Nguyễn Quang Lập's Blog, page 34

April 22, 2013

Nhân dân đứng ngoài chính trị?

 Nhà văn Thùy Linh


imagesLời bình của blogger Đoàn Nam Sinh: NPT và cả số đại diện hơn hai chục bộ ngành trong hội nghị ấy chắc chưa học định nghĩa chính trị là gì của cụ Tôn Trung Sơn: “Chính giả nhân dân đích sự, trị thị quản lý. Quản lý nhân dân đích sự, khiếu tắc chính trị.- Chính là công việc của nhân dân, trị là quản lý. Quản lý công việc của nhân dân, tức là chính trị.”


Khiếu kiện mà không phải là việc của họ- nhân dân- thì họ khiếu kiện làm gì ? Họ khiếu kiện ai- những nhà quản lý, lãnh đạo việc liên quan đến họ. Họ kiện lên ai ? – Những cấp trên liên quan cao nhất vừa chịu trách nhiệm với cả bộ máy và với toàn dân. Đòi cưỡng chế họ vì có “màu sắc” chính trị thì thể hiện rõ tính chất của bộ máy này: vừa vi hiến, vừa vô học lại phi nhân tính.


Bài viết của Thùy Linh:


Phải khẳng định điều này: tất cả các cuộc khiếu kiện đất đai trên cả nước nhiều năm nay, không có cuộc khiếu kiện nào, dù nhỏ lẻ một cá nhân lại không có màu sắc chính trị. Hiểu cách đơn giản nhất là khi quyền lợi của họ bị xâm phạm, họ có quyền lên tiếng, đòi hỏi, thậm chí là chống lại những bất công áp đặt của người khác (chính quyền) lên quyền lợi đó.


 Gia đình là tế bào xã hội – tổ chức chính trị đầu tiên.


Ai cũng nằm lòng khi phải học triết học Marx câu nói trên. Đơn vị nhỏ nhất (về mặt tổ chức) trong xã hội chính là gia đình. Nhiều gia đình thành làng, xã, tỉnh, thành, quốc gia. Nhà nước lập ra để điều hành các tế bào đó hoạt động không hỗn loạn và công bằng. Một cách tự nhiên, con người sinh ra, khi hít hơi thở đầu tiên là mặc nhiên được xâm nhập vào hệ thống vận hành của xã hội, chính thức tham gia vào tổ chức chính trị nơi họ làm người. Bởi thế, triết gia Arisotle khẳng định, con người theo bản năng tự nhiên đã có tính chính trị rồi.


 Chính trị theo nghĩa rộng hơn là hoạt động của con người nhằm làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung mà những luật lệ này tác động trực tiếp lên cuộc sống của những người góp phần làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung đó. Khi luật lệ chung này có vấn đề thì đương nhiên sẽ có bộ phận dân chúng phản ứng với sự sai khác này. Hành động của họ, đương nhiên, là hành động chính trị.


 “Ai thắng ai”?


 Nếu chính quyền hiện tại ở Việt Nam coi chính trị chỉ là những hoạt động xoay quanh vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước theo lý luận của chủ nghĩa Marx, thì đương nhiên cuộc đấu tranh của người dân hiện nay đang đe dọa sự tồn vong của chính thể đương thời. Và cuộc đấu tranh của những người dân mất đất, mất không gian sống, lao động với những người có quyền tịch thu, cưỡng chế, định đoạt mảnh đất của họ là cuộc đấu tranh giai cấp. Kẻ đi cưỡng đoạt hầu hết xuất thân từ giai cấp cùng khổ, như nông dân bây giờ, nhưng nhờ đặc quyền, họ đã trở thành giai cấp đối lập với người dân – giai cấp mới, tư bản đỏ.


 “Màu sắc chính trị” của các đoàn khiếu kiện đất đai mà ông Tổng thanh tra chính phủ đề nghị cưỡng chế thể hiện mâu thuẫn sâu sắc cuộc chiến “ai thắng ai” – một biến tướng của cuộc cách mạng vô sản lúc thoái trào.


 Trong cuộc chiến “ai thắng ai” về thực chất vẫn là cuộc đấu tranh giai cấp: giai cấp vô sản bị bần cùng hóa, với giai cấp hữu sản nảy sinh trong công cuộc xây dựng CNXH. Mục tiêu xóa bỏ bóc lột đến giờ đã có thể khẳng định không thể thực hiện được mà càng làm trầm trọng hơn sự cách biệt này. Nhưng nhiều tinh hoa, trí tuệ của giai cấp bóc lột xưa không được thể hiện trong giai cấp mới này. Vì vậy, sử dụng mọi lợi thế mà giai cấp mới có được nhờ quyền lực là phương cách để họ sử lý những vấn đề có “màu sắc chính trị” kể cả bằng bạo lực (cưỡng chế) như ông tổng thanh tra dã tuyên bố.


 Vậy là cuộc chiến “ai thắng ai” vẫn đang còn tiếp diễn ở mức độ cao hơn, tàn khốc hơn khi nó nhằm vào chính nhân dân mình.


 Nền chính trị nào cho nhân dân?


 Trong cuộc chiến tranh giành độc lập, nền chính trị tuyên truyền sử dụng hết công xuất để huy động mọi nguồn lực xã hội cho các cuộc chiến đấu. Và khi hoà bình, vẫn nền chính trị đó, hướng mũi nhọn vào sự đối lập hình thành trong xã hội để bảo toàn quyền lực.


 Đến giờ phiên tòa xét xử những tên côn đồ dùng vũ khí tấn công người dân Văn Giang vẫn chưa kết thúc. Ai cũng tin rằng, những kẻ lưu manh đó không có quan hệ kinh tế hay quyền lợi liên quan nào đến mảnh đất người dân Văn Giang cố gìn giữ bằng cả máu của mình. Vậy tại sao chúng lại ngang nhiên hành xử độc ác như vậy với dân Văn Giang? Ai đứng đằng sau chúng? Ai cho phép chúng hành động trắng trợ như vậy? Câu hỏi này chính quyền không muốn trả lời.


 Ngay như hôm qua, 21/4, tại Tiên Lãng (Hải Phòng), nơi vụ án Đoàn Văn Vươn còn chưa chìm tiếng, thì ở xã Đại Thắng lại xảy ra việc Công ty cổ phần Hoa Thành thuê hàng trăm côn đồ đánh dân trong khi cưỡng chế đất, làm 6 người bị thương phải đi viện. Hệ thống chính trị tại địa phương dường như tê liệt trước những vụ việc này.


 Nếu “tính sổ” các vụ mà những người bất đồng chính kiến bị khủng bố dưới mọi hình thức như ép chủ nhà cắt hợp đồng thuê nhà; đuổi họ ra đường; đuổi việc; ném rắn vào nhà; đổ phân, nước thải lên tường, mà điển hình là số phận của bốn bố con ông Hoàng Ngọc Tuấn (ở Tam Kỳ); đón đầu đánh đập trên đường như vụ anh Nguyễn Chí Đức gần đây,…thì nhiều không kể xiết. Những hành vị bạo lực đó chưa có ai đứng ra nhận trách nhiệm? Cũng chưa có một cơ quan nhà nước nào điều tra, lên án, bảo vệ an ninh cho công dân. Người dân bỗng dưng như bị đẩy ra khỏi hệ thống chính trị mà theo lẽ tự nhiên, họ đã tham gia vào từ khi lọt lòng.


 Những vụ việc như kể trên có mang “màu sắc chính trị” không, thưa ông Huỳnh Ngọc Tranh? Và là nền chính trị nào, phục vụ ai?


 Khi ông Tranh tuyên bố, chính quyền sẽ cưỡng chế các vụ khiếu kiện có “màu sắc chính trị”, thì khác gì đẩy người dân ra khỏi hệ thống chính trị đất nước? Không lẽ chính trị là đặc quyền của các chính khách, những người có quyền lực?


 Ta có thể hình dung, cảm nhận đau đớn tiếng kêu vô vọng của người dân tuyệt vọng đến mức nào và còn “siêu tuyệt vọng” tới đâu…Bởi không biết từ bao giờ, vì lẽ gì dân chúng đã bị “đẩy” ra ngoài đời sống chính trị của đất nước nơi họ đang sống – một đất nước họ đổ nhiều xương máu để dựng lên một chính thể phủ nhận quyền được sống của họ? Nói như Aristotle thì “chỉ con người mới có được ý thức về thiện và ác, về công bằng và bất công”. Không lẽ ý thức thiên phú này trở thành “màu sắc chính trị” trong mắt chính quyền với động cơ xấu?


 Vẫn triết gia thời cổ đại viết: “Nếu có kẻ nào vì bản tính tự nhiên, chứ không vì tai nạn ngẫu nhiên nào đó, mà chọn sống ở ngoài cộng đồng chính trị, thì kẻ đó hoặc là chẳng ra gì, hoặc là một siêu nhân hơn người”. Thế nên dù mất mát, đau khổ, vô vọng thì người dân vẫn neo buộc vào hệ thống chính trị hiện nay vận hành theo nguyên tắc đặc quyền đặc lợi của những kẻ có quyền lực và tiền lực.


 Và, những cuộc khiếu kiện mang “màu sắc chính trị sẽ ngày càng nhiều. Cho dù họ đang bị đe dọa: sẽ bị cưỡng chế, thu thập chứng cứ để xử lý…cũng theo ông Tổng thanh tra chính phủ đã chỉ đạo.


