Nguyễn Quang Lập's Blog, page 35

April 20, 2013

Khấu đầu em lạy anh: hòn đá!

Bái Thạch Vi Huynh ( vần Đá)


daLinh khí đất trời, lạy anh là đá


Đích thị chủ mưu ấy Bộ văn hóa


 


 Tôi mua anh về, mài mài cạ cạ


Mực tàu pha sơn, bôi bôi xóa xóa


Hán Phạn tùm lum, chú phù đủ cả


 Chích chích chi chi, trào triết âu á


 


 Tôi khiêng anh lên


 Yểm vào đền cả.


 Úm ba la hồng, om ma ni phạ.


 


Anh nay yểm ở ngôi cao, trấn tận cội nguồn đấy nhá.


 Quốc sự dân sinh trăm miền đủ cả.


 


 Mà xem


Trấn rồi yểm xong muôn nơi tá hỏa.


 


 Nghìn năm Thăng Long hào khí ngất trời, đùng một cái dàn pháo hoa tóe lả, người chết người bị thương đủ cả, cứu hỏa cứu thương nháo nhác chạy lung tung.


 


 Muôn thủa Hồng Lam lụt lội mênh mông, sấy bốn bánh xe đường dài ngập chìm, ai mất ai trôi sông tang thương, thơ lặn thợ bơi bì bõm tìm vất vả.


 


 Nóc Đông Dương bô xít Tân Rai, bán cho ai mà họp xuống họp lên, khởi khởi công công, lở loét môi sinh đào đào phá phá.


 Nguồn Trà Mi thủy tai Đất Quảng, ngăn một dòng mà động trên động dưới, lở lở rung rung.


 


Vi-na-sin chìm nghỉm bể tham quan


 Vi -na-lai tan tành cầu cướp phá.


 


 Chứng khoán sàn thê thảm rớt không phanh


 Bất động sản cỏ trùm như đắp mả.


 


 Lập huyện Tam Sa lũ Tàu chiếm Biển Đông


Cướp đất Cống Rộc quan nha dùng đạn nhả.


 


 Dân như con sâu cái kiến, luôn năm đi rồng rắn biểu tình


 Quan như ông hổ ông hùm, mút mùa họp chó dê cắn nhá.


 


 Doanh nghiệp bể như là bong bóng, công nhân ra đê gạt tép vơ bèo.


 Xã hội tan quá thể bầy đàn, cướp giật xuống đường đâm quen hiếp lạ.


 


 Cháu ngoan Bác Hồ thành thanh nữ, gả nước ngoài như chọn chó chọn trâu.


 Nghệ sĩ ưu tú về già tom, ăn lạc rang tựa ở tù ở vả.


 


 Bùa hỡi là bùa!


 Đá ơi là đá.


 Xoen xoét nó vừa vừa, tiền đầy túi còn nhe nanh cải mả.


 


 Ngẫm thay buôn thánh bán thần, Đảng Mác Lê khoa học khoa hành mà chúng nó làm ăn như thế hả!!!


Khấu đầu em lạy anh: hòn đá.


Cảm ơn Hoàng Lê gửi cho bài này, không rõ của ai



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 20, 2013 17:04

Phát súng lệnh của một đợt trấn áp dân oan mới?

Sao Hồng



Tổng thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong tranh phát biểu tại Cuộc họp (Ảnh: HNV)

Tổng thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong tranh phát biểu tại Cuộc họp (Ảnh: HNV)


Theo thông tin từ báo chí nhà nước, hôm 18/04/2013, trong cuộc họp bàn “nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo phục vụ các kỳ họp của Trung ương Đảng và Quốc hội” do Thanh tra Chính phủ (TTCP) tổ chức với sự tham dự của lãnh đạo các Bộ, ngành và 22 tỉnh, thành phố. Ông Huỳnh Phong Tranh, vị “Tổng chỉ huy” ngành Thanh tra nêu quan điểm: “Để nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, các tỉnh, thành phố phải dự báo, nắm tình hình khiếu kiện kịp thời để ngăn chặn, xử lý. Quan trọng nhất là phải tăng cường đối thoại, giải quyết tại cơ sở theo thẩm quyền”. Đối với các đoàn đông người quá khích, đặc biệt là những đoàn mang màu sắc chính trị tại Hà Nội và TP.HCM, Tổng Thanh tra Chính phủ yêu cầu “phải tiến hành cưỡng chế, các địa phương có đoàn đông người phải phối hợp để xử lý; sau cưỡng chế, tiếp tục nắm tình hình, thu thập tài liệu chứng cứ để xử lý dứt điểm”.


***


Mình không được nghe trực tiếp ông Tranh phát biểu. Nhưng nếu đúng như các đài, báo đưa tin, thì mình quá thất vọng về phát ngôn của ông.


Mình đã từng làm “chủ nhiệm ban thanh tra nhân dân” ở cơ sở (tức là một cơ quan). Vẫn biết rằng làm “thanh tra nhân dân” ở cơ sở là “cầm cu cho người ta… đái”, nhưng phàm đã làm bất cứ việc gì thì trước hết phải nắm rõ CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ (CN-NV) của bộ phận, đơn vị, cơ quan đó. Nếu một đơn vị, cơ quan chưa có CN-NV thì phải được viết ra và phê duyệt trước khi thành lập đơn vị, cơ quan đó.


Vì thế mình đã từng đọc CN-NV của ngành Thanh tra từ trung ương đến cơ sở (1).


Vậy CN-NV của Thanh tra Chính phủ là gì? Xin bà con xem TẠI ĐÂY. Chỉ chép lại nguyên văn “vị trí và chức năng” của Thanh tra Chính phủ, như sau:


“Thanh tra Chính phủ là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước; thực hiện hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật”.


CHỨC NĂNG thì chỉ cần ngắn gọn và súc tích thế thôi. Nhưng muốn làm hết chức năng thì phải có những nhiệm vụ cụ thể.


Chức năng của thanh tra là bảo vệ quyền công dân; đồng thời cũng bảo vệ uy tín của chính phủ, đảm bảo các cơ quan công quyền hay bất cứ công dân nào cũng tuân thủ và làm đúng luật nhà nước đã ban hành.


 Những vụ “khiếu kiện, tố cáo” của dân đâu chỉ đơn thuần là kinh tế hay đất đai?


Thử hỏi, một cơ quan hành pháp bắt giữ người sai luật; hoặc tiếp nhận thông tin sai hay vì mục đích xấu mà vu khống, quy chụp quan điểm chính trị cho người dân thì họ không được khiếu nại tố cáo chăng?


Mặt khác, khái niệm “quá khích” còn tùy thuộc ngữ cảnh và cách hiểu của từng đối tượng, từng vị trí khác nhau trong xã hội. Muốn hiểu đúng, thường là theo luật, thì phải có những cơ quan như Thanh tra đứng ra tìm hiểu và phối hợp với các ngành khác phân xử.


Ông bảo quá khích, nhưng có những người dân oan đi khiếu kiện hằng chục năm trời mà không có kết quả thì liệu họ có kiên nhẫn?


Đáng ra nhiệm vụ của ngành ông là làm minh bạch, xem xét đúng sai và giải quyết những bất công, những oan ức trong tất cả các lĩnh vực của xã hội và đời sông nhân dân. Để giải quyết thấu đáo, đem lại niềm tin cho công dân và ổn định xã hội.


Cơ quan thanh tra đâu phải thuộc ngành an ninh chính trị, hay cơ quan quản lý trật tự xã hội. Quyền khiếu nại, tố cáo của người dân chẳng phải đã được hiến định bằng các Luật đó sao?


Chẳng nhẽ, khi ngành ông không hoàn thành CN-NV thì ông đổ lỗi cho ngành an ninh trật tự xã hội ở các địa phương?


 Phát biểu của ông Tổng thanh tra làm người ta đặt lại nhiều vấn đề. Mà trước hết là “chức năng và nhiệm vụ” của Thanh tra chính phủ.


Phải chăng, chính cái tên “thanh tra chính phủ” vì mất đi hai chữ “nhân dân” (mà cấp cơ sở vẫn gọi là “thanh tra nhân dân”) nên làm cho ông Tổng chỉ huy Thanh tra đã hiểu sai CN-NV của mình?


Một Tổng chỉ huy của một ngành có “chức năng” bảo vệ dân, bảo đảm luật thi hành công minh mà hiểu sai CN-NV của ngành mình; phát biểu thiếu cân nhắc thì vô tình đẩy người dân về phía đối lập.


Chẳng nhẽ chức năng chống tham nhũng của Thanh tra chính phủ đã đẩy về Ban nội chính trung ương nên ông Tổng chỉ huy ngành phát biểu mang tính bạo lực như vậy?


Hay đây là phát súng lệnh của một đợt trấn áp dân oan mới?


 20/04/2013


Tác giả gửi cho Quê Choa


Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả


…………………………………….


Tham khảo:


- http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30501&cn_id=581346


- http://www.phapluatvn.vn/thoi-su/toan-canh/201304/Se-cuong-che-cac-doan-khieu-kien-mang-mau-sac-chinh-tri-2077331/


- http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/bonganh/thanhtrachinhphu/gioithieu?optionId=2&ministryId=2867


- http://www.soctrang.gov.vn/wps/wcm/connect/667d10004ec6eed481acfbcd2a70be70/ND-83-2012-CP.pdf?MOD=AJPERES&CACHEID=667d10004ec6eed481acfbcd2a70be70



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 20, 2013 04:36

Trải nghiệm với mặt nạ!

Từ Quốc Hoài


image00141Những cái mặt nạ


đón tôi ở lối vào phòng khách


kẻ nịnh người trung kẻ ác người hiền…


tâm tính được vẽ lên mặt


không biến sắc


 


chủ nhà an nhiên pha trà


 


sân khấu là cái chợ


ông mưu sinh với những cái mặt nạ


từ vua tới ăn mày


chỉ cách nhau một lần thay áo


mặt cười tươi nguyên


giữ cho giọt nước mắt lăn vào trong


đằng sau những… cái mặt nạ


là bản mặt ông


mấy ai biết !


người đời tôn vinh những cái mặt nạ


 


các đức ông diễn bằng tiền thuế người đời


không cần tới mặt nạ


các vị ra sàn diễn với bản mặt mình


thật hết thảy


sân khấu, phông màn, mặt mày…


lạ sao người đời một mực chê là giả !


 


nhưng điều này thì chắc chắn là thật


ấy là khi


Thần Chết gọi tới tên các đức ông


cái chết buộc các vị… trình diện bộ mặt thật


 


với sự cố này


vở diễn các đức ông đương nhiên hạ màn.


 Tác giả gửi Quê Choa



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 20, 2013 02:12

April 19, 2013

Bauxite Tây Nguyên & CNXH

lies-truth_1331793154-300x200Đọc hai bài của báo  Tuổi trẻ ( tại đây) và của báo Đại đoàn Kết ( tại đây) đồng thời ra một ngày về thảm kịch của Bauxite Tân Rai, từ đó nhìn thấy rất rõ về cái chết hiển nhiên của dự án  Bauxite Tây Nguyên. Làm sao có thể sống được khi  đã cố bán lỗ vẫn không có ai mua: “Và trên thực tế, nhà máy này còn chưa có được một hợp đồng xuất khẩu nào với các đối tác nước ngoài, sản xuất ra chủ yếu chỉ tiêu thụ trong nước với số lượng ít ỏi.”. Hiện tại đã có 20 ngàn tấn alumin tồn kho, trong khi vẫn cứ phải sản xuất một ngày một ngàn tấn alumin. Chỉ cần từ đây đến cuối năm là 8 tháng, tức 240 ngày, Bauxite Tân Rai sẽ tồn kho 240 ngàn tấn alumin. Nếu không kịp thời đóng cửa khẩn trương có thể nhìn thấy thảm họa mọi mặt ghê gớm của nó, không phải nói nhiều.


