lại toàn bộ biến động giảm lãi suất huy động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam từ đầu năm 2012 đến nay, có thể thấy rõ sự bất nhất đầy ẩn ý của một nền kinh tế thị trường còn trong thai kỳ đầu tiên, một thai kỳ dường như được phóng to bởi “Chủ nghĩa tư bản man dã” – theo một ý niệm của giáo hoàng quá cố Jean Paul II.


Bức tranh kinh tế Việt Nam, với một độ trơ u tối cố hữu và giáo điều, đã mặc nhiên toát lên nét chấm phá “Không” với bất kỳ động thái giảm lãi suất nào


DUONGSAT+ĐƯỜNG SẮT – DỰ ÁN “TO PHE” VÀ RẤT NHIÊU KHÊ


Sau bài “Khi lãnh đạo biết sửa sai” của tôi đăng trên ‘VNN-Tuan VN’ tiếp tục đăng bài “Bộ trưởng Thăng và chiếc áo đường sắt” của Trần Đình Bá. Cả 2 bài báo nói trên được nhiều người quan tâm vì khơi dạy hào khí phản biện năm xưa về dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam “vang bóng một thời” với những câu “chém gió trớt quớt” để đời của số vị lãnh đạo cấp cao và “ông Nghị” trên diễn đàn Quốc hội!


6C78D2B8-D6F9-4FD3-B5AE-EB5F5B86CFB2_w640_r1_s_cx0_cy5_cw0 +Gia đình Đoàn Văn Vươn tin sẽ thắng kiện nếu công lý được tôn trọng


Chúng tôi cũng đã có nhiều đơn khiếu nại. Ngay cáo trạng của họ, chúng tôi cũng đã kịch liệt phản đối vì tất cả sự thật chưa được phơi bày ra. Cáo trạng đấy vẫn để sót người, lọt tội. Cáo trạng vụ án “hủy hoại tài sản” nói công an đã điều tra xác minh được 19 đối tượng đập, đốt, phá nhà chúng tôi và 2 người lái máy xúc. Vậy mà họ không bị truy tố. Chỉ có 4 người bên chính quyền bị truy tố. Với 4 người này họ không thể trực tiếp phá nổi nhà của gia đình tôi.


Hiến pháp bút +ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM KHÔNG CÓ QUYỀN PHÊ PHÁN CÁC KIẾN NGHỊ, TUYÊN BỐ CỦA DÂN CHÚNG VỀ HIẾN PHÁP MỚI CỦA VIỆT NAM


Đảng Cộng sản không có bất kỳ quyền hạn gì để phê phán, hăm dọa hay khủng bố người dân khi họ nói lên suy nghỉ và đưa các đề nghi, kiến nghị, tuyên bố về bản dự thảo Hiến pháp mới 2013. Về phương diện chính danh, đảng Cộng sản Việt Nam chỉ có quyền hạn tương tự và bình đẳng như bất kỳ cá nhân hay các tổ chức xã hội khác tại trong và ngoài nước.


303977_450 +Giặc Tàu đã nổ súng, đảng và nhà nước lo đến đâu?


Nhìn lại lịch sử của đất nước ta, mỗi khi giặc Tàu tràn xuống phương nam xâm lược thì cũng là lúc dân ta phải bắt đầu một thời kì nô lệ lâu dài. Lần này, động thái xâm lược đã rõ ràng. Chúng đã nổ súng vào tàu cá của ngư dân ta trên biển…


Trước tình hình đó, đảng cộng sản và nhà nước của ta đã làm những gì


55b5770a16504bcba0ecce53ccccf5f4-co-chay-xem +Tội ác của tàu tuần tra Trung Quốc tại Hoàng Sa


Tàu QNg 96382 TS do anh Bùi Văn Phải ở huyện đảo Lý Sơn làm thuyền trưởng. Tàu đã bị Trung Quốc đuổi bắn tại Hoàng Sa gây cháy tàu. Những hình ảnh này cho thấy tội ác của lính Trung Quốc với ngư dân Việt Nam. Cờ đỏ sao vàng trên nóc ca bin bị cháy sém. Nhưng tại sao ngọn lửa lại táp từ trên xuống khiến lá cờ cong queo? Rất có thể Trung Quốc cố bắn hạ lá cờ nhưng không được.


bienphong30 +Biên phòng Đà Nẵng lật tẩy thủ đoạn mới của TQ xâm phạm chủ quyền biển, đảo


Đại tá Nguyễn Quốc Bình: “Tàu ngư chính Trung Quốc buộc ngư dân Đà Nẵng điểm chỉ vào tờ giấy trắng nhưng không ghi nội dung, sau đó quay phim, chụp ảnh rồi thả về. Có thể đây là thủ đoạn mới của phía Trung Quốc nhằm tạo chứng cứ giả để đấu tranh với ta. Bộ chỉ huy BĐBP Đà Nẵng đã phối hợp với Sở NN-PTNT báo cáo, tham mưu với Bộ Tư lệnh BĐBP, Bộ NN-PTNT và UBND TP Đà Nẵng để theo dõi, chỉ đạo và đề nghị phản ảnh đấu tranh ngoại giao”.


Hiến pháp bút +Không phải thay đổi là rối loạn xã hội


Tướng Tô Lâm đã lập luận nếu “đặt vấn đề Hiến pháp mới quy định phi chính trị hóa lực lượng vũ trang” thì sẽ mắc phải “các âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng việc góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nhằm tiến hành các hoạt động chống phá cách mạng, gây bất ổn định chính trị, xã hội của đất nước”. Tôi xin phản biện ý của Tướng Lâm chung quanh vấn đề “thay đổi”.


nguyenquochieu +Thêm một trò bịa đặt, dối trá trắng trợn của Đài Truyền hình Việt Nam


Thực tế, ở Giáo phận Bắc Ninh không hề có một linh mục nào là Nguyễn Quốc Hiếu, lại càng không bao giờ có một linh mục nào tham gia tổ chức mạo danh để đánh phá Giáo hội Công giáo là “Ủy Ban đoàn kết Công giáo”. Người được đưa lên truyền hình để mạo danh Linh mục, đó là một người nằm trong cái Ủy Ban này của Đảng Cộng sản. Ông này, thậm chí khi họp UBĐK còn không được bầu lên, mà là trò “suy cử” để tái giữ chức Chủ tịch UBĐKCG Bắc Ninh.


 


bi-thu-da-nang-1-300x200 +Ai sẽ là Bí thư Đà Nẵng?


Ông Trần Thọ, Phó Bí thư thường trực đang được phân công phụ trách, nhưng chiếc ghế Bí thư sẽ không bao giờ đến được tay ông. Ngày 1 tháng 4 tới, HĐND Đà Nẵng sẽ họp phiên bất thường để bầu Trần Thọ ngồi ghế Chủ tịch HĐND thay ông Thanh. Trần Thọ sẽ vẫn chỉ là Phó Bí thư kiêm thêm chức Chủ tịch HĐND cho đến hưu.


 Không hiểu sao việc bổ nhiệm Bí thư Đà Nẵng lâu đến thế?


liem +Cú bắt tay


Hôm qua, một tấm hình đại kiện tướng cờ vua Lê Quang Liêm sau khi giành ngôi vô địch bắt tay người bị thủ hòa, đã gây tranh luận trên mạng. Bức ảnh mô tả Liêm, trong tư thế ngồi, mặt lạnh như băng, có vẻ bị động đưa tay ra bắt. Trong khi đối thủ của anh Siêu đại kiện tướng quốc tế Berkes, mỉm cười chân thành, chủ động ở tư thế đứng bắt tay anh.


Thật khó chấp nhận người chiến thắng “ngồi bắt tay”. Hình thức bên ngoài không phải là tất cả, nhưng nó phản ánh cái văn hóa, và cả tư thế nữa, ở bên trong.


263374_471063219597266_1969111541_n+Bài 12: Ông Đinh Đức Lập có nhiều sai phạm trong vụ hợp tác làm ăn khai thác tòa nhà 66 Bà Triệu, Hà Nội (trụ sở chính của báo Đại Đoàn Kết) như thế nào?


Tòa biệt thự được xây cất từ thời Thực dân Pháp hiện đang là trụ sở chính của báo Đại Đoàn Kết tọa lạc tại số 66 Bà Triệu, phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Toàn bộ khu đất này có diện tích 588 m2, chiếm giữ hai mặt tiền Bà Triệu và Ngô Văn Sở thuộc vào khu trung tâm thương mại sầm uất hàng đầu của thủ đô Hà Nội.


Nha-ong-Vuon-1+ Hai bài viết quan trọng của TS Hoàng Xuân Phú: Một số khía cạnh hình sự của vụ án Tiên Lãng – Hải PhòngNHÂN VỤ TIÊN LÃNG, BÀN VỀ CÔNG VỤ


Tiếng nổ ở Tiên Lãng ngày 5/1/2012 đã làm chấn động bốn phương, quá đủ để thức tỉnh những ai còn có thể thức tỉnh. Nó buộc những người có lương tri phải suy nghĩ, để trả lời câu hỏi: Vì sao lại có kết cục bi thảm như vậy? Sẽ còn bi thảm hơn nếu những người cầm quyền không rút ra bài học hợp lý để xử lý đúng vụ này.


Hai tiếng “công vụ” cứ lặp lại, vang lên như tiếng chuông dồn dập trong buổi chiều tà, khi cái ác hoành hành, nhân danh công vụ để ức hiếp dân lành, khiến tâm hồn bất an, lương tri bứt rứt. Vì vậy tôi phải gạt bao việc cần kíp sang một bên để viết bài này.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 27, 2013 16:37

Truy tố ông Đoàn Văn Vươn: Bất ổn trong căn cứ pháp lý

Nguyễn Trang Nhung-DL

vnm_2012_429430Tháng Tư tới đây, ông Đoàn Văn Vươn, nhân vật trung tâm trong vụ án cưỡng chế đất tại Tiên Lãng, Hải Phòng sẽ bị đưa ra xét xử về tội giết người, cụ thể là giết người thi hành công vụ, theo điểm d, khoản 1, Điều 93 Bộ luật Hình sự [1].


Đã có nhiều tranh cãi về căn cứ pháp lý này. Câu hỏi được đặt ra ở đây là liệu có thỏa đáng hay không khi căn cứ này bất ổn ngay từ tiền đề ‘người thi hành công vụ’?


Bất ổn thứ nhất: Không đúng ‘người’

Bộ luật Hình sự hiện hành (1999) cùng các văn bản hướng dẫn của nó, cũng như các văn bản quy phạm pháp luật về hành chính không giải thích thế nào là ‘người thi hành công vụ’. Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29.11.1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự 1985: “Người thi hành công vụ là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và cũng có thể là những công dân được huy động làm nhiệm vụ (như tuần tra, canh gác…) theo kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung của Nhà nước, của xã hội“. [2]


Qua định nghĩa trên, có thể xác định ‘người thi hành công vụ’, tức lực lượng cưỡng chế trong vụ cưỡng chế ở Tiên Lãng, chủ yếu là ‘những công dân được huy động làm nhiệm vụ theo kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền’, bên cạnh một số ít ‘người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước’.


