Nguyễn Quang Lập's Blog, page 29
April 29, 2013
38 năm- Nhà nước của một nửa
Nhiều đêm tôi không tài nào ngủ được. Cứ nghĩ đến đất nước từ sau năm 1975 đến nay, đã 38 năm gọi là “thống nhất” nhưng thực tế lòng người chưa về một mối. Thực tế vẫn tồn tại hai loại người: Người phe của cách mạng và người thuộc phe “ngụy quân ngụy quyền”. Hai “loại người” cùng sống trong một làng, ấp, xã này khác biệt nhau từ ý thức hệ đến những chế độ chính sách cụ thể hàng ngày. Những phân biệt đối xử như vậy khiến người dân liên quan đến “ngụy quân ngụy quyền” cứ nghĩ: Nhà nước này là nhà nước của những người cách mạng, không phải nhà nước của mình. Nghĩa là NHÀ NƯỚC CỦA MỘT NỬA. Cụ thể như thế nào ?
1.Từ sau năm 1975 đến nay, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sau đó là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã thi hành chính sách bắt những người có chức vụ trong chính quyền Sài Gòn và sĩ quan quân lực Sài Gòn, sĩ quan anh ninh, tâm lý chiến đi cải tại các trại tập trung. Thực chất là đi tù. Cải tạo lâu đến nỗi nhiều người vợ ở nhà lấy chồng khác. Khi ra khỏi trại thành kẻ lạc loài. Rồi chính sách cải tạo công thương nghiệp làm cho nhiều người điêu đứng phải vượt biên.. Rồi trấn áp, bắt bớ người vượt biên. Một số địa phương ven biển còn lợi dụng “bắt vượt biên” để trấn vàng, trấn của. v.v..Nhà nước lúc đó không hề có một chính sách nào hướng dẫn, giúp đỡ những người gọi là “ngụy quân ngụy quyền và con em của họ” ổn định đời sống tinh thần và vật chất. Giả sử có một chính sách nhân đạo, hòa giải từ đầu thì đã không có chuyện hành trăm ngàn người vượt biên bỏ xác trên đại đương, gây nên một mối hận lớn trong xã hội, vì thế Nhà nước không phải của họ, mà nhà nước là của những người cách mạng.
2. Trên TuầnViệt NamNet có in bài báo kể chuyện một anh lính Sài Gòn .”Anh tên Ngô Công Vò, quê xã Thủy Phù, Hương Thủy, Thừa Thiên – Huế, đi lính cho chế độ Sài Gòn năm 1970. Anh bị thương trong ngày cuối cùng của chiến tranh. Bây giờ dù tàn tật vẫn phải lao động vất vả để nuôi con vừa phải đối mặt chiến tranh khi chiến tranh đã đi qua, và về tình người. Anh kể :”So với nhiều anh em lính chế độ cũ, tôi còn may mắn hơn nhiều. Nhưng cuộc sống vẫn vất vả lắm. Anh em thương binh phía Bắc còn có chế độ, chứ chúng tôi chẳng có gì, làm việc quần quật mà chẳng đủ nuôi vợ con“. Đáng lẽ Nhà nước XHCN phải có một giải pháp nào đó đối với những người “thương binh của quân đội Sài gòn”, bằng những trợ cấp dưới góc độ nào đó, hoặc đàm phán với Chính phủ Mỹ để giải trợ cấp cho họ, để họ có đường sống. Nghe nói Chính phủ Mỹ đề nghị được trợ cấp cho thương phế binh quân đội Sài Gòn (cũ), nhưng Nhà nước Việt Nam không thống nhất (?). Ở Huế tôi thấy rất nhiều trí thức học hành tử tế, kiến thức về văn hóa xã hội uyên bác, là viên chức, giáo viên khoa học xã hội và nhân văn thời chính quyền Sài Gòn cũ, nhưng sau năm 1975 , bị ném ra đường, thành NHỮNG NGƯỜI ĐẠP XE THỒ, ĐI RÀ SẮT VỤN kiếm sống. Đối với anh em trí thức này, mặc cảm xã hội của họ là rất lớn. Phân biệt đối xử tới mức cho đén tận hôm nay, vẫn có nhiều người trong qhính quyền , khi nhắc tới con em những người làm việc dưới chế độ cũ là :”Con em bọn ngụy quân ngụy quyền”. Nhiều nhà văn, nhà thơ, đạo diễn điện ảnh đã cố gắng , bằng sáng tác của mình để rút ngắn sự cách biệt này, như bộ phim “Sống trong sợ hãi“, là bộ phim truyện nhựa đầu tay của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên. Phim kể về cuộc sống của một cựu chiến binh Việt Nam cộng hòa phải sống cuộc đời vất vả mạo hiểm là đào bom mìn còn sót lại từ thời kỳ chiến tranh đem bán; và cuộc sống căng thẳng của ông với hai người vợ, trong đó có một người là em gái một sĩ quan Bắc Việt Nam. Bộ phim cảm động làm cho mọi người Việt hiểu thêm rằng dù ‘bên này’ hay ‘bên kia’, nỗi đau đều giống nhau. Nhưng những cố gắng đó đều bị chính sách phân biệt đối xử của NHÀ NƯỚC CỦA MỘT NỬA làm cho tiêu tan.
3. Ngay trong chính sách tuyển dụng, biên chế, chính sách xét tuyển đại học, chính sách trợ cấp xã hội ở nông thôn.vv.v.. Nhà nước XHCN cũng phân biệt đối xử rất ngặt nghèo. Chính sách ban hành chỉ dành cho một nửa, tức là “con em những người cách mạng”. Còn những người dính líu đến “bên kia chiến tuyến” thì lúc nào cũng nằm ngoài sự quan tâm đó. Ví dụ có ông giáo ( thời cũ) sống rất nhân văn, lại có trình độ để xử lý công việc nhanh nhạy, chính xác, nhưng khi bầu “Tổ trưởng dân phố” liền bị trên gạt đi vì “ngụy quyền cũ”. Đại biểu Quốc hội tiếp xúc với dân thì chỉ tiếp xúc với “thành phần cốt cán” được chọn trước. Lãnh đạo đảng, nhà nước về thăm thì chỉ thăm Bà me VN anh hùng, thăm gia đình cách mạng, không bao giờ ngó ngàng tới loại “phó thường dân hạng hai” ấy. Thời bao cấp hơn 15 năm sau năm 1975, con em lính và công chức Sài Gòn cũ không bao giờ được vào các trường đaị học, dù điểm thi rất cao. Mãi đến đầu thế kỷ XXI, sau gần 10 năm “đổi mới”, con em của “một nửa không chính quyền” mới được đi học các trường Quốc tế, trường Dân lập và một số trường Đại học chính quy. Mấy năm nay, người từ 80 tuổi trở lên có chính sách trợ cấp hàng tháng, may mà các cụ già “ngụy quân ngụy quyền” được nhớ tới. Ở làng xã các tỉnh miền Nam, “chế độ đối với người có công với cách mạng” là tốt, nhưng nó cũng như cơn dao hai lưỡi, cứa sâu thêm vết thương chiến tranh trong lòng dân tộc.
