Nguyễn Quang Lập's Blog, page 58
March 17, 2013
Dân chủ hình thức:Nhìn từ cơ sở và những hệ lụy
Đoàn Vương Thanh
Có lẽ từ khi chúng ta đổi “Quốc danh” từ “Dân chủ cộng hoà” sang “xã
hội chủ nghĩa” nền dân chủ quốc gia, kể cả dân chủ trong Đảng, trong
hệ thống chính trị (thậm chí cả trong kinh tế xã hội) đã có nhiều thay
đổi. Một trong những thay đổi quan trọng ấy là đi dần từ “dân chủ
tương đối thực chất” sang “dân chủ hình thức”. Dân chủ hình thức bao
trùm gần như toàn bộ nền dân chủ mà chúng ta hướng tới và xây dựng,
hầu như không giống như bất cứ quốc gia nào trong khu vực cũng như
trên thế giới. Đúng là xây dựng một nền dân chủ theo đúng bản chất của
“dân làm chủ” thì càng ngày ở nước ta càng hiểu và làm, nói và làm tạo
nên những khoảng cách xa vời, trong đó người dân dường như bị bỏ rơi
hoặc không hề được tôn trọng. Trong lĩnh vực này bao gồm nhiều triết
lý dẫn đến mỗi người hiểu một cách, mỗi người quan niệm một cách mà để
đi đến một khái niệm có ý nghĩa thống nhất không dễ dàng gì. Người
dân Việt với nhiều thế hệ, nhiều lứa tuổi khác nhau, trình độ học vấn,
trình độ hiểu biết khác nhau nên hiểu về chế độ dân chủ và quyền làm
chủ của nhân dân cũng có nhiều cái khác nhau. Phải thừa nhận, từ khi
thiết lập chế độ mới do Đảng Lao động rồi Đảng cộng sản lãnh đạo, dân
Việt Nam “dễ thở” hơn các chế độ trước đó, dù là thực dân, phong kiến
hay “chủ nghĩa thực dân mới”, “dân chủ kiểu Mỹ một thời được áp dụng ở
miền Nam”. Tuy nhiên, chúng ta không thể chủ quan phủ nhận cái hay cái
tốt của “thiên hạ” mà chỉ thấy mình là hay nhất, thì đó cũng là cách
hiểu cách nghĩ cực đoan. Trong bài này, chúng tôi không có tham vọng
“luận bàn” về nền dân chủ nói chung và thiết chế của nó như thế nào mà
chỉ phản ảnh một vài khía cạnh diễn biến “dân chủ” trong mấy thập kỷ
qua tại cơ sở. Là một công dân được sống ở cơ sở nhiều năm, được chứng
kiến diễn biến dân chủ ở cơ sở, nhận thức từ những chủ trương, đường
lối, từ những quy chế đến thực tế, tôi có thể rút ra kết luận rằng chế
độ ta thực thi dân chủ hình thức nhiều hơn là dân chủ thực chất, người
dân hầu như chỉ được hưởng khẩu hiệu “dân chủ” hoặc là “dân làm chủ”
trên lý thuyết, nhiều hơn là trong thực tế.
Một vài nhận thức về sinh hoạt dân chủ trong Đảng. Đây là vấn đề rất quan trọng phản ảnh sự thành bại trong công tác xây dựng Đảng. Không chỉ Đảng cộng sản, mà trong lý thuyết nhiều khi nhấn mạnh “là một đảng kiểu mới”, nghĩa là Đảng giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, tổ chức một chế độ xã hội hoàn toàn mới theo lý tưởng của Đảng và theo mơ ước của các vị tiền nhân, song trong thực tế chúng ta đã thi hành một chế độ sinh hoạt tập trung nhiều hơn dân chủ, lấy đa số áp đảo thiểu số, thiểu số phải tuyệt đối phục tùng đa số. Nhưng trong cuộc sống, nhiều khi đã số cũng vấp phải những sai lầm, thậm chí sai lầm nghiêm trọng, trước hết làm hại uy tín của Đảng lãnh đạo, mất lòng tin của nhân dân. Trong thực chất, nói rằng “thiểu số phục tùng đa số” nhưng diễn biến sinh hoạt hằng ngày quyền quyết đinh tối thượng, bao trùm lại chỉ tập trung vào “thiểu số” đôi khi rất thiểu số. Đảng bộ xã tôi hiện có gần 400 đảng viên. Đội ngũ đảng viên của một cơ sở xã “có truyền thống anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” ngày nay có thể chia làm ba loại: lớp đảng viên cao tuổi được kết nạp trong thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ, phần lớn được kinh qua thử thách của chiến tranh cách mạng, có trình độ giác ngộ chính trị nhất định, nhưng tuổi đời và tuổi đảng cũng đã già, thường có tư tưởng “an tri” hoặc theo chủ nghĩa “ma kê no” (mặc kệ nó), có khi biết anh em con cháu mình làm sai vẫn lờ đi coi như không biết hoặc biết những lại “cổ vũ” bằng nhiều hình thức. Lớp đảng viên đông đảo ở các chi bộ thuộc đảng bộ xã là lớp người trung tuổi, được kết nạp trong khoảng thời gian vài ba chục năm qua, không một ai được thử thách qua chiến tranh cách mạng, được thừa hưởng thành quả của cha ông qua hai cuộc kháng chiến và các cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc, có điều kiện được học văn hoá, có trình độ học vấn nhất định, trình độ hiểu biết khá hơn lớp đảng viên già, nhưng sau khi được vào đảng, hoặc được giữ một số cương vị lãnh đạo ở cơ sở, sinh ra chủ quan, ít chịu khó học tập, trau dồi trình độ chính trị, tính đảng, tính quần chúng. Khi đảng cho phép đảng viên làm giầu, lớp đảng viên này hăng hái bắt nhạy với tình hình kinh tế thị trường, có điều kiện về cơ sở vật chất và vốn liếng, lại được con cháu hỗ trợ nên lao vào làm giầu dưới nhiều hình thức khác nhau, Ai có cương vị thì làm giầu bằng cách luồn lách, lợi dụng sơ hở của chính sách quản lý kinh tế, lợi dụng sự quan liêu của cấp trên và có khi được sự “thông đồng” của “những cái ô, cái nón”, thả sức làm giầu. Người ta đưa ra ý kiến và tranh luận gắt gao về “quyền sở hữu đất đai” lớp đảng viên này chỉ mong Nhà nước duy trì mãi “đất đai thuộc quyền sở hữu, quản lý toàn dân, do Nhà nước làm đại diện” Bởi thế, đa số đảng viên ở cơ sở có chức có quyền đã tham nhũng về đất đai, lợi dụng giá cả thị trường về đất đai, làm giầu nhanh chóng mà ít đổ mồ hôi công sức. Còn có một lớp đảng viên trẻ (trên dưới ba mươi tuổi) được kết nạp khá dễ dàng trong thời kỳ “đổi mới” ít được thử thách cam go, động cơ vào đảng cũng thiếu chính xác, vào đảng một phần do “con ông cháu cha” hoặc thân quen “kéo bè kéo cánh”, nhưng lại là những người “xung kích” trong mọi mánh khoé làm ăn, cũng đã ít nhiều biết tham ô, tham nhũng, quan liêu, hách dịch, coi thường dân, nhưng thường ít phát biểu trong họp chi bộ, ít bày tỏ quan điểm trong đám đông, xa rời quần chúng và chủ quan. Với đặc điểm ấy, họp đảng bộ xã hiện nay chỉ là sinh hoạt hình thức nhiều hơn là nội dung thực chất. Thường vụ đảng uỷ tổ chức “học nghị quyết của cấp uỷ cấp trên hoặc triển khai nghị quyết của bản thân cấp uỷ cơ sở” đảng viên được triệu tập dự học, nhiều khi chỉ đạt từ 60% đến 70% đảng số, nửa buổi lần lượt “bận” công tác bỏ về, nghe câu được câu chăng, chẳng mấy khi đọc nghị quyết, đọc báo đảng…vì còn “bận làm ăn”. Một cán bộ “địa chính xã” mới 50 tuổi, rất có nhiều kinh nghiệm “bán sổ đỏ” nhưng lại rất ít khi nghiên cứu về luật đất đai hiện hành, giỏi “cấu véo” đất đai, làm giầu từ đất rất nhanh và dữ dội.
Việc “bầu bán” trong đảng xem ra có vẻ dân chủ, nhưng thực chất là “dân chủ hình thức”. Số lượng đảng viên được bầu vào cấp uỷ mỗi khoá do cấp trên ấn định tương ứng với số dân và đảng số của đảng bộ, như ở cơ sở tôi cư trú thì từ 15 đến 17 người, được phân chia theo “địa bàn thôn”, theo “dòng họ” và theo sự “giới thiệu của người thân” thành ra mỗi cuộc bầu bán không để chon người có khả năng và đạo đức vào cấp uỷ mà thường là chia đều cho “chân tre”, cho “dòng họ” và cho thân quen. Trên cho cấp uỷ xã 15 người, có đưa ra đại hội xin giơ tay biểu quyết, rồi tìm cách đưa cháu ruột mình vừa mới tuyên bố chính thức được ít ngày vào cấp uỷ. đã giới thiệu ít khi “trật” mặc dù người ta biết thừa “ông cấp uỷ ấy” chẳng có tài cán gì, chỉ độc nhất có một tiêu chuẩn là “cháu gọi ông chủ tịch xã là bác ruột”. Đại hội chi bộ nhiệm kỳ 2,5 năm, bí thư chi bộ cũ bị phê bình công khai khi thảo luận về nhân sự, nhưng Bí thư đảng uỷ gợi ý” cậu không được nghỉ khoá này đâu nhé” thế là chỉ hơn một phiếu thôi vẫn trúng vào cấp uỷ và vẫn nghiễm nhiên làm bí thư chi bộ. Có chức là có quyền, có quyền là có tiền. Cho nên người ta mất rất nhiều công sức để “mua quan bán chức” từ cái chức cỏn con ở thôn xóm trở lên đều có giá.
Một đảng bộ xã gần 400 dảng viên, nhưng mọi quyết định của xã đều do ‘Ban thường vụ” thực chất chỉ hai ông bí thư và ông chủ tịch xã quyết định cả. Đưa ra đảng uỷ, hoặc đưa ra đảng bộ chỉ là lấy lệ. Học Nghị quyết trung ương 4 về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” dường như chẳng có đảng viênnào thấy được vấn đề cấp bách, chẳng ai xúc động khi nghị quyết nêu “ảnh hưởng đến tồn vong của chế độ” và tổ chức phê bình, tự phê bình cũng qua loa đại khái cho có làm.
Dân chủ trong Đảng như vậy nên “quán triệt” trong dân chẳng khác mấy.
Bầu quốc hội và HĐND cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh làm đúng thủ tục niêm
yết danh sách và tiểu sử đại biểu ứng cử, nhưng đều là những cái tên
“lạ hoắc” với vài lời giới thiệu kinh qua chức vụ chứ không phải là
tiểu sử. Đến ngày bầu. ở đâu “có phong trào” thì cờ rong trống mở, vận
động cô giáo và học sinh trung học cơ sở, tiểu học đi rong các xóm hô
vang khẩu hiệu xen lẫn với tiếng trống ếch của các em, nơi nào không
có “phong trào” thì thông báo trên loa truyền thanh của xã, coi như
đùng thủ tục. Khi bầu, phát phiếu cho từng nhà theo danh sách cử tri
đã được niêm yết và đến ngày bầu thì gia đình, thậm chi cả xòm cử một
đại biểu có điều kiện, thường là mấy ông già về hưu, tay cầm một nắm
phiếu của gia đình đến lấy dấu đóng vào một loạt thẻ cử tri rồi bỏ
loạt phiếu ấy vào hòm phiếu, nên số đại biểu ấn đinh trúng cử đều
trúng 100% vì có ai chú ý đến việc lựa chọn đâu. Có dư luận, có thể
một ông Bí thư đảng uỷ, kỳ này sụt phiếu, lợi dụng giờ giải lao của
ban bầu cử đi ăn trưa, người ta đã tìm cách “ném vào hòm phiếu” hơn
120 phiếu bầu cho bí thư, thành ra ông này lại có số phiếu cao nhất,
trong khi đó ông phó bí thư lại bị “rớt”. Người ra quy đinh cán bộ chủ
chốt xã như bí thư, chủ tịch xã không được làm liên tục quá hai nhiệm
kỳ (10 năm), người ta đã “biến tấu” bằng cách “hoán vị cho nhau, Bí
thư làm 10 năm (hai khoá), xong đổi cho chủ tịch 10 năm hai khoá, cộng
là 20 năm, đến tuổi hưu là vừa, cũng là thời gian cần thiết để có
nhiều đất đai, nhà cửa, cài cắm con cháu vào những vị trí cần thiết
thơm tho. Tiêu chuẩn học vấn, bằng cấp chỉ là cái trang trí cho đủ lệ
bộ thôi. Vì vậy có ông Chủ tịch xã khoe rằng ông có 3 bằng đại học, đủ
tiêu chuẩn làm trưởngphòng trên huyện, nhưng thực chất thì ông chưa
học hết cấp hai ngày xưa. Phát hiện ra, nhờ có vây cánh và “đạn” nên
chỉ bị “khiển trách” lấy lệ, còn đâu vẫn vào đấy.
