Nguyễn Quang Lập's Blog, page 60
March 11, 2013
Nhà báo Trần Đăng Tuấn lần thứ 2 viết ‘tâm thư’ cho Bộ trưởng Phạm Vũ Luận
Chúng ta đều nhớ ngày khai giảng buồn 5/9/2011 của hai trường Mầm Non thuộc huyện Như Thanh (Thanh Hoá), khi 62 giáo viên thuộc diện Hợp đồng lao động, trong đó có cô giáo đã 29 năm gắn bó với trẻ làng, đã đồng loạt nghỉ không lên lớp. Lý do là vì sau khi trừ các khoản bảo hiểm, tiền lương của họ chỉ còn dưới 500.000 đồng/tháng. Có lẽ câu “Sống để yêu thương” đúng nhất với người làm nghề chăm trẻ. Nhưng để yêu thương thì trước hết cần phải sống.
Sau 16,5 tháng kể từ “sự kiện” không vui đó, ngày 25/12/2012, trong phiên giải trình của Chính phủ về việc thực hiện chính sách pháp luật giáo dục Mầm Non và đảm bảo chất lượng giáo dục phổ thông trước Uỷ ban Văn hoá – Giáo dục – Thanh niên – Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc Hội, Bộ trưởng đã thẳng thắn chỉ ra rằng: Cả nước còn thiếu tới 22.800 giáo viên (GV) mầm non. Số GV biên chế nhà nước chỉ chiếm hơn một nửa tổng số GV mầm non với 135.744 người (đạt tỷ lệ 56,1%).
Bên cạnh một số địa phương hỗ trợ ngân sách, còn lại phần lớn GV mầm non ngoài biên chế chưa được hưởng lương theo ngạch bậc, không tăng lương theo định kỳ. Thu nhập của GV cấp học này nhìn chung còn rất thấp, ở nhiều nơi thậm chí thấp hơn mức lương tối thiểu.
Bộ trưởng đã thổ lộ trước các đại biểu Quốc hội rằng: Việc chưa cải thiện được lương cho giáo viên Mầm non ngoài biên chế là nỗi “day dứt”của Bộ trưởng và là “món nợ” của Bộ Giáo dục với các giáo viên này.
Nhưng có một sự thật là ngày 26/10/2011, tức là chỉ sau “Ngày khai giảng buồn” đã nói trên 50 ngày, và trước buổi giải trình tại Quốc hội chẵn 14 tháng, Thủ tướng đã có quyết định 60/2011/QĐ-TTg, ngoài nội dung trợ cấp cho trẻ 3,4 tuổi vùng khó khăn (mà thư trước tôi đã đề cập), thì nội dung tiếp theo là:
Đối với giáo viên: Giáo viên (bao gồm cả hiệu trưởng, phó hiệu trưởng) làm việc theo chế độ hợp đồng lao động trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập, dân lập được Nhà nước hỗ trợ ngân sách để các cơ sở giáo dục mầm non thực hiện trả lương theo thang bảng lương giáo viên mầm non, được nâng lương theo định kỳ, được tham gia đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế và các chế độ chính sách khác như giáo viên có cùng trình độ đào tạo đang hợp đồng làm việc tại các cơ sở giáo dục mầm non công lập.
Với những người không quen ngôn ngữ văn bản hành chính, điều trên diễn đạt giản dị là: Từ nay (chính xác là khi Quyết định 60 có hiệu lực từ 15/12/2011) giáo viên Mầm non ngoài biên chế (hợp đồng lao động) được hưởng chế độ trả lương và bảo hiểm cùng các chính sách khác giống như giáo viên Mầm non có cùng trình độ đào tạo trong biên chế.
Những tưởng ngành Giáo dục nhận quyết định này thì ngang “vớ được vàng”, lại ở vị trí chủ trì phối hợp để ra văn bản hướng dẫn thực hiện, sẽ đôn đáo để Thông tư liên tịch ra sớm cho “người nhà mình” chóng hưởng. Nhưng không. Cho đến nay, như thư trước tôi đã nói, thông tư hướng dẫn chưa có, và cũng như hàng chục vạn bé Mầm Non 3, 4 tuổi, cả hơn chục vạn giáo viên Mầm non diện hợp đồng lao đông vẫn khắc khoải “sống để yêu thương” với đồng lương ngang bằng hoặc thấp hơn lương tối thiểu.
Ở ta, cách nghĩ chung của các ngành là “cuốc vào lòng”, tức là cố sao cho người nhà có lợi ích. Ngành này được gọi điện thoại miễn phí, ngành kia đi tàu xe miễn phí, có ngành còn kiến nghị miễn thuế thu nhập cá nhân cho nhân viên của mình. Xã hội không phải lúc nào cũng thông cảm chuyện này, thậm chí còn cho đó là thứ lợi ích cục bộ. Nếu Bộ Giáo dục – Đào tạo có “cuốc vào lòng “ để những giáo viên Mầm non được hưởng lương bổng khá hơn, tôi chắc toàn dân (được cấu thành bởi những người có và sẽ có con, có cháu) sẽ nhất loạt nhiệt thành ủng hộ. Trong trường hợp này, phải chua chát nghĩ rằng Bộ Giáo dục – Đào tạo đã không nhiễm cái bệnh “cuốc vào lòng” nọ.
Cho dẫu để ra thông tư hướng dẫn thì phải thương thuyết với nhiều ngành, nhưng chậm trễ đến thế có quá vô tình không?
Nhưng ở đây, đâu phải “cuốc vào lòng” theo nghĩa xé rào, mà là… thực hiện quyết định của Thủ tướng. Luật quy định phải có văn bản hướng dẫn chi tiết kịp lúc quyết định có hiệu lực. Rõ ràng chậm trễ là phạm luật. Như vậy có vô lý không?
Tôi xin phép góp ý thế này:
Xin Bộ trưởng hãy rà soát, nếu thấy việc chuẩn bị các thông tư hướng dẫn không thể nào gói vào trong hạn định thời gian của Luật, Bộ hãy kiến nghị với Chính phủ sửa cách ra quyết định hoặc kiến nghị Quốc Hội sửa Luật. Trong trường hợp ngược lại, xin Bộ trưởng không day dứt gì cả, mà nói với những quan chức, công chức có liên quan của Bộ một điều: Hãy làm việc sao cho đúng lý (với Cơ quan lập pháp, Cơ quan hành pháp cao nhất nước) và đạt tình (với trẻ em và đồng nghiệp).
Lý do tôi buộc viết bức thư thứ hai này là sau phản hồi của Bộ về lá thư trước, tôi, và chắc mọi người, không ai hiểu bao giờ có Thông tư hướng dẫn thực hiện Quyết định 60/2011. Vì chưa hết những điều cần phải nói xung quanh thực hiện Quyết định 60, tôi xin phép hai tuần một lần trao đổi tiếp với Bộ trưởng, cho đến khi một Thông tư như thế được trên 25 vạn giáo viên Mầm non hợp đồng và nhiều chục vạn trẻ mầm non vùng khó khăn hân hoan đón nhận.
Cám ơn Bộ trưởng.
Trần Đăng Tuấn








Tiết lộ ‘Ba kịch bản chính trị Việt Nam’

BMI nói kịch bản tốt nhất là Đảng Cộng sản dần chuyển sang tự do hóa chính trị
Đảng Cộng sản Việt Nam đang phải đối diện với một nhiệm vụ khó khăn trong việc bảo vệ hệ thống độc đoán, giữa lúc áp lực đòi cải cách dân chủ đang ngày càng tăng cao.
Đây là nhận xét của hãng tư vấn ở London, Business Monitor International ( Bấm BMI), được đưa ra trong Bấm bản phúc trình mới nhất, dự báo tình hình kinh doanh của Việt Nam trong thời gian từ nay tới 2022.
Trong bản phúc trình mới nhất, công bố cho quý hai năm 2013, công ty độc lập chuyên thu thập và đánh giá rủi ro chính trị và kinh doanh có trụ sở tại London nói rằng về ngắn hạn, mức độ rủi ro chính trị của Việt Nam là tương đối thấp, nhưng về mặt dài hạn lại gây quan ngại.
BMI đánh giá rằng câu hỏi lớn nhất mà chính trị Việt Nam đang gặp chính là những lời kêu gọi đòi phải dân chủ hóa, trong lúc về mặt chính sách ngoại giao thì việc Trung Quốc ngày càng lớn mạnh sẽ đẩy Việt Nam gắn bó hơn với nhóm các nước Á châu có quan hệ gần gũi với Hoa Kỳ.
Theo cách tính toán xếp hạng của BMI, Việt Nam đạt 76,9, tức trên trung bình trong khu vực đối với mức rủi ro chính trị ngắn hạn (73,2), đứng thứ chín. Đứng đầu là Singapore (94,8), tiếp theo là Brunei Darussalam (90,6).
BMI xếp hạng rủi ro chính trị dài hạn
Nam Hàn 84,2
Singapore 80,6
Đài Loan 75,4
Hong Kong 72,9
Trung Quốc 67,4
Malaysia 67,2
Ấn Độ 65,7
Brunei Darussalam 65,6
Philippines 62,8
Bangladesh 62,6
Thái Lan 61,8
Sri Lanka 60,2
Indonesia 60,0
Campuchia 58,9
Việt Nam 57,7
Bắc Hàn 55,2
Papua New Guinea 54,8
Pakistan 52,7
Bhutan 51,0
Lào 44,5
Miến Điện 37,5
Trung bình khu vực 62,6/toàn cầu 63,4/các thị trường đang nổi 59,8
Tuy nhiên, ở phần xếp hạng độ rủi ro dài hạn, theo BMI, Việt Nam chỉ đạt 57,7, dưới mức trung bình (62,6) và đứng thứ 15 trên tổng số 21 quốc gia khu vực. Trong bảng này, Nam Hàn được cho là an toàn nhất, đạt 84,2 điểm, với Miến Điện đứng chót (37,5).
BMI cũng đưa ra ba kịch bản cho khả năng thay đổi chính trị Việt Nam trong thời gian tới, gồm tình huống cơ bản, tình huống tốt nhất, và tình huống xấu nhất.
Kịch bản một: Chế độ kỹ trịTheo kịch bản này, Đảng Cộng sản VN biến chuyển thành một chế độ kỹ trị, theo đó BMI dự đoán Đảng sẽ chuyển hướng để chính phủ nhắm vào việc duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao và đảm bảo phân phối của cải một cách tương đối hợp lý cho toàn bộ dân chúng.
Với hướng đi này, BMI nhận định nhiều thanh niên vào Đảng nhằm thăng tiến trong sự nghiệp và phục vụ đất nước chứ không phải vì lý tưởng cộng sản.
Do vậy, BMI dự đoán các cải cách kinh tế sẽ được tiếp tục, bất chấp những lời chỉ trích từ các thành viên lớn tuổi, bảo thủ trong Đảng.
Tuy nhiên, BMI đánh giá là trong kịch bản này, việc các nhà hoạt động đòi dân chủ và những người chỉ trích chính phủ có những giai đoạn bị đàn áp mạnh tay chính là chỉ dấu cho thấy việc tự do hóa chính trị vẫn là điều chưa được chấp nhận.
Kịch bản hai: Từng bước tự do hóa chính trịTheo BMI, đây sẽ là tình huống tốt nhất, với việc Đảng Cộng sản áp dụng những chuyển biến nêu trong kịch bản một, đồng thời kết hợp với việc dần dần tiến tới tự do hóa chính trị, như mở rộng vai trò của Quốc hội, chấp nhận một cách dễ dàng hơn những ý kiến khác ở ngay trong cùng Đảng, tăng tính cạnh tranh chính trị trong các kỳ bầu cử, và cho truyền thông hoạt động cởi mở hơn.
Theo kịch bản này, BMI cho rằng Việt Nam sẽ đi từ hệ thống độc đảng sang hệ thống một đảng nắm quyền chi phối tương tự như mô hình ở các nước láng giềng Campuchia, Malaysia và Singapore, nơi chỉ có đảng cầm quyền là có cơ hội thực sự để chiến thắng trong các kỳ bầu cử.

Hiện đang có nhiều kêu gọi phải sửa đổi điều 4 Hiến pháp, qua đó thách thức sự lãnh đạo độc quyền của Đảng Cộng sản
Nếu nhìn xa hơn, thì những gì đã xảy ra ở Nam Hàn, Đài Loan và Nhật Bản cho thấy mô hình hệ thống một đảng nắm quyền chi phối rốt cuộc cũng sẽ mở đường cho phe đối lập. Tuy nhiên, BMI nhận định trong trường hợp Việt Nam thì con đường này có lẽ chỉ xảy ra sau hơn một thập niên nữa.
Kịch bản ba: Bạo loạn và đàn áp bạo lựcLà khả năng xấu nhất, với những bước đi sai lầm nghiêm trọng về mặt chính sách, dẫn tới một giai đoạn biến động kinh tế kéo dài, tỷ lệ thất nghiệp cao và mức lạm phát chóng mặt khiến mức độ sung túc bị xói mòn, theo BMI.
Tình hình này sẽ thúc đẩy mạnh việc thay đổi thể chế, nhưng BMI đánh giá rằng trước các cuộc biểu tình rộng khắp trên đường phố và sự thách thức toàn diện về cơ chế độc đảng lãnh đạo, một bộ phận trong Đảng sẽ ủng hộ việc dùng các lực lượng an ninh đàn áp người biểu tình để tiếp tục níu giữ quyền lực.
Tuy nhiên, theo BMI, việc đàn áp bạo lực các cuộc biểu tình đường phố như từng xảy ra Bấm tại Bắc Kinh hồi 1989 hay tại Miến Điện hồi 2007 sẽ dễ khiến nhiều người thiệt mạng, và dẫn tới việc bị cộng đồng quốc tế áp lệnh trừng phạt.
Mà nếu vậy, Việt Nam nhiều khả năng sẽ phải đương đầu với không chỉ tình trạng bị cô lập về mặt ngoại giao mà còn bị suy yếu kinh tế do ảnh hưởng tới việc xuất khẩu và đầu tư trực tiếp của nước ngoài, BMI đánh giá.