Khi vụ cưỡng chế xảy ra vào ngày 5/1/2012, trong lực lượng cưỡng chế hơn 100 người có cả bộ đội. Điều này làm dấy lên một băn khoăn là liệu sự tham gia của bộ đội có phù hợp với tính chất vụ việc, vốn là một vụ cưỡng chế hành chính thông thường?


Về nguyên tắc, bộ đội không được phép trực tiếp tham gia các vụ việc không thuộc chức năng và nhiệm vụ của mình. Sự tham gia của bộ đội trong những trường hợp như vậy chỉ được phép khi diễn biến của vụ việc nằm ngoài khả năng kiểm soát của công an và các lực lượng vũ trang khác. Trong vụ án Đoàn Văn Vươn, bộ đội xuất hiện trong lực lượng cưỡng chế ngay từ đầu, tức là khi chưa có gì xảy ra để cho thấy diễn biến của vụ việc nằm ngoài khả năng kiểm soát của công an và các lực lượng vũ trang khác cả.


Nói về sự xuất hiện của bộ đội trong lực lượng cưỡng chế, Đại tướng Lê Đức Anh – Nguyên Chủ tịch nước, Nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng khẳng định “sử dụng bộ đội để cưỡng chế với dân là tuyệt đối sai” [3]. Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, nguyên Tư lệnh Quân khu IV, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Cựu chiến binh VN, cũng có khẳng định tương đồng, rằng “người đưa bộ đội ra trong trường hợp này để gây hậu quả cho dân là phi pháp“. [4]


Bất ổn thứ hai: Không đúng ‘công vụ’

Các văn bản quy phạm pháp luật về hành chính không đưa ra khái niệm thế nào là công vụ. Dựa vào khái niệm ‘người thi hành công vụ’ đã nói đến ở trên và các tài liệu về chế độ công vụ, có thể định nghĩa công vụ là “hoạt động mang tính quyền lực nhà nước do cán bộ, công chức, hoặc các công dân được huy động bởi người có thẩm quyền, tiến hành theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phục vụ lợi ích nhà nước, nhân dân và xã hội.” [5] Từ định nghĩa này, có thể thấy hai đặc điểm của công vụ là ‘theo quy định của pháp luật’ và ‘phục vụ lợi ích nhà nước, nhân dân và xã hội’. Hai đặc điểm này cũng phù hợp với hai trong số các nguyên tắc của công vụ mà bài viết này sẽ nói đến.


Trong vụ cưỡng chế ở Tiên Lãng, đất bị cưỡng chế được xác định là loại đất nuôi trồng thủy sản, thuộc nhóm đất nông nghiệp. Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường Đặng Hùng Võ đã nêu rõ điều này khi trả lời báo chí. [6] Ông cũng chỉ ra rằng không có trường hợp thu hồi đất nông nghiệp khi hết thời hạn, vì theo quy định tại Nghị định 181 năm 2004 của Chính phủ về thi hành luật đất đai, việc thu hồi đất nông nghiệp chỉ được thực hiện trong 5 trường hợp: “(1) Nhà nước thu hồi để thực hiện các dự án đầu tư theo quy hoạch (thực hiện theo quy định tại Nghị định 69/2009/NĐ-CP); (2) Thu hồi khi không có người thừa kế; (3) Thu hồi khi người sử dụng đất tự nguyện trả lại; (4) Người sử dụng đất có hành vi hủy hoại đất; (5) Người sử dụng đất không đưa đất vào sử dụng ngay sau từ 12 cho tới 24 tháng tùy theo từng loại đất.” Từ đó ông khẳng định: “Việc thu hồi đất ở Tiên Lãng chắc chắn là sai pháp luật”. [7]


Điều này đã được khẳng định hơn nữa bởi thủ tướng chính phủ qua kết luận trong cuộc họp với nhiều cơ quan vào ngày 10/2/2012 về vụ cưỡng chế, rằng quyết định thu hồi đất không đúng với pháp luật. [8]


Như vậy có thể thấy rằng, ‘công vụ’ ở đây là ‘công vụ’ sai pháp luật, mà đã sai pháp luật thì việc truy tố một người chống hay giết người thi hành ‘công vụ’ là bất ổn, bởi ‘công vụ’ sai pháp luật là một phần nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật của người này, và khiến cho hành vi vi phạm pháp luật của người này trở nên có lý. Trong vụ án Đoàn Văn Vươn, mặc dù không thể biện minh cho hành vi vi phạm pháp luật mà ông Vươn đã thực hiện, nhưng cũng không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm pháp luật của ông mà không xét đến mối quan hệ nhân quả giữa ‘công vụ’ sai pháp luật và hành vi vi phạm pháp luật. Bởi ‘công vụ’ sai pháp luật đã khiến ông trở thành nạn nhân, và từ chỗ là nạn nhân, khi bị dồn đến đường cùng, ông trở thành người phạm tội.


Pháp luật Việt Nam không quy định liệu có thể truy tố một người chống hoặc giết người thi hành công vụ khi ‘công vụ‘ sai pháp luật hay không, nên về mặt hình thức, căn cứ truy tố một người theo các tội danh này không phụ thuộc vào tính hợp pháp của công vụ. Tuy nhiên, về mặt bản chất, ‘công vụ’ sai pháp luật khó có thể được xem là công vụ theo định nghĩa đã nêu. Hơn nữa, xét từ căn cứ pháp lý, công vụ phải đảm bảo các nguyên tắc của nó được quy định tại các khoản 1 và 2, Điều 3 của Luật Cán bộ Công chức 2008, mà hai trong số các nguyên tắc đó là “tuân thủ Hiến pháp và pháp luật” và “bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”. [9] Ở đây, trong vụ án Đoàn Văn Vươn, ‘công vụ’ đã vi phạm cả hai nguyên tắc này, vì sai pháp luật, và do đó, làm tổn hại tới lợi ích của nhà nước (chưa kể đồng thời làm tổn hại tới quyền, lợi ích hợp pháp của công dân). [10]


Bất ổn hệ thống: Bất chấp lý luận

Như trên đã phân tích, căn cứ truy tố ông Đoàn Văn Vươn về tội giết người theo điểm d, khoản 1, Điều 93 BLHS là bất ổn ngay trong tiền đề của nó, ở ‘người’ lẫn ở ‘công vụ’. Nếu bất ổn thứ nhất có thể bỏ qua (trong chừng mực nào đó), thì bất ổn thứ hai nhất thiết là không thể chấp nhận. Một khi ‘công vụ’ là sai pháp luật thì việc truy tố một người chống hay giết ‘người thi hành công vụ’ là hết sức bất hợp lý. Dùng căn cứ truy tố như vậy là áp dụng pháp luật một cách hời hợt, nông cạn, thô thiển, và bất chấp lý luận về các nguyên tắc của công vụ, trong đó có nguyên tắc về tính hợp pháp – một nguyên tắc cần được xem như một đòi hỏi đương nhiên khi truy tố các tội danh liên quan đến ‘người thi hành công vụ’.


Cũng bởi bất chấp lý luận như vậy nên chính quyền rất dễ có xu hướng sử dụng ‘người’ tùy tiện vào các ‘công vụ’ tùy tiện.


Cũng bởi bất chấp lý luận như vậy nên khó tránh khỏi làm nảy sinh những mầm mống chống hoặc giết ‘người thi hành công vụ’ như trong vụ án Đoàn Văn Vươn.


Cũng bởi bất chấp lý luận như vậy nên cả hệ thống pháp luật trở nên bất ổn, vì chính quyền tùy nghi trong việc diễn giải pháp luật và áp dụng pháp luật để lấn áp kẻ yếu thế.


Nếu chính quyền huyện Tiên Lãng còn biết xấu hổ thì cần thành thật nhận lỗi về các sai phạm trong vụ cưỡng chế, về ‘người’ lẫn về ‘công vụ’!


Nếu cơ quan truy tố còn biết lẽ phải thì cần thay ngay lập tức căn cứ truy tố này bằng một căn cứ truy tố khác chí ít là dễ chấp nhận hơn (chứ chưa nói đến công bằng)!


Nếu cơ quan xét xử vụ án (tòa án nhân dân TP. Hải Phòng), còn biết công lý thì cần xét xử vụ án một cách công tâm nhất có thể, thay vì chịu sự chi phối của cá nhân hay cơ quan nào!


Vụ án Đoàn Văn Vươn cho thấy rõ một số lỗ hổng của pháp luật, mà ở đây là các quy định liên quan đến công vụ, làm cơ sở cho sự lạm dụng của các cơ quan nhà nước, dẫn đến những thực trạng bất cập trong việc thực hiện pháp luật tại Việt Nam. Thực trạng này đặt cơ quan lập pháp trước đòi hỏi phải xem xét và sửa chữa những lỗ hổng của pháp luật, sao cho cải thiện được tính công bằng, tính khách quan và hướng đến công lý.


27/03/2013

Nguyễn Trang Nhung

Sinh viên Luật, ĐH Luật TP. HCM


……………………………………………….


[1] Xem Điều 93 về tội giết người

http://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=6163


[2] Tìm Nghị quyết trên website của tòa án nhân dân tối cao, với số hiệu văn bản là 04/HĐTP:

http://law.toaan.gov.vn:8088/SPCDOC/docFastSearchSubmit.do


[3] Đại tướng Lê Đức Anh: “Sử dụng bộ đội để cưỡng chế là tuyệt đối sai”

http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Dai-tuong-Le-Duc-Anh-Su-dung-bo-doi-de-cuong-che-la-tuyet-doi-sai/107323.gd


[4] Vụ cưỡng chế: Đã sai luật còn bao biện

http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/59258/vu-cuong-che–da-sai-luat-con-bao-bien.html


[5] Tham khảo khái niệm công vụ từ tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch chuyên viên cao cấp khối đảng, đoàn thể năm 2011:

http://www.xaydungdang.org.vn/Uploads/admins/Tailieu/5-Chuyen%20de%20Cong%20chuc%20-%20Cong%20vu%20CVC%202012.pdf


[6][7] như [4]


[8] Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng kết luận về vụ việc cưỡng chế thu hồi đất tại Tiên Lãng

http://baodientu.chinhphu.vn/Home/Thu-tuong-Chinh-phu-Nguyen-Tan-Dung-ket-luan-ve-vu-viec-cuong-che-thu-hoi-dat-tai-Tien-Lang/20122/128380.vgp


Trích: “Do quyết định thu hồi đất không đúng với quy định của pháp luật đất đai nên Quyết định cưỡng chế thu hồi đất cũng không đúng pháp luật. Mặt khác, việc tổ chức cưỡng chế thu hồi đất của UBND huyện Tiên Lãng cũng có nhiều thiếu sót, sai phạm.”


[9] Luật Cán bộ Công chức 2008:

http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&mode=detail&document_id=81139


[10] Cần đặt vấn đề thêm rằng, một khi ‘công vụ’ là sai pháp luật thì liệu nó còn có thể được gọi là công vụ nữa hay không?




