Nguyễn Quang Lập's Blog, page 37

April 15, 2013

Quê Choa thông báo

521458_312122738874449_2024146403_nDo tính chất công việc mới, bọ Lập phải di chuyển nhiều nên không có thời gian và điều kiện cập nhật bài vở từ các trang mạng khác, kể từ đây Quê Choa tạm thời đình chỉ chuyên mục Quê Choa hằng ngày. Quê Choa cũng tạm thời đình chỉ luôn việc đăng bài của bạn bè từ các trang mạng khác cho đến khi nào bọ Lập có thời gian ổn định tại gia.


Riêng bài vở của bọ Lập vẫn đăng tải bình thường, không có gì thay đổi. Kể từ đây bọ Lập sẽ làm việc nhiều hơn ở FB.


Chào thân ái và quyết thắng!



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 15, 2013 16:43

Đừng tưởng!

30208985_anhdep612075 Đừng tưởng cứ núi là cao


Cứ sông là chảy, cứ ao là tù


Đừng tưởng cứ dưới là ngu


Cứ trên là sáng cứ tu là hiền


Đừng tưởng cứ đẹp là tiên


Cứ nhiều là được cứ tiền là xong


Đừng tưởng không nói là câm


Không nghe là điếc không trông là mù


 


Đừng tưởng cứ trọc là sư


Cứ vâng là chịu cứ ừ là ngoan


Đừng tưởng có của đã sang


Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây


Đừng tưởng cứ uống là say


Cứ chân là bước cứ tay là sờ


Đừng tưởng cứ đợi là chờ


Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần


Đừng tưởng cứ mới là tân


Cứ hứa là chắc cứ ân là tình


 


Đừng tưởng cứ thấp là khinh


Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to


Cứ già là hết hồ đồ


Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền


Đừng tưởng cứ quyết là nên


Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua


Dưa vàng đừng tưởng đã chua


Sấm rền đừng tưởng sắp mưa ngập trời


Khi vui đừng tưởng chỉ cười


Lúc buồn đừng tưởng chỉ ngồi khóc than


 


*** *** *** *** ***


 


 


Đừng tưởng cứ nốc là say


Cứ hứa là thật, cứ tay là cầm


Đừng tưởng cứ giặc – ngoại xâm


Cứ bè là bạn, cứ dân là lành


Đừng tưởng cứ trời là xanh


Cứ đất và nước là thành quê hương


*** *** *** *** ***


 


Đừng tưởng cứ lớn là khôn


Cứ bé là dại, cứ hôn… là chồng


Đừng tưởng chẳng có thì không


Chẳng trai thì gái, chẳng ông thì bà


Đừng tưởng chẳng gần thì xa


Chẳng ta thì địch, chẳng ma thì người


Đừng tưởng chẳng khóc thì cười


Chẳng lên thì xuống, chẳng ngồi thì đi


Đừng tưởng sau nhất là nhì


Gần quan là tướng, gần suy là hèn


Đừng tưởng cứ sáng là đèn


Cứ đỏ là chín, cứ đen là thường


 


Đừng tưởng cứ đẹp là thương


Cứ xấu là ghét, cứ vương là tình


Đừng tưởng cứ ghế là vinh


Cứ tiền là mạnh, cứ dinh là bền


Đừng tưởng cứ cố là lên


Cứ lỳ là chắc, cứ bên là gần


Đừng tưởng cứ đều là cân


Cứ đông là đủ, cứ ân là nhờ


Đừng tưởng cứ vần là thơ


Cứ âm là nhạc, cứ tờ là tranh


Đừng tưởng cứ vội thì nhanh


Cứ tranh là được, cứ giành thì hơn


Đừng tưởng giàu hết cô đơn


Cao sang hết ốm, tham gian hết nghèo


 


*** *** *** *** ***


 


 


Đừng tưởng cứ bến là neo


Cứ suối là lội, cứ đèo là qua


Đừng tưởng chồng mẹ là cha


Cứ khóc là khổ cứ la là phiền


Đừng tưởng cứ hét là điên


Cứ làm là sẽ có tiền đến ngay


Đừng tưởng cứ rượu là say


Cứ gió là sẽ tung bay cánh diều


Đừng tưởng tỏ tình là yêu


Cứ thơ ngọt nhạt là chiều tương tư


*** *** *** *** ***


 


Đừng tưởng đi là sẽ chơi


Lang thang dạo phố vào nơi hư người


Đừng tưởng vui thì sẽ cười


Đôi hàng nước mắt lệ rơi đầm đìa


Đừng tưởng cứ mực là bia


Bút sa gà chết nhân chia cộng trừ…


Đừng tưởng cứ gió là mưa


Bao nhiêu khô khát trong trưa nắng hè


Đừng tưởng cứ hạ là ve


Sân trường vắng quá ai khe khẽ buồn…


Đừng tưởng thu là lá tuôn


Bao nhiêu khao khát con đường tình yêu.


 


Đừng tưởng cứ thích là yêu


Nhiều khi nhầm tưởng bao điều chẳng hay


Đừng tưởng tình chẳng lung lay


Chỉ một giấc ngủ, chẳng may … có bầu.


Đừng tưởng cứ cầu là hên,


Nhiều khi gặp hạn, ngồi rên một mình.


Đừng tưởng vua là anh minh,


Nhiều thằng khốn nạn, dân tình lầm than.


Đừng tưởng tìm bạn tri âm,


Là sẽ có kẻ mạn đàm suốt đêm.


Đừng tưởng đời mãi êm đềm,


Nhiều khi dậy sóng, khó kềm bản thân.


 


Đừng tưởng cười nói ân cần,


Nhiều khi hiểm độc, dần người tan xương.


Đừng tưởng trong lưỡi có đường


Nói lời ngon ngọt mười phương chết người


Đừng tưởng cứ chọc là cười


Nhiều khi nói móc biết cười làm sao


Đừng tưởng khó nhọc gian lao


Vượt qua thử thách tự hào lắm thay


Đừng tưởng cứ giỏi là hay


Nhiều khi thất bại đắng cay muôn phần


Đừng tưởng cứ quỳnh là thơm


Nhìn đi nhìn lại hóa ra cúc quỳ


Đừng tưởng mưa gió ầm ì


Ngày thì đã hết trời dần về đêm


Đừng tưởng nắng gió êm đềm


Là đời tươi sáng hóa ra đường cùng


Đừng tưởng góp sức là chung


Chỉ là lợi dụng lòng tin của người


Đừng tưởng cứ tiến là lên


Cứ lui là xuống, cứ yên là mằn


 


Đừng tưởng rằm sẽ có trăng


Trời giăng mây xám mà lên đỉnh đầu


Đừng tưởng cứ khóc là sầu


Nhiều khi nhỏ lệ mà vui trong lòng


Đừng tưởng cứ nước là trong


Cứ than là hắc, cứ sao là vàng


Đừng tưởng cứ củi là than


Cứ quan là có, cứ dân là nghèo


Đừng tưởng cứ khúc là eo


Cứ lúc là mạc, cứ sang là giầu


Đừng tưởng cứ thế là khôn!


Nhiều thằng khốn nạn còn hơn cả mình


Đừng tưởng lời nói là tiền


Có khi là những oán hận chưa tan


Đừng tưởng dưới đất có vàng


Vàng đâu chả thấy phí tan cuộc đời


*** *** *** *** ***


 


 


Đừng tưởng cứ nghèo là hèn


Cứ sang là trọng, cứ tiền là xong.


Đừng tưởng quan chức là rồng,


Đừng tưởng dân chúng là không biết gì.


Đời người lục thịnh, lúc suy


Lúc khỏe, lúc yếu, lúc đi, lúc dừng.


Bên nhau chua ngọt đã từng


Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau.


Ở đời nhân nghĩa làm đầu


Thủy chung sau trước, tình sâu, nghĩa bền.


Ai ơi nhớ lấy đừng quên…!


 Cảm ơn bạn Phạm Gia Minh gửi cho bài này, không rõ của ai.


 


 


 


 



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 15, 2013 06:56

Công nhận VNCH vì biển đảo ngày nay?

 Dương Danh Huy và cộng sự- Quỹ Nghiên cứu Biển Đông


Tưởng niệm các quân nhân Việt Nam từ cả hai phía hy sinh ở Hoàng Sa - Trường Sa

Tưởng niệm các quân nhân Việt Nam từ cả hai phía hy sinh ở Hoàng Sa – Trường Sa


NQL: Bài rất hay! Cảm ơn bác Dương Danh Huy và các cộng sự thuộc QNCBĐ!


Những định nghĩa pháp lý cho các chính thể Việt trong cuộc chiến chấm dứt ngày 30/4/1975 có vai trò quan trọng cho lập luận của Việt Nam về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


 Sự quan trọng này không chỉ vì công hàm 1958 của Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng, mà còn vì Hà Nội đã không khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa từ năm 1954 đến 1975-1976.


Quốc gia duy trì chủ quyền


 Trong phán quyết năm 2008 về tranh chấp cụm đảo Pedra Branca giữa Malaysia và Singapore, Tòa án Công lý Quốc tế cho rằng ban đầu Malaysia có chủ quyền đối với đảo Pedra Branca.


 Tòa nói công hàm 1953 của Johor, nay là một tiểu bang của Malaysia, trả lời Singapore rằng Johor không đòi chủ quyền trên đảo này, không có hệ quả pháp lý mang tính quyết định và không có tính chất ràng buộc cho Johor.


 Nhưng Tòa lại dựa vào việc trước và sau đó Johor và Malaysia không khẳng định chủ quyền và dùng công hàm 1953 của Johor như một trong những chứng cớ quan trọng cho việc Malaysia không đòi chủ quyền, để kết luận rằng tới năm 1980 chủ quyền đã rơi vào tay Singapore.