Quê Choa thứ ba ngày 12/03/2013
Cập nhật liên tục trong ngày
Lại dùng cờ Trung Quốc dạy trẻ Việt
Một tập sách dành cho trẻ 3-4 tuổi xuất bản cách đây ba năm vẫn còn lưu hành với lá cờ Trung Quốc được in màu ngay trang 60 vừa được phóng viên Tuổi Trẻ phát hiện.
Tập sách có tên Trắc nghiệm trí tuệ toàn diện cho trẻ do NXB Mỹ Thuật cấp phép xuất bản từ năm 2009, phát hành năm 2010, đơn vị liên kết xuất bản là Công ty Ðinh Tị. Nội dung sách gồm các bài hướng dẫn cách tập cho trẻ những khả năng: quan sát, tư duy, ghi nhớ, tưởng tượng và sáng tạo, khả năng ngôn ngữ… Tuy nhiên, trong phần trắc nghiệm về khả năng ngôn ngữ với bài Luyện tập đặt câu tại trang 60, sách trình bày một lá cờ Trung Quốc in màu để minh họa cho câu “Lá cờ của nước chúng ta có ngôi sao năm cánh”
Khí phách dân Đại Việt
Đâu thua kém người ta.
Vậy thì hãy cùng hẹn:
“Sang năm tới Hoàng Sa!”
Hãy nói câu nói ấy
Trong giao tiếp ngày thường:
“Ta hẹn sang năm nhé,
Đến Trường Sa thân thương!”
Cảnh giác với cách Trung Quốc ‘mua láng giềng gần’
Dù Chính phủ Trung Quốc luôn tự nói mình đang “trỗi dậy hòa bình”, nhưng không phải tất cả các nước láng giềng đều thích thú với điều đó.
Ngạc nhiên trước sự ủng hộ TPP gần đây của Mỹ, Chính phủ Trung Quốc hiện đang cố tìm cách nào để đối trọng tốt nhất với sự ảnh hưởng kinh tế ngày càng lớn của Mỹ tại Đông Á. Theo một chuyên gia nghiên cứu của CASS, chiến lược quan trọng nhất đối với Chính phủ Trung Quốc ở thời điểm này là tích cực thúc đẩy chiến lược FTA của riêng mình.
Nỗi sợ: định tính và định lượng
Khi đưa ra Lời tuyên ngôn bất hủ của mình, anh Nguyễn Đắc Kiên đã nói rõ là làm theo mệnh lệnh của lương tâm. Nhưng anh vẫn khẳng định một cái bóng đen lởn vởn trên đầu nhân dân trong mấy thập kỷ qua: TÔI SỢ. Tôi tin anh nói chân thành và hoàn toàn không có yếu tố khiêm tốn rởm đời. SỢ nhưng vẫn làm vì MỆNH LỆNH LƯƠNG TÂM cao hơn cả NỖI SỢ vậy.
Tuy nhiên, theo tôi, ngoài Lương tâm trong vai trò chủ đạo trong việc chiến thắng nỗi sợ thì còn một phương pháp chiến thắng nỗi sợ nữa là định lượng và định tính nỗi sợ để tìm ra cái ngưỡng đáng sợ. Trước đây, ta cứ mơ hồ sợ, còn bây giờ ta phân tích cái ngưỡng nào thì ta mới sợ.
Hỡi các nhà cầm quyền cai trị, mỗi khi ban hành chính sách gì đó, trước hết hãy nghĩ đến dân, rồi hãy quan tâm đến sự tồn vong của chế độ. Đừng để họ phải thốt lên “mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem”. Lúc đó thì đã muộn.
Trên báo Tuổi Trẻ hôm nay có bức ảnh rợn người. Chả biết cái anh chàng cổ động viên bóng đá gầy gò loẻo khoẻo như anh Dậu ấy nguy hiểm đến mức nào, hành vi chống người thi hành công vụ nghiêm trọng đến mức nào nhưng huy động 7 anh chức việc to con quây lại đánh đạp xử lý tàn bạo như thế, liệu có đáng không? Nếu cho phép bắn, lấy gì đảm bảo khẩu súng trong tay mấy nhà chức việc hung hăng ấy không cho kẻ chống người thi hành công vụ kia xơi vài viên đạn.
Quy định thêm trường hợp nổ súng: Bản án tử hình khỏi phải qua xét xử?
Gần đây Bộ Công an vừa soạn thảo Dự thảo Nghị định quy định các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ nghiêm trọng, đưa ra lấy ý kiến nhân dân trước khi trình Chính phủ ban hành. Điều này đã khiến nhiều người lo lắng, vì sợ sẽ bị lực lượng công an lạm quyền trong việc vận dụng việc nổ súng để xử lý trong các tình huống thực sự cần thiết.
Việc Bộ Công an đề xuất Dự thảo Nghị định quy định các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ nghiêm trọng cũng cả là một vấn đề lớn. Chứ có thể nó không đơn giản như chúng ta nghĩ, trong trường hợp lòng căm phẫn của dân chúng đang lên cao thì việc cảnh sát nổ súng vào đám đông thì không khác gì ném lửa vào một bãi xăng.
Hiện tượng Hugo Chavez và bài học cho Việt Nam (1)
Tổng thống Chavez chết, một số tiếc thương, một số vui mừng nhưng ít người suy nghĩ, phân tích để rút ra bài học từ cuộc đời, từ hành động của ông dù cuộc đời ông gây ra nhiều tranh cãi tốt-xấu. Nếu chúng ta chịu khó rút ra các bài học từ thành công và thất bại của các chính trị gia, chúng ta sẽ tránh được rất nhiều sai lầm, vì như Henry Hazlitt, tác giả cuốn sách kinh tế kinh điển “hiểu kinh tế qua một bài học” đã nói “rất nhiều sáng kiến hiện nay được mang ra thực hiện, thực chất là lặp lại sai lầm của quá khứ”.
Cùng nhau thức tỉnh để giữ nước
Ngày 14.3.1988, 64 người lính Việt Nam đã bị quân xâm lược nã súng khi đang làm nhiệm vụ trên đảo Gạc Ma (Trường Sa). Đã 25 năm qua đi, nhưng nỗi đau này vẫn chưa nguôi, bởi vì từ ngày ấy, một phần xương thịt của Tổ quốc đã rơi vào tay Trung Quốc.
Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm đoạt bằng vũ lực năm 1974, một số đảo của Trường Sa cũng bị Trung Quốc xâm lược. Trung Quốc tiếp tục tìm mọi cách xâm chiếm từng thước núi, tấc sông của Việt Nam. Cho nên, kỷ niệm 25 trận hải chiến Trường Sa không phải chỉ để tưởng nhớ những anh hùng liệt sĩ, mà cùng nhau tỉnh thức để giữ nước.
Xin đừng quên câu chuyện nàng Mị Châu trong thơ Tố Hữu: “… Trái tim nhầm lẫn đặt trên đầu – Nỏ thần vô ý trao tay giặc – Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”.
Chỉ “cay mắt” thôi thì chưa đủ
Bạn đã bao giờ gặp những ông lão đói lả hoặc những người đang quằn quại trong một vụ tai nạn?! Bạn đã bao giờ chìa bàn tay của mình ra cho những đồng bào đang cần sự cứu giúp?!
Để xóa đi những “bức tường dày”, chỉ “cay mắt” thôi thì chưa đủ. Bởi ngoài “bức tường dày cả mét” giữa bác bảo vệ ăn bữa cơm trưa đạm bạc với cái dáng ngồi như tù binh và những người thưởng thức bữa ăn “ít đạm nhiều dollar”, ngoài bức tường ngăn cách giàu nghèo, thưa các bạn, còn có một bức tường khác: Bức tường ngăn cách giữa những cơn “cay mắt” của lương tâm, nhưng trên mạng xã hội và hành động cứu giúp ngoài cuộc sống.
Ông Medvedev: Nga muốn Việt Nam nâng cao vị thế
Thủ tướng Medvedev đề nghị hai nước duy trì trao đổi đoàn cấp cao; tăng cường quan hệ hợp tác cấp Nhà nước và các địa phương. Hai bên cũng cần tiếp tục ưu tiên hợp tác trong lĩnh vực khoa học-công nghệ như công nghệ nano, công nghệ thông tin, công nghệ laze, vật liệu mới v,v… và tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực giáo dục-đào tạo, văn hóa và du lịch.
Thủ tướng Medvedev cũng khẳng định, Liên bang Nga luôn ủng hộ và đẩy mạnh quan hệ hợp tác với Việt Nam trong phát triển kinh tế-xã hội , không ngừng nâng cao vị thế trong khu vực và trên thế giới vì hòa bình, hữu nghị và phát triển.
Gạc Ma! Gạc Ma! Sẽ có ngày ta trở lại…
hững ngày này cách đây 25 năm, tôi cũng như hầu hết mọi người vẫn thản nhiên nói cười, thản nhiên tụng ca nhau với các nước láng giềng về tình hữu nghị. Cho mãi đến cả chục năm sau, tôi cũng như hàng triệu, hàng chục triệu người dân Việt Nam vẫn không hề hay biết, có một trận hải chiến Trường Sa giữa những người chiến sĩ hải quân ta với quân xâm lược Trung Quốc trên đảo Gạc Ma đã từng diễn ra vô cùng oanh liệt vào ngày 14/3/1988. 64 người con của đất mẹ đã anh dũng hy sinh…
Những điểm quan trọng trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992
Đây là bản tóm tắt do GS Đàm Thanh Sơn Giới thiệu cho Quê choa:”Tôi muốn giới thiệu với anh bài viết ngắn tóm tắt những thay đổi trong Dự thảo 2013 so với bản Hiến pháp 1992 hiện hành“
Tài liệu này tóm tắt những sửa đổi quan trọng nhất trong Dự thảo 2013 so với bản Hiến pháp 1992 hiện hành. Đây là tài liệu không chính thức, được đưa ra để giúp cho những người có ít thời gian nghiên cứu, tìm hiểu hiến pháp nắm được những thông tin cơ bản nhất trước khi tham gia góp ý vào bản Dự thảo Hiến pháp 2013. Tài liệu này dưới dạng pdf ở đây. Bản so sánh đầy đủ giữa Dự thảo hiến pháp 2013 và Hiến pháp hiện hành ở đây.
CHI BỘ BÁO ĐẠI ĐOÀN KẾT CŨNG CÓ BỘ PHẬN KHÔNG NHỎ
Không có lẽ là đảng viên thì cứ tùy tiện cậy quyền vi phạm pháp luật và gây tổn hại đến uy tín danh dự của tập thể, quyền lợi của người lao động rồi sau đó được chi bộ họp bỏ phiếu xí xóa là được sao?. Tin rằng Đảng ủy MTTQ VN, đứng đầu là Bí thư Đảng ủy Vũ Trọng Kim nghiêm khắc kỷ luật đảng viên dưới quyền. Các đảng viên và người lao động ở báo Đại Đoàn Kết tin Chi bộ báo Đại Đoàn Kết sẽ họp sớm để làm mỗi một việc: Bỏ phiếu kỷ luậtĐảng viên thoái hóa Đinh Đức Lập bằng hình thức: Cảnh cáo hay Khai trừ!
Bộ công an đề xuất luật hợp pháp hóa giết người công khai
Bộ Công an đang đề xuất về việc “cho bắn người chống cán bộ thi hành công vụ”(VNExpress). Đề xuất này thể hiện rằng Bộ Công an đã, đang và tiếp tục xem thường mạng sống con người một cách quá đáng. Nếu đề xuất này được duyệt, tôi không biết rồi đây sẽ có thêm bao nhiêu người mẹ mất con, bao nhiêu người vợ mất chồng, bao nhiêu người con mất cha một cách oan ức giống tôi, trong khi con số nạn nhân trong những năm gần đây không còn là con số nhỏ ….
Đề xuất lập Ủy ban quốc gia quyền con người
Kiến nghị của các tổ chức xã hội cũng nêu rõ, ngay trong chương về quyền con người đã ghi câu “Quyền con người, quyền công dân chỉ bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng” là không phù hợp nguyên tắc của luật nhân quyền quốc tế. Bởi việc giới hạn cũng chỉ có thể áp dụng với một số quyền nhất định.
Một số quyền con người (quyền sống, quyền không bị tra tấn, không bị đối xử vô nhân đạo hay hạ nhục…) là các quyền tuyệt đối, nhà nước không được giới hạn trong bất kỳ hoàn cảnh hay vì bất kỳ lý do nào. Việc hạn chế, nếu áp dụng với các quyền khác phải không được lạm dụng và phải tuân theo tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế.
‘Không phải xin lỗi dân là xong’
Khi Đảng lãnh đạo đúng đắn, thành công thì không sao nhưng khi có khuyết điểm thì trách nhiệm thế nào – TS Nguyễn Việt Hùng, nguyên Trưởng khoa Xây dựng Đảng, trường Cán bộ TP.HCM băn khoăn.
khi Đảng lãnh đạo đúng đắn và thành công thì không sao nhưng khi có khuyết điểm thì phải giải quyết trách nhiệm đó ra sao? “Đảng không chỉ xin lỗi dân là xong. Mà điều này cần có quy định mang tính hiến định để trách nhiệm đó được minh bạch”, ông Hùng nói.
Giải pháp công bằng hợp lòng dân
Giải pháp duy nhất hợp lý hiện nay là tổ chức một cuộc tranh luận công khai, bình đẳng, khoa học giữa 2 đoàn đại biểu cho 2 bản dự thảo đối lập nhau, nên có mặt cả Bộ Chính trị, Ban Lý luận Trung ương, Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia ở một bên, và bên đối lập là đại diện cho 72 trí thức đề xuất ra kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp. Cuộc thảo luận phải mở rộng cho giới báo chí trong và ngoài nước chứng kiến, truyền đi rộng rãi cho nhân dân tỏ tường. Sau đó nếu có được một cuộc trưng cầu dân ý để xem ý dân ra sao là hợp lý nhất.
Tôi tin rằng phía nào yêu nước thật lòng, thương dân thật tình, có tinh thần dân chủ sâu sắc, chân thành đi theo những giá trị cơ bản của thời đại, phía đó sẽ được nhân dân tín nhiệm ở mức rất cao.
Từ Hà Nội, luật sư Trần Vũ Hải nói với BBC rằng ông “ngạc nhiên”.
“Trong Dự thảo Hiến pháp mới đang được thảo luận, có nhắc đến quyền sống. Cơ quan công an hình như chưa nghiên cứu dự thảo Hiến pháp,” ông Hải nhận xét.
“Mọi người đều có quyền sống, vậy anh phải hành động như thế nào để người ta không bị chết, đấy là điều đầu tiên.”
Hiện tại Việt Nam đã có Pháp lệnh, được Quốc hội thông qua, về việc sử dụng vũ khí, trong đó có quy định về các trường hợp được nổ súng.
Xem dinh cơ ông Nguyễn Trường Tô
Sau 3 năm kể từ ngày bị miễn nhiệm hết chức vụ vì những lùm xùm xung quanh vụ án Sầm Đức Xương (năm 2010), nguyên Chủ tịch tỉnh Hà Giang Nguyễn Trường Tô trở về cuộc sống của người dân thường với thú vui điền viên. Đó là khu trang trại sinh thái ở ngay mảnh đất cực bắc Hà Giang.
Cách Hà Giang 8 km, trên địa bàn xã Đạo Đức (huyện Vị Xuyên), cánh cổng này là nơi dẫn vào khu trang trại của gia đình ông Tô








Thư ngỏ gửi Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng về bauxite
Ngày 11-3, TS Nguyễn Thành Sơn, Giám đốc BQL Các dự án than đồng bằng sông Hồng thuộc Vinacomin, có bức thư ngỏ gửi Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng sau khi nghe ông trả lời trên VTV1 về vấn đề bauxite Tây Nguyên. Báo NLĐO xin trích giới thiệu bức thư ngỏ này.