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 27, 2013 05:19

Dõi theo nợ xấu

Nguyễn Vạn Phú- Blog NVP


bad-debt-1363577237755Từ khi Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam cho biết tại cuộc họp báo Chính phủ vào cuối tháng 2 rằng Ngân hàng Nhà nước báo cáo nợ xấu đã giảm từ 8,6% xuống còn 6%, Thời báo Kinh tế Sài Gòn liên tục có những bài viết nhằm làm sáng tỏ vấn đề này.


Đầu tiên là bài “Nợ xấu đã giảm 80.000 tỷ đồng, liệu có đúng?” của Hồ Bá Tình trên số báo ra ngày 7-3. Tác giả đã cất công đọc báo cáo tài chính của bảy ngân hàng đang niêm yết trên thị trường chứng khoán, thêm BIDV sắp niêm yết nữa là tám để kết luận nợ xấu của các ngân hàng này, chiếm hơn 50% tổng dư nợ của nền kinh tế, đang tăng chứ không giảm.
Sau đó, trên số báo ra ngày 14-3, Hồ Bá Tình tiếp tục có bài “Tăng trích lập dự phòng đột biết, vì sao?” cho biết vốn tự có của hệ thống ngân hàng giảm 3,79%, tương đương với giảm 15.487 tỷ đồng. Vốn tự nhiên giảm như thế chỉ có thể lý giải vì ngân hàng tăng trích lập dự phòng rủi ro nợ xấu (trích hết lãi thì phải ăn vào vốn). Tính toán của bài báo cho thấy nợ xấu tháng 1 có thể tăng đến 33.000 tỷ đồng.
Cũng trên số báo này có bài “Tin mừng: sáng mở mắt thấy nợ xấu giảm?” của Vũ Quang Việt. Tác giả lập luận việc giảm nợ xấu là khó lòng xảy ra vì tình hình thực tế không cho thấy doanh nghiệp làm ăn khá lên nên trả được nợ xấu, Nhà nước cũng chưa mua lại nợ xấu hay ngân hàng tự xóa nợ xấu cho doanh nghiệp.
Quan trọng hơn anh Vũ Quang Việt nhấn mạnh dự phòng rủi ro (là con số âm) chính là sự phản ánh mức độ nợ xấu – cho nên dự phòng rủi ro tăng thì nợ xấu tăng chứ không phải giảm. Bài báo đặt vấn đề, có chăng chuyện giảm nợ xấu là do đảo nợ – một thủ thuật kế toán không được chấp nhận ở nhiều nước?
Đến số báo ra ngày 21-3, Huỳnh Thế Du có bài “Bung xung nợ xấu” dùng tài liệu của chính NHNN để khẳng định nợ xấu dù có được xử lý bằng dự phòng rủi ro và đưa ra ngoại bảng vẫn là nợ xấu. Từ đó tác giả yêu cầu NHNN giải thích rõ ràng hơn về chuyện nợ xấu giảm.

Và tuần này TBKTSG có bài “Sự thật nợ xấu giảm” của Hải Lý, cho biết nợ xấu giảm là do… cơ cấu lại nợ. Bài báo viết: “Nợ được phân thành năm nhóm và từ nhóm ba đến nhóm năm mới bị coi là nợ xấu. Nhờ tái cơ cấu, thí dụ nợ nhóm ba được đẩy lên nhóm một, nhóm bốn đẩy lên nhóm hai… nên nợ xấu giảm rõ rệt”. Con số nợ được “cơ cấu lại” theo kiểu này, mà thực chất là đảo nợ, lên đến 260.000 tỷ đồng!
Từ đó có thể  suy ra con số nợ xấu thật của Việt Nam. “Đã cơ cấu rồi mà nó vẫn còn 6%. Lấy tổng dư nợ của toàn hệ thống cuối năm ngoái là 2,984 triệu tỉ đồng, thì 6% còn lại tương đương 179.000 tỉ đồng. Cộng với 260.000 tỉ đồng, trong trường hợp không cơ cấu lại, nợ xấu nhảy vọt 439.000 tỉ đồng, xấp xỉ 14,7% dư nợ. Đây mới là sự thật của nợ xấu!”
Con số 439.000 tỷ đồng nợ xấu có vẻ gần với con số 400.000 mà Thủ tướng nói ra tại một cuộc họp tại TPHCM vào cuối năm ngoái.
Mời mọi người đón đọc bài này và nhiều bài hấp dẫn khác trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn phát hành sáng thứ Năm, 28-3. Loại bài này không đưa lên mạng nên phải mua báo in thôi.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 27, 2013 05:06

Ông chủ thật sự của đất đai Việt Nam là ai?

Đoàn Vương Thanh


ap_20110823080104630Trong dịp “được” tham gia ý kiến đóng góp vào Hiến pháp sửa đổi nói chung và Luật đất đai nói riêng, nhiều người dân đã lên tiếng. Lần này, dân lên tiếng góp ý vào Hiến pháp cũng như Luật đất đai sửa đổi thể hiện giác ngộ chính trị của dân ta khá cao, đồng thời cũng nói lên Hiến pháp và Luật của nước ta còn nhiều bất cập. Đã phát động người dân góp ý, nói như ông Phan Trung Lý là “không có vùng cấm”. Nếu có cấm kỵ thì, trước hết, người góp ý không biết rõ “vùng nào là vùng cấm” lỡ sa chân vào vùng cấm có làm sao không, hai là góp ý mà còn đặt ra vùng cấm thì còn kêu gọi góp ý làm gì. Góp ý dù có rộng rãi đến đâu, có “trái chiều” “nghịch nhĩ” đến đâu thì làm người “cầm cân nảy mực” vẫn phải hết sức bình tĩnh, lắng nghe, và nhất là biết phân biệt phải trái, phân biệt cái đã lạc hậu, cái phù hợp với tiến triển của thời đại, mà tiếp thu những “tinh hoa”, sáng kiến, do tâm huyết góp ý mang lại.


Ở đây, chúng tôi chỉ có mấy ý kiến nhỏ trong việc góp ý xây dưng Luật đất đai (sửa đổi), vì luật này từ khi ra đời chưa thấy giúp ích nhiều cho quản lý, khai thác, sử dụng một cách hợp lý, có lợi nguồn tài nguyên đất đai của Tổ quốc, mà hầu như chỉ sinh ra những hệ lụy, có khi dẫn đến mâu thuẫn “đối kháng” giữa chính quyền (và các công cụ của

chính quyền) với nhân dân, đặc biệt là người được giao quyền sử dụng đất, chủ yếu là ở nông thôn đồng bằng, trung du và miền núi. Điểm qua

một vài nét khái quát để thấy, luật đất đai những năm qua chưa phát huy mặt tích cực mà lại nảy sinh nhiều tiêu cực, dẫn đến nhưng điều đáng buồn lẽ ra không thể có trong chế độ mới tươi đẹp của chúng ta mới phải.


Đất nước Việt Nam ta qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, tổ tiên, ông cha ta đã không ngừng mở rộng bờ cõi, thống nhất giang sơn, chiến đấu máu xương để gìn giữ từng tấc đất ông cha để lại. Quốc gia là nước nhà. Quốc gia cũng là đất nước. Đất và nước là thiêng liêng. Có đất nước mới có quốc gia và các dân tộc sống nghìn đời trên mảnh

đất quốc gia ấy phải là người làm chủ đất đai, sông ngòi, vùng trời, vùng biển thuộc lãnh thổ, lãnh hải của mình, bất khả xâm phạm. Đất nước Việt nam từng là “miếng mồi” béo bở làm mờ mắt bao nhiêu loại xâm lược từ bên ngoài. Phải đổi bằng xương máu nhiều thế hệ người Việt Nam mới có được đất đai cho Tổ quốc. Những người thừa hưởng gia tài đất đai ông cha để lại càng ngày càng có trách nhiệm sử dụng, quản lý và bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá và phong phú này phục vụ xây dựng đất nước ngày càng giầu đẹp văn minh.


Những điều tôi nói đây học sinh tiểu học của tac bây giờ cũng hiểu. Tuy nhiên, qua 68 năm có chế độ mới, nghĩa là có Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, việc quản lý, sử dụng, phát huy tiềm năng đất đai của chúng ta vẫn chưa thật tốt. Từ đất đai vẫn sinh ra nhiều chuyện phức tạp, mà các nhà lãnh đạo tầm vĩ mô chưa có cách hữu hiệu nhất để quản

lý, sử dụng tốt đất đai. Điểm lại, thời gian qua, trên nhiều mặt, chính sách về đất đai còn nhiều khe hở, còn nhiều bất cập, để ngay bản thân người trong nước, vẫn lợi dụng để làm lợi cho nhóm lợi ích, gia đình và cá nhân, thậm chí vì lợi ích nào đó, một số người còn đang tâm bán rẻ đất đai cho người nước ngoài, thu về những món lợi kêch sù cho

nhóm lợi ích và cá nhân gia đình họ. Một loạt cán bộ, đảng viên có chức có quyền từ cơ sở trở lên đã làm giầu bất chính từ đất đai mà ta gọi là “tham nhũng” đất đai. Bên cạnh đó một bộ phận dân nghèo, chủ yếu là nông dân nghèo không có đất, bị mất đất, mất đi nguồn tư liệu đặc biệt để sinh ra của cải vật chất nuôi sông bản thân và gia đình, đồng thời góp phần nuôi sống cả xã hội.


Trước hết, nhìn vào nguồn tài nguyên rừng và đất rừng, khoảng hai ba thập kỷ qua, nghĩa là từ khi có luật đầu tiên về đất đai, về cơ bản chúng ta đã “hoàn thành việc phá rừng”, tài nguyên rừng không những bị cạn kiệt, ảnh hưởng rất lớn đến môi trường, môi sinh, nguồn nước, sinh ra lũ lụt ở nhiều vùng rộng lớn. Trong “chiến dịch” phá rừng, như nhiều phương tiện thông tin đại chúng đã đưa tin, có cả sự tiếp tay của “kiểm lâm nhân dân” tức là sự tiếp tay của người bảo vệ rừng. Nhiều khu rừng “đặc dung”, rừng đầu nguồn, vườn sinh thái quốc gia, rừng phòng hộ…đã bị tán phá không thương tiếc. Hậu quả của nó, không phải ai cũng lường được. Chỗ này chỗ kia, ta nói do “lâm tặc” tức là

“giặc phá rừng” phá, nhưng nếu không có “lâm tặc” sẽ hạn chế việc dùng các loại gỗ tốt cực tốt để đóng đồ trang bị cho nhiều cơ quan, đơn vị, nhà giầu, và “đại gia”. Thậm chí có một nguyên chủ tịch tỉnh xây dựng một khu biệt thự trị gia hàng trăm triệu bằng các loiaj gỗ quý đắt tiền. Chưa nói đến số tiền ông ta lấy đâu ra, nếu không phải là tham

nhũng, mà chỉ nói đến số lượng gỗ quý ông dùng cho khu biệt thự của ông cũng phải “phá” không biết bao nhiêu khu rừng đặc dụng rồi ! Trồng rừng thì kết quả ít, nhưng phá rừng thì vô kể. Những cây gỗ có tuổi thọ mấy chục năm đến hàng trăm năm, bị chặt hạ và…Vậy thì ai là chủ rừng, ai là chủ đất rừng, ai có quyền bảo vệ và ai có quyền phá rừng.

