Nguyễn Quang Lập's Blog, page 31

April 26, 2013

Thời khủng hoảng niềm tin

250706_10200286163984009_1287051464_n


Nhìn vào đây thì hiểu vì sao đến nay hòn đá lạ vẫn tại vị tại đền Hùng, không ai dám đưa nó đi đâu cả. Và vì sao GS Nguyễn Văn Hảo – Nguyên phó Viện trưởng Viện khảo cổ học khi bàn đến Đàn Xã Tắc đã phát biểu rất hùng hồn ( tại đây): “Chúng ta bảo vệ di tích là bảo vệ cho người đang sống chứ không phải cho người đã mất. Cần phải biết chọn lọc cái gì nên bảo vệ, cái gì cần giữ lại và cái gì cần phải thay đổi để phục vụ cho cuộc sống của người đang sống.” Đó là phát ngôn của kẻ vô đạo, xổ toẹt tín ngưỡng thờ ông bà tổ tiên, còn gọi là đạo ông bà, của người Việt.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 26, 2013 02:33

Nợ công: cần minh bạch, rõ ràng

C.V.KÌNH – L.THANH-TT


nocong-largeNQL: Liệu bài này có bị bóc xuống không?


Cần có những giải pháp xử lý trước khi quá muộn. Đó là khuyến cáo của nhiều chuyên gia tại hội thảo khoa học “Khủng hoảng nợ công ở Liên minh châu Âu và những vấn đề gợi mở đối với VN” do Viện hàn lâm Khoa học VN tổ chức ngày 25-4.


Các đại biểu cũng đề nghị để khỏi bị động trong việc xử lý, VN cần theo thông lệ quốc tế trong cách tính nợ công.


 Thế giới nói 128,9 tỉ USD, VN tính 66,8 tỉ USD


 Dẫn tính toán của chuyên gia Liên Hiệp Quốc, trao đổi với Tuổi Trẻ bên lề hội thảo, TS Nguyễn Trọng Hậu, Đại học Almamer, Ba Lan, cho biết nếu theo chuẩn quốc tế thì nợ công VN lên đến khoảng 128 tỉ USD, bằng khoảng 106% GDP năm 2011 – gần gấp đôi mức VN công bố chính thức.


 TS Lưu Bích Hồ, nguyên viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược (Bộ Kế hoạch – đầu tư), cũng đồng tình và chỉ ra rằng năm 2011, ước tính theo quốc tế thì nợ công của VN là 128,9 tỉ USD, tương đương 106% GDP. Nhưng con số mà Bộ Tài chính công bố chỉ 66,8 tỉ USD và bằng 55% GDP.


 Các nhà khoa học cũng đồng tình với nhận định của TS Hồ khi cho rằng cái khó nhất nói về thực trạng nợ công của VN là thiếu số liệu và không đủ tin cậy. Thời gian cập nhật nợ công của các nước là hằng quý, còn ở VN Bộ Tài chính mới chỉ công bố đến năm 2010 và ước tính đến năm 2011 thôi.


So sánh mức nợ công, nợ nước ngoài của Việt Nam với một số nước ASEAN ((tính đến ngày 31-12-2011)) - Nguồn: Vụ tổng hợp, Văn phòng Chủ tịch nước - Đồ họa: V.CƯỜNG

So sánh mức nợ công, nợ nước ngoài của Việt Nam với một số nước ASEAN ((tính đến ngày 31-12-2011)) – Nguồn: Vụ tổng hợp, Văn phòng Chủ tịch nước – Đồ họa: V.CƯỜNG


Box 1


“Cứ thâm hụt ngân sách, thâm hụt cán cân thương mại, cứ vay nợ không sử dụng hiệu quả chắc chắn khủng hoảng nợ công sẽ xảy ra”


PGS.TS Nguyễn An Hà


Bày tỏ quan điểm cá nhân, ThS Đinh Mai Long – Vụ Tổng hợp, Văn phòng Chủ tịch nước – nêu trong 10 năm trở lại đây, nợ công tại VN tăng nhanh một cách đáng lo ngại và có cơ cấu kém bền vững, bị tác động mạnh của những cú sốc từ nền kinh tế thế giới, đặc biệt là các cú sốc tỉ giá. Cơ cấu đồng tiền vay nước ngoài của Chính phủ chủ yếu là các đồng tiền chủ chốt như JPY chiếm khoảng 39%, bằng SDR khoảng 27%, bằng USD khoảng 22%, bằng EUR khoảng 9%. Đối với vay nước ngoài của doanh nghiệp (chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước – DNNN) được Chính phủ bảo lãnh) chủ yếu tập trung vào USD (chiếm từ 70-80%). Kể từ đầu năm 2010 đến cuối tháng 6-2011, ba đồng tiền chủ chốt gồm EUR, USD và JPY trong giỏ nợ nước ngoài của VN đã lên giá lần lượt khoảng 12%, 13% và 26% so với VND. Điều này cho thấy gánh nặng nợ nước ngoài tính theo nội tệ đang tăng với tốc độ chóng mặt và gây sức ép đối với thâm hụt ngân sách và chính sách tiền tệ.


Mặt khác, ông Long cũng lưu ý là vay nợ từ Trung Quốc gia tăng nhanh trong mấy năm gần đây – khoảng 1,2 tỉ USD. Ngoài ra, tốc độ gia tăng nợ công khoảng 15%/năm đang dần “bắt kịp” tốc độ tăng thu ngân sách khoảng 17-21%, có nghĩa là vài ba năm nữa nguồn tăng thu chỉ đủ để bù trả nợ – ông Long nhấn mạnh.






Nợ công của VN năm 2011






Chỉ số




Tỉ đồng




Tỉ USD




So với GDP






Nợ công theo định nghĩa của VN




1.391.478




66,8




55%






Nợ của Chính phủ




1.085.353




52,1




43%






Nợ của Chính phủ bảo lãnh




 292.210




14,0




12%






Nợ của chính quyền địa phương




 13.915




 0,7




 1%






Nợ công theo định nghĩa quốc tế




2.683.878




128,9




106%






Nợ công theo định nghĩa của VN




1.391.478




66,8




55%






Nợ của DNNN (trong và ngoài nước)




1.292.400




62,1




51%






Nguồn: Vũ Quang Việt, “Nợ công, nợ ngân hàng VN được hé mở”, tạp chí Diễn Ðàn, 25-11-2011






Bỏ qua nợ của DNNN


Nợ công của VN vì sao lại chỉ bằng một nửa so với cách tính của thế giới? TS Nguyễn Trọng Hậu cho rằng thế giới có tiêu chí nợ công chung, họ có năm thành tố thì VN chỉ có ba. Có hai yếu tố chưa được tính vào nợ công của VN đó là nợ của DNNN và khoản Nhà nước vay của quỹ hưu trí. Ông Hậu cho rằng với cách tính nợ công của VN thì thực tế những khoản nợ nước ngoài cả tỉ USD như của Vinashin không được tính vào nợ công trong khi các nước, doanh nghiệp nào có vốn nhà nước dù chỉ một vài phần trăm, khi vay nước ngoài cũng phải tính vào. Một khoản nữa VN chưa tính vào nợ công là khoản tiền Nhà nước vay của quỹ hưu trí (nếu có), vì về thực chất đây cũng là nợ của dân.


Cũng theo ông Hậu, kinh nghiệm hiện nay cần cảnh giác là rất nhiều khoản nợ tư cũng có thể biến thành nợ công. Như hiện nay có rất nhiều “đại gia” bất động sản có thể vay nợ nước ngoài. Đây không phải nợ công nhưng khi các “đại gia” phát triển đến quy mô rất lớn mà nếu để các doanh nghiệp này đổ vỡ có thể kéo theo hàng loạt hệ lụy cho nền kinh tế. Trong nhiều trường hợp, các “đại gia” không trả được nợ, Nhà nước sẽ phải đứng ra cứu. Như thế cũng tạo nguy cơ rất lớn khiến phình nợ công rất nhanh.


Còn ông Long thì cho rằng trên thực tế, dù được hay không được Chính phủ bảo lãnh nhưng nếu những DNNN không thể thanh toán một phần hoặc toàn bộ thì Chính phủ với vai trò chủ sở hữu vẫn phải gánh nợ cho các DNNN này.


ImageView.aspx


Vinashin là một trong những tập đoàn kinh tế làm ăn thua lỗ mà Chính phủ phải trả nợ thay các khoản vay quốc tế. Trong ảnh là mô hình một con tàu được trưng bày trong trụ sở của Vinashin � + Ảnh: NGUYỄN KHÁNH


Cần tính theo chuẩn quốc tế


Ông Hậu khuyến cáo VN cần theo thông lệ quốc tế trong cách tính nợ công bởi để đến khi “cái kim trong bọc lâu ngày lộ ra” thì khi đó ứng xử rất bị động. Đặc biệt, ông Hậu khuyến cáo nguy cơ vay nợ nhiều nhưng nếu sử dụng không hiệu quả thì rất nguy hiểm. Trong khi đó, nhiều khoản vay nợ của VN được phân bổ bởi Nhà nước lại có hiệu quả sử dụng không cao…


PGS.TS Nguyễn An Hà – Viện Nghiên cứu châu Âu – cho rằng với tình hình nợ công và quản lý nợ công của VN có thể thấy rằng nền kinh tế VN hiện đang có một số đặc điểm giống với các nước PIIGS (các nước châu Âu có tỉ lệ nợ cao, bao gồm Hi Lạp, Ireland, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý) khi lâm vào khủng hoảng nợ công. Đó là tăng trưởng GDP giảm kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007 đến nay, lạm phát luôn có xu hướng tăng mạnh, luôn cao trên 8% kể từ năm 2006-2011… Do vậy, cần có những giải pháp xử lý trước khi quá muộn.