TS Nguyễn Thành Sơn
“Hà Nội, ngày 11-3-2013.
Kính gửi anh Vũ Huy Hoàng – Bộ trưởng Công Thương,
Tôi là Nguyễn Thành Sơn, may mắn đã quen biết và đôi khi có làm việc với anh từ năm 1977 (khi tôi còn làm việc ở Vụ Kế hoạch – Bộ Điện Than), chắc anh vẫn nhớ.
Tối qua, tôi đã lắng nghe anh trả lời phỏng vấn của VTV1 về bauxite. Tôi xin phép được trao đổi với anh một số ý như sau:
Trước hết anh nói: “Trữ lượng bauxite của VN là khoảng 10-11 tỉ tấn” là sai mất rồi. Con số 10-11 tỉ tấn chỉ là tiềm năng về bauxite, dứt khoát không phải là trữ lượng. Theo chuẩn đánh giá của Mỹ thì trữ lượng bauxite của VN chỉ bằng 1/5 con số đó thôi. VN không phải “là một trong một số ít nước được đánh giá là có trữ lượng bauxite lớn trên thế giới” đâu anh ạ. Đó chỉ là đánh giá của những người không hiểu thế nào là “trữ lượng” thôi.
Về việc phải nhập khẩu nhôm: Là Bộ trưởng Công Thương, anh thừa biết ngành luyện kim của VN như thế nào? Kim loại nào cũng phải nhập. Dễ làm như gang-thép mấy chục năm nay rồi có cạnh tranh nổi đâu, càng làm càng kém hiệu quả. Giá điện ở VN thì anh quá thuộc rồi. Với nền kinh tế VN, “mơ” đến công nghiệp nhôm cũng giống như “mơ” về giá điện 600 đồng/KWh. Anh nói, hằng năm ta phải chi hơn 1 tỉ đô la để nhập nửa triệu tấn nhôm. Tôi sẵn sàng cá với anh, trên Tây Nguyên, nếu Vinacomin tự làm ra được nửa triệu tấn nhôm (như loại đang phải nhập) sẽ tốn hơn 2,5 tỉ đô la kia. Việc nhập nhôm không phải là lý do chính đáng để phải triển khai hai dự án bauxite như anh nói đâu.
Về chủ trương: Mọi chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đều hướng đến mang lại lợi ích tối đa cho dân tộc, cho nền kinh tế. Dù Đảng và Nhà nước đã có chủ trương về bauxite-nhôm nhưng khi triển khai chủ trương đó một cách “quyết liệt” như Vinacomin và Bộ Công Thương đã làm mà không thấy hiệu quả và lợi ích đâu thì bộ và Vinacomin phải có trách nhiệm báo cáo lại với Đảng và Nhà nước chứ? Tôi thấy, trong quá trình triển khai chủ trương của Đảng và Nhà nước về bauxite-nhôm, bộ và Vinacomin đã mắc nhiều sai lầm đáng tiếc nên đã dẫn đến tình trạng hiện nay. Nếu anh thu xếp được thời gian, tôi sẽ trình bầy riêng với anh về chủ đề này.
Về dự án thí điểm: Anh đã nói đúng, là “ở giai đoạn hiện nay, chúng ta mới đầu tư thí điểm hai dự án khai thác bauxite và chế biến thành a-lu-min tại Tân Rai (Lâm Ðồng) và Nhân Cơ (Ðắk Nông)”. Chắc Vinacomin chưa kịp báo cáo với anh, cái gọi là “thí điểm hai dự án” của “quả đấm thép” Vinacomin hiện đã bổ sung vào nợ công của VN hơn 1,2 tỉ đô la rồi đấy. Nếu cứ ‘quyết liệt’ làm nốt Nhân Cơ thì nợ công sẽ tăng thêm gần 2 tỉ đô la kia. Đến tình trạng như hiện nay, đối với Bộ Công Thương, có thể coi đó là hai dự án “thí điểm”, nhưng đối với Vinacomin thì đó là 2 dự án “thí mạng” rồi anh Hoàng ạ. Để trả nợ cho hai dự án “thí điểm” này của bộ, gần 140.000 lao động của Vinacomin (trong đó có tôi) sẽ phải làm việc cật lực 20 năm may ra mới “xong” (tôi chỉ còn phải làm hơn 1 năm nữa thôi).
Về nguyên nhân chậm tiến độ: Là người của Vinacomin, tôi thấy nguyên nhân chủ yếu của việc chậm tiến độ của hai dự án là do chủ đầu tư quá nóng vội, “quyết liệt” làm cho bằng được, còn nhà thầu thì hứa hão. Là cấp trên của Vinacomin, Bộ Công Thương không nên trách chủ đầu tư “chưa thực hiện thật tốt công tác thông tin tuyên truyền, giải thích”. Tôi biết Vinacomin rất tích cực trong việc thông tin tuyên truyền giải thích. Chỉ có điều, những thông tin mà dư luận quan tâm thì Vinacomin lại “lờ” đi, không “tuyên truyền”, còn những vấn đề được Vinacomin “giải thích” thì dư luận đã đoán được trước như cảng Kê Gà rồi.
Thiệt hại hàng trăm triệu đô la do chậm tiến độ thì rõ rồi, tôi không thấy anh nhắc đến. Nhưng, lợi ích của việc chậm tiến độ như anh nói là “chúng ta phải chấp nhận kéo dài nhưng đổi lại sẽ yên tâm hơn về mức độ an toàn công trình” thì tôi không tin. Mức độ an toàn của bùn đỏ trước hết do công nghệ thải bùn đỏ (“khô” hay “ướt”) quyết định, chứ không phụ thuộc vào mấy lớp vải địa kỹ thuật của nhà thầu dùng. Tôi thấy Bộ Công Thương, sau khi đi khảo sát ở Hungary về nhưng vẫn phê duyệt công nghệ thải bùn “ướt” là một sai lầm cố ý. Người Hungary có khuyên chúng ta cứ làm “ướt” không? Anh nói “dư luận xã hội chưa đồng thuận với việc triển khai dự án, nên ở giai đoạn đầu của quá trình thi công có một số hạng mục đã phải tạm giãn tiến độ chờ xem xét”. Tôi thấy, qui trách nhiệm chậm tiến độ cho dư luận xã hội là không nên. Nếu bộ “xem xét” mọi việc đều đúng thì chẳng có dư luận nào “chưa đồng thuận” cả. Còn nếu dư luận xã hội sai thì việc gì bộ phải “xem xét” (Anh cứ hỏi anh Lê Dương Quang – bạn tôi).
Về chất lượng công trình: Tôi thấy dự án Tân Rai mới chỉ chạy được 30-40% công suất thiết kế mà anh đã khẳng định “đã sản xuất thử thành công sản phẩm a-lu-min đầu tiên với chất lượng được đánh giá cơ bản đạt yêu cầu”.

Bên trong nhà máy khai thác bauxite Tân Rai
Về phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án: Anh đã nói rằng “cần phải dựa trên những tính toán dài hạn” là rất đúng. Để thực hiện lời của anh, thế giới từ những năm 80 của thế kỷ trước đã phát minh ra một số cái gọi là NPV, B, C, IRR… Nếu có ai đó, lấy giá bán alumina tại thời điểm hôm nay (liên quan đến B) so sánh với chi phí (liên quan đến C) tại thời điểm ngày mai thì họ đã sai. Anh nên cho Vinacomin công khai xem chi phí làm ra 1 tấn alumina ở Tân Rai như thế nào để dạy cho người ta cách tính.
Về hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án: Anh nói (như nhiều người giống anh đã nói): “Ðối với doanh nghiệp thì hiệu quả kinh doanh là mục tiêu chủ yếu, nhưng đối với xã hội điều lớn hơn mà tất cả chúng ta mong đợi là hiệu quả tổng hợp về kinh tế – xã hội đối với phát triển vùng, phát triển ngành và phát triển nền kinh tế”. Anh cứ hỏi anh Vũ Đức Đam thì biết, nếu ngành than ở Quảng Ninh mà thua lỗ thì tình hình Quảng Ninh sẽ như thế nào? Bản thân bauxite Tân Rai hay Nhân Cơ không có lãi thì lấy gì để “lan tỏa” cho Lâm Đồng hay Đắk Nông? Đối với hai dự án bauxite này, các “tham mưu” của anh đang vận động anh xin Chính phủ giảm tiền đền bù, giảm phí môi trường, giảm thuế xuất khẩu… thì tôi không hiểu cái gọi là “hiệu quả tổng hợp về kinh tế-xã hội” là cái gì? Quan điểm của anh cho rằng: “hãy để dự án vận hành một thời gian rồi chúng ta sẽ có cơ sở xem xét và đánh giá hiệu quả của dự án. Ðó là cách tiếp cận khách quan và phù hợp” là “vòng vo tam quốc” cho vui thôi. Tôi không rõ, trước khi các anh ký trình Thủ tướng xin được triển khai “quyết liệt” cả hai dự án thí điểm thì các anh đã “tiếp cận khách quan và phù hợp” đến như thế nào trong chương mục “đánh giá hiệu quả của dự án”?
Về việc dừng cảng Kê Gà: Tôi thấy người đặt câu hỏi rất đúng và trúng, còn anh trả lời cũng rất hay và khéo… Nhân đây, tôi cũng xin nhắc đến cái gọi là “qui hoạch bauxite” của Bộ Công Thương. Năm ngoái, khi anh Khanh “rà soát”, “hiệu chỉnh” xong, tôi đã gửi cho các anh (và cả anh Hoàng Trung Hải nữa) nhận xét của tôi về cái qui hoạch hiệu chỉnh đó. Với phương pháp luận và tư duy qui hoạch như vậy thì cảng Kê Gà không phải là dự án duy nhất sẽ bị Thủ tướng “tuýt còi” đâu.
Về hậu quả của hai dự án thí điểm: Nghe anh nhắc đến bùn đỏ tôi cũng mừng. Nhưng, tôi không rõ “nhiều bài học về môi trường, không chỉ trong nước mà có cả trên thế giới” được anh nhắc đến nó như thế nào? Tôi biết chắc chắn, bùn đỏ nếu được đổ thải ra ngoài trên độ cao 800-900 m so với mực nước biển và ở đầu nguồn nước như ở Tân Rai và Nhân Cơ thì chỉ an toàn khi được thải “khô” như cả thế giới đang làm.
Về xử lý bùn đỏ: Tối qua tôi thấy gương mặt anh vẫn hơi buồn khi nhắc đến thành công của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ VN “đang hoàn thiện đề tài ở quy mô thử nghiệm, để chuyển sang quy mô công nghiệp việc nghiên cứu xử lý bùn đỏ để thu hồi lại xút, sản xuất sắt xốp, xỉ”… Tôi cũng xin mạn phép để nhắc đến “tính hiệu quả kinh tế” của việc xử lý bùn đỏ. Việc thu hồi “xút” chẳng ai dại gì lại làm như viện hàn lâm của VN cả. Trong sách giáo khoa của Liên Xô, họ dạy chúng tôi là xút phải cố gắng thu hồi tối đa trong nhà máy trước khi thải ra ngoài cùng bùn đỏ. Việc sản xuất “sắt xốp, xỉ” từ bùn đỏ từ Tây Nguyên đã “thành công” thì cũng là “tin” tham khảo thôi anh ạ, ai cũng biết rồi… Ngoài ra, quặng sắt Thạch Khê có hàm lượng Fe2O3 còn cao hơn 2-3 lần so với bùn đỏ, nằm ngay sát bờ biển (thuận lợi đủ thứ), không hiểu 10 năm nữa có ra được sắt “xốp” không?
Vài lời tâm sự, chắc đã làm anh mất nhiều thời gian.
Tôi gửi anh thư ngỏ vì cách đây chưa lâu, tôi có gửi tới anh (qua đường bưu điện) phương án “Đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu, nâng cao năng lực cạnh tranh của Vinacomin” do tôi “sáng tác” nhưng không thấy được anh hồi âm.
Kính chúc anh sức khỏe và thành công.
Kính thư,
TS Nguyễn Thành Sơn”