 Và, không thể khác được, trong hệ thống chính trị ấy sẽ sản sinh ra những hành động được gọi là “màu sắc chính trị” của nhân dân vận hành theo cách dân gian để chống lại nền chính trị đã bị giai cấp hóa, bạo lực hóa, đồng tiền hóa, thậm chí lưu manh hóa…Đó là nền chính trị toàn dân thức tỉnh.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 22, 2013 04:22

Đất nước những tháng năm thật buồn

Nguyễn Khoa Điềm


images640364_Nha_tho_Nguyen_Khoa_Diem_Toi_song_cung_nguoi__chet_vi_nguoi_phunutoday.vn_1NQL: Mình vừa nhận được thơ bác NKĐ gửi cho, tác giả của những vần thơ về Đất nước cháy bỏng năm xưa lại ngậm ngùi nghĩ về Đất nước hôm nay. Đọc bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn” của bác Điềm, mình bất chợt nhớ đôi câu thơ của bác: Ta đã đi qua những năm tháng không ngờ/ vô tư quá để bây giờ xao xuyến... tự nhiên thấy cay cay đầu sống mũi.


Đất nước những năm thật buồn


Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt


Lần mò trên trang mạng tìm một tin lành


Như kẻ khát nước qua sa mạc


Chung quanh yên ắng cả


Ngoài đường nhựa vắng tiếng xe lại qua


Người giàu, người nghèo đều ngủ


Cả bầy ve vừa lột xác


 


Sao mình thức ?


Sao mình mải mê đeo đuổi một ngày mai tốt lành ?


 


Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội


Có còn bay trong đêm


Sớm mai còn giữ được màu đỏ ?


Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng


Mong gặp một con cá hanh khác ?


Bao giờ buổi sáng, buổi chiều nhìn ra đường


Thấy mọi người nhẹ nhàng, vui tươi


Ấm áp ly cà phê sớm


Các bà các cô khỏe mạnh yêu đời


Hớn hở tập thể dục


Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má


Không phải gạt vội vì xấu hổ


Ngước mắt, tin yêu mọi người


 


Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta


Trong không gian đầy sợ hãi ?


Những cây thông trên núi Ngự Bình thấp thoáng ngọn nến xanh


Đời đời an ủi


Cho người đã khuất và người sống hôm nay …


 22.4.2013



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 22, 2013 02:00

April 21, 2013

Văn Giang và chuyện làm báo thời “có định hướng”

Đoan Trang


 Những bức ảnh chân thực nhất về vụ cưỡng chế ở Văn Giang có xuất hiện đầu tiên trên báo chí không? Không, hoàn toàn là từ mạng xã hội và blog. Vì sao thế hả Ban Tuyên giáo?

Những bức ảnh chân thực nhất về vụ cưỡng chế ở Văn Giang có xuất hiện đầu tiên trên báo chí không? Không, hoàn toàn là từ mạng xã hội và blog. Vì sao thế hả Ban Tuyên giáo?


Mô típ “chúng ta nói gì với con cháu chúng ta” hẳn là đã được sử dụng nhiều trong văn học, sách báo, phim ảnh. Như nhà văn Phan Tứ (1930-1995) viết trong tiểu thuyết nổi tiếng “Mẫn và tôi” về tình yêu thời chiến tranh: “Bầy cháu nội ngoại sẽ nghe tôi kể: “Ông gặp bà giữa hồi núi sụp rầm rầm, nước dâng như chưa hề ghi trong sử sách…”. Chúng cười khì, tưởng tôi mượn chuyện thời vua Hùng. (…) Đành vậy, lớn lên chúng sẽ biết, sẽ nhớ. Tôi phải giúp chúng nhớ. Đừng để những bông hoa mai sau tự rứt mình ra khỏi cây vì không muốn dính dáng với bầy rễ cắm vào bùn”. 


Phải không em, Mẫn, dù anh đi khắp chân trời góc biển, mỗi lần ra trận chúng mình lại gặp nhau; có phải lúc này em đang quấn quít bên anh, em gần đến nỗi anh chỉ đẩy ngón tay đặt nên tim là nghe ngay tiếng người thương rủ rỉ trong tai, kể rằng quê ta thắng Mỹ rất ngon, và hai đứa mình là bông bạc vẫy hai ngón giữa dòng?”. 


Nghe nhà văn viết những dòng thủ thỉ, thấy tình yêu của hai nhân vật chính – Mẫn và Thiêm – sao mà đẹp đến lý tưởng. Đúng là cuốn tiểu thuyết “một thời khuấy động hàng triệu con tim” thanh niên miền Bắc, cũng chẳng khác gì “những nhạc phẩm lừng danh của Trịnh Công Sơn”, “đầy phẫn nộ, khát khao cho một niềm hy vọng chung của cả dân tộc”… (*) 


Lũ nhà báo bây giờ sau này kể lại cho con cháu nghe chuyện làm báo của mình thời nay, sợ rằng không được đẹp, oai hùng như thế. Nó thảm hại hơn nhiều, lố bịch hơn nhiều, hèn nhát hơn nhiều… 


* * * 

Nó là câu chuyện của những nhà báo hễ xuất hiện ở điểm nóng nào là chỉ đi cùng “lực lượng chức năng”, áo nhiều túi, máy ảnh trước ngực, vẻ mặt nghiêm trọng. Cũng là câu chuyện của những phóng viên về Văn Giang lúc xế chiều để chứng kiến một cánh đồng tung tóe, cây cối đổ nát nghiêng ngửa. Dân quê thấy người lạ vào, chẳng ai buồn ngẩng lên, vẫn cắm cúi đào bới, nhặt nhạnh, xúc, đổ đất… Nhưng đến khi thấy “người lạ” lúi húi lấy máy ghi âm, sổ và bút ra, thì họ vây lấy, thẫn thờ: “Sao đến giờ nhà báo mới về? Mất rồi. Mất hết rồi!”. 


Rồi họ nhất định kéo nhà báo vào nhà, để họ pha trà, mời nước, và nghe họ kể lể chuyện “mất hết rồi”. Hàng xóm lục tục kéo đến, người nào cũng phải xán lại, nhìn, chạm tay vào áo khách một cái, khẩn khoản: “Nếu nhà báo giúp được chúng tôi đòi lại được đất, thì chúng tôi mang ơn nhà báo suốt đời”. Màn đêm buông xuống, trai tráng trong làng rầm rập đưa xe máy hộ tống nhà báo về. Người dân nông thôn bao giờ cũng vậy, họ có thể khôn ngoan hay thực dụng, nhưng vẫn có cái hồn hậu chất phác – nên không để ý thấy nhà báo đang cúi gằm mặt, lủi thủi rời khỏi hiện trường. 


Và từ ấy, ngày nào họ cũng ngong ngóng ra bưu điện huyện, chờ xem có báo nào đưa tin, viết bài “về xã mình” không. Những mảnh báo hiếm hoi nhắc đến vụ việc của làng họ được photocopy ra hàng chục bản, và truyền tay nhau nhiều quá, đã nát ra rồi…


* * * 


Họ không nhìn thấy cảnh nhà báo phóng xe máy rời làng, đầu cúi gằm. Họ cũng không biết đến chuyện, có những lần, nhà báo về làng khi trời vẫn còn chưa tối. Trên đường đi, dưới ánh hoàng hôn, cây lá trong vùng vẫn xanh biếc như thế, triền đê vẫn mườn mượt cỏ, gió vẫn lồng lộng, và nhà báo dở hơi bỗng nghĩ tới lời thề của danh tướng Trần Quốc Tuấn thời xưa: “Trận này không phá xong giặc Nguyên, quyết không về bến sông này nữa”. Thì chúng cháu cũng vậy, Cụ ạ! Chúng cháu cũng muốn đứng trên đê, nhìn xuống cánh đồng xanh mượt mà thề: “Chuyến này không đăng được bài, quyết không về chốn này nữa”. Nhưng nói vậy thôi, chúng cháu sao dám gở miệng như thế – vì chúng cháu hiểu, sẽ còn nhiều, rất nhiều những vụ cưỡng chế đất đai, những bạo lực, đổ máu, hận thù, bất mãn… mà nếu còn nghĩ tới chuyện làm báo thì còn phải chứng kiến, và viết. Không ở đây thì cũng ở nơi khác mà thôi. 


Những người dân quê chất phác. Họ chẳng biết gì tới sự căng thẳng của ban biên tập, nỗi dằn vặt của phóng viên. Họ cũng chẳng biết đến Internet, cùng những cuộc cãi vã xô xát trên đó, bảo rằng họ tham lam, đã nhận tiền rồi nay thấy ít nên lại đòi tăng, rằng họ bất mãn nên bị bọn phản động lợi dụng, rằng cưỡng chế đất đai là việc không thể tránh khỏi trên con đường phát triển của Việt Nam (chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, tóm lại là “công nghiệp hóa, hiện đại hóa”). 


Họ càng không biết tới Hiến pháp, tới bài toán phát triển kinh tế của đất nước – toàn những thứ vĩ mô đến thế. Họ chỉ biết vào cái buổi sáng hôm ấy, hàng chục xe cam nhông, xe tải chở lính, đã “bò như cua” vào thôn làng họ, và họ bị xô đẩy, dồn ra ngoài cái mảnh đất cho đến rạng sáng vẫn còn là của họ trong tiếng loa oang oang nhắc nhở: “Không phận sự miễn vào”. Không chống lại được thì họ cự lại, phản ứng, họ chửi, khóc, ngồi bệt, rồi lăn cả ra đấy, uất ức như những đứa trẻ bị cướp đồ ăn. 