4. Vướng vào chiến tranh là số mệnh đau thương của đất nước. Gần chục triệu người Việt Nam hy sinh vì cuộc đọ sức giữa hai phe trong cuộc chiến tranh lạnh. Người còn sống đau khổ, người chết vẫn chưa yên . Nhà thơ Nguyên Duy có câu :” Bên nào thắng thì nhân dân vẫn thua”. Quá đúng. Hàng trăm ngàn hài cốt “con em miền Bắc” vẫn còn nằm trong đất Việt Nam – Lào-Cămphuchia, chưa tìm về được. Hàng triệu hài cốt chiến binh Sài Gòn tử trận giờ không ai hương khói vì người thân của họ đi di tản ra nước ngoài. Ngay cái nghĩa trang 16.000 binh sĩ Sài Gòn tử trận ở Dĩ An, Biên Hòa 38 năm nay cỏ hoang mọc lút. Tháng 11 năm 2006, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định 1568/QD-TTg “đồng ý chuyển mục đích sử dụng 58 ha đất khu nghĩa địa…sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triển kinh tế – xã hội” và “chỉ đạo việc quản lý khu nghĩa địa Bình An bình thường như các nghĩa địa khác theo quy định của pháp luật.”. Khu nghĩa trang đã không được trùng tu từ lâu vì là khu vực quân sự “nhạy cảm”. Vì để “sử dụng vào mục đích dân sự để phát triển kinh tế – xã hội” nên chính quyền địa phương đã có kế hoạch mở một con đường dân sinh đi ngang qua nghĩa trang này. Theo Hội Việt Mỹ, Vietnamese American Foundation, tổ chức đang vận động với chính phủ Việt Nam để trùng tu và tôn tạo Nghĩa Trang Biên Hòa, vừa thông báo Sở Giao Thông Vận Tải huyện Dĩ An đã cho người cắm cọc gọi là giải phóng mặt bằng để làm một con đường xuyên qua nơi an nghĩ của 16.000 binh sĩ miền Nam .Không có gì độc ác hơn kế hơạch này. Người bại trận rồi, chết rồi, vẫn bị “căm thù” đến mức mồ mả không yên, là một nỗi đau lớn. Đây là một thông tin làm cho NHÀ NƯỚC CÀNG TRỞ THÀNH NHÀ NƯỚC CỦA MỘT NỬA, ngay cả trong tâm linh.
5. Ở trên tôi nói đến NHÀ NƯỚC MỘT NỬA từ ý thức hệ “ta-địch” . Có một loại NHÀ NƯỚC MỘT NỬA khác là Nhà nước ra tay ủng hộ bọn cướp đất của dân, điều động cảnh sát , quân đội trấn áp nhân dân để cho bọn cướp đất làm giàu như ở Tiên Lãng, Văn Giang. Ở Tiên Lãng, người nông dân bị hại đứng lên chống lại bọn cướp thì bị xử tù nặng hơn bọn cướp. Nghĩa là Nhà nước là NHÀ NƯỚC MỘT NỬA, nhà nước của quan chức tham nhũng.
38 năm, giang sơn đã thu về một mối, nhung lòng người vẫn chia đôi. Sự phân chia này một phần do mặc cảm xã hội ăn sâu trong lòng người “bên này, nên kia”. Nhưng phải nới thẳng rằng, 38 năm qua , Nhà nước cầm quyền đã không có được một chính sách xã hội thích đáng để hàn gắn vết thương lòng của dân tộc, tạo nên sự hòa họp, hòa giải dân tộc, mà nhiều khi còn làm \cho tình trạng bất hòa tăng lên. Tôi cứ nghĩ, nếu cứ tiếp tục quản lý đất nước theo ý thức hệ “địch – ta” như thế này thì đến trăm năm nữa người Việt cũng không hòa giải dân tộc được. Phải có cái tâm , cái tầm lớn mới tạo ra được một Nhà nước của 90 triệu dân Việt Nam, chứ như bây giờ mới chỉ là NHÀ NƯỚC CỦA MỘT NỬA.








Bốn ông họ Lê -Phần 3
Con người ta khác nhau là ở phong cách. Người nào không có phong cách riêng, phải thấy rằng người đó không có gì hết. Nếu như phong cách của Trường Chinh là từ tốn, nghiêm trang, nói năng cân nhắc thận trọng, ít khi ngắt lời người khác thì phong cách của Lê Duẩn lại sôi nổi, mạnh mẽ, quyết đoán. Một khi ông đã định làm gì là làm ngay hoặc cho phép làm ngay.
Lê Duẩn có một cái đầu luôn luôn suy nghĩ, sáng tạo, ông đánh giá sự vật, hiện tượng một cách sắc sảo, có tầm nhìn xa.
Tháng 8 năm 1975, phát biểu tại cuộc họp trù bị của Hội nghị Trung ương lần thứ 24, Lê Duẩn đã có cái nhìn rất thoáng đối với nền kinh tế miền Nam:
“Xưa nay ở miền Bắc chúng ta có một số sai lầm, là vì chúng ta đã đi sai quy luật. Nếu chúng ta đi sai quy luật mà đưa vào miền Nam thì càng sai lầm. Vì vậy, nay có được miền Nam là để chúng ta thấy lại cho rõ hơn. Tại sao chúng nó là tư bản, chúng nó bóc lột người ta dữ mà năng suất lao động vẫn cao”.
“Tại sao người thợ ở ngoài này không bằng người thợ ở trong kia? Mình trả lời làm sao? Anh là chủ nghĩa xã hội mà tại sao anh không được bằng trong kia, anh trả lời làm sao?”
“Ở miền Bắc trước đây phải hợp tác hóa ngay lập tức…Nhưng miền Nam bây giờ không thể làm như vậy. Miền Nam bây giờ anh không để cho giai cấp tư sản phần nào đấy, mà nông dân thì phần nào hóa tư sản rồi, anh mà làm sai đi thì công nông không liên minh được đâu. Phải có tư sản, phải cho nó phát triển phần nào đã”.
Tiếc rằng, những tư tưởng đó không được phát triển, có thể bị chìm đi trong không khí say sưa vì thắng lợi và mười năm sau đó, dưới sự lãnh đạo của ông, kinh tế VN xuống dốc thê thảm, lâm vào khủng hoảng chưa từng có. Những sai lầm, khuyết điểm đó, “anh Ba là người chủ trì có trách nhiệm lớn” – Võ Nguyên Giáp.
Có thể nhận xét, Lê Duẩn là “nhà cách mạng thành công, người xây dựng thất bại” hay không?
Tư tưởng về chiến tranh của Lê Duẩn bao giờ cũng sâu sắc. Một lần, Lê Duẩn gọi Lê Trọng Tấn và Lê Đức Anh lên chỉ thị, cố gắng giải phóng xong Cambodia sớm rồi rút quân về Nam Bộ làm ruộng. Lúc bấy giờ, trong Trung ương cũng có nhiều ý kiến khác nhau về chiến lược tại Cambodia. Nhưng rồi trên thực tế, VN đã ở lại Cambodia hơn mười năm với 200 ngàn quân, 4 Ủy viên Bộ chính trị, 9 Ủy viên Trung ương, 2 Phó thủ tướng, 30 Thứ trưởng, 54 Thường trực tỉnh ủy đã từng có mặt và trực tiếp làm nhiệm vụ tại Cambodia (theo Huỳnh Anh Dũng, cựu Đại sứ VN tại Cambodia).
Ngày 25.12.1978, VN sử dụng một lực lượng hùng hậu gồm bộ binh, hải quân, không quân, xe tăng, thiết giáp….tổng tấn công Cambodia. Tướng Lê Trọng Tấn là Tư lệnh chiến dịch. Còn Lê Đức Thọ, đại diện của Bộ chính trị, giám sát tổng quát cuộc hành quân, trực tiếp chỉ đạo toàn bộ việc giải quyết cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam.
Với sức mạnh quân sự tuyệt đối của VN, Cambodia nhanh chóng sụp đổ.
Sau khi giải phóng Cambodia, Lê Đức Thọ là “Toàn quyền” Cambodia, Lê Đức Anh là Tư lệnh quân tình nguyện VN và Lê Khả Phiêu là Phó Tư lệnh chính trị quân tình nguyện. Ba ông họ Lê đóng vai trò quan trọng nhất tại Cambodia, tất nhiên, dưới sự chỉ đạo tối cao của một ông họ Lê khác từ Hà Nội – Lê Duẩn.
Hơn mười năm quân đội VN ở Cambodia là một trong những giai đoạn khó khăn, phức tạp nhất trong lịch sử VN hiện đại, để lại nhiều vấn đề mà cho đến nay cũng chưa thể đánh giá hết được.