Thực chất của việc thi hành Chỉ thị số 30 của Bộ Chính trị về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở (xã, phường, thị trấn) là như vậy, việc đó đã diến ra ba bốn thập kỷ rồi nên có rất nhiều hệ luỵ mà rõ nhất là “dân chủ hình thức” hoặc lợi dụng “dân chủ tập trung” để tập trung quyền hành về tay một số người có thế lực hoặc tạo được thế lực mà thôi.
Sinh hoạt dân chủ ở cơ sở hiện nay rất “khôi hài”: thôn nào cũng có
một vài chục vị phần lớn là cán bộ hưu, người cao tuổi, cựu chiến
binh, phần lớn có lương hưu trở thành người “đi họp chuyên nghiệp” gần
như cuộc họp dân nào cũng chỉ có bấy nhiều gương mặt. Trước khi họp
HĐND xã, tổ chức họp lấy ý kiến cử tri, vẫn là những gương mặt ấy đi
họp, vì họ đều là cử tri. Thôn có 270 hộ dân với gần 1400 nhân khảu,
trong đó có trên 800 cử tri, nhưng đến hop cử tri chỉ có 20-25 người.
Có cử tri bỏ về vì họp như vậy là không đúng luật. Nhưng cuộc họp vẫn
diễn ra, vẫn có báo cáo những ý kiến đóng góp của cử tri, phần lớn là
những vấn đề “râu ria” chứ ít vào vấn đề quốc kế dân sinh như dân mong
muốn và UB Mặt trận Tổ quốc vẫn có một bản báo cáo khá dài trước kỳ
họp HĐND, xong kỳ họp, mọi việc giống như ném hòn cuội xuống ao bèo
tấm.
Nguyện vọng của dân là xâydựng một bản Hiến pháp dân chủ thật sự,
nhưng với cung cách chỉ đạo lâu nay và cũng có thể còn lâu nữa mới có
thay đổi cần thiết, thì “dân chủ hình thức” không đem lại lợi ích gì
trong nền dân chủ “xã hội chủ nghĩa” gấp vạn lần các chế độ dân chủ
khác” nay vẫn là như vậy, cho nên mới sinh ra “phe nhóm”, “xa dân”,
“quan liêu”, “ức hiếp dân”.”tham nhũng”, “nhũng nhiẽu dân”..Chúng tôi
tha thiết mong ước các vị lãnh đạo cao của nền dân chủ nước nhà bớt
chút thì giờ vàng ngọc về lăn vào dân mà nghe dân nói về dân chủ thì
sẽ vỡ vạc ra nhiều vấn đề thiết thực. Lý thuyết mầu xám và thực tế
sinh động của cuộc sống mới là mầu hồng…
Tác giả gửi QC








March 16, 2013
WHAT’S ON YOUR MIND ?
Võ Trung Hiếu
Tháng Sáu …
Lại một ngày cuối tuần
Nằm và nghe mình mục ruỗng
Trong căn phòng bỗng chợt mênh mông
Giữa một thành phố nghiêng ngả và chênh vênh
Tại một quốc gia bé nhỏ và chơi vơi
Ngoài kia là muôn vẻ cuộc đời
Có tất cả mà như không hồn vía
Thừa sách vở, diễn từ, ebook, iphone, nhưng không hề rõ nghĩa
Thừa sáo rỗng, rập khuôn đến mức bọn MC hoạt ngôn có thể dùng những lời huyên thuyên tại đám cưới tối qua thành điếu văn đọc ngoài nghĩa địa
Thừa đại biểu, hội đồng, uỷ ban và những danh xưng trang nghiêm, nhưng thiếu lương tri, sự phục thiện, thật thà
Không hiểu vì lẽ gì mà năm tháng đi qua
Bao người lớn không còn cảm thấy đớn hèn khi soi mình trong đôi mắt trẻ
Cả chục triệu người lạnh lùng lướt vội qua nhau
Sự vô cảm vốn luôn không mùi vị, không màu
Ngày ngày lại kết tủa thành những tin buồn trên mặt báo
Cái thực không có fan club
Không lung linh sexy bằng cái ảo
Nên đành ngậm ngùi đi chỗ khác chơi
Các hot boy hot girl lên tivi nói chuyện, ” Sống ở đời … “
Nghe mà lợm giọng …
Giữa những cơn thức tỉnh u mê
Những ảo vọng phù du như bong bóng xà phòng
Ai cắt nghĩa được cho mình lẽ sống ?
16.6.2012
VTH
Tác giả gửi QC








Quyền dân chủ xuyên suốt và tất yếu trong Hiến pháp
Vật chất có thể nhận biết bằng cách quan sát các hiện tượng hoặc bằng cách suy luận. Ánh sáng có thể được thấy dưới dạng hạt hoặc là sóng. Đánh giá một quốc gia, người ta thường nhìn vào bản Hiến pháp bởi vì nó là một hệ thống quy định những nguyên tắc chính trị căn bản và thiết lập thủ tục, quyền hạn và trách nhiệm của một chính quyền. Bởi vậy, tất cả các quốc gia đều rất cần có bản Hiến pháp dân chủ thể hiện nhà nước pháp quyền. Quốc hội có chủ trương sửa lại Hiến pháp năm 1992, không những là cơ sở để sửa những luật cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước, cơ chế bảo vệ Hiến pháp và quyền bầu cử mà còn là cơ hội để rà soát, đánh giá lại toàn bộ về bản Hiến pháp đối với yêu cầu hội nhập và phát triển của đất nước. Hiến pháp là một văn kiện thiêng liêng của mỗi quốc gia, là văn bản tối cao của pháp luật quy định những vấn đề cơ bản nhất của nhà nước đó. Bản chất của Hiến pháp là những quy định pháp luật mà văn bản pháp luật là những điều quy tắc ứng xử , bắt buộc đối với mọi đối tượng sống trên lãnh thổ nhà nước cho nên khi sửa phải rất thận trọng, bài bản, khoa học và thực tế. Hiến pháp của một quốc gia là tiếng nói của nhân dân, của dân tộc làm chủ quốc gia đó. Người đứng ra nói trong Hiến pháp là dân tộc, từng câu, từng chữ, từng lời trong Hiến pháp là câu, là chữ, là lời của dân tộc, biểu thị sự lựa chọn và quyết định của dân tộc, ý chí và tâm nguyện của dân tộc.
Nhận thức về bản chất của Hiến pháp, sẽ chỉ rõ cho chúng ta khi muốn sửa Hiến pháp phải làm những việc gì, làm như thế nào, khi nào để một văn bản tự nhận là Hiến pháp đáng gọi là Hiến pháp. Trên thế giới này, xưa nay đã từng có những bản mạo danh Hiến pháp, là sản phẩm của một số người mạo danh dân tộc. Xin lưu ý rằng, giá trị của một bản Hiến pháp hoàn toàn vừa đúng bằng, không hơn, không kém, giá trị của sự thực hiện Hiến pháp ấy. Những nhà nghiên cứu có kinh nghiệm thường đánh giá một bản Hiến pháp dựa trên sự phân tích thực tế thực hiện hay không thực hiện, thực hiện trung thành hay thực hiện bóp méo các điều khoản, và các câu chữ của văn bản Hiến pháp ấy.
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 2/9/1945, đọc tại vườn hoa Ba Đình lịch sử, mở đầu, Người đã dựa vào lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập 1776 của nước Mỹ và bản Tuyên ngôn nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh là đỉnh cao của văn chương chính luận Việt Nam là Văn kiện pháp lý đầu tiên khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên trường quốc tế. Bản Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945 của Hồ Chủ Tịch văn chương sắc sảo, giản dị, dễ hiểu, lay động lòng người, phản ánh tư tưởng của Người: Dân tộc muốn đi lên, phải biết thừa kế các tinh hoa của nhân loại. Với tầm vóc của lãnh tụ, Người lập luận vô cùng sắc sảo, đanh thép, chân lý, hào khí của dân tộc: “Nếu nước nhà được độc lập mà dân chúng không có tự do hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân chủ rất đơn giản, thiết thực nghĩa là mọi người dân có quyền được mở miệng hay nói cách khác Hiến pháp phải thể hiện được quyền phúc quyết của người dân. Nếu dùng phương pháp “tham chiếu” sẽ thấy Hiến pháp 1946 thể hiện tuyệt vời Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ Tịch bởi lẽ nó đúng, đủ và giản dị, thể hiện dễ hiểu thành Hiến pháp với tất cả tinh thần của Tuyên ngôn độc lập. Thực ra, thể hiện Tuyên ngôn độc lập như thế vào Hiến pháp là việc rất khó nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm được. Đương nhiên, thời ấy câu chữ có phần mộc mạc để cho mọi người dân dễ hiểu nên vấn đề tam quyền phân lập được viết ra dưới dạng rất “bình dân”, nhưng mà vẫn đủ nghĩa. Trong quá trình phát triển của đất nước, phải hướng tới tương lai, chúng ta không bao giờ muốn “bao giờ cho đến ngày xưa” nhưng éo le thay, thời đại ngày nay vấn đề sống còn của đất nước là phải trở lại, học hỏi những tinh túy của Hiến pháp 1946.
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ 3/9/1945, Hồ Chủ tịch đã có chỉ thị nhiệm vụ cấp bách phải xây dựng bản Hiến pháp để nhân dân được hưởng quyền tự do dân chủ. Theo sắc lệnh số 34 ngày 20/9/1945 của Hồ Chủ Tịch Ban soạn thảo Hiến pháp 1946 của Chính phủ lâm thời do 7 người chủ trì: Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy (Bảo Đại), Đặng Thái Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh). Tháng 11-1945, bản Dự án Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được Chính phủ soạn thảo và được công bố để lấy ý kiến các chính giới. Uỷ ban kiến quốc của Chính phủ cũng đã tự nghiên cứu và đưa ra một Dự thảo Hiến pháp. Ngày 2-3-1946, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa I, Quốc hội đã bầu Ban Dự thảo Hiến pháp gồm 11 người: Trần Duy Hưng, Tôn Quang Phiệt, Đỗ Đức Dục, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Huỳnh Bá Nhung, Trần Tấn Thọ, Nguyễn Cao Hách, Đào Hữu Dương, Phạm Gia Đỗ, Nguyễn Thị Thục Viên. Đây là các trí thức tiêu biểu, có người chưa phải là đảng viên. Căn cứ vào bản Dự án của Chính phủ và đối chiếu với bản Dự thảo của Uỷ ban kiến quốc, tập hợp những kiến nghị phong phú của toàn dân và tham khảo kinh nghiệm soạn Hiến pháp của các nước, Ban Dự thảo Hiến pháp của Quốc hội đã soạn thảo một Dự án Hiến pháp để trình Quốc hội. Trong phiên họp ngày 29-10-1946, Ban Dự thảo Hiến pháp của Quốc hội được mở rộng thêm 10 vị đại biểu cho các nhóm, đại biểu trung lập, đại biểu Nam Bộ, đại biểu đồng bào dân tộc thiểu số để tham gia tu bổ thêm bản Dự án.
Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, từ ngày 28-10 đến ngày 9-11-1946, lần đầu tiên Quốc hội Việt Nam thực hiện quyền lập hiến. Từ ngày 2-11-1946, Quốc hội bắt đầu thảo luận về Dự án Hiến pháp. Các đại biểu của các nhóm đảng trong Quốc hội đã lần lượt phát biểu ý kiến. Các vị đại biểu của các nhóm đều đã nêu ra những ưu điểm của Dự án Hiến pháp, đóng góp thêm một số khía cạnh cụ thể và đi đến thống nhất nội dung của Dự án. Sau nhiều buổi thảo luận và tranh luận sôi nổi, sửa đổi, bổ sung cho từng điều cụ thể, ngày 9-11-1946, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hiến pháp 1946 với sự nhất trí của 240/242 đại biểu dự họp. Hiến pháp 1946 khá đơn giản, có 70 điều, được xây dựng trên tư tưởng pháp quyền, tự do dân chủ của công dân, và quy định những vấn đề cơ bản nhất của nhà nước. Đặc điểm cơ bản của Hiến pháp năm 1946 được thể hiện trong 3 nguyên tắc cơ bản, đó là: đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo trên cơ sở của nhà nước pháp quyền với quyền tự do dân chủ của công dân . Do hoàn cảnh lịch sử của nước ta thời ấy nên Hiến pháp 1946 tuy có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn có mặt bị hạn chế, phải dung hòa. Cụ Nguyễn Sơn Hà là đại biểu Quốc hội Khóa I của Việt Nam bỏ phiếu chống chỉ vì Hiến pháp không có Điều nói về tự do kinh doanh. Ngẫm suy, mới thấy sinh hoạt Quốc hội thực sự dân chủ ngay từ thời mới lập nước Việt Nam để phát huy trí tuệ của toàn dân.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Hiến pháp Hoa Kỳ được thông qua năm 1789 có tính quốc gia hiện đại lâu dài nhất trên thế giới nhưng thực ra, nó cũng chịu ảnh hưởng của Hiến pháp Anh. Xin ghi lại nguyên văn câu đầu tiên của Hiến pháp Hợp chủng quốc Mỹ (từ “Hợp chủng quốc” dịch không chuẩn từ “United States”) “ CHÚNG TÔI, NHÂN DÂN Hợp chủng quốc, với mục đích thực hiện một sự liên hiệp chặt chẽ hơn, thiết lập công lý, duy trì an ninh nội bộ, trù liệu công cuộc phòng thủ chung, phát triển sự thịnh vượng toàn diện và bảo đảm cho chúng tôi và hậu thế của chúng tôi các lợi ích của sự tự do, quyết định và thiết lập hiến pháp này cho Hợp chủng quóc Mỹ”.