Lúc ấy, ai còn dám lý luận với họ về những vấn đề cao siêu, ví dụ, về sự cần thiết phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất? 


Nhưng nếu đặt câu hỏi ngược lại, rằng giả sử cuộc cưỡng chế diễn ra căng thẳng và khốc liệt, rồi một nhân viên công vụ bị đánh trọng thương, máu me be bét, lực lượng cưỡng chế buộc phải rút lui trong thất bại, thì có ai vui mừng hả hê với chiến thắng của “phe nhân dân” không? Câu trả lời, với những người làm báo nghiêm túc, sẽ là không. Đơn giản bởi vì người ta ai cũng xương cũng thịt. Ai cũng là tinh cha huyết mẹ mà thành. 


Báo chí không thể ủng hộ, cổ vũ bạo lực dưới bất kỳ hình thức nào. Một điều mà các nhân viên an ninh ít chữ rất hay muốn làm rõ là “Anh/chị viết bài vì động cơ gì?”. Họ không hiểu rằng với nhà báo, sự thật là tối thượng, và nếu có thể gọi đấy là “động cơ”, thì nhà báo chỉ có động cơ duy nhất là phản ánh sự thật. Đôi khi, một nhà báo viết hết, phản ánh hết – đúng 100% – những gì một bên đưa ra (ý kiến, bằng chứng…), mà vẫn là không chấp nhận được. Bởi vì như vậy là không đủ khách quan, công bằng: Mọi bên đều phải có cơ hội thể hiện quan điểm như nhau. 


Nếu dân sai thì ngay cả có bị dí súng vào đầu bắt viết “vu vạ” cho công an, người làm báo cũng không viết. (Ở đây, phải giới hạn là không phải tất cả các nhà báo đều như nhau, ngoài ra, nhiều khi họ không viết xấu về chính quyền không phải vì tôn trọng sự thật khách quan, mà là vì không đủ bằng chứng, hoặc vì sợ bị trừng trị). Ngược lại, nếu chính quyền sai thì dù có cố đến đâu cũng khó lòng bênh nổi. 


Ai đó đã nói về “chiến dịch” đưa tin của báo chí trong và sau các vụ Tiên Lãng, Văn Giang như sau: “Một cuộc vật lộn để được nói sự thật”. Thực tế còn hơn thế nữa: Một cuộc vật lộn để được biết sự thật, để được viết sự thật, và để được khách quan (tất nhiên cũng chỉ dám mong ở mức độ tương đối). Thế mà, cho đến giờ, cái đích ấy vẫn chưa đạt được. 


* * * 


Chuyện đất đai và “tam nông” ở Việt Nam năm 2012 được đánh dấu bằng hai vụ cưỡng chế điển hình tai tiếng: Tiên Lãng và Văn Giang.


37 năm sau ngày thống nhất đất nước. Hơn nửa thế kỷ sau cải cách ruộng đất. 67 năm sau ngày thành lập nước. Sáu thế kỷ sau thời kỳ tích lũy tư bản nguyên thủy ở phương Tây. Bước vào thời đại toàn cầu hóa, hội nhập, ở Việt Nam, vẫn còn diễn ra những cuộc cưỡng chế đất đai nhốn nháo, tiếng la hét chửi bới của dân lẫn trong khói hơi cay và tiếng oàng oàng chói tai của “quả nổ nghiệp vụ”. 


Tệ hơn nữa là chuyện ấy lại diễn ra cùng với đây đó những mệnh lệnh (miệng) yêu cầu báo chí “hạn chế đưa tin”, và những cuộc tranh cãi ầm ĩ, đầy ngụy biện, trên mạng, về quan tham, dân gian và bọn báo chí lề phải, blogger lề trái ngu dốt, phản động. 


“Các bạn trẻ ạ, ngày xưa chúng tôi làm báo thế đấy”. 


…………………………………….

(*) Lời giới thiệu album “Sơn Ca 7″ của Khánh Ly – Trịnh Công Sơn



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 21, 2013 20:34

Từ “không cấm” đến “cho phép”

Bút Lông-FB


vpCó một phát biểu của bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến tại Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội cuối tuần trước khiến dư luận bàn tán mãi, là bà khẳng định chưa bao giờ “cho phép” nhân viên y tế nhận phong bì (sau khi điều trị) cả!


 Quả thật thì chưa bao giờ bộ trưởng phát biểu hoặc ban hành văn bản CHO PHÉP việc này. Thực tế là tại hội nghị triển khai quyết định của Thủ tướng về đề án giảm quá tải bệnh viện tổ chức tại TP.HCM ngày 25-3 vừa qua, bà tỏ thái độ rất nghiêm khắc với “phong bì bệnh viện” với việc ủng hộ chuyện các bệnh viện yêu cầu người nhà bệnh nhân ký cam kết không đưa quà biếu. Lãnh đạo Bộ cũng ủng hộ việc công đoàn ngành phát động chiến dịch “nói không với phong bì” bằng các giải pháp từ “mềm” như vận động, tuyên truyền đến “cứng” như lập biên bản, nhắc nhở những trường hợp đưa quà biếu bị phát hiện. Riêng tại bệnh viện trực thuộc Trung ương, bác sĩ, điều dưỡng nếu nhận quà trước và trong quá trình điều trị sẽ buộc thôi việc ngay lập tức nếu camera quay được…


 Tuy nhiên cũng một phát biểu của bộ trưởng ở hội nghị này được hàng loạt tờ báo tường thuật lại là ý kiến không cấm bác sĩ nhận quà sau điều trị, mà quan điểm của bộ trưởng là: “Theo văn hóa Việt Nam, việc đưa quà biếu sau điều trị đó là tấm lòng của người bệnh”! Từ bấy đến nay, không tờ báo nào cải chính thông tin nói trên…


 Có lẽ từ ý kiến này dư luận mới râm ran, dẫn tới việc ĐBQH chất vấn bộ trưởng ở Ủy ban các vấn đề xã hội và bộ trưởng đã khẳng định như trên…


 Ai cũng biết “phong bì bệnh viện” là câu chuyện vô cùng nhạy cảm, tế nhị bởi nó có thể là một tội phạm hình sự nhưng nó lại có thể là nét đẹp của văn hóa Á đông. Chính vì cái sự lẫn lộn này nên có muốn phát ngôn hay thực thi các giải pháp quyết liệt thì cũng là chuyện vô cùng khó. Còn nhớ khi triển khai dự án về phòng chống tham nhũng ở Bệnh viện Nhi trung ương, vị tân giám đốc hiện nay có lần hỏi nhân viên dưới quyền rằng nếu ban giám đốc trả lương 50 triệu đồng/tháng với điều kiện các vị không… nhận phong bì thì chẳng có cánh tay nào giơ lên! Trong khi ấy lương theo bậc, hàm của nhân viên y tế ở đây không phải là cao!


 Vì thế chuyện “nói không với phong bì” trong y tế chắc chắn không phải là chuyện CẤM hay CHO PHÉP mà chính là xử lý dứt điểm cơ chế quản lý thiếu rõ ràng: hoặc là dịch vụ hoặc là phúc lợi xã hội (sự nghiệp) không thu tiền.


 Còn lẫn lộn thì “cấm” hay “cho phép” cũng chẳng khác nhau xa…



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 21, 2013 19:40

Thư gửi “Kẻ lười biếng”

Nguyễn Huy Cường*


images902808_hoc_htThân gửi em,


 Bài nói chuyện của em trên YouTube suýt làm tôi rơi nước mắt. Tôi xúc động vì nhiều lẽ. Trước hết, em làm tôi nhớ lại thời học sinh của mình. Tôi cũng từng có nhiều suy nghĩ rất giống em, nhưng khi ấy suy nghĩ của tôi còn vụn vặt và tôi không có khả năng diễn đạt thành lời như em bây giờ. Ai đến tuổi thì cũng phải đi học. Và tôi cũng vậy. Nhưng chỉ trừ những năm cấp một, những năm còn lại đối với tôi là những chuỗi dài mệt mỏi của thi cử và điểm số. Tôi cần điểm số để đạt danh hiệu này danh hiệu nọ và để cuối cùng vào được đại học, vì tôi tin rằng chỉ khi vào đại học tôi mới có một tương lai tươi sáng để tự lo cho bản thân và phụ giúp gia đình. Rồi rốt cục tôi cũng vào được đại học, có nghề nghiệp ổn định, và cũng đã có khả năng tự lo cho bản thân và phụ giúp gia đình như tôi từng mong muốn. Vậy thì tại sao tôi quá xúc động khi nghe em nói ra những suy nghĩ của mình? Không phải những gì em nói bị nhiều người xem là vớ vẩn sao? Không phải em nên ngoan ngoãn vâng lời và tiếp tục học hành bình thường sao? Không. Em đã dũng cảm nói lên những suy nghĩ thật lòng mình mà ít người dám nói, là em không chấp nhận hệ thống giáo dục cứng nhắc, quá chú trọng thành tích mà thiếu quan tâm đến suy nghĩ, cảm xúc, và đam mê của học sinh, và của cả giáo viên. Những gì em nói cần được nhiều người lắng nghe — và nghe cho thật rõ. Em làm tôi nhớ lại lúc tôi học thuộc lòng bài văn mẫu để chuẩn bị cho kỳ thi tốt nghiệp cấp hai, hay những lúc học mẹo môn sử để chuẩn bị thi tú tài. Hình như lúc ấy tôi xem những chuyện này là bình thường, nhưng giờ nghĩ lại không hiểu sao tôi cảm thấy rùng mình. Hệ thống giáo dục chạy theo thành tích đã đẩy tôi, em, và cả thầy cô giáo của chúng ta vào thói quen thiếu trung thực và vô cảm. Tôi xúc động vì em có suy nghĩ giống tôi, nhưng em đủ dũng cảm và thông minh để đứng lên nói ra suy nghĩ của mình thật khúc chiết và thuyết phục, điều mà tôi vẫn chưa làm được.