Chúng ta đều biết, trong thời gian tướng Lê Đức Anh chỉ huy quân tình nguyện VN đã xẩy ra sự kiện Xiêm Riệp, phản ánh sự ấu trĩ không thể tin nổi của quân báo VN tại Cambodia. Bọn Pol Pot, được các cố vấn TQ bày mưu, bèn cho một tên Trung đoàn phó ra trá hàng nhằm đánh phá từ bên trong. Đáng ngạc nhiên là quân báo VN lại mắc mưu trá hàng của tên này một cách dễ dàng. Hàng loạt cán bộ bị bắt. Xe của bộ đội VN đi đến đâu là ở đó khiếp sợ. Cho đến khi một cán bộ cao cấp của Cambodia tự sát để phản đối, VN mới nhận ra sai lầm.
Tướng Lê Đức Anh cho rằng, khi xẩy ra vụ Xiêm Riệp, ông ta đang chữa mắt ở Liên Xô, Lê Đức Thọ điện gọi về gấp. Bộ chính trị họp xét vụ này, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phê phán rất gay gắt và đề nghị một mức kỷ luật rất nặng đối với toàn bộ cán bộ chủ chốt của Bộ tư lệnh mặt trận 479 và 719 có liên quan đến vụ việc. Sau khi bàn bạc, Bộ chính trị giao cho Lê Đức Anh xử lý. Vấn đề là có chuyện tướng Hồ Quang Hóa đã ra Hà Nội báo cáo “cấp trên”. Vậy “cấp trên” đó là ai? Lê Đức Anh đã khéo léo đề nghị chỉ xin xử lý “những việc cụ thể” và “những con người cụ thể”, Bộ chính trị đồng ý. Rốt cuộc, chỉ có tướng Hồ Quang Hóa và Tư Thanh bị kỷ luật, mỗi người bị hạ một cấp và cho về nước. Bộ chính trị lại cử Chu Huy Mân sang xin lỗi đảng Cambodia.
Việc tướng Lê Đức Anh cho xây dựng tuyến tuần tra biên giới, biệt danh là K5, dài tới 800 cây số, cho đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi. Một số ý kiến cho rằng K5 tốn kém và không cần thiết.
Tướng Lê Đức Anh là người khá sáng tạo khi chấp hành lệnh của cấp trên. Sau Hiệp định Pari, lệnh của trên là lui quân về vùng U Minh để củng cố, bấy giờ ông là Tư lệnh Quân khu IX cho rằng, nếu lui là mất đất, mất dân và ra lệnh cho Tham mưu trưởng cho quân ở yên, không có lui gì hết. Tại Cambodia, ông không chấp nhận bỏ chế độ Đảng ủy trong quân đội, dù Đại tướng cố vấn Liên Xô nói, đồng chí không chấp hành là không mácxít. Ông đáp, đồng chí hãy chỉ cho tôi, cả bản tiếng Nga và bản tiếng Việt, chỗ nào Mác nói trong quân đội không cần chế độ đảng ủy thì tôi nhận là sai và xin chấp hành. Bộ chính trị sau đó họp ở Sài Gòn nhất trí với ý kiến của ông.
Năm 1974, Lê Đức Anh được phong vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng, đến năm 1984, ông đã là Đại tướng. Sau khi hai Đại tướng Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn mất đột ngột, Lê Đức Anh lên làm Bộ trưởng Quốc phòng. Trước Đại hội VII, ngày 24.6.1991, Lê Đức Anh gửi thư cho “anh Linh, anh Tô, Bộ chính trị, Ban bí thư”: “Xin Đảng cho phép tôi, phân công cho tôi chuyên trách công tác tổng kết kinh nghiệm chiến tranh…và xin được rút khỏi danh sách đề cử vào Bộ chính trị Trung ương khóa VII”. Thế nhưng, Lê Đức Anh vẫn trúng cử Trung ương, Bộ chính trị và năm 1992, Quốc hội đã bầu Lê Đức Anh làm Chủ tịch nước.
Đạo đức cộng sản như vậy, chớ đâu phải như đạo đức phong kiến.
Trước mắt tôi là cuốn Tam Quốc chí, kể chuyện Tào Phi (con cả Tào Tháo) phế bỏ vua Hiến Đế. Các “cố vấn” của Phi ép vua Hiến Đế phải thảo chiếu nhường ngôi cho Phi. Tào Phi nghe xong chiếu, muốn nhận ngay. Song, Tư Mã Ý can rằng, chớ nên nhận vội, điện hạ hãy dâng biểu nói nhún mà từ đi, để bịt miệng thiên hạ dèm chê. Phi nghe lời, sai làm bài biểu, nói nhún rằng đức mình mỏng lắm, xin cầu người đại hiền khác để nối vào ngôi trời. Vua xem xong, trong bụng nghi hoặc, hỏi quần thần, Ngụy Vương khiêm tốn không chịu nhận, thì làm thế nào? Hoa Hâm tâu, bệ hạ phải giáng chiếu lần nữa, Ngụy Vương tất phải nghe. Phi tiếp được tờ chiếu, mừng rỡ lắm, bảo Giả Hủ, tuy rằng hai lần có chiếu, nhưng vẫn còn ngại đời sau chê cười ta thoán thiết, thì làm thế nào? Hủ thưa, việc ấy cực dễ, hãy sai Hoa Hâm nói với vua làm một cái đền thụ thiện, chọn ngày lành tháng tốt, hội cả công khanh lớn nhỏ đến hết ở dưới đền, để thiên tử nhường ngôi cho điện hạ, như thế thì không còn ai nghi việc gì, mà bịt được mồm thiên hạ. Tào Phi lên ngôi vua như thế đấy.
Năm 1997, Lê Đức Anh thôi chức Chủ tịch nước và cùng năm đó, một ông họ Lê khác trở thành Tổng Bí thư trong một Hội nghị Trung ương chứ không phải Đại hội Đảng – Lê Khả Phiêu.








Lơ mơ
Võ Trung Hiếu
Thành phố lơ mơ đợi mưa tháng Tư
Mùa hè lờ đờ lơ mơ ngủ gật
Các nhà thơ lơ mơ trên Facebook
Lơ mơ cãi nhau thế nào là thơ
Lơ mơ không biết thơ đực hay cái
Lơ mơ thơ tồn tại đến bao giờ
Lơ mơ nhân sinh, lơ mơ nghệ thuật
Lơ mơ nên viết bằng tim hay đầu
Lơ mơ sứ mệnh, lơ mơ bản ngã
Lơ mơ không biết gieo vần vào đâu
Các sử gia lơ mơ trước sự thật
Thời buổi thông tin lan trong tích tắc
Cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi
Lịch sử càng lúc càng thêm minh bạch
Đây đó xuất hiện ngã ba ngã tư
Đâu là giả thiết, đâu là mệnh đề ?
Đứng trước lịch sử hưng thịnh – suy vong
Đâu là sự thật nghĩ mà ngao ngán ?
Các nhạc sỹ đang lơ mơ thăng giáng
Thời buổi nhạc viết theo đơn đặt hàng
Thời buổi nhạc đạo không bằng đạo nhạc
Thời buổi nghị quyết hát bằng nhạc rap
Nhạc đỏ cau có nhìn nhạc thị trường
Lơ mơ giận hờn nhớ thương vu vơ
Lơ mơ ca tụng những điều vụn vặt
Các nhà giáo dục lơ mơ gà gật
Giáo sư, tiến sỹ càng ngày càng nhiều
Mà sách giáo khoa bao lần cải cách
Vẫn lỗi chính tả, bàn dân xì xào
Vẫn phí hàng đống tiền của đất nước
Vẫn chưa sánh kịp bạn bè năm châu
Các kinh tế gia lơ mơ gãi đầu
Giá cả loạn tăng, dân tình ta thán
Chứng khoán đóng băng cùng bất động sản
Giá vàng bỗng dưng đắt nhất hành tinh
Mặc những nào là bình ổn, cứu trợ
Mặc những tuyên ngôn trên đài truyền hình
Mặc những chính sách “kịp thời, đúng lúc”
Những tréo ngoe ấy từ đâu mà nên ?