Có một người cộng sản Liên Xô cũ nói rằng, phá một công trình chỉ cần mấy cân thuốc nổ, nhưng xây dựng một công trình, ví dụ như đạp thủy điện “Quy-bi-sép” chẳng hạn phải mất nhiều năm…Suy cho cùng là do chính sách quản lý rừng của chúng ta còn lỏng lẻo, luật pháp còn có nhiều khe hở…


Chúng ta sau thống nhất nước nhà, có gần 4 triệu ha đất trồng lúa ở cả hai miền Nam Bắc với nhiều khu đồng bằng phì nhiêu ở đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng ven biển miền Trung và các cánh đồng “lý tưởng” ở Điện Biên, đông Nam Bộ, Tây Nguyên. Những cánh đồng lúa bạt ngàn, phì nhiêu này là nguồn tài nguyên, tư liệu sản xuất đặc biệt mà ông cha ta đã có công xây dựng hàng nghìn năm mới có được, để lại cho chúng ta tiếp tục bồi bổ và khai thác chủ yếu đưa vào trông lúa. Lịch sử cây lúa nước ở Việt Nam đã có trên 2000 năm. Người Việt Nam chủ yếu sống bằng lúa gạo. Vậy mà chỉ trong vong hai thập kỷ, do buông lỏng quản lý, do sơ hở của luật đất đai. do lợi dụng, tham nhũng, chúng ta đã biến khoảng gần một triệu ha đất mầu mỡ “bờ xôi ruộng mật ấy” thành những mặt bằng dùng vào việc khác như xây dựng công nghiệp, dịch vụ, trong khi chúng ta vẫn có thể tận dụng nhiều khu đất trống đồi trọc chưa sinh lợi bao nhiêu đưa vào làm mặt bằng công nghiệp và dịch vụ, dành đất trồng lúa trả lại cho người trồng lúa, có lẽ tốt hơn rất nhiều. Tóm lại, làm ăn của chúng ta hiện nay vẫn là cái anh “bóc ngắn cắn dài” chú trọng đến cái lợi trước măt, chưa tính chuyện lâu dài một cách khoa học. Xã chúng tôi ở đồng bằng Bắc Bộ, có 450 ha đất lúa, năm làm hai vụ, chí ít cũng thu 40.000 tấn thóc. Đùng một cái có chủ trương “chuyển nhượng” (vì là sở hữu toàn dân) 400 ha cho các khu công nghiệp và dịch vụ (nhờ đó, một số đông cán bộ ăn theo giầu lên trông thấy, nổi bật là cán bộ địa chính và chủ tịch xã, hiện có tiền tỷ). Lúc đầu, các doanh nghiệp vào đầu tư, mở mang một số ngành nghề, thu hút một lực lượng lao động đáng kể vào làm việc. Nhưng dần dần, có đất rồi, họ thi nhau “bỏ của chạy lấy người” sản xuất đình đốn, sa thải công nhân, ruộng đất không thể trả lại nông dân mà có trả lại nông dân thì bà con cũng “bó tay.com“. Có hai doanh nghiệp, một

của trong nước, một của nước ngoài vào chiếm dụng 200 ha đất lúa, nhưng 7 năm rồi chưa thấy họ làm gì cho ra của cải vật chất, vẫn rào kín “nội được xuất nhưng ngoại bất nhập” ! Vậy ai làm chu những khu đất rộng lớn này ? Ai làm thiệt hại hàng trăm nghìn tấn thóc nếu vẫn trong tay nông dân. Có nơi “quy hoạch” 500 ha đất trồng lúa màu, chủ yếu trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao, hàng năm thu ít nhất 100 triệu đồng/sào Bắc Bộ 360 mét vuông. Nay đưa vào “xây dưng khu đô

thị sinh thái” gần 10 năm rồi vẫn chỉ có mấy cái nhà “chọc trời” bỏ không, bán chưa có ai mua, gọi nước ngoài đổi bằng đô la chưa ai đến. Dân bức xúc quá, đấu tranh, đấu tranh thì bị “cưỡng chế”. Nguyên nhân cũng là do cái luật đất đai quy định quyền sở hữu mà ra cả.


Bây giờ nói đến những ông chủ thật sự của đất đai là những ai. Trong lịch sử nước ta cũng như trên nhiều nước, người ta cũng có luật đất đai, cũng đưa quản lý khai thác đất đai vào Hiến pháp của họ, nhưng theo hướng đất đai “đa sở hữu”, nghĩa là phân biệt rất rõ rành rành mạch đất nào thuộc phạm vị quốc gia quản lý, đất nào là đất quốc phong, đất công ích xã hội do ai quản lý sử dung, đất nào thuộc tổ chức kinh tế, do “ông bà chủ nào” quản lý và đất nào thuộc từng gia đình, từng cá nhân quản lý. Trong khi chúng ta có thể thừa nhận kinh tế thị trường đã thành phần, thì tại sạo đất đai để sinh lời, để sản xuất và phục vụ đời sống thì lại chỉ có một ông chủ duy nhất là Nhà

nước quản lý ? Mấy chục năm qua, toàn dân là chủ sở hữu đất đai quốc gia, Nhà nước là chủ đại diện, tức là quyền sở hứu thuộc về Nhà nước, nhưng bao nhiêu hệ lụy bao nhiêu tiêu cực đã xảy ra, liệu “ông chủ” Nhà nước có giải quyết được triệt để không? Trong nông nghiệp chủ yếu là ở miền Bắc, một thời gian khoảng ba thập kỷ, đất canh tác của nông dân đưa vào “tập thể hóa” toàn bộ, ngay cả ao chuôm, cũng “tập thể hóa 100%. Kết quả, ruộng canh tác “cha chung không ai khóc”, đất không được bồi bổ, năng suất cây trông èo ẹt, ngay người sản xuất ra lúa gạo mà bị đe dọa đói kém. Khi “đổi mới” chúng ta thực hiện triệt để khoán 100 và khoán 10 trả quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân, nay có thể kéo dài 50 – 100 năm (trước đây alf 20 năm), nông dân có thể tận dụng mọi khả nắng ẵn có về lao động, vật tư, trang thiết bị và ứng dụng khoa học kỹ thuật tăng năng suất cây trồng, chủ yếu là lúa. Nông dân đặc biệt phấn khởi yên tâm đầu tư sản xấu, đã cứu nền nông nghiệp nước nhà từ chỗ thiếu ăn đến chỗ có thừa lương thực mỗi năm xuất khẩu 7 – 7,5 triệu tấn gạo, đứng thứ nhất thứ nhì thế giới về xuất khẩu gạo, chưa nói các loại nông sản khác từ đất. Giá như nông dân được thừa nhận “quyền sở hữu đất đai” thì họ còn có thể giành được nhiều hiệu quả sản xuất cao hơn nữa. Đối với nông dân Việt Nam, không nên lo lắng nhiều họ sẽ trở thành “tư bản” cả đâu. Trong thực tế, vì ta có nhiều sơ hở và chính sách chưa phù hợp trong quản lý, sử dụng đất đai nên mấy thập kỷ qua đã xuất hiện nhiều “ông chủ” mà nước ngoài gọi là “tư

bản đỏ”. Nói đâu xa cho khó tìm, ngay bên cạnh nhà tôi ở, một ông giám đốc “Sở” cấp tỉnh không rõ moi đâu lắm tiền về mua tất cả các mảnh đất quanh nhà bố ông ta với giá bao nhiêu cũng được để xây dựng “một khu tư dinh” rộng gấp 10-15 lần tiêu chuẩn sử dụng đất thổ cư ở nông thôn. Một ông Phó chủ tịch xã hiện quản lý 4 mẫu Bắc Bộ đất làm vườn ao và chưa thật sự sinh lợi nhiều, nghiễm nhiên ông ấy là “chủ nhân của mảnh đất rộng gần 1500 mét vuông. Một ông nông dân có quan hệ anh em với

cán bộ lãnh đạo chủ chốt của xã, bống nhiên được mua 1,8 mẫu Bắc Bộ đất “thùng vũng” đổ nền bán từng xuất 400 triệu đông/xuất làm nhà ở, kể cả bán cho người Hà Nội về làm “Trại Đa-vít” Nhiều cán bộ chủ chốt của xã hiện có từ 3 xuất đến 10 xuất đất, có thời giá lên 1 tỷ đồng một xuất. Vậy ai là chủ sở hữu thật sự những mảnh đất ấy ? Nhà nước (cấp xã hay tư nhân)? Ai có tiền, về xã tôi mua đất dễ ợt. Một gia đình có cha “đi nhầm dép” phía bên kia hồi kháng chiến, nay cháu được “xã” giao một cái ao nghe nói rộng 7 sào Bắc Bộ, đổ cát lấp và cắt nhỏ bán 400 – 500 triệu đồng một xuất. Nếu ông ta không là chủ thì tại sao lại có quyền bán đất lấy tiền bỏ vào túi riêng ?


Còn 1001 chuyện cho, nhượng, bán đất ở quê tôi, tiếc rằng “trung ương thì ở xa, quan nha thì ở gần”, có luật để mà có luật chứ cái nạn “trên bảo dưới không nghe” đang tiếp tay cho tham nhúng, nhất là tham nhũng đất đai, mà không biết Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng hiện nay do đích thân Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm trưởng ban và “Tông tham mưu” Nguyễn Bá Thanh kè kè bên cạnh, liệu có thấu hiểu được “quân gia” của các vị ở cơ sở làm gì không. Chắc chăn khi các vị cho quân cán về điều tra thì chỉ vài ba chiếc phong bí là mọi chuyên êm xuôi, lại đâu vào đấy cả !


Tôi có một đề nghị đầy tâm huyết như thế này: trước khi làm một cái luật mới về bất kỳ lĩnh vực nào hoặc sửa đổi một số điều không còn phù hợp thì Quốc hội, Ban thường vụ quốc hội nên cử cán bộ và nằm sát với dân hỏi ý kiến dân xem nên sửa như thế nào, xây dựng luật như thế nào cho phù hợp chứ các vị cứ ngồi ở tháp ngà mà xây dựng luật và ra chính sách thì chưa tò ra lai phải thụt vào, chỉ làm khổ dân mà thôi như một số quy đinh về “phạt xe không chính chủ” về “phạt người đội mũ bào hiểm rởm”,,,Đất nước Việt Nam là của người Việt Nam, do người Việt Nam làm chủ thì mọi mặt, mọi lĩnh vực kể cả đất đai cũng phải có chủ một cách rõ ràng minh bạc. Tại sao ta là cộng sản mà “sợ” nhiều thứ thế, vì “sơ” nhiều nên không tự do báo chí, không công khai minh bạch. Tất nhiên có nhiều thứ phải “bí mật” những nhiều thứ liên quan đến đời sông hằng ngày của dân thì cứ úp úp mở mở, hết sợ cái này đến sợ cái khác, trong khi Đảng còn cầm quyền, quyền tối cao vẫn là của Đảng…


Tác giả gửi Quê choa


(Bài viết thể hiện quan niệm riêng của tác giả)



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 27, 2013 04:27

Tiên Lãng – luật vị luật, hay vị Công lý?