 Tôi cũng bắt gặp hình ảnh của Dewey và Foucault trong những gì em nói. Em giúp tôi hiểu triết lý giáo dục mà Dewey và Foucault đề xướng một cách sinh động và cụ thể hơn. Khi nghe em nói, tôi dễ dàng hình dung ra một học sinh trung học đang thiếu vắng nụ cười của sự say mê trên môi vì mải chạy theo thi cử. Người học sinh đó có thể vẫn cười nói vì nhiều lý do khác nhau, nhưng tuyệt nhiên không phải vì say mê môn học. Người học sinh đó có thể là em, mà cũng có thể là tôi của mười mấy năm trước, và cũng có thể là biết bao sinh viên, học sinh khác hiện đang ngồi trên ghế nhà trường. Cũng giống như tôi, các em rồi cũng sẽ ra trường, cũng có việc làm, rồi cũng nhớ ơn những thầy cô đã từng dạy dỗ mình suốt những năm phổ thông và đại học. Nhưng chắc chắn các em cũng sẽ không quên những phút giây căng thẳng, buồn chán, thậm chí phẫn uất vì bị nhồi nhét trên ghế nhà trường mà lẽ ra các em không phải chịu đựng. Nhưng chắc rồi nhiều người trong các em cũng sẽ dần dần xem đó là chuyện đã qua, như là một trải nghiệm mà ai cũng phải có, để rồi các em lại bắt buộc con cái của mình tiếp tục đi trên con đường đó. Tôi xúc động vì cậu học sinh lớp 12 là em dám sống thật lòng mình và lên tiếng chống lại lối giáo dục mà em và tôi đều nghĩ là thiếu nhân bản. Tôi đồng ý với em là một người có thể trở thành kỹ sư, bác sĩ, hay tiến sĩ, nhưng trong tâm hồn có khi cũng chỉ là nô lệ của bằng cấp, của thi cử, của cách suy nghĩ giáo điều mang tính áp đặt mà nhà trường hiện đang tạo ra. Và chính những người này lại tiếp tục tạo ra những tâm hồn nô lệ mới, cũng bằng cách nhồi nhét và áp đặt ý tưởng của mình lên những người khác.


 Em cũng làm tôi xúc động khi nói về đam mê của em và bạn bè em, vì nói thật tôi cũng đang vật lộn với đam mê của chính mình. Tôi và em không phải là ngoại lệ. Biết bao nhiêu người chọn nghề vì nghề đó hái ra tiền chứ không phải vì đam mê. Hái ra tiền không phải là điều sai, nhưng không được làm những gì mình đam mê thì cũng thật đáng buồn. Và nhiều người không biết đam mê thật sự của mình là gì — vì họ đã quen chạy theo những trào lưu và định chế xã hội đến nỗi quên đi cái tư lương trong sáng của mình, cái tư lương vốn có khả năng cho mình biết mình là ai và mình thích điều gì. Không phải chỉ một học sinh lớp 12 như em không biết mình thích gì, mà một người 30 tuổi như tôi có khi vẫn vật lộn với câu hỏi đó. Tôi đồng ý với em là nhà trường cần có khả năng phát hiện và nuôi dưỡng lòng đam mê của học sinh, không phải làm ngược lại. Điều này tôi đã nghe người ta nói quá nhiều ở trường sư phạm, nhưng mấy ai đã thực sự làm được trong môi trường giáo dục Việt Nam hiện nay?


 Tôi cũng xúc động vì em làm tôi nghĩ đến con đường tương lai của mình. Tôi đang học về ngành giáo dục với những con người đầy tâm huyết, đạo đức, và nhân văn. Nhưng tôi sẽ đi theo con đường nào đây? Liệu tôi có dám dấn thân để đi theo con đường đạo đức và nhân văn đó, hay tôi sẽ đặt nặng hơn phần cơm áo gạo tiền? Trong mấy chục năm qua, nhiều thế hệ thầy cô giáo Việt Nam đã bị đặt trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn của cơm áo gạo tiền rồi. Họ cũng muốn hết lòng dạy dỗ học sinh, nhưng họ cũng không thể quên chuyện cơm áo gạo tiền, quên trách nhiệm nuôi sống gia đình và con cái của mình. Dù nhiều thầy cô giáo giờ đây đã có thể sắm xe hơi nhà lầu nhờ vào dạy thêm và những công việc bên ngoài, nhưng tận sâu trong tâm hồn, tôi vẫn nghĩ họ là những người thiệt thòi nhất. Thiệt thòi vì họ có cảm giác không làm tròn phận sự của người thầy mặc dù họ có những lý do chính đáng nhất. Ở một xã hội mà người giáo viên được trả mức lương thấp hơn mức sống tối thiểu, thấp hơn cả lương của một công nhân nhà máy, thì chúng ta cũng không thể mong chờ gì nhiều hơn ở người thầy. Một xã hội mà trong đó người lao động không kiếm đủ cái để ăn đã là một xã hội tệ. Một xã hội mà trong đó người giáo viên vừa là nô lệ của thành tích vừa phải chật vật lo cho cuộc sống của mình là một xã hội còn tệ hơn nhiều. Một xã hội như thế không thể tiến bộ được. Những tiến bộ thấy được, nếu có chăng, cũng chỉ là tiến bộ nhất thời, hay chỉ là phồn vinh giả tạo mà thôi.


 Bài nói chuyện của “kẻ lười biếng” thật hay vì nó gợi lên trong tôi rất nhiều suy nghĩ về bản thân, về đồng nghiệp, về học trò, và về tương lai của đất nước Việt Nam. Và nó rất thật. Không, em không lười biếng chút nào hết. Đúng như em nói, không có học sinh nào lười biếng cả. Tôi mong em sẽ thành công theo cách em muốn và trong tương lai em sẽ làm được nhiều việc lớn lao cho đất nước. Nói nhỏ cho em biết, thi cử và bằng cấp đang là một căn bệnh đang lây lan khắp toàn cầu, chứ không chỉ ở Việt Nam đâu em.


Tác giả gửi Quê Choa


Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả


 ………………..


*Tác giả đang nghiên cứu sinh ở Mỹ về giáo dục Mỹ.


 


 



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 21, 2013 16:49

Phát ngấy về các ngài!

310709_10200723267871333_1703201250_n


Đứng trước ngài, ta có cảm tưởng hỗn xược như ta lại phải ăn một mâm cỗ đầy ắp những thịt mỡ khi ta đã no nê. Nghĩa là ta phát ngấy về sự phì nộn của ngài.” Đoạn văn này Nguyễn Công Hoan tả ông quan huyện bây giờ có thể dùng để tả Bộ trưởng Chủ nhiệm Uỷ ban dân tộc Giàng Seo Phừ.

Đáng ra không nói chuyện béo tốt của ông này làm gì, nhưng vì Sao Hồng cho biết:”Hôm nay VTV1 có mục “Dân hỏi bộ trưởng trả lời” về chính sách của nhà nước về dân tộc và miền núi. Khi phóng viên đưa ra các câu hỏi về thực trạng thiếu cơm ăn áo mặc và phòng học ở miền núi. Ông này toàn đổ lỗi cho cơ chế chính sách.” ( tại đây)

Cơm có thịt ơi! Vì ta cần có nhau ơi! Cố lên, đừng trông mong gì quan lại nước nhà như ông Giàng Seo Phừ này nữa!


5dd9f348-8853-4c0d-b44f-9384acfb5836


6438_1250941295


images


Ret9201209jpg1356423482



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 21, 2013 07:17

Chuyện kì thị Bắc-Nam

Nguyễn Văn Tuấn


disHôm nọ, đọc xong bài Người Việt kì thị… người Việt, tôi đã định viết vài dòng ghi chú, nhưng loay hoay với công việc rồi quên. Hôm nay, ngày cuối tuần, nên có chút suy nghĩ về chuyện kì thị. Không cần phải dài dòng: kì thị là chuyện xấu, cần phải dẹp. Trong bài báo dưới đây, tác giả thuật lại câu chuyện của chính tác giả bị chủ quán người miền Nam kì thị, và tác giả qui kết “chiến tranh” như là một lí do cho tình trạng kì thị. Tôi thì nghĩ khác: tôi nghĩ rằng tình trạng người Nam kì thị người Bắc có nguyên nhân sâu xa hơn, nó bắt nguồn từ những năm đen tối sau 1975.


 Tôi đoán trong cộng đồng dân tộc, không ai có kinh nghiệm kì thị bằng những người Việt tị nạn ở nước ngoài. Thời đó (tức đầu thập niên 1980s) khi người Việt bắt đầu đến Úc định cư, thì phong trào kì thị người Việt cũng bắt đầu“sinh sôi nảy nở”. Có dạo người Việt không được vào các club uống bia. Cựu thủ tướng John Howard có thời không ưa người Việt tị nạn. Giáo sư sử học ở Melbourne tên là Goeffrey Blainey còn nói rằng đóng mộc vào trán người Việt và gửi cho họ về VN trên các chuyến tàu chở cừu xuất khẩu. (Ông này sau này bị áp lực phải từ chức). Có thời gian người Việt bị đám du côn Úc chận đường đánh. Anh bạn tôi là một nạn nhân. Nhưng không lâu sau đó thì “phe ta” cũng bắt đầu hình thành băng đảng để chống chọi, và khi phe ta đã ra tay chống trả (toàn súng đạn) thì du côn Úc cũng phải ngán. Bây giờ thì tôi nghĩ nạn kì thị đã giảm đi nhiều khi thế hệ 2 và 3 người Việt lớn lên ở đây đã hoà nhập và ở mức độ nào đó đã thành công.