Câu nói trên, là của những người biết cách viết Hiến pháp. Còn chất lượng của Hiến pháp, và nhất là giá trị của sự thực hiện Hiến pháp, thì phải nghiên cứu, phân tích trong thực tế cuộc sống. Hiện nay, ở nước ta một số người vẫn có phần úy kỵ với tam quyền phân lập mà hay dùng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Nếu đi sâu phân tích về tam quyền phân lập, bản chất là 3 nhánh quyền lực không chỉ phân lập mà còn kết hợp hài hòa chặt chẽ và kiểm tra giám sát lẫn nhau trên nền tảng là trung thành với nhân dân.
Văn bản luật của một nhà nước gồm một hệ thống từ Hiến pháp đến các văn bản lập pháp ban hành và hướng dẫn thực hiện. Pháp luật nhà nước là công cụ phục vụ cho các giá trị xã hội cho nên Đảng phải chủ động đặt lên bàn nghị sự thảo luận những vấn đề cốt lõi của thể chế hiện nay.
Hiến pháp 1992 gồm 12 chương, 147 điều được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Khóa VIII, kỳ họp thứ 11 nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 15/4/1992 do Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh ký. Nếu đọc kỹ bản Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) có Lời nói đầu 2 trang, 6 đoạn, cần phải sửa để người đọc thấy rõ đó là lời của nhân dân Việt Nam. Đó là mới chỉ nói về viết văn bản Hiến pháp. Người dân hiểu được tiến trình quốc gia thông qua Hiến pháp có quan hệ mật thiết đến hoàn cảnh chính trị và lịch sử văn hóa của dân tộc. Việc quan trọng nhất là phải xác định nội dung Hiến pháp xây dựng trên các nguyên tắc nào, các quan điểm xây dựng Hiến pháp và các phương pháp thực hiện.
Theo chúng tôi hiểu, hiện nay có 3 quan điểm sửa đổi Hiến pháp 1992. Thứ nhất là chỉ sửa một số điểm trong Hiến pháp để làm cơ sở sửa những luật cơ bản về tổ chức bộ máy nhà nước nhằm bỏ Hội đồng nhân dân cấp huyện và cho Thủ tướng Chính phủ quyền bổ nhiệm các chủ tịch tỉnh, cơ chế bảo vệ Hiến pháp và quyền bầu cử. Có thể nói đây là quan điểm cho mục tiêu trước mắt. Quan điểm thứ hai là trả lại cho dân quyền làm chủ đích thực: “Dân làm chủ có nghĩa là Dân phải quyết trực tiếp thể chế quốc gia, tức là Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, rồi Dân giao cho Nhà nước và giám sát Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ và Tòa án) quản lý đất nước theo Hiến pháp và những quyết định đó của Dân”. Ông Nguyễn Văn An đã có thời kỳ đảm nhiệm cương vị Chủ tịch Quốc hội. Qua trải nghiệm của thời gian, thấy rõ những khiếm khuyết, bất cập của Hiến pháp 1992 nên Ông đã mạnh dạn đề xuất quan điểm thứ hai nói trên hay nói cách khác đây là mục tiêu lâu dài. Quan điểm thứ ba dựa trên thể chế chính trị dân chủ của học hỏi và phát triển, cần Đổi mới Đảng và khởi động cuộc vận động cả nước đi vào quá trình dân chủ hoá đất nước. Chúng tôi nhận thấy những ý kiến nêu trên rất cần thiết phân tích, đánh giá. Những người đương chức, có trách nhiệm cần sắp xếp, thể hiện tính lô-gích nội tại của sự vật, của thực tế bởi vì Hiến pháp 1992 không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội sau 20 năm đổi mới. Thiệt thòi là lịch sử phát triển xã hội ở nước ta không trải qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa nên không có được kinh nghiệm tri thức và cơ sở vật chất cho nên phải mò mẫm theo định hướng riêng nên gặp phải nhiều khó khăn, trắc trở cũng là điều dẽ hiểu. Trong thời đại hội nhập và phát triển chúng ta cần phát huy tính tự cường của dân tộc, đồng thời khiêm tốn, học hỏi các tinh hoa của nhân loại để tiến cùng thời đại.
Người dân luôn quan tâm làm thế nào để Hiến pháp được thực thi một cách minh bạch, hữu hiệu trong đời sống thực tế? Ngay bản Hiến pháp trước đây của Liên Xô trên văn bản là đảm bảo quyền tự do lập hội hay quyền tự do ngôn luận nhưng thực tế diễn ra không phải như vậy. Ở các nước tiên tiến, thực sự dân chủ, Hiến pháp được bảo vệ bằng Tòa án Hiến pháp hoặc Tòa án tối cao. Việc sửa đổi Hiến pháp 1992 để có thể áp dụng hữu hiệu trong thực tế, đáp ứng nhu cầu hội nhập và phát triển, phải được xây dựng trên tư duy phân rõ trách nhiệm, quyền hạn, và giám sát lẫn nhau của 3 cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước: Lập pháp; Hành pháp; và Tư pháp; Các cơ quan Truyền thông, báo chí và Kiểm toán độc lập không nằm trong bộ máy tổ chức nhà nước nhưng là trung tâm quyền lực xã hội cần được luật hóa bảo đảm quyền lực trong xã hội dân sự, đồng thời chịu trách nhiệm trước pháp luật và xã hội. Nói cách nôm na, xã hội cần có 5 trung tâm quyền lực nói trên hay còn gọi là “ngũ quyền” để kiểm tra, giám sát lẫn nhau.
Sửa đổi Hiến pháp 1992 là một dịp rất tốt để thúc đẩy quá trình dân chủ hóa do Đảng phát động thông qua dư luận xã hội. Ý kiến của xã hội dân sự lành mạnh sẽ là chỗ dựa tin cậy và chắc chắn cho lực lượng cầu thị trong Đảng. Trong bối cảnh đất nước hiện nay, mọi sự cải cách cơ bản chỉ có thể do bộ phận lãnh đạo chủ chốt của Đảng phát động, chỉ đạo thực hiện và phải thực sự cầu thị lấy tư tưởng Hồ Chí Minh và yêu cầu phát triển của thời đại làm nền tảng.
Hiến pháp dân chủ về bản chất nhân dân phải là người ra quyết định làm chủ quốc gia. Nội dung chủ yếu của các quyết định ấy được tạo thành hệ thống pháp luật. Nguyên tắc quan trọng nhất là tất cả quyền bính trong nước đều thuộc về nhân dân. Bởi vậy, chúng tôi đề nghị khi sửa bản Hiến pháp 1992 , thì ngay câu đầu tiên phải viết như sau:
“Chúng tôi, dân tộc Việt Nam quyết định và công bố những điều khoản sau đây, với trách nhiệm lịch sử trước các thế hệ người Việt Nam hiện nay và mai sau, trước các dân tộc, các quốc gia trong cộng đồng quốc tế” .
Trong bối cảnh của đất nước hiện nay, cần phải có bước quá độ nhưng một số vấn đề quan trọng nhất sau đây cần phải được làm ngay, có tính chất mở đường khi sửa đổi Hiến pháp 1992:
1. Đảng lãnh đạo thông qua quan điểm được thể hiện trong luật pháp và các chủ trương chính sách được Quốc hội thông qua, và qua đảng viên của mình trong hệ thống bộ máy nhà nước; Cần làm rõ Hiến pháp là tối thượng, chính quyền chỉ hoạt động theo quy định của Hiến pháp và hệ thống pháp luật. Sau khi làm rõ quyền và trách nhiệm của công dân, rồi đến quyền và trách nhiệm của hệ thống nhà nước trong chỉnh thể tam quyền phân lập. Cần có một chương mục chung quy định về các điều kiện phải có để được phép trở thành đảng chính trị tham gia bầu cử nhằm loại bỏ, sàng lọc các đảng phái không thực sự đại diện cho các lợi ích dân tộc mà chỉ mưu đồ cho mục đích của một nhóm cá nhân có khả năng làm ảnh hưởng đến lợi ích cùa toàn dân tộc. Các điều kiện, vai trò lãnh đạo chỉ được công nhận qua bầu cử. Chương mục về đảng phái chính trị nên để chung vào chương mục bầu cử.
2. Để đảm bảo quyết phúc quyết của dân, trước hết phải bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân, các quyền tự do ngôn luận, đi lại & cư trú, hành nghề, quyền sở hữu, quyền ứng cử và bầu cử
3. Bảo đảm tự do báo chí. Tự do được hiểu là trong khuôn khổ của Hiến pháp và quyền hạn gắn với trách nhiệm.
Quốc gia muốn phát triển bền vững đòi hỏi có bản Hiến pháp xứng đáng gọi là Hiến pháp, hay nói cách mạnh mẽ hơn cần có bản Hiến pháp dân chủ thể hiện nhà nước pháp quyền. Đảng nâng cao vai trò, chất lượng và nội dung lãnh đạo của Đảng bằng việc lãnh đạo tạo dựng được quyền nhân dân ta thực sự là chủ và thực sự làm chủ, lãnh đạo tạo dựng được một nhà nước mạnh, có một bản Hiến pháp đích đáng là Hiến pháp dân chủ và một nhà nước có thực quyền.
TVT








Xương máu Trường Sa và sự…hổ thẹn
Trong hồn người có ngọn sóng nào không? Câu hỏi đó bỗng dưng giờ được hỏi cho rất nhiều người đang sống.
Hoàng Sa- Trường Sa mãi mãi là vết thương nhức buốt với mọi con tim người dân Việt, dù 25 năm đã trôi qua, kể từ cái ngày 14/3/1988 đẫm máu ấy.
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc…
Cái ngày mà 64 người lính Việt, trong tay chỉ có cuốc, xẻng, xà beng, và lòng yêu Tổ quốc, đã lần lượt ngã xuống trước súng, lưỡi lê, đại liên và pháo 37 li cùng mưu đồ xâm chiếm đảo Gạc Ma (thuộc quần đảo Trường Sa- Việt Nam) của phía Trung Quốc.
Và những ngày này- tháng 3/2013, máu từ vết thương Trường Sa lại rỉ.
Không chỉ thế, mà còn có nước mắt chảy ngược vào trong của bao người thân và đồng đội họ, của những con dân Việt luôn khắc khoải nỗi đau Trường Sa, tại buổi lễ tưởng niệm lần đầu tiên được tổ chức tại Đà Nẵng sáng ngày 14/3 mới đây…
Còn nếu ai có dịp xem clip được phát đi trên YouTobe, chứng kiến những giây phút cuối cùng của những người lính Việt trên đảo, cùng chiếc tàu HQ 604 dần chìm xuống…, sẽ hiểu vì sao hàng ngàn bài viết trên các báo, trên các trang mạng xã hội như tiếng thét bi thương, bi phẫn trước chủ quyền Tổ quốc bị xâm phạm.
Ám ảnh xa xót nhất với người viết bài là câu chuyện vòng tròn bất tử Gạc Ma, câu chuyện lá cờ Tổ quốc.
Đó chính là khí phách nước Việt khổ đau.
Không nổ súng, để tránh “bị kiếm cớ” leo thang xung đột, ngày 14/3 năm ấy, họ- những người lính Việt đã phải nắm tay nhau tạo thành vòng tròn giữ đảo. Cái “vòng tròn người” đơn độc thật mong manh và bất lực, trước những kẻ xâm chiếm hung hãn, vũ khí trang bị đầy đủ.
Lần nào viết bài về Hoàng Sa- Trường Sa, người viết bài cũng viết trong sự nghẹn ngào. Khi thấy những người lính can đảm quá, mà cũng cô đơn quá…
Nhưng cái vòng tròn đó mãi mãi bất tử trong lòng những người đang sống.
Mục tiêu của kẻ xâm lược, còn là cướp lá cờ Tổ quốc được cắm trên rạn đá san hô của đảo, biểu tượng chủ quyền nước Việt. Một phát đạn bắn xuyên qua đầu Trung úy Trần Văn Phương- người cầm cờ. Anh gục xuống.
Nhưng,“tay vẫn cầm chắc ngọn cờ Tổ quốc, lá cờ phủ lên thi thể anh, bồng bềnh trong nước loang máu. Anh Lê Hữu Thảo lao tới ôm thi thể đồng đội đang cuộn trong lá Quốc kỳ.