Mới đây thôi, trên VTV ngày 10/3, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng vẫn khăng khăng:“Triển khai dự án bô-xít là cần thiết”. Tại cuộc họp báo Văn phòng chính phủ ngày 28/2, Bộ trưởng Vũ Đức Đam vẫn cho rằng “một số dự án xét thấy phải đầu tư dù hiệu quả kinh tế thuần túy thì chưa hiệu quả nhưng tổng hòa (cả lợi ích kinh tế – xã hội) phải có lợi mới làm.” Đến đây có thể hỏi cả hai bộ trưởng: Bauxite Tây Nguyên cần thiết cho ai, có lợi cho ai?


Còn nhớ cách đây ba, bốn năm, 2009-2010, các nhà khoa học và các chuyên gia kinh tế, Đại tướng Võ Nguyên giáp và một số tướng lĩnh, đại biểu Quốc hội và nhân sĩ trí thức cả nước đã lên tiếng đòi dẹp bỏ dự án này, Thủ tướng vẫn dõng dạc tuyên bố: “Bauxite Tây Nguyên là chủ trưởng lớn của Đảng”. Dựa vào tuyên bố dõng dạc ấy, thứ trưởng Bộ công thương Lê Dương Quang đã dõng dạc mắng mỏ qui kết tất cả những ai chống lại dự án này là ” dựng chuyện, trầm trọng hóa, thậm chí mang tính kích động và bị các tổ chức phản động lợi dụng.” ( tại đây)


Hi hi bây giờ đã trắng mắt ra, đã rõ ai lú ai thông, ai bị ai lợi dụng. Nhưng thôi, mình viết bài này cũng chẳng để qui kết ai. Nó rõ ràng đến mức không cần nói thêm một điều gì nữa người ta cũng biết ai sẽ phải chịu trách nhiệm trước sự đổ bể dự án này. Mình chỉ thấy vui vui là câu chuyện Bauxite Tây Nguyên nó na ná câu chuyện xây dựng CNXH ở nước ta vậy, cả hai đều là những cái chết được báo trước, ai cũng hiểu chỉ có mấy ông lú là không hiểu.


Thoạt kì thủy CNXH không những là “chủ trương lớn của Đảng ta”, nó đích thị là lý tưởng, là kim chỉ nam. Nhưng hơn nửa thế kỉ càng đeo lấy CNXH đất nước càng lụn bại, khi nào Đảng buông CNXH thì đất nước lại khấm khá lên, lắm khi như chết đi sống lại vậy. Bác Ngô Minh đã tổng kết 5 lần phá CNXH  để tồn tại ( tại đây), chính nhờ 5 lần phá đó mà Đảng ( và chế độ) ta sống sót đến ngày hôm nay.


Cũng giống như Bauxite Tây Nguyên, nhìn thấy rất rõ xây dựng CNXH chẳng lợi lộc gì, chẳng những không lợi lộc mà hết sức nguy hiểm. Trên thế giới hệ thống CNXH đã sụp đổ, sụp đổ vì sự trái qui luật chứ chẳng vì ai cả, kẻ có chỉ số IQ bằng không cũng biết chắc như vậy, không cần phải người thông minh. Cũng như Bauxite Tây Nguyên, mấy ông lú cũng biết CNXH chẳng lợi lộc gì, càng làm càng thua lỗ, càng giữ càng nguy hiểm…  nhưng vẫn không ai dám bỏ. Đến đây cũng như Bauxite Tây Nguyên lại phải hỏi: đi theo CNXH để làm gì, cần thiết cho ai, có lợi cho ai?


Câu trả lời rất rõ ràng: có lợi cho Đảng, cần thiết cho Đảng, chỉ có cần thiết cho Đảng có lợi cho Đảng mà thôi. Nói thế cho nó nhanh.


 Vì sao thế? Bởi vì Đảng luôn muốn giữ vai trò lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối, không muốn trao cái quyền ấy cho ai. Mình thấy đó là nguyện vọng chính đáng. Mình mà lãnh đạo cái Đảng này thì mình cũng cố sống cố chết bảo vệ cho được sự lãnh đạo của Đảng. Chẳng ai ngu từ bỏ vũ đài chính trị, nhường quyền lãnh đạo cho kẻ khác cả.


Nhưng tại sao cứ phải đi theo CNXH mới bảo vệ được sự lãnh đạo của Đảng, trong khi càng theo CNXH Đảng ngày càng suy thoái, ngày càng mất uy tín đối với dân? Câu hỏi này cũng tương tự như câu hỏi tại sao cứ phải duy trì dự án Bauxite Tây Nguyên mới bảo vệ uy tín của Đảng, trong khi càng đeo lấy Bauxite Tây Nguyên Đảng càng mất uy tín, càng hao của tốn tiền?  Nếu Đảng đứng ra xin lỗi dân về sai lầm của mình và tuyên bố từ bỏ Bauxite Tây Nguyên thì Đảng càng có thêm uy tín với dân, có gì đâu nhỉ?


Cũng vậy, bây giờ nếu Đảng đứng ra tuyên bố đi theo CNXH là sai lầm, từ nay lấy Độc lập- Tự do- hạnh phúc của nhân dân làm lý tưởng của Đảng, lấy dân chủ làm kim chỉ nam để xây dựng đất nước, kiên quyết bỏ cái đuôi định hướng CNXH, kiên quyết không theo chủ nghĩa nào, tư tưởng nào hết… thì thế nào? Thì có mất Đảng không, Đảng có sụp đổ không?


Không. Hoàn toàn không!


  Khi đó dân sẽ vỗ tay hoan hô Đảng rần rần, nhất trí cái rụp để cho Đảng tiếp tục lãnh đạo chả cần tranh cãi có điều 4 hay không trong Hiến Pháp. Cho dù có đa nguyên đi nữa, bảo đảm sẽ chẳng có đảng nào cạnh tranh nổi vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Chắc chắn là như rứa.


Tui nói rứa có phải không bà con?


NQL



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 19, 2013 23:03

Hậu duệ Bác Hồ học Bác mãi vẫn không thuộc bài, càng học càng suy thoái

Đoàn Vương Thanh


“Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”

“Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”


Ở nước ta, như nhiều tài liệu tổng kết của Đảng và Nhà nước, thì cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 thắng lợi vang dội, chủ yếu là thời cơ.


Thời cơ kết thúc đại chiến thế giới lần thứ hai, cũng là kết thúc chủ nghĩa phát xít, làm lung lay đến tận gốc chủ nghĩa đế quốc, đồng thời cũng là bài học của chủ nghĩa tư bản, để từ đó có thể rút ra những định lý, những nguyên tắc cải tổ, bảo đảm chủ nghĩa tư bản thoát khỏi nguy cơ “rẫy chết” như một số người cộng sản mong muốn, ngược lại, sau đại chiến thế giới lần thứ hai, chủ nghĩa tư bản được giai cấp tư sản thế giới và hệ thống chính trị của nó thực hiện nhiều cải tiến, cải tổ cả về chính trị, tư tưởng lẫn kinh tế.


Về một góc độ nào đó, 50 năm qua, nghĩa là từ sau kết thúc chiến tranh thế giới lần hai, chủ nghĩa tư bản thể giới được phát triển tự thân và phù hợp với xu thế thế giới, trong khi chủ nghĩa xã hội, hay gọi là phe xã hội chủ nghĩa bắt đầu có những rạn nứt không thể tránh khỏi. Từ năm 1956, bắt đầu bằng vụ “chính biến ở Hung-ga-ri” sau đó liên tiếp có những vụ xảy ra trong lòng cách nước “xã hội chủ nghĩa” Nhân dân lao động thế giới bắt đầu nhận rõ những “cộng sản độc tài”, “toàn trị” mà cái họ ủng hộ, hi sinh bảo vệ trước đó, đã bị phản bội.


Kết thúc đại chiến thứ hai vào năm 1945 cũng là thời cơ gần như có một không hai, chính Bác Hồ và một số đồng chí tiền bối của Đảng cộng sản đã “cướp” lấy thời cơ, khai thác sâu vào mâu thuẫn giữa một nước phong kiến nửa thuộc địa với đế quốc, chủ yếu là đế quốc Pháp, tập hợp nhanh chóng đội ngũ cách mạng, vừa xây dựng lực lượng vừa tiến hành đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang, tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền vè tay nhân dân.


Sau khi tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh và chính phủ của Cụ thực hiện ngay một nền dân chủ rộng rãi, thành lập và đi vào hoạt động thực chất của Mặt trân Liên Việt, thu hút nhiều nhân sĩ, trí thức từ nước ngoài về cộng tác và phục vụ cách mạng. Cụ và Chính phủ của Cụ rất đúng đắn khi trọng dụng nhân tài, tức là sử dụng tài tình các nhân sĩ trí thức mà sau đó nhiều người đã trở thành Anh hùng, góp phần làm vẻ vang cho dân tộc và đất nước. Thậm chí trong Chính phủ Liên hiệp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, còn có mắt cả những người đối lập như Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh. Một số người của Quốc dân đảng (của Nguyễn Thái Học), của một số đảng phái khác đã được thu nạp bố trí là thành viên Chính phủ hoặc phụ trách các ngành quan trọng. Đó là Chủ tịch Ủy ban hành chính thành phố Hà Nội, Bác sĩ Trần Duy Hưng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên…


Chính Cụ Hồ đã ký quyết định cho ra đời hai Đảng chính trị trong Mặt trận là Đảng Dân chủ do ông Dương Đức Hiền làm Tổng thư ký và Đảng Xã hội do ông Nguyễn Xiển làm Tổng thư ký. Hai đảng chính trị này đều có tôn chỉ mục đích, chính cương điều lệ của họ không hoàn toàn giống như chính cương điều lệ của Đảng Lao động (tức Cộng sản). Và nó cũng đã thu hút được các tầng lớp trung gian, trí thức, tiểu tư sản, thậm chí tư sản dân tộc chung lưng góp sức kháng chiến, sau này  là cuộc chống Mỹ, cứu nước vĩ đại, đi đến giải phóng toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc. Thời kỳ đó, chúng ta vừa có độc lập, vừa có dân chủ tự do, bình đẳng, vừa có Mặt trận làm nhiệm vụ đoàn kết toàn dân, đồng thời cũng là thời kỳ “đa đảng”. Thời kỳ ấy được ghi vào lịch sử một sự đúng đắn về đường lối cách mạng của Đảng cộng sản.