 Bài học cho Việt Nam là: bất kể ban đầu Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, và dù cho chúng ta có biện luận thành công rằng công hàm của Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng không có tính ràng buộc về hai quần đảo này đi nữa, việc VNDCCH không khẳng định chủ quyền trong hơn 20 năm, trong khi các quốc gia khác làm điều đó, có khả năng sẽ làm cho VNDCCH không còn cơ sở để đòi chủ quyền nữa.


 Vì vậy, trong lập luận pháp lý của Việt Nam phải có sự khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo này từ một chính phủ khác, lúc đó là đại diện hợp pháp cho một quốc gia Việt nào đó.


 Trên lý thuyết, nếu chứng minh được từ năm 1954 đến 1975 chỉ có một quốc gia, và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) là đại diện hợp pháp duy nhất của quốc gia đó, thì điều đó cũng đủ là cơ sở cho lập luận pháp lý của Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa.


 Trên thực tế, thứ nhất, chưa chắc chúng ta sẽ chứng minh được điều đó; thứ nhì, chính phủ Việt Nam ngày nay sẽ khó chấp nhận một chiến lược pháp lý dựa trên giả thuyết này.


 Vì vậy, chiến lược khả thi hơn cho lập luận pháp lý của Việt Nam cần dựa trên điểm then chốt là từ năm 1958 đến 1976 có hai quốc gia khác nhau trên đất nước Việt Nam.


 Phân tích này sử dụng ba khái niệm sau.


 Đất nước, là một khái niệm địa lý, bao gồm một vùng lãnh thổ với dân cư. Chính phủ, là cơ quan hành pháp và đại diện. Quốc gia (trong bài này từ “quốc gia” được dùng với nghĩa State/État), là một chủ thể chính trị và pháp lý.


 Trong Công ước Montevideo 1933, một quốc gia phải có lãnh thổ, dân cư, chính phủ, và khả năng có quan hệ ngoại giao với các quốc gia khác.


 Thực chất, trong công pháp quốc tế chỉ có định nghĩa quốc gia như một chủ thể có năng lực pháp lý và năng lực hành vi (tức là có các quyền và nghĩa vụ phát sinh trực tiếp từ luật quốc tế) và chính phủ là thành phần của chủ thể đó, chứ không có khái niệm đất nước.


Một lãnh thổ – hai quốc gia


 Hiệp định Genève 1954 chia đôi Việt Nam thành hai vùng tập kết quân sự. Mặc dù không chia Việt Nam thành hai quốc gia, Hiệp định đã tạo ra một ranh giới tại vĩ tuyến 17 giữa hai chính phủ đang tranh giành quyền lực, và ranh giới đó đã tạo điều kiện cho sự hiện hữu của hai quốc gia.


 Việc VNCH không chấp nhận thực hiện tổng tuyển cử vào năm 1956 đã làm cho ranh giới đó trở thành vô hạn định.


 Sự hiện hữu của hai chính phủ hai bên một ranh giới vô hạn định ngày càng củng cố sự hình thành và hiện hữu trên thực tế của


Một cơ sở của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa mà họ gọi là Nam Sa

Một cơ sở của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa mà họ gọi là Nam Sa


hai quốc gia trên lãnh thổ đó.


 Điều có thể gây nghi vấn về sự hiện hữu của hai quốc gia là hiến pháp của VNDCCH và VNCH có vẻ như mâu thuẫn với sự hiện hữu đó.


 Tới năm 1956, Hiến Pháp VNDCCH viết “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia”, và Hiến Pháp VNCH viết “Ý thức rằng Hiến pháp phải thực hiện nguyện vọng của nhân dân, từ Mũi Cà Mâu đến Ải Nam Quan” và “Việt Nam là một nước Cộng hòa, Độc lập, Thống nhất, lãnh thổ bất khả phân.”


 Nhưng sự mâu thuẫn đó không có nghĩa không thể có hai quốc gia.


 Hiến pháp của Bắc Triều Tiên viết Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên là đại diện cho dân tộc Cao Ly, hiến pháp của Nam Hàn viết lãnh thổ của Đại Hàn Dân Quốc là bán đảo Cao Ly và các hải đảo, nhưng Bắc Triều Tiên và Nam Hàn vẫn là hai quốc gia.


 Như vậy, có thể cho rằng từ năm 1956 hay sớm hơn đã có hai quốc gia, trên lãnh thổ Việt Nam, với vĩ tuyến 17 là biên giới trên thực tế giữa hai quốc gia đó.


 Việc có hai quốc gia là cơ sở để cho rằng VNCH có thẩm quyền để khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa; VNDCCH không có thẩm quyền lãnh thổ gì đối với hai quần đảo đó.


 Khi Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CPCMLT) ra đời ngày 8/6/1969, có thể cho rằng trong quốc gia với tên VNCH, về mặt pháp lý, có hai chính phủ cạnh tranh quyền lực với nhau: chính phủ VNCH và CPCMLT.


 Khi VNDCCH công nhận CPCMLT là đại diện hợp pháp cho phía nam vĩ tuyến 17 thì có nghĩa VNDCCH công nhận trên diện pháp lý rằng phía nam vĩ tuyến 17 là một quốc gia khác.


 Nhưng tới năm 1969 CPCMLT mới ra đời, và cho tới năm 1974 mới có một tuyên bố chung chung về các nước liên quan cần xem xét vấn đề biên giới lãnh thổ trên tinh thần bình đẳng, vv, và phải giải quyết bằng thương lượng.


 Vì vậy, nếu chỉ công nhận CPCMLT thì cũng không đủ cho việc khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa từ thập niên 1950.


Quá trình thống nhất


Việt Nam Cộng Hòa từng là một quốc gia có chủ quyền với Hoàng Sa và Trường Sa

Việt Nam Cộng Hòa từng là một quốc gia có chủ quyền với Hoàng Sa và Trường Sa


 Ngày 30/4/75, VNCH sụp đổ, còn lại duy nhất CPCMLT trong quốc gia phía nam vĩ tuyến 17. CPCMLT đổi tên quốc gia đó thành Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CHMNVN), nhưng đó chỉ là sự thay đổi chính phủ và đổi tên, không phải là sự ra đời của một quốc gia mới.


Năm 1976, trên diện pháp lý, hai quốc gia trên thống nhất lại thành một, và từ đó Việt Nam lại là một quốc gia với một chính phủ trên một đất nước (lãnh thổ).


 Sự thống nhất này đã không bị Liên Hiệp Quốc hay quốc gia nào lên tiếng phản đối.


 Năm 1977, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được chấp nhận tham gia Liên Hiệp Quốc.


 CHXHCNVN kế thừa vai trò của hai quốc gia VNDCCH và VNCH/CHMNVN trong các hiệp định và các tổ chức quốc tế, kế thừa lãnh thổ và thềm lục địa của VNCH/CHMNVN trong các tranh chấp với Campuchia, Thái Lan, Malaysia và Indonesia, và mặc nhiên có quyền kế thừa Hoàng Sa, Trường Sa từ VNCH/CHMNVN.


 Lịch sử pháp lý trên nghe có vẻ sách vở, nhưng thực tế của nó là bom đạn, xương máu, và nhiều cảnh huynh đệ tương tàn.


 Mặc dù lịch sử pháp lý đó đã kết thúc bằng một quốc gia trên đất nước (lãnh thổ) Việt Nam thống nhất, nó là một cuộc bể dâu làm đổ nhiều xương máu.


 Nhưng quá khứ thì không ai thay đổi được, và tương lai thì không ai nên muốn đất nước Việt Nam lại bị chia đôi thành hai quốc gia lần nữa.


 Cuộc bể dâu đó cũng đã góp phần làm cho Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm đóng, và để lại cho Trung Quốc một lập luận lợi hại, rằng trước 1975 Việt Nam không tuyên bố chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, và đã công nhận chủ quyền Trung Quốc trên hai quần đảo này.


 Nhưng việc đã từng có hai quốc gia trên một đất nước (lãnh thổ) Việt Nam trong giai đoạn 1956 đến 1976, và việc, vào năm 1976, hai quốc gia đó thống nhất thành một một cách hợp pháp, là một yếu tố quan trọng trong lập luận về Hoàng Sa, Trường Sa.


 Ngày nay, chính phủ Việt Nam một mặt viện dẫn các tuyên bố và hành động chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa về Hoàng Sa, Trường Sa, nhưng mặt kia vẫn e ngại việc công nhận cụ thể và rộng rãi rằng Việt Nam Cộng Hòa từng là một quốc gia, mặc dù trong quá khứ Hà Nội đã công nhận rằng Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một quốc gia.


 Việc không công nhận cụ thể và rộng rãi rằng VNCH đã từng là một quốc gia làm giảm đi tính thuyết phục của việc viện dẫn các tuyên bố và hành động chủ quyền của VNCH về Hoàng Sa, Trường Sa, vì các tuyên bố và hành động chủ quyền phải là của một quốc gia thì mới có giá trị pháp lý.


 Vì vậy, chính phủ Việt Nam cần phải bỏ sự e ngại này.


 Mặt khác, Việt Nam cũng cần phải hạn chế tối đa những gì Trung Quốc có thể lợi dụng để tuyên truyền rằng CHXHCNVN ngày nay chỉ là VNDCCH, chẳng hạn như không nên đổi tên nước thành VNDCCH.




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 15, 2013 05:04

Lên chùa ngắm ảnh đại gia

Hải Tâm- VNN


tram-be-chua1. Ảnh đại gia, tranh vẽ đại gia chưa bao giờ là của lạ. Nhưng khi chúng được đường đường chính chính treo giữa chốn chùa chiền tôn nghiêm, ở những vị trí hoành tráng, bắt mắt nhất, ắt lại thành “chuyện chỉ có ở Việt Nam”.