Thấy thế, lính Trung Quốc xông vào cướp cờ. Nhanh như cắt trung sỹ Nguyễn Văn Lanh giành được lá cờ.
Một tay anh giương cao ngọn cờ, một tay anh cầm xà beng chống đỡ đối phương. Thấy không thể chiến đấu trực diện với người lính kiên cường Việt Nam, lính Trung Quốc đã đâm lén từ phía sau và nã đạn vào anh Lanh”.
Cuộc chiến không cân sức, thì kết quả trận chiến nghiêng về kẻ mạnh.
Nhưng khí phách anh hùng, xả thân vì đất nước, của những người lính Việt tuổi đời quá trẻ, còn mạnh hơn tất cả.
Biển Đông từ ngày ấy như càng mặn đắng. Nước mắt những người đang sống. Và “nước mắt” cả những người đã khuất…
Bỗng nhớ tới hai câu thơ của bà Huyện Thanh Quan: Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc/ Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Những “linh hồn” chim cuốc cuốc dưới biển sâu vẫn đang đau lòng nhớ đảo, nhớ nhà…
Trong hồn người có ngọn sóng nào không?
Trần Văn Phương, Nguyễn Văn Lanh, và tất cả những người lính trên con tàu HQ 604 đã xả thân đến giây phút cuối cùng để giữ lá cờ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền đất nước. Đâu phải để 25 năm sau, một lá cờ “lạ” bé tí tẹo, cắm vô duyên trong những cuốn sách giáo dục cho trẻ em Việt, khiến dư luận xã hội nổi giận thực sự.
Ở đây là lá cờ Trung Quốc cắm ở cổng trường học, trong cuốn sách “Phát triển toàn diện trí thông minh cho trẻ” của NXB Dân trí, loại sách tham khảo dành cho trẻ mầm non, được biên dịch từ tài liệu nước ngoài.
Đây cũng không phải vụ việc đầu tiên. Trước đó, đã hai lần, những lá cờ xa lạ được trưng lên, lạc lõng, khiến xã hội hết sức phẫn nộ.
Và cũng không phải chỉ riêng cuốn sách phát triển thông minh một cách…u tối kiểu này, mới đây, trước áp lực dư luận, Bộ GD và ĐT đã phải có công văn, yêu cầu các NXB kiểm tra các nội dung “không phù hợp”. Mới hay một loạt sách cho trẻ em (của nhiều NXB) bị phát hiện biên soạn cẩu thả từ sách Trung Quốc.
Thậm chí có cuốn, như bộ sách “10 phút cho bé trước giờ đi ngủ” (NXB Mỹ thuật, tập 2), có câu Tổ quốc của chúng ta là Việt Nam. Quốc kỳ của chúng ta chính là lá cờ đỏ sao vàng. Phần minh họa có hình lá cờ Việt Nam để trẻ tô màu, nhưng ngay bên cạnh là hình lá cờ …Trung Quốc. Hay những người biên tập nhận thức rằng, cả hai cờ là …một, đều là cờ đỏ, có sao vàng?
Điều đáng hổ thẹn, việc phát hiện cờ Trung Quốc trong cuốn sách của NXB Dân trí, lại có cả em bé mới 5 tuổi, tức là lứa tuổi mới kịp làm quen để phân biệt được cờ Việt Nam và cờ nước khác. Trong khi người lớn như bà Bùi Thị Hương, Giám đốc NXB này thì thanh minh, thanh nga:
Hình ảnh trong sách là hình ảnh trường của Trung Quốc thì phải treo cờ Trung Quốc chứ không thể treo cờ Việt Nam được. Tôi thấy nội dung và hình ảnh rất bình thường, không có gì… nặng nề.
Có thể, hình ảnh đó thật…nhẹ nhàng với những người kinh doanh sách tham khảo, mà đồng tiền luôn là mục tiêu cao nhất. Nhưng nó rất nặng nề, vì làm tổn thương đến tình cảm của người dân, nhất là trong những năm tháng này, chủ quyền biển đảo, chủ quyền đất nước bị đe dọa xâm lấn. Vì nó không phải, trước hết là về đạo lý thông thường.
Nhà giáo Phạm Toàn đã nhận xét: Những người làm cái đó (in bộ sách có cờ Trung Quốc) là thiếu cả nhạy cảm về chính trị, và thiếu cả cái tình cảm về dân tộc nữa.
Chưa nói là những điều… u tối khác của cuốn sách, như ông Đào Trọng Thi, Chủ nhiệm Ủy ban VH- GD- TTN và NĐ của Quốc hội đã vạch ra, khi trả lời phỏng vấn báo SGGP: Cái sai của cuốn sách này khiến dư luận bất bình, đó là sự thiếu minh bạch, nhập nhèm trong giới thiệu nội dung. Nếu đã tuân theo bản quyền, NXB (Dân trí) phải nói rõ cuốn sách dựa trên nội dung của Bộ GD Trung Quốc, được giới thiệu bởi các tác giả Trung Quốc, như thế mới sòng phẳng.
Đáng chú ý nữa, theo Bộ chủ quản, qua kiểm tra hợp đồng, thấy phía đối tác (Trung Quốc) cho phép NXB (Dân trí) được điều chỉnh nội dung.
Tất cả những sai sót muôn vẻ của các NXB khiến xã hội có quyền đặt câu hỏi: Đó là sự thiếu hiểu biết, sự vô cảm, hay vô trách nhiệm? Hay là tất cả? Chả lẽ câu hỏi cũng chính là câu trả lời!
Lại chợt nhớ bài thơ Tổ quốc nhìn từ biển của Nguyễn Việt Chiến, viết về sinh tử của những người lính Việt trước linh thiêng của lá cờ Tổ quốc, trước linh thiêng chủ quyền biển đảo, có câu thơ- câu hỏi đau nhói lòng:
Trong hồn người có ngọn sóng nào không?
Sự hổ thẹn nhân danh…đủ thứ danh?
Trong hồn người có ngọn sóng nào không? Câu hỏi đó bỗng dưng giờ được hỏi cho rất nhiều người đang sống.
Một trong số đó, có lẽ là ông Hồ Xuân Mãn, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên- Huế, người được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang từ năm 2010, đang trở thành “nhân vật hot” của một vụ khiếu nại- vì bị tố là khai man thành tích.
Gian dối lâu nay đã trở thành chuyện thường ngày ở…xã hội. Mà cái gốc của nó luôn gắn liền chữ lợi (tiền).
Chả thế, trong câu chuyện với phóng viên báo Songmoi.vn, dịp kỷ niệm 12 ngày đêm chiến thắng B52 năm 2012, cựu phi công Vũ Đình Rạng, đã bộc bạch rằng, để được phong anh hùng, chi phí cho việc này tốn khá nhiều tiền khiến ông từ chối (?)
Có điều trong vụ ông Hồ Xuân Mãn, “đối tượng” tố cáo sự gian lận, lại chính là những người… đồng chí của ông, từng giữ các chức vụ chủ chốt của huyện Phong Điền. Cũng là địa bàn ông Hồ Xuân Mãn hoạt động trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ.
Như ông Lê Văn Uyên- Trưởng ban Tổ chức Huyện ủy (1967-1975); ông Hồ Văn Nghĩa, Trưởng ban An ninh huyện (1969-1973), Hoàng Văn Phận, Trung đội trưởng Công binh LLVT huyện (1969-1973), Hoàng Tiến Dũng, Đội phó LLVT huyện (1967-1975), Hoàng Phước Sum, Đội trưởng An ninh huyện (1970-1975)…và nhiều người nữa.
Họ bức xức vì báo cáo thành tích của ông Hồ Xuân Mãn khai man tới 17 điểm.
Tỷ như, ông Mãn khai từ 1969 đến 26.3.1975, ông tổ chức đơn vị đánh gần 100 trận lớn nhỏ, tiêu diệt 150 tên Mỹ ngụy, phá hủy 1 máy bay, 37 xe quân sự. Theo tố cáo, từ 1969 đến tháng 11.1971, ông Mãn ở Quảng Bình và làm cần vụ nên không thể tổ chức đánh trận. Mặt khác, từ 1972 – 1975, các xã Phong An và Phong Sơn chỉ đánh hơn 20 trận chứ không có chuyện đánh tới 100 trận…
Ngoài ra, những người tố cáo còn đưa ra một số dẫn chứng nói rằng, ông Mãn đã kê khai thành tích có yếu tố “cướp công” đồng đội.
Tỷ như, trận đánh ở Bù Mạ, thôn Hiền Sĩ, xã Phong Sơn (giết chết tên ác ôn Nguyễn Công Đẳng) là do ba du kích xã này đánh mìn, hiện hai người còn sống, một người đã hy sinh. Đâu phải do ông Hồ Xuân Mãn..v.v…và v.v…
Chưa kể, ông Hồ Xuân Mãn kê khai trận ““giết ấp trưởng ác ôn” Hoàng Sớm, tự hào là “làm quần chúng nức lòng”, trong khi có tới gần chục người dân thường, trong đó có cả trẻ em, chết oan vì trận đánh này. Chiến tranh vốn có những đau xót, rủi ro. Nhưng liệu quần chúng có thực nức lòng được không, nếu có tới gần chục lương dân thiệt mạng. Cái nhìn về “thành tích” của ông sao lạnh băng và khốc liệt vậy?
Đáng chú ý, đơn khiếu nại gửi đi, và những người khiếu nại, trước sự việc “quá tam ba bận” vẫn không nhận được sự trả lời sòng phẳng, rõ ràng, mới đây, họ lại tiếp tục gửi đơn khiếu nại lần thứ tư, lên tới những cấp cao hơn. Những đồng đội của ông còn đề nghị Tỉnh ủy mở cuộc đối chất với ông Hồ Xuân Mãn. Thậm chí họ đề nghị được kiện ra tòa án binh hoặc toà án dân sự.
Chưa rõ Tỉnh ủy Thừa Thiên- Huế sẽ giải quyết vụ việc này ra sao, thì mới đây, báo Dân Việt đưa tin, một số cựu chiến binh trong vụ tố cáo này như ông Hoàng Phận, ông Hoàng Tiến Dũng cho biết, họ nhận được một số cuộc gọi của người lạ dọa dẫm sẽ thuê xã hội đen xử, hoặc đến tận nhà …khuyên nhủ không nên khiếu nại.
Nếu đúng vậy, thì chả lẽ, thay cho tình đồng đội sống chết có nhau trong chiến tranh, bây giờ, người ta dám giơ ra tình…xã hội đen.
Nếu như những người tố cáo ông Hồ Xuân Mãn phạm tội nói sai, vu khống, chắc chắn họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước tòa án lương tâm.
Còn nếu họ đúng, thì liệu ông Hồ Xuân Mãn có xứng danh Anh hùng nữa không? Nếu không, trong đội ngũ này, vong linh những Anh hùng đã khuất, và những Anh hùng chính trực còn sống, sẽ rất tủi hổ. Dư luận xã hội đang chờ câu trả lời…
Chợt nhớ, cách đây ít lâu, Nghệ nhân dân gian hát xẩm nổi tiếng Hà Thị Cầu đã qua đời. Số phận một người đàn bà tài hoa, dù được phong là nghệ nhân, vẫn khổ cho tới lúc từ biệt cõi đời. Khổ như những làn điệu xẩm rút ruột, tài hoa đấy nhưng cũng bi ai đấy.
Những làn điệu xẩm của kiếp người “hành khất”, nương nhờ vào lòng từ thiện của đồng loại. Cái khổ đó như Trời định.
Còn ông Hồ Xuân Mãn đang phải khổ do … “nhân định”. Ông khổ bởi lòng tham cái danh, cái lợi lớn quá, cho dù ông đã từng đứng dưới ít người, đứng trên triệu người.
Những ngày này, Trường Sa sống trong tâm thức của hàng triệu con tim nước Việt.
Xương máu Trường Sa, hay xương máu những người lính đã ngã xuống trong cuộc chiến vì tự do, độc lập chủ quyền Tổ quốc, đều linh thiêng. Xin đừng vô tình, vô cảm, và vô nghĩa – với họ!








March 15, 2013
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân là nguồn gốc đẻ ra khủng hoảng thị trường bất động sản
Điều 17 Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Điều 1 Luật đất đai năm 1993 quy định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý.”
Việc Nhà nước không thừa nhận quyền tư hữu về đất đai mà chỉ thừa nhận một hình thức duy nhất là “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý” là nguồn gốc đẻ ra khủng hoảng thị trường bất động sản và hàng loạt các khủng hoảng chính trị, kinh tế, văn hóa, bất công xã hội.