Đảng cộng sản không cần có một điều nào ghi vào Hiến pháp mà vẫn được nhân dân và các đảng phái khác công nhận. Còn ngày nay, sau hơn nửa thế kỷ từ sau cách mạng tháng Tám 1945 và sau gần 40 năm thống nhất nước nhà, chúng ta đã mắc một số sai lầm, gạt hai đảng chính trị khỏi Mặt trận, duy trì “độc đảng” và quyết sách nhiều vấn đề thuộc chủ trương đường lối của Đảng không còn phù hợp thời đại và lòng dân, nên chính Đảng đã làm mất lòng tin của dân chúng, những người đã hi sinh cả tính mệnh của cải của mình bảo vệ Đảng trong những lúc cam go nhất.


Nhân dân Việt Nam bây giờ, có người mạnh dạn nói, Đảng Cộng sản đã quên ơn nhân dân, đã đi theo con đường “tư bản đỏ” đã xa rời nhân dân, thậm chí có một số chính sách đẩy nhân dân về phía thù địch. Nghĩa là hầu như không còn dân chủ và tự do nữa. Nếu có còn dân chủ thì chỉ là “dân chủ hình thức” “dân chủ giả vờ” thực chất là tập trung quyền hành vào tay Đảng. Nhìn vào hệ thống chính quyền bốn cấp, nhân dân thấy rõ “nền dân chủ cộng sản Việt Nam chỉ là cái vỏ, thực chất là sự tập trung quyền lực vào một số người, gần đây là vào tay, những “nhóm lợi ích” không đại diện cho Đảng cũng không đại diện cho nhân dân.


Ví dụ, tại cơ sở xã, phường thị trấn, người lãnh đạo chủ chốt (có vài ba người) đều là “cánh hẩu” được “đảng cử và bắt dân bầu cho hợp lệ”. Mọi quyết sách tiếng là đưa ra HĐND hoặc Đảng bộ, nhưng thực chất là quyết định của Bí thư và chủ tịch cả. Lên đến cấp huyện, cấp tỉnh, và cấp trung ương cũng thế thôi. Quốc hội có đến 500 đại biểu (nay chắc còn 498) nhưng quyền hành nếu có của Quốc hội chỉ nằm trong tay UBTVQH, hay chỉ trong tay Chủ tịch Quốc hội mà thôi. Nhưng cơ quan quyền lực tối cao ấy lại phụ thuộc rất nhiều vào ý kiến, quyết sách của Bộ Chính trị trung ương Đảng, nhiều khi Bộ chính trị cũng chỉ là danh nghĩa, còn tập trung vào ông Tổng Bí thư và chung quanh ông là cả một tập thể thư ký không chức vụ rõ ràng nhưng quyền hành thì vô tận.


 Cụ Hồ đã dạy “có độc lập mà không có dân chủ tự do thì độc lập ấy không có ý nghĩa gì” Thực tế trong cuộc sống hiện nay, trên bất kỳ lĩnh vực nào của đất nước và xã hội đều bị coi nhẹ hoặc mất hẳn dân chủ, dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện đều không có. Người dân không được “mở miệng”, không có tự do hội họp lập đoàn thể, không có “tự do ngôn luận”, tất cả báo chí phát thanh truyền hình hằng năm ngốn Ngân sách không biết bao nhiêu mà kể chỉ là để nói một chiều. Theo tôi nói một chiều cũng là một dạng của chính sách ngu dân, mà hồi đầu cách mạng tháng Tám ta lên án rất mạnh chính sách ngu dân của đế quốc đô hộ. Các nhà lãnh đạo hiện nay hãy bình tĩnh, sáng suốt suy nghĩ và có sự thay đổi phương thức một cách cần thiết trước hết là vì các vị, chứ chưa phải là vì dân đâu, cái “vì dân” là cái có sau.


 Tôi có nhận xét rằng, chúng ta chỉ hô hào học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, làm theo tấm gương đạo đức của Người, nhưng vì sao càng học càng không vào, càng học thì càng suy thoái ở một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, kể cả đảng viên ở cấp cao. Càng hô hào dân chủ thì càng “độc quyền”, càng xây dựng đạo đức xã hội chủ nghĩa thì càng băng hoại đạo đức, càng chống tiêu cực, chống tham nhũng, chống tội phạm thì các loại này càng phát triển tinh vi không thể tưởng tượngnổi.


Lòng dân bây giờ không yên, mà nếu có yên thì chỉ là bề mặt chứ thực chất họ đang mong muốn có thay đổi về cơ bản. Đối với dân chúng, thì ai lãnh đạo họ mà đem lại đời sống tự do, dân chủ, giữ được đất nước hòa bình, đời sống ngày càng được cải thiện, có đủ cơm ăn, áomặc, nhà ở, con cái họ được học hành tử tế, nên người, có nhiều người giầu có chính đáng, là họ ủng hộ và tin tưởng.


Điều này đơn gian thôi. Đơn giản nhưng rất khó thực hiện. Vì các nhà lãnh đạo phải hết sức công tâm, vừa có tài vừa có đức, coi trọng dân, lấy lợi ích quốc giadân tộc làm mục tiêu phấn đấu cả đời./.


 Tác giả gửi Quê Choa


Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả


…………………………………………………………..

Đoàn Vương Thanh, tức Nguyễn Thanh Hà, 79 tuổi, cựu phóng viên TTXVN,

ĐT 0166 83 83 020 và 0321 6295 440. Email: nguyenthanhhahy@gmail.com



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 19, 2013 03:08

Cương quyết không đi theo ai, để đến cái nơi mà mình không hề biết !

Hạ đình Nguyên.


clip_image002[3] 1. Từ câu chuyện nhỏ


Cách đây đã khá lâu, khi quét dọn căn phòng trọ, tôi nhặt lên một mảnh nhật báo cũ ai đó bỏ rơi. Dừng chổi, tôi đọc lướt qua một câu chuyện rất ngắn, có tựa đề : “ nhớ về một chuyện đụng xe” của Nhà văn NQS. Câu chuyện nhỏ theo tôi đến tuổi già. Chuyện như sau, lược theo trí nhớ.


… “Hôm ấy, tôi đạp xe theo sau một người bạn đi về hướng Chợ Lớn, để tới một nơi hẹn. Khi đến một ngã tư, anh bạn đã vượt qua, tôi qua chưa kịp thì đèn chuyền sang màu vàng báo hiệu dừng lại. Nghĩ rằng tôi có thể vượt qua nên cố sức nhấn bàn đạp dấn tới. Một xe đạp khác băng qua. Chúng tôi đã va vào nhau, đều té ngã. Đứng dậy, chúng tôi cãi nhau chuyện phải quấy. Ai cũng đưa ra lý lẽ của mình. Tôi kịch liệt bảo vệ lập trường của tôi. Giao thông bị trở ngại. Một Cảnh sát tiến đến. Anh ta nói : “hai bác cũng đã lớn


tuổi, hai xe không hư hại gì, cũng chẳng ai trầy sướt, hai bác nên hòa nhau, đừng cãi nữa”. Chúng tôi đồng ý giải hòa và sau đó, phần ai nấy đi, theo hướng của mình. Tôi mất hút ông bạn. Tôi ăn năn tư nhủ, lẽ ra tôi phải dừng xe lại khi đèn vàng báo hiệu, nhưng tôi cố tình vượt qua, vì sợ lạc ông bạn, tôi sẽ không biết đi đâu, vì không biết địa chi rõ ràng, lại trong cảnh phố rộng người đông.!


Xét cho cùng, tôi kết luận: ở đời phải biết chổ đến của mình, nếu đi theo người ta mà không biết về đâu, sẽ rước lấy tai họa, có khi phí cả cuộcđời. ”./.


Câu chuyện nầy làm tôi nhớ mãi, về sự đi theo mà không biết rõ nơi đến. Tình cảnh nầy có lẽ không riêng ai, có khi là cả dân tộc ?


 Nhân dân VN đã đi theo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, suốt 2/3 thế kỷ, để đấu tranh giành Độc lập, Tự do, Dân chủ, đem hạnh phúc về cho nhân dân.


Mục tiêu như thế đã rõ, chỗ đến đã được minh định, với Hiến pháp năm 1946. Dù rằng trong quá trình kháng chiến, ĐCS VN cũng đã hứa hẹn thêm cho tương lai một CNXH tươi sáng, “Đem nhu yếu ra mà dẫn dắt nông dân đến chiến trường”! (Luận cương Đảng CS năm 1930)


Nhưng nhiều thế hệ đã hy sinh đời mình, kể cả những người đang sống sót, cũng không biết CNXH là gì, và họ cũng đã từng “chưa quan tâm”. Chiến đấu vì Độc lập Tự do trước đã !. Như cô gái Lai Vu, theo nhà thơ Tố Hửu: “Rắn quấn bên chân vẫn bắn thù”.


Chuyện thật hư chưa ai biết, nhưng ví phỏng việc rắn quấn vào chân còn gác lại, huống là cái chủ nghĩa cao siêu mộng tưởng ấy.


 Ông Hồ Chí Minh, năm 1946 đã gọi lớn : Hởi đồng bào cả nước ! Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, Tạo hóa cho họ những quyền không ai xâm phạm được,trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tư do và quyền mưu cầu hạnh phúc… (Tuyên ngôn Dộc lập)


Cả nước đã vào cuộc chiến tranh.


Và 30 năm chiến tranh kết thúc, Độc lập thì “tạm xem như” đã có. Tư do Dân chủ thì chưa.! Nó được thay thế bằng từ ngữ “CNXH” rất rỗng rang, do Đảng CS hiện nay tiếp tục lãnh đạo, dưới bộ máy chuyên chính vô sản. Suốt chặng đường 38 năm nay, một con đường mờ mịt quanh co, lúng túng không có lộ trình, không biết nơi đến, không rõ khuôn mặt, mà tuyệt nhiên, thực chất, chẳng có ai biết nó ra sao, kể cả mấy anh lớn dẫn đường ! Anh cả Liên Xô thì đã bỏ cuộc, một đi không trở lại. Anh Ba Trung quốc thì thành


“Bá quyền”, bầy hầy, lếu láo mà lại phản bội. Bây giờ thì đi đâu ? Hiện nay, không ai biêt một Việt Nam trong tương lai sắp đến như thế nào !.


2.Sự đi theo


Con đường có nhiều khúc quanh.


Năm 1959, ông Hồ Chí Minh nói : “Từ khi Đảng CSĐD thành lập, nhân dân VN luôn hướng về Liên Xô, đất nước của Lênin vĩ đại, và coi Liên Xô là Tổ quốc Cách Mạng, Tổ quốc thứ 2 của mình” (1). Chuyện nầy, thuộc về quá khứ, nó nằm trong zig zag mà lịch sử đã vượt qua. Nhưng chuyện hôm nay, khi cái cột mốc vĩ đại đó chì còn là một phế tích, thì sự thật đã quá lõa lồ.


Năm 2013 của thế kỷ 21, thời đại của toàn cầu hóa, nhưng trên đống tro tàn vẫn còn gầm lên một thứ “triết lý bọc thép”, bất chấp thời đại: “Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng 10 (Nga) đã dẫn đầu sự ra đời của Tổ quốc XHCN, một Tổ quốc kiểu mới trong lịch sử nhân loại, đặc trưng bởi chế độ xã hội XHCN” Người phát ngôn những lời xanh rờn, bí hiểm một cách vô nghĩa đó, là một Trung tướng, Tiến sĩ!(2)


Tìm đâu thấy ?. Việt Nam là ai, mà muốn làm “Tố quốc kiểu mới” vượt lên trên nhân loại, lại còn đặc trưng, đặc sản nữa ! Mà chỉ thấy “Sự diễn trò rập khuông ngông nghênh quẩn đục phi sáng tạo” (3), như cơn bốc đồng của một kẻ say xỉn.