Để Đảng không trở thành đảng trị
Nguyễn Huy Canh ( Hải Phòng)
Lời kêu gọi nhân dân đóng góp ý kiến cho Dự thảo sửa đổi HP1992 đã được QH, Ban soạn thảo đưa ra với lời tuyên bố cởi mở, dân chủ: không có vùng cấm, kể cả nội dung điều 4 của bản HP này.
Đã có rất nhiều ý kiến của nhân dân, của các nhân sĩ, trí thức cho bản Dự thảo ở các vấn đề quan trọng từ quyền con người, quyền sở hữu đất đai đến cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, vị trí của đảng trong HP…Có thể xem đó là ý thức, là sự quan tâm và kỳ vọng rất lớn của nhân dân vào công cuộc chuyển đổi, phát triển đất nước theo con đường dân chủ.
HP đã được chúng ta quan niệm như thế nào? Đó là bộ luật gốc, luật mẹ, luật cơ bản và có hiệu lực pháp lí cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác không được trái với nó. Đó là những quan điểm đúng về HP, nhưng tôi cho rằng chưa đầy đủ, chưa đi vào thực chất cốt lõi của nó. Nếu không có một lí thuyết về HP dẫn đường, soi sáng những vấn đề, những nhu cầu của xã hội, cái logic vận động của đời sống hiện thực này, thì tôi e rằng lần sửa đổi HP này vẫn chưa thể đáp ứng được tâm nguyện và ước vọng sâu xa của nhân dân.
Một lí thuyết mới về HP dẫn đường không thể không đặt ra vấn đề quyền lực và mối quan hệ của quyền lực chính trị của Đảng với bản thân nó. Khi nói về vấn đề này, GS Nguyễn Đăng Dung đã có một ý kiến đúng rằng, cốt lõi của HP là ở sự giới hạn quyền lực. Tôi xin được nói thêm rằng bản chất của HP của chế độ dân chủ là quyền lực nhà nước phải là quyền lực chính trị của nhân dân trao cho, ủy thác cho . Nếu nội dung này không được khẳng định, không được làm rõ ngay từ đầu thì cũng không có vấn đề được đặt ra về sự giới hạn quyền lực nhà nước.
Quyền lực chính trị của nhân dân trao cho nhà nước bằng HP và thông qua HP là gì? Chúng ta phải nói đến đó là quyền được quyết định, được ban hành chính sách cho những vấn đề lớn, trọng đại của đất nước về đối nội, đối ngoại; về an ninh, quốc phòng; về kinh tế, văn hóa-xã hội; về dự toán ngân sách; về cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, về quản lí và bổ nhiệm cán bộ; về cơ chế kiểm soát, hạn chế quyền lực…
Nhưng có một điều làm chúng ta phải suy nghĩ, phải đặt ra bởi những khó khăn của HP khi nó va chạm, gặp phải những vấn đề gọi là nhạy cảm. Đó là quyền được quyết định những vấn đề lớn của đất nước, của xã hội đã thuộc về Đảng như một tất yếu lịch sử khi Đảng lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền, và xây dựng chính quyền nhà nước trong suốt những năm kháng chiến, chiến tranh chống giặc ngoại xâm.
Một tất yếu lịch sử đã không được soi sáng bởi một trí tuệ lớn, một tư duy chính trị sâu sắc và dũng cảm khi chiến tranh đã đi qua, đất nước đã được độc lập, được tự do. Kết quả ấy, thành quả ấy đương nhiên thuộc về sự hi sinh, sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng thực tiễn và triết lí lịch sử cũng đã hiểu ra rằng thành quả ấy đầu tiên và cuối cùng cũng là của nhân dân, phải thuộc về nhân dân, thuộc về sự hi sinh xương máu của nhân dân. Sự hi sinh ấy đã đem lại cho nhân dân cái khả năng, cái tư thế của người làm chủ đất nước, của người có khả năng đưa ra được những quyết định về các vấn đề lớn, hệ trọng của đất nước và của cuộc đời mình dưới sự lãnh đạo của các chính đảng, của một chính đảng. Rằng nhân dân hôm nay, kể bắt đầu từ công cuộc đổi mới diễn ra vào thập niên 80, không còn là những quần chúng theo nghĩa là những lực lượng vật chất thụ động cần có những cá nhân anh hùng, những nhà tiên tri, những vĩ nhân lịch sử, những chính đảng dẫn dắt soi đường trong hành trình vào cõi nhân sinh.
Cái khả năng làm chủ ấy, trong tính thực tại, tính hiện thực chính là quyền lực chính trị. Nó phải là của nhân dân, thuộc về nhân dân ngay từ đầu. Nhưng tiếc rằng, như một sự trớ trêu của lịch sử, cho đến tận ngày hôm nay nhân dân chúng ta vẫn chưa có được cái điều tưởng như là logic, là hiển nhiên đó.
Điều lệ Đảng, chương 3, điều 16, Đảng đã tự qui định nội dung quyền lực chính trị này thuộc về BCHTW, BCT….Cái cấu trúc này nó được tổ chức, được thiết kế hoàn toàn khép kín với người dân. Người dân đã như một kẻ đứng ngoài, xa lạ đối với quá trình chính trị diễn ra gắn liền với đời sống xã hội, với sinh mệnh của đất nước và của chính mình. Như vậy có thể nói quyền lực chính trị của đất nước đã không thuộc về nhân dân ngay từ đầu, đã bị đảng “tước mất” dù điều 74 HP dự thảo có khẳng định: QH là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất…và, có quyền quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước . Thực tế nhà nước chỉ còn là công cụ hiện thực hóa, thực thi hóa, thể chế hóa đường lối, chính sách, nghị quyết của đảng .Ngay cả HP, một bản văn xác nhận quyền lực tối thượng của nhân dân cũng được hiểu và đối xử như vậy. Điều ấy có nghĩa là : quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, HP là văn bản xác nhận quyền lực của nhân dân , và nhân dân trao quyền lực ấy cho nhà nước chỉ còn là một thứ giả, là vật trang trí của xã hội hiện đại .
Như vậy, nói theo ngôn ngữ HP, quyền lực chính trị của Đảng là vi hiến (mặc dù có qui định của điều 4). Nhưng tiếc rằng thể chế chính trị này đã không có được cơ quan tư pháp (hiểu theo đúng chức năng và nhiệm vụ của nó), và cũng chẳng có được một chính trị gia, một lí luận gia nào của Đảng cắt nghĩa cho được một cách minh bạch và thẳng thắn cái điều phi logic này ngoài việc cổ vũ cho Đảng phải luật hóa điều 4, hay trao quyền cho hội đồng hiến pháp kiểm tra, giám sát hoạt động của TBT, hoặc tiêu cực hơn là đòi xóa bỏ nó. Đó là điều không thể làm được vì tính không khả thi của nó, cũng như những hệ lụy mà nó gây ra đối với sự lãnh đạo của Đảng cũng như với đời sống thực tiễn chính trị nước nhà trong giai đoạn hiện tại này.
Theo logic của lịch sử, của nhà nước pháp quyền hiện đại,quyền lực chính trị thực sự thuộc về nhân dân thì nhân dân phải có được 2 hành động liên tiếp sau:
Bước 1/ nhân dân trao, ủy thác quyền lực chính trị của mình cho nhà nước bằng HP, thông qua HP do chính mình viết ra bởi một Hội đồng lập hiến, và với sự tham gia của toàn dân (theo 2 công đoạn đóng góp ý kiến vào dự thảo và, trưng cầu ý dân)
Bước 2/ nhân dân tiếp tục trao các cơ quan nhà nước cho các chủ thể chính trị bằng lá phiếu của mình thông qua các cuộc bầu cử tự do. Bởi vì, các cơ quan nhà nước phải do những con người bằng xương, bằng thịt (và thông thường ở các xã hội đã phát triển) thuộc các chính đảng nắm giữ, điều hành.
Sau khi được trở thành đảng cầm quyền, thông qua việc nắm giữ và điều hành 2 cơ quan lập pháp và hành pháp, đảng sẽ thực hiện quyền lãnh đạo, quản lí của mình với quốc gia và đất nước.
Vì không thấy được cách thức tổ chức mô hình chính trị của mình là lạc hậu, không dân chủ và vi hiến, Đảng đã “vô tình” tạo ra thể chế chính trị đảng trị theo nghĩa của hình thái “quân chủ chuyên chế” đã cải biên , và do đó cũng đã tạo ra những cơ chế chính trị cho sự sản sinh và nuôi dưỡng đạo chuyên quyền, đức tham nhũng và sự giả dối, thờ ơ ở nhiều cấp, nhiều ngành.
Tại sao bây giờ nền chính trị của chúng ta lại rơi vào tình huống đó, và buộc phải tính đến bước cách tân này? Bởi vì đất nước và con người, nhân dân của đất nước này đã thay đổi.Từ một đời sống, hoàn cảnh sống trên đó sở hữu tư nhân bị tuyên chiến, bị xóa bỏ như một cái gì xấu xa, ghê tởm; xã hội là một khung cảnh vô chủ của những con người vô thân, vô ngã đã bước vào một quá trình sở hữu tư nhân về tài sản, về tư liệu sản xuất được thừa nhận và phát triển mạnh mẽ sau những năm cuối của thập niên 80 của thế kỉ trước : mọi người được lo toan, được suy nghĩ làm chủ, làm giàu không hạn chế cho bản thân mình và vợ con mình; được tự do tiến hành sản xuất-kinh doanh . Đảng viên của đảng cũng được xã hội và tổ chức đảng thừa nhận trở thành những ông chủ tham gia vào quá trình bóc lột giữa người và người trong tổ chức lao động và sản xuất. Đó là một quá trình tha hóa của lịch sử chúng ta, mà chính xác ra phải gọi là một sự khắc phục : con người, lịch sử đã phải đi từ vô thân, vô ngã trở lại hữu thân, hữu ngã, có bản ngã .Qúa trình biến đổi lịch sử này cần phải được xác nhận trong đảng như một qui luật, rằng cho đến nay chúng ta đã có một bộ phận không nhỏ trở lên rất giàu có thông qua cách thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được pháp luật thừa nhận, rằng trong đảng đã có một bộ phận không nhỏ trở thành những nhà tư bản mới.
Cái quá trình khắc phục ấy, tiếc rằng đã kéo theo một bộ phận không nhỏ trong Đảng tham nhũng,thoái hóa, biến chất để trở thành lớp người giàu có bất minh.
Cái lực lượng thoái hóa ấy trong đảng do đã tìm thấy ở thể chế chuyên chế cái cơ sở lí luận và thực tiễn kinh tế cho hành động biến quyền lực của Đảng thành cơ hội, lợi ích, thành tiền bạc cho bản thân, cho vợ con, anh em của mình,cho những đ/c của mình. Điều này ngày càng trở nên rõ ràng, nghiêm trọng và đặc biệt nguy hiểm cho đảng, và đất nước bởi lịch sử nước nhà đang bị chi phối mạnh mẽ bởi qui luật đa nguyên mà chúng ta đã nhìn thấy rõ qui luật ấy đang thấm sâu vào trong lĩnh vực của các quan hệ kinh tế, của các lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường, đa thành phần.
Cơ sở lí luận cho lực lượng bảo thủ, giáo điều, thoái hóa ấy chính là cơ cấu, cơ chế quyền lực của đảng được đóng kín như một thứ quyền lực bên trong bóng tối, không bị kiểm soát, không có giới hạn bởi nó đã đứng ở bên ngoài và bên trên nhân dân, trên nhà nước, trên HP và pháp luật vẫn được giữ nguyên như thời kì vô chủ, vô ngã trong cái tình huống khắc phục khách quan (nói trên) của lịch sử và của đảng đang diễn ra mạnh mẽ.
Bộ phận quan chức không nhỏ xấu xí này cùng với những biến đổi khách quan trong đảng nói trên, đang hàng ngày hàng giờ làm cho đất nước ta suy yếu trên nhiều mặt, và Đảng tự diễn biến, chuyển hóa theo hướng xa dân, đối lập và ngày càng mất uy tín trầm trọng với nhân dân. Đảng đang rơi vào tình thế lâm nguy như nỗi lo lắng của chính TBT, của tân trưởng ban nội chính tw, và của nhiều vị lãnh đạo khác trong đảng.
Đổi mới thể chế chính trị theo hướng dân chủ là đòi hỏi bức thiết của nhân dân, và đảng trong cuộc chấn hưng đất nước. Trong nhu cầu ấy, nhiều nhân sĩ-trí thức đã nhìn thấy những mặt tích cực của mô hình chính trị đa đảng.
Tư tưởng về một thể chế đa đảng không đồng nghĩa với ý muốn bác bỏ sự lãnh đạo của đcs –như những lực lượng bảo thủ vẫn gán ghép cho họ-mà nó chỉ muốn đi tìm một sự minh bạch của quyền lực, của sự cạnh tranh chính trị lành mạnh, công bằng. Nhưng có vẻ trong tư duy ấy có một sự dập khuôn về một nhà nước pháp quyền của các quốc gia tư sản đã có chiều dài phát triển hàng trăm năm mới có được.
Một sự dập khuôn như thế đã diễn ra trong suốt một chiều dài đáng buồn của lịch sử xây dựng chính quyền nhà nước, và bây giờ ta lại thấy bóng dáng của nó hiện ra trong mô hình nói trên. Chế độ chính trị đa đảng giờ đây ở VN có thể là một ảo tưởng, vì dễ dẫn đến những khoảng trống của quyền lực xuất hiện, những lực lượng, thành phần cơ hội thừa cơ nhảy ra và kéo theo đó là sự trỗi dậy của tội phạm, của bạo lực khủng bố và li khai… khó bề kiểm soát, chưa kể đến sự ngăn trở từ những xung đột lợi ích xảy ra trong bản thân đảng cũng như mối đe dọa luôn hiện hữu từ phương bắc cho dù có thời gian chuẩn bị từ 2->3 năm của những tư tưởng ấy. Phải có một bước đệm của lịch sử , một bước đi ban đầu nhằm tạo ra tư thế tâm lí trong đảng và thói quen của toàn xã hội trước khi (có thể) bước vào đời sống chính trị đa đảng phái sau này.
Từ những phân tích ở trên, tôi đề nghị:
1/ Công cuộc sửa đổi HP chỉ có thể có được thành quả như một bước ngoặt lịch sử, khi ĐCS nhất định hiểu ra được rằng: Đảng không phải , và không còn là một tổ chức có quyền lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội được mặc định theo cách như trước nữa mà chỉ là một tổ chức chính trị (thuần túy) xét trong mối quan hệ tồn tại với xã hội hiện tồn. Chỉ trở thành một tổ chức có quyền lực, có quyền được ra quyết định, được ban hành các chính sách về tất cả những vấn đề lớn, trọng đại của đất nước từ đối nội đến đối ngoại, từ kinh tế đến an ninh, quốc phòng khi đảng được người dân “thuê”, ủy quyền để trở thành đảng cầm quyền thông qua sự lựa chọn trong một bầu cử tự do có cạnh tranh giữa các đảng viên của đảng, cũng như với các ứng viên tự do qua lá phiếu bầu của nhân dân được tổ chức bởi một Hội đồng bầu cử QG.
2/ Điều đó đòi hỏi Đảng phải dũng cảm, mạnh mẽ trả lại ngay quyền lực chính trị cho nhân dân bằng cách thay đổi nhiều nội dung của Điều lệ trong đó có việc phải bỏ điều 16 chương 3, thay đổi cách thức tổ chức của mình bằng việc bỏ đi tất cả các tổ chức BCHTW, BCT, BBT…ở TW và các cấp ủy, thường vụ ở địa phương, và ở các ngành.
3/Do đó Hiến pháp phải có ít nhất một điều qui định riêng về đảng (bằng việc sửa chữa điều 4 hiện nay).
-ĐCS Việt Nam là một tổ chức chính trị-xã hội đóng vai trò thiết yếu trong chế độ.
-Trở thành đảng cầm quyền, đảng (mới được)thực hiện vai trò lãnh đạo, quản lí của mình đối với quốc gia, xã hội theo qui định của Hiến pháp, pháp luật.
Những thay đổi trên đây, mặc dù cũng rất khó khăn, nhưng đó là phương án cải cách khả dĩ, tối ưu cho một cuộc chuyển biến để Đảng đi lên mạnh mẽ cùng dân tộc vào một tương lai dân chủ, nhân quyền của đất nước và, đó cũng chính là cơ sở lí thuyết và thực tiễn bước đầu cho công cuộc đổi mới mạnh mẽ HP92 nhằm làm cho nó trở thành Tuyên ngôn chính trị của chế độ chúng ta: chế độ cộng hòa-dân chủ trong một thể chế nhất đảng.
Ngày 10/3/013
NHC
Tác giả gửi QC
(Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả)