Do sở hữu toàn dân về đất đai làm cho nguồn cung về đất đai cho nhu cầu của xã hội bị hạn chế. Kinh tế tăng trưởng kéo theo nhu cầu đất đai cho sản xuất, xây dựng nhà xưởng, cơ sở sản xuất, xây dựng nhà ở… có nhu cầu rất lớn. Nhưng nguồn đất đai thuộc sở hữu phi Nhà nước để cung cấp cho thị trường lại là “con số không” vì không ai được quyền tư hữu về đất đai, mọi giao dịch mua bán về đất đai không được pháp luật thừa nhận. Quy luật có “cầu” ắt có “cung”, cộng với sự không minh bạch của thị trường đã đẩy giá đất lên rất cao so với giá trị thực của nó. Đất đai đã được mua bán “trá hình” dưới tên gọi “chuyển nhượng quyền sử dụng đất” với điều kiện đất có các quyết định hành chính công nhận là đất đã được Nhà nước quy hoạch, được Nhà nước giao, được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ). “Giá đất” chuyển nhượng trên thị trường được đẩy lên rất cao, trong khi người dân chỉ có quyền sử dụng, quyền chiếm hữu (không có quyền định đoạt, tức không có quyền sở hữu) nếu bị Nhà nước thu hồi thì giá bồi thường rất rẻ mạt, thấp hàng chục lần so với sau khi đã được “phù phép” để có thể chuyển nhượng hợp pháp. Lợi nhuận, hay chênh lệch giữa chi phí bồi thường, đền bù cho người dân và giá đất sau thu hồi trên thị trường chuyển nhượng là rất lớn. Khoản chênh lệch này Doanh nghiệp đầu tư bất động sản và quan chức Nhà nước ăn chia trong từng dự án được tính theo giá đất của thị trường. “Công thức làm giàu” này đã phổ biến, phát triển nhanh chóng trên khắp các tỉnh, thành trong toàn quốc. Trong khoảng 20 năm đã sinh ra hàng trăm, hàng nghìn đại gia triệu đô, tỷ đô kinh doanh bất động sản là do ăn cướp tài nguyên của toàn dân mà có và tương ứng sinh ra hàng vạn, hàng triệu người dân mất đất, mất ruộng bị rơi vào cảnh thất nghiệp, bần hàn; hàng vạn ha đất trên toàn quốc bị bỏ hoang hóa; tệ nạn xã hội, bất công, nghịch lý, mâu thuẫn trong xã hội tràn lan, không sao kể hết.
Chukỳ đầu tư hàng hóa bất động sản thường nếu ngắn 2-3 năm, dài 5-10 năm. Nhưng phí phải chi cho quan chức Nhà nước thì doanh nghiệp phải thanh toán trước, thanh toán ngay khi có quyết định phê duyệt. Thị trường bất động sản do bị lũng đoạn bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính nên không phản ánh thực mối quan hệ cung – cầu. Cơn sốt của thị trường bất động sản tất yếu đến lúc quá sức chịu đựng của nền kinh tế thì “bong bóng” thị trường về “cầu” phải vỡ khi đó các doanh nghiệp chết cứng không thể rút chân ra khỏi thị trường được vì phí “hành chính” đã chi rồi. Hậu quả là các ngân hàng, các nhà đầu tư thứ cấp, các ngành cung cấp khác ăn theo bị phá sản, nguy cơ đẩy toàn xã hội rơi vào thời kỳ đại khủng hoảng không có lối thoát.
Nếu thừa nhận quyền sở hữu đất đai của nhân dân thì khi xã hội có nhu cầu về đất đai đến đâu thì nó sẽ được đáp ứng ngay đến đó; giá cả, “cung – cầu” sẽ được điều chỉnh theo thị trường như các loại hàng hóa khác. Khi đó sẽ không có chuyện thi nhau thu hồi đất đai như ăn cướp để hưởng lợi chia nhau, và sẽ không có khủng hoảng thừa.
Chỉ những kẻ được hưởng lợi bất chính do cơ chế “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” đem lại mới ủng hộ chế định pháp luật này. Thế nhưng Dự thảo sửa đổi hiến pháp 1992 của Quốc hội vẫn không thừa nhận quyền tư hữu đất đai của người dân, tức không trả cho người dân quyền định đoạt về đất đai của cha, ông họ từ ngàn đời để lại mà vẫn ghi ở Điều 57 “Đất đai… thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” là đạo lý ở đâu? Không cần phải dẫn ra nhiều hơn, việc bất chấp quy luật về sở hữu đất đai không sớm thì muộn sẽ kéo sụp cả cái thể chế xã hội cưỡng lại nó.
Hà Nội, 15/03/2013








Bao giờ có cải cách tư pháp?

Không ai ngạc nhiên với đơn thư từ chối luật sư bào chữa từ trại giam của bị can (?).
Không ai ngạc nhiên sau nhiều tháng bị bắt, giam cầm, bị can vẫn không được tiếp xúc với các luật sư, hoặc có tiếp xúc thì rất hạn chế, luật sư như bị giám sát, quản thúc của cán bộ trại giam vậy.
Dù bị phạm tội gì, an ninh hay dân sự thì các bị can đều chịu thiệt thòi này, đặc biệt tội dính đến an ninh quốc gia thì coi như biệt giam. Không ai biết được những người bị giam giữ có được đối xử tử tế, được hưởng quyền tối thiểu của con người, cán bộ điều tra có làm đúng nguyên tắc hay không?
Các phiên tòa xét xử cũng có luật sư bào chữa, có tranh tụng tại tòa. Nhưng các lý lẽ của các luật sư chưa khi nào có thể thay đổi được án đã y từ khi tòa chưa mở phiên xét xử, dù chứng cứ của họ vững chắc đến mấy…Thay đổi bản chất vụ án là không bao giờ. Đã bị bắt thế nào cũng lôi ra tội, dù ít hay nhiều, không tội này sẽ ra tội khác.
Thế nên càng thương cái nghề luật sư ở nước mình. Lập pháp thì tranh luận triền miên, mãi chưa có nổi bộ luật hoàn chỉnh. Hành pháp thì lạm quyền. Tư pháp thiếu minh bạch, đầy uẩn khúc. “Cái nước mình nó thế” nên mãi tăm tối, bất công vậy sao…
ĐAU BUỒN! ĐẢNG CHỦ TRƯƠNG CẢI CÁCH TƯ PHÁP MÀ THỰC TẾ NHƯ THẾ NÀY ĐÂY.
Luật sư Trần Đình Triển

Ông Hà Tuấn Ngọc, sinh năm 1955; đảng viên Đảng CSVN, thương binh, luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Phú Thọ, phóng viên báo chí tại Đài phát thanh và truyền hình tỉnh Phú Thọ; là người đã viết nhiều bài báo phản ánh những dấu hiệu có tính tiêu cực, vi phạm pháp luật tại Vĩnh Phúc. Việc ông bị khởi tố, truy tố về tội: “Lợi dụng chức vụ quyền hạn khi thi hành công vụ”, tôi xin chưa nêu tại đây, sẽ trình bầy tại phiên tòa sơ thẩm sắp tới.
Đến trại tạm giam, tôi rất chú ý để thực hiện quy chế trại tạm giam như: bỏ tất cả đồ đạc bên ngoài chỉ cầm hồ sơ và bút vào thôi, qua cổng trại đi qua một hệ thống kiểm tra như ở sân bay. Vào phòng xét hỏi, lạ lùng nhất là được bố trí một thượng úy ngồi bên cạnh tôi, một thượng úy ngồi cạnh bị cáo Ngọc. Tôi đã giải thích: “Trại có quyền làm công tác bảo vệ xin mời các anh ra ngồi ngoài hành lang, còn đây là luật sư làm việc với bị cáo mà giám sát như thế này thì còn làm việc gì nữa, sinh ra nghề luật sư để làm gì? Làm tốn thêm tiền mời luật sư của dân”. Tôi được sự trả lời từ phía hai thượng úy: “Chúng tôi không biết, đây là việc chúng tôi thi hành lệnh của lãnh đạo chúng tôi”.
Tôi là người rất ít lấy lời khai của bị can bị cáo, thông thường chỉ hỏi, ghi nhớ trong đầu rồi đối chiếu với hồ sơ tài liệu, đặt câu hỏi tại phiên tòa. Hôm nay, trước tình cảnh như vậy buộc tôi phải lấy lời khai để làm bằng chứng cho tôi sẽ kiến nghị lên Ban bí thư Trung ương, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Công an, Viện trưởng Viện KSND tối cao, Bộ Tư pháp, Ủy ban tư pháp Quốc hội, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Hội nhà báo Việt Nam, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội và tỉnh Phú Thọ,… để thấy được Đảng chủ trương rất đúng về cải cách tư pháp, nhưng trên thực tế là thế này đây.
Trong suy nghĩ tôi đang định hình tư tưởng và phương hướng như vậy, vội vàng viết và ghi lời khai (vừa hỏi vừa ghi khoảng được 10 phút), cộng với thời gian phản ứng việc cử 02 cán bộ công an ngồi bên cạnh. Tổng cuộc gặp được 20 phút thì bất chợt có điện thoại cho một thượng úy, ngay sau đó 02 thượng úy đều đồng thanh tuyên bố kết thúc cuộc gặp của luật sư với bị cáo. Tôi hỏi 02 thượng úy, quy chế về tổ chức và quản lý trại tạm giam của Chính phủ do Thủ tướng ký quy định: “Luật sư được gặp bị can bị cáo trong thời gian không quá một giờ, tôi mới gặp được 20 phút tại sao lại ra lệnh chấm dứt?”. Hai thượng úy đồng thanh trả lời: “Chúng tôi không biết đó là lệnh của lãnh đạo”.
Đảng, Nhà nước đang khuyến khích mọi công dân đóng góp dự thảo Hiến pháp năm 1992; tôi thiết nghĩ: Lý luận làm gì? Kinh viện sách vở làm gì? Nên đi từ thực tiễn những vụ việc như thế này có phải hay không?








March 14, 2013
Đưa thảo luận Hiến pháp về đúng vị trí
Cuộc vận động xây dựng Hiến pháp sắp được ba tháng, đang đến hồi “cao trào”. Người tham gia ngày càng đông đảo. Ở một số địa phương, Dự thảo được cán bộ đưa đến từng hộ gia đình để lấy ý kiến. Dù có thể có ý kiến khác nhau về cách làm này, nhưng việc đưa người dân tham gia vào sự kiện là điều đáng hoan nghênh. Mặt khác, quan sát tỉnh táo và khách quan cũng thấy đã bộc lộ một số biểu hiện chệch hướng cần khắc phục trong thảo luận xây dựng Hiến pháp. Bài viết này phân tích một số khía cạnh của vấn đề này.
I- Để đánh giá có chệch hướng hay không, cần trở lại việc trả lời đúng câu hỏi “Vì sao phải sửa Hiến pháp?”
Cần sửa vì Hiến pháp 1992 đã bộc lộ những sự bất toàn. Nếu những bất toàn đó chỉ thể hiện ở tầm lý thuyết, trên văn bản thì việc sửa cũng không bức thiết, cũng chưa thu hút sự quan tâm nhiều như vậy của toàn xã hội. Vấn đề là trong cuộc sống đất nước những năm qua đã nảy sinh hàng loạt vấn đề và tình huống xung đột có tính phổ biến và gay gắt, mà trong khuôn khổ cũ Hiến pháp đã tỏ ra không làm được chức năng là chỗ dựa pháp lý cao nhất để đưa ra những phán quyết và giải pháp đúng, có hiệu lực.
Vì thế, yêu cầu sửa đổi Hiến pháp đã nhanh chóng vượt khỏi dự kiến ban đầu hạn hẹp trong một số điều có liên quan đến chính quyền địa phương (trực tiếp là vấn đề tổ chức Hội đồng nhân dân ở một số “cấp”), để bao hàm một nội dung rộng lớn hơn nhiều cả về lượng và sâu sắc hơn nhiều về chất. Cuộc sống đặt ra những vấn đề bức xúc, cơ bản mà không ai có thể làm ngơ, từ người lãnh đạo cao nhất đến công dân bình thường, đòi hỏi phải được giải đáp, dù nhận thức chung có những điểm còn bất cập, chưa thống nhất. Ở đây có sự gặp nhau giữa ý chí lãnh đạo và mong muốn của nhân dân, cùng xuất phát từ mục tiêu phát triển đất nước. Sửa Hiến pháp là yêu cầu thực tế, là nguyện vọng chung của nhân dân, nhưng là việc do chính lãnh đạo khởi xướng. Thực tế đó bác bỏ luận điệu vu cáo, cho rằng sửa Hiến pháp là việc làm mị dân, giả danh dân chủ.
Có thể kể ra một số trong những vấn đề và tình huống kể trên, hiện đang trở thành tâm điểm của những cuộc tranh luận.