Thành phố lơ mơ đợi chiều vào đêm
Ve sầu lơ mơ đợi hè thoát xác
Tôi lơ mơ viết bài vè lơ mơ
Tặng cho một thời lơ mơ ngơ ngác …
29.4.2013
VTH
Tác giả gửi Quê Choa








April 28, 2013
Nghĩ gì về bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn !”
Âu Dương Thệ
Đúng vào dịp kỉ niệm 38 năm “giải phóng” nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm công bố bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn” trên Blog Quê Choa của nhà văn Nguyễn Quang Lập. Từ cái tên chọn cho bài thơ này cũng đã nói tất cả tâm tư của Nguyễn Khoa Điềm về chế độ hiện nay, nhất là những người cầm đầu chế độ toàn trị đã mang lại cho đất nước và nhân dân gần 40 năm “giải phóng” như thế nào! Đấy là chưa kể việc Nguyễn Khoa Điềm đã chọn một Blog của báo “lề dân” để phổ biến bài thơ của mình, chứ không gởi cho báo “lề Đảng”, cũng là một việc đáng suy nghĩ!
Mọi người đều biết, Nguyễn Khoa Điềm đã từng là Bộ trưởng Văn hóa Thông tin, sau đó trở thành Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương và kiêm Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (khóa 9 , 2001-06). Chính vì thế không ngạc nhiên, một số nhà dân chủ và văn nghệ sĩ tên tuổi đã bày tỏ lập trường khen và chê của mình khi bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn” của Nguyễn Khoa Điềm được phổ biến .
Tuy nhiên, nếu cân nhắc các mặt trong sứ mệnh chung là chống độc tài và xây dựng dân chủ, có lẽ nên trân trọng lòng thành thực hiện nay của ông Điềm. Bước vào tuổi 70 Nguyễn Khoa Điềm đã ngộ ra được những sai lầm nguy hiểm và những hậu quả vô cùng tai hại của chế độ độc tài toàn trị, và ông đã dám nói công khai tình trạng của xã hội XHCN tuy đã sau 38 năm “giải phóng” nhưng:
“ …tìm một tin lành
Như kẻ khát nước qua sa mạc!”
Đây là thái độ dám vượt lên chính mình thật đáng khen và khuyến khích. Ông Điềm nay đã biết “giỏ giọt nước mắt” vì còn biết “xấu hổ”. Tinh thần biết tìm lại lòng tự trọng như thế hầu như không có ở những người đang có quyền lực và cũng rất hiếm ngay trong những người đã từng cầm quyền nay đã về hưu!
Để cùng tiến về phía trước, xã hội cần có những phản biện công khai thẳng thắn, nhưng cũng biết trân trọng và khoan dung với những ai thực tâm muốn trở lại nhập cuộc đấu tranh mở con đường mới cho đất nước để các “tin lành” trải rộng từ Bắc chí Nam!
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng như các đảng viên tiến bộ biết quí lòng tự trọng nên vững tin rằng, hàng vạn “con cá hanh” đang chào đón chân tình những “con cá hanh khác” để cùng nhập cuộc ra khơi, vì “Chúng ta là Người Tự do!”
Ông Điềm ạ, không ai khác, chính
Chúng ta “nắm vận mệnh chúng ta!”
Để một ngày không xa
“buổi sáng, buổi chiều nhìn ra đường
Thấy mọi người nhẹ nhàng, vui tươi!”
28.4.2013
Tác giả gửi Quê Choa
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả.








Phản động như VTV là cùng
Tôi không thù hằn gì ông nhưng nói thật giá mà ông đừng lên TV.
Khối người nghĩ lên TV là để hãnh diện với giòng họ, chóm xóm hay lớn hơn là cả nước thì đôi khi sẽ bị hố to, đặc biệt đối với người có danh có vị, nói theo kiểu giang hồ là có số có má, vì khi lên chỗ thị phi trước mắt hàng triệu người mà ăn nói rối rắm, câu cú lủng củng thì có mà ốm đòn với báo chí, chí ít là bị ném đá mềm người.
TV còn có một tai hại nữa mà các phương tiện truyền thông khác không có, đó là hình ảnh của người “muốn nổi tiếng” sẽ không cách gì mà không “lộ nguyên hình” khi lên TV.
Mặc dù trước khi trình diện bản mặt mình với khán giả thì mấy anh chị đã được bộ phận hóa trang mà Tây gọi là make-up son phấn che lấp những sai sót của tạo hóa. Hố bom hố bò, tàn nhang hay vết nám sẽ bị che bằng các lớp hóa chất mỏng tang nhưng có khả năng biến xấu thành dễ coi, biến hốc hác thành đầy đặn, biến nhăn nheo thành trơn láng và cũng có thể, tùy theo tài năng của người nghệ sĩ make-up, biến hung dữ thành hiền hậu, và hay hơn nữa là biến lùn thành cao ráo hơn một tí!
Nhưng có một điều mà tất cả các tay phù thủy của Holywood bó tay không làm được, đó là biến phì nộn thành…ốm o.
Cái yếu huyệt này đã khiến rất nhiều người nổi tiếng tránh lên TV, nhất là ở Việt Nam, khi người dân vẫn quen nhìn người phì nộn là…lười biếng, háo ăn với hàng lô hàng lốc từ ngữ biếm nhẽ khó nghe.
Có một người không thấy được cái yếu huyệt ấy, ông ta vẫn lên TV, vẫn trả lời phỏng vấn trong vai trò một Bộ trưởng, một Ủy viên Trung ương Đảng, tức là một người có số có má.
Ông ta là Giàng Seo Phử, Bộ trưởng Chủ nhiệm Ủy ban Sắc tộc Việt Nam.
Tôi không mặc cảm gì với thân phận của ông, tôi chỉ thương hại thay cho ông và giận cho VTV khi đem ông lên trong chương trình “Dân hỏi Bộ trưởng trả lời”.
Tôi thấy thảm hại vì khuôn mặt quá khổ của ông tương phản một cách khôi hài với các câu trả lời về tình trạng đói ăn lưu cửu của đồng bào miền núi. Ông càng cố lột tả sự khó khăn của các hộ dân ít người tại các tỉnh vùng cao thì người xem càng cảm thấy ông đang lừa dối họ.
Khi ông nói về sự khó khăn của người dân thì những khối thịt trên mặt chống lại ông một cách quyết liệt. Cơ hàm ông bạnh ra, cổ ông láng bóng và chúng đang quằn quại hết sức đế thoát ra chiếc cổ cồn quá chật, cộng với chiếc cà vạt nhà quê cố thắt cổ thân chủ thay vì làm đẹp cho người mang chúng. Ông ạ, tôi có cảm tưởng khi trả lời xong cuộc phỏng vấn ông sẽ ngã lăn ra mà thở.
Đáng buồn là ông không ngã lăn ra thở như tôi tưởng tượng, mà thay vào đó các cháu miền cao, những người được ông nhắc tới sẽ tiếp tục lăn ra vì đói.
Điều này tôi biết chắc ông không bao giờ để ý, vì nếu biết ông sẽ chấm dứt bài nhạc có cung “cơ chế” mà toàn Đảng, toàn hệ thống kể cả ông đang vin vào khi bị vặn hỏi.
Ông không ờ bên ngoài cái cơ chế ấy, vì ông là Bộ trưởng.
Và vì ông không biết chương trình “Cơm có thịt”, “Áo ấm biên cương”… cũng như những chương trình khác của những con người ngoài cơ chế đang cật lực mang tới cho các em vùng cao chút ấm lòng.