“Ít nhiều biến dạng” là từ mà tờ báo đầu tiên đưa tin về chuyện lạ này dùng để miêu tả một số ngôi chùa sau khi được một đại gia phát tâm tu sửa. Biến dạng cả ở tên chùa: những ngôi chùa có hàng trăm năm lịch sử, bỗng dưng được gọi là chùa ông này ông nọ.


Nào là tên ghi ngay trên cổng chính của chùa, tranh, ảnh của đại gia và gia đình treo ngay trong chánh điện, rồi tượng cha mẹ đại gia đặt ngang hàng… tượng thần. Sự hiện diện dày đặc, đủ để không ai dám mảy may nghi ngờ công đức lớn lao, những khoản tiền ngất ngưởng mà đại gia chi ra cho công cuộc trùng tu hay thậm chí là xây dựng, như xác nhận của các chùa trên bảng ghi công.


Sau những mốt như chơi siêu xe, sở hữu biệt thự khủng…, có lẽ đã đến thời đại gia “chơi” chùa chăng? Có gì là không thể, một khi tiền lệ đã mở ra.


Biết đâu, rồi đây du khách nước ngoài thăm chùa VN, nhìn những tranh ảnh kiểu đó, lại chẳng trầm trồ, thán phục vì chúng ta có khả năng sáng tạo thêm nhiều “thần thánh” lạ.


Nhưng có vẻ bản thân người Việt Nam, không ai vui mừng được với chuyện lạ này. Một vị Thượng tọa thuộc hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đã đánh giá đây là chuyện chưa từng xảy ra trong lịch sử Phật giáo (chứ không chỉ riêng Việt Nam). Ông cũng cho biết, đến các vị vua ngày xưa khi cho xây dựng chùa cũng không có ghi tên, treo ảnh, chỉ thể hiện trên tên chùa bằng một chữ “sắc tứ”…


Nhìn ra một số nước láng giềng Phật giáo thịnh hành như Lào, Campuchia…, có thể thấy vua chúa, hoàng thất nhiều đời cũng đều góp công dựng chùa. Nhưng, chẳng hạn như tại chùa Vàng chùa Bạc nổi tiếng của Campuchia, tượng vua Norodom  (1834-1904) cũng chỉ được đặt ngoài khuôn viên chùa, dù góp công không nhỏ cho chùa.


Vài nét so sánh qua đủ thấy uy lực của đẳng cấp đại gia của ta lớn đến cỡ nào. Uy lực đến nỗi khiến chúng ta bất giác liên tưởng đến câu nói quen thuộc “có tiền mua tiên cũng được” (hay phiên bản hiện đại hơn là cái gì không mua được bằng tiền, thì có thể mua bằng… nhiều tiền).


Nhân chuyện lạ gây xôn xao này, nhiều người đặt lại vấn đề về của cho và cách cho, và nhất là cách làm công đức. Chẳng cần học nhiều biết rộng, hẳn các phật tử cũng đều phải thuộc nằm lòng tôn chỉ của Phật giáo là làm việc công đức, từ thiện “tối cần là sự lặng lẽ”. Mọi sự khoa trương, ầm ĩ chỉ khiến tổn thất công đức.


Mà không chỉ Phật giáo, cả các tôn giáo khác, như Thiên Chúa giáo cũng dạy con chiên tương tự. Chúa từng răn dạy môn đệ rằng: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy… Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen… Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo”.


“Đạo đức giả” là từ Đức Chúa gọi những kẻ làm việc thiện mà “khua chiêng đánh trống” vậy!


2. Chuyện “chùa đại gia” có thể hi hữu, nhưng nó lại cho thấy một xu hướng đang ngày càng trở nên phổ biến trong đời sống tâm linh hiện đại. Đó là xu hướng trần tục hóa, vật chất hóa những không gian, giá trị thiêng. Nhiều người không chỉ còn quan niệm “trần sao âm vậy” mà còn đẩy lên thành trần sao… thì thần Phật vậy.


Những lộn xộn bát nháo chốn cửa chùa, hay tại các lễ hội hiện nay là minh chứng rõ nét. Người ta hăm hở đi lễ chùa, hăm hở công đức, hăm hở nhét tiền vào tay Phật nhưng lại chẳng có lúc nào lắng tâm để nhận thức gốc của đạo.


Chúng ta ngày càng mê tín, sẵn sàng quỳ lạy cả những rắn, những cá… mà ta cho là sự lạ, là con vật thần giáng xuống. Mê tín tăng, nhưng đức tin lại có xu hướng kiệt quệ.


Đến chốn linh thiêng, không còn mấy người giản đơn cầu bình an. Chúng ta lao vào tranh giành, cướp đoạt nào ấn, nào lộc với hi vọng được phù hộ để thăng quan tiến chức, tiền của đầy nhà. Bên trong trống rỗng, bất an, chúng ta cuống cuồng tìm cách bám víu vào những vật ngoại thân, những giá trị hư hão.


Trong cả một biển nhân thế với cái tâm đầy náo loạn ấy, lấy đâu ra khoảng tĩnh lặng để Phật, thánh ngự được vào. Chẳng thế mà, dù người đi lễ chùa ngày một đông, của dâng thức cúng cũng cầu kỳ, linh đình hơn hẳn, song cảm giác về thời kỳ mạt Pháp lại hiện hữu đâu đó.


Bên cạnh đó, có cảm giác, quyền lực và tiền bạc cũng đang dần chiếm cứ các không gian tâm linh. Lễ hội thì bị cảnh báo là “quan hóa” khi dành mọi nghi thức trang trọng nhất cho các quan chức. Cảnh xe công tấp nập đi chùa, đi dự hội và ngự ở các vị trí VIP chẳng còn hiếm.


Còn giới đại gia không ngừng sắp xếp trước cho mình chốn an nghỉ hoàng tráng, nguy nga không kém gì nơi ở lúc đang sống. Họ cũng không tiếc tiền đổ vào xây chùa, dựng tượng nhằm cầu nhiều tiền, lắm biệt thự, siêu xe hơn không chỉ cho kiếp này mà còn cho cả kiếp sau.


Đáng buồn hơn cả là, trong bối cảnh hiện nay, nhà chùa vốn được trông đợi làm rường cột để nắn chỉnh nhân tâm, thì có lúc lại đang góp phần “thỏa hiệp” với những bát nháo.


Như trong trường hợp “chùa đại gia”, nếu nhà chùa một mực nghiêm cẩn giữ quy tắc, thì sao có chuyện phật tử được chễm chệ đến vậy. Đằng này, theo chính vị đại gia kia khẳng định và nhiều người dễ dàng suy đoán, việc làm của ông phải được sự “thống nhất cao” của nhà chùa.


Trong thời buổi việc xây dựng, trùng tu chùa chiền được xã hội hóa rộng khắp, nhà chùa lại càng khó làm mất lòng “nhà đầu tư” của mình. Công đức ít tiền thì ghi nhận khiêm tốn, công đức lớn tiền thì ghi nhận cần hoành tráng tương xứng, điều này dường như đã thành “lệ ngầm” ở chốn cửa chùa.


Mà xét cho cùng, trong chuyện này chẳng ai bất lợi. Người cung tiến thì được dịp nở mày nở mặt với thiên hạ. Còn nhà chùa “lại được dịp xác lập những kỷ lục cung tiến mới để tiếp tục thử thách “lòng thành” và mức độ hảo tâm của những kẻ khác” như một bài báo bình luận.


Một số ý kiến chỉ ra, bản thân các chùa cũng đang có khuynh hướng đua nhau xây chùa thật sang trọng, quy mô bằng tiền quyên góp của Phật tử giàu có. Các nhà sư không còn hoàn toàn gắn liền với hình ảnh áo nâu sồng, đời sống đơn sơ, khó nghèo mà nhiều vị cũng đã sắm xe này, điện thoại nọ tùy theo khả năng thu hút công đức từ phật tử.


Chùa ngày thêm đông, thêm đồ sộ mà nhân tâm lại thêm rỗng và bóng Phật thêm vắng là cảm nhận về thời bây giờ vậy!




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 15, 2013 04:08

Dây trói trên luống cày- Phần 2

MINH DIỆN- Blog BVB


Công an, dân phòng cưỡng chế thu hòi đất ở Văn Giang 4-2012

Công an, dân phòng cưỡng chế thu hòi đất
ở Văn Giang 4-2012


Khi công cuộc đổi mới đang trên đà phát triển, Việt Nam được coi là một “con rồng” của Châu Á, với mức tăng trưởng 7,6% vào năm 1990 và đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo, thì bỗng khựng lại. Nguyên nhân cũng lại do ông Nguyễn Văn Linh.


Ông quê Hải Dương, tham gia cách mạng từ năm 14 tuổi, phần lớn thời gian hoạt động trong Nam, ở những địa bàn ác liệt, được dân đùm bọc. Ông có nhiều kinh nghiệm thực tế, tính ngay thẳng, cuộc sống liêm khiết , nhưng hạn chế về tầm nhìn ra thế giới bên ngoài. Ông đã có công phá rào khi làm Bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh. Đầu nhiệm kỳ Tổng bí thư ông đề ra “ những việc cần làm ngay”, cởi trói cho văn nghệ sỹ, khuyến khích sáng tác nói thẳng nói thật, và cởi trói cho nông dân ,cho phép rút ruộng đất ra khỏi tập đoàn , sản xuất tư nhân. Nhưng ông lại bị mắc hợm Trung Quốc ở Hội nghị Thành Đô, với cái gọi là “ Giải pháp đỏ”. Nói như Nguyễn Văn An : “ Nguyễn Văn Linh không phải là con người thực sự đổi mới!” Sau Hội nghị Thành Đô, ông đã bỏ “những việc cần làm ngay”, xiết lại sợi dây cơ chế chính sách, đẩy con thuyền đổi mới lùi lại. Ông từ chối không tham gia nhân sự Đại hội VII của đảng cộng sản Việt Nam , dù nhiều người vẫn tín nhiệm .