Võ Văn Tạo- Blog HNC
Cựu HTND tòa án TP Nha Trang
 
vnm_2012_429430Truy tố tội giết người
Theo lịch xét xử đã công bố, anh em dân oan Đoàn Văn Vươn sẽ bị tòa án Hải Phòng đưa ra xét xử từ 2-5/4/2013. Cáo trạng số 10/CT-P1A (ngày 4/1/2-2013) do phó viện trưởng VKS Hải Phòng Bùi Đăng Dung ký, truy tố 4 anh em Vươn, Quý, Sịnh, Vệ tội “giết người”, với khung án cao nhất: 12-20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Các bị cáo Phạm Thị Báu, Nguyễn Thị Thương tội “chống người thi hành công vụ”, với khung án 2-7 năm tù.
Thông tin này không gây ngạc nhiên cho nhiều người quan tâm, vì trước đó đã biết công an Hải Phòng đã khởi tố theo tội danh trên.
 
Như báo chí từng rầm rộ phản ánh, hành vi chống lại cưỡng chế để giữ thành quả khai khẩn tạo lập đầm nuôi hải sản bằng mồ hôi, nước mắt và cả tính mạng của anh em ông Vươn có nguyên do từ hành vi cưỡng chế trái pháp luật của huyện ủy và UBND huyện Tiên Lãng, được thành ủy và UBND TP Hải Phòng bảo kê, chỉ đạo. Sau việc làm sai trái trên, bất chấp công luận lên án, bất chấp nhiều lãnh đạo cấp cao (đương chức và hưu trí) lên tiếng phê phán, quan chức Hải Phòng và Tiên Lãng liên quan vẫn cố tình quanh co dối trá, biện bạch lố bịch đến trơ trẽn. Vì vậy, khi vụ án bị giao cho các cơ quan thực thi pháp luật của Hải Phòng giải quyết, không khó để công luận lường trước kết quả.
Ai cũng biết, với cơ chế “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện” lâu nay (kể cả duy trì hay cách chức giám đốc công an, viện trưởng VKS, chánh án TA), trong vụ án “nhạy cảm” này, các cơ quan thực thi pháp luật (công an, VKS, tòa án) của Hải Phòng làm sao độc lập với “đường lối xử lý” được hoạch định bởi thành ủy Hải Phòng ngay bắt đầu thụ lý? Không cần phải thông minh mới hiểu, lãnh đạo Hải Phòng muốn kết tội anh em ông Vươn thật nặng, hy vọng công luận “thông cảm” cho sai trái của Hải Phòng.
 
Hai vụ án cùng bản chất
Thế nhưng, với những người có hiểu biết pháp luật sâu hơn một chút, diễn biến vụ án lại gây nhiều thất vọng.
Ngay sau khi công an Hải Phòng khởi tố vụ Tiên Lãng, nhiều báo đã đăng tải lại một vụ án nổi tiếng dưới thời thực dân Pháp – vụ án đầm Nọc Nạn (Bạc Liêu, 1928).
Xét về bản chất, 2 vụ án như nhau. Đều cưỡng chế trong bối cảnh chính sách đất đai bất cập gây bất ổn xã hội, đều có âm mưu quan chức cường hào cướp đoạt đất đai của nông dân, đều có sự rối rắm của thủ tục đất đai và mờ ám của tòa án trong xét xử tranh chấp hành chính, dân sự về đất đai trước đó.
Về hậu quả, vụ Nọc Nạn có 5 người chết (4 nông dân, 1 lính Pháp), vụ Tiên Lãng có 7 người trong lực lượng chế bị thương (từ 1-43% thương tật).
Thế nhưng, vụ Nọc Nạn, tại tòa đại hình Cần Thơ, với chánh án, công tố viên và luật sư đều người Pháp, chỉ có viên hội thẩm là người Việt, lại cho kết cục rất nhân hậu và thuyết phục: tha bổng các nông dân từng “chống đối người nhà nước”.
 
Trích Vụ án Nọc Nạn (từ điển mở Vikipedi):
Tại tòa, công tố viên Moreau đề nghị tòa thận trọng, nhắc lại vụ án Ninh Thạnh Lợi năm 1927. Ông cho rằng vụ này chứng tỏ bất ổn xã hội về đất đai đang gia tăng hết sức nghiêm trọng. Ông nói tình cảnh của gia đình nông dân Biện Toại rất đáng thương: bị những kẻ không có trái tim (hommes sans coeur) đến cướp đất, rồi bọn có quyền thế tiếp tay với bọn cường hào. Moreau đề nghị tòa tha bổng Biện Toại, cô Liễu (em Biện Toại) và con là Tia, giảm nhẹ cho cô Trọng và Miều (em rể Biện Toại, chồng Liễu).
Luật sư Tricon nhận định nguồn gốc của vụ án là vấn đề điền địa. Ông cho rằng chính sách ruộng đất thời Nguyễn công bằng và hợp thực tế, còn luật lệ do người Pháp đặt ra chưa được áp dụng đúng, thiếu thực tế, những người trong Hội đồng phái viên chỉ ngồi một chỗ, chưa hề bước ra sở đất mà họ xem xét, chỉ quyết định dựa trên báo cáo. Luật sư ca ngợi tinh thần lao động khẩn hoang của gia đình nông dân Biện Toại: họ phải đấu tranh với thiên nhiên, với bọn cường hào, với cả các thủ tục pháp lý, nói: Chúng ta, những người Pháp, nên xây dựng ở xứ này một chế độ độc tài. Không phải độc tài bằng sức mạnh của súng đạn, nhưng là sự độc tài của trái tim (Non pas de la dictature de la force du mousqueton, mais de la dictature du coeur).
Luật sư Zévaco ca ngợi lập luận của công tố viên, cho rằng chính sách của nhà nước thì tốt, nhưng người thừa hành xấu đã làm cho chính sách trở nên xấu đối với dân chúng. Zévaco nói nên sa thải vài ông phủ, ông huyện bất hảo và vạch rõ hành động của cặp bài trùng Bang Tắc – tri phủ H. đã dẫn đến tấn thảm kịch Nọc Nạn. Luật sư xin tòa tha thứ cho các bị can, nói: Lần này sẽ có một bà lão khóc về cái chết của bốn đứa con. Bốn người này đã chết, vì họ tưởng rằng có thể tự lực gìn giữ phần đất ruộng mà họ đã từng rưới mồ hôi và máu của họ lên đó.
(hết trích)
Luật vị luật hay vị Công lý?
Những người có am hiểu về pháp luật đều biết, khi tuyên án, tòa án ở Mỹ và các nước có hệ thống pháp luật khá hoàn hảo đều nhân danh Công lý (khác với ở VN, tòa án nhân danh Nhà nước). Theo các luật gia, sở dĩ tòa án Mỹ nhân danh Công lý khi tuyên án như vậy là vì ở Mỹ, chỉ có Công lý mới là tối thượng. Nhà nước đôi khi cũng vi phạm pháp luật, xâm hại Công lý. Đó là sự khác nhau về bản chất giữa tòa án ở VN và các nước nói trên, mặc dù trên danh nghĩa đều là những cơ quan thực thi pháp luật và có mục đích tối thượng là đề cao công lý.
Để bù đắp khiếm khuyết khó tránh của hệ thống luật pháp và sự máy móc của nhân sự chuyên trách thực thi pháp luật, hệ thống tòa án ở Mỹ có bồi thẩm đoàn. Các bồi thẩm viên đều là công dân trong xã hội (không phải thẩm phán trong hệ thống tòa án, càng không lệ thuộc văn bản pháp luật càng tốt). Khi xét xử, bồi thẩm đoàn xem xét vụ việc, cân nhắc bằng nhận thức của con tim và căn cứ tập quán xã hội để ra phán quyết bị cáo có tội hay không có tội. Chỉ khi bồi thẩm đoàn ra phán quyết có tội, thẩm phán mới căn cứ các điều luật cụ thể để tuyên mức án.
Hội thẩm đoàn ở VN cũng đều là công dân trong xã hội (không thuộc biên chế tòa án), nhưng khi xét xử lại ngồi chung đồng thời với thẩm phán, cấu thành hội đồng xét xử. Lâu nay, hội thẩm được khuyến khích tìm hiểu pháp luật. Tuy nhiên, phần lớn hội thẩm đều dạng “tay mơ”. Khi xét xử, thẩm phán giữ vai trò chủ tọa, điều hành phiên tòa, phát ngôn chiếm hầu hết thời gian thẩm vấn. Do “tay mơ”, lại không được độc lập với thẩm phán, hầu hết hội thẩm đều “a dua”, bất kể đúng sai.
Với thực trạng xét xử như vậy ở VN, không khó đoán phiên tòa Hải Phòng xử vụ Tiên lãng sẽ cho kết cục thế nào.
Hy vọng phúc thẩm?
Theo quy định của luật pháp VN hiện hành, sau phiên sơ thẩm ở Hải Phòng, nếu không đồng ý, anh em họ Đoàn có thể kháng án lên tòa tối cao để được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Nếu căn cứ tư duy của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa bộc lộ mới đây ở Vĩnh Phúc (khiếu kiện cũng là biểu hiện của suy thoái tư tưởng, suy thoái chính trị, suy thoái đạo đức; phải “xử lý”), không khó để lường trước kết quả của phiên phúc thẩm.
Có lẽ, Công lý vẫn ngao du đâu đó, chưa chịu về với VN.
 
V.V.T.
……………………………

Xin mời xem vụ án Nọc Nạn: http://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5_%C3%A1n_N%E1%BB%8Dc_N%E1%BA%A1n



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 27, 2013 03:42

March 26, 2013

TOÀN VĂN CÁO TRẠNG VỤ ĐOÀN VĂN VƯƠN

Theo blog NXD
doanvanvuonNgày 18/3/2013 Tòa án nhân dân Thành phố Hải Phòng đã ra Quyết định số 407/2013/HSST- QĐ đưa vụ án Đoàn Văn Vươn ra xét xử công khai.

 
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử thì bốn người trong gia đình ông Đoàn Văn Vươn gồm ông Vươn, ông Đoàn Văn Quý, ông Đoàn Văn Sịnh, ông Đoàn Văn Vệ bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng truy tố về “tội giết người” theo Điểm d, khoản 1, Điều 93 Bộ luật Hình sự. Xét xử công khai từ ngày 2/4 – 5/4/2013, tại Toàn án nhân dân thành phố Hải Phòng.

 
Còn bà Phạm Thị Báu, bà Nguyễn Thị Thương bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng truy tố về tội “chống người thi hành công vụ” theo điểm d, khoản 2, Điều 257 Bộ luật Hình sự. Xét xử công khai từ ngày 8/4 – 10/4/2013, tại Toàn án nhân dân thành phố Hải Phòng.