Họ không lãnh lương như ông. Họ không tròn trịa như ông. Không áo vét, cà vạt sang trọng như ông ngồi không đổ vấy cho cơ chế. Họ miệt mài cứu trẻ đói, che chắn trẻ lạnh, ấp ủ những trẻ thiếu chữ vùng cao bằng những hành động thực tiễn. Họ săm soi từng vết nứt dưới chân các em để biết rằng cần phải xin giày mang lên cho chúng.
Họ ngồi ngắm nghía những trẻ ở truồng không phải bằng đôi mắt tò mò mà cố tìm cách nào che cho chúng trôi qua mùa lạnh.
Họ chụp những tấm ảnh ngây thơ nhưng đói lả của các em không phải để dự thi ảnh nghệ thuật mà muốn những tấm ảnh ấy đánh vào lương tâm dư luận để giúp được phần nào những cộng đồng mang tiếng là Việt Nam nhưng thật khó làm cho giới chức Hà Nội hiểu thế nào là cái đói, cái lạnh của trẻ em miền núi.
Chúng còn một cái đói khác lớn hơn, sẽ làm suy dinh dưỡng trí não của chúng cho đến khi trở thành kiệt quệ, đó là đói chữ.
Phải chăng thức ăn của trẻ em đồng bào thiểu số đã chạy về đắp lên đôi má nặng nề của ông? Phải chăng cái đói thảm thương của họ có dính líu tới con đường danh vọng của một đồng hương mang tên Giàng Seo Phử?
Có hay không có ông thì những tộc người ấy vẫn sống, vẫn tìm củ mài củ chuối mà ăn thay vì cơm và gạo như người Kinh. Họ bất cần tới sự trả lời của bộ trưởng Giàng cùng với thứ ngôn ngữ được đánh bóng tới từng dấu phẩy.
Những con người âm thầm sau lưng đang giúp cho các em không được hỏi công khai trên TV và nhiều người tin rằng có hỏi họ cũng không trả lời. Họ khác ông nhiều thứ, từ tâm hồn cho tới bộ dạng. Họ ốm yếu, trong khi ông nung núc. Họ khuân vác những kiện hàng xin được từ xã hội lên tận những nơi tưởng chừng không thể nào lên được trong khi ông ngồi phòng lạnh, chỉ tay năm ngón tới những điều bất cập mà ai cũng biết.
Họ, những con người không muốn nổi danh ấy, đau đáu với những ánh mắt chờ mong rất ngây thơ và đầy bất nhẫn. Những cái tên của các em rất khó phát âm và xa lạ đối với nhiều người nhưng rất quen thuộc với ông vì ông từ vùng núi mà ra. Ông nói chung thứ tiếng nói của họ nhưng không đồng cảm với cái đói, cái khổ đau mà hàng trăm ngàn người đang chịu. Ông cố chứng minh thay Đảng rằng sự đói nghèo của các bộ tộc rất gần gũi với ông là do hoàn cảnh đặc thù của dân tộc.
Ông đã làm tròn trách nhiệm nói dối, lấy nước miếng làm mát những lò điện hạt nhân đang sôi có tên Cao Bằng, Hà Giang, đặc biệt là Lai Châu, Mường Nhé nơi hàng trăm ngàn người H’mông như ông đang ăn củ mài trừ cơm hay đang ở trong các căn nhà chiều cao một thước hai, cố trốn đói bằng cách lên rừng đào củ để sống trong khi Bộ trưởng của họ thủng thình nói rằng tất cả đều do cơ chế!
Tôi cảm thông với ông ở cái góc là ông đã làm tròn công tác lừa dân mà Đảng giao phó. Tôi có thể ghét cái cơ địa của ông nhưng phải nói thật, ông không đủ thông minh để thoát ra khỏi cái bẫy của VTV.
Còn cái góc khác, góc phá hoại của VTV khi mời một con lợn lên thuyết trình về lợi ích của ăn chay thì tôi xin hỏi thẳng: VTV đã nhận của bọn phản động bao nhiêu tiền để làm chương trình này?








Anh có khổ không anh Tư?
1. Thời gian gần đây bỗng dưng rộ lên những trang blog bậy bạ tập trung chĩa mũi dùi vào anh Tư làm tui cảm thấy thương cho anh quá.
Trong các trang bậy bạ đó lại có trang mang hẳn tên anh nữa mới đau cho anh chứ. Hình như chúng nó không kiếm ra được cái gì sai trái trong công việc của anh nên chúng xục vào chuyện riêng tư gia đình, con cháu của anh để mong bôi bác anh. Nhiều người cho rằng những chuyện chúng viết đều linh tinh hầm bà lằng chẳng đúng đâu vào đâu. Ngay cả chuyện con anh, một “hoàng tử” mà chỉ làm một công việc bình thường ở một công ty tầm tầm, không như các “hoàng tử” và “công chúa” khác, mà chúng cũng không tha, cũng mang ra bêu riếu. Tuy nhiên những chuyện “hở váy lòi lưng” thấp kém ấy lại kích thích sự tò mò của nhiều người và do vậy cũng có lắm kẻ vào xem, lắm người thích thú cười cợt sau lưng anh, trong đó không loại trừ các đồng chí thân yêu của anh. Chắc anh đau lắm nhỉ?
Đường đường một ông vua như anh mà bị người ta xỏ xiên bêu riếu, xâm phạm vào đời tư, đăng ảnh sinh hoạt riêng tư của con cháu anh lên một cách trái phép mà anh không biết làm cách nào để chống đỡ, để nói lại, để thanh minh hoặc để kiện chúng nó ra tòa- ít ra là về tội xâm phạm đời tư công dân- quả là đau lắm chứ!
Tại sao lại có chuyện như vậy anh Tư hè?
Tôi thấy ở các nước khác, nguyên thủ của họ, kể cả những nguyên thủ có lắm chuyện riêng tư bê bối cũng không đến nỗi bị khổ như vậy. Có những chuyện riêng tư dư luận không dám đụng vào, có những chuyện họ đụng vào được thì phải có bằng chứng rõ ràng và cách họ đụng cũng rất đàng hoàng, rất minh bạch, không sai sự thật và không viết lách theo kiểu bôi tro trét trấu một cách ti tiện.
Họ làm được như vậy bởi vì họ có một nền báo chí tự do, cá nhân nào, tổ chức nào cũng có quyền ra báo. Khi mà họ chịu trách nhiệm pháp lý về tờ báo của mình thì họ không thể viết bậy, không thể xuyên tạc sự thật và không thể tự do tung tin bịa đặt xâm phạm vào quyền riêng tư của công dân. Một khi đã có tự do báo chí thì những trang blog nặc danh không có đất sống vì không ai thèm vào đọc những thứ bậy bạ vô trách nhiệm như vậy. Ở Mỹ, Châu Âu, Nhật bản và ngay ở những nước như Thái Lan, Mã Lai…khó tìm thấy những trang blog theo kiểu tusangnha…, nguyentandu…Mà ở những nước ấy nếu có những trang bậy bạ như vậy thì cũng hiếm người biết đến.
2. Ở Việt Nam, phản ứng lại sự độc quyền báo chí của đảng anh, các trang blog cá nhân xuất hiện. Sự xuất hiện này là nỗ lực tự thân của người dân nhằm cải thiện quyền tự do ngôn luận đang bị hạn chế.
Anh Tư ơi, nỗ lực đó bị chính quyền của anh cản trở bằng nhiều cách như: bắt bớ, hành hung, theo dõi, đánh sập, chặn tường lửa và đặc biệt dùng lực lượng 900 dư luận viên để chống lại như công bố của ông Hồ Quang Lợi. Không biết các dư luận viên được nhà nước trả lương nầy làm những việc gì trên mạng nhưng sự xuất hiện của họ ngẫu nhiên trùng hợp với sự xuất hiện của nhiều trang blog nặc danh bậy bạ và bẩn thỉu. Chúng thường giả danh là yêu nước, là chống cộng, là dân chủ, là hải ngoại… để viết những bài bịa đặt bôi nhọ những trí thức, nhân sĩ và những blogger tiến bộ.