Theo GS.TS Đỗ Hoài Nam – chủ tịch Hội đồng Học viện Khoa học xã hội VN, điều quan trọng là tìm ra được nguyên nhân của tình trạng đáng báo động về nợ công ở VN. “Phải chăng đó là vấn đề liên quan đến mô hình tăng trưởng kinh tế quá nóng, dựa quá nhiều vào vốn, phát triển theo chiều rộng. Điều đó đúng nhưng đã đủ chưa. Người ta còn nói mô hình tăng trưởng dựa vào DNNN làm ăn kém hiệu quả. Gần như là con nợ lớn nhất của nợ công. Thế thì chúng ta sẽ phải bắt đầu từ đâu?” – ông Nam băn khoăn.


Ông Nguyễn An Hà cũng cho rằng nợ công là nguồn lực quan trọng nhưng chất lượng sử dụng nợ còn quan trọng hơn. Rút ra các bài học từ nghiên cứu, ông Hà cho rằng con số tuyệt đối nợ công cần minh bạch, rõ ràng. Trong hội nhập quốc tế, VN phải theo luật chơi quốc tế. Bởi theo ông Hà, các khoản vay đến hạn thì nước ngoài họ xiết nợ theo luật quốc tế. VN sẽ khó lờ đi được bởi ông Hà ví dụ trường hợp Vinashin, khi phải trả lãi, ban lãnh đạo mới của Vinashin lờ đi, nhưng chỉ cần các tổ chức xếp hạng đưa định mức tín nhiệm của VN xuống một bậc, thành B- lãi suất cho các khoản vay đến VN tăng, thiệt hại có thể lớn hơn nhiều.�


Box 2


Đầu tư công cho nông nghiệp, y tế, giáo dục giảm


Ngày 25-4, Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế – xã hội quốc gia (Bộ Kế hoạch – đầu tư) cùng Đại sứ quán Ireland đã tổ chức hội thảo đánh giá hiệu quả đầu tư công. Theo báo cáo nghiên cứu, tỉ trọng đầu tư công của VN còn bất cập. Ví dụ, trong giai đoạn 2006-2010, đầu tư công cho nông lâm nghiệp và thủy sản chiếm 6,51% trong tổng đầu tư công thì đến năm 2011 chỉ còn 5,6%; giáo dục – đào tạo giai đoạn 2006-2010 là 3,1% thì năm 2011 chỉ còn 2,93%; y tế và hoạt động trợ cấp xã hội từ 4,62% xuống 4,05%. Trong khi đó, đầu tư cho các lĩnh vực kinh tế lại theo xu hướng tăng, ngay khách sạn nhà hàng cũng tăng từ 0,76% giai đoạn 2006-2010 lên mức 1,39% vào năm 2011. Cao nhất là vận tải, kho bãi, thông tin – truyền thông với tỉ lệ 22,95% lên 23,3%…


Báo cáo cũng khẳng định đầu tư công đã tác động tích cực tới tăng trưởng của VN nhưng chỉ tác động trong khoảng thời gian năm năm, sau đó giảm dần. Trong dài hạn, đầu tư tư nhân mới là yếu tố tác động mạnh nhất đến tăng trưởng kinh tế VN.


Lời bình của ABS:


- Nợ 128,9 tỉ USD mà tính láo là 66,8 tỉ USD ?


- Cố tình trì hoãn đến 3 năm mới công bố chỉ số nợ công để dễ bề che đậy, lẩn tránh trách nhiệm?


- Nguy cơ nợ tư thành nợ công vì phải bỏ tiền ra cứu rất nhiều “đại gia” bất động sản vỡ nợ!


- Chỉ 3 năm nữa là rơi vào tình cảnh làm ra đồng nào phải đem trả nợ đồng ấy.


- Vay nợ Trung Quốc gia tăng nhanh!


- Tương lai sẽ trở thành một “Hy Lạp thứ hai” (?), để rồi cầu cứu “bạn vàng”, chịu quy phục bằng mọi giá? “Bán” biển đảo hay chấp nhận trở thành một kiểu “khu tự trị”?


Còn “kịch bản” nào tuyệt vời và “êm thấm” hơn cho kế hoạch hai đảng cùng dắt tay nhau tiến lên “thiên đường XHCN”? “Chiến công” này phải thuộc về “đồng chí X”, không phải “đồng chí Lú”!



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 26, 2013 01:32

Ba mươi tám năm nhìn lại.

Đoàn Nam Sinh


hien luong_1Chỉ tính từ cuối thời Lê sơ đến nay, nước ta đã xảy ra những cuộc chia lìa đau đớn. Lê Mạc chia ra Nam Bắc Triều đều có sự tham gia của nhà Minh. Trịnh Nguyễn phân tranh cũng có sự hà hơi của nhà Thanh, tiếp theo Nam Minh, duy trì nhà Mạc ở Cao Bằng. Sau đó nhà Thanh đã đưa quân sang với cớ khôi phục nhà Lê, bắt tay với Chúa Nguyễn Phúc Ánh đánh Tây Sơn, khiến Nguyễn Huệ phải hành quân cấp kỳ ra Bắc để phá tan liên minh đó.


Mưu mô đô hộ của Trung quốc thường xuyên bị chống trả bởi một dân tộc có truyền thống bất khuất, nên mọi vương triều Trung quốc đều muốn sử dụng bài bản nuôi dưỡng mâu thuẫn, khoét sâu bất đồng rồi ra oai phúc “thiên triều” để phiên thuộc hóa nước Nam, đồng hóa dân tộc Việt. Bài học “chia để trị” này cũng đã được nước Pháp tiến hành và đã cùng với Trung Công, Nga, Mỹ áp dụng khi ký kết hiệp định Genève 1954.


Hơn ai hết, người Trung quốc đã thấm đẫm kinh nghiệm chia cắt và đồng hóa, gần nhất là triều đại Mãn Thanh phi Hán cai trị nước họ. Bao nhiêu tiểu quốc với các công trình truyền đời đã bị san bằng. Bao nhiêu dân tộc cùng văn hóa, ngôn ngữ của họ đã tan biến. Do đó, việc chia cắt Việt Nam là bước đi căn bản nhất mà nhà cầm quyền Trung Cộng thực hiện, để “phủ sóng”lên một nửa đất nước, bước đầu cho cuộc mở đường thoát xuống phương Nam. Hình ảnh Phạm văn Đồng bật khóc trong hòa hội Genève và ông Hồ gằn giọng khẳng định với phóng viên phương Tây sau đó- Jamais ! – khi nói về khả năng lệ thuộc vào Trung cộng, đã cho thấy cuộc chia cắt này có quá nhiều hệ lụy.


Thoạt đầu, ai cũng cho rằng cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa Thiên Chúa giáo với phi Thiên Chúa giáo, hữu thần với vô thần là nguyên cớ chia rẽ dân tộc, chia đôi đất nước. Nhưng suốt 10 năm chiến tranh sau đó, người ta lờ mờ hiểu ra rằng hai miền chỉ là những quân bài trên canh bạc toàn cầu đã được cường quốc phân định và tiếp tục giằng giật. Chỉ khi áp lực phải giải kết chiến cuộc, phía Mỹ bắt tay với Trung cộng- Mỹ rút đi, Trung Cộng chiếm Hoàng sa- thì miền Nam mới thấy đau đớn khi bị bỏ rơi. Tiếp tục, khi Đặng trở cờ thăm Mỹ, phát động chiến tranh Tây Nam đồng thời xua quân đánh chiếm các thị tứ biên giới Việt – Trung thì người dân miền Bắc cũng tĩnh ngộ- trái ngược với giọng lưỡi bao năm bưng bít tuyên truyền “vừa là đồng chí vừa là anh em”. Rồi sau nữa, năm ’88 Trung Cộng chiếm Gạc-ma,” liên minh chiến lược Việt- Xô” đã hiện nguyên hình là chỉ có dầu khí.


30-04-1975_1Hôm nay đi ngang qua trụ sở công quyền, câu khẩu hiệu mừng ngày thống nhất và giải phóng miền nam khiến mình nghĩ lại. Giang sơn liền một dải nhưng lãnh thổ đã vẹn toàn chưa ? Trăm họ cùng một Tổ nhưng đã đoàn kết thương yêu nhau chưa ? Quyền hiến định của toàn dân được công khai thống nhất ý chí xây dựng Hiến Pháp đã thực hành chưa ? Truyền thống văn hiến trong văn hóa giáo dục thống nhất chưa ? Còn rất nhiều câu hỏi căn bản mà có cùng câu trả lời là chưa thống nhất.