Nhưng nay lại có nạn người Việt kì thị người Việt. Người Việt tị nạn (chủ yếu là dân miền Nam) kì thị dân miền Bắc. Có người nói hài hước là dân đi tàu kì thị dân đi máy bay :-) . Thật ra, tôi không chắc chữ “kì thị” có đúng không nữa, vì trong thực tế chữ “không ưa”, hay thậm chí “ghét”, thì đúng hơn. Vào giữa thập niên 1990s, khi có đồng nghiệp từ VN sang đây học hành và công tác, họ không dám xuống các vùng đông người Việt (như Cabramatta chẳng hạn). Đến đó, chỉ cần nghe giọng “Bắc 75” là chắc chắn gặp “phiền phức”. Có lần tôi dẫn một anh đồng nghiệp ghé Cabramatta chơi, khi vào nhà hàng, tôi phải dành quyền gọi món ăn, chứ không dám cho anh ấy nói, vì tôi biết anh ấy mà mở miệng nói giọng Bắc 75 thì chắc cả tôi và anh chẳng có gì để ăn. Ở Little Saigon, một hôm tôi và anh bạn (cũng Bắc kì 75, dân Thái Bình) vào nhà sách, anh bạn tôi hỏi tìm mua cuốn hồi kí của tướng Trần Văn Trà; trong khi ông chủ thì điềm đạm, nhưng ông khách đang lựa sách, quay sang gằn giọng với anh bạn tôi: “ở đây không có bán sách của Việt cộng. Việt cộng thì về bển mà mua.” Ông chủ tiệm sách vội vàng dàn hoà, và nói sách … bán hết rồi. Thấy tình hình không ổn, tôi kéo anh bạn lui bến.


Nhưng phải nói rằng nay thì đỡ hơn nhiều. Khi làn sóng người miền Bắc sang đây tị nạn vào thập niên 1990s, và đến nay thì người dân hai miền đã cảm thông nhau nhiều hơn. Thời đó, dân tị nạn miền Bắc không thể mở hàng quán ở khu dân tị nạn miền Nam. Nhưng nay thì anh em Nam Bắc đề huề, bên nhau làm ăn. Ở Cabramatta có một quán Bắc chính cống, bán toàn đồ ăn Bắc, và được dân miền Nam ủng hộ hết mình, riết rồi ông chủ nghĩ ông là dân Nam! Sau này thì thêm làn sóng mấy em du học sinh sang đây học, và đi làm thêm, thì chính các hàng quán Việt là những nơi các em ấy nghĩ đến. Tôi nghĩ trong số những em ấy, chắc cũng có nhiều trường hợp cay đắng. Cháu gái tôi nó kể phải làm trong một quán ăn từ 8 giờ sáng đến 10 giờ đêm, mà chỉ được trả 8.5 AUD/giờ. Đó là một sự bóc lột trắng trợn. Tôi nghĩ có không ít chủ hàng quán người Việt lợi dụng tình thế bất lợi của mấy em học sinh, sinh viên để bóc lột. Câu chuyện được kể trong bài viết trên tờ laodong.com.vn chắc cũng có phần sự thật, và người chủ kia có lẽ là một trong những kẻ bóc lột đồng hương.


Trong bài này, tác giả đổ thừa cho “vết thương của bao năm chiến tranh vẫn đang dai dẳng hằn sâu trong một bộ phận đồng bào”. Nhưng tôi nghĩ không phải vết thương chiến tranh. Tôi nghĩ lí do sâu xa hơn nữa. Có nhiều lí do tại sao người tị nạn miền Nam không ưa người Bắc. Xin nói thêm là tôi không nằm tron nhóm đó, vì tôi nghĩ mình đã vượt qua được lằn ranh phân định đó, và bằng chứng là tôi có nhiều học trò người Bắc và tôi làm việc với đồng nghiệp ngoài Bắc rất thoải mái.


Trong cái nhìn của phần đông những người tị nạn bên này, người Bắc là thủ phạm gây nên sự điêu tàn của đất nước. Với cái nhìn đó, họ không ưa người miền Bắc. Sau 1975 miền Nam có thể nói là lâm vào cảnh khốn cùng. Gia đình li tán. Chồng con đi “học tập cải tạo” mút mùa. Hàng vạn người chết trong các trại tù cải tạo. Số ra tù thì bệnh tật riết cũng chết. Số còn sống sót đi vượt biên thì có khi làm mồi cho cá mập. Nhà cửa bị ăn cướp. Con cái bị kì thị, học giỏi cách nào cũng không vào đại học được do cái lí lịch “nguỵ”. Có thể nói không ngoa rằng thời đó dân miền Nam bị cán bộ miền Bắc kì thị rất ác. Phải nói là “ác ôn”. Có vay thì có trả, nên chuyện con em người miền Nam bây giờ tỏ ra thiếu cảm tình với đồng môn người Bắc chẳng có gì khó hiểu. Nhưng chỉ buồn là họ thể hiện cái tức giận đó sai đối tượng, vì người Bắc thì cũng là người Việt thôi, cũng đau khổ như mình thôi.


Phải nói rằng thời đó, cái đám cán bộ ngoài Bắc mới vào tiếp quản Sài Gòn quá ư là lố bịch. Chẳng những huênh hoang, khoác lác, mà họ còn tự thể hiện cái dốt của họ. Đó là chưa nói đến vấn nạn đốt sách. Tôi nghĩ nhiều người Việt tị nạn thế hệ I không bao giờ quên được những vấn nạn kinh hoàng thời đó. Bây giờ, trong cái nhìn của họ, những em sinh viên sang đây du học chắc là COCC, mà COCC cũng có nghĩa là tham ô hối lộ. Cũng có thể họ nghĩ đây là những con em của những người từng cướp nhà, từng làm khổ, hay từng giết chết bà con họ. Do đó, họ tỏ thái độ kì thị hay ghét những em sinh viên nói giọng Bắc là có thể hiểu được.


Hôm nọ, ngồi nói chuyện đời với một doanh nhân ở Sài Gòn có vài chuyện thú vị. Anh này thật ra là gốc Bắc 75, nhưng làm ăn ở Sài Gòn. Anh K cho biết rằng thật ra, tất cả các tập đoàn lớn của Nhà nước đều do người “ngoài đó” nắm hết. Tôi nói thế số bộ trưởng cũng có phân bố Bắc Nam cân bằng đó chứ, thì anh mỉm cười nói “hoa lá cành ông ơi, vì ở dưới điều hành thì vẫn là người ngoài đó”. Thử nhìn qua nhân sự của những hải quan, hàng không, dầu khí, và mấy cái “VINAs” thì anh K cũng có lí. Trước đây, có một con số lưu hành cho thấy phần lớn ngân sách Nhà nước là do các tỉnh miền Nam đóng góp (đặc biệt là Sài Gòn, Bình Dương và Vũng Tàu), nhưng đầu tư cho miền Nam thì rất kém. Hình như là từng có đại biểu QH đặt vấn đề này (?). Trong cái nhìn của anh K, người miền Nam vẫn là người bị thiệt thòi và bị thống trị.


Do đó, tôi nghĩ vấn đề không phải là “chiến tranh” gì cả; vấn đề là sự bất bình đẳng Nam – Bắc. Có lẽ người ta không muốn nói ra, nhưng nếu cứ dấu hoài thì có ngày sẽ bùng nổ. Những chuyện “kì thị” mà bài báo dưới đây mô tả không phải do chiến tranh, mà là di sản của một thời bất công và đen tối mà thủ phạm không ai khác hơn là cán bộ miền Bắc sau 1975. Xin nói cho rõ là “cán bộ sau 1975” nhé, chứ không phải người dân miền Bắc. Chỉ khi nào tất cả đều công khai, và có những kênh đối thoại thẳng thắn, thì chúng ta mới hết nạn kì thị. Tôi nghĩ chỉ có đối thoại thì mới cảm thông nhau.


Riêng cá nhân tôi thì tôi open và thoải mái. Tôi không có kì thị, vì bản thân mình từng bị kì thị. Thật ra, khi nói chuyện với các đồng nghiệp ngoài Bắc tôi thấy họ cũng cởi mở và không có đầu óc kì thị dân Nam chút nào cả (còn trong hành động thì tôi không biết). Nhưng nói chuyện với dân trong Nam, kể cả người Bắc trong Nam, thì một số rất cay cú.


N.V.T



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 21, 2013 03:21

Lúc nào cũng giơ mãi cái công lao ra để mà tiếm quyền lãnh đạo thì thật sự không công bằng.

Đoàn Vương Thanh


402224_361990800480393_100000084275576_1478724_1891231149_nCác cụ ta từ xưa đã có câu: “Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay” chỉ có nhân dân nghe là sáng tai hơn cả. Trong tình hình đất nước hiện nay, những kẻ “bảo hoàng hơn vua” lên gân cãi chày cái cối, đến nỗi thích “ăn bám nói leo” thấy người ta nói mình cũng nói, không chịu “làm việc bằng cái đầu”, không bằng một học sinh cấp ba “lý sự” về nền giáo dục của ta hiện nay. Thậm chí, những kẻ “bảo hoàng hơn vua” cố tình cãi chày cái cối về lòng tin của dân đối với Đảng lãnh đạo.