Những người “dẫn đường” của Việt Nam hiện nay vẫn cương quyết dẫn đường.! Vì lý do rõ nhất, trong khi dẫn đường, họ được tự do gấp vạn lần tự do của nhân dân, được tham nhũng thoải mái vì có luật pháp của mình che chắn, được ăn uống tất cả các thứ mà con người có thể ăn uống được…


Cái triết lý duy nhất, cuối cùng để biện minh: “Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng, nhưng có một số con bình đẳng hơn những con khác”(4). Cái bình đẳng của “một số con” nầy, đã nhân danh nhân dân, nhân danh chính nghĩa, đã vượt thời đại để lao lại về… một quá khứ tối tăm.


 Nhân danh sự bình đẳng ấy, lực lượng tuyên truyền đề cao Đảng với một thứ ‘triết lý bọc thép”, có thể tóm tắt: công giành được giang san nầy là của Đảng, do đó đất nước nầy là sở hửu của Đảng, dân tộc nầy là thuộc quyền điều khiển của Đảng, nhờ Đảng mà có, do Đảng mà sống, nên Đảng có quyền muốn dẫn đi đâu thì dẫn ? Hiểu khác, là đồng nghĩa với phản bội, là phủ nhận “công ơn” của đảng.


Phải chăng hình mẫu đặc sắc của VN mà Đảng muốn là mô hình Bắc Triều Tiên, ở đó nhân dân chịu lép một bề dưới quyền cai trị của một nhóm người ?


Lối suy nghĩ nầy thuộc về thời tiền sử, tồi tệ hơn phong kiến, thực dân và đế quốc cộng lại, mà ĐCS trước đây, luôn lưôn tuyên bố chống lại nó !.


 Lẽ nào, cuộc chiến tranh giành độc lập nầy không phải là ý chí và xương máu của toàn dân ?, của hàng hàng lớp lớp thế hệ thanh niên con em của nhân dân, là tim, là máu, là thịt với gần một thế kỷ đã hy sinh ? Hay chì có Đảng CS, và đặc biệt được rút gọn lại thành chỉ là các anh hôm nay ? Đảng có thể là “đại diện”, chứ không là tất cả, trong một giai đoạn đã qua, xin tạm để dành lại cho lịch sử . Nhưng hôm nay, dù Đảng nầy vẫn còn danh nghĩa


là Đảng ấy, nhưng Đảng ấy đã biến thành Đảng nầy, khi mà, nếu nó không còn chứng tỏ được trái tim có phẩm chất xứng đáng, và một trí tuệ bắt kịp thời đại, thì sẽ không còn là đại diện cho ai nữa, dù là đại diện giai cấp nầy nọ, hay đại diện của nhân dân.


 Không thể đồng hóa lợi ích và một mớ di sản khẩu hiệu giáo điều của một số ít người với cả lịch sử của Đảng và cuộc kháng chiến của toàn dân. Cái món nợ gần 70 năm qua của Tuyên ngôn Độc lập và Hiến Pháp 1946 hãy còn nguyên. Nước Nhật trong đống tro tàn, đã cùng một thời điểm xuất phát đó, cũng vào năm 1946 đó, với 30 năm của một Hiến pháp Dân chủ tiến bộ, đã trở thành một cường quốc. Xét cho cùng, nhân dân Việt Nam lấy cái gì để tự hào và lên giọng, ngoài cái hy sinh 30 năm xương máu, và 38 năm đi quanh quẩn cùng với các khẩu hiệu và cờ trống ? Ăn vào quá khứ, vơ vào mình những công lao moi lên từ những nấm mồ, mà không làm nên được một đột phá nào để thoát tình cảnh lùng bùng và tụt hậu hôm nay, đúng là điều sỉ nhục của trí tuệ và lương tri, là biểu hiện của những lời huênh hoang.


 Đảng đã tư nhận là suy thoái – mà là suy thoái toàn diện – đã nhận ra là đánh mất niềm tin của nhân dân, thì thái độ tự cao, tư tưởng bảo thủ, lý sự đúc sẳn theo khuông, chắc chắn không phải là giải pháp ứng xử thích hợp cho tình thế hôm nay.


Sửa đổi Hiến pháp là cơ hội để thay đổi não trạng, để có thể nhìn lại lịch sử, để điều chỉnh hướng đi, là xây dựng một đích đến cụ thể. Dân tộc không thể chấp nhận việc “tiến lên”, “tiến tới” một cái nơi mơ hồ, được ngụy biện bằng những từ ngữ không có nội dung.


Nhân loại đã dành sự ngưỡng mộ cao nhất cho chính trị, ở nơi người lãnh đạo, đó là đạo đức, là tư tưởng nhân bản, là một nhân cách cao hơn hẳn, và phải là một trí tuệ sáng suốt, có khả năng nhìn thấy được tương lai. Nếu không được như thế, hàm lượng của những tố chất nói trên quá ít ỏi, thì đó là một tai họa khủng khiếp cho dân tộc. Người ta vẫn cho rằng, làm chính trị sai, hại cả một thế hệ, làm văn hóa giáo dục sai, hại nhiều thế hệ. Điều đó sẽ không đúng trong một chế độ chính trị ‘toàn trị”. Toàn trị sẽ đem lại hệ quả rất khủng khiếp, nó bít kín tất cả, không cho phép có một kẻ hở nào để có bất cứ một sự nẩy mầm tươi mới tốt đẹp hơn xuất hiện. Vì văn hóa giáo dục cũng chỉ trở thành một thứ “chiến binh”, là một sắc lính trong các sắc lính, được trang bị một loại tư duy theo kiểu công cụ, đồng đẳng với các công cụ bạo lực khác.


 3. Sự khoán gọn


Trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, phải chăng Điều 4, là một thứ văn kiện “hợp đồng khoán gọn”, giao cả sinh mệnh trước mắt và lâu dài của cả dân tộc cho một “đội thầu”, mà đội thầu đó lại có quá nhiều quyền hạn, từ thiết kế đến thi công, kiêm giám sát công trình, làm báo cáo hoàn công; và đặc biệt, thay mặt cả “chủ đầu tư”, có quyền đánh, bắt, bỏ tù “chủ đâu tư”. Phương chi, đội thầu ấy, đang thoái hóa đến toàn diện, mất hết niềm tin của “chủ đầu tư”. Nếu “hợp đồng khoán gọn” nầy có tồn tại trong Hiến Pháp, thông qua cuộc “lobby” hoành tráng bằng các kỷ xảo bạo lực, thì Hiến Pháp ấy cũng không có trong lòng dân.


Cho dù có kẻ quan niệm trắng trợn rằng, chính trị là thủ đoạn, đời sống là thực dụng, quyền lực là ưu thế chăng nữa, thì sự khinh-trọng trong nhân dân vẫn là chuẩn mực của giá trị sống hằng ngày và lâu dài, nó có sức mạnh vĩnh cửu trong lòng dân tộc. Đoàn người sẽ ngày càng đông, giới trẻ càng nhập cuộc, vẫn đang tiến về phía trước, hướng về mục tiêu dân chủ, chỉ vì con tàu của đất nước, đặc biệt đang đứng trước họa xâm lăng của “Chủ nghĩa Xã hội” Đại Hán. Ngoài ra, không có một giá trị nào khác được so sánh, như sự “tồn vong” của Đảng chẳng hạn…Vả lại, sự “tồn vong” nầy nằm trên nền tảng dân chủ hay không. Thế giới từng cảnh báo : Với Trung Hoa Cọng sản, hòa bình chỉ đến khi họ thống trị thiên hạ mà không còn sự đề kháng nào xảy ra.


 Bức họa đồ cho cuộc hành trình mà điểm đến phải là bản Hiến Pháp của toàn dân. Không thể hồ đồ vu cáo cho ai là thoái hóa, hay có âm mưu chia rẽ dân tộc. Chỉ bằng cái nhìn khách quan cũng thấy rõ, thông qua đợt góp ý sửa đổi HP, có 2 luồng chảy, như Đảng đã tự phân chia “lề phải và lề trái”, người ta thấy nó đồng nghĩa với “lề đảng và lề dân”, trong đó có một phía là Đảng CS lãnh đạo, và luồng chảy kia là trong lòng nhân dân. Chừng nào chưa có một cuộc trưng cầu ý dân một cách chân thực, dân chủ, minh bạch, thì không ai có thể nhân danh được, theo cách có danh dự, hai chữ Nhân dân, Tổ quốc, hay Công lý ! Dù có 20 triệu lượt ý kiến góp ý về Hiến pháp, hay 100 triệu đi nữa, theo cái cách đó,


thì cũng vô nghĩa, vì không có giá trị về sự trung thực. Tiếc thay, niềm tin đã mất, càng thêm mất, đến chẳng còn gì !


 Còn quá xa vời để so sánh với quốc gia cùng một thời điểm xuất phát, nước Nhật với Minh Trị Thiên Hoàng và nhà tư tưởng Fukuzawa : “Xây dựng và bảo vệ tự do của một quốc gia, là thông qua xây dựng và bảo vệ tự do của mỗi công dân”.


Họ đã nói thật, nên họ đã làm được, đã qua 100 năm.(1912- 2013).Thực tế chứng minh : Tư tưởng tự do đã đem đến tiến bộ. Tư tưởng toàn trị chỉ kéo lùi lịch sử.!


 Đèn vàng đã báo hiệu dừng lại, là sự nhắc nhở cần thiết cho toàn dân, kẻ dẫn đường, lẫn kẻ đi theo mà không biết đích đến, sẽ gặp tai họa, mà một số trong số những kẻ dẫn đường, sẽ nhanh chóng biến mất ở một con hẻm nào đó, như một kẻ cắp, sau khi đã làm kẻ cướp. Quả thật, nếu vai trò dẫn đường nằm trong tay người không lương thiện, hoặc là loại vớ vẫn, thì tai họa cho dân tộc biết chừng nào !


Nhất Đảng “công mình”, vạn cốt khô !


 Tôi luôn nhớ câu chuyện nhỏ nầy và cương quyết không đi theo ai, để đến cái nơi mà mình không hề biết ! ./.


HĐN, 2-4-2013


Tác giả gửi Quê choa


Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả


 ……………………………………..


(1) Chuyện xưa : Phát biểu 1959, HCM toàn tập, tập 11, trang 166


(2) Chuyện nay: Trung tướng, PGS, TS Nguyễn Tiến Bình, tạp chí CS số 19/139-2013


(3) Câu trích trong bài : Tết nầy thiền định “ao ta”, của Hoàng Hồng Minh,


http://nuocdenchayn.com,1-3-2013)


(4)Khẩu hiệu cuối cùng của Trại súc vật, trong tác phẩm Trại Súc Vật.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 19, 2013 00:33

April 18, 2013

Bừng con mắt dậy thấy mình tay không!