Bài học “ôn cố nhi tri tân”/ ôn việc cũ thì biết chuyện mới, buộc phải nhìn lại nguyên nhân của tồn tại phi lý này, hầu mong tìm ra một kiến giải phù hợp: Bớt đi những thay đổi trái khoáy thoạt đầu dựa vào cứu cánh “cách mạng”, càng về sau mới hay là đi lùi rồi đi vòng khiến bao cơ hội vụt qua, tài nguyên lẫn vốn xã hội cạn kiệt vì manh động.


Chỉ với 20 năm thực hành cải cách ruộng đất rồi xây dựng hợp tác xã theo mô hình Trung Cộng, đã khiến cho kinh tế miền Bắc sa sút, lạc hậu. Nông thôn thời bình tan nát cả về cấu trúc văn hóa làng xã, truyền thống đến đạo đức xóm giềng, mà tới nay vẫn chưa hồi phục được. Nền kinh tế nông nghiệp thôi, cũng còn khó đồng hành, huống hồ biết bao ngành nghề khác mà miền Bắc vẫn còn thua sút về công nghệ và lệ thuộc vào chiêu bài “vùng kinh tế giáp biên”.


Ngày thống nhất, riêng việc dạy dỗ có biết bao điều vênh váo, chênh chao không dễ gì thống nhất. Từ cách đánh vần, cách học, cách thi, cho đến cách viết cách đọc từng chữ (như bảo đảm hay đảm bảo) rồi đồng phục học sinh, giáo viên hay các khẩu hiệu lạc hậu như 5 điều bác Hồ dạy, như đoàn thể với chuyên môn, như đảng lãnh đạo giáo dục đào tạo,… Chỉ cái nền ấy thôi, phải 20 năm sau mới thấy lại câu “tiên học lễ hậu học văn”trong nhà trường, nhưng chưa hết, học gì thi nấy hay như năm nay là bốc thăm môn thi- một việc làm ấm ớ mà lẽ ra không để xảy ra trong môi trường giáo dục. Còn khẩu hiệu “tôn sư trọng đạo” chẳng hề có ai thực hiện, quá 3 năm rồi mà chế độ vẫn chưa thanh khoản nợ “lương đủ sống” cho nghề giáo. Trong lúc tham ô, lãng phí, bất công, tai ác tràn ngập khắp nơi, làm sao giáo dục được trẻ nên người, đừng nói chi thành thày thành thợ.


Cách ứng xử của một nước Nam văn hiến đâu rồi ? Thời tiêu thổ lấy đình chùa làm trụ sở, sau làm bãi đấu tố, rồi làm kho hợp tác. Suốt thời đô hộ có khi không có vua nhưng chẳng mất làng. Còn thời này họ đã quét sạch cơ tầng từ văn hóa làng xã, cái gốc của văn minh lúa nước. Đô thị bao đời thanh lịch cũng bị “nông thôn bao vây” theo đường lối Mao, cái mương không nắp, cái vỉa hè long đường là bãi rác, là toa-lét, là chỗ “tự do oanh tạc”, khạc nhổ. Thủ đô nhếch nhác với “phở quát cháo chửi”, thị tứ nhớp nháp đầy những “dân ngụ” bát nháo, vô tình. Văn hóa văn minh kêu hoài chẳng sửa, ngày càng tệ ra.


Nhưng điều đau nhất là chưa ai chịu thống nhất về thân phận. Nếu chấp nhận thân phận là một quốc gia nhược tiểu thì mọi người phải đồng lòng chọn đường đi lên độc lập phú cường. Là thân phận con dân một nước nhược tiểu thì hãy quên ngay đi những tai họa đã ụp xuống bao thế hệ, có cả tan tác chia ly, có đầu rơi máu chảy, có oán thù mà không ai muốn gây ra, để cùng ôm nhau nhỏ lệ sẻ chia thông cảm. Trong khi kẻ đã gây ra oan khiên thật sự lại không quyết nhận chân ra chúng mà cứ rêu rao vẫn tốt vẫn vàng, vẫn hòa bình hữu nghị (?!).


Còn giải phóng, có lẽ bài ca Giải phóng Điện Biên dùng từ này sớm và phổ biến rộng nhất. Năm ’54 có thấy khẩu hiệu giải phóng thủ đô. Ý là cởi mở ra khỏi sự bó buộc, trói xiềng của thực dân đế quốc nhưng gốc gác cũng là vay từ Trung Cộng.


hien_luong_bridgeNếu giải phóng miền Nam với nghĩa là giúp miền nam thoát khỏi sự phủ trùm về kinh tế, văn hóa, chính trị,… của tư bản phương tây thì chắc không phải; hay là công nhân không bị giới chủ bóc lột, lại càng không phải. Vậy chắc giải phóng là gỡ ra khỏi sự ràng buộc, lệ thuộc vào Mỹ ? Thế thì đưa cả nước vào tròng nô dịch, lệ thuộc vào Trung Cộng là đúng chăng ? Hàng triệu người đang rên siết trong tăng ca, hàng chục vạn người đang phải bán sức lao động xứ người, làm nô lệ tình dục xứ người,… là nhờ ai giải phóng,… Rồi mai ai sẽ giải phóng ai ?


Hàng năm anh em cựu binh chúng tôi tụ tập nhau lại ăn bắp Mỹ bung tro dịp 30/4, để nhớ những ngày đói lả trong chiến trường, nhắc lại ai còn ai mất, ai lên hương ai tắt lửa,… Quá phân nửa đều kêu lên, ngày càng nhiều- nếu phải hy sinh tất cả để có một đất nước như thế này thì quá phí, quá tội nghiệp cho những bà mẹ, những đứa con ra đi mà chỉ biết tao bóp cò trước thì mẹ mày khóc và ngược lại.


Ba mươi tám năm, gần với mốc 50 năm của “độ lùi lịch sử”- không thể lấp liếm điều gì. Anh chị em chúng tôi đã thấy, đã nhận thức lại ngày qua, đời mình và đoán định về tương lai con cháu, thấy rằng: Lòng nhân hậu đồng bào như câu “bầu ơi thương lấy bí cùng”,… mà một cộng đồng ngót trăm dân tộc, rải khắp ba miền vẫn kỳ thị nhau, xa cách nhau vì đâu; hay “gà cùng một mẹ”…mà cả bốn biển năm châu đi đâu cũng thấy sự cực đoan, cuồng tín chỉ vì những tín lý, chủ nghĩa xa lạ mà tự hay bị “bôi mặt đá nhau”, vì đâu ? Thực sự chúng ta chỉ còn những giá trị vĩnh cửu là dòng giống Lạc Hồng, văn hiến Việt Nam và giang sơn toàn vẹn biển trời. Cùng siết chặt tay nhau, nhìn thẳng vào mắt nhau, thương yêu chia sớt cho nhau. Ai cố phá ra, làm hỏng đi, xấu đi là tội đồ của dân tộc.


Sài gòn, 26/4/’13.


Đ.N.S.


Tác giả gửi Quê Choa


Bài viết thể hiên văn phong và quan điểm riêng của tác giả



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 26, 2013 00:43

April 25, 2013

Nhân dân muốn được biết một phần nghìn sự thật

Đoàn Vương Thanh


ares2Thông tin Nhà nước và thông tin nhiều chiều những ngày gần đây phản ảnh nhiều vấn đề có liên quan đến vận mệnh quốc gia dân tộc. Những sức ép về suy thoái kinh tế sâu, về đe dọa ở biển đông, về quản lý và phát triển kinh tế vĩ mô, về bộ máy quản lý đất nước đang chia rẽ và rệu rã : M ua quan bán chức, tha hóa một bộ phận lãnh đạo, mất đoàn kết, nghi kỵ và kích bác nhau, có đến 30% công chức Nhà nước “ngồi chơi xơi nước, nhiều quan chức cấp cao “lấy tiền ở đâu” xây biệt thự, xây nhà thờ giá hàng trăm hàng nghìn tỷ, trên không bảo được dưới, kỷ cương phép nước bị lỏng lẻo, thậm chí ngấm ngầm chống đối nhau… Dân chúng tôi nghe tin mà rầu rĩ ruột gan, ngơ ngác hỏi nhau: đất nước mình sẽ đi đến đâu nếu cứ để tình trạng này kéo dài.


Mấy hôm nay, chung quanh tôi các cụ hưu trí hễ gặp là bị túm áo: “Bao giờ thì bị cắt lương hưu hả ông ?” Tôi cũng như các cụ hưu khác làm sao mà biết được, chỉ nghe quỹ lương hưu bị người ta “cho vay” có thể trở thành “nợ xấu”. Đã là “nợ xấu” thì khó đòi hoặc không đòi được. Tám chín triệu cán bộ nhân viên, quân đội nghỉ hưu, nói chung đang sống bằng “đồng lương trợ cấp xã hội ít ỏi trong thị trường giá cả tăng cao” thì băn khoăn của các cụ hưu là chính đáng, cần có sự giải đáp thỏa đáng.