Và bây giờ đám âm binh đó lại chỉa mũi dùi vào chính các vị lãnh đạo của đảng cũng như vào chính anh đấy anh Tư ạ. He he, chơi âm binh có ngày bị mặc áo giấy là vậy.
Chắc anh và các đồng chí của anh cũng đã ghé mắt nhìn vào làng báo lề dân đứng đắn rồi chứ. Làng báo ấy được xây dựng lên bởi ai nếu không nói là những người được xã hội quý trọng. Đó là những đảng viên cấp tiến, những trí thức tài năng, những nhà văn, nhà báo tiến bộ, những công dân chân chính…Những bài báo của những người ấy viết, những trang blog của những người ấy lập ra là hoàn toàn đứng đắn, có tính phản biện cao, đóng góp tích cực cho công cuộc bảo vệ và đổi mới của đất nước. Tôi có thể kể ra đây một số người mà tôi nhớ như Hà Sĩ Phu, Tô Hải, Hoàng Tụy, Nguyên Ngọc, Nguyễn Quang A, Tương Lai, Hoàng Lại Giang, Phạm Đình Trọng, Bùi Minh Quốc, Nguyễn Trung, Phạm Toàn, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Trọng Vĩnh, Nguyễn Trung, Lê Hiếu Đằng, Hạ Đình Nguyên, Hoàng Xuân Phú, Tiêu Dao Bảo Cự, Mai Thái Lĩnh, Trần Mạnh Hảo, Huy Đức, Võ Văn Tạo, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Phạm Chí Dũng, Phạm Minh Hoàng, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Huy Canh, Phạm Hồng Sơn, SV Phạm Lê Vương Các, Nguyễn Văn Thạnh, Oanh Yến thị Phạm, Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Hoàng Vi…Và một số trang blog như: Ba Sàm, Bauxite VN, Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Tường Thụy, Quê Choa, Người Buôn Gió, JB Nguyễn Hữu Vinh, Trương Duy Nhất, Nguyễn Trọng Tạo, Bùi Văn Bồng, Đoan Trang, Thùy Linh, Dòng Chúa Cứu Thế, Anh Vũ, Giang Nam Lãng Tử, Phạm Viết Đào, Nguyễn Thông, Đào Tuấn, Nhật Tuấn, Nguyễn Vạn Phú, Hồ Trung Tú, Bà Đầm Xòe, Tạ Phong Tần, Lê Hiền Đức, Bùi Thị Minh Hằng, Xuân Việt Nam, Hồ Hải, Đông A, Phương Bích, Nguyễn Đắc Kiên…
Anh có thể nào tìm ra các bài viết xúc phạm cá nhân lãnh đạo, xâm phạm đời tư công dân và muôn vàn thứ bậy bạ vô trách nhiệm khác của những người đó hay trên các blog đó không? Ngay những bài viết giật gân câu khách bằng các đề tài rẻ tiền như đâm- cướp- hiếp mà báo chí được cho là chính thống của nhà nước vẫn tận tình khai thác cũng không hề có mặt trên những blog lề dân này. Hoàn toàn không.
Dù bị bao vây đánh phá, dù không được chính quyền các anh công nhận, những người cầm bút tự do ấy, những blog lề dân ấy vẫn luôn luôn trách nhiệm về từng bài viết của mình trước lương tâm, trước xã hội và trước pháp luật. Đó là diện mạo thật sự của một nền báo chí tự do, dù là tự do trong hàng rào vây chặt của an ninh, của tường lửa, của giả danh côn đồ, của hacker cùng với hai lưỡi gươm 88 và 79 treo lơ lững trên đầu.
Một khi hàng rào ấy được dỡ bỏ, nền tự do báo chí thật sự được cởi trói, thì làng báo lề dân sẽ vươn lên. Những thứ âm binh, nặc danh, hạ cấp sẽ không còn chỗ đứng. (Bằng chứng là từ khi xuất hiện những blog đứng đắn kể trên, các trang blog bậy bạ, sex siếc khác vắng hẳn người vào). Lúc đó bản thân anh cũng sẽ bớt khổ anh Tư ơi. Nhưng cho dù các anh không cởi trói thì làng báo lề dân cũng tự mình tìm cách vươn lên vì nó đã có chỗ đứng trong lòng dân, dĩ nhiên là cam go và tốn kém hơn.
3. Những trang blog nặc danh hạ cấp cùng những bài viết bôi bác nhắm vào các cấp lãnh đạo các anh thường xuất hiện rộ lên trước những cuộc họp quan trọng có liên quan đến vấn đề sắp xếp nhân sự của đảng anh. Trước hội nghị TW 6 đã rộ lên đến chóng mặt rồi sau đó tắt đi. Bây giờ nghe nói chuẩn bị nhóm họp hội nghị TW 7, những bài viết kiểu ấy lại nổi lên và không hiểu vì sao, lần nầy lại tập trung chĩa vào anh nhiều nhất. Không am hiểu chuyện nội bộ của các anh nên khó giải thích như thế nào. Tuy nhiên qua hiện tượng đó mọi người không thể nào không cùng rút ra một kết luận như đinh đóng cột như dưới đây.
Để tìm ra thủ phạm gây án, các thám tử thường đặt ra câu hỏi: Động cơ gây án là gì? Trong trường hợp trên, động cơ gây án là bôi nhọ, hạ thấp uy tín đối thủ để tranh giành quyền lực. Các nhân sĩ trí thức, các nhà báo tự do, các blogger và người dân lành thì không thể nào cạnh tranh giành giựt quyền lực với anh rồi anh Tư ạ.
Vậy thì ai đứng sau đám âm binh, đứng sau thứ nặc danh hạ cấp hẳn đã rõ rồi anh Tư nhỉ? Và nhân tiện cũng chúc mừng anh vì dư luận cho rằng một khi đối thủ của anh đã hết nước, phải dùng đến biện pháp hạ cấp thì có nghĩa “phe anh” đang thắng thế. He he!!!
Nhưng tại sao lại có chuyện nầy?
Một nền chính trị không minh bạch, thiếu dân chủ, nhân sự lãnh đạo không thực sự do người dân bầu chọn là nguyên nhân của mọi sự tồi tệ.
Và anh đang hứng chịu một phần nhỏ của sự tồi tệ đó.
Còn đất nước và nhân dân này đang hứng chịu tất cả, 38 năm qua. Anh có khổ không anh Tư?
HNC








Giải Phóng
Năm 1991, khi thăm chính thức Thái Lan ông Võ Văn Kiệt nói: “Chúng tôi tự hào đã đánh thắng 3 đế quốc to”. Thủ tướng Thái Lan đáp lời: “Chúng tôi tự hào vì không phải đánh nhau với đế quốc to nào cả”.
Chính quyền Thái Lan từng bị chỉ trích vì chính sách “ngoại giao cây tre” nhưng đổi lại người dân Thái đã tránh được bao cảnh đầu rơi, máu chảy. Không chỉ có người Thái, cho đến trước Thế chiến thứ II người Nhật cũng đã từng khôn ngoan tránh đối đầu với phương Tây. Nhật là một dân tộc thiện chiến, nhưng năm 1853, khi Đề đốcPerry đưa tàu chiến Mỹ tới Edo, người Nhật nhận ra họ đang đối diện không phảivới một “mandi” mà là một đế quốc. Thay vì “tuẫn tiết”, Thiênhoàng Minh Trị, bên ngoài thì cho mở cửa giao thương, bên trong thì canh tân. Nước Nhật vừa giữ được độc lập vừa trở nên hùng mạnh.