Bấy giờ nhiều người đặt niềm tin và kỳ vọng vào ông Võ Văn Kiệt, người sẽ thay ông Nguyễn Văn Linh làm Tổng bí thư, lèo lái con tàu đổi mới vượt thác mạnh mẽ hơn. Ông Nguyễn Văn Linh cũng đánh giá rất cao Võ Văn Kiệt, người từng sát cánh bên ông trong những năm chống Pháp, chống Mỹ ở miền Nam, cùng gồng mình xé rào đưa kinh tế Sài Gòn bứt lên từ vực thẳm, làm tiền đề cho công cuộc đổi mới cả nước, cũng là người đồng quan điềm giao quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân. Nhưng Nguyễn Văn Linh lại là người ngăn cản Võ Văn Kiệt làm Tổng bí thư . Lời phát biểu thiếu căn cứ : “ Không cần phải chống tham nhũng ở đâu xa,mà hãy chống tham nhũng ngay trong nhà vợ con Thủ tướng!” của ông trong một hội nghị bàn về chống tham những gây sốc, làm xôn xao dư luận. Ông Võ Văn Kiệt đã hai lần viết thư gửi Bộ chính trị, để nghị làm sáng tỏ. Trong lá thư đó có đoạn : “ Nếu tôi như anh Nguyễn Văn Linh nói, thì tôi không còn xứng đáng là một Uỷ viên bộ chính trị, thậm chí một đảng viên!”


Hội nghị Thành Đô - 9/1990

Hội nghị Thành Đô – 9/1990


Khi sắp qua đời ông Nguyễn Văn Linh ân hận về lời phát biểu của mình, và ông bộc bạch: “ Anh Sáu Dân là người rất tốt, rất năng động, nhưng tôi sợ anh đổi mới quá đà mắc sai lầm!”


Đại hội VII của đảng công sản Việt Nam bầu Đỗ Mười làm Tổng bí thư. Ông từng được Lê Duẩn tin tưởng giao nhiệm vụ thay Nguyễn Văn Linh làm Trường ban cải tạo trung ương, thực hiện chiến dịch đánh tư sản ở Sài Gòn 1979, biến “Hòn ngọc viễn đông” thành “ kho phế liệu !” Khi làm Tổng bí thư, Đỗ Mười trung thành với đường lối Lê Duần, muốn xóa sạch quyền sở hữu tư nhân. Trong bối cảnh Liên Xô sụp đổ, Đông Âu tan rã, chủ nghĩa xã hội lung lay tận gốc, Đỗ Mười vẫn nêu cao “tinh thần bôn-sê-vích”, không chấp nhận quan điểm của Võ Văn Kiêt , là thay đổi Hiến pháp theo hướng trao quyền sở hưũ ruộng đất cho nông dân. Đỗ Mười gắn chặt tư duy của mình vào tư tưởng của người tiền nhiệm Lê Duẩn : “ Làm chủ tập thể là tinh thần cơ bản , là nội dung nhất quán, và sở hữu toàn dân là cốt lõi của chủ nghĩa xã hội!” Ông khẳng định: “ Trước sau gì cũng tới đó nên về đất đai vẫn để nguyên như Hiến pháp 1980!”


Quan điểm cùa Đỗ Mười được Đào Duy Tùng nhiệt liệt ủng hộ. Thay mặt Ban bí thư , ngày 14-4-1993, khi chuẩn bị đưa dự thảo Luật đất đai ra lấy ý kiến nhân dân, Đào Duy Tùng huấn thị : “ Phải làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm được quan điềm cơ bản của đảng và nhà nước ta: Toàn bộ đất đai đều thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước chỉ giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng , không cho mua bán đất…” Đào Duy Tùng chỉ thị : “ phải theo dõi sát sao trong quá trình thảo luận , kịp thời uốn nắn những lệch lạc trong quá trình thảo luận!”


Với sự lãnh đạo của đảng chặt chẽ như vậy, việc lấy ý kiến chỉ là hình thức, nhiều người có quan điềm tư hữu đất đai như ông Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, phải im lặng trước vấn đề nhạy cảm đó. Và nội dung bản Hiến pháp 1992, thuộc quyền Tổng bí thư Đỗ Mười, quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Không thành công trong việc sửa đổi Hiến pháp, ông Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải và một số người đã cố gắng cho ra đời Luật đất đai 1993 cởi mở hơn, với khái niệm 5 quyền: Quyền Sử dung, quyền chuyển nhượng, quyền thừa kế, quyền thế chấp, và quền cho thuê đất. Đây là một bước tiến đáng kể so với những Luật đất đai trước.


Nhưng người dân không thật phần khởi, bởi Luật đất đai 1993 đề ra quy định hạn điền và thời hạn giao đất, trong khi Điều 18 Hiến Pháp 1992, quy định giao đất ổn định lâu dài cho dân . Hạn điền và thời hạn giao đất là đặc trưng và ranh giới để phân biệt sở hữu tư nhân và tập thể . Luật đất đai quy định hạn điền và thời gian giao đất đề giữ vững cái cốt lõi “Sở hữu toàn dân” . Trên mở dưới thắt, đầu cởi đuôi trói, là những thủ pháp quen thuộc của đảng. Người dân vẫn không được tự do suy nghĩ trên mảnh đất của mình. Ngược lại, với các thủ pháp thắt mở như vậy , dễ đẻ ra các thủ tục hành chính rườm rà, thiếu minh bạch hành dân. Có những điều luật không nhất quán, mà chồng chéo, thậm chí đối chọi nhau, hậu quả cũng đổ lên đầu dân. Dù mảnh đất của cha ông để lại, đất khai hoang, hay đất sang nhượng đúng pháp luật theo Bộ luật dân sự quy định, nhưng theo Luật đại lại phải qua chính quyền làm thủ tục cho thuê đất có thời hạn, khi chuyển nhượng, hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng phải đóng 100% tiền sử dụng đất. Người dân đã phải đóng thuế hai lần trên cùng một mảnh đất của mính.


Vậy mà Tổng bí thư Đỗ Mười vẫn cho rằng đã là quá mở. Ông cho rằng đó là nguy cơ đi trệch định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên tinh thần đó, ngày 14-10-1994, Quốc hội ban hành Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của cá nhân và tổ chức trong nước sử dụng đất, và ngày 13-2-1995, Chính phủ ban hành Nghị định 18, theo đó, tổ chức, cá nhân trong nước không được thừa kế, chuyển nhượng, thế chấp quyền sừ dụng đất như trước . Nguyên tắc bất hồi tố trong dân sự không được áp dụng, tất cả các tổ chức được giao đất phải chuyền sang thuê đất, và chỉ được thế chấp tài sản trên đất. Sợi giây quản lý đất đai xiết chặt hơn.


Nghị định 18, như một tác nhân làm sụp đổ ngành kinh doanh bất động sản,làm thất thu ngân sách hàng ngàn tỷ đồng, làm hàng loạt doanh nghiệp sau một đêm thức dậy trắng tay, nhiều doanh nghiệp chết tức tưởi như công ty Minh Phụng, Epco, Tanimex ở thành phố Hồ Chí Minh.


Nông dân Vụ Bản (Nam Định) đấu tranh chống cưỡng chế thu hồi đất nông nghiẹp

Nông dân Vụ Bản (Nam Định) đấu tranh
chống cưỡng chế thu hồi đất nông nghiẹp


Tháng 12-1997, ông Đỗ Mười kết thúc nhiệm kỳ Tổng bí thư, để lại hậu quả tày đình đó, nhưng vẫn chễm chệ trên ghế cố vấn, giữ vai trò phán quyết mọi chủ trương đường lối. Người kế nhiệm là Lê Khả Phiêu có công phá cái “Vòng kim cô” , và ông đã phải trả giá. Nông Đức Mạnh làm hai nhiệm kỳ Tổng bí thư, đó là thời kỳ uy tín cùa Đảng cộng sản Việt Nam tụt dốc nhất kể từ khi được thành lập. Ông không đưa ra được bất kỷ một chính sách mới nào có lợi cho dân cho đảng, ngoài việc lập đường dây nóng với Trung Quốc, một câu nói nổi tiếng “ Ở Việt Nam al cũng là con cháu Bác hồ!”và vụ tai tiếng PMU 18. Trong thời gian đó, luật đất đai đã 5 lần thay đổi, đều theo hướng hạn chế bớt quyền lợi của dân, tăng quyền cho chinh phủ. Ví dụ, Điều 27 , Luật đất đai 1993 ghi: “ Trong trường hợp thật cần thiết, nhà nước mới thu hồi đất đang sử dụng của người thuê đất vảo mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, thì người bị thu hồi được đền bù thiệt hai”. Luật đất đai 1998 vẫn giữ nguyên như vậy, nhưng Luật đất đai 2003, lại cho chính quyền thêm quyền : “Thu hồi đất để phát triển kinh tế!” Điều 20, Luật đất đai năm 1993, quy định : “ Khi hết thời hạn giao đất, nếu người sử dụng đất có nhu cầu tiếp tục sử dụng, và trong quá trình sử dụng đất chấp hành đúng pháp luật về đất đai thì được nhà nước giao đất tiếp tục sử dụng” Năm 1998 vẫn giữ nguyên điều này, nhưng Luật đất đai 2003, tại khoản 10, điều 38, quy định : “Nhà nước thu hồi những phần đất không được gia hạn khi đã hết hạn”.Năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định 84, Bộ tài nguyên và môi trường ra thông tư 06, càng mở rộng đường thu hồi đất cùa dân.