Trong cái sự “rối như tơ vò”, nhìn vào đâu cũng có hư hỏng hiện nay, các nhà chèo chống đi đâu làm gì? Không có đủ trình độ và cũng không có tham vọng đặt vấn đề nhiều vì có viết có nói những chắc gì đã có người nghe và quan tâm giải quyết, hay lại bị cho là “thế lực thù địch” nói xấu chế độ thì oan gia !


Cái miếng “bất động sản” từ nhiều năm nay, người ta tưởng bở dễ ăn, dồn sức đầu tư, mong có lãi cho đất nước và lãi cho nhà đầu tư, cho quan chức đứng đằng sau, đứng bên cạnh. Tham vọng (kể cả tham lam) vẫn chỉ là tham vọng. Các cụ ta đã dạy: “Tham thực cực thân”, đấy là “tham thực, nghĩa là tham ăn” thôi chứ tham vàng, tham tiền, tham đất…thì ôi thôi không chỉ là cực thân đâu.


Vài ba năm nay, người ta nói rằng “bất động sản bị đóng băng” vậy thì băng giá ấy lấy ở đâu để “nó” bị đóng băng ? Trong bất động sản” và đầu tư “bất động sản” có chuyện mua (và cướp) đất của nông dân, của người nghèo dưới cái mũ “dự án phát triển công nghiệp dịch vụ” phát triển kinh tế xã hội, với giá bèo, nhưng khi đưa vào kinh doanh “bất động sản thì đẩy giá lên chín tầng mây”. Gần 400 ha, trong số 450 ha đất canh tác của xã quê hương tôi đã “được chuyển nhượng đúng chính sách” cho các doanh nghiệp ở đẩu ở đâu ấy vào đầu tư.


Công bằng mà nói có một số ít họ làm ăn đứng đắn, đã đầu tư và bắt tay vào sản xuất (gần đây có bị đình đốn). Nhưng cũng có những dự án đầu tư chiếm đến 200 ha, vừa rồi lại chiếm thêm gần 50 ha nữa, nhưng 7 năm rồi, khu đất ấy “nội thì có xuất người ra, nhưng ngoại thì bất nhập, nghĩa là cấm người “không có nhiệm vụ miễn vào !” 200 ha được rào kín, không rõ ở trong đấy “chủ dự án” làm gì mà bảy năm rồi vẫn án binh bất động. Một khu khác rộng 12 mấu Bắc Bộ (mỗi mấu Bắc Bộ là 3600 mét vuông, họ đưa vào dự án, đến bù cho nông dân 69 triệu một mẫu, 13 năm rồi chưa thấy họ làm gì, chỉ thấy chuột chạy ra chạy vô nhởn nhơ trên “bất động sản” ấy.


Trong mười mấy năm qua, Nhà nước ta (do nhiệm kỳ, cũng còn do năng lực cán bộ và do nhu cầu điều chuyển cán bộ), chúng ta đã thay đến ba bốn vị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Dưới cái ô của Ngân hàng Nhà nước, đã xuất hiện hàng chục Ngân hàng thương mại cổ phần, ngay ở một thị trấn nhỏ quê tôi đã mọc lên chất ngất hoành tráng chục trụ sở các loại ngân hàng .. Cũng nhờ có cái ô của Ngân hàng Nhà nước, một số “Quỹ Tín dụng nhân dân” mọc lên để “bóp hầu bóp cổ nhân dân” để “nặn tiền” vốn nhàn rỗi của một số người và cho vay năng lãi, hàng năm tổng kết rất rôm rả, khách khứa đông nghìn nghìn, cấp trên đủ loại đến dự và nhận quà, còn cán bộ tín dụng thì giầu lên nhờ “buôn tiền”.


Ngày nay, Ngân hàng các loại, nhất là khu vực Ngân hàng cổ phần thương mại đã và đang bị một số người có thế lực và được tạo thế lực khống chế như Bầu Kiên, Trầm Bê v.v…Thực ra, người cần vốn sản xuất kinh doanh thì tiếp cận Ngân hàng rất khó , xem ra chỉ rót tiền cho “cánh hẩu” thôi và rồi chính Ngân hàng gánh chịu hậu quả “nợ xấu”. Những người đi vay để kinh doanh “đểu” vênh cái mặt lên thách thức, chưa có trả thì Ngân hàng ăn thịt được à? Thịt người không ăn được đâu !


Chưa biết thực hư thế nào, trên một số tờ báo chính thống và trên một số trang mạng ồn lên tin Ngân hàng Nhà nước và đứng sau là nhiều vị tai to mặt lớn đang cấu kết, tổ chức các đường dây buôn lậu vàng. Chỉ khổ những người “rửng mỡ vì tiền đi mua vàng dự trữ !” Vì sao giá vàng trong nước luôn cao hơn giá vàng thế giới, vì sao nhập hàng chục tấn vàng cho ai và ai được nhập, vì sao có “đấu thầu vàng” vì sao lại giao độc quyền sản xuất vàng miếng?  Có “sự loạn” ngân hàng ở tầm vĩ mô không? Tại sao lại như vậy ?


Về các tập đoàn kinh tế quốc doanh thua lỗ, xập xệ, trong đó có một số tập đoàn, cực chẳng đã phải công khai trên phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, dân chúng nghe thông tin Nhà nước rất hạn chế hàm lượng thông tin, nghe thế nào thì biết thế ấy, trong khi mọi người muốn biết nhiều hơn, bản chất hơn. Chỉ nghe láng máng thì không bao giờ tin và không đủ cơ sở để tin, nên nhân dân cứ cho là mình bị lừa.


Những con số thất thoát không rõ ấy phải chăng không phải là tiền đóng thuế của dân ? Vinasin bây giờ ra sao? Ông Nguyễn Sinh Hùng lớn tiếng cách đây một năm là sẽ khôi phục và phát triển, nhưng bây giờ sau một năm rồi, sau xử án Tổng giám đốc rồi, còn hình thù nó ra sao, còn thất thoát nữa không, dân mù tịt không biết.


Dân không được biết Chính phủ mình, tỉnh mình, huyện xã mình làm gì sử dụng tiền ngân sách để làm gì thì làm sao dân tin được.  Nhiều vấn đề hiện nay thông tin chính thống cũng mập mờ “đánh lận con đen” cứ coi dân là một lú “cừu non” hoặc là dốt nát không biết gì. Như vậy, khi cần phải huy động sức dân để đối phó với thiên tai, lụt lội, chống ngoại xâm, giữ yên bờ cõi thì lại to mồm “nhân dân là sức mạnh quyết định”.


Vì thế, để củng cố lòng tin với nhân dân, và để nhân dân tin vào Đảng và Nhà nước, nhất là sắp họp Quốc hội kỳ thứ 5 và họp BCH trung ương Đảng lần thứ VII (Khóa 11), chắc là có nhiều vấn đề ảnh hưởng đến tồn vong đất nước, chế độ và sự nghiệp của Đảng. Nhân dân muốn được biết độ một phần nghìn sự thật quanh ba vấn đề lớn chúng tôi nêu trên đây, chứ cũng không dám biết tất cả mọi vấn đề đâu. Tất nhiên, dân cũng biết không thể công khai nhiều vấn đề thuộc về an ninh quốc phòng và bí mật quốc gia. Liệu các nhà lãnh đạo tầm vĩ mô có dám làm chuyện này không?


Tác giả gửi Quê Choa


Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả


…………………………………………………………..

Đoàn Vương Thanh, tức Nguyễn Thanh Hà, 79 tuổi, cựu phóng viên TTXVN,

ĐT 0166 83 83 020 và 0321 6295 440. Email: nguyenthanhhahy@gmail.com



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 25, 2013 20:17

Chuyện không đơn giản

Nguyễn Vạn Phú


Thue_TNDNMới nghe qua, đề xuất giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp từ 25% xuống 22%, thậm chí còn 20% là đáng hoan nghênh vì đây sẽ là một động lực cho giới doanh nhân bỏ tiền đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, từ đó tạo ra công ăn việc làm cho xã hội.


Thế nhưng câu chuyện sẽ không còn đơn giản như thế nếu phân tích kỹ hơn, sâu hơn một chút. Trong dự toán ngân sách năm 2013, thu thuế thu nhập doanh nghiệp ước chừng trên 220.000 tỷ đồng, cỡ bằng chi cho giáo dục – đào tạo, dạy nghề và chi cho y tế. Dự toán này được tính toán trên thuế suất phổ biến là 25% (dĩ nhiên có rất nhiều dự án được hưởng thuế suất ưu đãi 10%, 15%, 20%). Nay thuế suất giảm xuống 23% hay 22% thì chắc chắn con số không còn là 220.000 tỷ đồng nữa mà phải giảm xuống, giảm bao nhiêu thì Bộ Tài chính đã được ra con số ước lượng cho năm tới khi bắt đầu áp dụng thuế suất mới.