Khi vũ khí được trao cho sự lạm quyền

Đám tang của Nguyễn Văn Khương (năm 2011-Bắc Giang)
Dù mới là đề xuất nhưng nhiều người đã thất kinh nếu đề nghị này được phê chuẩn. Lý do là: “Theo số liệu thống kê của Bộ Công an, từ năm 2002 đến tháng 6/2012, cả nước đã xảy ra hơn 8.500 vụ chống người thi hành công vụ, với hơn 13.700 đối tượng vi phạm”. Và: “đặc biệt 90% số vụ chống người thi hành công vụ là chống lại lực lượng công an, chủ yếu trong lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn giao thông, trật tự công cộng, đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội, tội phạm ma túy và giải quyết các vụ việc về an ninh trật tự ở cơ sở”.
Một sự ngụy biện không thể chấp nhận khi thực tế đã chứng minh ngược lại những “nguy cơ”; “cấp thiết”, “gây thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng và sức khỏe”…của lực lượng thi hành công vụ. Bộ Công an không đưa ra được con số các chiến sỹ bị thương, chết do bị các đối tượng kháng cự? Nhưng người dân vào trụ sở công an đã không trở về thì khá nhiều. Hầu hết các vụ án này sau đó đều “chìm xuồng”, hoặc có có kết thì bị rất nhẹ. Như vụ ông Trịnh Xuân Tùng bị thượng tá Nguyễn Văn Ninh vụt chết chỉ bị kết án 4 năm tù…
Việt Nam không có luật cho cá nhân dùng vũ khí, bất kể là thô sơ. Các lực lượng chức năng đều có ưu thế hơn người dân khi xử lý vụ việc nào đó. Chính ra cần có điều luật, cơ chế giám sát sự lạm quyền của các cơ quan chức năng, thay vì đề nghị trên.
Ngay khái niệm “chống người thi hành công vụ” cũng rất mơ hồ. Thế nào là chống người thi hành công vụ? Ở mức độ nào được phép nổ súng? Thái độ của người thi hành công vụ khi tham gia xử lý các vụ việc cần tuân thủ nguyên tắc làm việc nào?…Hiện nay người dân có quá nhiều bất bình với lực lượng hành pháp này không phải là không có nguyên nhân. Những bức xúc có thể sẽ khiến nhiều người mất bình tĩnh khi va chạm với lực lượng chức năng. Nhưng rất có thể thái độ này sẽ bị thổi phồng, bị lạm dụng để cơ quan chức năng kết tội, trốn tránh trách nhiệm…Đã từng có chuyện những người đi biểu tình chống sự gây hấn của Trung Quốc cũng bị kết tội “gây mất trật tự công cộng” và “chống người thi hành công vụ” rồi. Cũng có người chỉ vì đến xem phiên tòa xét xử công khai, nhưng bị ngăn cản, và khi phản ứng lại thì bị qui kết là “gây rối trật tự công cộng” và “chống người thi hành công vụ”…Chừng nào khái niệm này còn mơ hồ, co dãn, thiếu minh bạch thì sẽ còn bị lạm dụng.
Điều luật này có thực sự vì yêu cầu của thực tế như Bộ công an đề xuất hay là cách chính quyền chuẩn bị lo đối phó với sự bất bình của người dân đang dâng cao? Và như thế thì tính mạng người dân chỉ là “chuyện nhỏ” so với sự tồn vong của chính thể hiện hành.
Dưới đây là những vụ người dân chết tại trụ sở công an được nhiều trang blog, web, FB tổng kết:
-VietnamNet hôm 11/3/2009 cũng có phóng sự điều tra về vụ anh Đặng Trung Trịnh ở xã Tiên Động, Hải Dương chết chỉ vài tiếng sau khi bị công an “trói dây thừng mang đi “vì “giẫm lên gạch” và “đốt rơm” của một người trong xã hôm 28/11/2009. Giải thích chính thức của chính quyền là: “Anh Trịnh được mời lên xã làm việc, do anh Trịnh chưa tỉnh táo nên được đề nghị vào phòng thường trực để chờ. “Vào thời điểm 17h10 phút, anh Đặng Văn Đáng công an xã vào và thấy anh Trịnh chết đã gọi điện cho trưởng công an xã là Phạm Văn Thanh và tiến hành hô hấp nhân tạo và cấp cứu. “Lý do anh Đặng Trung Trịnh chết là do: “Xuất huyết mạch mạc treo ruột, chảy máu ổ bụng do xơ gan”.
-Ngày 14.7.2009, chỉ vì đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, anh Phạm Ngọc Đến, 29 tuổi bị cảnh sát giao thông Gia Lai truy đuổi dẫn đến cái chết thảm thương. Hàng ngàn người dân Gia Lai kéo đến công an biểu lộ thái độ bất bình trước hành xử thiếu tính người của công an. Không phục thiện, vẫn hung hãn kiêu binh, công an Gia Lai đã bắt 75 người dân tống giam! Hôm sau, trong số người bị bắt, anh thanh niên trẻ khỏe Trần Minh Sỹ, 23 tuổi, chết âm thầm trong nhà giam công an Gia Lai!
-Ngày 21.11.2009, anh Nguyễn Mạnh Hùng, 33 tuổi, chết trong trại tạm giam công an quận Hà Đông, Hà Nội!
-Ngày 28.11.2009, anh Đặng Trung Trịnh, 32 tuổi, chết ở trụ sở công an xã Tiên Động, huyện Tứ Kì, Hải Dương!
-Ngày 22.12.2009, ông Nguyễn Văn Long, 41 tuổi, chiều bị công an xã Bom Bo, huyện Bù Đăng, Bình Phước bắt. Tối vợ đến thăm thấy ông Long sưng u, bầm dập khắp người và nghe ông Long rên rỉ: Bị đánh dữ! Đau lắm! Chắc không sống nổi! Quả nhiên, sáng hôm sau công an đến báo cho vợ ông Long biết: Ông Long đã chết!
-Ngày 21.1.2010, anh Nguyễn Quốc Bảo, 33 tuổi, chết tại trại tạm giam của công an quận Hai Bà Trưng, Hà Nội!
-Trang tin VnExpress hôm 15/3/2010 đăng phóng sự dài về vụ anh Nguyễn Mạnh Hùng, 33 tuổi đã chết sau khi bị công an Hà Đông giam giữ vì bị nghi trộm đồ xe ô tô. Báo này trích lời bố anh Hùng, ông Nguyễn Xuân Bình nói: “Sau 11 ngày bị công an đưa đi con tôi trở thành cái xác khô, 10 đầu ngón tay bị sưng, tím đen; hai chân thâm tím…”. Một bác sỹ được trích lời nói về tình trạng của anh Hùng khi được đưa vào viện hôm 21/11/2009: “Chức năng sống của bệnh nhân không còn, tuy nhiên các bác sỹ vẫn tiến hành cấp cứu với tinh thần còn nước còn tát, song chúng tôi đành bó tay”.
-Báo Lao Động hôm 27/3/2010 đưa tin về vụ anh Nguyễn Quốc Bảo tử vong vào rạng sáng ngày 22/1/2010 sau khi bị công an quận Hai Bà Trưng, Hà Nội “mời lên làm việc” vào chiều ngày 21/1. Báo này viết: “Theo biên bản giám định pháp y của Viện Pháp y Quân đội, nguyên nhân trực tiếp gây tử vong cho anh Bảo là chấn thương sọ não mức độ nặng do tác động của vật tày có giới hạn gây vỡ nền sọ”. Khi ông Nguyễn Quang Phục, bố của anh Bảo tới nhận xác anh thì thấy: toàn thân con ông có nhiều vết bầm tím, nhất là 2 cổ chân, 2 cổ tay tím ngắt, có những vết sây sát dài. Hai bên khoé miệng con ông có những vết bầm tím song song, mỗi bên dài khoảng 8cm.
-Ngày 24.4.2010, anh Huỳnh Tấn Nam, 21 tuổi, đi xe máy không đội mũ bảo hiểm bị một cảnh sát giao thông và một công an xã Diên Phú, huyện Diên Khánh, Khánh Hòa đánh chấn thương nặng đốt sống cổ, lún xương thái dương phải, vỡ xương bướm và xương cung gò má phải, dập tủy, đứt dây chằng dọc trước, gãy bốn răng, tính mạng nguy kịch!
-Ngày 7.5.2010, anh Võ Văn Khánh, 29 tuổi, chết khi bị giam ở công an Điện Bàn, Quảng Nam!
-Báo Người Lao Động hôm 10/5/2010 đã đưa tin về vụ anh Võ Văn Khánh, sinh năm 1981, trú tại Đại Lộc, Quảng Nam chết tại đồn công an lúc 21h30 ngày 7/5. Kết luận của công an là anh Khánh tự tử bằng dây buộc giày. Theo đơn của gia đình gửi báo này, anh Khánh tới công an huyện Điện Bàn để làm thủ tục xin lại xe máy bị tạm giữ do vi phạm giao thông lúc 14h ngày 7/5. “Đến 6 giờ 30 phút ngày 8-5, công an huyện Điện Bàn đưa xác anh Khánh về cho gia đình ở Điện An kèm theo một phong bì 10 triệu đồng. “Khi gia đình khâm liệm, phát hiện thi thể anh Khánh không bình thường. Từ phần ngực xuống hai bên sườn có dấu giày in đậm và tím bầm nhiều chỗ. Do đó, gia đình không tin Khánh tự tử và yêu cầu giám định lại.”
-Ngày 25.5.2010, dân xã Tĩnh Hải, Tĩnh Gia, Thanh Hóa tập trung ngăn cản không cho chính quyền thu hồi đất một cách cưỡng bức, áp đặt, công an liền nổ súng bắn gục hai người dân, em Lê Xuân Dũng, 12 tuổi chết tại chỗ, ông Lê Hữu Nam, 43 tuổi, bị thương nặng, năm ngày sau chết!
-Ngày 7.6.2010, ông Nguyễn Phú Trung, 41 tuổi bị hai công an xã Thủy Xuân Tiên, Chương Mỹ, Hà Nội đánh chết!
-Ngày 30.6.2010, ông Vũ Văn Hiền, 40 tuổi, chết khi bị tạm giam ở công an Đại Từ, Thái Nguyên!
-Ngày 3.7.2010, ông Nguyễn Thành Năm, 43 tuổi, bị công an và dân phòng đánh chết trong đám tang ở Cồn Dầu, Đà Nẵng!
-Ngày 23.7.2010, anh Nguyễn Văn Khương, 21 tuổi, đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, bị bắt vào công an huyện Tân Yên, Bắc Giang, chỉ mấy giờ sau, chết gục trong nhà công an!
-Báo Pháp luật Việt Nam hôm 26/7/2010 đưa tin anh Vũ Văn Hiền, 40 tuổi ở huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên đã được đưa đi cấp cứu trong tình trạng nguy kịch và đã tử vong sau hai ngày bị công an tạm giữ. Anh Hiền tử vong hôm 30/6 sau khi được công an đưa vào viện trong tình trạng như một bác sỹ nói: “lúc vào bệnh viện, bệnh nhân đang hôn mê, bầm tím nhiều ở mắt trái, chân tay trầy xước, có một vết rách lớn ở môi trên, trong tình trạng nguy kịch đến tính mạng.”
-Ngày 6.8.2010, chị Hoàng Thị Trà, 20 tuổi, sinh viên, bị cảnh sát mặc thường phục bắn, viên đạn xuyên đùi, phá vỡ xương chậu!
-Ngày 8.8.2010, anh Trần Duy Hải, 32 tuổi, chết khi bị giam ở công an Hậu Giang!
-Ngày 9.9.2010, ông Trần Ngọc Đường, 52 tuổi, chết khi bị công an tạm giữ tại trụ sở Ủy ban Nhân dân xã Thanh Bình, Trảng Bom, Đồng Nai!
-Ngày 28.2.2011, ông Trịnh Xuân Tùng đi xe máy không đội mũ bảo hiểm đến ga Giáp Bát, Hà Nội, bị công an bắt dẫn về trụ sở công an phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai. Đến tối ông Tùng bị bầm dập khắp người, tê liệt toàn thân. Bệnh viện Việt Đức phải mổ cấp cứu xác định ông Tùng bị giập hai đốt sống cổ và chấn thương khắp người! Tám ngày sau ông Tùng chết!”
-Ngày 25.4.2011, anh Nguyễn Công Nhựt được phát hiện chết trong tư thế treo cổ ở trụ sở CA huyện Bến Cát và có để lại lá thư tuyệt mệnh. Anh Nhựt là thủ kho của Cty lốp xe Kumho đóng tại KCN Mỹ Phước 3. Anh bị mời về trụ sở CA huyện Bến Cát để làm sáng tỏ vụ mất trộm hàng ngàn lốp xe ôtô xảy ra tại Cty này.
-Ngày 19.3.2012, anh Lê Quang Trọng (SN 1987, trú tại xóm Hồng Tân, xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc) được cho là đã treo cổ tự tử trong phòng tạm giữ Công an huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Khi người thân của Trọng nhận được tin báo từ cơ quan công an, thì thi thể nạn nhân đã được đưa vào nhà xác Bệnh viện Đa khoa Can Lộc.
-Ngày 10-12-2012, lực lượng Công an huyện Yên Thế bắt quả tang vụ đánh bạc dưới hình thức chọi gà tại nhà anh Nguyễn Tiến Dương (41 tuổi, trú phố Thống Nhất, thị trấn Bố Hạ, huyện Yên Thế, Bắc Giang). Lực lượng công an bắt những người tham gia đánh bạc. Trong quá trình khám xét, ông Bùi Văn Lợi (SN 1967, ở phố Gia Lâm, Bố Hạ, Yên Thế, Bắc Giang) là một trong 30 người bị bắt giữ, bất ngờ bỏ chạy ra cánh đồng ở phía sau. Ngay lập tức, lực lượng công an triển khai đội hình vây bắt. Công an Bắc Giang cho biết, trong khi truy bắt, thượng sĩ Nguyễn Duy Tùng (SN 1989) dùng súng quân dụng K54 bắn chỉ thiên. Trong lúc bắn, khẩu súng K54 của thượng sĩ Tùng cướp cò nên bắn trúng vai trái ông Lợi. Ông Lợi được đưa tới phòng khám đa khoa chất lượng cao Bố Hạ. Nhưng do vết thương quá nặng nên ông Lợi đã tử vong.
-Còn đây là cái chết đầu tiên năm 2013 trong trụ sở công an: Báo điện tử Dân Việt dựa theo lời kể của thân nhân nạn nhân, cho biết: “Ngày 2 Tháng Giêng 2013, ông Trần Văn Tân, 53 tuổi (cư dân thôn Dưỡng Thái Nam, xã Phúc Thành, huyện Kim Thành), ăn cơm trưa ở nhà xong “ra khỏi nhà nói đi vác gạo thuê và làm cỏ cho bà nội là “mẹ Việt Nam anh hùng” tại nghĩa trang xã”.
Bà Lê Thị Ránh, vợ ông Tân, kể trên tờ báo điện tử Soha: “Anh ấy đi từ trưa ngày 2 Tháng Giêng đến tối không thấy về, chú em có đi tìm thì thấy có người bảo buổi chiều tối vẫn thấy anh làm cỏ ở mộ của bà nội là ‘mẹ Việt Nam anh hùng’ nhưng sau đó thì cũng không ai biết là anh ấy đi đâu”.
Còn ông Trần Văn Toán, em ông Tân, kể: “Cả đêm hôm đó anh tôi ở đâu, làm gì thì cả gia đình không ai hay biết, mặc dù là đã đi tìm. Ðến khoảng 8 giờ sáng, khi nghe mọi người đi chợ bàn tán, cả gia đình tôi chạy lên UBND xã Kim Xuyên thì lúc đó mới hay tin anh trai tôi đã bị công an xã này tạm giữ từ đêm hôm qua vì lấy trộm của công ty xi măng Thành Công một tấm cốp pha và đến sáng sớm được phát hiện đã tử vong”.