Oan khốc Đoàn Văn Vươn

Oan khốc Đoàn Văn Vươn


Với điều mục đích thu hồi đất để “phát triển kinh tế” và với quyền được “thu hồi những phần đất không được gia hạn”, chính quyền hoàn toàn lảm chủ đất đai, dân chỉ còn nghĩa vụ phải thi hành. Những mảnh sổ đỏ, sổ hồng trở nên vô giá trị. Chính quyền từ huyện đến trung ương có thể thu hồi bất cứ lô đất, vùng đất nào mà họ muốn, chỉ cần vẽ một bản đồ quy hoạch và làm một dự án phát triển kinh tế. Khu công nghiệp, khu chế suất, khu du lịch, khu đô thị mới, nhà hàng, khách sạn , sân Golf. Những quyết định thu hồi đất, luôn thòng sẵn một điều khoàn đe dọa lệnh cưỡng chế , được ban hành dễ như trở bàn tay.


Với những quyết định thu hồi đất ấy, người ta đền bù cho dân giá quy định, mang tính tượng trưng, rồi làm dự án này, dự án nọ, phân nền phân lô bán với giá gấp ngàn lần. Nhiều doanh nhân kinh doanh bất động sản trở thành các đại gia, ngất ngưởng trên những mảnh đất đẫm mô hôi xương máu của người nông dân. Các nhóm lợi ích bu vào đất. Đất là miếng mồi béo bở nhất của các quan tham. Người nông dân trắng tay, trở thành kẻ làm thuê làm mướn, đi bán vé số, thậm chí đi ăn xin .


Nạn nhân Đoàn Văn Vươn, là một điển hình cùa “Sở hữu toàn dân” đất đai. Các quan chức huyện Tiên Lãng đã vận dụng điều khoản “thu hồi những phần đất không được gia hạn” để ra quyết định thu hồi 19,5 ha đầm tôm của anh. Anh Vươn không chấp nhân, họ ra lệnh cưỡng chế trái phép, dẫn đến vụ án “giết người và chống người thi hành công vụ”.


Cuộc cưỡng chế lửa khói ở Văn Giang, gạch đá ở Đông Triều , và 70% trong tổng số đơn khiếu kiên hiện nay cũng từ những bất cập của chính sách đất đai.


Sơ đồ dự án Ecopark Văn Giang lộ rõ hình SÂU KHỔNG LỒ ĂN ĐẤT (hình bắt gặp ngẫu nhiên trên Internet. Lạ!)

Sơ đồ dự án Ecopark Văn Giang
lộ rõ hình SÂU KHỔNG LỒ ĂN ĐẤT
(hình bắt gặp ngẫu nhiên trên Internet. Lạ!)


Nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã viết trên Vietnannet : “ Công nhận sở hữu tư nhân, bãi bỏ chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, bãi bỏ chế độ ‘đảng chủ’, áp dụng tam quyền phân lập, thực hiện nguyên tắc tranh cử, công khai minh bạch…”. Nhưng hình như cũng như những người khác, ông Nguyễn Văn An đưa ra những phát biểu khảng khái như vậy mà các nhà lãnh đạo đương chức đương quyền, những nhóm lợi ích vẫn coi như gió thoảng qua.


Đảng cộng sản Việt Nam đang tổ chức lấy ý kiến rộng rãi về việc sửa đổi Hiến pháp và Luật đất đai. Nhưng có thật sự cầu thị, thực lòng cần dân chủ hay không lại là chuyện kác!


Đất đai là một nguồn lợi tiềm tàng, đồng thời cũng ẩn chứa nhiều mâu thuẫn. Đất không biết nói nhưng hồn dân là hồn đất. Khi đụng chạm đến cõi xâu xa ấy phải có tâm thức chân thành. Mọi sự lừa dối, áp đặt sớm muộn cũng bị phơi bày. Khi luật pháp không rõ ràng, thiếu minh bạch, nhiều bất công thì đất đai chính là cái mầm sinh ra bất ổn cho toàn xã hội. Nhưng điều trớ trêu là sự bất ổn đó lai do chính quyền móc nối với đại gia gây nên, chỉ vì lợi ích cá nhân và phe nhóm.


Bao đời nay, nông dân đứng lên đấu tranh chỉ vì ruộng cày, chỉ vì bát cơm manh áo. Nay kẻ nào chiếm đoạt đất của nông dân thì dù ở thể chế chính trị nào cũng trở thành kẻ thù của nông dân. Đó là quy luật. Quyền lực, trong chừng mực, hoàn ảnh nào đó có thể bắt, trói người nông dân ngay trên luống cày của họ. Nhưng đến lúc mà sự chịu đựng đã dồn đến chân tường, nông dân sẽ bắt trói kẻ thù. Dù sao, người dân vẫn còn chút hy vọng đến lúc nào đó đảng, nhà nước thật sự muốn nghe ý kiến của dân, muốn cởi trói cho dân, để trên mỗi luống cày nở rộ mùa màng.


M.D



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 15, 2013 02:04

Thư yêu cầu Đoàn trường Đại học luật TpHCM xin lỗi

384689_508572339169518_1134843707_n Gửi: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
Chúng tôi:
1. Nguyễn Trang Nhung, sinh viên lớp 4B Văn bằng 2 Chính quy, Đại học Luật TP. HCM 
2. Bùi Quang Viễn, sinh viên lớp 3B Văn bằng 2 Chính quy, Đại học Luật TP. HCM
3. Phạm Lê Vương Các, sinh viên lớp AUF35 Văn bằng 1 Chính quy, Đại học Luật TP. HCM
Sau khi xét rằng:
1. Việc chúng tôi khởi xướng Tuyên ngôn Công lý cho Đoàn Văn Vươn là hoàn toàn phù hợp với quyền công dân được quy định tại Điều 53 Hiến pháp hiện hành;
2. Việc tác giả Trung Nhân và một số cá nhân có thẩm quyền liên quan của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trường Đại học Luật TP. HCM, đăng tải bài viết “Thực hư về những người khởi xướng: Công lý cho Đoàn Văn Vươn” vào ngày 09-04-2013 trên website doanthanhnienluat.com, công khai cho rằng hành động khởi xướng Tuyên ngôn của chúng tôi là: “nhằm mục đích đánh bóng tên tuổi cá nhân hoặc bị ảnh hưởng bởi những luồng tư tưởng phiến diện”, với giải thích: “Bởi vì, đây chỉ là những sinh viên năm hai, năm ba, chưa có sự tiếp cận một cách đầy đủ nhất về những quy định của pháp luật Việt Nam cũng như hệ thống pháp luật quốc tế. Bên cạnh đó, sự hạn chế về mặt tư duy pháp lý của những sinh viên này còn được thể hiện phần nào qua sự hạn chế về kết quả học tập (…) …hành động này lại tạo nên ảnh hưởng xấu đến dư luận nói chung và cộng đồng Đoàn viên, sinh viên trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh nói riêng,” chẳng những đã xem thường quyền hiến định của công dân Việt Nam, mà còn có dấu hiệu phạm tội “làm nhục người khác” và tội “vu khống” được quy định tương ứng tại các điều 121 và 122 Bộ luật Hình sự;
3. Việc các cá nhân trên của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trường Đại học Luật TP. HCM, cũng trong bài viết này, công bố kết quả học tập của hai sinh viên Bùi Quang Viễn và Phạm Lê Vương Các, là hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư được quy định tại điều 38 Bộ luật Dân sự.
YÊU CẦU:
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trường Đại học Luật TP. HCM gỡ bỏ bài viết nêu trên, đồng thời công khai xin lỗi chúng tôi, Nguyễn Trang Nhung, Bùi Quang Viễn và Phạm Lê Vương Các, trên website doanthanhnienluat.com trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày hôm nay, 15 tháng 04 năm 2013. 
Chúng tôi để ngỏ các hành động pháp lý – khởi kiện, hoặc tố cáo, hoặc yêu cầu khởi tố – trong trường hợp yêu cầu trên không được đáp ứng.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 04 năm 2013.


Người yêu cầu:
(Nhóm khởi xướng Tuyên ngôn Công lý cho Đoàn Văn Vươn đã ký)
Dẫn theo ABS

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 15, 2013 00:21

April 14, 2013

Quan trọng nhất là mục tiêu

Bút Lông- FB


Hiến pháp bútNQL: Một cái áo chẳng làm nên thầy tu, đúng vậy. Nhưng thời buổi này có cái áo cũng đã quí. Có cái áo rồi ta mới tính đến sự chính danh của việc mặc áo. Do vậy tôi ủng hộ ý kiến của Bút Lông


Việc Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đưa thêm phương án đổi Quốc hiệu sang Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, giống như thời cụ Hồ giành chính quyền 1945, đã chứng tỏ một Thái độ dân chủ thực sự.


 Dân chủ vì đây là một trong những vấn đề được đong góp ý kiến rất nhiều, từ các cuộc nhậu trà dư tửu hậu đến các cuộc họp ngay ngắn có nhiều thành phần tham gia. Thế nhưng một số ý kiến vẫn bảo lưu cho rằng việc đổi quốc hiệu có thể gây tốn kém (do phải chuyển đổi nhiều loại giấy tờ) và nhất là có thể khiến kẻ xấu lợi dụng, khiến đồng chí, đồng bào có thể hiểu sai lệch về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.