Vì thế những ý kiến nói, do doanh nghiệp đang lỗ, không có lợi nhuận nên con số thu thuế không giảm, không mất đi đâu cả là không chính xác. Có lẽ khi Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nói: “Các đồng chí bảo mất tôi không tin, họ có làm ra đâu mà nộp, không nộp lấy gì mà thu thuế” thì đây chỉ là “cách nói khéo” để “động viên” Chính phủ tìm cách giảm thuế nhanh cho doanh nghiệp hòng vượt qua khó khăn hiện nay!


Điều đáng nói, một khi ngân sách giảm, chi tiêu sẽ bị ảnh hưởng. Chi tiêu đó có thể cho những dự án lãng phí nhưng cũng có thể là cho các dự án xóa đói giảm nghèo, các dự án xã hội. Chính vì vậy, chính phủ các nước thường rất cân nhắc mỗi khi giảm thuế cho giới kinh doanh bởi người dân sẽ phản đối do các chương trình an sinh xã hội sẽ bị ảnh hưởng.


Cân nhắc giữa hiệu ứng lan tỏa lâu dài của một môi trường kinh doanh hấp dẫn nhờ có thuế suất thấp với hiệu ứng trước mắt khi phải cắt giảm chi tiêu ngân sách là một cân nhắc khó chứ không phải là chuyện đơn giản.


Chúng ta hãy lấy thêm một ví dụ cụ thể để thấy nếu làm không khéo sẽ dẫn đến bức tranh nghịch lý không mong muốn. Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp dành cho báo in, kể cả quảng cáo trên báo được đề xuất giảm xuống còn 10%. Mới nhìn qua thì đây là chính sách rất hợp tình hợp lý, giúp báo chí vượt qua một giai đoạn đang rất khó khăn hiện nay. Nhiều lập luận cho rằng báo chí hoạt động không mang tính thương mại, chủ yếu để chuyển tải thông tin mọi mặt đến với xã hội…


Nhưng liệu có ổn không khi giảm thuế xuống còn 10% cho cả các tờ mang tính giải trí, mua bản quyền của nước ngoài, đang mang măng-sét tiếng Anh như các tờ “Her World”, “Cosmopolitan”, “Esquire”, “Women’s Health”, “Elle”, “Bazaar”… Các sạp báo bây giờ tràn ngập các loại báo này trong khi các tờ tạp chí khác dần dần biến mất. Các tờ mang tính nghiên cứu thì càng khó ra sạp hơn nữa. Nhưng nếu đặt ra các tiêu chí để được hưởng thuế suất thấp cũng khó vì sẽ mang nặng tính xin-cho như trước. Đặt ra yêu cầu không giảm thuế đối với những tờ nhượng quyền từ nước ngoài cũng khó vì sẽ có những tờ nhượng quyền mang tính khoa học – công nghệ cần khuyến khích lại bị ảnh hưởng.


Thật ra có những cách giúp báo in thiết thực hơn đã không được chú ý. Đó là bãi bỏ trần khống chế chi phí khuyến mãi, quảng cáo được xem là hợp lý để được khấu trừ cho doanh nghiệp. Hiện nay mức trần là 10% và đang được xem xét nới lỏng đến 15%. Tại sao không bỏ hẳn quy định rất “đặc thù” chỉ có ở Việt Nam này bởi nó vừa giúp doanh nghiệp được rộng tay quảng bá hình ảnh, vừa giúp mở rộng thị phần quảng cáo cho báo chí. Một công đôi việc – vì sao vẫn còn ngần ngại?



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 25, 2013 19:30

“Rửa vàng” từ chính sách của Ngân hàng nhà nước


image Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa có công văn yêu cầu Tổng cục 2 thuộc Bộ Công an điều tra những sai phạm của một bài báo trên tờ Thanh Niên cho rằng đang có dấu hiệu “rửa vàng” trong các chính sách tạm nhập tái suất vàng. Tại sao lại xảy ra một sự việc có thể nói là rất nghiêm trọng đối với một tờ báo như vậy?


“Rửa” vàng bằng cơ chế?


Bài báo của Thanh Niên có tựa: “Từ thống kê về Việt Nam của Hiệp hội Vàng thế giới: “Rửa” vàng bằng cơ chế?” đăng ngày 24 tháng Tư đã làm công luận thật sự hốt hoảng. Dựa trên những thông tin từ Hiệp hội Vàng thế giới, bài báo đưa ra cái nhìn hết sức logic về những diễn biến điều hành vàng của Ngân hàng Nhà nước đã trực tiếp khiến giá vàng không thể liên thông với giá vàng thế giới do chính sách xuất nhập và chuyển đổi vàng phi SJC sang SJC và có dấu hiệu ai đó đang trục lợi và không thể không bỏ qua yếu tố “rửa vàng” trong các động thái này.


Bài báo nhấn mạnh nếu chỉ lấy mức chênh lệch giữa vàng trong nước và thế giới trung bình là 3 triệu đồng/lượng thì với 25,5 tấn vàng nhập lậu, lợi nhuận từ vàng lậu lên cả trăm triệu USD.


Tuy nhiên bài báo giữ sự chừng mực cần thiết là không đưa ra nhận xét nào về  những đối tượng hưởng lợi quá lớn này.


Bài báo phân tích sự cho phép tạm xuất vàng phi SJC để tái nhập 11 tấn vàng khối về dập ra vàng miếng SJC của Ngân hàng Nhà nước đã tạo kẻ hở cho vàng lậu được đưa vào diện phi SJC, sau đó xin phép xuất ra để nhập vào một lần nữa nhằm hợp thức hóa thành vàng chính ngạch. Hay nói cách khác là “rửa vàng” kiếm lợi.


Đúng như nhiều người nhận xét bài báo này không thể không bị rút xuống vì những con số và lập luận logic của nó sẽ khiến cho thị trường vàng phải nhìn lại cuộc chơi của mình, nhất là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nơi ban hành và chỉ đạo các chính sách kỳ lạ được gọi là quản lý thị trường vàng mà không một nước tư bản nào thực hiện.


Ngay sau khi bài báo lưu hành, Ngân hàng Nhà nước ra công văn gửi Tổng cục An ninh II – Bộ Công an cho rằng bài báo đã “cố tình suy diễn, bóp méo hàng loạt chủ trương chính sách của Nhà nước về quản lý thị trường vàng, chuyển tải tới người đọc thông điệp sai về cơ chế, chính sách của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, tạo ra sự hoài nghi đối với các chủ trương, chính sách quản lý thị trường vàng và các nỗ lực phối hợp phòng, chống buôn lậu của các cơ quan Nhà nước”.


Bài báo đã đụng đến tử huyệt của chính sách quản lý vàng


Một cửa hàng mua bán vàng ở TPHCM. AFP

Một cửa hàng mua bán vàng ở TPHCM. AFP


Câu hỏi đặt ra tại sao Ngân hàng Nhà nước vốn có truyền thống chậm chạp khi đối phó với giá vàng nhảy múa nay lại tỏ ra căng thẳng với một bài báo như vậy? Phải chăng vấn đề mà bài báo đưa ra đã đụng đến tử huyệt của chính sách quản lý vàng hiện nay của Ngân hàng Nhà nước hay không? Nhà báo Phạm Chí Dũng, cũng là một Tiến sĩ kinh tế cho biết nhận xét của ông:


Có thể nói là phản ứng của Ngân hàng Nhà nước và cá nhân ông Nguyễn Văn Bình đối với vấn đề biến động thị trường vàng là rất chậm và rất ít. Thí dụ trong lần biến động giá vàng vào tháng Tám năm 2011 chênh lệch với giá thế giới tới 5 triệu đồng. Sau cơn điên đó khoảng 5 ngày sau Ngân hàng Nhà nước mới có một văn bản và từ đó tới giờ phải nói là rất ít văn bản nhằm điều chỉnh thái độ, hành vi của giới buôn bán vàng cũng như người dân trữ vàng. Cho nên việc NHNN có văn bản có thể nói phản bác đối với báo Thanh Niên thì tôi cho là một động thái rất là nhanh, nhanh một cách kỳ cục và có thề nói đầy nghi ngờ.


Người ta có thể đặt câu hỏi là số vàng nhập lậu này được nhập theo cách nào? Câu hỏi này phải được chính Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình là người phải trả trả lời vì trong phiên chất vấn của Quốc hội vào ngày 13 tháng 11 năm ngoái ông đã cho rằng trước khi Nghị định 24 có hiệu lực, lượng vàng buôn lậu mỗi năm lên tới từ 10 tấn tới 30 tấn.