1- Vị trí Luật mẹ của Hiến pháp. Trên cơ sở Hiến pháp 1992 đã ra đời những luật và quy phạm pháp luật, trong đó không ít vấn đề có nội dung mâu thuẫn nhau; mâu thuẫn với tinh thần của Hiến pháp và không phù hợp với thực tiễn đang vận động. Một số Điều khoản của Hiến pháp chẳng những không được luật hoá, mà còn bị công khai coi thường, bị giải thích tuỳ tiện (ví dụ như phát biểu của một số chính khách và đại biểu Quốc hội về luật biểu tình, đình công…). Việc sử dụng phổ biến một câu “thòng” “theo quy định của luật pháp” sau nhiều Điều khoản của Hiến pháp vô hình chung bỏ ngỏ khả năng vô hiệu hoá chính Điều khoản đó bằng các quy phạm pháp luật dưới Hiến pháp…
2- Về vấn đề kinh tế nhà nước và sở hữu toàn dân về đất đai. Trong khuôn khổ của Hiến pháp và luật pháp hiện hành, nhiều năm qua trên hai vấn đề rất lớn này đã nẩy sinh rất nhiều bất ổn, thất thoát lớn về kinh tế, tham ô tài sản công, những xung đột xã hội gay gắt và phổ biến có nguy cơ châm ngòi cho mất ổn định chính trị (các vụ Vinashin, Vinaline.. các cuộc khiếu kiện đông người về đất đai là phần nổi lên của tảng băng chìm). Vấn đề đặt ra là những khuôn khổ đó có còn đúng không, có cần thay đổi không. Nếu vẫn giữ như cũ thì vì sao? Vì tầm nhìn xa trông rộng, vì ”định hướng xã hội chủ nghĩa” hay vì quyền lợi ích kỷ của một nhóm người, đi ngược lợi ích chung của xã hội?
3- Vấn đề suy thoái chính trị. Các nghị quyết của Đảng nói “suy thoái về chính trị tư tưởng đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên” cũng chỉ là một cách diễn đạt khác về sự suy thoái chính trị của cả Đảng lãnh đạo lẫn bộ máy cầm quyền, mà nếu không ngăn chặn được thì sẽ dẫn tới sự sụp đổ của chính thể và hỗn loạn xã hội. Đây là mối lo của mọi người. Do đâu mà suy thoái ngày càng nghiêm trọng? Có phải là do phương thức lãnh đạo của Đảng không phù hợp, do tổ chức bộ máy nhà nước không đảm bảo yêu cầu giám sát quyền lực, do công dân bị gạt ra ngoài mọi cơ chế giám sát trên thực tế? Khi tại diễn đàn Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, việc chất vấn về trách nhiệm trong vụ Vinashin, về trách nhiệm của người đứng đầu chính phủ…bị chặn ngang chỉ bằng một thông báo miệng của những người trong cuộc “Bộ chính trị chủ trương không kỷ luật ai”, “Đây là sự phân công của Đảng”, thì là đúng hay sai theo Hiến pháp 1992 và các quy chế của Đảng? Nói rằng Điều 4 (cụ thể hơn là việc thiếu vắng một bộ luật làm khuôn khổ pháp lý cho sự lãnh đạo của Đảng) đã bao che cho những hiện tượng như vậy thì không đúng; nhưng cũng không dễ bác bỏ những ý kiến đó.
4- Vấn đề đối tượng trung thành của quân đội. Truyền thống anh hùng, trung thành với Tổ Quốc của Quân đội nhân dân Việt Nam là điều không thể nghi ngờ; mọi hành động làm suy giảm tinh thần và sức chiến đấu của quân đội là một tội ác, nhất là vào thời điểm hiện nay, khi nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước đang bị đe doạ. Toàn dân, toàn quân, toàn Đảng đều chung một nhận thức như vậy. Vậy tại sao phải sửa một Điều khoản đang tốt như vậy trong Hiến pháp 1992? Vì sao phải chuyển từ yêu cầu “phải tuyệt đối trung thành với Tổ Quốc và nhân dân” sang yêu cầu “phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân”? Liệu một Điều khoản như vậy trong Hiến pháp có nguy cơ bị lạm dụng biến thành căn cứ pháp lý cho việc sử dụng quân đội sai trái như vụ Tiên Lãng hay không?
Nếu công tâm và thẳng thắn, không ai có thể phủ nhận rằng đó là những điều mà mọi người Việt Nam yêu nước không thể không quan tâm, một sự quan tâm chính đáng, xuất phát từ lương tâm và trách nhiệm với đất nước và dân tộc. Lẽ nào có thể nhắm mắt nói càn rằng đó là những vấn đề do các thế lực thù địch bịa tạc ra nhằm mục đích chống phá? Đó cũng chính là những vấn đề mà hầu như không ai trong ban lãnh đạo đất nước không đề cập đến hoặc công khai trên các diễn đàn hay trong những trao đổi ý kiến riêng tư. Nếu hiểu và xử lý đúng thì đây là điều kiện chính trị-xã hội tuyệt vời để toàn xã hội, lãnh đạo và các tầng lớp nhân dân đồng tâm hiệp lực tập trung trí tuệ, thảo luận lý lẽ, tìm hiểu thực tiễn để đề ra các quyết định đúng đắn. Không làm được như vậy là chệch hướng.
II- Những biểu hiện chệch hướng trong thảo luận xây dựng Hiến pháp.
Có thể kể ra một số biểu hiện cụ thể chệch hướng dưới đây.
1- Trong chỉ đạo nhấn mạnh quá mức và xử lý sai liều lượng vấn đề chống “thế lực thù địch”, tạo ra tình hình căng thẳng, hạn chế phát huy dân chủ và tự do tư tưởng trong thảo luận xây dựng Hiến pháp.
Một số cá nhân trong và ngoài nước công khai hoặc ngấm ngầm theo đuổi mục tiêu chống phá cũng là hiện tượng bình thường. Họ chỉ là thiểu số, dù cố ẩn mình, hoà giọng vào tiếng nói chung của những người phản biện xây dựng, vẫn bi lộ diện và không có khả năng lôi kéo, tập hợp bất cứ lực lượng nào.
Trong khi đó, hầu hết những người có lương tri, trong tình hình hiện nay nhiều hay ít đều có những ý kiến phản biện đối với Hiến pháp 1992. Bản Dự thảo phản ảnh và giải đáp đến mức nào những đòi hỏi bức xúc của cuộc sống, được công luận thừa nhân đến đâu là vấn đề còn để ngỏ, là đối tượng phán xét của công luận, và rồi cuối cùng sẽ được thực tiễn kiểm nghiệm. Nhưng có thể nói không vũ đoán là đại bộ phận ý kiến phản biện, kể cả nhiều ý kiến phản biện gay gắt là xây dựng, thể hiện cả ở động cơ, thái độ và nội dung cụ thể.
Xem những người phản biện xây dựng hoặc là “cùng hội cùng thuyền” với các “thế lực thù địch”, hoặc bị chúng lôi kéo là sai lầm. Quan niệm như vậy là cố tình bịt tai trước những lời nói phải, khăng khăng bảo thủ ý kiến mình bằng những lý lẽ thiếu căn cứ, bằng thái độ cả vú lấp miệng em, gây ra tâm trạng phản ứng công phẫn hoặc quay lưng từ phía số đông có thiện chí và trí tuệ, làm giảm giá trị của chính những thực thể muốn bảo vệ, tạo thêm chứng cớ cho những thế lực chống đối xuyên tạc.
Đây là một nguyên nhân làm cho việc thảo luận xây dựng Hiến pháp hiện nay nóng bỏng một không khí đấu tranh “ai thắng ai”, đối phó, nghi ngờ, với không ít những lời nói và việc làm nặng tính chất mạt sát, lăng mạ, đấu tố nhau, mà rất ít hàm lượng lý lẽ, trí tuệ, thiếu hẳn tinh thần thái độ khoa học, thái độ cầu thị, bình tĩnh, tôn trọng nhau. Chắc chắn những thế lực đích thực thù địch với đất nước, với chính thể không mong muốn gì hơn một tình trạng chia rẽ như vậy giữa những lực lượng lẽ ra phải cấu thành sức mạnh của đất nước.
2- Mặc nhiên coi những ý kiến phản biện, khác Dự thảo là sai trái. Biểu hiện này là một phó bản của sai lệch nói trên. Thật ra thì sau một số trường hợp phát ngôn có phần chưa kín kẽ, không ai trong số những người có trách nhiệm công khai xem những ý kiến phản biện, khác Dự thảo là sai trái. Nhưng trên các phương tiện thông tin đại chúng chính thống rất phổ biến cách gọi những ý kiến không đồng tình với điểm này, điểm khác trong Dự thảo là “trái chiều”, cùng với sự đồng tình im lặng của lãnh đạo. Một thái độ như vậy là đã cấp “chứng chỉ”, là định chuẩn đánh giá phân loại ý kiến và cá nhân tham gia ý kiến xây dựng Hiến pháp. Tán thành Dự thảo là phải, không tán thành Dự thảo là trái chiều. Với chứng chỉ đó, người tán thành Dự thảo mặc nhiên tự xem mình là những người bảo vệ Đảng, có những người hành động và phát ngôn rất khinh xuất, mâu thuẫn, thiếu sức thuyết phục, tạo thêm không khí mất đoàn kết giữa những người tham gia ý kiến xây dựng Hiến pháp.
3- Dùng số đông áp chế lý lẽ.
Trong bất cứ chính thể nào cũng tồn tại một đa số im lặng trong dân chúng. Ở nước ta số tỷ lệ này có khi còn lớn hơn nhiều nơi, do tính tích cực xã hội của công dân còn hạn chế. Trong các chính thể đa nguyên, các chính đảng thi thố nhiều thủ đoạn cả hợp pháp lẫn không hợp pháp để tác động đến đa số im lặng này, cạnh tranh với nhau để giành ưu thế chính trị cho mình. Nhưng trong thể chế một chính đảng duy nhất cầm quyền và lãnh đạo thì làm như vậy không có ý nghĩa, nhiều khi lại phản tác dụng, tự mình huyễn hoặc mình. Việc nhiều địa phương tập trung chỉ đạo lấy ý kiến một cách cấp tập, riêng lẻ từng gia đình công dân hiện nay, cùng với việc đánh giá chất lượng công tác xây dựng Hiến pháp của các địa phương thông qua số lượng ý kiến…liệu ít nhiều có khía cạnh là để “đập” lại những ý kiến phản biện đối với Dự thảo?
4- Thảo luận quá tập trung một vài vấn đề, chưa chú trọng các nội dung quan trọng khác.
Các vấn đề được nói nhiều hoặc là vấn đề chung nóng bỏng mà xã hội có điều kiện tiếp cận rộng rãi. Bên canh đó, Hiến pháp còn nhiều nội dung không kém phần quan trọng, nhưng việc góp ý kiến đòi hỏi những kiến thức và kinh nghiệm chuyên sâu hơn, nên dễ bị xem nhẹ hay bỏ qua. Ví du như vấn đề nhân quyền, việc hiến định quyền lập hiến, quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân, tổ chức giám sát quyền lực, vấn đề tổ chức và hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước, vấn đề bầu cử và cấu trúc đại biểu quốc hội, vấn đề chính quyền địa phương….
III- Đưa thảo luận xây dựng Hiến pháp về đúng vị trí.
Với quyết định kéo dài thời hạn góp ý kiến xây dựng Hiến pháp đến tháng Chín năm 2013 thì ba tháng đầu năm 2013 trở thành giai đoạn mở đầu cho việc toàn dân tham gia xây dựng Hiến pháp. Tổng kết kết quả ba tháng này, bên cạnh việc tổng hợp những ý kiến đóng góp, thì nội dung quan trọng không kém là tổng kết việc chỉ đạo và tổ chức lấy ý kiến, từ đó có những điều chỉnh cần thiết trong thời gian hơn 6 tháng còn lại.
Nếu ba tháng đầu có ý nghĩa là giai đoạn “khai phá”, sản phẩm thu được là “nguyên liệu thô” thì thời gian tới là giai đoạn “tinh chế” “chưng cất” từ những tư liệu, thông tin thu thập được để có quyết định tối ưu. Đó là giai đoạn cần đến rất nhiều phương pháp tiếp cận vấn đề từ nhiều khía cạnh, tinh thần khoa học, thái độ cầu thị, thận trọng. Đó là giai đoạn cần rất nhiều tâm sức, trí tuệ của toàn xã hội, cộng tác trong một không khí hợp tác, cởi mở, tin cậy. Mọi sự ồn ào, áp đặt, đả kích, khích bác đều không có chỗ đứng ở đây.
Khắc phục những lệch lạc nói trên, đưa thảo luận xây dựng Hiến pháp về đúng vị trí nhằm tạo ra một không gian chính trị-xã hội như vậy, là mong muốn và trách nhiệm chung của cả xã hội, trước hết là trách nhiệm của lãnh đạo Đảng và Quốc hội.








Nghe Bộ trưởng trả lời, thảo dân chịu không nổi!
Chiều tối chủ nhật, vợ chồng người bạn từ thuở thiếu thời mời tôi tới nhà. Bữa cơm cuối tháng 1 “ta” có món quốc hồn, quốc túy “R.T.C” do cô con dâu trưởng trổ tài nấu nướng. Vừa cụng ly rượu sâm, thì trên màn hình TV xuất hiện mục “Dân hỏi, Bộ trưởng trả lời”. Ông Vũ Huy Hoàng – Bộ trưởng Bộ Công thương – “lên sóng lần thứ tư, trả lời những câu hỏi liên quan tới dự án bauxite Tây Nguyên”.
Chúng tôi tạm dừng “sự sung sướng” để nghe ông nói. Thấy ông không nhìn vào giấy, thấy phong thái có vẻ tự tin… cánh già tôi bị ông “hút” vài chục giây đầu.