Khi còn hoạt động bí mật và nửa bí mật nửa công khai với số đảng viên chưa nhiều, ngân sách đảng không có, hoàn toàn dựa vào dân, có khi còn dựa vào tiền bạc của “giai cấp trên” ủng hộ để có nguồn kinh phí ít ỏi bảo đảm hoạt động. Thời kỳ ấy, gần như tất cả đảng viên của Đảng đều trân trọng lời thế trước Đảng kỳ nguyện tuyệt đối trung thành với đảng, với nhân dân. Đúng là ngoài lợi ích của nhân dân, “Đảng” không có “lợi ích” nào khác. Do vậy, để bảo vệ Đảng, nhân dân đã không ngại hi sinh tính mệnh và tài sản, thậm chí nghe theo lời Đảng đã cử hàng triệu hàng triệu con em xông ra các mặt trận, không ngại mũi tên hòn đạn, không ngại tù đầy.


Nói như thế để thấy thời kỳ đầu, và trong kháng chiến trường kỳ, khi Đảng bám rễ trong nhân dân, chung lưng đấu cật với nhân dân, và cái chính là đảng chưa có tiền chưa có gạo, không bám vào dân mà hoạt động thì đói. Đã đói thì không thể hoạt động được. Hoạt động gian khổ và không ít đảng viên đã hi sinh trong nhà tù đế quốc. Mấy nghìn “tù Phú Quốc”, “tù Côn Đảo” chắc chắn có nhiều đảng viên. Như vậy trong cuộc chiến đấu cách mạng, cả đảng viên và quần chúng của Đảng đều đổ xương

đổ máu chứ không chỉ riêng có đảng. Về số lượng thì, nhân dân hi sinh nhiều gấp nhiều lần đảng viên. Mà suy cho đến cùng thì đảng viên cũng là từ nhân dân mà ra.

Trên thế giới hầu như chưa có nước nào lại phải chịu hi sinh nhiều như nước ta và dân tộc ta, một cuộc chiến kéo dài 31 năm, quân đội, đảng viên và nhân dân hi sinh xương có thể xếp thành núi, máu có thể chảy thành sông. Điều này, các thế hệ người Việt Nam còn nhớ đinh ninh. Nhưng dựa vào đấy để mà “kể công” để mà tranh quyền lãnh đạo Nhà nước

và xã hội là không đúng với truyền thống của dân tộc. 


Để công bằng, các nhà lãnh đạo hiện nay, dựa vào các cứ liệu lịch sử mà phân chia giai đoạn công và tội của Đảng cộng sản, viết lại những thành tích, ưu điểm, sai lầm kể cả sai lầm nghiêm trọng giết hại hàng vạn đảng viên và quần chúng trung kiên trong cái nhận thức “tả khuynh” và giáo điều, để phân rõ công và tội. Dân tộc ta rất công bằng, độ lượng và lại rất rõ ràng, minh bạch

trong phân biệt công và tội. Lâu nay ta có thói quen, hễ ai đó “nói động đến Đảng”, đến “lãnh tụ”, thậm chí ở xã, nói động đến Bí thư Đảng ủy, là bị coi là “nói xấu Đảng” cần theo dõi và xử lý ! Bao nhiêu cái án oan sai cũng từ cách nhìn nhận thế này. Làm con người, không một ai là không có khuyết điểm, chỉ khác nhau ở chỗ biết thừa nhận khuyết điểm và sửa chữa khuyết điểm một cách chân thành và hiệu quả. Nhân dân ta rất ghét sự dối trá, sự bao che, và lừa lọc.


Trong giai đoạn có nhiều phức tạp cả về nhận thức lẫn hành động như hiện nay, trước hết và hơn ai hết Đảng cần tổng kết ưu khuyết điểm, công tích và cả những sai lầm nghiêm trọng. Bài học đã rõ rồi. Bản thân cụ thân sinh ra tôi là một đảng viên đảng lao động được kết nạp năm 1947, làm Phó Chủ tịch UBKCHC xã, cải cách ruộng đất quy cụ là địa chủ phản động quốc dân đảng đầu sỏ, bị kết án 20 năm tù, cho giảm 3 năm vì có con trái lớn là tôi đang ở bộ đội. Cũng vô cùng may mắn, vì ngay làng bên, một đồng chí tên là Thành con một gia đình địa chủ kháng chiến, đi hoạt động cách mạng từ nhỏ, được bầu vào Ban thường vụ

Tỉnh ủy. Trong một cuộc “đấu đá” ở nhà quê, Đội Cải cách với danh nghĩa “Tòa án nhân dân đặc biệt” đã lên tận tỉnh, trong khi Thường vụ Tỉnh ủy đang họp, lôi bằng được đồng chí Thành về trường đấu và bắn luôn. Bí thư tỉnh ủy giật mình biết chuyện thì mọi sự đã quá muộn.


Đó là “bi kịch” của cải cách ruộng đất mà Đảng ta đã lãnh đạo. Tuy nhiên, khi Đảng có nghị quyết sửa sai cải cách ruộng đất, ngay bản thân gia đình và người bị xử trí oan, thậm chí oan đến chết người” vẫn tin theo Đảng, tham gia sửa sai, nhanh chóng ổn định tình hình trước khi tiến hành phong trào hợp tác hóa nông nghiệp. Chắc chỉ có người này người kia trong đảng chức vụ này chức vụ kia mới “thù dai” hoặc “trả thù cá nhân” chứ nhân dân thì độ lượng vô cùng.


Đảng công khai một lần nữa thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng của mình về tất cả mọi vấn đề không chỉ có cải cách ruộng đất, cả về hợp tác hóa nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, cả về phát triển công nghiệp nặng công nghiệp nhe, cả về văn hóa giáo dục y tế và an sinh xã hội. Một xã ở huyện nọ trong tỉnh tôi đã có 74 cán bộ xã “ăn chặn” tiền chính phủ giúp hộ nghèo ăn

Tết. Nhưng cán bộ này đều là đảng viên. Ở xã tôi, họ chia nhau, cho nhau, bán rẻ cho nhau hơn 1000 xuất đất cho đảng viên từ cấp thôn trở lên đều có phần. Một bí thư chi bộ mua một xuất đất giãn dân giá 50 triệu đồng, ngay hôm sau bán 750 triệu đồng. Dân bảo đảng viên buôn đất ăn đất kinh khủng lắm. Đảng nên tổng kết và công khai những vấn đề này trước dân để lấy lại lòng tin của dân.


Một khi dân tin rồi thì Đảng cứ phải lãnh đạo cứ phải cầm quyền thôi, chẳng có ai dám tranh quyền của Đảng đâu. Còn hiện nay, tham nhũng từ trên đến cơ sở, mà chủ yếu lại là đảng viên có chức có quyền mới có điều kiện tham nhũng, tham nhũng là hút máu hút mủ của dân, nhưng nếu đảng dũng cảm nhận sai lầm khuyết điểm, nhận công khai trước dân, ai có khả năng sửa chữa khuyết điểm dân vẫn ủng hộ làm việc còn kẻ nào ngoan cố thì chính Đảng phải xử trí thôi, dân làm gì có quyền xử trí ?


Lúc nào cũng giơ mãi cái công lao ra để mà tiếm quyền lãnh đạo thì thật sự không công bằng. Ai là người xứng đáng lãnh đạo cầm quyền đất nước, lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam thời kỳ hiện nay trước hết phải tổ chức công khai minh bạch hỏi ý kiến dân. Dân đồng ý thì tiếp tục vai trò còn dân không đồng ý thì dân chọn. Đơn giản thôi. Sở dĩ Đảng còn cố tình lý sự để bám lấy vai trò lãnh đạo chẳng qua là vì lợi ích của Đảng và đảng viên chứ không phải hoàn toàn là vì lợi ích của dân chúng đâu. Các vị nghĩ và thử tổ chức thảo luận công khai với dân xem sao ?


Tác giả gửi Quê choa


Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả


…………………………………………………………..

Đoàn Vương Thanh, tức Nguyễn Thanh Hà, 79 tuổi, cựu phóng viên TTXVN,

ĐT 0166 83 83 020 và 0321 6295 440. Email: nguyenthanhhahy@gmail.com



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 21, 2013 01:17

April 20, 2013

Bụi đời Chợ Lớn. Truyện tranh. Và con cọp ở chợ

Hồ Trung Tú


Poster chính thức của 'Bụi đời Chợ Lớn'

Poster chính thức của ‘Bụi đời Chợ Lớn


Nhà Phật có câu chuyện thế này: Một cậu bé bị bỏ rơi được sư thầy nhặt được mang lên núi sống cuộc đời tu hành thanh đạm, không vướng một chút bụi trần. Và sư thầy nghĩ cậu bé có duyên, có phước lắm mới được như thế này chứ không thì ô nhiễm cuộc sống trần gian đến bao giờ mới tẩy rửa được. Đến tuổi trưởng thành, nhận thấy cậu bé, giờ đã là một chàng trai, suốt ngày miệng mỉm cười cho thấy tâm chàng không loạn động hay ưu phiền lo nghĩ chuyện gì, sư thầy dẫn cậu xuống núi để nhìn thấy người đời. Xuống núi, vào chợ thấy gì chàng trai cũng hỏi, đây là con gà, kia là con vịt, chiếc xe sao lại chạy được; đến thấy người đàn bà chàng hỏi con gì đây, sư thầy bảo đó là người đàn bà, bà có thể sinh ra những đứa bé mới để cuộc sống được tiếp tục mãi. Trong đầu chàng trai đã khởi niềm nghi không hiểu làm sao mà người đàn bà có thể sinh ra những đứa bé được. Đến gặp một cô gái, cô gái mỉn cười với chàng trai tuấn tú, mặt mũi sáng rỡ vì tâm trong sạch. Chàng tai hỏi thầy đây là con gì mà nó cười trông đẹp quá thầy ạ. Thấy có vẻ không an toàn sư thầy bảo: Đó là con cọp ở chợ. Con cọp trên núi hung dữ ăn thịt người thế nào thì con cọn ở chợ cũng ăn thịt người như thế con ạ, hãy tránh xa nó ra! Về lại núi, nụ cười như tắt trên môi chàng trai, trông chàng buồn rầu, ưu phiền hẳn. Sư thầy mới hỏi, chàng trai trả lời: Con nhớ con cọp ở chợ!