Nhạc sĩ Đặng Hữu Phúc


fronthkiCó lẽ người Việt Nam ta thời cận-hiện đại đã “phát minh” ra một kiểu hát riêng đó là “Sến”. Chắc là độc nhất vô nhị, vô tiền khoáng hậu trên thế giới.


 Nó khởi thuỷ từ những ca khúc tiền chiến, như của Phạm Duy, Văn Cao, Đặng Thế Phong… mà trước kia ta gọi là “Nhạc vàng”.


Ngày nay chiến tranh qua rồi, không ai cấm nhạc Vàng nữa, không ai cấm uỷ mị, không ai cấm sướt mướt, cấm não nề, cấm nhẽo nhớt… nữa,


Chọn “Rẻ tiền” cũng là quyền tự do cá nhân của mỗi con người.


Nhưng sự uỷ mị, sướt mướt, nhẽo nhớt… nó vẫn là nó, không phải vì cấm nó hay cho phép nó mà nó thay đổi thành cái gì đó khác. Nó vẫn như cái góc tối ẩm ướt, ẩm mốc rất thích hợp cho các loài…thích bóng tối.


Mà cái văn hoá “nhẽo nhớt” này càng ngày càng lan toả, càng ngày càng lên ngôi, trong cái xã hội dân trí càng ngày càng đi xuống với sự trợ giúp đắc lực của báo chí, nhất là báo mạng, của truyền hình, của truyền thông, của in-tơ-nét.



Nào là “Đêm nhạc Chế Linh”. “Vinh Sử”. “Hương Lan – Tuấn Vũ”. Rồi những “đêm nhạc” của các nhạc sỹ ca khúc bình dân đời mới cũng bị hút theo vào cái dòng “Nhẽo nhớt” này. Tất nhiên độ đậm đặc của “nhẽo nhớt” có giảm chút ít và có biến tướng chút ít, có sôi động hơn bởi trống Jazz… như kiểu hát của Mr Đàm, Ánh Tuyết, Phi Nhung, Quang Lê vv… cũng là kế thừa và phát triển của dòng “Nhẽo nhớt” này…


Nó đang là món hàng bán chạy nhất của Nhạc thị trường hiện nay (Một đôi vé của loại nhạc “Nhẽo nhớt” đã lên tới 15 triệu đồng ở TT Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình!!!)



khoa-moi-su-mr-dam-nhan-9c37b3


“Bừng con mắt dậy thấy mình tay không!” Câu thơ của Nguyễn Gia Thiều (1741-1798) trong “Cung oán ngâm”  đã trên 200 năm, nay lại thấy rất đúng khi nói về văn hoá Việt Nam từ ngày “Mây nhởn nhơ bay, hôm nay ngày đẹp lắm. Mây của ta, trời thắm của ta” (Tố Hữu) đến nay.


 “Của ta”, ta thích làm gì thì làm. Đừng ai can thiệp vào công việc nội bộ “của ta” nhé!


Tuy nhiên “Tay không” ở đây không có nghĩa là không có gì hết, mà ngược lại, ta có rất, rất nhiều, chất đầy nhà, không còn chỗ mà di chuyển nữa, nhưng toàn đồ tầm tầm, nhảm nhí, rác rưởi trí tuệ.


“Tay không” ở đây muốn nói rằng chẳng có cái gì thực giá trị, cho ra hồn.


Nếu là rác thì thà không có còn hơn, và trước hết, để có chỗ cho những điều tốt đẹp, quý giá sẽ đến, hãy chung tay dẹp rác rưởi, như các loại “nhẽo nhớt” đi cho không gian thoáng đãng!


Nhưng để loại được sự tồn tại của một loài nào đó, đôi khi ta không cần phải động đến nó mà chỉ cần thay đổi môi trường sống của nó. Cái này thực sự khó, khó đến nan giải.


Và nó cần phải có “Trời đất nổi cơn gió bụi “ mới thay đổi được tận gốc vấn đề !


Tác giả gửi cho Quê Choa


Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 18, 2013 21:01

Tôi không thích đi học. Và tôi không phải người duy nhất.

Một học sinh lớp 12


Khi_con_chan_hocGiới thiệu của Phạm Xuân Nguyên: Xem clip “Sự trăn trở của một kẻ lười biếng” tôi thật sự bất ngờ vui mừng vì khả năng hùng biện hấp dẫn của một học sinh lớp 12 đã vạch ra đích đáng những lỗi hệ thống của cả nền giáo dục nước nhà bao nhiêu năm nay. Tôi tin em phải thương đau cho mình và bạn bè cùng thế hệ lắm mới nghĩ được và nói được như vậy. Bộ trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo nên xem clip này và mời em học sinh đó đối thoại thẳng thắn, công khai. Tôi tin, bằng vào những điều đã nghe và thấy trong clip, em có đủ năng lực suy nghĩ, biện luận, tranh luận cùng người đứng đầu ngành giáo dục, và cuộc đối thoại sẽ thú vị, hấp dẫn. Cuộc đối thoại đó nên được ghi hình lại và phát chiếu cho mọi người xem, như thế sẽ rất bổ ích. Nếu ông Bộ trưởng không làm được thế là ông thua kém học sinh của mình. Vì một nền giáo dục khai phóng! – tôi đồng tình và ủng hộ tư tưởng này của em học sinh khi kết thúc bài hùng biện rất hay của mình kéo dài hơn một tiếng đồng hồ. Và để tiếp sức cùng em, tôi giới thiệu ở đây bài viết của một học sinh nữ lớp 12 (em xin được giấu tên) cũng nói về sự chán ngán đối với việc học hiện nay. Cả bài nói và bài viết của hai em cuối cấp, tôi nghĩ, là chung cho cả mọi học sinh, mà nói thêm lần nữa, ông Bộ trưởng Bộ GD-ĐT phải nên đọc, nên nghe, và có đối thoại.


Tôi không thích đi học. Và tôi không phải người duy nhất.


 Cách đây rất nhiều năm, tôi được cho đi học. Bằng một lẽ nào đó, bố mẹ tôi thấy cần phải cho con mình đi học, để tuân theo những quy tắc thông thường trong đời sống xã hội, để làm một gia đình bình thường, có những đứa con bình thường được đến trường theo mong muốn của những bậc làm cha mẹ. Thế là tôi bắt đầu đi học, như rất nhiều đứa trẻ khác cùng trang lứa. Trường cấp một của tôi là ngôi trường danh giá nhất nhì trong thành phố lúc bấy giờ, không may, trường cấp hai và cấp ba của tôi cũng vậy. Kiểu như khi hàng xóm sang chơi nhà tôi vào ngày tết, sau khi lì xì chán chê họ hỏi, nào, thế cháu nhà đang học trường gì nhỉ và khi tôi nói cho họ nghe tên trường, một cách chậm chạp và ít khoa trương hết mức, họ sẽ ồ lên và, à, ra là trường đó, thế cháu hẳn phải học giỏi lắm. Suốt những năm đi học tôi đã đối mặt với điều này, chưa một lần tự hỏi vì sao chỉ nghe tên một sự vật sự việc gì đó mà người ta có thể quy chụp tính chất của nó và những người liên quan đến nó là một. Đó là một sự vội vàng đầy thiển cận. Tôi không phải một đứa trẻ học giỏi. Một lần cũng không và sẽ chẳng bao giờ là vậy.


Lên cấp hai, cuộc sống học tập của tôi bắt đầu xuất hiện những dấu vết trắc trở. Tôi phát hiện bản thân không thể nuốt nổi các môn tự nhiên và rằng chúng đang giết chết tôi từng ngày. Nhưng ngoài tôi ra, không ai biết điều đó. Tôi muốn nói là, cả thế giới đều biết tôi đầu hàng các môn tự nhiên nhưng không biết chúng đang giết chết tôi từng ngày. Điều đó rất quan trọng, không phải ai cũng biết. Lẽ thường tình, tôi lao vào học thêm. Tôi cũng lo lắng chứ, nhưng sao bằng bố mẹ tôi cho được. Tôi học, học và học như một cỗ máy có đầy rơm trong đầu và người ta nhồi nhét đủ thứ nào các món chất nổ các công thứ tính toán thời gian các con số có những kí hiệu khốn khổ trên đầu và vâng, những thứ đó đã trở thành một công cụ tuyệt vời cho cuộc sống của tôi biết mấy. Tức là chúng chẳng làm gì cả.


Không biết có bao nhiêu đứa trẻ được cho đi học thêm từ hồi lớp một ở xung quanh tôi. Lần đầu tiên nghe chuyện này tôi nói, im đi, làm gì có chuyện đó. Ấy là sự thật. Tôi không hiểu người ta có thể đưa thứ gì mang tầm cỡ khó hiểu vào đầu một đứa trẻ sáu tuổi, thôi nào, chúng hãy còn nhỏ đến thế cơ mà. Ở cái tuổi như vậy người ta cần làm những điều ngu ngốc như nghịch giun và lăn lê trên sàn nhà, nhổ hoa và đi tè lên nền đất trống, hay vui hơn một chút chúng có thể đánh những thằng bé cùng tuổi và túm tóc một vài đứa bé gái mà chúng thích. Đó mới là những công việc chính của một đứa sáu tuổi, không phải ngồi yên trên ghế trước mặt là tờ bài tập toán, hay tiếng anh, hay tiếng việt và chúng cầm bút trong tay chịu không hiểu thứ gì đang diễn ra trước mắt mình. Những con kiến nhỏ bò trên trang giấy, chúng không biến mất khi bọn trẻ nghiến nát bằng những ngón tay.


Nhưng thực sự thì, mọi thứ chỉ bắt đầu khi tôi lên cấp hai, sau đó là cấp ba. Tôi có thể nói trước điều này, tôi ít nhất trên dưới mười lần muốn đấm vào mặt một thầy cô giáo nào đó, ra khỏi lớp và đi làm ở trạm xăng. Xin mời, tôi là một tấm gương xấu cho bất kì ai muốn trở thành người tốt. Nhưng khoan, các vị có biết tôi không? Đấy, chưa gì đã lại chơi trò chơi theo một cách thiển cận rồi. Các vị cần phải tiếp xúc với gốc rễ của vấn đề, không thì cũng nên nghe cô ta trình bày về cuộc đời của cô ta theo trình tự, cho nó có lớp lang. Có cái này ở người lớn mà tôi thấy thật buồn cười, rằng tại sao các vị chẳng bao giờ nhận ra cần thay đổi. Các vị không bao giờ lắng nghe trọn vẹn con cái của mình. Ý tôi là, các vị nghe chúng nói, nhưng không bao giờ hiểu hết tất cả, các vị nghe đấy, nhưng không hiểu. Chúng đang nói gì đó và thậm chí chúng còn chưa kịp nói cho ngọn ngành là các vị đã bắt đầu phản bác lại trong đầu mình rồi, những ông bố bà mẹ tâm lí hơn một chút thì đợi con nói xong mới bắt đầu sắp xếp lại các lí luận phản bác. Các vị hầu như đều phản bác.