Đảng cần tái cơ cấu để tồn tại
Năm 2013 các doanh nghiệp nhà nước được tái cơ cấu.
Theo kế hoạch các tập đoàn, tổng công ty nhà nước thực hiện cơ cấu lại danh mục đầu tư và ngành nghề kinh doanh, tập trung vào các ngành nghề kinh doanh chính, thoái vốn Nhà nước đã đầu tư vào các ngành không phải kinh doanh chính hoặc không trực tiếp liên quan đến ngành kinh doanh chính và thoái vốn nhà nước ở các công ty cổ phần mà Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối.
Cơ cấu để tồn tại
Không chỉ doanh nghiệp nhà nước, các công ty tư nhân cũng phải cơ cấu lại. Trong bối cảnh kinh tế suy thoái nhiều doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, giảm bớt lực lượng lao động, bộ máy tổ chức được tinh giảm bớt cồng kềnh, trở lên linh hoạt duy trì khả năng tồn tại qua khó khăn.
Trong lĩnh vực chứng khoán nhiều nhà đầu tư cũng cơ cấu lại danh mục đầu tư, bán bớt đi một số cổ phiếu để chỉ tập trung vào một số cổ phiếu. Nhiều công ty chứng khoán rút bớt nghiệp vụ kinh doanh, rút bớt phạm vi hoạt động.
Doanh nghiệp kinh doanh bất động sản cũng phải dứt bỏ một số dự án mặc dù đã được phê duyệt để tập trung nguồn vốn vào chỉ một số dự án trọng yếu.
Ngành ngân hàng đứng trước tình hình nợ xấu và suy thoái cũng đã cơ cấu lại, bằng cách sáp nhập một số ngân hàng, giảm bớt số lượng ngân hàng trên thị trường.
Đứng trước bối cảnh kinh tế khó khăn hầu hết các doanh nghiệp đều phải cơ cấu lại. Điều đó đã được tính toán thận trọng trên mọi phương diện và không ai cho là không đúng.
Đứng trước khó khăn doanh nghiệp hành xử giống như con thuyền vượt đại dương, cần dứt bỏ bớt để nhẹ bớt, hầu vượt qua được bão giông.
Người thuyền trưởng có tầm nhìn xa, tự mình thấy được và giúp các thủy thủ cùng thấy vùng chân trời màu tối phía trước, từ đó có kế hoạch ứng phó với bão giông, sẵn sàng bẻ lái con tàu. Thuyền trưởng khi đó phải có bản lĩnh vững vàng, tinh thần dũng cảm, gạt bỏ mọi ý kiến dao động để kiên quyết hành động.
Giống như thế, lãnh đạo doanh nghiệp cũng phải thấy được những biến đổi theo hướng xấu của môi trường kinh tế xã hội. Từ đó đề ra những biện pháp điều chỉnh để tìm hướng đi.
Nhìn về Đảng
Liệu lãnh đạo Đảng có thấy được nhu cầu cần phải tái cơ cấu?
Mỗi tổ chức đảng đều có hai vấn đề quan trọng: kết cấu nhân sự và phạm vi hoạt động. Trong quá trình phát triển cùng với sự biến thiên của thời cuộc tổ chức đảng sẽ có những điều chỉnh sao cho phù hợp.
Khi tổ chức còn nhỏ, nhân sự ít thì phạm vi hoạt động cũng hẹp. Sau khi đã nắm chính quyền, trong một thời kỳ dài Đảng Cộng sản đã chủ trương phát triển mạnh về số lượng đảm bảo có đủ nhân sự để lãnh đạo chính quyền và quản lý mọi mặt đời sống xã hội.
Hiện nay, Đảng cộng sản có khoảng 3,6 triệu đảng viên phân bổ trên mọi miền đất nước, hoạt động trong tất cả các cơ quan chính quyền và trong mọi tổ chức xã hội dân sự.
Sự hiện diện của tổ chức Đảng trong mọi mặt đời sống giúp cho các chủ trương đường lối của Đảng được thực thi chặt chẽ và giúp Đảng lãnh đạo kiểm soát xã hội.
Mặc dù vậy cũng phát sinh hạn chế là ở một số phạm vi, sự hiện diện của tổ chức đảng khiến cho đời sống xã hội dân sự bị bóp nghẹt mất đi không gian tự do dân chủ. Bộ máy tổ chức nhân sự khổng lồ là sức ì lớn làm chậm mọi chủ trương đổi mới cải cách của lãnh đạo Đảng.
Đặc biệt khi các đảng viên suy thoái về đạo đức lối sống thì dễ dàng bị nhân dân nhận ra. Tệ trạng này nghiêm trọng đến nỗi chính các cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng đã cảnh báo về sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ.
Sự suy thoái của đảng viên thực chất chính là việc lãnh đạo Đảng không kiểm soát nổi đảng viên. Điều này phải chăng có nguyên nhân từ số lượng đảng viên quá lớn và phạm vi quản lý quá rộng?
Tôi cho rằng Đảng nên được cơ cấu lại giống như cách các doanh nghiệp đã làm, tức là Đảng nên rút bớt phạm vi hoạt động.
Lâu nay Đảng nắm giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nay nên chăng Đảng chỉ nên giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước, bớt đi vai trò lãnh đạo xã hội.
Tức là Điều 4 Hiến pháp sẽ được sửa lại chỉ còn: Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước.
Hiến pháp Việt Nam năm 1946 không quy định Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội
Như thế Đảng sẽ được cơ cấu lại giống như doanh nghiệp, bộ máy Đảng sẽ trở lên nhẹ bớt và linh hoạt. Đảng sẽ củng cố lại tổ chức, siết chặt lại đội ngũ lỏng lẻo, rũ bỏ đi những đảng viên suy thoái để lấy lại uy tín. Đảng sẽ tập trung những đảng viên ưu tú vào lãnh đạo bộ máy chính quyền, trong đó có Chính phủ, quân đội, công an, ủy ban nhân dân.
Phần còn lại là không gian cho các tổ chức xã hội dân sự, Đảng thôi không giữ vai trò lãnh đạo, các đảng viên khi đó có quyền lựa chọn có tiếp tục hoạt động hay không trong các tổ chức đó, song chi bộ đảng sẽ không giữ vai trò lãnh đạo, không áp đặt.
Bằng cách đó, một mặt các chủ trương đường lối của Đảng vẫn còn có chính quyền là công cụ đảm bảo thực thi, Đảng vẫn có quyền và không lo mất vai trò lãnh đạo. Mặt khác, khi rút bớt phạm vi hoạt động, buông bỏ xã hội dân sự sẽ giúp dân chủ hóa đời sống.
Không phải lo ngại
Hiện nay có nhiều tiếng nói yêu cầu bỏ Điều 4 Hiến pháp, yêu cầu thiết lập thể chế đa đảng. Trong đó có những người là đảng viên. Quan điểm của họ cũng có cơ sở hợp lý mà Đảng không thể cứ mãi bác bỏ. Nếu thấy chưa thể đa đảng thì nên chăng hãy tìm ra đường lối giải quyết dung hòa?
Sẽ có người lo ngại nếu Đảng lùi một bước trước những đòi hỏi sẽ tạo đà khiến cho Đảng phải lùi thêm bước nữa và mất dần khả năng kiểm soát Nhà nước, xã hội.
Tôi cho rằng nếu Đảng được cơ cấu lại khi đó Đảng sẽ được thanh lọc, thành phần tinh hoa nhất sẽ lãnh đạo chính quyền và đó chính là nguồn lực tạo sức mạnh khiến Đảng mạnh lên. Khi Đảng tập trung nguồn lực cho lãnh đạo Nhà nước thì có cơ sở để tin Đảng sẽ nắm chắc hơn, làm tốt hơn.
Khi được buông bỏ, xã hội dân sự có được không khí tự do dân chủ sẽ song hành cùng với Đảng nâng tầm phát triển đời sống nhân dân, khi đó Đảng sẽ có được uy tín trong dân với tư cách là người chủ đạo việc thay đổi và đem lại kết quả tích cực. Mặt khác Đảng cũng vẫn gián tiếp lãnh đạo đời sống xã hội bằng cách thông qua luật pháp nhà nước. Xã hội dân sự phải tuân thủ luật pháp và cũng liệu mà hoạt động, nếu không muốn Đảng quay lại chi phối.
Đảng Cộng sản cũng đang trong hoàn cảnh phải ‘cải cách để sống còn’?
Đã có thời kỳ Đảng không lãnh đạo Nhà nước do chưa nắm được chính quyền, nhưng lịch sử đã chứng minh điều đó không hề ảnh hưởng tới sự lớn mạnh của Đảng. Nay Đảng đã nắm được chính quyền, tuy không lãnh đạo xã hội dân sự cũng không có lý do gì khiến Đảng không vững mạnh thêm.
Đã qua rồi thời kỳ Đảng cần có nhiều đảng viên để kiểm soát mọi mặt đời sống xã hội. Vai trò của tổ chức Đảng trong đời sống dân sự đến đâu, 6.000 đảng viên của Vinashin hẳn giúp ta thấy được phần nào của bức tranh toàn cảnh. Giai đoạn này Đảng cần cơ cấu lại, tập trung phát triển về chất lượng đảng viên và chất lượng lãnh đạo điều hành.
Chính Đảng cũng đã thấy được bộ máy cồng kềnh áp đặt lên đời sống xã hội đã không đem lại hiệu quả điều hành đất nước, không tốt cho Đảng. Vì lẽ đó nên từ năm 2008 Đảng và Nhà nước đã thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường, thực chất là bỏ bớt đi phạm vi hoạt động của Đảng trong hệ thống. Điều này xem như một bước tạo đà để mạnh dạn thực hiện thêm những đổi mới.
Cũng sẽ vấp phải những tiếng nói phản đối do quyền lợi bị ảnh hưởng. Nhưng đứng trước nguy cơ tồn vong, lãnh đạo Đảng cần mạnh mẽ quyết đoán như người thuyền trưởng, lấy sứ mệnh và quyền năng của người đứng đầu để hành động. Khi Đảng cơ cấu lại sẽ lồng vào đó rũ bỏ đi những đảng viên thoái hóa biến chất, những đảng viên trung thành sẽ vì quyền lợi của chính Đảng mà ủng hộ chủ trương này.
Nhìn sang nước phát triển như Singapore sẽ giúp Đảng củng cố niềm tin, đảng lãnh đạo bên đó cũng chỉ lãnh đạo chính quyền mà không lãnh đạo đời sống xã hội dân sự, dành phần không gian cho xã hội công dân, có thế đất nước mới phát triển yên bình.
Cuối cùng, để tồn tại và tiếp tục phát triển các doanh nghiệp đều cơ cấu lại và không ai cho điều đó là không đúng, nhưng đã có ai nhận ra là Đảng cũng cần được tái cơ cấu? Bài viết này do thiếu những dữ kiện thông tin cần thiết nên không thể triển khai sâu thêm, rất mong được tiếp tục nghiên cứu.








‘Không ai có quyền tước đi sinh mạng người khác’

Ảnh minh họa
Bộ Công an đưa ra lấy ý kiến dự thảo Nghị định quy định các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ.
Đề xuất của Bộ công an về việc nổ súng trực tiếp để vô hiệu hóa các trường hợp có dấu hiệu của tội chống người thi hành công vụ nghiêm trọng là một trong những nội dung của dự thảo Nghị định về các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ đang lấy ý kiến trước khi trình Chính phủ.
Đề xuất này ra đời trong bối cảnh dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đang được lấy ý kiến, góp ý rộng rãi từ nhân dân. Một trong những điểm mới được đánh giá rất cao của dự thảo sửa đối Hiếp pháp năm 1992 là việc ghi nhận và đưa các quyền con người vào trong Hiến pháp, trong đó có quyền sống.
Không ai có quyền tước đi sinh mạng người khác. Việc nổ súng trực tiếp vào một người có thể ngay tức khắc sẽ giết chết người đó. Trong khi, dù phạm tội dã man, dù giết chết nhiều người thì người phạm có hành vi phạm tội vẫn phải trải qua quá trình điều tra, tuy tố xét xử trước khi bị buộc tội và thi hành án. Việc cho phép cán bộ có quyền nổ súng trực tiếp vào một người khi thấy người đó có dấu hiệu hoặc có căn cứ để cho rằng hành vi chống người thi hành công vụ sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng chẳng khác nào hành vi kết án tử hình mà không qua các xét xử.
Đề xuất này của Bộ công an cũng nằm ngoài và đi ngược với các trường hợp được phép nổ súng quy định tại Điều 22, Pháp lệnh quản lý vũ khí và vật liệu nổ. Khác với pháp lệnh cho phép chỉ được nổ súng khi “những người này sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc chống trả, đe dọa tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác”, đề xuất của Bộ công an cho phép cán bộ được nổ sung ngay khả khi thấy có “dấu hiệu”… Điều này có thể dẫn đến việc nổ súng cảm tính, không chính xác.
Việc nổ súng tước đoạt tính mạng của người khác theo đề xuất của Bộ công an vô hình chung đã “thả lỏng” cho những hành động đáp trả có thể vượt quá giới hạn cho phép và ‘không tương xứng’. Tính mạng của một con người chắc chắn không thể xem nhẹ, không thể chỉ vì một hành vi có dấu hiệu chống người thi hành công vụ gây ra hậu quả nghiêm trọng mà có thể tước đoạt ngay tức khắc bằng việc nổ súng.
Dù là vì bất cứ lý do gì, dù là lấy lý do tình trạng chống người thi hành công vụ thời gian qua diễn biến phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, trật tự, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người thi hành công vụ. Thì cũng không thể trao thêm cho cán bộ quyền nổ súng như đề xuất mới của Bộ công an. Có như vậy việc ghi nhận quyền sống của con người trong dự thảo sửa đổi Hiếp pháp năm 1992 mới có giá trị, có ý nghĩa thiết thực.
Box:
Quyền sống là quyền cơ bản của con người được quy định tại Điều 3 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người; Điều 6 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và trong nhiều điều ước quốc tế khác về quyền con người. Theo các văn kiện này: Mọi người đều có quyền sống. Quyền này được pháp luật bảo vệ. Không ai có thể bị tước đoạt mạng sống một cách vô cớ.