Cũng như vị sư thầy nọ, chúng ta hiểu lòng lành của các bậc phụ huynh khi tâm niệm chỉ mang điều tốt nhất đến cho con cái khi bảo con tránh xa loại truyện tranh. Và chúng ta cũng hiểu ý tốt của Hội đồng duyệt phim quốc gia (HĐDPQG) khi nói: “phải tỉnh táo và phải hiểu cuộc sống hiện nay cần cái gì, đòi hỏi nghệ sĩ phải làm gì” để cấm phát hành bộ phim “Bụi đời Chợ Lớn” (BĐCL)vì lý do bạo lực, e người xem bị tác động tiêu cực. Thật đáng buồn khi chúng ta, những người trưởng thành vẫn mãi bị xem như những cậu bé, như cậu bé được khuyên không nên xem truyện tranh nọ.

Thật ra ở đây ai là người chưa trưởng thành thì sau khi suy luận một chút ta có thể nhận ra được. Đã mấy chục năm đòi hỏi nghệ sĩ chỉ làm điều cuộc sống cần thế nhưng cuộc sống có cần những điều đó không thì mỗi người đến nay đã có thể tự trả lời được. Ở đây rõ ràng chỉ những người chưa trưởng thành thì mới tin rằng cho con người ta ăn thứ gì thì con người ta sẽ thành thứ đó, sống trong môi trường nào thì con người ta sẽ thành đúng như vậy.


Đâu là quy luật của sự nhận thức hay thế nào là bị ô nhiễm?


[image error]

Phương án giả định: Poster quảng cáo phim ” Bụi đời chợ lớn” sau khi qua kiểm duyệt, với slogan: Các “bụi đời” đã thay đổi, trở thành những thanh niên ngoan ngoãn. Còn bạn thì sao?


Vấn đề bây giờ không phải công bằng hay không công bằng khi duyệt các phim ngoại thì thoáng dễ, còn phim nội thì khắc khe xét nét đủ bề; mà chính là cần phải hiểu thế nào là điện ảnh! Thật ngớ ngẫn khi phải nói như thế với HĐDPQG nhưng thật vậy, điện ảnhvới những chức năng thì không ai rành hơn các vị này nhưng sự tác động của điện ảnh đến con người thì không như các vị nghĩ. Xem phim ma cà rồng liệu có đi hút máu như ma cà rồng; xem phim kinh dị liệu có đi róc thịt chẻ xương người ta như phim; xem phim đánh đấm liệu có đi đánh đấm như phim…?

Quy luật về nhận thức đi theo những con đường không như chúng ta hình dung. Hơn nửa thế kỷ dạy dỗ toàn điều tốt nhưng cớ sao vẫn cứ xuất hiện cả một thế hệ hư hỏng. Dạy dỗ gần 100 năm tinh thần giai cấp vô sản toàn thế giới nhưng cớ sao mởi thả ra đã đánh nhau bưu đầu, mẻ trán? Bao thế hệ được học hành thi cử tử tế về chủ nghĩa Mác, tinh thần đạo đức con người mới nhưng sao thế giới mạng toàn người “hư hỏng” giống như chưa từng một ai thuộc bài, đến độ muốn nói điều gì đúng đắn thì thuê người làm dư luận viên ? Truyệt tranh trẻ con, một thế hệ các bạn lớn lên ở miền Bắc không có truyện tranh để đọc và các bạn cũng thấy thậm chí đó là điều tốt nên cấm hẳn con mình xem truyện tranh. Xin đừng đem loại truyện tranh nhố nhăng ra ví dụ phản biện, cần phải thấy rằng không có gì kích thích sự tưởng tượng và óc khôi hài hơn truyện tranh và phim hoạt hình. Chính đây là lý do khiến phim hoạt hình mãi vẫn không ra rạp được ở ta. Cho đến gần đây, một thế hệ yêu Doreamon, và nhờ thế mới bắt đầu biết cười với nhưng chi tiết ngộ nghĩnh, khôi hài mà thể loại này đem lại cho nhân loại sau gần thế kỷ qua. Tôi tin người biết cười vì phim hoạt hình, hay truyện tranh, là người trong cuộc sống không chỉ biết khôi hài mà còn là người bao dung, nhân ái nữa.


Sau khi lệnh cấm phát hành BĐCL được công bố, trên mạng xuất hiện poster của phim BĐCL với những nhân vật thay vì cầm hung khí lại cầm xô chậu chổi xẻng đi dọn vệ sinh đường phố với tên phim “Thanh niên 5 tốt Chợ Lớn”. Ừ nhỉ, nếu bây giờ toàn xã hội cứ sản xuất toàn loại phim người tốt việt tốt như vậy (dĩ nhiên loại phim này thì qua cửa duyệt nhanh không chi bằng), không một phim nào ngoài luồng lọt vào, thì liệu chúng ta có có được một thế hệ toàn người tốt không ? Và ngược lại, chẳng có sự tàn bạo, phi nhân tính nào Hollywood chưa làm tới, người xem phim Mỹ bị ảnh hưởng sự tàn bạo phi nhân tính hết cả hay sao?


 Rõ ràng sự nhận thức của mỗi người không đi theo những con đường mà chúng ta hình dung bằng cách đơn giản hóa “xem” bầu thì tròn, “xem” ống thì dài !. Biết đâu thấy đâm chém của BĐCL mà nhiều thanh niên sẽ ngán cái thế giới tối tăm ấy và trở lại chăm học hơn. Nào có thấy anh hùng nào trong đó đâu mà HĐDPQG cứ sợ trẻ con noi gương theo. Tất cả chỉ là một cảm giác sợ hãi kinh khiếp nên tránh xa. Sao HĐDPQG không nhìn thấy điều này nhỉ ? Hitler học ai mà tàn bạo đến quỷ thần cũng phải sợ vậy? Hay là hắn ta đã từng coi Bụi đời Chợ Lớn  mà chúng ta không hay?


Đâu là tiêu chuẩn của hiện thực ?


Một đại diện HĐDPQG nói: Phim được làm ra cần cụ thể địa danh, địa điểm cũng như thời điểm nào đấy. Khán giả phải biết được rằng phim được làm ở giai đoạn nào, thuộc về lịch sử hay cuộc sống đương đại.

Lạ nhỉ, Mỹ là nơi sản xuất nhiều nhất loại phim cảnh sát, nhân viên công lực bị tha hóa. Thế mà ngành cảnh sát có bao giờ phiền lòng đâm đơn kiện hãng phim nào đâu? Và cũng đâu thấy người dân Mỹ mất niềm tin vào cảnh sát do những phim như vậy ? Ở ta thì ngược lại. Đúng là không thể hiểu được, cái mà chúng ta tin là xấu thì nó lại thành tốt và thứ mà chúng ta tin mười mươi rằng là nó là tốt thì nó lại xấu và gây mất niềm tin lớn.

Tại sao nhóm làm phim Việt kiều lại mê phim võ thuật đến vậy? Đây rõ ràng là một bước phát triển của điện ảnh mà bất cứ nền điện ảnh nào cũng phải trải qua. Như là Hồng Kông và cả thế giới phải trải qua một thời kỳ công phu của Lý Tiểu Long xong rồi mới có thể tiến lên những bước cao hơn được. Chúng ta không thể đột ngột làm một Titanic hoặc đạt trình độ hành động lôi cuốn như Điệp viên 007 trong một sớm một chiều mà cứ phải biết montage cắt nối một cú đá bằng ba góc quay, một cú đấm bằng năm lần bấm máy cái đã. Hãy nhớ đến những phim có chút hành động của ta như thời “Ván bài lật ngửa” hay “Cảnh sát hình sự” sẽ thấy những pha đánh đấm vụng về, người đánh thì sợ người bị đánh đau, thấy rõ cố tình đánh trượt đi; người bị đánh thì chờ được đánh. Nói thật “Bụi đời Chợ Lớn” cũng vẫn còn sót những chi tiết lỗi này, đủ cho biết cái kinh nghiệm làm phim hành động đánh đấm này điện ảnh Việt Nam còn ABC lắm, lúng túng đủ thứ từ đạo diễn đến quay phim, đến phân cảnh, thư ký trường quay… tất cả cho thấy rõ là đang vừa làm vừa học; và rõ ràng những kinh nghiệm này cần sớm được đúc kết kế thừa, được cả xã hội ủng hộ để sớm tạo thành một lớp những nhà làm phim kinh nghiệm hiểu rõ thế nào là phim hành động.

Điện ảnh với chức năng của nó là giải trí, thuộc tính kỹ thuật thể hiện qua các kỹ xảo.