Quay lại với việc đi học của tôi. Cấp hai là một thiên đường của những điều phức tạp, nhưng nó hãy còn là một thiên đường. Tôi lên cấp ba sau khi kết thúc lớp chín. Từ trước khi thi bố mẹ tôi đã xác định được ngôi trường cần phải vào, làm gì để đạt được nó và tất nhiên là sự hợp tác từ tôi. Nhưng hình như mục đích của hai bên không giống nhau. Bố mẹ muốn tôi vào trường tốt, một phần tốt cho tôi, còn lại tốt cho họ. Đó là chuyện đương nhiên, bố mẹ nào chẳng muốn có gì đó để tự hào về con mình. Ai cũng thế, tất cả mọi người. Trong khi đó mục đích của tôi là vào cùng một trường với bạn bè mình, chưa kể đó là một trường tốt, được đánh giá cao và sau này tôi sẽ được trấn an bằng rất nhiều lời khen ngợi. Tôi đi học thêm trong tâm trạng phấn khởi, cứ vài bữa tôi cúp học một lần. Sau khi nhận kết quả đỗ, thực tình tôi không vui mừng cho lắm. Nó chỉ đến một cách hiển hiện và rõ ràng khi các cô dì chú bác họ hàng nội ngoại của tôi mừng tôi tiền, ít ra ngôi trường này đã được đóng một cái mác đặc biệt đến thế mà, cái mác của lòng dân. Đến đây tôi muốn nói, những đứa trẻ mười sáu tuổi chưa thể quyết định được cuộc đời của chúng đâu. Bố mẹ chúng đóng một vai trò cực kì quan trọng trong đời chúng, tác động vào chúng, ảnh hưởng lên chúng. Chúng đi đâu, làm gì, tuổi mười sáu không thể nào quyết định được. Chúng chưa đủ khôn ngoan, chưa đủ chín chắn, chúng để mặc mọi thứ và chúng không biết phải làm sao cho đúng. Khi đó, bố mẹ chúng dắt chúng đi. Bố mẹ tôi đã dắt tôi vào cấp ba, một thế giới mới nơi tôi ngày ngày tìm mọi cách trốn chạy.


Tôi ghét đi học. Tôi nhận ra điều này năm tôi học lớp mười một. Khi đó tôi đã sa sút hết mức và không thể tệ hơn được nữa. Mọi chuyện quay cuồng và chúng tôi quay cuồng theo. Tôi, gia đình tôi, mối quan hệ của tôi xuống dốc với mọi người, trường học đè lên tôi, đổ sập dưới chân tôi. Tôi biết được rằng tôi chưa bao giờ thích đi học. Có rất nhiều lựa chọn trong cuộc đời mỗi người. Đến một lúc nào đó các lựa chọn sẽ đến tay tôi. Khi đó tôi được quyền làm chủ cuộc đời mình. Có những lựa chọn sai lầm, có những lựa chọn đúng đắn, nhưng làm thế nào tôi biết được. Phải làm thử thôi, làm tất cả chúng, nghĩ ra là làm. Tôi không muốn uổng phí mọi giây phút trong đời mình kể từ khi tôi nhận ra phải trân trọng nó nhiều hơn. Cuộc đời chúng ta ngắn hơn chúng ta tưởng, đến một lúc nào đó không biết được, nó sẽ vụt khỏi tay và biến mất đi. Phí phạm từng ấy năm trong đời để làm những việc không thích, tôi coi đó là một tội ác, là một mối nguy hàng đầu cho xã hội bởi khi đó chúng ta không bao giờ biết được những kẻ đang chán nản và đầy tội lỗi ấy sẽ làm gì. Chúng sẽ làm gì ư? Đơn giản lắm, chúng sẽ phá bỏ mọi khuôn phép và vận hành thế giới nhỏ bé của chúng theo một cách riêng, những đứa trẻ hãy còn quá nhỏ và say mê những trò chơi dại. Có nhiều gia đình để con họ đi học, nhìn chúng học bài, làm bài tập, được điểm tốt, thế là sướng. Tôi không tán thành việc đó. Họ không ở bên con mình ngay từ khi mọi chuyện bắt đầu, khi con họ đột nhiên muốn buông xuôi và chúng mệt mỏi tới nỗi không muốn cố gắng nữa. Những đứa như vậy thường khép mình vào trong một cái vỏ kiên cố và vững vàng và chúng cố thủ trong đó không bao giờ ló ra. Tận sâu bên trong chúng tính toán những phương thức tàn bạo nhất cho cuộc sống của mình, có những đứa quyết định từ bỏ nó. Chúng chẳng làm gì cả, và từ bỏ nó.


Tôi chưa gặp những đứa trẻ cảm thấy chán nản với cuộc sống của mình. Tôi cần gì phải gặp. Bởi tôi là một minh chứng điển hình, đang hít thở và đang sống, tôi biết rõ cảm giác buồn chán bất lực đó như thế nào, tôi cũng biết những đứa trẻ như tôi đang phải đối mặt với mọi thứ ra sao. Tôi nghĩ mình biết. Có lẽ có rất nhiều những đứa trẻ như vậy, chúng không thấy hài lòng với cuộc sống hiện tại, khuôn khổ hiện tại và chúng muốn chạy thoát nhưng không thể. Khi chúng gây chuyện và bố mẹ chúng hỏi, tại sao con không tâm sự với chúng ta khi con bế tắc, trời ạ chúng phải trả lời thế nào đây? Bố mẹ, các vị đã không ở bên con các vị khi chúng cần, vậy thì đừng bao giờ đòi hỏi chúng phải kể cho các vị nghe hôm nay chúng thấy thế nào, chúng mệt ra sao và chúng muốn được nghỉ một buổi học ở trường. Chúng sẽ không bao giờ nói bởi ngay từ đầu chúng đã không được phép nói ra rồi. Con cái lớn lên bằng nỗi sợ. Nỗi sợ bị đánh, bị mắng, bị chửi rủa, có những đứa học cách sống chung với nó và ổn, có những đứa cũng học cách sống chung với nó và bị tổn thương. Những đứa ổn sẽ sống theo cách riêng của chúng và âm thầm không để ai biết, những đứa không ổn sẽ kiệt quệ từng ngày và kết quả chúng sẽ bỏ cuộc, rất sớm thôi. Số lượng trẻ vị thành niên tự sát không ít. Ta quy kết cho căn bệnh trầm cảm. Vậy nguyên nhân của căn bệnh trầm cảm là gì? Tôi nói, đó là những áp lực trong cuộc sống.


Thế giới này không tạo ra áp lực. Con người mới là kẻ làm điều đó. Tôi đã từng mơ đến một thế giới nơi chúng ta sống bình đẳng với nhau, được làm những điều chúng ta muốn, làm những thứ chúng ta thấy mình cần phải, nơi con người sống với nhau bằng lòng tốt và hòa bình, và những bậc người lớn hiểu con cái của họ hơn. Trong tôi có một phần luôn tin rằng tội ác của con người tất thảy đều bắt nguồn từ giáo dục. Những đứa trẻ sinh ra đều mang một lòng tốt nguyên thủy. Bố mẹ chúng là người điều chỉnh và định hình cho lòng tốt ấy. Giả sử có một đứa sinh ra với tố chất sát nhân trong đầu, bố mẹ chúng sẽ là người bật công tắc khởi động nó lên, hoặc họ sẽ tắt nó đi vĩnh viễn. Nhân cách một đứa trẻ không phụ thuộc vào những gì người ta dạy chúng ở trường, ở trường người ta không dạy chúng tình yêu. Người ta dạy chúng làm thế nào để nổi trội hơn đứa khác và công khai đứa nào dở hơn đứa nào hay hơn. Trường học tạo ra các tầng lớp, không đâu xa, chính là trường học. Không có tiền thì không được đến trường, không có kiến thức thì không được đến trường, không có nhân cách thì không được đến trường. Ai nói trường học là nơi đào tạo các chủ nhân tương lai của đất nước thì tôi sẽ cười vào mặt họ. Các chủ nhân tương lai của đất nước lúc này đang tán phét với nhau và làm bài tập trong nỗi hân hoan hơn người của chúng. Chúng không được dạy làm thế nào để đưa đất nước lên một tầm cao hơn, khiến người dân tự hào về nòi giống của mình hơn, chúng chỉ được dạy làm thế nào để kiếm được nhiều tiền nhất và xây được nhà to nhất. Chủ nhân tương lai của đất nước, tôi tin, là những đứa trẻ có những suy nghĩ nghiêm túc về việc này từ khi chúng nhận thức được mọi chuyện.


Khi tôi nói quan điểm của tôi với người khác, chúng tôi bắt đầu tranh cãi nhau. Họ: không đến trường thì làm sao có kiến thức? Tôi: nếu anh cần kiến thức tự anh sẽ tìm cách có được nó thôi. Họ: không đến trường thì làm sao vào làm cho các công ty lớn, làm sao có bằng đại học? Tôi: yên tâm đi, các công ty của anh sẽ cần đến anh nếu anh phù hợp, nếu anh yêu thích một công việc nào đó và dành nhiều thời gian cho nó, còn bằng đại học ư, anh cần nó để làm gì, để vào một công ty tư nhân lương bốn triệu một tháng và gặp được tình yêu của đời anh à? Họ: không có học vấn thì sẽ chẳng có gì hết. Tôi: anh có sức khỏe, anh có bộ não, cái cần nhất là liệu anh có khả năng học tập và không bị phụ thuộc hay không. Họ: vậy thì trước giờ đi học là một chuyện vô bổ chăng? Tôi: không, nó không vô bổ, nó chỉ mất thời gian và ngày càng sai hướng. Họ: vậy thì nói xem thế nào mới là đúng đây? Tôi: khi con anh nói với anh rằng nó thích đi học, và sáng nào nó cũng nói thế, khi đó trường học mới là nơi đúng đắn cho con anh. Đã bao giờ nó khẳng định với anh thế chưa, rằng nó thích đi học ấy? Họ: thật là thiếu suy nghĩ, không đi học thì cô sẽ sống bằng gì đây? Khả năng nói phét à? Tôi: sống bằng niềm đam mê của tôi. Tôi làm công việc mình thích, tôi làm chủ đời mình, còn anh, anh có hài lòng với cuộc sống hiện tại không, hay vì anh đang phải làm một công việc tẻ ngắt nên anh luôn muốn có rất nhiều thứ trong đời? Tôi nói anh nghe điều này, một tấm bằng không nói lên giá trị của anh, bởi ai cũng có bằng, hiểu không? Nếu anh bất tài, với một tấm bằng anh sẽ đủ nuôi sống mình theo cách tằn tiện nhất, nhưng anh có tài và không có cái bằng nào cả, anh sẽ sống bằng sự ngưỡng vọng của người khác và chính sức lực của mình. Tùy thuộc vào anh. Họ: vậy tôi phải làm gì đây? Tôi: nằm xuống, nghĩ xem tiếp theo anh muốn làm gì. Đừng hỏi tôi.


Có người sẽ nói, chạy theo ham muốn là con đường nhanh nhất để xuống dốc. Tôi trả lời, chạy theo những ham muốn của anh và duy trì nó, anh sẽ được lên thiên đường. Cái khó trong việc làm theo mong muốn của bản thân là không bao giờ tin vào những mong muốn ấy. Các vị luôn đắn đo và quá quan tâm đến suy nghĩ của người khác. Chính vì thế, các vị luôn thất bại theo ý họ.