Tòa án Nhân dân TP Hải Phòng: Đường Lê Hồng Phong, phường Đằng Lâm, quận Hải An, Tp Hải Phòng. (Gần Siêu thị Big C).

Dưới đây là toàn văn CÁO TRẠNG của Viện Kiểm sát Nhân dân TP Hải Phòng, do Phó Viện trưởng ký thay Viện trưởng, ngày 04 tháng 01 năm 2013, gồm 13 trang. 
 











 






 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 26, 2013 23:08

Không được lên án, thóa mạ các ý kiến trái chiều

Tường thuật góp ý Hiến pháp của CLB Truyền thống kháng chiến – Khối Thanh niên, TP HCM


Hồ Đức Yên- ABS


imageNgày 6.3, tại Bảo tàng cách mạng TP.HCM, Khối Thanh niên thuộc Câu lạc bộ Truyền thống kháng chiến đã tổ chức góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.


Trong phần chương trình, hội nghị đã nghe ông Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội giới thiệu tóm tắt Kiến nghị 7 điểmcủa Nhóm 72 trí thức:


Quyền lập hiến phải thuộc về toàn dân, không thể thuộc về bất kỳ một tổ chức hay cơ quan nào;


Lời nói đầu không phải là chỗ để tuyên dương công trạng của bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào; sửa Dự thảo theo đúng tinh thần của Tuyên ngôn về Quyền Con người năm 1948 và các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia;


Sở hữu tư nhân, tập thể, cộng đồng về đất đai cùng tồn tại với sở hữu nhà nước; các cơ quan nhà nước phải tuân thủ Hiến pháp và luật;


Thành lập Tòa án Hiến pháp với chức năng phán quyết;


Lực lượng vũ trang trung thành với Tổ quốc và nhân dân, không trung thành với bất kỳ tổ chức nào (yêu cầu bỏ quy định lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam);


Phải có trưng cầu dân ý để phúc quyết Hiến pháp;


Và cuối cùng là gia hạn thời gian lấy ý kiến của nhân dân đến hết năm 2013.


 Đường lối của Đảng phải minh bạch


 Nếu mở đầu cho chương trình là bản góp ý của ông Nguyễn Văn Thuyền, nguyên Thường vụ Thành ủy, Chủ nhiệm CLB Kháng chiến TP.HCM, (do tuổi cao không tham dự, được đọc lại tại hội nghị) với tinh thần chủ yếu là sự cần thiết của điều 4 trong Hiến pháp, cùng câu hỏi gay gắt “ai là kẻ mưu toan dẹp bỏ điều 4”, thì ngay sau đó là các ý kiến đầy tâm huyết thể hiện xu hướng ngược lại. 


Đặt vấn đề nên hay không nên có điều 4, luật sư Nguyễn Đăng Liêm, nguyên Hiệu trưởng Đại học Gia Định cho rằng: Hiến pháp không thể tự định trước cái quyền Đảng Cộng sản “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” được. Hiến pháp “khẳng định ý chí của nhân dân” thì trước hết Đảng phải được nhân dân trao quyền lãnh đạo. Nhưng vấn đề là nhân dân có trao quyền đó hay không? Trong khí hoạt động của Đảng thời gian qua không đảm bảo công khai, minh bạch; nhiều đường lối, chính sách và thực hiện chính sách không của dân, vì dân đã dẫn đến sai lầm, yếu kém, tiêu cực và đặc biệt là tham nhũng trầm trọng.


Tình trạng đó có nguyên nhân là người dân không được thực sự làm chủ, hoặc hơn thế là quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm. Vì vậy, Điều 6 viết: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” là không thể. Bởi Quốc hội, Hội đồng nhân dân cũng chỉ là “cánh tay nối dài của Đảng”. Đó là chưa kể nhiều những văn bản dưới luật được thực thi đã vi phạm Hiến pháp. Với tổ chức để người dân “thực hiện quyền dân chủ trực tiếp đại diện” như thế thì làm sao “giám sát” được Đảng và lấy gì để “buộc” Đảng phải “chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”? (Điều 4, Khoản 2).


Tán thành với quan điểm của ông Nguyễn Đăng Liêm, ông Lê Công Giàu, nguyên Phó bí thư Thành đoàn TP.HCM, đã đưa ra một lập luận đầy tính nhân văn. Theo ông, những tổ chức là “cánh tay nối dài của Đảng” thì không thể phản biện được Đảng. Trước đây, Bác Hồ đã đề ra hai Đảng Xã hội và Dân chủ; tất nhiên là hai đảng này không cạnh tranh nổi với Đảng Cộng sản, nhưng ít nhất cũng là tổ chức phản biện trong Quốc hội đối với đường lối của Đảng Cộng sản. Hiện về danh nghĩa chúng ta có hệ thống kiểm soát quyền lực, nhưng trên thực tế hệ thống kiểm soát này không thể kiểm soát được. Có thể ví đây là một cái thắng (phanh) lúc ăn lúc không, thậm chí có lúc chạy tuột luôn. Thử hỏi, các đồng chí ngồi trên xe máy không có thắng, liệu có dám chạy không? Vậy mà hiện nay con tàu ViệtNamvới tám mươi sáu triệu dân phải ngồi trên một hệ thống thắng không ăn, đang tuột dốc với tốc độ cao, cực kỳ nguy hiểm. Thắng không ăn đồng nghĩa với hệ thống kiểm soát quyền lực bị vô hiệu, đã dẫn đến hư hỏng không thể sửa được. Hãy thử nhìn ra các nước, chỉ với 30 năm họ đã là một nước công nghiệp hóa, dân chủ, tự do. Còn Việt Nam ta kể từ khi có Đảng đã hơn 80 năm, có chính quyền gần 70 năm và giải phóng cũng gần 40 năm mà vẫn lạc hậu. Điều đó có nghĩa là đường lối của Đảng không còn phù hợp nữa, phải thay đổi.


“Nói Đảng nhưng thực chất là các vị trong Bộ Chính trị và một trăm bảy mươi mấy vị ủy viên Trung ương lãnh đạo đất nước và quyết định thể chế chính trị. Vậy bây giờ mấy vị này phải đề ra giải pháp đường lối đưa đất nước đi lên. Nếu không được là có tội với dân tộc. Nếu không được thì phải chấp nhận đa đảng”. Ông Lê Công Giàu nói.


 “Phải dứt khoát bỏ tất cả các cụm từ xã hội chủ nghĩa”


 Đó là một trong hai quan điểm khẳng định “dứt khoát” của ông Hồ Hiếu, nguyên cựu tù Côn Đảo, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Mặt trận, TP.HCM. Thứ nhất, tên nước không thể kèm theo ý thích của một số người theo chủ nghĩa này, không theo chủ nghĩa kia; hay là theo cái đạo này, bỏ cái đạo khác. Đó là chưa kể xã hội chủ nghĩa là chưa có thật, rất xa với và không biết bao giờ sẽ có. Đặt tên nước là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa là người cộng sản đã lạm quyền. Đề nghị lấy lại tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cái tên do CT Hồ Chí Minh khai sinh.


 Tên gọi “xã hội chủ nghĩa” như cái vòng kim cô. Vì cái vòng kim cô xã hội chủ nghĩa duy ý chí này nên nhà đất sai không sửa, giáo dục kém không sửa; rồi kéo theo hàng loạt chính sách không hoàn chỉnh mang tên xã hội chủ nghĩa: pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, y tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế… đã thị trường lại còn định hướng xã hội chủ nghĩa… Cái chữ “xã hội chủ nghĩa” đó chia rẽ dân tộc trong nước và nước ngoài, chia rẽ cộng đồng thế giới. Thứ hai, theo, ông Hồ Hiếu là “dứt khoát phải xóa hẳn đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Toàn dân là ai? Ai tên là “toàn dân”. Nhà nước quản lý mà trên là Đảng lãnh đạo thì đất đai là của Đảng, của Nhà nước mất rồi. Nhà nước quản lý nghĩa là muốn thu hồi là thu hồi, muốn cưỡng đoạt, định giá là cưỡng đoạt, định giá. Và như vậy thì vẫn xảy ra tình trạng như thời gian vừa qua, chính sách về ruộng đất và thực thi chính sách này không minh bạch, dẫn đến khiếu kiện đất đai kéo dài không dứt…


 Đảng nên bình tĩnh và xem lại mình


 Ông Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng phản ánh một thực trạng bức xúc, đó là tình hình đất nước đang rất khó khăn với bao âu lo, nhưng Đảng và dân mỗi người lo một cách khác nhau. Đảng lo giữ gìn thể chế, sự tồn vong của chế độ; dân lo đời sống khó khăn, kinh tế sa sút, tham nhũng trầm trọng… Dân và Đảng không gặp nhau, không còn đâu là ý Đảng, lòng dân. Ông Ngãi đề xuất: “Hiện, đang có góp ý Hiến pháp của 72 trí thức (gọi tắt là Kiến nghị 72 – đã có hơn 9.000 người ký tên) với Kiến nghị 7 điểm đúng đắn. Vì vậy, Đảng nên gặp gỡ để bàn bạc trao đổi, sửa Hiến pháp theo tinh thần của các kiến nghị nêu trên nhằm phát huy dân chủ và hoà hợp dân tộc là những đòi hỏi hết sức bức xúc của nhân dân trong giai đoạn trước mắt, cũng như cho sự phát triển bền vững lâu dài của đất nước”.


 Từ ý nghĩa này, ông Võ Văn Thôn, nguyên Chủ tịch UBND  Q3, Giám đốc Sở Tư pháp đề xuất, góp ý Hiến pháp là việc hệ trọng, Đảng nên hết sự bình tĩnh, lắng nghe. Đã có chủ trương đúng đắn “góp ý không có vùng cấm”, vậy đề nghị Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội, cũng như báo chí, đài truyền hình của Đảng không nên lên án, đả kích những góp ý trái chiều.


 Hội nghị cũng thu được nhiều ý kiến sắc bén qua các nội dung: Công chức nhà nước ở các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp… đều ăn lương do dân đóng góp. Bộ máy Nhà nước của dân phải phục vụ nhân dân, đương nhiên phải phi chính trị hóa, kể cả công an, quân đội. Phải có tòa án bảo vệ Hiến pháp, ngay đến Hiến pháp 92 cũng có những cái hay, cái đúng nhưng thường bị các nghị định, nghị quyết sai vô hiệu hoặc đi ngược lại với Hiến pháp. Lập hiến (xây dựng, ban hành hay sửa đổi hiến pháp) là quyền của nhân dân, nhưng với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 này thì vẫn là do Đảng lập, Đảng soạn. Vì vậy phải viết lại Hiến pháp…


 Hội nghị sôi nổi trong suốt bốn tiếng đồng hồ. Ngay cả bên lề, cũng có những ý kiến xác đáng, ấy là: Góp ý hiến pháp không được báo đài phản ánh trung thực. Một buổi như hôm nay chẳng hạn, chỉ có hai ý kiến đồng ý Điều 4, chín ý kiến đề nghị bỏ Điều 4, nhưng lại sẽ tường thuật “Hầu hết ý kiến khẳng định cần có Điều 4 trong Hiến pháp”!