Thay vì hỏi “Công an ở đâu khi các băng nhóm chém giết nhau” sao không hỏi đá gì mà người văng cả chục mét thế kia. Gọi võ sư giỏi nhất ra đá cái bịch gạo 50kg liệu đã có bay như vậy? Mà văng xa như vậy sao vẫn cứ sống nhăng răng mà không gãy xương ? Hỏi bác sĩ xem xương người ta chịu được lực được bao nhiêu thì gãy.v.v…

Tiêu chuẩn hiện thực không hiểu tự bao giờ đã gắn chặt vào não trạng các thế hệ làm phim và họ đã thực sự không biết làm sao để thoát ra khỏi nó.


Một phương án sửa phim

Một phương án giả định sửa phim



Xét ra cho cùng giới lý luận điện ảnh ở ta đã không rạch ròi được hai chức năng chính của điện ảnh, nếu dùng hình tượng thì xin ví đó như là hai chiếc cánh của một con chim, một cánh là tính nhân văn, chất thơ của nền nghệ thuật và cánh kia là thuộc tính kỹ thuật với những kỹ xảo điện ảnh được phát triển không ngừng ngay từ khi mới ra đời đến nay. Thiếu một trong hai chiếc cách ấy nền điện ảnh không bay lên được. Ở ta, ngay từ khi khai sinh đến nay chỉ biết đến chiếc cánh nhân văn, khai thác mạnh chất thơ mà hầu như quên hẳn, thậm chí từ bỏ, thậm chí lên án loại hình chuyên đi khai thác những kỹ xảo, những tìm tòi về dàn dựng tạo nên những cảm giác mới cho người xem. Oscar có hẳn một giải sang trọng cho những kỹ xảo mới. Điện ảnh Việt Nam đã có ai nghĩ đến điều này chưa ?

Thế nhưng mọi nỗ lực trả một cánh lại cho điện ảnh đã bị dội gáo nước lạnh ngay từ những phim hành động đầu tiên cho đến nay, nó luôn được xem là thể loại rẻ tiền, ban giảm khảo luôn dùng từ phim thị trường để gọi nó. Đây không phải là lạ mà là tiếc cho một cơ hội phát triển của điện ảnh cứ để bị trôi dài hết năm này qua năm khác mà không biết định vào đâu, trụ vào đâu thì nó sẽ vững bền một nền móng để phát triển.

Với riêng tôi, đó là kỹ xảo điện ảnh. Vững kỷ xảo thì diễn viên cũng đỡ nhọc nhằn vì thừa chân, thừa tay, thừa ánh mắt không biết bỏ đi đâu !

Trở lại với câu chuyện con cọp ở chợ. Theo các bạn chuyện sẽ xảy ra sau đó ? Tôi nghĩ là chàng trai sẽ xuống núi, không thể khác, và một cuộc đời vô cùng gian khổ với người ngơ ngác trước cuộc sống như chàng đang chờ chàng phía trước. Công khó của vị sư thầy bao năm như vậy là đổ sông đổ biển. HĐDPQG có bao giờ nghĩ rằng mình cũng như vị sự thầy nọ, đang làm điều vô ích không?



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 20, 2013 21:56

Từ lễ giỗ tổ đến đặt tên nước

NĂM XU


Greeting-Gio-to-Hung-Vuong-1024x768Trước khi nói chuyện tên nước tôi nói chuyện ngày lễ giỗ tổ Hùng Vương.


Lễ giỗ tổ Hùng Vương đầu tiên được tổ chức lớn, lớn là ở quy mô cấp nhà nước và được truyền thông nhà nước tuyên truyền, là năm 1959 do chính phủ miền nam Việt Nam, lúc đó đang ở nền đệ nhất cộng hòa của Ngô Đình Diệm chủ trương. Sáng kiến đẩy lễ giỗ tổ Hùng Vương lên thành quốc lễ là sáng kiến của một số sĩ quan  cao cấp của quân đội Việt Nam Cộng Hòa.


Chuyện này ai cần khảo sát lại kỹ và có nhiều chứng cứ hơn thì có thể đọc lại các báo trong thư viện của cả hai miền.


Sau khi Ngô Đình Diệm bị giết, lễ giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức lớn dần lên. Lễ lớn nhất theo tôi nhớ là lễ năm 1973.


Đây cũng là lý do có cái tên giỗ tổ Hùng Vương, trong khi ngoài bắc gọi là Vua Hùng. Cũng vì lý do này mà ở Thảo Cầm Viên có đền thờ Hùng Vương, là do chính quyền Việt Nam Cộng Hòa xây dựng.


Sau năm 1975: không có lễ này.


Cho đến gần đây. Rồi thì cứ to dần. Thành quốc lễ. Cũng ok, cả nước được nghỉ. Chỉ có người Khmer, Ê Đê, Gia Rai, Mường, Thái, sẽ hơi khó hiểu khi ông tổ của họ tự nhiên lại là vua Hùng.


Giáo sư Châu trên blog cá nhân của mình có một bài về việc một dân tộc phải học bài học lịch sử của dân tộc mình sao cho thuộc. Chừng nào còn chưa học thuộc, lịch sử sẽ dạy đi dạy lại mãi. Và học phí đôi khi phải trả bằng máu, hoặc rất nhiều máu.


Người Hán coi mình là trung tâm của thế giới, nước của họ phải là ở trung tâm. Vậy nên có cái tên Trung Quốc. Văn hóa, ở đây nên hiểu là ý thức hệ Nho giáo của họ, là đạo lý của trời đất. Nho giáo cứ thế mà oai, cho đến khi bị nhà Thanh nó leo lên đầu.


Cũng vào thời gian ấy ở nước mình có một cơ hội lớn vãi để nước ta vật mình thành rồng. Đó là thời Gia Long lập quốc, mở cửa tứ tung đón nhận văn hóa tây phương. Nhưng ông con, là ông Minh Mạng, lên ngôi, lại chê cái nhà Thanh, mà tự coi mình và nước mình còn Nho giáo hơn cả bên ấy. Ý thức hệ Nho giáo của Minh Mạng và nhà Nguyễn còn Nho hơn cả bản gốc. Nho ta xịn hơn cả Nho tàu. Bảo hoàng hơn vua, hơn cả bố vua, hơn cả cụ vua nữa. Từ quần áo trong triều, nghi lễ này nọ, nhà Nguyễn còn Tàu hơn cả bọn Tàu kinh điển.


Đâm ra tên nước của thời Minh Mạng cũng phải hàm cá ý như vậy. Tàunó là trung tâm thế giới, là Trung Quốc, thì mình ở phía nam của cái trung tâm ấy mà còn Nho hơn cả nó, tức phải là Đại Nam.


Và thế là tèo, là đóng cửa, là bế tinh hại não. Là thủ dâm rồi dẫn đến mất nước, là dân tộc nô lệ, là chiến tranh liên miên.


Ngày nay, ý thức hệ Mác Lê ở ngay chỗ nó sinh ra và lớn lên cũng đã suy tàn. Như cái hồi nhà Thanh nó đè nhà Minh mà làm tàn suy Nho giáo. Vậy mà bài học cũ không chịu học. Cứ phải Mác hơn cả Lê, hơn cả Xít Ta, hơn cả Mao ít. Cứ phải rậm râu hơn ông rậm râu, hói trán hơn cả mấy bố hói trán.


Học phí nào sẽ phải trả đây?


Và bây giờ là chuyện tên nước. Đi một vòng kiểu gì cũng về chỗ cũ. Biết thế nên có người gợi ý theo Tây. Có chữ đất vào tên thành Vietland. Giống England, Deutschland, Switzeraland và cả Thailand nữa. Có người gợi ý là phải bỏ chữ Nam, tức là có tý rút kinh nghiệm từ bài học có chữ Nam của Minh Mạng trong tên, để mà thành Đại Việt.


Nhưng mà nước mình không thích dùng chữ đất. Mà phải là Nước cơ. Hoặc cùng lắm là Đất Nước.


Cho nên cuối cùng, để văn vẻ ngắn gọn mà nói, Nước Việt là gọn nhất. Nhưng nếu muốn thể hiện cái thể chế chính trị, thì vẫn phải có ít nhất là chữ Cộng Hòa vào. Là Nước Cộng Hòa Việt vậy.


Hay có bạn gợi ý, để có tí xí xớn, tự mình bớt tự ti của mình đi, thì là Nước Cộng Hòa Đại Việt.


Cách gọi tên Cộng hòa Đại Việt này, trông thế cũng không có gì mới, ví như đã có Đại Hàn Dân Quốc. Dân Quốc là một cách phiên nghĩa khác của chữ Cộng Hòa. Chuyển qua tiếng ta là Cộng Hòa Đại Hàn vậy. Việc phiên nghĩa của những từ có gốc gác từ văn minh Lưỡng Hà, như Cộng Hòa, cũng nên nhìn nhận lại. Như chữ Dialectic, ta vẫn hay gọi là biện chứng, thực chất như Nông Duy Trường giải thích, nghĩa đúng chỉ đơn giản là Hỏi-Đáp. Đấy cũng là một bài học nhỏ, chỉ có điều chưa hoặc không phải trả bằng máu mà thôi.


Còn lại, bài học lớn nào, ở ta, cũng đều đẫm máu cả.


Cho nên từ chuyện học cái lễ giỗ tổ, cũng nên học lại cái cách đặt tên nước cho đúng và ít học phí nhất.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 20, 2013 19:47

Nguyễn Quang Lập's Blog

Nguyễn Quang Lập
Nguyễn Quang Lập isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Quang Lập's blog with rss.