March 10, 2013
Đừng bỏ lỡ cơ hội xây dựng Hiến pháp mới
Hiến pháp 1992 được sửa đổi năm 2001 (xin gọi tắt là HP cũ) có 147 điều. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (xin gọi tắt là Dự thảo) do Quốc hội đưa ra cho cả nước thảo luận đã sửa đổi và bổ sung, viết lại thành 124 điều. Có tới khoảng 140/147 điều của HP cũ đã được Dự thảo sửa đổi. Tổng cộng Dự thảo đã đưa ra khoảng 150 chỗ sửa đổi, bổ sung hay viết lại. Riêng việc phân loại để đếm cho thật chính xác số lượng các chỗ sửa đổi, bổ sung hay viết lại này đã rất khó khăn. Bởi vì có những điều của HP được sửa lại 2 hay 3 chỗ ngay trong một điều; mặt khác có một số điều của HP được gộp lại làm một thì không biết nên tính là một hay nhiều chỗ được sửa đổi? Vân vân…
Tuy nhiên, Dự thảo vẫn là HP gần như cũ cả về tinh thần và nội dung. Bởi vì những sửa đổi, bổ sung hay viết lại của Dự thảo về cơ bản vẫn giữ nguyên hệ thống chính trị nói chung và hệ thống nhà nước nói riêng như hiện nay, với đặc điểm nổi bật là được “đảng hóa” toàn diện. Từ nội dung đến cấu trúc các điều của Dự thảo đều toát lên tinh thần này, rõ nhất là:
- trên thực tế vai trò Đảng vẫn được xác lập là đứng trên Hiến pháp;
- nhân danh quyền lực là thống nhất bác bỏ việc phân quyền và kiểm soát lẫn nhau giữa các quyền; đặc biệt là phân quyền giữa lập pháp và hành pháp còn nhiều chỗ không rõ – trong đó có vấn đề coi Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội (điều 99) là không hợp lý – , quyền tư pháp hoàn toàn mờ nhạt và hầu như không có khả năng bảo vệ và kiểm soát việc thực thi Hiến pháp;
- tiếp tục thâu tóm mọi quyền của dân và mọi hoạt động của đời sống đất nước vào hệ thống chính trị và hệ thống nhà nước được “đảng hóa” trong một khụng khổ chung “đảng + chính quyền + mặt trận”, do Đảng chi phối toàn bộ về nhân sự và các quyết định quan trọng ở mọi cấp;
- chủ quyền tối cao đối với toàn bộ đời sống đất nước thuộc về nhân dân chỉ được xác nhận một cách hình thức ở câu văn, nhưng trên thực tế là vẫn tiếp tục bị giới hạn hoặc loại bỏ do duy trì 3 đặc điểm nêu bên trên;
- có một số bổ sung mới có ý nghĩa tích cực về quyền công dân và quyền con người, nhưng lại được khóa bằng “nghĩa vụ” và bằng mệnh đề các quyền này phải “thực hiện theo quy định của pháp luật”, thậm chí tính pháp quyền bị xóa bỏ bằng việc đưa vào Dự thảo “nguyên tắc tập trung dân chủ” của riêng ĐCSVN;
- điểm sửa đổi quan trọng nhất là điều 4 (về ĐCSVN) được viết lại và bổ sung thêm khoản “2.” và “khoản 3”; nhưng cả 2 khoản này hoặc là không khả thi, hoặc là không có nội dung nếu như giữ nguyên hệ thống chính trị (bao gồm cả hệ thống nhà nước, mặt trận) được “đảng hóa” như đã phân tích trên;
- Dự thảo vẫn giữ nguyên “đất đai thuộc sử hữu toàn dân”;
- Lời nói đầu và nội dung một số điều trong Dự thảo – nhất là điểu 4 được viết lại – trên thực tế vẫn là áp đặt ý thức hệ, quan điểm và sự lãnh đạo của Đảng lên trên chủ quyền của nhân dân, không thích hợp với tinh thần nhà nước của dân, do dân, vì dân;
- vân vân…
Riêng về mặt kỹ thuật, HP cũ được sửa đổi, bổ sung hay viết lại khoảng 150 chỗ, dấn đến hệ quả:
- Dự thảo là một văn kiện hiến pháp chắp vá, nhiều chỗ quá chi tiết, nhưng lại sót nhiều vấn đề quan trọng (vì không xuất phát từ quan điểm chủ quyền của nhân dân là tối thượng, vì nhân danh quyền lực nhà nước là thống nhất nên không chấp nhận phân quyền và kiểm soát quyền, quyền tư pháp rất mơ hồ, vân vân…)
- có nhiều chỗ là văn nghị quyết – ngay từ lời nói đầu; có nhiều điều mang cách hành văn không thống nhất là dạng văn kiện hiến pháp;
- có nhiều chỗ quá chi tiết nên không còn mang tính chất hiến pháp với tính cách là đạo luật gốc – mà lấn sang lĩnh vực của các luật cụ thể dưới hiến pháp, hoặc thuộc lĩnh vực các chủ trương chính sách;
- ngay cả quy định chỉ được góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được Quốc hội khóa 13 thông qua và do Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 công bố rõ ràng là đã giới hạn phạm vi góp ý kiến của nhân dân; cách làm như vậy trực tiếp vi phạm nguyên tắc chủ quyền của nhân dân là tối thượng đối với mọi vấn đề của đất nước.
- vân vân…
Thiết nghĩ, với tính cách là đạo luật gốc, Hiến pháp cần thể hiện được: (a)ý chí của nhân dân, của quốc gia (lời nói đầu); (b)hình thành một thể chế cho sự vận hành đất nước; (c)dễ thực thi cho người dân với nghĩa là rõ ràng và dễ hiểu trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình; dễ thực thi đối với hệ thống nhà nước với nghĩa là có sự ràng buộc trách nhiệm rành mạch và tạo được nền tảng cho việc điều hành đất nước cũng như việc ban bố các luật và chính sách… Vì thế Hiến pháp mới nên viết gọn lại và giảm bớt những điều thuộc phạm vi luật hay chính sách.
II
Có những vấn đề hệ trọng sẽ phải đưa vào Hiến pháp, lãnh đạo Đảng và Nhà nước nên trực tiếp tổ chức các diễn đàn thảo luận khoa học và công khai trên mọi phương tiện thông tin đại chúng, để nâng cao hiểu biết và tạo được đồng thuận lớn nhất trong nhân dân. Mặt khác, nên lấy danh nghĩa Quốc hội giao cho một nhóm trí thức có uy tín và được chọn lọc xây dựng một dự thảo Hiến pháp tối ưu cho đất nước để trình nhân dân phúc quyết. Việc làm này là cần thiết ngay cả đối với những người giữ trọng trách trong toàn bộ hệ thống chính trị của đất nước từ cấp cao nhất trở xuống. Hoạt động của những diễn đàn này cũng là cách để nâng cao hiểu biết của toàn thể nhân dân, nhất là ngay trong hàng ngũ gần 4 triệu đảng viên.
Đừng xây dựng hiến pháp theo kiểu lấy ý kiến đại trà như một phong trào. Lừa mỵ, áp đặt hay trấn áp… không phải là các biện pháp thích hợp. Lấy ý kiến xây dựng góp vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp như đang làm là khoét sâu thêm chia rẽ dân tộc, phơi bẩy rõ hơn nữa bản chất của bộ máy chính trị, và hệ quả là đẩy nhân dân ra xa nữa về phía đối nghịch đối với ĐCSVN.
Quyền phúc quyết của nhân dân cần được thực hiện nghiêm túc trên cơ sở học hỏi, trao đổi, thuyết phục, đồng thuận nhờ vào kết quả nâng cao dân trí của những diễn đàn khoa học và công khai trong cả nước như kiến nghị bên trên. Xây dựng Hiến pháp cần phải là một quá trình tăng cường đoàn kết dân tộc trên cơ sở mở rộng dân chủ và nâng cao dân trí. Sau này bản thân Hiến pháp phải trở thành nền tảng vững chắc cho đoàn kết dân tộc.
Trong tình hình hiện tại của hệ thống chính trị nước ta, tối ưu nhất là nên lựa chọn phương châm đầu xuôi đuôi lọt để tìm đường xây dựng Hiến pháp mới và thay đổi đất nước. Cách tốt nhất là nhân dịp sửa đổi Hiến pháp lần này, Bộ Chính trị chủ xướng và phát động tinh thần Diên Hồng. Bộ Chính trị nên mời các trí thức có uy tín hình thành một số diễn đàn khoa học và công khai nêu trên cho những vấn đề hệ trọng của đất nước để tạo sự đồng thuận tốt nhất có thể trong Hiến pháp mới. Đồng thời phát huy dân chủ để nhân dân tự triển khai những diễn đàn như thế ở mọi nơi. Tất cả những diễn đàn này hoạt động với với tinh thần xây dựng và hiến kế: Chắt lọc mọi điều tốt nhất cho sự lựa chọn tối ưu của nhân dân đối với những vấn đề sinh tử của quốc gia và việc xây dựng Hiến pháp.
Những diễn đàn này cần nhìn thẳng vào sự thật, dựa trên sự thật và những quan điểm khoa học tiên tiến nhất, nhưng tuyệt đối không được phép là chỗ chỉ trích, bới móc hay đả kích lẫn nhau.
Nếu Bộ Chính trị vì nước và vì Đảng thì nhất thiết cần làm như vậy. Không làm như vậy, đồng nghĩa là không vì nước và cũng không vì Đảng!
Về vấn đề bô-xít Tây Nguyên, Bộ Chính trị đã phải có một quyết định riêng trong cuộc họp ngày 16-04-2009 và cuối cùng đã ra một thông báo công khai cho cả nước mang số 245 – TB/TƯ ngày 24-04-2009 về chủ trương khai thác thí điểm bô-xít Tây Nguyên. (Tiếc rằng quyết định này của Bộ Chính trị vẫn là cho khai thác thí điểm, chứ không phải là đình chỉ hẳn để xem xét tiếp). Vấn đề khai thác bô-xít Tây Nguyên dù hệ trọng đến sinh tồn của quốc gia như thế nào đi nữa, cũng không thể so sánh với việc sửa đổi/xây dựng Hiến pháp mới. Chẳng lẽ không đáng để Bộ Chính trị có một quyết định chính thức và công khai như thế cho toàn Đảng và cả nước về việc hình thành cuộc thảo luận xây dựng và hiến kế cho đất nước trong việc sửa đổi/xây dựng hiến pháp mới?
Mọi cách làm trong việc sửa đổi Hiến pháp lần này nếu chỉ nhằm quy kết hoặc khép tội những “ý kiến khác” như đang diễn ra trên mọi phương tiện thông tin đại chúng và qua mọi hoạt động trong xã hội do bộ máy chính trị của đất nước đang tiến hành, cho thấy: Bộ Chính trị trong thâm tâm vẫn kiên quyết giữ nguyên hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước như hiện tại. Làm như thế, hiển nhiên sẽ chỉ tiếp tục xô đẩy đất nước đi sâu thêm vào con đường của thảm họa.
Nhưng nếu Bộ Chính trị quyết tâm thay đổi đất nước, thì cơ hội và mọi điều kiện cho mục đích thay đổi này đều trong tầm tay, bắt đầu từ xây dựng Hiến pháp mới. Tình hình hoàn toàn cho phép Bộ Chính trị chủ động tiến hành cải cách chính trị thành công, với sự hậu thuẫn không gì lay chuyển nổi của toàn dân tộc.
Thực tế vừa trình bầy trên cho thấy: Hệ lụy hay kết quả đối với đất nước của việc sửa đổi/xây dựng Hiến pháp mới lần này hoàn toàn chỉ phụ thuộc vào cái tâm của Bộ Chính trị. Vì vậy, Bộ Chính trị sẽ là người chịu trách nhiệm đầu tiên và duy nhất trước nhân dân và trước Đảng về những gì sẽ đến.
Những thông tin được loan tải trên phương tiện thông tin đại chúng “lề phải” cho thấy những vấn đề đang bị trấn áp bằng những lý lẽ đao to búa lớn[1] đúng là những vấn đề hệ trọng bậc nhất phải tìm ra sự lựa chọn tối ưu cho đất nước. Thảo luận một cách chụp mũ trên những diễn đàn “đơn phương” như đang diễn ra – nghĩa là không có người đối thoại với đúng nghĩa – rõ ràng chỉ là sự đả kích theo kiểu cả vú lấp miệng em.
Đối thoại theo kiều đơn phương và quy chụp như thế làm sao có thể phát huy trí tuệ và tâm huyết cả nước cho việc tạo ra đồng thuận lớn nhất của nhân dân về những vấn đề trọng đại của đất nước cũng như về Hiến pháp?
Những vấn đề về “điều 4”, về chế độ chính trị và về phân quyền trong hệ thống nhà nước, về quân đội trung thành với ai, về các quyền tự do dân chủ của nhân dân, về quyền con người, vấn đề đất đai… là những vấn đề nổi bật nhất trên các diễn đàn đơn phương này. Xin dành việc thảo luận những vấn đề trọng đại này cho các diễn đàn thảo luận khoa học và công khai, với tinh thần xây dựng và hiến kế, mà tôi rất thiết tha mong Bộ Chính trị chủ xướng. Trong phạm vi bài viết này chỉ xin nêu lên một nhận xét chung là: Các lập luận của “lề phải” trên các diễn đàn đơn phương về những vấn đề trọng đại này ngoài sự bám víu vào quá khứ lịch sử để biện hộ, có quá nhiều chỗ ngụy biện, không có lý lẽ thuyết phục, lạc lõng với cuộc sống hiện tại, làm ngơ trước tình trạng tha hóa trầm trọng hiện nay của Đảng và của toàn bộ hệ thống chính trị, không thấy những thách thức mới nguy hiểm của đất nước, thiếu trí tuệ và kiến thức mới.
Hệ thống chính trị đa đảng là một tất yếu trong hệ thống nhà nước pháp quyền dân chủ. Dự thảo đã dứt khoát phủ nhận. Nhưng Kiến nghị 72 đã thẳng thắn đối mặt với đòi hỏi khách quan này bằng đề nghị cụ thể. Thiết nghĩ, Việt Nam là nước đi sau, có thể và cần vận dụng những kinh nghiệm của các nước đi trước. Cần đem hết trí tuệ ra cân nhắc nên tiếp thu những kiến thức gì của văn minh nhân loại để tránh được thứ hệ thống chính trị đa đảng theo kiểu “dân chủ bầy đàn” luôn luôn chứa đựng những nguy cơ hỗn loạn. Cần xắp xếp tiến trình các bước đi chuyển sang thể chế pháp quyền dân chủ như thế nào để có được một nền dân chủ của học hỏi? Vân… vân… Những vấn đề này không dễ. Tìm ra những câu trả lời và quyết định thích hợp cho nước ta phải là sản phẩm của trí tuệ và là một trong những công việc hệ trọng của các diễn đàn khoa học và xây dựng như đã kiến nghị bên trên.
III
Trước sau tôi vẫn kiên định một suy nghĩ: Sửa đổi/xây dựng Hiến pháp mới lần này không gắn với cải cách thể chế chính trị sẽ là một việc làm chẳng những vô nghĩa mà còn nguy hại cho đất nước.
Về phần mình, làm nghĩa vụ công dân của mình, tôi vẫn xin nhắc lại quan điểm đã nêu trong thư ngỏ ngày 19-02-2013: Tối ưu đối với đất nước là nên coi việc sửa đổi/xây dựng Hiến pháp mới lần này là một cơ hội tự nhiên để thay đổi hệ thống chính trị và thay đồi việc xây dựng Đảng cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước. Thật lòng tôi muốn nói tới mức đây là một cơ hội gần như là trời cho, vì thế trong thư này tôi đã mạnh dạn kiến nghị một số ý tưởng phác thảo như một kế sách nắm lấy cơ hội này.
Thực ra trong bức thư ngày 09-08-1995 của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt gởi Bộ Chính trị đã nêu ra đòi hỏi bức thiết phải có sự thay đổi này[2]. Nhiều ý kiến quan trọng rất xây dựng của “lề trái” (tôi xin lỗi sử dụng khái niệm này chỉ vì sự thuận tiện) đóng góp cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp hôm nay đồng nhất một cách kỳ lạ với những ý kiến của giáo sư Phan Đình Diệu trước đây đã nêu lên tại cuộc họp của UBTƯ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày 12-03-1992 bàn về xây dựng Hiến pháp năm 1992!..
Tôi cứ tự hỏi mình, nếu các ý kiến của giáo sư Phan Đình Diệu ngày 12-03-1992, và nếu bức thư ngày 09-08-1995 của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt được chấp nhận, hôm nay, đất nước ta chắc sẽ không như thế này? Tôi lại nhớ đến hàng nghìn ý kiến tâm huyết của nhân dân và đảng viên góp ý cho Đại hội X, Đại hội XI… Bây giờ trong tôi cũng đang nóng rát câu hỏi: Nếu các ý kiến phản biện về bô-xít Tây Nguyên được lắng nghe, kinh tế đất nước hôm nay sẽ bớt đi được gánh nặng gì?.. Tại sao lãnh đạo Đảng và Nhà nước để cho đất nước ta thập kỷ này qua thập kỷ khác phải gian truân sống với biết bao nhiêu chữ “nếu” như vậy?
Trong một cuộc hội thảo tuần trước của các tổ chức trong xã hội dân sự góp ý cho xây dựng Hiến pháp, tôi được nghe một thanh niên phát biểu: “…Tôi ước gì nước ta có một Hiến pháp đọc lên tôi thấy được chính mình! Đọc lên, tôi thấy được ước mơ của nước mình! Dự thảo Hiến pháp sửa đổi không đem lại cho tôi mong muốn này!...”
Ngồi nghe thanh niên này nói, trong tôi rộn lên ký ức những tiếng hô vang khi Cách mạng Tháng Tám: “Nước Việt Nam là của người Việt Nam!”, “Việt Nam muôn năm!”… Tôi lại nhớ đến Tuyên ngôn Độc lập. “…“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…” Trong tôi khát khao xây dựng một nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc…
Cải cách chính trị là trách nhiệm trực tiếp không thể thoái thác của Bộ Chính trị, người nắm mọi quyền lực đối với đất nước. Nhân dân không có trách nhiệm này, vì họ không có quyền lực trong tay; hơn nữa họ chỉ là nạn nhân của mọi lạm dụng quyền lực. Nhưng nhân dân có quyền đòi hỏi. Tránh né cải cách chính trị sẽ đẩy tiếp đất nước đến chỗ cùng cực, chắc chắn sẽ có ngày nhân dân đứng dậy lật thuyền. Không khó hình dung kịch bản quyết liệt này và cái giá đất nước sẽ phải trả. Chính vì thế, xin đừng bỏ lỡ cơ hội xây dựng Hiến pháp mới để cải cách chính trị thay đổi đất nước, thay đổi ĐCSVN thành đảng của dân tộc. Kiến nghị 72 thực sự là một kiến nghị khai phá lối ra./.
N.T.
[1] Quy kết là: “âm mưu của đảo chính mềm”, “ý đồ lật đổ chế độ”, “dã tâm loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng”, “suy thoái đạo đức, chính trị, tư tưởng”, “lấy chữ ký cho kiến nghị chỉ là những việc ngụy tạo”… v… v…
[2] Trong thư này cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đặt vấn đề (a)phải nhìn nhận lại thế giới, (b)phải thay đổi đường lối xây dựng và bảo vệ đất nước, (c)phải xây dựng nhà nước pháp quyền, (d)phải đôi mới xây dựng và tổ chức Đảng.