Tinh thần độc lập cũng vô cùng cao cả. Nhưng, như Hồ ChíMinh nói: “Nước độc lập mà dân không có tự do, hạnh phúc, thì độc lập đó cũng không có ý nghĩa”. Năm 1999, người Úc đã từng trưng cầu dân ý về việc họ có nên thay thế quan toàn quyền của Nữ Hoàng Anh bằng một chế độ cộng hòa tổng thống (độc lập) hay không, kết quả là đa số dân Úc đã nói không. Bởi, điều quan trọngnhất là hạnh phúc và tự do thì người dân đã có.
Ngày 30-4-1975, cũng có thể coi là ngày chiến thắng nhưng nó chỉ mới là chiến thắng của những người cộng sản. Cho dù đã sau 38 năm, theo tôi, vẫn có thể tạm gác lại chuyện đánh giá bản chất của cuộc chiến tranh. Nếu những người cộng sản tin những gì mình đã làm là cao cả thì nên chiểu theo “lời dạy của Hồ Chí Minh”, thấy cái gì dân chưa có tự do thì trả tự do cho dân, thấy cái gì dân chưa hạnh phúc thì để cho dân mưu cầu hạnh phúc.
Cái ngày mà đảng cộng sản Việt Nam làm được điều đó xin cứ gọi là ngày giải phóng và chắc chắn sẽ có không ít người dân cũng coi đó là ngày chiến thắng.








30/4 lại đến rồi!
Viết theo lời thương của hai vợ chồng bà má Nam Bộ
Đặng Huy Văn
Lời Tác Giả: Nhân mừng thọ tuổi 70 của tôi lại vào dịp nghỉ 30/4, các con tôi đã quyết định cho bố một chuyến đi dối già vào Sài Gòn và Miền Tây Nam Bộ. Tình cờ, tại vùng sông nước cuối cùng của Tổ Quốc, tôi đã được đến thăm nhà má Năm ngay gần bờ sông. Rồi má đã kể cho chúng tôi nghe những tháng năm trước 30/4/1975, ba má đã cưu mang cán bộ và bộ đội như thế nào. Má còn kể về một đứa con nuôi của má nay đang “làm vua” ở Hà Nội, đứa mà ngày xưa má đã suýt chết vì che dấu nó dưới hầm bí mật ra sao. Trời ơi, má Năm nay đã ngoài 90 mà vẫn còn minh mẫn lắm. Má cười, ba má chỉ tội nghèo nhưng nhờ sống thoải mái nên giữ được sức khỏe. Câu chuyện về đứa con nuôi “làm vua” của má nghe thật lạ! Má vừa kể vừa lau nước mắt hình như sau 38 năm biền biệt xa đứa con mà nay má vẫn thương yêu và lo cho tính mạng của nó như hồi còn trong Bưng vậy. Má nói, tình hình này thể nào cũng sẽ có một cuộc 30/4 nữa! Má sợ lúc đó ba má sẽ không còn đủ sức để cưu mang được nó. Rồi bỗng má thở dài: “Ôi sao nó không về trước đi! Cứ dại dột ngồi mãi đó lại như cái ông “Ca” gì đó ở bên Li-bi thì khổ!” Tôi chưa kịp hỏi họ tên đứa con nuôi “làm vua” của má là gì thì đã phải lên ca nô để đi sang vùng khác. Bài viết này chỉ ghi lại những lời thương của má để nhắn nhủ đứa con nuôi một thời ba má đã yêu thương như con ruột, xin được trân trọng sẻ chia cùng quí vị.
Từ ngày 30/4/1975 con chào ba má về thành phố
Ba mươi tám năm trôi qua ba vẫn sống kiếp cơ hàn
Các em con lớn lên nay vẫn chưa có việc làm ổn định
Má che chở con ngày xưa giờ vẫn sống lầm than!
Hồi trong Cứ con thưa, rồi má ba sẽ thay đời đổi kiếp
Độc lập rồi dân sẽ ấm no hơn, cuộc sống sẽ dễ dàng hơn!
Vậy mà nay các đồng chí của con đang làm dân chết khiếp
Khắp nơi nơi đâu cũng thấy người dân đang phỉ nhổ căm hờn!
Ngày còn ở trong Bưng má thấy con hiền lành như thế
Mỗi lần về làng gặp du kích con thỏ thẻ với má ba
“Con đi chiến đấu quên thân để cứu dân cứu nước
“Đưa lại Độc Lập, Tự Do cho tổ quốc, quê nhà!”
Nay Độc Lập có rồi nhưng Tự Do đâu chưa thấy
Chỉ thấy ai nói hơi trái ý con là con bắt nhốt tù rồi
Người dân muốn nói thật để cho đất nước mau tiến tới
Vì họ đã từng đổ máu xương để giờ con hưởng đó con ơi!
Má biết con đã sớm phải vô Bưng nên học hành lởm khởm
Lẽ ra nay làm vua, con phải biết khiêm tốn lắng nghe dân
Dân thật thà góp ý giúp con thì con kêu “bầy phản động”
Còn mấy đứa nịnh hót tâng bốc thì con lại chơi thân
Sao dưới triều đại con, người có tài thì con không trọng dụng?
Chỉ bổ nhiệm một lũ cúi luồn bằng cấp có, kiến thức không
Làm đất nước lộn tùng phèo người mù lại đi dắt người sáng
Người tâm huyết tài năng lại phải về cày ruộng nuôi tôm!
Mà nuôi tôm, các đồng chí của con cũng không cho yên sống
Anh em Đoàn Văn Vươn hai mươi năm trời đã lấn biển quai đê
Xây đầm nuôi tôm bằng chính sức mình làm giàu cho đất nước[1]
Các bạn con lại dùng bộ đội công an định cưỡng cướp mang về!
Má ba chưa thấy lịch sử nước nhà có thời đại nào như thế
Mồm “lấy dân làm gốc” tay lại cướp bóc và đàn áp dân lành
Chuyện ba ngàn công an đánh một ngàn nông dân năm ngoái[2]
Cướp đất Văn Giang xây “thiên đường” là một “trang sử liệt oanh”
Dân đóng thuế được bao nhiêu thì bọn nịnh thần vơ vét hết
Rồi cố tình đẻ thêm ra chước quỷ mưu ma để trấn lột tiền dân
Hết bày đặt nào thuế xăng xe, thuế đường bộ, thuế ô tô xe máy…
Bệnh viện nằm bốn người một giường cũng phải nộp thuế thân!
Ba má muốn gặp tận mặt con để nói cho con nghe sự thật
Nhưng từ ngày con làm quan rồi làm vua đâu ló mặt về thôn
Má ba đã ngoại cửu tuần rồi không thể ra thăm con được nữa
Sợ ít nữa dân phẫn uất lên, má ba không còn cơ hội để cứu con!
Ba ruột con danh tính là gì và ở đâu má ba không được biết
Chỉ thấy má đẻ con một mình lam lũ nuôi con nên má ba thương
Có phải “ông ấy” nhận ra con không mà nâng con lên nhanh thế?
Làm vua mà không được học hành sao con có thể đảm đương?
Ba má đã sống hơn nửa đời người trước 30 tháng Tư nên hiểu
Thời trước người ta biết trọng nhân tài nên xã hội văn minh
Người giàu biết thương yêu người nghèo, tạo việc làm cho họ
Chứ không như bọn tư bản đỏ bây giờ làm dân ghét, dân kinh
Thời trước Biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa là của ta tất cả
Ngư dân ta đánh cá ngoài khơi có ai dám trấn giết cướp tàu
Thời nay ngày nào Hán tặc cũng bắn giết ngư dân trên biển
Mà ba má đã bao giờ được nghe con lên tiếng cứu dân đâu?
Má ba cùng đồng bào đã 20 năm cưu mang con trong lửa đạn
Hôm con chui xuống hầm cạnh bồn cầu, má cứ phải “ngồi” coi
Nếu không có nhân dân hi sinh thì 30/4 các con sao thắng được
Mà nay các đồng chí của con đối xử với dân tàn ác thế con ơi!
Sài Gòn, 28/4/1013
Tác giả gửi Quê Choa
……………………………………..