Thứ tư, ngày 27 tháng ba năm 2013


H.Đ.Y.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 26, 2013 23:01

Những con chữ biểu tình

Nguyễn Trọng Tạo-Blog NTT


376568_304512359651712_60558138_nNTT: Được tin tàu Trung Quốc nã đạn vào ngư thuyền Quảng Ngãi trên vùng biển thuộc hải phận Việt Nam, lại nhớ đến những cuộc biểu tình chống TQ xâm phạm lãnh hải trước đây. Giờ thì im lặng quá, vì đã có “đảng và nhà nước lo”. Lại nghe các ông nghị đưa ra nhiều đề xuất phản cảm như “Đi kiện phải nạp tiền đặt cọc”, “Gửi tiền tiết kiệm phải nộp thuế”, “CA có quyền bắn người chống người thi hành công vụ”, “Quân đội chỉ trung với đảng…”, v.v… Nghe cứ tức anh ách. Đành phải cho mấy con chữ nó đi biểu tình thay người vậy…


Dân không được biểu tình. Những con chữ biểu tình

Những con chữ dàn hàng ngang hàng dọc

Quảng trường giấy, chữ sắp hàng dày đặc

Chữ hô vang “đả đảo”, “hoan nghênh”…


Đả đảo bọn ngoại bang cướp thuyền, cướp biển

Đả đảo bọn quan tham quan nhũng hại Dân

Đả đảo bọn cướp ngày chém giết

Bọn đạp lên pháp luật làm càn.


Hỡi những chiếc dùi cui hãy quay về đúng hướng

Hỡi súng ngắn súng dài đừng nã đạn vào Dân

Hỡi quân đội hãy xả thân vệ quốc

Hỡi đảng hãy nghe Dân như từng đã bao lần…


Những con chữ hiến thân vì Tổ quốc

Dù mực đen mực đỏ mực xanh

Viết trên mạng hay viết trên giấy úa

Viết bằng tim bằng máu của chính mình.


Chữ hoan nghênh chính đại quang minh

Chữ đâm thủng trò mị dân đen tối

Hoan nghênh người có công, tuyên phạt quân phạm tội

Chữ hát vang Bài ca chữ tự do…


Chữ biểu tình cho áo ấm cơm no

Chữ biểu tình cho dân giàu nước mạnh

Chữ biểu tình cho quyền được sống

Chữ biểu tình cho Độc lập Hòa bình


Hỡi đàn-cừu-con-chữ hãy đứng lên

Đứng dày đặc trên bản đồ Tổ quốc

Những con chữ mấy nghìn năm có được

Chữ là Dân – chữ không chết bao giờ.


Hà Nội, 26.3.2013

NTT



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 26, 2013 22:48

March 25, 2013

Giờ trái đất

Võ Trung Hiếu


questionCon líu lo với ba về Giờ Trái đất

Cô giáo dạy con rằng trái đất đang nóng dần lên

Rằng núi lửa sẽ phun và băng từ hai cực sẽ tan

Nước biển sẽ dâng gây sóng thần, động đất …


Con nói nghe mà sợ thật

Cứ như chúng mình và loài người sẽ chẳng có ngày mai

Cứ như lâu lâu nếu không cùng nhau dành cho trái đất một giờ

Ắt sẽ sớm có ngày tận thế …


Ừ, con ạ, tất cả đều có thể

Sinh ra – mất đi là lẽ thường tình

Vũ trụ này đâu chỉ một hành tinh

Vũ trụ này không độc quyền duy nhất một nền văn minh

Trong vũ trụ có muôn vàn vũ trụ


Chợt ba ước nhân loại đừng mê ngủ

Palestine và Israel mỗi tuần hãy dành một giờ để thôi không thù hận nhau

Hai miền Triều Tiên sẽ thỉnh thoảng thôi không nghi kỵ, đối đầu

Các cường quốc tham lam sẽ tạm ngưng thừa nước đục thả câu

Các nhà độc tài sẽ tạm ngừng vung dùi cui và những trò tẩy não

Các chính trị gia sẽ tự vấn lương tâm và tạm ngừng ba xạo

Các tỷ phú sẽ nghĩ đến thế giới thứ ba và nhường cơm sẻ áo

Các chiến binh kiểu Mujahidin tạm ngừng đặt bom và buông súng

Kẻ lưu manh, thủ đoạn dừng tay …


Chỉ một giờ thôi con ạ, cũng hay

Để các VIP hay chém gió trên tivi có dịp chiêm nghiệm về hai chữ “nhân dân”

Về những đứa trẻ nghèo phải bơi hay đu dây qua sông để được đến trường

Về hàng tỷ đô-la cuốn theo chiều gió

Về những chuyện giản đơn như ” Vì sao có nhiều người chọn quốc hoa là hoa mắc cỡ ? “

Về những tấm bản đồ của tổ tiên và Đại Cáo Bình Ngô


Cần lắm một giờ

Tắt hết thảy những hào quang rối rắm

Để ngọn nến thắp lên ngọt ngào hy vọng

Trái đất ngày mai vẫn là của con …


25.3.2013


VTH


Tác giả gửi QC



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 25, 2013 17:30

Từ Rosa Parks đến Nguyễn Đắc Kiên

Đinh Từ Thức-pro&contra


Rosa-ParksCùng ngày 27 tháng 2, 2013, có hai nguồn tin phát xuất từ hai nơi cách nhau nửa quả địa cầu, nhưng xem chừng rất gần nhau:


- Tại Điện Capitol, trụ sở Quốc hội Hoa Kỳ, Tổng thống Obama làm lễ cống hiến Tượng Vinh danh Rosa Parks.


- Tại Hà Nội, nhà báo Nguyễn Đắc Kiên nhận quyết định “không còn tư cách là phóng viên báo Gia đình & Xã hội”.


Từ năm 1776, nước Mỹ đã có bản Tuyên ngôn Độc lập nổi tiếng thế giới mở đầu bằng câu thừa nhận mọi người sinh ra đều bình đẳng, tiếp theo là bản Hiến pháp năm 1791 kèm 10 tu chính được coi là đạo luật nhân quyền căn bản vẫn còn giá trị đến ngày nay. Nhưng một tuyên ngôn hùng hồn chứa đựng tinh thần cao cả với một hiến pháp bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của con người không đương nhiên thể hiện một chế độ tốt đẹp và một xã hội công bằng. Tuy có những văn kiện đẹp như vậy, nhưng gần một thế kỷ sau khi lập quốc, Tổng thống Lincoln đã phải chịu đựng cuộc nội chiến thiệt hại hơn sáu trăm ngàn người để giải phóng nô lệ, và thêm gần một thế kỷ nữa, học sinh da đen vẫn không được học cùng trường với học sinh da trắng, và người da đen vẫn không được ăn chung trong tiệm, hay ngồi chung với người da trắng trên xe bus.


Rosa Parks là một phụ nữ da đen làm nghề khâu vá. Vào tháng 12 năm 1955, bà Parks bị tài xế xe bus bắt đứng lên nhường chỗ cho người da trắng. Bà nhất định không chịu, ngồi chờ bị bắt. Và bà đã bị bắt đúng như chờ đợi. Thái độ can đảm của bà đã gây một phong trào phản kháng sâu rộng, không những trong hàng ngũ người da đen, mà được cả sự ủng hộ của những người da trắng yêu tự do và trọng sự công bằng. Phong trào đi đến thắng lợi, và cuối cùng, tượng bà Rosa Parks đã đứng chung với tượng George Washington tại Quốc hội Hoa Kỳ, vào ngày 27 tháng 2, 2013 – cùng ngày tại Việt Nam, nhà báo Nguyễn Đắc Kiên mất việc, vì đã can đảm lên tiếng chống lại người có địa vị cao nhất trong Đảng nắm độc quyền cai trị, là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.


Để biết thêm sự nghiệp của bà Rosa Parks, xin trích sau đây ít lời của ông Obama trong diễn từ cống hiến Tượng:


Sáng nay, chúng ta mừng một người thợ may, yếu về dáng vóc nhưng mạnh về can đảm. Bà đã thách thức những sai trái, và thách thức bất công. Bà đã sống một cuộc đời hoạt động và một cuộc đời có nhân phẩm. Và chỉ trong một lúc, với những cử chỉ giản dị nhất, bà đã giúp làm thay đổi cả Hoa Kỳ – và thay đổi cả thế giới.


Rosa Parks không giữ một chức vụ dân cử nào. Bà không làm chủ cơ nghiệp nào; đã sống một cuộc đời xa những địa vị quyền lực cao cả. Thế mà hôm nay, bà đã có chỗ đứng xứng đáng cùng với những người đã kiến tạo đất nước này.


Vào một buổi chiều mùa Đông năm 1955, Rosa Parks đã không để người ta đẩy bà ra khỏi chỗ ngồi của mình. Khi người lái xe đứng dậy bắt bà nhường chỗ, bà đã không nhường. Khi ông ta doạ gọi người tới bắt, bà nói giản dị “ông có thể làm như thế”. Và ông ta đã làm đúng như lời đe doạ.


Mấy ngày sau, Rosa Parks thách thức vụ bắt bà. Một mục sư trẻ 26 tuổi mới đến thành phố, ít ai biết tới, đã hỗ trợ bà – người đó mang tên Martin Luther King Jr. Hàng ngàn người ở Montgomery, Alabama, cũng làm như vậy. Họ bắt đầu một vụ tẩy chay – giáo viên và công nhân, tu sĩ và người giúp việc, dưới trời mưa lạnh cóng và nóng như thiêu, ngày nọ sang ngày kia, tuần này qua tuần khác, tháng trước đến tháng sau, họ đi bộ hàng dặm đường nếu cần phải đi, xếp đặt đi chung xe nếu có thể, không màng tới chuyện đôi chân nứt nẻ, hay mệt nhọc sau cả ngày làm việc – đi bộ cho nể trọng, đi bộ cho tự do, tiến bước bởi quyết tâm khẳng định phẩm giá của mình đã được Chúa ban cho.


Ba trăm tám mươi lăm ngày sau khi Rosa Parks từ chối nhường chỗ của mình, vụ tẩy chay chấm dứt. Những người da đen đàn ông đàn bà và trẻ em lại lên xe bus ở Montgomery, mới bỏ lệnh kỳ thị, và ngồi tại bất cứ nơi nào còn chỗ trống. Và với thắng lợi đó, cả một thành trì kỳ thị, giống như những bức tường ở cổ thành Jericho [1], bắt đầu từ từ sụp đổ.


… Chỉ một mình bà Parks ngồi lì trên chiếc ghế đó, tay ôm ví, mắt nhìn qua cửa sổ, đợi bị bắt. Giây phút đó cho chúng ta biết sự việc đã thay đổi như thế nào, hay không thay đổi; chọn lựa chúng ta đã làm, hay không làm. Như Kinh Thánh đã nói đúng, “bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương”  [2] . Hoặc vì bất động hay ích kỷ, hoặc vì sợ hãi hay chỉ giản dị vì thiếu ý hướng về đạo đức, chúng ta thường sống như trong sương mù, chấp nhận bất công, hợp lý hoá sự bất công và bỏ qua những chuyện không thể tha thứ.