Vài chục giây đầu thôi, bởi ngay sau câu hỏi đầu tiên của phóng viên VTV1, ông Vũ Huy Hoàng nói: “Theo kết quả thăm dò, trữ lượng bauxite của Việt Nam là khoảng 10-11 tỷ tấn”… Tôi giật mình. Sao trữ lượng bauxite Việt Nam “lớn” nhanh như Phù Đổng vậy? Cách đây gần 6 năm trong quyết định của Thủ tướng phê duyệt “Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác chế biến và sử dụng quặng bauxite giai đoạn 2007- 2015 có xét đến năm 2025” thấy ghi trữ lượng có 5,4-5,5 tỷ tấn, bây giờ tăng gấp đôi rồi?
Ngành thăm dò địa chất giỏi quá ta!
Theo số liệu của cơ quan địa chất Mỹ (U.S.Geological Survey. Mineral Commodity Summaries- 2007- 2008 and 2011- 2012), toàn thế giới có trữ lượng (chắc chắn) 27 tỷ tấn và tài nguyên dự báo 38 tỷ tấn bauxite và Việt Nam có 2,1 tỷ tấn trữ lượng, tài nguyên (dự báo) 5,4 tỷ tấn.
Ông Vũ Huy Hoàng lại khẳng định: “trong đó tại tỉnh Đăk Nông là khoảng 4,6 tỷ tấn và tại tỉnh Lâm Đồng khoảng 2 tỷ tấn”, vậy còn 3-4 tỷ tấn nữa nằm ở đâu? Trong khi ở miền Bắc tài nguyên bauxite ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Nghệ An… chỉ khoảng 357 triệu tấn.
Ngay phần mở đầu, ông Vũ Huy Hoàng đã làm người nghe khó chịu rồi!
Ông tiếp tục:
“Trong những năm gần đây, do nhu cầu nhôm kim loại tăng mạnh, dẫn đến nhu cầu alumin thế giới cũng tăng theo”, “Hiện nay, nước ta đang phải nhập khẩu 100% nhôm kim loại, nên việc triển khai dự án thăm dò, khai thác và chế biến bauxite, trong đó giai đoạn đầu là chế biến alumin là hết sức cần thiết…”, “Việc phát triển ngành công nghiệp khai thác và chế biến bauxite là chủ trương đúng đắn, cần thiết và phù hợp đã được Đảng và Nhà nước xem xét thận trọng, giao cho Vinacomin tổ chức triển khai…, phải làm thí điểm và đi từ quy mô nhỏ lên dần đến quy mô lớn”.
Ô hay! Ông là “tư lệnh trưởng” của các ngành kinh tế quan trọng bậc nhất đất nước mà không cập nhật được tình hình mấy năm gần đây, nhu cầu tiêu thụ nhôm trên thế giới giảm mạnh à? Nhu cầu giảm nên nhôm tồn kho nhiều làm giá một tấn nhôm sụt rất sâu kéo theo giá 1 tấn alumin chỉ còn 280-300 USD thôi!
Ông lạc quan quá nhưng tại sao vẫn phải bám vào từ “thí điểm” để phòng thân?
Xin có lời đính chính rằng, Bộ Công thương và Vinacomin hoàn toàn không có ý định thí điểm khi quyết tâm triển khai dự án Tân Rai và Nhân Cơ từ năm 2008 nên đã bỏ ngoài tai những lời khuyến nghị rất chân thành và có cơ sở khoa học của hàng ngàn nhân sĩ trí thức.
Cái từ “thí điểm” hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ xuất phát từ thông báo của Bộ Chính trị (số 245TB/TW ngày 24/4/2009) chỉ đạo “Tiếp tục thực hiện chủ trương triển khai 2 dự án ở Tân Rai và Nhân Cơ”… và nhắc rất kỹ “Riêng dự án Nhân Cơ, cần rà soát lại toàn bộ các vấn đề có liên quan, nhất là việc đánh giá hiệu quả kinh tế và tác động môi trường, nếu thực sự có hiệu quả và bảo đảm yêu cầu về bảo vệ môi trường thì mới tiếp tục triển khai thực hiện.”
Với tinh thần “nghiêm túc”, Vinacomin đã trình cho ông Vũ Huy Hoàng và Bộ Công thương hồ sơ thiết kế cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế của dự án bauxite Nhân Cơ “không chê vào đâu được”!
Xin trích dẫn ít số liệu chứng minh:
Vốn đầu tư (không tính VAT): 11.610.187 (triệu đồng), theo tỷ giá hối đoái năm 2009: 16.976 đ/1 USD thì vốn đầu tư qui đổi là 683.920.000 USD.
Giá thành toàn bộ 1 tấn alumin 4.314.100đ ( 254,13 USD/T)
Giá bán alumin 6.325.800đ (372,63 USD/T)
Tỷ lệ % giá thành so với giá bán 68,20%
Doanh thu bình quân/ năm (từ năm 2012 (?)): 3.994.393 (triệu đồng)
Chi phí sản xuất trung bình/ năm (từ năm 2012): 2.717.882 (triệu đồng)
Lợi nhuận thuần bình quân/ năm (30 năm) 1.276.511 (triệu đồng)
Lợi nhuận ròng bình quân/ năm (30 năm) 988.751 (triệu đồng)
Suất chiết khấu bình quân (%) 8,325%
NPV (net present value) 2.690.840 (triệu đồng)
(PV: giá trị quy đổi về hiện tại của một khoản tiền phát sinh trong tương lai
NPV: tổng giá trị đại số của một dòng tiền phát sinh trong tương lai đã được qui đổi về hiện tại)
IRR – tỷ lệ hoàn vốn nội bộ 10,45%
Thời gian thu hồi vốn (kể từ khi đi vào hoạt động) 8,98 năm
Các loại thuế phải nộp bình quân/ năm (từ năm 2012) 605,057 (triệu đồng)
Trong đó
v Nộp ngân sách Trung ương (thuế XK alumin) 199,720 (triệu đồng)
v Nộp ngân sách địa phương 405.338 (triệu đồng)
bao gồm:
ü Thuế thu nhập doanh nghiệp 287.760 (triệu đồng)
ü Phí môi trường 109.544 (triệu đồng)
ü Thuế thuê đất 1.858 (triệu đồng)
ü Thuế tài nguyên 6.176 (triệu đồng)
Bộ Công thương đã có thông báo số 87/TB-BCT ngày 2/3/2009 về kết quả thẩm tra thiết kế cơ sở của dự án Nhân Cơ và đồng tình với chủ đầu tư khi đánh giá hiệu quả kinh tế, coi đó là nền tảng vững chắc để triển khai dự án. Lúc ấy, chính ông và các cộng sự đâu đả động tới “việc xem xét hiệu quả kinh tế các dự án đầu tư, nhất là những dự án có vốn đầu tư lớn, thời hạn hoạt động 30- 40 năm… cần phải dựa trên những tính toán dài hạn, không thể chỉ căn cứ vào một thời điểm để khẳng định hiệu quả hay không hiệu quả” như ông nói loanh quanh trên TV!
Thế thì cách tính (đã dẫn ở trên) của Vinacomin tại dự án Nhân Cơ hay Tân Rai và quyết định phê duyệt của Bộ Công thương dựa vào cái gì, mốc thời gian nào để có một số liệu về lãi tới 122 USD/1 tấn alumin và cứ lãi đều đều (bình quân) suốt 30 năm tồn tại?
Không thể chối bỏ thực tế là dự án Tân Rai sẽ lỗ ngay trong năm 2013 và những năm tiếp theo đó, là cả Nhân Cơ nên ông Vũ Huy Hoàng cố biện bạch “Phải khẳng định hai dự án là thí điểm bước đầu để hình thành ngành công nghiệp khai thác và chế biến nhôm của Việt Nam. Mà đã thí điểm thì phải có thời gian để khẳng định về mức độ chắc chắn của hiệu quả kinh tế.”
Và ông tự trấn an mình để mong có sự “lan tỏa” đến người nghe: “giá alumin trên thị trường thế giới tuy hiện nay thấp hơn giá tại thời điểm đầu năm 2009- thời điểm phê duyệt dự án, nhưng cũng như đối với các kim loại màu khác, không ai đảm bảo mức giá này sẽ cố định như tế trong vòng 5 hoặc 10 năm tới”.
Chao ôi, làm kinh tế như Bộ Công thương và Vinacomin sung sướng thật!
Lập dự án thì “bốc thuốc” theo kiểu lang vườn, vẽ ra các chỉ tiêu trên trời, dưới biển khiến các nhà văn chuyên viết tiểu thuyết viễn tưởng phải cúi đầu bái phục!
Khi đối đầu với thực tại khốc liệt, nghiệt ngã thì cả tướng lẫn quân cứ vòng vo tam quốc, cố tình lẩn tránh chuyện lỗ, chuyện tốn tiền làm đường, chuyện chi phí vận chuyển quá cao, và ông lên giọng rao giảng “nhưng đối với xã hội điều lớn hơn mà tất cả chúng ta mong đợi là hiệu quả tổng hợp về kinh tế-xã hội đối với phát triển vùng, phát triển ngành và phát triển nền kinh tế”.
Lạ lùng thay khi người ta đang bàn mưu, tính kế giảm tiền bồi thường thiệt hại cho hàng ngàn hộ dân mất đất trồng trọt với lý do chỉ khai thác bauxite ở tầng nông, sau vài năm có thể “trả lại” đất để các khổ chủ tiếp tục trồng tỉa. Người cũng đang đòi giảm tiền đóng phí môi trường (bằng với giá khai thác than) vì đã bỏ nhiều tiền của để “bảo vệ môi trường” rồi (!?) mà vẫn không ngượng mồm nói những lời thương dân, thương nước?
Nếu những cái đòi (đáng nguyền rủa ấy) trở thành sự thật thì lấy gì để phát triển vùng?
Làm ăn thua lỗ kéo dài năm này qua năm khác thì lấy gì để phát triển ngành?
Đào tài nguyên, hủy hoại môi trường sống, ô nhiễm nguồn nước, kêu gào giảm thuế, miễn thuế xuất khẩu nữa thì nền kinh tế đã suy thoái sẽ càng trượt dốc.
Nghe những lời ông Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng trả lời phỏng vấn trên VTV1 tối chủ nhật (10/3), mấy đêm liền không ngủ được, thảo dân không chịu nổi nữa nên đành dẫn ra ít dòng ông Vũ Huy Hoàng đã nói để giãi bày trước dư luận.
Trong bài nói của ông còn nhiều chỗ hở lắm nhưng dẫn kỹ quá thì bài này còn kéo vài trang nữa. Như thế sẽ làm mất thời giờ của người đọc nên dừng ở đây.
L. T. T.








Quyền biểu tình: Nên quy định thế nào
Hiến pháp là nền tảng tạo nên sự an toàn pháp lý cho cả một hệ thống pháp luật. An toàn pháp lý trong Hiến pháp chỉ tồn tại khi người dân thấy được mình ở trong đó, thấy mình được bảo vệ thông qua sự minh bạch, rạch ròi, và có thể tiên liệu trước ở ngay chính trong từng Điều luật. Biểu tình là một quyền căn bản trong số rất nhiều những quyền cơ bản khác cần thiết phải có một sự an toàn pháp lý như thế.
Biểu tình không xa lạ ở Việt Nam. Xét từ góc độ thực tế lịch sử, không phải đến giờ Việt Nam mới có biểu tình. Lịch sử Việt nam chứng kiến rất nhiều cuộc biểu tình của những người dân yêu nước. Trong lịch sử giữ nước, chống ngoại xâm, chúng ta có những cuộc biểu tình lớn, điển hình như biểu tình Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930, biểu tình ngày 19/8/1945 và rất nhiều cuộc biểu tình những năm chống Mỹ v.v…
Điều 69 Hiến pháp 1992 qui định: “Công dân […] có quyền […] biểu tình theo quy định của pháp luật.” Như vậy, theo pháp luật hiện hành, biểu tình là một quyền hợp hiến ở Việt Nam. Cụm từ “theo quy định của pháp luật” có nghĩa là tuân theo những quy định thuộc về pháp luật khi đã có hiệu lực, chứ không phải tuân theo những gì chưa có. Bởi thế cho nên đương nhiên công dân có quyền biểu tình ngay cả khi chưa có luật hay không có luật về biểu tình.
Điều 26 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung Điều 69 nêu trên) qui định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.” Dự thảo đã bỏ hai từ “có quyền” trong Điều 69 Hiến pháp 1992 và thay vào đó bằng chữ “được”. Cách qui định này có thể dễ dàng dẫn đến cách hiểu rằng: Biểu tình là do nhà nước ban phát (lưu ý từ “được”) và nếu như chưa có “quy định của pháp luật”, tức là nhà nước “chưa cho”, thì người dân không được biểu tình. Nếu hiểu như vậy, thì rõ ràng cách qui định trong dự thảo là không phù hợp, đi ngược với tư duy tiến bộ về nhân quyền trên thế giới hiện nay.