Tài năng và lãnh đạo
Ông Nguyễn Tài, con trai nhà văn Nguyễn Công Hoan, người phụ trách an ninh T4 thuộc Trung ương Cục miền Nam, bị Sài Gòn bắt vào tháng 12 năm 1970 trong khi đang từ Bến Tre đi Hồng Ngự để dự cuộc họp Thường vụ cấp ủy do ông Năm Xuân (Mai Chí Thọ) triệu tập khẩn cấp. Lúc đầu, với bình phong là một Đại úy tình báo, được miền Bắc đánh vào, chuẩn bị điều kiện đầy đủ để sang Pháp hoạt động lâu dài, ông đã qua mặt được bộ máy tình báo VNCH và CIA.
Song, ông đã bị một sơ hở về nghiệp vụ. Đó là khi ông được yêu cầu viết một bài “tiểu luận” về “Việt Nam hóa chiến tranh”, ông nghĩ đề tài này không sợ bị lợi dụng, lại có thể “chửi địch” nên viết khá dễ dàng và ông còn sẵn sàng trả lời nhiều câu hỏi khác. Nhưng, bài “tiểu luận” của ông không qua khỏi những cặp mắt tình báo nhà nghề của đối phương. Sau khi phân tích bài “tiểu luận”, họ đi đến nhận định cực kỳ quan trọng: một Đại úy tình báo không thể có hành văn và sự phân tích xuất sắc như thế này được! Có nghĩa là, ông ta không thể là Đại úy tình báo mà phải là cấp cao hơn (Đại tá?). Quả là một nhận định sáng suốt!
Thế nhưng, nếu như CIA áp dụng kiểu suy luận này đối với cán bộ, lãnh đạo VN ngày nay thì kết quả sẽ rất “nguy hiểm”. Hãy xem, một ông “vua” đi “Nửa vòng trái đất, rẽ tầng mây. Anh đến Cuba một sáng ngày” để thuyết giảng về “chủ nghĩa xã hội”, bị đất nước của ông “vua thật Pêlê” ngay lập tức hủy bỏ chuyến thăm chính thức. Và nếu ai góp ý để xây dựng đất nước mà trái ý mình thì ông cho là “suy thoái”. Ai suy thoái? “Bầy quan liêu đang tan phe ngắc ngoải. Những cấp trên suy thoái đến bùn nhơ” (Mưa – Việt Phương).
Đến đây, tôi chợt nhớ đến tầm nhìn xa rộng, sự mềm dẻo và linh hoạt của Lê Duẩn sau năm 1975. Bấy giờ, “Cuba nhiều lần thiết tha mời anh Ba Lê Duẩn sang thăm. Fidel cứ giục mãi, nhiều đồng chí nhắc, anh Ba mắng: “Các chú muốn dân đói à?”. Rồi, anh Ba nói với Bộ Ngoại giao: “Đúng là Fidel sang ta mấy lần, nhưng ta mới thắng Mỹ, sang Cuba không tuyên bố chống Mỹ thì Cuba không chịu, tuyên bố chống Mỹ thì, các chú thấy, sang cạnh nhà nó chửi nó, nó cấm vận mình suốt đời thì mình chết. Vì lợi ích quốc gia, tôi chưa thể đi được’. Rồi anh Ba cử Lê Đức Thọ đi, anh dặn: “Nên nói với đồng chí Fidel, tôi rất muốn sang, nhưng sức khoẻ có vấn đề, bác sĩ không cho đi máy bay xa, đồng chí Fidel thông cảm” (Giải Phóng, Bên Thắng Cuộc – Huy Đức).
Rồi một “tể tướng” chưa sạch lỗi chính tả, không phân biệt được dấu hỏi, dấu ngã, chữ viết hoa hay viết thường, nói chi đến việc viết một cái luận văn về chính trị như ông Nguyễn Tài. Chưa hết, một ông nghị, nhưng “văn vẻ” không khác gì một kẻ tâm thần thực sự. Còn rất nhiều thí dụ tương tự về tài năng và lãnh đạo VN có thể thách thức CIA!
Mặc dù Tự Đức là một ông vua khá nhu nhược nhưng không phải là ông không có những hành động có khí phách. Để chứng minh tài năng của mình, vua rất tự tin khi cùng một số vị quan đại thần làm một bài luận rồi gửi sang nhờ vua Thanh lập ban giám khảo chấm giúp. Dù bài luận của Tự Đức xếp cuối nhưng câu chuyện vẫn cho ta thấy được tài năng và khí phách của ông. Xét cho cùng, hành động này của nhà vua cũng đáng để cho chúng ta nể phục.
“Năm trăm năm sau cách mạng tháng Tám, dân ta sẽ còn nhớ chỉ tên của một mình cụ Hồ, mình ông Giáp” – lời Giáo sư Trần Văn Giàu. Điều lý thú là việc Hồ Chí Minh chọn Võ Nguyên Giáp phụ trách quân sự cũng là một sự lựa chọn thiên tài. Theo bà Đặng Bích Hà, phu nhân Đại tướng, nếu không phụ trách quân sự, có lẽ anh Văn cũng chỉ làm đến Bộ trưởng Giáo dục là cùng. Có Hồ Chí Minh bên cạnh, ông Giáp rất yên tâm. Làm bất cứ việc gì, ông đều thấy Hồ Chí Minh đã suy nghĩ kỹ vấn đề đó từ rất lâu rồi. Hồ Chí Minh đi chiến dịch Biên giới cùng Võ Nguyên Giáp, nhưng không bao giờ can thiệp vào công tác chỉ huy của Tổng tư lệnh, kể cả khi trận Đông Khê mở đầu chiến dịch có trục trặc. Hồ Chí Minh bình thản để Tổng tư lệnh xử lý và không ai biết trong đầu ông lúc ấy đang nảy ra những tứ thơ.
Bây giờ, ta đến với một nhà lãnh đạo “cỡ bự”, một ông tổ cộng sản khác – Xtalin.
Thời kỳ đầu chiến tranh Xô – Đức, do tính tự tin và sự độc đoán, Xtalin ít khi nghe lời người khác. Nhưng, tiếc thay, nhiều sai lầm dẫn đến thất bại nặng nề, quân đội LX phải rút lui từ thành phố này đến thành phố khác. Dù ông ta không sợ sự thiệt hại lớn, song một nhà lãnh đạo sắt đá nhất cũng nhận thấy, không thể chiến thắng nước Đức nếu không duy trì được sỹ khí cần thiết. Ta hãy lắng nghe các tướng lĩnh quân sự, nhất là Giucốp, Vaxilépxki, Saphosnhicốp – Xtalin nghĩ.
Tài năng chỉ huy quân sự của Xtalin bấy giờ ra sao? Vào mùa hè năm 1942, Giucốp báo cáo cho Xtalin về chiến dịch ở Phương diện quân Tây, ông dự định rằng sẽ mở hai mũi đột kích: mũi bên phải là mũi chủ yếu, mũi bên trái – bổ trợ. Trên bản đồ, mũi tên bên phải to hơn màu đỏ sẫm, bên trái – nhỏ hơn. Chú ý nhìn vào mũi tên thứ hai, Xtalin hỏi:
- Đây là cái gì?
Giucốp nói, mũi tên nhỏ ký hiệu mũi đột kích bổ trợ.
- Sao lại có mũi đột kích bổ trợ ở đây? Chúng ta phân tán lực lượng để làm cái gì? Cần tập trung lực lượng vào một chỗ mà không được phân tán.
Giucốp:
- Chúng ta mở mũi đột kích ở hai nơi sẽ gieo cho địch mối hoài nghi, không biết mũi đột kích chính ở đâu, nên chúng phải giữ lại một bộ phận lực lượng làm nhiệm vụ dự bị trên hướng đột kích bổ trợ của ta. Sang ngày thứ hai chiến dịch, khi chúng ta thực sự giáng đòn đột kích chủ yếu thì chúng không kịp cơ động những lực lượng dự bị ấy nữa.
Lập luận của Giucốp rất có lý lẽ, song Xtalin vẫn không hiểu. Điều đó chứng tỏ bấy giờ ông không am hiểu những điều sơ đẳng của tình huống và như thế, làm sao Tổng tư lệnh tối cao có thể chỉ huy quân đội?
Nhưng thời gian sau đó, tài năng và trí thông minh đã giúp Xtalin nắm vững nghệ thuật chỉ huy, nhất là các vấn đề về chiến lược, chiến dịch là những vấn đề gần với lĩnh vực chính trị mà ông thông thạo.
Tuy Xtalin rất độc tài, phạm nhiều tội ác mà lịch sử đã làm sáng tỏ, nhưng trong chiến tranh, có những ứng xử tinh tế của ông ta đối với cấp dưới. Chẳng hạn, khi chuẩn bị chiến dịch Vôrônegiơ, Bộ Tổng tham mưu đã xác định tầm quan trọng hàng đầu của tuyến đường sắt Vôrônegiơ-Milerôvơ, trong khi tướng Moxcalencô, Tư lệnh tập đoàn quân 40 cũng có ý tưởng tương tự. Sau khi suy nghĩ kỹ, Moxcalencô quyết định gọi cho Xtalin báo cáo về ý kiến của mình. Xtalin chăm chú nghe và nói: “Tôi hiểu đề nghị của đồng chí. Đồng chí hãy đợi, sau hai tiếng sẽ có trả lời”. Và đúng hai tiếng sau, điện thoại của Xtalin từ Mátxcơva gọi cho tướng Moxcalencô, đồng ý và ủng hộ đề nghị của ông.
Ở đây, ta thấy Xtalin rất tôn trọng ý tưởng sáng tạo của cấp dưới, mặc dù lúc đó kế hoạch phản công của chiến dịch Vôrônegiơ đã được Đại bản doanh thông qua. Nhưng thay vì làm “cụt hứng” Moxcalencô, Xtalin đã lắng nghe và kích thích tư duy sáng tạo chủ động của tướng lĩnh. Hai tiếng đồng hồ mà Xtalin yêu cầu Moxcalencô chờ đợi chính là để khẳng định thêm một số chi tiết, đồng thời cũng đủ để cho Moxcalencô tin tưởng vào đề nghị của mình đã được Tổng tư lệnh nghiên cứu. Trong trường hợp này, nhà độc tài Xtalin quả thật là một nhà tâm lý trong việc ứng xử với cấp dưới.
Lãnh đạo mà độc tài – tất nhiên không hay ho gì, dù độc tài “thông minh” có thể tốt hơn độc tài “dốt nát”? Nguy hiểm nhất vẫn là độc tài mà dốt nát. Không có cơ chế kiểm soát hữu hiệu, nó sẽ đưa dân tộc đến chỗ diệt vong. Cho nên, nói đến lãnh đạo, trước hết là phải nói đến tài năng của họ – tài năng tương xứng với chức vụ mà họ đảm nhiệm. Dĩ nhiên, lãnh đạo cần có nhiều phẩm chất, nhưng bi kịch lớn nhất của một nhà lãnh đạo chính là không có tài năng – “bất tài”. Đã bất tài thì lộ ra ngay, bởi “trăm con mắt đều nhìn vào, trăm ngón tay đều chỉ vào”. Chỉ có kết quả là đáng kể, mới chứng minh được tài năng của nhà lãnh đạo, cũng như thực tiễn luôn luôn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý vậy.








Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