Tôi không thích đi học. Bởi trường học không đem lại cho tôi cái gì, ít ra là những cái người khác tin là họ nhận được. Tôi không có niềm vui, không có đam mê, tất cả là nghĩa vụ, là một áp lực. Và tôi biết tôi không phải người duy nhất. Đã đến lúc những đứa trẻ được nói rồi.


 22 tháng 11 năm 2012.


Cảm ơn Phạm Xuân Nguyên đã gửi cho bài này


 



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 18, 2013 18:57

Suy tư nhân ngày Giỗ Tổ

Bản gốc của tác giả


GS Tương Lai- NLG


02_hungvuongLiệu trên quả đất này có quốc gia, dân tộc nào cũng tôn vinh một ngày gọi là ngày Giỗ Tổ như ta đang Giỗ Vua Hùng? Biết được điều này sẽ là một điểm tựa thú vị để suy ngẫm về dân tộc mình. Vì rằng, lịch sử là một nhân tố, mà nếu thiếu nó, thì không một ý thức dân tộc nào có thể hình thành và phát triển được. Cho nên, Giỗ Tổ là thời điểm mà những âm vang của lịch sử sẽ là nguồn nước mát thanh lọc tâm hồn con người.


Trong những nhiễu nhương của thế sự với ngổn ngang những sự kiện, những khuôn mặt, những cuộc đời hối hả bon chen giữa dòng đời trong đục, một nén tâm hương thắp lên để nhớ về nguồn cội cũng có thể thức dậy trong sâu thẳm tâm tư con người một ánh tâm linh. Mà thật ra, cảm nhận về lịch sử cũng là cảm nhận về chính mình, về vui buồn và phẫn nộ, về hào hứng và đắng cay của thân phận con người. Con người ấy gắn với vận mệnh của đất nước, số phận của dân tộc. Biết nhìn nhận và đối chiếu sự nghiệp hôm nay, con người hôm nay với lịch sử dân tộc chính là biết trân trọng lịch sử. Cảm nhận bài học lịch sử, rốt cuộc lại là cảm nhận bài học về con người, bài học về văn hoá.


Lịch sử dựng nước, mở nước và giữ nước của ông cha ta từ đất tổ Hùng Vương, vùng rừng núi và trung du, tiến về châu thổ sông Hồng, sông Mã, rồi men theo duyên hải, tiến về vịnh Thái Lan. “Từ thuở mang gươm đi mở cõi. Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long “. Nếu không có những con người Việt Nam dũng cảm và sáng tạo trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước thì cũng không thể có những trang lịch sử hào hùng đang tiếp thêm sinh lực cho chúng ta hôm nay. Và rồi, con người của hôm nay biết cần phải nhìn lại mình để hiểu phải đưa sự nghiệp của ông cha đi tới như thế nào.


Con người Việt Nam và văn hoá Việt Nam đã làm cho dòng chảy của lịch sử với những mốc son chói lọi liền mạch với thuở các Vua Hùng dựng nước, trải qua sức quật khởi của thời Bà Trưng, Bà Triệu, đến những đỉnh cao chiến công của Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Hồ Chí Minh … Chính con người Việt Nam, văn hoá Việt Nam là nhân tố quyết định làm cho những gì mà qua đó, quá khứ và hiện tại vẫn còn thông với nhau. Chỉ bằng văn hoá và con người chúng ta mới thật sự hiểu được, đánh giá được những sự kiện lịch sử với tầm vóc vốn có và cần phải có. Nói con người cũng là nói văn hóa, và nói văn hóa cũng là nói con người. Bởi lẽ, văn hoá không phải là một hệ thống đóng kín những giá trị loại biệt mà là một tổng hợp đang phát triển của các thành tựu vật chất và tinh thần của một dân tộc.


Trong ý nghĩa đó, ở mỗi giai đoạn của sự phát triển, văn hoá được biểu hiện như một dạng hoạt động thực tiễn của con người. Vì thế, văn hóa là một cấu trúc có bề sâu. Cuộc sống xã hội được phản chiếu ở bề mặt, dưới bề mặt đó, văn hóa được phân chia theo những tầng khác nhau, thường tiềm ẩn và vô thức. Ở độ sâu này, có một sự sắp xếp của các quy tắc văn hóa điều chỉnh bề mặt ở bên trên. Nói đến “sức mạnh văn hoá”, “bản sắc văn hoá, chính là nói đến sự tiềm ẩn và vô thức này nằm chìm trong đời sống của dân tộc.


Chính cái đó làm nên sức mạnh Việt Nam, sức mạnh làm cho đất nước này, dân tộc này tồn tại và phát triển, vượt qua bao sóng gió và thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, viết nên những trang sử chói lọi bởi tính kiên cường trong hoạn nạn, khí phách hào hùng trong giữ nước và dựng nước. F. Braudel có một nhận xét đáng suy ngẫm : “lịch sử của nền văn minh là sự gạn lọc qua hàng thế kỷ của một nhân cách tập thể, nhân cách này, cũng như mọi nhân cách cá nhân, bị kẹt giữa một số mệnh có ý thức và rõ ràng với một số mệnh tù mù và không có ý thức, số mệnh này làm cơ sở và động lực cho số mệnh kia, nhưng không phải bao giờ cũng nhận thấy điều đó”*. Chỉ khi chúng ta suy ngẫm và hiểu ra được về những gì đã hun đúc nên văn hoá Việt Nam, hình thành cốt cách con người Việt Nam, chúng ta mới có thể cảm nhận được sự liền mạch của dòng chảy lịch sử. Chỉ có điều, Lord Acton , nhà sử học thế kỷ XIX lại cho rằng “các sự kiện đương thời khác lịch sử ở chỗ, chúng ta không biết những kết quả mà chúng ta sẽ tạo ra. Nhìn lại, chúng ta có thể đánh giá tầm quan trọng của các sự cố quá khứ và lần ra các hệ quả mà chúng đã mang theo trong dòng chảy của chúng. Nhưng trong khi lịch sử tiến triển, nó không phải là lịch sử đối với chúng ta. Nó dẫn chúng ta đến miền đất lạ chưa được biết”.


Dặm đường lịch sử hôm nay vừa liền mạch truyền thống Việt mà ông cha ta bao đời xây đắp từ thuở ban đầu của Hùng Vương dựng nước, vừa có những thách thức mang tính đột biến. Chính vì thế, trở lại với cội nguồn nhân ngày Giỗ Tổ là để càng hiểu rõ thêm về dân tộc, về con người Việt Nam, văn hoá Việt Nam đang đi tới trong một thế giới mới. Hiểu rõ thêm để càng thấy rõ trách nhiệm nặng nề của mỗi người Việt hôm nay về vận nước khi mà các thế lực hiếu chiến của chủ nghĩa bành trướng đang phơi bày dã tâm của chúng. Hành động ngang ngược có tính toán nhằm xâm phạm lãnh thổ, lãnh hải, uy hiếp chủ quyền quốc gia, mưu toan độc chiếm Biển Đông của chúng ngày càng tinh vi, trắng trợn. Mơ hồ trước dã tâm của chúng là có tội với ông cha, có tội với lịch sử.


Nói về lịch sử, Phạm Văn Đồng có một ý rất thú vị : “Lịch sử là con người nhân với thời gian. Tôi hình dung lịch sử là một ông già đã nhiều tuổi lắm, nhưng ông già lịch sử đang dần dần trẻ lại, và qua một quá trình diễn biến đầy kịch tính, sẽ từng bước trở thành một thanh niên giàu sức sống…”. Đất nước của chúng ta liệu có đang trẻ lại để đủ sức gánh vác sự nghiệp của ông cha bao đời gây dựng, giữ gìn và truyền lại cho chúng ta?


Quá trình diễn biến đầy kịch tính của đất nước ta quả đã chứng minh sức sống kỳ lạ của dân tộc Việt Nam ta. Ông cha ta luôn luôn tìm ra những giải pháp độc đáo cho những vấn đề gặp phải. Cứ vào lúc thời cuộc như dồn thế nước vào chân tường, thì cũng chính vào lúc ấy đã bật ra những đột phá. Chuyện chống đế quốc Nguyên-Mông thế kỷ XIII là một minh chứng sống động. Giỗ Tổ năm nay cũng là dịp kỷ niệm 725 năm chiến thắng Bạch Đằng và tỉnh Quảng Ninh vừa đón nhận quyết định công nhận Di tích Lịch sử đặc biệt , xin gợi lại một câu trong “Bài phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu : “Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng, bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn , và rằng: “Sông Đằng một dải dài ghê, Sóng xô cuồn cuộn trôi về Biển Đông, Những người bất nghĩa tiêu vong, Nghìn xưa chỉ có anh hùng lưu danh”.


Phải có bản lĩnh thế nào mới thấy được cái thế “nhàn” trước ba chục vạn quân xâm lược hùng hùng hổ hổ kéo sang quyết rửa nhục hai lần thất bại trước và cũng để quyết đánh thông con đường tràn xuống Đông Nam Á. “Đằng giang tự cổ huyết do hồng“[Sông Bạch Đằng từ xưa máu còn đỏ], đó là lời cảnh báo đối với kẻ thù. Trước chiến thắng của Trần Hưng Đạo, sông Bạch Đằng đã là nơi Ngô Quyền phá quân Nam Hán, Lê Hoàn diệt quân Tống.


Tần ngần trước những cọc gỗ vạc nhọn từng cắm xuống dòng sông buổi ấy mà thêm bàng hoàng trong dòng suy tưởng về sức mạnh kỳ lạ nào khiến cho chỉ trong có 20 ngày, ông cha ta đã cắm hàng ngàn cọc xuống dòng sông nước chảy xiết khi mà mới trước đó Ô Mã Nhi đã cho quân càn quét cả vùng Yên Hưng? Xin hãy dừng lại vài con số : “nước triều lên xuống mạnh, độ chênh lệch khá lớn, lưu tốc nước là 0,26m-0,86m/giây. ..hàng cọc đóng ngang qua sông theo hướng nm-băc. Hầu hết các cọc đều bằng lim hoặc gỗ cứng có đường kính từ 20cm đến 30cm và dài từ 1,5 met trở lên, phổ biên là 2m , những cọc đóng ở giữa lòng sông dài đến 3m, khoảng cách giữa các cọc từ 0,9m đến 1,2m, cọc được đẽo vát nhọn với độ dài 0,80m đến 1m, phần lớn được đóng thẳng đưng, đóng sâu xuống đất đáy từ 1m đến 1,5m, giữa các cọc có các khúc gỗ nằm ngang, có lẽ là khúc gỗ cài để chặn thuyền giặc“**. Nguyên sử, quyển 166, Phàn Tiếp truyện chép : ” Kịch chiến từ giờ mão đến giờ dậu” [tức là từ sáng đến chiều]!


Không thấy người viết bộ sử này nói đến Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, hai chủ tướng và Tích Lệ Cơ, tên đại quý tộc được phong đến tước vương đã bị tóm cổ, 600 chiến thuyền hùng hùng hổ hổ từng theo đường Biển Đông tiến vào lúc khởi sự cuộc xâm lăng tưởng có thể làm mưa làm gió giờ đây tan tác trong trận thủy chiến và hỏa công từ “giờ Mão đến giờ Dậu” ngày 9.4.1288 ấy! Chính Ô Mã Nhi từng khoác lác đe dọa Vua Trần ” Ngươi chạy lên trời, ta theo lên trời, ngươi chạy xuống đất ta theo xuống đất, ngươi trốn lên núi ta theo lên núi, ngươi lặn xuống nước ta theo xuống nước” để kết cục như chó cụp đuôi phục trước lăng vua Trần Thái Tông, người lãnh đạo cuộc kháng chiến chông Nguyên Mông lần thứ nhất, trong lễ mừng thắng trận của quân dân đời Trần!