 Thực sự thì CNXH như thế nào, vai trò nhà nước và nhân dân trong xã hộ đó ra sao và đặc biệt là cơ chế phân phối sản phẩm xã hội có đảm bảo Công bằng và tạo động lực cho lao động sáng tạo hay không thì chưa có bất kỳ hình mẫu hay thực tế nào để chứng minh cho nhân dân hiểu cả. Trong khi thể chế dân chủ – Cộng Hoà mà Hồ Chí Minh đưa ra ngay sau Tuyên ngôn độc lập lại có giá trị tạo sự đồng Thuận, quy lòng dân về một mối chống kẻ thù trong, giặc ngoài. Thế chế ấy cũng là hình Thái xã hội khá phổ biến ở nhiều nước phát triển, không ngừng được hoàn thiện và nâng lên, ít nhiều chứng tỏ rằng quyền lực và sản phẩm xã hội đã và sẽ được phân phối và sử dụng cân bằng hơn, thỏa mãn hơn nguyện vọng của số đông nhân dân.


 Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp có nêu lý do rằng việc đổi Quốc hiệu có giá trị phản ánh đúng hơn tình hình đất nước hiện tại, giúp Việt Nam không quá tách biệt với thế giới và đặc biệt là tăng cường mạnh mẽ sự đồng thuận dân tộc. Dĩ nhiên phương án mới này còn phải tiếp tục được bàn thảo, được Quốc hội biểu quyết, song có lẽ cần phân tích rõ hơn một yeeus tố khác là phưong pháp nào bảo đảm cho mục tiêu mà chúng ta đang hướng đến?


 Đại hội Đảng vừa qua đã nói rất rõ mục tiêu của chúng ta cần phải hướng đến là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, Văn Minh”, vậy thì theo phương pháp phân tích logic thì các hoạt động (hoặc phương pháp tiến hành) đều phải nhằm ra được các kết quả, mà các kết quả này phải bảo đảm cho mục tiêu nói trên được thực hiện.


 Vì thế tên nước như thế nào, cách thức lãnh đạo và vận hành xã hội ra sao thực ra chỉ là phương pháp, là cách thức để có kết quả là nhân dân phải được giàu có, đất nước được cường Thịnh, quyền làm chủ của người dân đảm bảo thực chất và xã hội đảm bảo sự công bằng, Văn Minh. Mà muốn có được điều đó không thể không Huy động sức mạnh tổng lực toàn dân với lời dạy chưa cũ: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.


 Cho nên nếu phương án mới đúng là tạo được sư đồng Thuận cả trong nước và Quốc tế như dự liệu, cũng như giúp nhìn nhận chính xác hơn về thực tại thì mới có cơ sở để chúng ta phấn đấu nhằm đạt được các mục tiêu rất tốt đẹp mà chúng ta đã đề ra.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 14, 2013 21:04

“Cán bộ là bồ nhí của nhân dân”


Hãy coi cuộc phỏng vấn, người phỏng vấn và người được phỏng vấn đều là sản phẩm của trí tưởng tượng


Nguyễn Hùng


images486020_49Gần đây, PGS TS Nguyễn Hữu Tri, Viện phó phụ trách Viện Xã hội học và Khoa học quản lý, nguyên là Viện trưởng Viện Khoa học hành chính, Trưởng khoa Quản lý hành chính, Học viện hành chính Quốc gia nêu ra ý kiến về sự cần thiết phải luật hóa việc chạy chức chạy quyền như một chính sách quản lý nhà nước hợp với quy luật kinh tế thị trường: ’Cần luật hóa cho phép chạy chức, chạy quyền’ ( Tại đây)


Để rộng đường dư luận chúng tôi đã có cơ hội phỏng vấn GS TS Viện Sĩ Lương Mãi Vinh. Tốt nghiệp tại Yale Law School,Connecticut, USA. Viện phó viện nghiên cứu về tệ nạn xã hội Singapore. Viện trưởng viện nghiên cứu chính trị tư tưởng Havard, Boston, Massachusetts, USA..


Phóng Viên Jennifer Nguyen(PV): Thưa Tiến Sĩ, gần đây PGS TS Nguyễn Hữu Trí có đề xuất về việc ’Cần luật hóa cho phép chạy chức, chạy quyền’. Xin Giáo Sư cho biết quan điểm của ông về vấn đề này


GSTS Lương Mãi Vinh (LMV): Tôi cho đây là một ý kiến tuyệt vời, có tính đột phá!


PV: Thưa Tiến Sĩ , Tính đột phá là như thế nào ạ? Xin ông cho biết rõ hơn.


TS LMV: Như chị đã biết, giới truyền thông của ta hay phê bình nhà nước ta là “quản không được thì cấm”.


Đề xuất của TS Trí sáng tạo và đột phá ở chỗ là: “cấm không được thì quản!”


PV: Thưa Tiến Sĩ, tôi vẫn chưa hiểu được là tại sao không cấm được “chạy chức, chạy quyền”?


TS LMV: Như chị đã biết đấy! Từ ngàn xưa đến nay đã có không ít lĩnh vực tuy nhậy cảm như không thể cấm bằng mệnh lệnh hành chính.


Tôi xin lấy một ví dụ như nghành đánh bạc. Cấm nào có được nên các chính phủ tiên tiến trên thế giới đều “quản” bằng cách luật hóa trở thành “trò chơi có thưởng”. Và như thế ngoài việc quản được tệ nạn còn mang lại nguồn thu không nhỏ cho ngân sách.


PV: Thưa Tiến Sĩ .. không lẽ ông lại ví..


TS LMV: Một ví dụ thứ hai không kém phần nhạy cảm mà tôi muốn nêu ra là nghành mãi dâm.


PV: Thưa Tiến Sĩ .. không lẽ …


TS LMV: Như chị biết đấy, ngành mãi dâm thường được tôn vinh là “nghề xưa nhất thế giới” và các nhà nước đều muốn cấm do tính nhạy cảm của nó nhưng nào có cấm được đâu. Rốt cuộc các nhà nước tiên tiến đều phải “quản” . Và như thế ngoài việc bảo vệ sức khỏe của nhân dân còn thu được thuế và bảo vệ được nhân quyền cho giới cung cấp dịch vụ.


PV : ThưaTiến Sĩ ..


TS LMV: Như mọi người đã biết , quan chức là nghề còn xưa hơn nghề mãi dâm!


Theo Mác và Ăng Ghen, nó phải tồn tại từ khi có sự xuất hiện của Nhà Nước. Và với sự xuất hiện của nghề này thì “chạy chức, chạy quyền” nảy sinh như một nhu cầu, nếu chưa có thể gọi là chính đáng thì ít nhất cũng là tự nhiên và tất yếu của loài người như dinh dưỡng, cư trú, giải trí hay tình dục.


Và không ai .. cấm được! Vâng! có ai cấm được quan chức không? Có phải vậy không?


Như thế logic tất yếu là phải “quản”!


PV: Thưa Tiến Sĩ, tôi đã hiểu ra! Thật là sâu sắc. Xin Tiến Sĩ cho biết đề xuất của ông về các biện pháp quản lý.


TS LMV: Nước ta không thiếu kinh nghiệm trong vấn đề “quản” . Ở Thăng Long ngàn năm văn vật đã có khu “Khâm Thiên” truyền thống, nay trở thành nhếch nhác. Tôi đề nghị đền bù giải tỏa toàn khu này để quy hoạch thành “khu đèn xanh mãi chức”! Lấy khu Khâm Thiên làm trung tâm hành chính quốc gia là phát huy truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc. Tất nhiên trong thời đại “thế giới phẳng” và nước ta đã hội nhập toàn diện Vê kép tê ô thì chúng ta cũng nên học hỏi kinh nghiệm thế giới.


PV: Thưa Tiến Sĩ , chẳng hạn như..?


TS LMV: Về mô hình quản tiên tiến thì tôi đề xuất chúng ta học tập mô hình quản lý, tiếp thị “khu đèn đỏ” ở Amsterdam, Hòa Lan!


PV: Nghĩa là ..


TS LMV: Nghĩa là trong khu đèn xanh quan chức chúng ta xây những khu mãi chức hiện đại, các cửa hàng đều có cửa kính, và các quan chức nữ cũng như nam, đứng ngồi sau tủ kính mà tiếp thị , khoe hàng, lộ hàng


PV: ..!? Lộ hàng ?..


TS LMV: Xin chị chớ hiểu lầm theo nghĩa không tốt. Lộ hàng ở đây có nghĩa là “công khai”, “trong sáng” .. Các quan chức lộ hàng theo kiểu: người thì là thạc sĩ, người tiến sĩ, người viện sĩ . Tất cả đều công khai .. đều .. lồ lộ, lộ tuốt tuồn tuột.. trước khách hàng là quần chúng nhân dân.


PV: Tuyệt vời công khai và trong sáng!


TS LMV: Quả thế. Thay vì thậm thụt mua bán chức quyền trong mờ ám, thì nay tối tối , sau một ngày lao động vất vả, nhân dân ta , cụ thể là giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức có thể tản bộ vào khu đèn xanh và được các quan chức tận tình tiếp thị..


PV: À tôi hiểu rồi.. Thật tuyệt vời chẳng hạn như : “anh ơi anh, em có bằng tiến sĩ đây nè.. đi không anh .. em chiều!”.


TS LMV: Đúng thế! Đây chính là mô hình dân chủ hàng triệu lần cao hơn dân chủ tư sản. Ta thường đòi hỏi “Cán bộ là đầy tớ của nhân dân”, mà quên là khái niệm “đầy tớ” nhuốm màu phong kiến và áp bức. Với mô hình mãi chức này, cán bộ trở thành gần gũi và thân thương đối với quần chúng lao động:


“Cán bộ là bồ nhí của nhân dân”


PV: Cám ơn Tiến Sĩ về buổi phỏng vấn đầy bổ ích ..


Tác giả gửi cho Quê choa


Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 14, 2013 20:09

” Thế lực thù địch”, đâu đây?