Tiến sĩ Lê Đăng Doanh chia sẻ kinh nghiệm của ông về việc vàng nhập lậu và câu hỏi đặt ra với bài báo của Thanh Niên là không thề chứng minh được sự nhập lậu ấy từ đâu:


Trước đây thì ông Nguyễn Văn Bình khi còn làm phó Thống đốc NHNN đã viết trên tạp chí Cộng sản thừa nhận rằng là hàng năm có đến 20, có năm đến 40 tấn vàng lậu chảy vào Việt Nam. Thế nhưng cái khó của bài báo trên báo Thanh Niên là chứng cứ ở đâu, mà đã là hàng lậu thì làm gì có chứng cứ? Đây cũng là một câu hỏi rất lớn. Trước đây Hội đồng Vàng Thế giới mà tôi có gặp trong một cuộc hội thảo thì họ cũng nói rằng họ có các căn cứ đáng tin cậy cho biết họ biết các chỗ bán vàng ra tại Bangkok hay Hongkong và họ cũng biết rõ đường dây từ Bangkok hay Hongkong chuyền về Việt Nam. Nói thế thôi chứ bây giờ đòi hỏi chứng cứ thì không có cho nên cái chỗ sơ hở hay khó chứng minh của bài báo này là cái điểm ấy.


Vàng SJC Rồng Vàng bán ngoài thị trường. RFA

Vàng SJC Rồng Vàng bán ngoài thị trường. RFA


Trong công văn ghi rõ chính Ngân hàng Nhà nước đã liên hệ với Hội đồng Vàng thế giới và biết đây chỉ là con số dự báo nhu cầu vàng của Việt Nam chứ không phải là con số thật số lượng nhập khẩu vàng của Việt Nam hàng năm. TS Phạm Chí Dũng phân tích điều này:


Những số liệu báo Thanh Niên đưa ra  tôi cho là chỉ để tham khảo. Mà báo Thanh Niên cũng nói là số liệu tham khảo từ Hiệp hội Vàng Thế giới. Trong suốt bài báo của Thanh Niên có thể nói là dựa trên những số liệu tham khảo như vậy thì báo Thanh Niên chỉ đặt ra những giả thiết chứ không phải là tiết lộ. Rửa vàng cũng không phải là sự tiết lộ.


Báo Thanh Niên đặt ra một thực trạng là vàng thỏi chỉ có thể vào thị trường nội địa theo hai con đường: Con đường thứ nhất là NHNN cho phép các ngân hàng thương mại mua trạng thái nước ngoài và con đường thứ hai là nhập lậu. Từ đó báo Thanh Niên nêu ra giả thiết là vàng lậu đã đang và sẽ tiếp tục tràn vào Việt Nam và đây là một thực tế và đây cũng chính là nguyên nhân gây biến động tỷ giá suốt trong thời gian qua. Báo Thanh Niên cũng đặt ra ngay thời điểm này khi khoảng cách giá vàng trong nước và giá vàng thế giới bị đẩy cao lên mức kỷ lục trên 6 triệu đồng một lượng thì tỷ giá ngoài thị trường tự do bị hun nóng lên một cách đáng ngờ. Điều đó là đúng. Giả thiết và nghi ngờ của báo Thanh Niên đặt ra là đúng. Trong thực tế giá vàng trong nước có thời điểm lên cao hơn 7 triệu một lượng so với giá vàng thế giới nhưng vẫn không có một lời nhắc nhở không có mọt động tác nào của NHNN.


Nhà báo Phạm Chí Dũng cũng đưa ra nhận xét về thái độ của Ngân hàng Nhà nước đối với điều mà ông cho là dẫm chân lên Bộ Công an, ông nói:


Đặt lại vấn đề NHNN có văn bản phản bác có thể nói là cáo buộc đối với báo Thanh Niên một số câu từ giống như trong một bản cáo trạng và hình sự hóa vấn đề. Những câu từ như vậy nó làm cho người đọc nảy sinh câu hỏi tại sao NHNN lại có thái độ cực đoan và có vẻ cáo buộc báo Thanh Niên. Tôi có cảm giác NHNN trong văn bản này dường như đóng thế vai của Bộ Công an và đang dường như muốn đưa cho báo Thanh Niên đội cái mũ đó là điều 88 tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.


Trong công văn gửi Tổng Cục II Bộ Công an. Ngân hàng Nhà nước phân trần rằng Nghị định 24 và các quy định khác của pháp luật không có quy định nào bắt buộc phải chuyển đổi các loại vàng miếng khác sang vàng miếng SJC như bài báo viết.


Như vậy là Ngân hàng Nhà nước đã bác bỏ chính quyết định độc quyền vàng của mình trong nghị định 24. Thật ra nghị định này đã được báo chí phân tích rất nhiều trong đó dẫn lại tuyên bố của ông Bình cho rằng sự độc quyền vàng của Ngân hàng Nhà nước nhằm khắc phục tình trạng đầu cơ tích trữ, buôn bán trái phép và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng và tiến hành kinh doanh vàng với vai trò người kiến tạo thị trường, mua bán cuối cùng.


Thực tế cho thấy từ 8 thương hiệu vàng miếng đang sản xuất, lưu thông trên thị trường, Ngân hàng Nhà nước tuyên bố chỉ duy nhất SJC là thương hiệu vàng quốc gia”.


Một Ngân hàng Nhà nước lại không thể thống nhất ý nghĩa của một nghị định quan trọng và lái nội dung của nó sang hướng khác nhằm chống lại một tờ báo đăng bài phân tích những bất cập của chính mình thì được phải xem là điều không đơn giản trong tình hình phức tạp dễ dẫn tới đổ vỡ hiện nay.


 



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 25, 2013 16:17

Lấp sông Nậm Na để mở đường – sự tàn độc vô biên!

Thành Sơn- Đỗ Doãn Hoàng-LĐ


mc-namna-flickSông Nậm Na – một dòng sông lớn và đẹp nổi tiếng của Tây Bắc – đang hằng ngày bị xe ben, xe tải, máy ủi, máy xúc ùn ùn đổ đất đá xuống.


Sông Nậm Na chảy qua cửa khẩu Ma Lù Thàng (tỉnh Lai Châu) rồi đi dọc các miền địa lý, văn hóa, tâm linh sặc sỡ của bà con các dân tộc Thái, Dao, Mảng, Hà Nhì… (dài hơn 100km), nó hội tụ các con suối lớn trước khi nhập vào sông Đà ở ngã ba sông huyền sử Nậm Na – Nậm Tè (sông Đà) chỗ thị xã Mường Lay bây giờ. Nhiều ghềnh thác vắt như áng tóc trữ tình qua quốc lộ 4D, vượt qua bao thảm rừng xanh lộng lẫy. Dù mùa cạn hay mùa mưa, Nậm Na luôn là dòng nước lớn đầy quyến rũ bao điệu hồn biết đắm mình với Tây Bắc. Nhiều con cá chiên nặng gần một tạ, to như quả bom tấn đã xuất hiện ở đây, bà con từng bắt thịt suốt bao năm qua. Nhiều mó tôm cá lớn, nhiều đến mức bà con phải rẽ cá ra mới hớt được gầu nước. Nậm Na chính là con sông lớn góp phần làm nên “trang sử đẹp” cầu Hang Tôm- từng là cây cầu dây văng lớn nhất nước Việt Nam, lớn nhất Đông Nam Á, được xây dựng từ thời chiến tranh chống Mỹ (dưới chân cầu có nhiều mỏ tôm, bà con thay nhau đánh bắt nuôi sống mình và nuôi sống bản làng, vì thế mới đặt thành tên)…

Vậy nhưng, trong tháng 4 này, khi phóng viên Báo Lao Động đi dọc sông Nậm Na từ thị xã tỉnh lỵ Lai Châu về Mường Lay để tới Mường Tè, Mường Nhé thì được chứng kiến thảm cảnh ở nơi đây. Thủy điện được xây ồ ạt, ngăn đường, phá núi, mở đường mới khiến cung đường này trở thành nỗi kinh hoàng bụi bẩn, tai nạn, ách tắc… nhất Việt Nam.


Chưa hết, trong mỗi lần cấm đường cả tiếng đồng hồ, người ta phải chứng kiến cảnh tàn độc: Các đơn vị thi công lấp sông Nậm Na theo đúng nghĩa đen. Xe ben, xe tải, máy ủi, máy xúc ùn ùn đổ đất đá xuống sông Nậm Na trước ống kính của chúng tôi. Tai họa khủng khiếp đã, đang và sẽ đến với bà con khu vực và toàn bộ vùng hạ lưu. Khi sông bị lấp, lũ quét, lũ bùn, lũ ống sẽ đồng loạt xuất hiện, cảnh quan sinh thái bị thay đổi, ruộng rẫy của bà con bị ảnh hưởng. Chỉ có doanh nghiệp thi công là trục lợi; vì đất đá lúc làm đường và các công trình khác, họ không phải đem đi đổ, mà cứ ào ào ném xuống sông cho… gọn.


Những hành động tàn độc này diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật, trong suốt nhiều năm, ai cũng nhìn thấy và cũng xót xa, vậy mà không thấy có sự ngăn chặn của các cơ quan hữu trách.


PV Lao Động xin gửi tới độc giả chùm ảnh này để chúng ta cùng suy ngẫm:







Lấp sông suối khi thi công mở đường, nhìn từ trên cao, khi đi trên con đường mới phá đá xây dựng Pa Tần, đi dọc biên giới vào Mường Tè (Lai Châu).





