Hai từ quân dân bỗng trở nên sống động lạ kỳ trong suy tư về những cọc gỗ Bạch Đằng ấy! Xét đến cùng, quân thì cũng từ dân mà ra đấy thôi, “chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ” như Nguyễn Đình Chiểu viết trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” dạo nào. Tuy nhiên, ngược lại dòng chảy lịch sử cách nay 800 năm, thử tính toán đo đếm theo cách người viết sử hôm nay cố gắng làm, mới sáng rõ lên một điều, nếu không huy động được sức dân hai huyện Yên Hưng [Quảng Ninh] và Thủy Nguyên [Hải Phòng] chuyển gỗ và đóng cọc ở cửa sông Chanh, sông Kênh, sông Rút, một khúc sông dài không quá 5km mà có đến 5 dòng nước đổ về với ba nhánh sông phụ đưa nước ra vịnh Hạ Long, nơi thượng lưu sông Bạch Đằng, cách doanh trại của Thoát Hoan chỉ hơn 30km ngược dòng sông Kinh Thầy, thì không thể nào có bãi cọc mà ngày nay ta quen gọi là bãi Yên Giang được! Và cũng như vậy, nếu không tin vào sức dân, không có quyết tâm đánh địch mà “thần hồn nát thần tính” trước sự diễu võ dương oai của kẻ thù đã chỉ bàn lùi rồi đầu hàng như những kẻ đã đi vào lịch sử một cách nhơ nhuốc nọ thì còn trí tuệ đâu, bản lĩnh đâu mà bày binh bố trận để làm nên chiến thắng Bạch Đằng.


Ấy là chưa nói bọn hèn nhát và nhơ nhuốc này đều là các vương hầu cả đấy : những “Chương Hiến Hầu Trần Kiện, Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, Văn Nghĩa hầu Trần Tú Hoãn, Văn Chiêu hầu Trần Văn Lộng…!** Đã hèn nhát rồi thì chỉ có thể bàn mưu tính kế giữ cho được chiếc ghế quyền lực, cho dù là quyền lực được bố thí hay bảo kê, chứ làm sao mà có khí phách “thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm Vương đất Bắc“, “bệ hạ muốn hàng xin hãy chém đầu tôi trước đã” và thấy được chỗ yếu của kẻ thù để hiểu ra “thế giặc nhàn“!


Bỗng nhớ lại một lời bình sắc sảo của nhà sử học đáng kính Trần Quốc Vượng khi luận về : ” Cuộc đấu tranh giữa mô hình dân tộc và mô hình kiểu Tàu cho đến khi phong kiến hết thời vẫn chưa chấm dứt...”. Cuối thế kỷ XIV, xã hội, văn hóa khủng hoảng mà không có đường lối giải quyết . Đúng lúc đó nhân vật Hồ Quý Ly xuất hiện…Ông kiên quyết chống quân Minh, muốn giải Hán hóa nền văn hóa Việt, nhưng ông chỉ mới thổi “tiếng kèn ngập ngừng”, sử dụng những biện pháp nửa vời…Ông lại xây dựng một nền độc tài cá nhân. Ông không nắm được dân “trăm vạn người trăm vạn lòng“, không cố kết được nhân tâm, hòa hợp được dân tộc, dân tâm lìa tan để mất nước vào tay giặc Minh…Chính trong bối cảnh đó, Nguyễn Trãi kế tục và phát huy truyền thống dân tộc và thân dân thời Trần, cố gắng để khôi phục và phát triển nền văn hóa dân tộc.


Quả thật, “tìm về dân tộc” và “thân dân” là phương thuốc tích cực nhất để giải nọc độc vọng ngoại, giải Hán hóa. Dân là gốc nước. Đã yêu nước thì phải yêu dân. và đã gắn bó với dân thì tự nhiên nảy sinh lòng tự hào dân tộc “. ” Nguyễn Trãi tắm mình trong bầu không khí văn hóa ở đó đang diễn tiến cuộc đấu tranh gay gắt giữa truyền thống và đổi mới, cuộc đấu tranh gay gắt giữa xu hướng Trung Quốc hóa với xu hướng giải Trung Quốc hóa trong nội bộ các thế lực cầm quyền và giới trí thức, văn hóa Đại Việt [ của thời Trần]. Hai mươi năm Minh thuộc, với chủ trương và âm mưu tái Trung Quốc hóa nền văn hóa Việt của bọn giặc Minh càng làm gay gắt thêm, phức tạp thêm cuộc đấu tranh nhằm xây dựng một nền văn hóa Việt Nam, một lối sống Việt Nam. Nguyễn Trãi đã dấn thân hết mình vào các cuộc đấu tranh chính trị, văn hóa, xã hội này..“.


Khẳng định điều đó là tuyệt đối đúng. Không chỉ đúng với thời kháng chiến chông quân Nguyên Mông và chống quân Minh, mà còn mang một ý nghĩa cập nhật rất sống động đối với cả hôm nay. “Duy ngã Đại Việt chi quốc, thực thi văn hiến chi bang“, Bình Ngô Đại cáo dõng dạc tuyên bố đã quyết liệt ngay từ đầu khuynh hướng “giải Hán hóa” của người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi. Tiếc thay, ý tưởng sáng láng này chưa nhận được sự tiếp sức và đẩy tới của các triều đại nhà Lê, kể cả thời cực thịnh. Với triều Lê Thánh Tông, về chính trị thì thì củng cố chế độ trung ương tập quyền theo hướng chuyên chế, về tư tưởng thì theo hướng độc tôn Nho giáo, bài xích Phật, Đạo và tín gưỡng dân gian, về văn hóa dần dần xa rời vốn liếng dân gian. Tinh thần kỳ thị tôn giáo, chuyên chế tư tưởng hết sức nặng nề. Nền văn hóa chính thống ngày càng rơi dần vào quỹ đạo của văn hóa phong kiến Trung Quốc. Mà đã đi vào quỹ đạo này thì làm sao mà “thân dân” được?


Trút bỏ gánh nặng lịch sử này quả thật dai dẳng cho đến tận bây giờ với những biến thái cực kỳ phức tạp đòi hỏi một sự tỉnh táo của trí tuệ dân tộc nhằm tỉnh thức những người đang chìm đắm, có thể là vô thức nhưng thường là hữu thức, vì những lợi ích rất nhày nhụa được khoác cho những tấm áo mỹ miều. Còn phức tạp hơn nữa với công cuộc “giải Hán hóa” của buổi hôm nay đang khó khăn gấp bội vì chủ nghĩa bành trướng đại Hán lại đang khoác cho mình một cái áo “mang màu sắc Trung Quốc cùng chung ý thức hệ [?]“, thực chất là một “chủ nghĩa tư bản hoang dã” ngày càng phơi bày bộ mặt bẩn thỉu và đang tự mình cô lập trước thế giới do những thủ đoạn gian trá ấy.


Vì vậy, nói đến cùng, trong vị thế địa-chính trị trứng chọi đá quá trình ông cha ta dựng nước và giữ nước cũng là quá trình “giải Trung Quốc hóa” với những lưỡng lự và những nghịch lý của lịch sử, thậm chí của từng nhân vật lịch sử”. Mà lịch sử lại thường đi những bước oái oăm, “đường thế đồ gót rỗ kỳ khu” [Nguyễn Gia Thiều]. Cuộc sống là “bất phương trình”, dòng đời đang chuyển động không theo cách “tuần tự nhi tiến”, người đi sau dẫm theo bước chân của người đi trước, mà luôn có những hợp trội tạo ra những bước đột phá không sao tiên liệu trước được tất cả. Cho nên những suy tư theo lối tuyến tính không còn thích hợp vớí một thế giới phi tuyến. Không có một bản đồ vạch sẵn cho con đường phía trước. Những kinh nghiệm có sẵn, những phương pháp truyền thống không còn đủ cho hành trình của dân tộc đi về phía trước. Câu nệ và nô lệ với quá khứ, không dám tự vứt bỏ những trói buộc vô lý đang cản trở sức sống của dân tộc sẽ phải trả giá trước lịch sử. Cái giá ấy quả là quá lớn và không đáng có.


Ngày Giỗ Tổ năm nay đến với đất nước ta trong một bối cảnh nhiều khó khăn trước một bức tranh kinh tế thế giới ảm đạm, nhưng không phải là không có những dấu ấn khởi sắc trên nhiều điểm sáng của thế giới, chẳng nói đâu xa, Miến Điện ngay cạnh ta là một ví dụ quá sống động, chỉ cố nhắm tịt mắt mới không thấy mà thôi! Vấn đề là chúng ta có nhìn ra những điểm sáng và rọi chiếu ánh sáng ấy vào con đường chúng ta đang đi hay không.


Cách nay đã hai mươi năm, trong diễn văn tại lễ kỷ niệm 600 sinh Nguyễn Trãi tại Hà Nội năm 1982, đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa ra thông điệp thật sáng tỏ bằng các nhắc lại lời của tác giả Bình Ngô đại cáo : ” Nguyễn Trãi nói : “Thời! Thời! Thực không nên lỡ”!


Hai thập kỷ đã trôi qua, bao nhiêu nước chảy qua cầu, liệu cái chữ “thời” ấy đã được khai thác và vận dụng ra sao? Và rồi, với ngày Giỗ Tổ năm nay gắn liền với kỷ niệm 725 năm chiến thắng Bạch Đằng, chúng ta cần nghĩ ra sao về chữ thời để càng hiểu ra rằng không thể bỏ lỡ thời cơ . Đừng quên rằng, bỏ lỡ thời cơ là sự bỏ lỡ đau đớn nhất mà lịch sử phải gánh chịu. Đương nhiên , thời nào cũng vậy, tính sòng phẳng của lịch sử cho thấy, vận mệnh của dân tộc “sẽ được quyết định khi một thế hệ mới sẽ lớn lên…Khi những con người như thế xuất hiện, họ sẽ vứt bỏ tất cả những điều mà theo quan niệm hiện nay họ phải làm : họ sẽ tự biết cần phải làm như thế nào”.***


Nhân ngày Giỗ Tổ, nhắc lại ý ấy của Ph. Ăngghen tưởng cũng là một điều nên làm !


  Tp Hồ Chí Minh ngày 18.4.2013


___________________________


 


* Fernand Braudel. “Tìm hiểu cac nền văn minh”NXBKHXH.1992, tr. 87


** Đại cương Lịch Sử Việt Nam. Tập I. Trương Hữu Quýnh chủ biên.NXB Giáo Dục.2005, tr.210 và tr.229


* ** C.Mác & Ph.Angghen Toàn Tập , Tập XXI. NXBCTQG . Hà Nội, 1995 tr..128


 


 


 


 


 



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 18, 2013 16:52

Nguyễn Quang Lập's Blog

Nguyễn Quang Lập
Nguyễn Quang Lập isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Quang Lập's blog with rss.