[1]- Ngày 5/1/2012, chính quyền huyện Tiên Lãng, Hải Phòng đã dùng hơn 100 công an và bộ đội có trang bị vũ khí đến đập phá nhà và định cướp trắng đầm tôm của gia đình anh em ông Đoàn Văn Vươn tại xã Vinh Quang, Tiên Lãng một cách trái pháp luật.
[2]- Ngày 24/4/2012, hơn ba ngàn công an và đầu gấu được UBND huyện Văn Giang, Hưng Yên thuê để đàn áp cuộc biểu tình của hơn một ngàn nông dân tại xã Xuân Quan, Văn Giang để giữ ruộng đất và mồ mả tổ tiên của bà con đang bị giải tỏa mặt bằng để xây dựng “Thiên đường Ecopark”của một chủ đầu tư giấu mặt. Cuộc biểu tình của bà con Văn Giang đã bị đàn áp dã man trong đó có rất nhiều người dân và hai phóng viên VOV đã bị đánh trọng thương.








Nhưng và nhưng và nhưng….hu hu!
1. Dân chủ gấp vạn lần tư sản nhưng lại là kẻ thù của internet.
2. “Tài tình” và ” sáng suốt” nhưng không bằng bọn “thối nát” và “giãy chết”.
3. Không có vùng cấm nhưng có vùng suy thoái.
4. Nói thì quyết liệt nhưng làm thì…chết tiệt!
5. Giỏi “biện chứng” nhưng lại dốt lãnh dạo.
6. Hạnh phúc nhất nhì thế giới nhưng phải tự tử vì nghèo!
7. Hứa từ chức nhưng chức không từ!
8. Phá hay không phá không thành vấn đề nhưng có vấn đề hủy hoại tài sản.
9. Xin kỷ luật nhưng không được cho kỷ luật.
10. Sai phạm lớn, thất thoát lớn nhưng không kỷ luật một ai !
11. Phải chống tham nhũng nhưng làm không khéo lại gây rối loạn nội bộ.
12. Bảo là quá độ nhưng không biết quá độ đến bao giờ!
13. “Ngay và khẩn trương” nhưng phải sau 14 tháng.
14. Khiếu kiện là quyền của công dân nhưng làm xấu hình ảnh của kinh đô và cần phải cưỡng chế!
15. Tại nạn giao thông là điều không mong muốn nhưng đừng đề cập trách nhiệm thuộc về ai!
16. Tôi quyết tâm làm tàu cao tốc nhưng bằng nước bọt!
17. Đặc xá là một chủ trương lớn nhưng nhiều khi đặc xá vì nhà tù quá tải !
18. Bảo vệ Tổ quốc là thiêng liêng nhưng lại rất cụ thể như bảo vệ sổ hưu!
19. Đánh người đang thi hành công vụ là trái pháp luật nhưng rất mong nạn nhân thông cảm!
20. Cuộc cưỡng chế diễn ra an toàn tuyệt đối nhưng có hai nhà báo bị đánh hộc máu mồm!
21. Muốn làm bạn với tất cả nhưng nhìn đâu cũng thấy thế lực thù địch.
Hu hu….








April 27, 2013
Vàng chẳng phải là chanh
Hơn 12 tấn vàng được ngân hàng Nhà nước đưa ra thị trường qua 11 phiên đấu thầu. So với giá vàng ở bên ngoài, giá vàng trong nước vẫn chênh lệch quá cao. Nếu so với mức 400.000 đồng một lượng, mục tiêu cũ mà thống đốc Nguyễn Văn Bình từng tuyên bố, chênh lệch giá vàng giữa trong và ngoài nước cao gấp năm lần, có lúc tới 15 lần.
Từ diễn biến thị trường vàng, có hai câu hỏi lớn được đặt ra. Thứ nhất, vì sao vẫn có chênh lệch như vậy? Thứ hai, vì sao chênh lệch lớn mà doanh nghiệp vẫn phải mua?
Nếu trước đây mục tiêu của chính sách vàng là chống đầu cơ, bình ổn giá, thì ở quyết định 16 do Thủ tướng ký ban hành ngày 4.3.2013, quy định rõ là “ngân hàng Nhà nước mua, bán vàng miếng để can thiệp, bình ổn thị trường vàng trong nước và được mua vàng miếng để bổ sung vào dự trữ ngoại hối Nhà nước”. Từ sau khi có quy định này, ngân hàng Nhà nước bắt đầu tổ chức các phiên đấu thầu.
Do quy định kỹ thuật về thời hạn nộp tiền và lượng tối thiểu đặt mua, ước tính cần có trên 40 tỉ đồng, mới có thể tham gia dự thầu. Quy định như vậy loại bỏ không ít doanh nghiệp tham gia dự thầu. Lẽ thường trong giao dịch ít có cạnh tranh, giá sẽ khó lòng bị đẩy cao. Nhưng thực tế các phiên đấu thầu, giá chào bán còn cao hơn giá thị trường. Vậy vì sao vẫn có người mua?
Tất cả các câu hỏi này đều có chung một đích đến: chỉ có ngân hàng Nhà nước mới đủ năng lực trả lời. Dường như, cơ quan quản lý chính sách tiền tệ này cũng hiểu rõ thị trường, khi trên Tuổi Trẻ ngày 25.4, một quan chức ngân hàng Nhà nước mạnh dạn dự đoán rằng “thị trường vàng trong nước sẽ bình ổn sau ngày 30.6”.
Ở vị thế người bán, ngân hàng Nhà nước hoàn toàn biết rõ các ngân hàng nào đang cần phải mua một lượng vàng để đến hạn 30.6.2013, hạn chót sau nhiều lần gia hạn. Bởi thông tin trạng thái này được bảo mật ở ngân hàng Nhà nước. Bên cạnh đó, người bán cũng hiểu rõ, để mua một lượng lớn như vậy trong điều kiện nguồn cung nhập khẩu cấp duyệt theo hạn ngạch, sẽ dễ dẫn tới một đợt sốt giá. Cuối cùng, người bán thừa hiểu, chỉ có một nguồn cung để đáp ứng nhu cầu như vậy.
Về người mua, do không có nhiều lựa chọn và thời hạn cuối cũng sắp hết, dù giá cao cũng phải mua. Điều đáng nói, thua lỗ từ kinh doanh vàng của ngân hàng, ngoài lỗi của người kinh doanh khi tính toán sai, có phần đến từ thay đổi chính sách.
Một trong những nguyên nhân khiến giao dịch bất thành trên thị trường là thông tin không tương xứng. Chỉ có người trồng chanh mới biết mình trồng giống gì, ở đâu, phân tro và chăm sóc thế nào, còn người mua, ngoài nhìn vỏ, cũng không biết rõ. Có lẽ vì vậy mà các nhà nghiên cứu dùng cái tên “thị trường chanh” để chỉ tình trạng thông tin không tương xứng, để từ đó có giải pháp phù hợp. Với thị trường vàng ở Việt Nam, ngân hàng Nhà nước phát triển thêm luận đề trong thị trường chanh, có lợi thế độc quyền từ thông tin đến nguồn cung, chắc chắn thắng. Và trong số người thua kể trên, có thêm kẻ thiệt – những người vì nhu cầu nhất định, phải mua vàng miếng giá cao.
Tuy nhiên, các biện pháp của ngân hàng Nhà nước, theo bài trình bày của tiến sĩ Võ Trí Thành tại hội thảo Mùa xuân của uỷ ban Kinh tế (Quốc hội) diễn ra tại Nha Trang tháng 4 năm nay, là “góp phần làm ổn định giá vàng, chứ không phải là ổn định thị trường vàng, do hơi thiên về tạo sự bất định đối với việc nắm giữ vàng”.
Vậy sau ngày 30.6, thị trường vàng trong nước có bình ổn đúng như dự báo của một quan chức ngân hàng hay không vẫn là câu hỏi đang bỏ ngỏ.








Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