Máy móc lớn ầm ầm đổ đất đá, san ủi “lấy mặt bằng” từ vách đá, bờ sông và chính lòng sông Nậm Na!








Bức ảnh này, cho thấy: con sông Nậm Na chỉ bé bằng… chiếc chiếu, bởi nó bị lấp gần hết. Và dòng đất đá bụi bặm nghi ngút kia chính là xuất phát từ chiếc máy lớn đang tiếp tục đổ đá xuống sông (chụp ven quốc lộ 4D, khu vực huyện Phong Thổ).




































Chúng tôi đã “phục kích” chụp được bức ảnh này, chiếc xe BKS 90T 6080 đang lấp sông Nậm Na.






















Con sông huyền thoại của Tây Bắc sắp biến thành… đường nhựa và các lô đất xây dựng quán xá, nhà cửa?






 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 25, 2013 07:49

Vàng hay tiền?

TS Nguyễn Minh Phong- Hải Vân ghi-DNSG


money-vs-goldNăm 2012-2013, Việt Nam chịu cùng lúc ba sức ép lớn nhất góp phần chính làm cho nền kinh tế suy thoái sâu, mà trước đấy may mắn không bị vướng phải.


Đó là: thị trường bất động sản, thị trường ngân hàng và khu vực doanh nghiệp nhà nước. Ba sức ép cùng hội tụ, tạo ra sự cộng hưởng và gây ra những nguy hiểm chưa bao giờ có cho nền kinh tế nước nhà. Các lời giải cho từng điểm một đã được đưa ra, nhưng lời giải tổng thể thì chưa tới.


Điều ngạc nhiên là trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, vấn đề quản lý thị trường vàng vẫn bị bỏ ngỏ. Đây là một lĩnh vực rất nóng, cực mới nhưng chưa hề được nhắc đến, kể cả cấp cao và những hội nghị, hội thảo lớn.


Thứ nhất, muốn chống “vàng hóa” tiền tệ nhưng lại quản lý bằng cách tiệm cận hóa vàng, bằng việc quy định về vàng miếng, vàng thương hiệu quốc gia và để cho giá trị của vàng miếng thương hiệu cao hơn tới gần 5 triệu đồng so với vàng bình thường cùng hàm lượng 9999.


Như vậy, đã vô tình biến vàng thành tiền. Cách làm này dù vô tình hay cố ý đã gây tác động ngược và biến nó thành một mô hình rất nguy hiểm, điều này cần phải được xem xét.


Quỹ Tiền tệ Quốc tế ( IMF) năm 2005 đã khẳng định, trừ vàng với tư cách là vàng tài chính dự trữ quốc gia, còn lại vàng hàng hóa có hàm lượng như nhau thì phải được đối xử như nhau. Như vậy, không lý nào lại thực hiện việc dùng một cái dấu SJC để biến vàng bình thường thành vàng “thương hiệu” quốc gia!


137Thứ hai, quản lý tập trung và độc quyền nhà nước mâu thuẫn với kinh tế thị trường. Rất tiếc, cho đến nay, mới có lời tuyên bố của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về thương hiệu vàng miếng mà chưa có một đề án chính thức mang tính pháp lý về vàng thương hiệu, không có quy trình, quy chế, mà trách nhiệm, lợi ích cũng không rõ ràng.


Ngay cả Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 3/4/2012 của Chính phủ cũng chỉ quy định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng chứ chưa quy định liên quan đến thương hiệu vàng miếng, thương hiệu vàng quốc gia. Nói “tùy tiện” thì hơi nặng nhưng thực sự là rất duy ý chí.


Hơn nữa, nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2013 được thông qua, phần về vàng ghi: “Khắc phục bất cập trong quản lý, ổn định thị trường vàng, bảo đảm giá vàng trong nước sát với giá vàng quốc tế”. Đây như một tiêu chí được mọi người ủng hộ.


Năm 2011, khi giá vàng trong nước đắt hơn giá vàng thế giới 2 triệu đồng/lượng, Thống đốc Nguyễn Văn Bình khẳng định sẽ đưa mức chênh lệch này về 400 ngàn đồng, nhưng đến cuối năm 2012, chính ông lại cho rằng, không có lý do gì để bình ổn giá vàng.


Mục tiêu mà ông quan tâm là chống đầu cơ vàng. Như vậy, quan điểm của ông Thống đốc đã thay đổi rất mạnh, rất cơ bản và rất ngược nhau.


Thứ ba, việc độc quyền của Nhà nước về vàng có gắn với lợi ích nhóm và lợi ích DN hay không khi mà mức chênh lệch giá lớn đã và đang kéo dài trong nhiều tháng qua? Tiền chênh lệch đến gần 5 triệu đồng giữa giá vàng trong nước và thế giới, chênh lệch đến 400 ngàn đồng/lượng giữa vàng thương hiệu SJC với các loại vàng khác, đã đi đâu?


Nếu tiền được bổ sung vào ngân sách nhà nước thì rất tốt, nhất là khi ngân sách nhà nước đang khó khăn. Nhưng đến nay, trách nhiệm giải trình của cá nhân về các vấn đề liên quan đến thị trường vàng vẫn chưa có.


Không dừng lại ở đó, khả năng Ngân hàng Nhà nước sẽ áp đặt biên độ giá vàng. Nhưng biên độ giá đó sẽ căn cứ vào đâu, nếu giá vàng trong nước không liên thông với giá quốc tế, nếu không lấy cơ chế thị trường, giá thị trường làm căn bản? Những điều này, không rõ Quốc hội có biết không, Chính phủ có biết không, nhưng rõ ràng người dân không được biết.




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 25, 2013 06:46

Từ Văn Giang nhớ đến Đồng Chiêm

Người Buôn Gió-FB


397882_515309475194017_1590442069_nHôm nay hai nhà báo của đài tiếng nói Việt Nam VOV bị công an Hưng Yên đánh ở Văn Giang một năm về trước đã được cơ quan công an chính thức xin lỗi và bồi thường một khoản tiền khá lớn. Lớn đến mức các anh không dám cầm hết mà tự nguyện bớt lại quả một chút cho bên bồi thường. Cách ” lại quả ” này ta có thể gọi là ” chơi đẹp” hay xử đẹp.


Đầu tiên ông chánh văn phòng UBND tỉnh Hưng Yên lớn tiếng cho rằng không có chuyện đánh đập nhà báo, ông khẳng định các thế lực thù địch ngụy tạo ra clip các nhà báo bị đánh ở Văn Giang, nhằm bôi nhọ chế độ. Lời phát biểu của ông đã được một số kẻ hưởng ứng. Trên diễn đàn, các trang mạng một số kẻ này còn cao hứng ” phát hiện” điểm này, điểm kia ngụy tạo trong clip. Thậm chí có kẻ còn chắc chắn nói rằng đây là một cái bẫy khi một người đứng ra khiêu khích để công an tấn công, trong khi người khác đặt máy quay sẵn.


Có lẽ những người thực hiện đoạn clip không trông chờ gì lời xin lỗi của ông chánh văn phòng tỉnh Hưng Yên, không trông mong gì vào bản quyền hay tác quyền gì của đoạn clip. Việc bồi thường cho hai nhà báo bị đánh, ít nhiều cũng nói nên một điều là clip đánh hai nhà báo đó là sự thực, không phải là ngụy tạo.


Nhìn kết quả có hậu cho hai nhà báo cơ chế VOV, chợt xót xa nghĩ tới thân phận của những nhà báo tự do mà họ chính là những người đưa lên thông tin sự thật, không hề bị cắt xén xuyên tạc như nhà báo cơ chế. Nguyễn Ngọc Năm khi bị đánh, môi sừng vều còn cố gượng đưa tin bịp bợp là Văn Giang cưỡng chế thành công êm ấm, trong khi chính Năm tận mắt ở hiện trường nhìn khói đạn mù trời, quân lính như hùng binh tiến về thành Troa, chính Năm và đồng nghiệp Hán Phi Long ăn trận đòn nhừ tử của liên quân chính quyền là công an và bảo vệ Ecopak.


Cách đây vài năm, tại giáo xứ Đồng Chiêm huyện Mỹ Đức xảy ra một cuộc cưỡng chế, từ lúc trời còn đêm tối hàng ngàn cảnh sát tiến về giáo xứ hẻo lánh, thưa người này để thực hiện cưỡng chế  một cây thánh giá. Phóng viên tư do người Công Giáo JB Nguyễn Hữu Vinh đến hiện trường, khi xe của anh đi vào lập tức một đống đất đổ chặn lối ra. Nguyễn Hữu Vinh quay lại tìm hiểu sự việc, lập tức anh bị một đám người có cả sắc phục cảnh sát, dân phòng và thường phục đánh đập túi bụi, cướp máy ảnh.