Khải Nguyên- Blog HNC


thelucthuditMấy lâu nay, các vị lãnh đạo đảng và nhà nước, mỗi lần huấn thị, thường hay nhắc nhở phải đề phòng “những thế lực thù địch”. Chớ vì nghe nhiều, quen quá mà nhàm. Cũng chớ vì nghe nhiều, quan tâm quá rồi đi đâu cũng “ra ngõ gặp …” như từng “ra ngõ gặp anh hùng” hoặc “ra ngõ gặp nhà thơ”.


Ngày trước, dân ta vẫn được dạy rằng: có hai loại kẻ thù của nhân dân: kẻ thù dân tộc và kẻ thù giai cấp.


* Kẻ thù giai cấp, hiểu một cách “thường dân”, là những kẻ nào chống chủ nghĩa xã hội, chống phe xã hội chủ nghĩa (một cách thông dụng hoặc giản đơn hoá, nói “cộng sản” là nói “chủ nghĩa xã hội” và ngược lại, mặc dù theo chủ thuyết thì chủ nghĩa cộng sản “cao” hơn chủ nghĩa xã hội); hay “chữ nghĩa” một chút thì là kẻ thù ý thức hệ..


Trước đây, có các thế lực tư bản-đế quốc chống chủ nghĩa xã hội, chống phe xã hội chủ nghĩa thật. -Bởi, họ sợ “bóng ma” (từ dùng của Mác và Ăngghen trong “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”) CS đã hiện hình thực sự. Do vậy, họ đã xúm lại định bóp chết nước Nga đỏ sau cách mạng tháng Mười ; không được thì bao vây (giá họ tiên đoán được viễn cảnh tự hoại của Liên xô!) -Bởi, như một lãnh tụ Liên xô xưa, nếu tôi không nhớ nhầm thì là Khơrutsôp, từng tuyên bố trước một nhà báo Mĩ rằng sẽ chôn vùi chủ nghĩa tư bản. -Bởi, người ta sợ “làn sóng đỏ”. Chẳng phải Mĩ giúp chính quyền Sài Gòn là để “ngăn ngừa cộng sản” đó sao? Chẳng phải đã có những nước không do đảng cộng sản hay đảng công nhân lãnh đạo vẫn trưng cái từ “xã hội chủ nghĩa” vào tên nước, hoặc tuyên bố theo chủ nghĩa Mac-Lênin đó sao? (Còn nhớ năm 1988, khi nghe tổng thống một nước châu Phi tuyên bố như thế, người viết bài này đã trả lời ông bạn đang cùng đi trên đường phố thủ đô nước nọ rằng: người ta dùng như một chiêu bài để lôi kéo dân chúng và để dễ bề độc tài).


Sau khi Liên xô và phe xã hội chủ nghĩa sụp đổ, năm 1990-91, để “cứu chủ nghĩa xã hội” ban lãnh đạo CHXHCN Việt Nam chủ trương liên kết với người “anh em cùng ý thức hệ”, do vậy đã nhân nhượng Trung cộng, và thậm chí, nghĩ là Bắc kinh sẽ vừa lòng, đề ra phương án bắt tay với bọn diệt chủng Khơme đỏ đang tàn lụi (theo hồi kí của cựu thứ trưởng ngoại giao Trần Quang Cơ). Đến đây, có mấy điều đáng ngẫm.


Một là, Bắc kinh có quan tâm đến bảo vệ chủ nghĩa xã hội, bảo vệ ý thức hệ CS không? Ngay từ 1954, ở Giơnevơ, một mặt, bất chấp quyền lợi của “người anh em đồng chí” VN, trưởng đoàn TQ Chu Ân Lai “đi đêm” với phái đoàn Pháp, mặt khác, tìm cách cầu thân với trưởng đoàn Mĩ (nhưng bị lờ đi). Cho đến cuộc đàn áp và tàn sát những người biểu tình, chủ yếu là sinh viên, ở quảng trường Thiên An môn năm 1989, đâu phải họ bảo vệ chủ nghĩa xã hội! Vì mục tiêu đấu tranh của cuộc biểu tình không phải chống chế độ XHCN mà đòi quyền dân sinh và chống tham nhũng. Họ thờ ơ với sự kiện chủ nghĩa xã hội bị xoá ở Liên xô và Đông Âu, mà có khi còn mừng vì không còn đối thủ “đại bá” nữa. Cái gọi là “chủ nghĩa xã hội kiểu Trung Quốc” đâu phải phấn đấu cho chủ nghĩa xã hội mà một trong những cái đích là cả xã hội ai ai cũng “làm theo năng lực, hưởng theo việc làm”! [Thực ra, chế độ chính trị, xã hội nào cũng có thể hướng tới lí tưởng này, dẫu khó đạt nhưng còn khả thi. Nó không ảo tưởng như nguyên tắc “làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”, -ảo tưởng đối với dân chúng thôi, còn với nhiều đại gia quan chức hay doanh nhân ở VN, ở TQ, … thì “làm (chưa chắc) theo năng lực, (nhưng vẫn) hưởng theo nhu cầu” đã là “hiện thực” lâu rồi!]. Cụm mĩ từ kia chẳng qua là cái chiêu bài che đậy những ý đồ, âm mưu, thủ đoạn, phương cách thống trị dân Trung Quốc và “bình thiên hạ” (vốn vẫn náu trong máu của chủ nghĩa bá quyền đại Hán xưa nay).


Hai là, sau “chiến tranh lạnh” (tức là sau khi không còn LX và phe XHCN), các thế lực tư bản-đế quốc chắc chẳng còn sợ “bóng ma” xã hội chủ nghĩa. Chẳng cần lo “truyền nhiễm”, chẳng cần lo “hiệu ứng đô-mi-nô”! Cái họ phòng chống ở bắc Triều Tiên “xã hội chủ nghĩa” cũng là cái họ phòng chống ở Iran “không phải xã hội chủ nghĩa”; cái họ lo ngại nước Trung Quốc CS “trỗi dậy” ngày nay cũng tựa như cái mà họ từng lo ngại nước Đức quốc xã “trỗi dậy” ngày xưa. Nếu lúc này, lúc khác họ nói đến dân chủ, nhân quyền,… thì chẳng quyết liệt như giọng điệu của “kẻ thù giai cấp”; cái quan tâm hàng đầu của họ những lúc này là quyền lực, quyền lợi, lợi nhuận. Giả dụ có “chuyện” thì cũng ít có khả năng là do đối đầu ý thức hệ.


Có một “thế lực thù địch” thực sự. Đó là những cá nhân hoặc tổ chức “chống cộng”. Mệnh danh vậy nhưng chắc là cái chính chẳng phải chống “chủ thuyết CS”, bởi vì chủ thuyết này ngày nay đã “hầu như là bóng ma lịch sử”. Họ chống chế độ và con người của chế độ mang danh CS, chống một cách dữ dằn. Họ nổi “hung” với bất kì cái gì, bất kì ai dính dáng đến “phía bên kia”. Hẳn cái chính là “phục hận”. Không bàn ở đây các chuyện “ra sao?”, “vì đâu?”, v.v… Chỉ biết rằng đây là một sự rất đáng tiếc khi người ta nói “khép lại quá khứ”, “hoà giải, hoà hợp dân tộc” để bảo vệ và xây dựng đất nước, vì vị thế và thể diện của người Việt Nam, cả của Việt kiều, trong cộng đồng nhân loại. Để không còn “thù địch” cần một số điều kiện và không ít thời gian, và nhất là thiện chí của cả hai phía, trong đó chủ động hơn phải là phía có thế hơn, có vai trò lịch sử hơn.


Trường hợp vừa nói trên khác với các trường hợp sau.


Có những người chẳng quan tâm mấy đến chế dộ chính trị hay chủ thuyết này nọ; họ chỉ quan tâm đến hiệu quả điều hành và quản lí đất nước, đến tình cảnh, số phận người dân, … Giả sử họ bầy tỏ sự không hài lòng, kể cả bất bình; họ góp ý, đề nghị, yêu cầu sửa sai, cải tiến, thay đổi, … , kể cả đòi công lí, đòi xử trí, thậm chí đòi “đuổi” (chữ dùng của cụ Hồ) những bọn mọt dân, hại nước, đòi trừng trị chúng thì có là “thế lực thù địch” không? Nếu qui kết như vậy thì ngay cả ở những nước tiên tiến nhà cầm quyền cũng thường xuyên chạm mặt với những thế lực thù địch!


Có một câu hỏi dường như “nhạy cảm”, nếu không là cấm kị: “Đối lập có được không? có là thù địch không?”. Song le, không thể tránh né mãi, một khi nó tồn tại.