Thay vì qui định như trong dự thảo, tôi đề xuất Điều 26 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp nên tách riêng các quyền, trong đó có quyền biểu tình ra thành một Điều riêng, và nên qui định quyền biểu tình cụ thể như sau: “1. Công dân có quyền biểu tình ôn hòa và không vũ khí, không phụ thuộc vào sự đồng ý hay không của chính quyền. 2. Nhà nước có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi để người dân được thực hiện quyền biểu tình. Mọi hành vi đe dọa, chia rẽ, gây cản trở hoặc ngăn cản cuộc biểu tình hợp pháp sẽ bị xử lý hình sự hoặc xử phạt hành chính tùy theo tính chất, mức độ. 3. Quyền biểu tình của công dân chỉ có thể bị giới hạn bởi một đạo luật của Quốc hội. Việc giới hạn cũng không làm mất đi bản chất của quyền này.”
Qui định như vậy theo tôi sẽ có hai ưu điểm: Thứ nhất, điều khoản này xác định rõ công dân biểu tình không có nghĩa vụ phải xin phép, mà chỉ cần thông báo cho chính quyền. Đây là cách qui định phổ biến của các bản Hiến pháp trên thế giới hiện nay; Thứ hai, qui định người tham gia biểu tình không được sử dụng vũ khí hay công cụ có tính bạo lực sẽ làm rõ cơ sở đảm bảo cho một cuộc biểu tình ôn hòa. Tất cả những vấn đề cụ thể, có tính kĩ thuật khác như cần phải thông báo trước trong thời gian bao lâu, những dụng cụ nào được hiểu là vũ khí, trách nhiệm của người trưởng đoàn biểu tình, những người tham gia biểu tình thế nào, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền ra sao…nên được qui định ở trong một đạo luật do Quốc hội ban hành.
Trên cơ sở hiến định quyền biểu tình như trên, Luật biểu tình trong tương lai nếu có nên tiếp tục làm rõ những vấn đề pháp lý căn bản sau:
Thứ nhất, cần làm rõ trách nhiệm của Trưởng đoàn tổ chức biểu tình. Khi thông báo về việc biểu tình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cần khai báo rõ ai là Trưởng đoàn, nội dung, mục đích của biểu tình là gì. Tôi cho rằng nên qui định rõ: Trưởng đoàn biểu tình sẽ chịu trách nhiệm theo dõi diễn tiến của việc biểu tình, chịu trách nhiệm về việc biểu tình phải diễn ra một cách ôn hòa, không vũ khí, có quyền dừng hoặc chấm dứt biểu tình bất cứ lúc nào. Trong quá trình biểu tình, cả trưởng đoàn và cảnh sát có thể tước quyền biểu tình của bất cứ ai sử dụng vũ khí hay có hành động gây rối, vi phạm pháp luật hoặc không tuân theo chỉ đạo của trưởng đoàn. Việc sử dụng các biểu ngữ nội dung gì phải được thông báo trước cho cảnh sát khi tiến hành thông báo cho cơ quan có thẩm quyền về việc biểu tình (Điều 18 LBT).
Thứ hai, làm rõ hàng loạt các khái niệm pháp lý căn bản về biểu tình, chẳng hạn như vấn đề “không vũ khí”, “nghĩa vụ thông báo”, “mục đích biểu tình” là như thế nào. Việc mang theo các dụng cụ như trống, kèn, đuốc, vợt đánh bóng… có được coi là “vũ khí” hay không? Cần phải thông báo trước về việc biểu tình với chính quyền trong thời gian bao lâu? Thế nào là có chung một mục đích trong một cuộc biểu tình? Chính quyền có thể cấm biểu tình khi cho rằng nội dung biểu tình là không phù hợp hoặc lo ngại rằng người biểu tình sẽ tham gia với số lượng quá lớn hoặc lo ngại rằng sẽ có một đoàn biểu tình khác chống đối lại không?…
Thứ ba, nên xác định rõ trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc đảm bảo cho việc biểu tình được diễn ra một cách an toàn, đúng luật, chẳng hạn như trách nhiệm phải tổ chức các phương tiện giao thông ra sao, rồi trong trường hợp nào thì cảnh sát có thể yêu cầu người không tuân thủ các qui định về luật biểu tình ra khỏi đoàn biểu tình, trường hợp nào thì có thể yêu cầu chấm dứt biểu tình v.v…
Thứ tư, cần qui định cụ thể trách nhiệm pháp lý đối với hành vi đe dọa, chia rẽ, gây trở ngại hoặc ngăn cản cuộc biểu tình hợp pháp bằng các hành động bạo lực. Chế tài này nên được áp dụng chung, cho bất kỳ ai, kể cả người thi hành công vụ nếu xâm phạm quyền tự do biểu tình hiến định của người dân.
Thứ năm, để hoạt động biểu tình được đi vào nề nếp, đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội, trong Luật biểu tình cũng nên qui định rõ hình thức biểu tình nào thì được chấp nhận? việc xếp hàng dài và ngồi án ngữ trước cửa ra vào một địa điểm nào đó có phải là hành vi biểu tình một cách ôn hòa hay không? Việc biểu tình ở bên ngoài trụ sở Quốc hội có bị ngăn cấm không? Người biểu tình có được mặc đồng phục, sử dụng cờ hoặc biểu tượng không? Nếu có, thì có hạn chế gì không?
***
Thực chất, biểu tình không có gì đáng sợ, quan trọng là cách tư duy về quyền này như thế nào, tiếp đó là kế hoạch, cách thức quản lý, tổ chức biểu tình ra sao. Chính quyền nên tận dụng hoạt động biểu tình, nên coi đó như một cầu nối, một kênh đối thoại quan trọng giữa chính quyền với nhân dân, từ đó một mặt kiểm soát và đưa hoạt động này trở nên có nề nếp, trật tự, mặt khác thông qua việc lắng nghe dân, cân nhắc, điều chỉnh và hoạch định các chính sách liên quan sao cho hợp với lòng dân hơn.








Mong bà con góp tiền làm nhà cho cựu binh Gạc Ma
Cu Làng Cát
Vợ chồng anh Hải trước căn nhà nghèo của mình
Trong số 9 người lính Hải quân Việt Nam bị Trung Quốc bắt một cách trái phép tại trận chiến giữ đảo Gạc Ma ngày 14.3.1988 thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam chúng ta thì Quảng Bình có 3 người. Gồm anh Nguyễn Văn Thống (Nhân Trạch), Lê Văn Đông (Tây Trạch), Mai Xuân Hải (Liên Trạch) đều ở huyện Bố Trạch.
Tôi đã tìm gặp rất nhiều cựu binh Gạc Ma và thấy nhiều mảnh đời còn vật lộn mưu sinh. Nhưng với cựu binh Mai Xuân Hải là một số phận nghiệt ngã, cay cực. Một số phận éo le luôn giày vò anh mỗi ngày. Cái nghèo cứ cuốn lấy số phận người lính đảo. Trần ai cứ bám riết lấy anh.
Anh bị bắt giam ở bán đảo Lôi Châu, Trung Quốc. Đúng ba năm, năm tháng, mười lăm ngày được trả về qua con đường ngoại giao. Những tháng năm bị tù đày quả là cực hình. Bao nhiêu vết thương súng đạn khi lính Trung Quốc phẫu thuật, họ không dùng thuốc mê mà mổ thẳng, anh kể: “Lúc mổ lấy một số mảnh đạn, lính Trung Quốc kẻ cầm chân, người cầm tay, không cho thuốc tê, đau không chịu thấu”. Bữa bị bắt lên tàu: “Cả 9 anh em chỉ cho một cốc thủy tinh nước, mà nước chỉ tráng dưới phần đáy cốc, mỗi người chỉ thấm môi một tí rồi nhường cho đồng đội”, anh Hải hồi tưởng lại.

Anh Hải với người đồng đội cùng làng
Bữa ăn cũng cực khổ: “Bữa sáng ăn mì với nước gạo, nước gạo không có muối, nhạt miệng nhạt mồm, ăn hoài thì người như phù thủng vì thiếu muối. Buổi trưa tối có cơm bị mốc”, anh Hải kể.
Bị bắt giam, anh Hải cùng đồng đội thường bị dựng dậy hỏi cung suốt ngày: “Họ hỏi bao nhiêu lính, ai chỉ huy, vũ khí gồm những loại gì, khi nào thì quay lại. Tôi trả lời không biết, vì là lính nên chỉ biết nghe theo quân lệnh, trung thành quân lệnh, không khai gì, mà trăm bữa như một là thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biển đảo Việt Nam”, anh nhớ lại.

Tấm bằng huân chương chiến công của Mai Xuân Hải sau cuộc chiến Gạc Ma
Anh biết chính xác bị giam ba năm, năm tháng, mười lăm ngày là vì mỗi ngày đi qua, anh lại dùng chiếc thìa nhỏ vạch sâu trên bức tường nhà giam, vạch sâu mỗi ngày một vạch nên nhớ như in khoảng thời gian năm tháng tù đày.
Ở quê nhà, gia đình anh đã nhận giấy báo tử, xóm làng, dòng họ đã tổ chức lễ tang. Nhưng ngày anh về, cả làng vui như hội, họ mở cơm ăn mừng, có người còn lấy tay béo mạnh má anh xem có đúng người thật hay là “ma”. Nhưng họ vỗ tay cả làng, vì đó là người thật.
Sau ngày đoàn viên với gia đình, anh Hải lao vào cuộc mưu sinh vất vả. Ba năm đầu còn sức trai tráng, anh cưới được vợ, lao động siêng năng. Nhưng sau đó, sức khỏe xuống dốc một cách không phanh. Trong người anh còn đến những 8 mảnh đạn, cứ trái gió trở trời lại đau nhức vô cùng.
Ngày vui đoàn viên chưa ngớt thì cũng là tin không hay ập về, bỗng nhiên từ đâu một lời đồn cay nghiệt, rằng anh là tình báo Trung Quốc cài cắm về địa phương để phá rối. Anh nghe mà khụy ngã tinh thần. Cuộc đời sương gió với biển đảo cũng là một ý chí sắt son, thủy chung, một lý tưởng vì Tổ quốc cao đẹp, vậy nhưng người đới lắm kẻ thối mốm, ác nhơn.
Thế nên, bao sự hỗ trợ từ trên về, gia đình anh gần như không được thôn xã chú ý mấy, anh vẫn không màng mà vẫn ra sức lao động. Rồi lời đồn cũng bị bạt đi, bởi người lính chất phác tự chứng minh mình là nòi giống Việt, chẳng phải là đặc tình, đặc tiếc gì. Người làng lại dần đến với anh.
Nhưng anh càng cố gắng lao động thì dường như số phận lại càng buộc anh đến phận nghèo. Đến nay, nhiều đồng đội của anh đã có mái nhà ấm cúng, có người nhà hai tầng, thì anh vẫn ở trong cái nhà dột nát. Có người nói rằng; chẳng qua vu khống là nhà cho được chứ nhà đâu mà nhà như rứa!.
Anh lấy vợ, mưu sinh vật lộn khó khăn, sinh được 4 đứa con thì 3 đứa phải bỏ học tự kiếm ăn, riêng cháu út đang được đi học. Anh hy vọng, rồi đứa bé út sẽ không bỏ học vì bố mẹ quá khổ.
Viết bài này cũng là để tỏ một lòng kêu gọi bạn bè trên trang Cu Làng Cát ủng hộ anh Hải, gom góp mỗi người chút đỉnh để dựng cho người lính Gạc Ma còn khó khăn này liếp nhà ấm cúng.
Trong lần kỷ niệm 25 năm trận chiến đấu bảo vệ Gạc Ma, chúng ta nói được rất nhiều, tri ân bằng những ngôn từ sâu sắc và để nối dài những tấm lòng như thế, tôi xin kêu gọi bà con hỗ trợ anh Hải làm được căn nhà ước mơ. Bởi mỗi chúng ta ở phía đất liền được lớn lên đều có bóng dáng của của người ngoài biển đảo quê hương biển Đông đất nước.
Tôi sẽ công bố mọi đóng góp của các bạn trên trang blog Cu Làng Cát như đã từng làm trong cuộc vận động gạo cho đồng bào Rục trước đây.
Chúng tôi mở đợt kêu gọi này thực hiện trong vòng một đến hai tháng sẽ kết thúc với mong muốn có được 100 triệu đến 150 triệu để xây nhà cho anh Hải. Nếu nhiều hơn chúng tôi sẽ trích ra để hỗ trợ một số cựu binh khu vực Hà Tĩnh, Quảng Bình chút đỉnh vốn làm ăn.
Địa chỉ ủng hộ anh Hải qua đầu mối nhà báo Dương Minh Phong
Điện thoại: 0983194999
Tài khoản số: 0161000185218
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam-Chi nhánh Quảng Bình. Khi gửi tiền, bà con nhớ gửi thêm email để tiện bề đối chiếu.
Xin trân trọng cảm ơn bà con
P/S: Đây hoàn toàn là vấn đề nhân đạo, rất mong bà con ủng hộ và không suy còm men chỉ trích chính quyền địa phương).
Cu Làng Cát
Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