301981_515313468526951_482140862_nĐánh Nguyễn Hữu Vinh xong, đám người ấy thậm chí không màng chuyện bỏ đi, họ còn đứng nhìn xem ai đưa nạn nhân đi cứu chữa. Khi hai người bạn đến vực anh dậy đưa về nhà thờ sơ cứu, còn nhìn thấy những kẻ thủ ác nhởn nhơ, hỉ hả đứng nhìn theo.


Một tuần sau tư gia phóng viên tự do Nguyễn Hữu Vinh bị những người lạ mặt theo dõi, anh nhận giấy triệu tập lên công an nhiều ngày để hỏi về việc có liên quan ở Đồng Chiêm.


Bằng các biện pháp nghiệp vụ, công an xác minh nhanh chóng Jb Nguyễn Hữu Vinh không bị đánh, không bị cướp máy ảnh, mọi việc chỉ là lời đồn.!!! Với những câu hỏi như – anh là giáo dân Làng Tám, anh đến đây làm gì, mang theo máy ảnh làm gì..? Có ai làm chứng không.?? có hình ảnh, clip nào không..? Với những câu hỏi thẩm vấn của công an thường dành cho thủ phạm, thì nạn nhân chỉ biết trông vào trời cao.


Mà trời ở nước Việt cao xa lắm, khó mà nghe hết sự đời dưới trần gian.


Số phận của nhà báo tự do và nhà báo trong cơ chế khác nhau là vậy, có lẽ vì tưởng nhầm Hán Phi Long, Nguyễn Ngọc Năm là nhà báo tự do cho nên ” liên quân” mới đánh cho nhừ tử, vì nếu thế sự điều tra sẽ đi đến kết luận ” không có đánh người ở Văn Giang, clip là thế lực phản động ngụy tạo”.


Hán Phi Long và Nguyễn Ngọc Năm trong trường hợp này khó mà làm khác được, đòi được chút công bằng, thế là may mắn hơn đồng nghiệp ” lề trái ” của các anh. Vụ bồi thường này chắc chắn không thành nếu không có sự đồng ý của cấp trên VOV cũng như cấp trên của công an tỉnh Hưng Yên. Là những người trong ” biên chế” khó mà làm theo ý mình kể cả bên đánh lẫn bị đánh. Dẫu sao các anh VOV cũng đã được ưu ái hơn người.


Nhưng sự bồi thường này không nói nên điều gì tốt đẹp, chỉ là cách giải quyết để quan hệ nội bộ chính quyền được tốt đẹp hơn. Còn với nhân dân càng khiến họ cảm thấy bất công, khi những trường hợp như JB Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Chí Đức không được làm sáng tỏ trong công bằng. Nó chỉ cho dư luận thấy rõ cách đối xử không hề theo luật pháp bất vị thân, mà chỉ theo lệ ngầm quy ước giữa những người trong chính quyền với nhau.


Từ Văn Giang đến Đồng Chiêm, có lẽ hiến pháp , luật pháp nên quy định chia ra hai hạng người để ban hành luật cho đầy đủ, bảo đảm quyền lợi của giai cấp lãnh đạo và giai cấp bị lãnh đạo. Như thế cho dư luận hết đường thắc mắc, đào sâu nghiên cứu chủ nghĩa xã hội là đấy chứ hội đồng lý luận trung ương còn phải tìm đâu. ?



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 25, 2013 00:43

April 24, 2013

Bài báo của Thanh Niên chỉ sai về mặt kỹ thuật, về bản chất không có gì sai cả

Nguyễn Vạn Phú

goldNgân hàng Nhà nước (NHNN) phản ứng mạnh bài ‘Rửa’ vàng bằng cơ chế đăng trên báo Thanh Niên ngày 24-4 đến nỗi báo này phải rút bài xuống, hôm sau thì đăng đính chính trên báo in.
Vấn đề được NHNN đẩy đến chỗ hình sự hóa khi mời Bộ Công an (Tổng cục An ninh II) “cùng xử lý thông tin rửa vàng”, tạo một tiền lệ chưa từng có.
Bình tĩnh đọc lại bài báo trên báo Thanh Niên thì thấy căn cứ để tác giả nêu ra các con số nhập lậu vàng vào Việt Nam trong các năm qua là một báo cáo của Hội đồng Vàng thế giới. Theo đó, bài báo cho rằng Việt Nam đã nhập khẩu 87,8 tấn vàng thỏi trị giá 4,561 tỷ đô-la vào năm 2011; 75,2 tấn vàng thỏi trị giá trên 4 tỷ đô-la vào năm 2012. Với vàng nữ trang thì ít hơn, năm 2011 nhập năm 2011 là 13 tấn, năm 2012 thêm 12,5 tấn nữa.
Cái sai về mặt kỹ thuật ở đây là báo cáo của Hội đồng Vàng thế giới dùng khái niệm “gold demand”, tức nhu cầu vàng, được họ định nghĩa là “tổng lượng vàng nữ trang và vàng miếng tiêu thụ trong cả nước”. Nhu cầu vàng này được ước tính dựa trên cung vàng từ các nguồn, gồm vàng chế tác và vàng nhập từ các nguồn không chính thức. Nói tóm lại, họ lấy các con số do các công ty vàng bạc lớn của cả nước bán ra trong năm để ước tính ra “demand” (cầu vàng), còn các công ty này lấy vàng từ đâu thì họ không quan tâm (vì cũng chẳng biết). Vàng đó có thể từ nhập lậu, cũng có thể từ các dạng vàng khác dập thành vàng miếng hoặc vàng nguyên liệu nhập từ trước.
Ví dụ theo thông tin trên trang web của SJC, doanh thu của SJC năm 2010 là 4,27 tỷ đô-la, năm 2011 là 5,28 tỷ đô-la (khoảng 100 tấn giá lúc đó), chủ yếu là nhờ mua bán vàng miếng ra thị trường. Lưu ý là doanh thu này không có nghĩa SJC bán ra 100 tấn mà có thể xoay vòng nhiều lần, mua vào rồi bán ra nhưng cuối cùng cũng tính thành nhu cầu tiêu thụ vàng của toàn thị trường. Nhưng vàng nguyên liệu ở đâu ra để bán? Có thể từ nhập khẩu, có thể từ mua vàng đủ loại trên thị trường (từ chuyên môn là scrap gold) về chế biến thành vàng bốn số chín.
Vậy nếu bài báo nói những con số này là nhu cầu vàng, trong đó một tỷ lệ nào đó là từ vàng nhập lậu thì hoàn toàn chính xác, không cãi vào đâu được. Vàng nhập lậu tác động lên tỷ giá là chuyện ai cũng biết nên đoạn tiếp theo cũng không có gì sai cả.
Bây giờ đến đoạn quan trọng nhất là câu “hé lộ khả năng đã có tình trạng trục lợi chính sách để ‘rửa’ số lượng vàng lậu khổng lồ đã tràn vào Việt Nam”. Chỉ cần biên tập bỏ chữ khổng lồ (vì như đã nói ở trên là không xác định được khối lượng vàng nhập lậu là bao nhiêu) thì câu này đâu có cáo buộc trực tiếp NHNN điều gì đâu. Bài báo chỉ nói đến khả năng người khác trục lợi do chính sách chứ đâu nói chính sách là nhằm rửa vàng lậu?
Tôi đã từng phê phán chính sách cho tạm xuất tái nhập vàng rồi nên ở đây không nhắc lại nữa nhưng rõ ràng chính sách này dễ bị một bên khác lợi dụng để hưởng lợi nhiều cách, kể cả không loại trừ khả năng hợp thức hóa vàng lậu nhập trước đó (dù số lượng có thể ít) mà NHNN không biết.
Nếu NHNN là nơi muốn lắng nghe dư luận để điều chỉnh chính sách thì đây là dịp rất tốt để hiểu thị trường bên ngoài đang nghĩ như thế nào về mình, công tác tuyên truyền còn yếu ra sao để họ hiểu nhầm như thế ấy, chứ tại sao lại hình sự hóa vấn đề lên như thế? Lắng nghe như thế biết đâu là nguồn thông tin để NHNN rà soát lại chính sách xem có để ai lợi dụng không chứ chưa gì đã phủ định hết sạch như thế thì chủ quan quá.
Chính sách liên quan đến vàng đang tiếp tục nhận những phê bình của công luận. Dù báo Thanh Niên có đính chính thì báo Pháp Luật TPHCM lại có bài Thị trường vàng: Nguy cấp! Điều hành vàng: Thất bại! (Với câu dẫn rất ấn tượng: Thanh tra cần làm rõ: Vàng lậu vào VN là bao nhiêu? Đấu giá vàng và tạo ra tình hình độc quyền thương hiệu để làm gì?); báo Tuổi Trẻ thì có bài Ai mua hơn 12 tấn vàng đấu thầu?” đặt vấn đề NHNN đã tung ra hơn 12 tấn vàng nhưng giá vàng trong nước không những không giảm mà ngày càng bỏ xa giá vàng thế giới.
Đâu có thể “méc” bên Bộ Công an hết được!




 




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 24, 2013 21:34

Nguyễn Quang Lập's Blog

Nguyễn Quang Lập
Nguyễn Quang Lập isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Quang Lập's blog with rss.