Giống như người lái xe bus, nhưng cũng giống như những hành khách trên xe bus, chúng ta nhìn sự việc như chúng xảy ra – trẻ con đói khát trong một đất nước phong phú, cả một khu phố bị tàn phá vì bạo động, gia đình nghiêng ngửa vì mất việc hay bệnh hoạn – và chúng ta bào chữa vì sao không hành động, và chúng ta tự nói với mình, cái đó không thuộc trách nhiệm của tôi, tôi chẳng có thể làm gì được.


Rosa Parks cho biết luôn luôn có vài thứ chúng ta có thể làm. Bà ấy nói rằng tất cả chúng ta đều có trách nhiệm, với chúng ta và giữa người này với người khác. Bà ấy nhắc nhở chúng ta rằng sự thay đổi đã diễn ra như thế nào – không phải chủ yếu bởi sự khai sơn phá thạch của những người nổi tiếng và quyền lực, mà bởi vô số những hành động can đảm thường là của những người vô danh và tử tế và những người mẫn cảm và trách nhiệm đã cứng đầu, tiếp tục phổ biến quan niệm của chúng ta về công lý – quan niệm của chúng ta về những gì có thể.


Chỉ một hành động bất tuân lệnh riêng lẻ của Rosa Parks đã phát động một phong trào. Những bước chân mệt mỏi của những người đi bộ trên những con đường bụi bặm của Montgomery đã giúp cho cả nước nhìn thấy những gì trước đây họ như mù loà. Chính nhờ những người đàn ông và đàn bà đó mà tôi đứng đây ngày hôm nay. Chính nhờ họ mà con cháu chúng ta lớn lên trong một đất nước tự do hơn và công bằng hơn, một đất nước trung thực hơn với tín điều của các nhà lập quốc  [3] .


130226131543_nguyen_dac_kien_304x171_bbc_nocreditBà Rosa Parks đã bị mất việc sau hành động cứng đầu của mình, và ông Obama đã nói về bà Parks đúng vào ngày Nguyễn Đắc Kiên mất việc vì thái độ không chịu khuất phục của mình. Sự trùng hợp về thời gian và hoàn cảnh cho người ta cảm tưởng vụ Rosa Parks và Nguyễn Đắc Kiên tuy xa nhau về thời gian và không gian, nhưng quá gần nhau về nguyên do xuất phát. Ngày kết thúc hành động của bà Parks cũng là ngày mở đầu hành động của Nguyễn Đắc Kiên.


Thái độ không sợ hãi của Nguyễn Đắc Kiên khá giống thái độ can đảm của bà Parks, nhưng trong khi nhìn thấy phần kết thúc vẻ vang hành động của bà Parks, người ta chưa thể tiên đoán việc làm của anh Kiên sẽ ra sao. Bà Parks đã đánh động được lương tâm của một số đông. Những người có cơ hội thức tỉnh này, sau đó đã làm những gì cần phải làm, theo lương tâm và nhận thức của mình, không phải vì bà Parks, hay theo chân bà. Việc làm của anh Kiên cũng đã gây được xúc động trong số đông, “Lời Tuyên bố của các công dân tự do” là một bằng chứng. Nhưng nếu chỉ có thế, việc làm của anh sẽ chẳng đi đến đâu, và sẽ sớm vào quên lãng.


Bà Parks đã được ghi nhớ và vinh danh, không phải vì bà là anh hùng hay siêu nhân, mà chính vì hành động đơn lẻ của bà đã được số đông ủng hộ, đưa đến thành công. Đó là thành công của quần chúng, bắt nguồn từ một hành vi can đảm cá nhân.


Thái độ can đảm của anh Kiên bắt nguồn từ cuộc thảo luận về dự án sửa đổi Hiến pháp. Nhưng dù Hiến pháp được sửa đổi không còn điều 4, nó sẽ không là chiếc đũa thần biến một xã hội tự do dân chủ và công bằng thành hiện thực. Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ, Hiến pháp Hoa kỳ là những văn kiện tuyệt vời, nhưng tám năm sau khi bà Parks đã nổi tiếng về hành vi can đảm của mình, vẫn có ông George Wallace, Thống đốc Alabama, chính tiểu bang nơi bà Parks sinh sống, lớn tiếng tuyên bố trong diễn văn nhậm chức của mình trước toà nhà lập pháp tiểu bang vào năm 1963: “Kỳ thị bây giờ! kỳ thị ngày mai! kỳ thị mãi mãi!” (Segregation now!, segregation tomorrow!, segregation forever!). Không phải chỉ tuyên bố suông, ngày 11 tháng 6, 1963, Thống đốc George Wallace đã thể hiện lời hứa qua hành động. Ông đứng chặn trước cửa University of Alabama ngăn không cho hai sinh viên da đen vào trường. Tổng thống John Kennedy phải gửi Vệ binh Quốc gia tới hộ tống cho các sinh viên này nhập học.


Cho nên, chẳng lấy làm lạ, khi gần 70 năm trước Việt Nam cũng đã có bản Tuyên ngôn Độc lập với những lời lẽ tuyệt vời chép lại từ Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, với tên nước Việt Nam kèm theo chế độ “Dân chủ Cộng hoà”, với khẩu hiệu “Độc lập Tự do Hạnh phúc”, nhưng ngày nay vẫn có một Tổng Bí thư Đảng lớn tiếng tuyên bố những ai đòi tam quyền phân lập, đa nguyên đa đảng, và không chấp nhận độc quyền lãnh đạo của Đảng là bọn “suy thoái’, cần “xử lý”. Trước đó cả năm, ngày 27 tháng 2, 2012, tại Hội nghị cán bộ toàn quốc về thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, ông Trọng đã tuyên bố về sự lãnh đạo của Đảng “Trước đây đã như vậy, hiện nay đang như vậy, và sau này cũng sẽ vẫn như vậy”. Ông Trọng nói như đinh đóng cột, kém gì George Wallace!


Nhưng Hoa Kỳ được như ngày nay, nhờ họ đã thay đổi không ngừng, kể cả George Wallace. Hai mươi năm sau khi nêu cao quyết tâm sống chết với chủ trương kỳ thị, vào năm 1982, George Wallace công khai thừa nhận trước những người da đen, và trước dư luận rằng ông đã hoàn toàn sai lầm về chủ trương kỳ thị. “I have regretted it all my life.” (Tôi hối tiếc về điều đó đến mãn đời).


Để không cản đường tiến của Hoa Kỳ, những người như George Wallace đã phải thay đổi, và hối tiếc việc làm của mình. Họ không tự ý thay đổi đâu. Chính những người như Rosa Parks, những người tuy thấp cổ bé miệng, nhưng cùng hành động, đã tạo thành một khối “cao cổ lớn miệng”, đủ sức bắt những kẻ như Wallace phải thay đổi. Và may thay, ngay cả với những người như Wallace, thay đổi không phải là chết — như nỗi sợ của Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết “bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát” – thay đổi còn là mở đường sống. Sau khi thay đổi 180 độ, từ chủ trương kỳ thị tới chống kỳ thị, George Wallace đã đắc cử Thống đốc Alabama lần thứ tư, với sự ủng hộ của đa số cử tri da đen.


Ai sẽ làm những người như Nguyễn Phú Trọng và Đảng của ông ta phải thay đổi, để Việt Nam có thể tiến lên? Không cần phải đợi có những người như Gorbachev hay Yeltsin. Một người như Nguyễn Đắc Kiên, trong một khoảnh khắc được thôi thúc bởi ý thức trách nhiệm, đã bất chấp sợ hãi, đương đầu với cường quyền, tạo được sự chú ý trong quần chúng. Như Rosa Parks, Nguyễn Đắc Kiên đã làm bổn phận của mình, trước hết là bổn phận đối với mình, không tiếp tục chấp nhận sống nhục, sau là bổn phận đối với xã hội, và đất nước. Rosa Parks đã tạo được một phong trào, đi đến thành công. Nguyễn Đắc Kiên có may mắn như Rosa Parks không, điều đó còn tuỳ thuộc vào thái độ của những người khác. Nếu đa số những người cùng thời với anh chịu tiếp tục cúi đầu sống nhục dưới quyền tự tung tự tác của một đảng cầm quyền như hiện nay, thì may lắm, anh sẽ còn là một chú thích nhỏ trong một trang sách báo lịch sử nào đó.


Phải cần bao nhiêu người, bao nhiêu hành động cụ thể mới đủ để làm bùng lên ngọn lửa Nguyễn Đắc Kiên đã nhóm? Trách nhiệm với đất nước và tình yêu tổ quốc không phải là thứ có thể cân đo đong đếm để có thể trả lời bằng những con số chính xác. Chỉ cần một vụ tự thiêu của Hoà thượng Thích Quảng Đức để đốt cháy cả chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm nửa thế kỷ trước. Cũng chỉ cần một anh Bouazizi tự thiêu đã đủ làm sụp đổ cả chế độ độc tài của Tổng thống Ben Ali ở Tunisia hai năm trước. Nhưng với trên một trăm vụ tự thiêu của người Tây Tạng trong hai năm qua vẫn chưa đủ để tạo chú ý của nhà cầm quyền Bắc Kinh. Chỉ cần một Giải Nobel, Aung San Suu Kyi đã đủ để thay đổi cục diện Miến Điện, trong khi chủ nhân Giải Nobel Đạt Lai Lạt Ma vẫn lui tới Bạch Ốc nhưng chưa thể đặt chân trên quê hương mình, và chủ nhân Giải Nobel Lưu Hiểu Ba chỉ làm chật thêm nhà tù Trung Quốc. Chừng nào độc tài còn ngự trị, chừng đó người dân chưa làm đủ bổn phận đối với dân tộc mình, đất nước mình.


Cũng cần nói thêm, không phải Tổng thống Obama mang mầu da đen, rồi có quyền tự ý ra lệnh làm tượng bà Parks đem vào đặt ở Quốc hội. Theo đạo luật quy định về việc đặt tượng tại United States Capitol National Statuary Hall ở Quốc hội Hoa Kỳ, có hiệu lực từ ngày 2 tháng 7, 1864, mỗi tiểu bang được quyền đề nghị hai pho tượng. Chính tiểu bang Alabama từng bốn lần bầu cho “vua kỳ thị” George Wallace làm thống đốc, đã chi tiền đúc tượng Rosa Parks. Trong khi tượng Rosa Parks, người phụ nữ da đen đầu tiên, đứng chung với tượng George Washington, thì George Wallace, dưới mồ với nỗi hối tiếc cả đời.


Để phù hợp với đà tiến của xã hội, chỉ trong 58 năm, Hoa Kỳ đã “đổi trắng thay đen”. Trong khi ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam cương quyết: “Trước đây đã như vậy, hiện nay đang như vậy, và sau này cũng sẽ vẫn như vậy”.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 25, 2013 17:27

Nguyễn Quang Lập's Blog

Nguyễn Quang Lập
Nguyễn Quang Lập isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Quang Lập's blog with rss.