Có những quan tâm “thể tất” hơn. Thừa nhận xưa kia, để cứu nước, nhiều người đã tìm đến chủ nghĩa cộng sản, và đảng Cộng sản từng có công tích nhất định với đất nước. Nhưng ngày nay rõ ràng có những cái bất cập tệ hại. Tình hình có khá lên từ khi sửa sai bắt đầu từ cuối những năm 80 thế kỉ trước (“đổi mới” chẳng qua là sửa sai), nhưng chính nhiều vị lãnh đạo cũng thấy vẫn là tụt hậu hầu như mọi mặt dù chỉ mới so với một số nước trong khu vực, trong khi quốc nạn tham nhũng và những tệ lậu khác vẫn là những trở ngại khó khắc phục. Nhiều ngườì, không loại trừ đảng viên cộng sản trong đó, mong muốn đảng tự “đổi mới”, chỉnh đốn thực sự một cách “cách mạng” như đảng từng chỉ ra mỗi khi phê phán phương cách “cải lương” (Ở mức độ như dùng công cụ “tự phê và phê” thì e rằng chỉ là “nói” thôi! Quyết liệt đến như tự phê bình và phê bình trong chỉnh huấn đầu những năm 1950 mà kết quả còn rất hạn chế nữa là! –mà phẩm chất những người CS buổi ấy khác ngày nay, và đảng cần “lòng dân” hơn ngày nay!) và quyết tâm thực thi nền pháp trị. + Để cho sự lãnh đạo của đảng không phải gò ép ghi vào hiến pháp, như hồi Cách mạng, Kháng chiến; và có thể tiến tới hợp theo xu thế tất yếu lịch sử và thời đại! + Hoặc là để dọn đường cho một cuộc chuyển giao, chuyển tiếp suôn sẻ, tốt đẹp vào lúc thích hợp, vào lúc tự đảng cũng thấy hợp thời hợp thế, vì lợi ích của đất nước của dân tộc, như các lãnh tụ của đảng đã nhiều lần tuyên bố “đảng không có lợi ích nào khác” [Chẳng một ai muốn nước nhà phải trải qua tình cảnh như nước Nga bị bọn cơ hội trong chính giới và doanh giới xâu xé thời Enxin! Mà muốn như nước Nhật thời thiên hoàng Minh Trị khi Mạc phủ tự nguyện chuyển giao quyền lực đúng lúc (tất nhiên thay vì thiên hoàng là nhân dân). –Không muốn đề cập đến nước Mianma hiện tại vì chưa biết diễn biến rồi ra có như người dân nước họ mong đợi]. Như thế, có bị gán cho là “thế lực thù dịch” không?


* Về kẻ thù dân tộc, nay khó nhận dạng hơn xưa chăng? Thời thế mới, khó có chuyện đưa quân và quan lại vào cai trị, ngang nhiên đô hộ nước khác. Chủ nghĩa thực dân cũ đã hết thời. Chủ nghĩa thực dân mới còn không? Ngày nay tại nhiều nước, nhất là ở châu Phi, có tình trạng bị nước ngoài vơ vét tài nguyên, đưa người vào tranh công ăn việc làm, kể cả cấy người vào lập những “tô giới” kiểu mới, nắm yết hầu kinh tế, thao túng giới cầm quyền, “ươm” bọn tay sai, … Người ta nói các nước này sa vào chủ nghĩa thực dân mới kiểu Trung Quốc (không chỉ ở châu Phi đâu nhé!).


Ở ta, “quyền lực mềm” và “quyền lực chẳng mềm” của Bắc kinh dường như tác động đến mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, gần như hàng ngày, có khi hàng giờ. Chúng còn chiếm đoạt và âm mưu chiếm đoạt đất đai, tài nguyên, vùng biển, … nước ta. Người dân thấy rõ đây đúng là thế lực thù địch trước mắt và lâu dài chưa biết khi nào mới giải toả được. Chẳng biết các vị đang đảm đương trách nhiệm với dân, với nước có chia sẻ mối lo kia không? Có cho rằng nghĩ như thế là đã thành “thế lực thù địch” rồi không?


Nếu đất nước (lãnh thổ, lãnh hải, bao gồm cả tài nguyên) bị gậm mòn, dân tộc bị lệ thuộc, -dưới bất cứ dạng nguỵ trang “ngon ngọt” nào, thì “thế lực thù địch” thực sự là đâu?


* Để cho lòng dân li tán, xã hội vô cảm thì “thế lực thù địch” đâu đây?!


“Run tay” viết mấy dòng chân tình này, hi vọng không bị liệt vào hàng thế lực thù địch.


21 – 01 – 2013






 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 14, 2013 18:51

Ai bảo đó là không công bằng?

Kim Thanh- BVN


imagesTiếp sau vụ xử án sơ thẩm ông Đoàn Văn Vươn và những người thân trong gia đìnhvề tội: “giết người, chống người thi hành công vụ”, để đảm bảo công bằng xã hội, mọi người bình đẳng trước pháp luật, quyết không bao che cho ai, cho dù những người đó có công lao to lớn với dân, với nước đến thế nào đi nữa, từ các ông quan xã cai trị hàng nghìn dân đến các ông quan huyện chăn dắt hàng vạn người ở huyện Tiên Lãng;


Ngày 18/4/2013 Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng lại tiếp tục mở phiên toà sơ thẩm vụ “huỷ hoại tài sản gây hậu quả nghiêm trọng” với 5 bị can là hai cán bộ xã và 3 cán bộ huyện, trong đó có Chủ tịch và Phó chủ tịch huyện Tiên Lãng.


Trừ bị can Nguyễn Văn Khanh – Phó chủ tịch UBND huyện bị phạt 30 tháng tù giam, số còn lại đều bị hưởng mức án từ 15 đến 24 tháng tù treo.


Đây là bản án khá nghiêm khắc, quan phải xử nặng mà TAND thành phố Hải Phòng dành cho các vị đày tớ “trung thành” của dân. Tất cả họ đều là những người có “cái tâm” trong sáng, không vì động cơ cá nhân, phe nhóm. Việc làm của họ chỉ nhằm đánh trả bọn “giết người và chống người thi hành công vụ”. Họ buộc phải hành động là nhằm bảo vệ “tính mạng”, “tài sản” của dân, đem lại công bằng cho xã hội. Giáo dục và răn đe những kẻ coi thường “đạo lý”, bất chấp kỷ cương phép nước.



Theo đồng chí Đỗ Trung Thoại – Phó chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng thì lực lượng cưỡng chế không ai ra lệnh san phẳng nhà kẻ giết người mà do nhân dân bất bình nên vào phá. Còn theo ông Đỗ Hữu Ca – Giám đốc Sở Công an thì đây chỉ là một cái chòi và việc cưỡng chế này được sự đồng tình rất cao của người dân trong khu vực. Hàng trăm người chứng kiến sự việc đều rất ủng hộ lực lượng công an”.


Thế mà họ không những không được tuyên dương mà vẫn phải chịu mức án từ 15 đến 24 tháng tù treo, làm bài học nhớ đời cho những kẻ coi thường dân của các vị đầy tớ.


Việc xử lý hàng loạt cán bộ, có “năng lực”, có “phẩm chất”, được nhân dân “tin yêu”, “mến phục” làm cho người dân Tiên lãng – Hải phòng nói riêng và đồng bào cả nước nói chung “xót xa, đau đớn”.


Các Cụ ta thường dạy “Một người lo bằng một kho người làm”. Kiếm được những cán bộ biết lo cho dân như ở Vinh Quang, ở Tiên Lãng như vậy đâu có dễ? Thế mà một lúc 5 cán bộ có chức có quyền đem ra xét xử liền một nhát thì lấy đâu người ra làm việc cho dân, cho nước? Thật đau xót biết bao!


Việc phải xử nặng đối với cán bộ còn cho mọi người thấy một sự thật, là pháp luật của ta không dung thứ, bao che cho kẻ làm sai, mà còn cho các thế lực thù địch, bọn diễn biến hoà bình, bọn suy thoái về tư tưởng, về lối sống, không thể dựa vào đó để vu khống, nói xấu nền tư pháp “ưu việt” của chúng ta.


Vấn đề không phải là tù giam hay tù án treo, mà quan trọng và rất quan trọng với các đồng chí đó là “uy tín” và “danh dự”. Sức khoẻ còn dồi dào, lại đang ở độ chín của tuổi ngoài ngũ niên, còn có thể làm việc dài dài cho cách mạng. Một ngày phục vụ nhân dân của một người như đồng chí Lê Văn Hiền – Chủ tịch UBND huyện cũng ra vàng, ra bạc, huống hồ một tháng, một năm và nhẽ ra đồng chí còn có thể phục vụ tới 4 năm nữa, quả là một thiệt thòi không nhỏ. Cho dù các đồng chí đã kiểm điểm sâu sắc và nghiêm túc, nhận rõ sai lầm, thiếu sót, mà nhẽ ra toà nên tuyên án tha bổng thì vẫn phải nhận một bản án “nghiêm khắc”.


Đoàn Văn Vươn với tội danh “giết người, chống người thi hành công vụ”, nếu xử đúng tội mức án phải từ 12 năm đến chung thân. Trọng tội mà toà chỉ tuyên phạt có 5 năm tù giam, dưới khung hình phạt truy tố. Nếu không có sự “khoan hồng”, “độ lượng” của quý toà thì anh em ông Vươn bét ra cũng phải ngồi bóc lịch ít nhất 7 năm nữa. Có thể nói trên thế giới này không  có nước nào lại xử tội “giết người, chống người thi hành công vụ” với mức án 5 năm. Ở các nước tư bản giãy chết, nằm mơ cũng không có. Chỉ ở những nước dân chủ gấp triệu lần như ta, với nền tư pháp văn minh, tiến bộ, vì con người, mới có thể làm được như vậy. Nếu không có sự “khoan dung”, đầy tính “nhân văn”, “cao cả” thì làm sao có chuyện đó? Làm sao mà được mọi người “tâm phục”, “khẩu phục”, được nhân dân “đồng tình”, “ủng hộ” mà các đồng chí VTV1 đài truyền hình Việt Nam đã đưa tin. Dân xử nhẹ, quan xử nặng, vì quan trí có trình độ cao hơn và trách nhiệm lớn hơn.


Ai dám bảo hai phiên toà đó là không công bằng?


Thế mới biết toà án nhân dân thành phố Hải phòng thật “nghiêm minh” và “ sâu sắc”. Họ xứng đáng là những quan toà “ưu tú” và “xuất sắc”, mà nếu ai bảo rằng phải quăng họ vào sọt rác thì chẳng “thiệt thòi” và “đáng tiếc” lắm sao?


K.T.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 14, 2013 17:03

Nguyễn Quang Lập's Blog

Nguyễn Quang Lập
Nguyễn Quang Lập isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Quang Lập's blog with rss.