Nguyễn Quang Lập's Blog, page 27
May 1, 2013
Bốn ông họ Lê -Phần 4
Trong khi các cánh quân đang buộc phải rút lui khỏi Huế trong Mậu Thân 68 thì Trung đoàn 9 chủ lực do Lê Khả Phiêu làm Chính ủy lại được tăng cường vào chiến trường. Gạo hết, tất cả đều rất khó khăn, dựa vào dân cũng có hạn, vì dân đâu có nhiều gạo mà san sẻ cho bộ đội. Theo tự truyện của nhà sử học Nguyễn Đắc Xuân, ông Trần Anh Liên, Chính ủy cánh Bắc ra lệnh cho Đội công tác thanh niên đi quyên góp lương thực cung cấp cho Trung đoàn 9. Có người kêu lên:
- Trời ơi, người ta đã rút ra rồi mà các ông còn vào chiến trường nữa, khổ đến thế này!
Vẫn theo tự truyện nêu trên, năm 1997, ông Nguyễn Đắc Xuân đến giúp ông Trần Anh Liên biên tập cuốn hồi ký, nhân xem truyền hình, được biết Hội nghị lần thứ 4, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) vừa bầu Lê Khả Phiêu làm Tổng bí thư.
Ông Trần Anh Liên hỏi ông Nguyễn Đắc Xuân:
- Anh có nhớ Trung đoàn 9 vào chiến trường nhằm lúc có lệnh rút lui, không chiến đấu được lại thiếu gạo nhờ anh em mình chạy gạo cho họ hồi Tết Mậu Thân không?
- Dạ nhớ chứ! Em bị các bạn thanh niên Huế thắc mắc vì sao đơn vị đang thiếu gạo mà lại đem gạo chia cho bộ đội chủ lực.
Ông Liên cười khặc khặc:
- Đúng rồi, đúng rồi. Ông Chính ủy đơn vị thiếu gạo ấy là Lê Khả Phiêu vừa được bầu làm Tổng bí thư đấy. Ông ta tiến bộ nhanh thật.
Trước đó, tháng 1.1994, Lê Khả Phiêu được bầu vào Bộ chính trị. Như vậy, việc ông ta vào Bộ chính trị hay lên Tổng bí thư đều không phải diễn ra trong Đại hội Đảng toàn quốc, mà là Đại hội giữa nhiệm kỳ và Hội nghị Trung ương.
Rời Cambodia, ông Lê Đức Anh trở về nước năm 1986, làm Tổng tham mưu trưởng rồi Bộ trưởng Quốc phòng. Sau khi quân VN rút khỏi Cambodia, ông Lê Khả Phiêu cũng trở về nước với chức vụ Phó Chủ nhiệm rồi Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Con đường thăng tiến đến đỉnh cao quyền lực của ông Phiêu diễn ra khá nhanh chóng.
Cũng là gặp Giang Trạch Dân, nhưng hai ông họ Lê mỗi người có một cách ứng xử khác nhau. Ta biết, TQ luôn luôn tìm mọi cách tác động vào nội bộ VN và họ sử dụng rất nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc. Để bình thường hóa quan hệ Việt – Trung, tháng 8.1991, với tư cách “đặc phái viên của Bộ chính trị”, ông Lê Đức Anh sang thăm nội bộ TQ. Trước khi vào hội đàm, có ít phút trò chuyện, Giang nói với Lê Đức Anh: “Tôi ở địa phương mới lên làm Tổng bí thư. Trước chưa biết, nhưng nay nghiên cứu lịch sử mới biết Trường Sa là của TQ”. Ông Lê Đức Anh đáp: “Tôi cũng giống như đồng chí, tôi ở chiến trường mới về. Khi về Trung ương có dịp nghiên cứu về lịch sử, địa lý và pháp lý thì thấy rõ, Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc lãnh thổ VN”. Nghe vậy, Giang không nói gì nữa, chỉ cười. Rõ ràng, đây là một cú nắn gân của Giang.
Khi Lê Khả Phiêu làm Tổng bí thư, Giang lại đề nghị cuộc gặp với ông Phiêu để bàn về biên giới và biển Đông. Đáng chú ý là trong những người cùng đi có Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm và Chánh Văn phòng Trung ương Đảng Trần Đình Hoan bị phía TQ ngăn lại, không cho vào hội đàm. Sự việc này đã gây nên nhiều phiền phức cho Lê Khả Phiêu sau này. Vào ngày cuối cùng của năm 1999, truyền hình đột ngột loan tin về việc ký Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa VN và TQ – một Hiệp ước có rất nhiều tranh cãi cho đến nay.
Dường như Lê Khả Phiêu muốn tạo ra một sự khác biệt so với những người tiền nhiệm và có vẻ ông đã làm được điều đó, chí ít là ở bề nổi. Cuộc họp báo quốc tế do Tổng bí thư chủ trì sau khi nhận chức không lâu với gần 200 phóng viên trong nước và quốc tế tham dự quả là một sự kiện đặc biệt. Ngồi “rỉ tai, mách nước” bên cạnh Lê Khả Phiêu là Nguyễn Mạnh Cầm, Bộ trưởng Ngoại giao. Cũng có đôi câu hỏi tương đối khó từ phóng viên phương Tây, nhưng ông ta trả lời khá trôi chảy. Các ngài đổi mới, chấp nhận kinh tế thị trường, vậy tại sao Thủ tướng Phan Văn Khải mới đây lại tuyên bố không đi theo chủ nghĩa tư bản? Ngài xuất thân từ quân đội, liệu ngài có hiểu biết về kinh tế hay không? Theo ông Phiêu, Phan Văn Khải trả lời như vậy là đúng. Còn nói tôi xuất thân từ quân đội, thì nhiều người tiền nhiệm của tôi như Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười cũng vậy. Dĩ nhiên, chúng tôi nắm vững các vấn đề về kinh tế…
Về lĩnh vực chống tham nhũng, ông Lê Khả Phiêu cũng nổi lên rất ấn tượng, mà đầu tiên là vụ cắt chức Ngô Xuân Lộc, Phó Thủ tướng. Sau khi thôi chức Tổng bí thư, phát biểu của ông về xây dựng, chính đốn Đảng, về chống tham nhũng, chống chủ nghĩa cá nhân ngày càng mạnh mẽ.
“Cống ở xã tôi cũng bị xơi một nửa” – câu nói rất hay của ông Lê Khả Phiêu nhân trả lời phỏng vấn tờ Tuổi trẻ năm 2005:
“Ngay ở xã tôi, làm cái cống cũng bị xơi hơn một nửa. Tôi về thì bà con bảo: hai trăm triệu mà xơi tới trăm hai, còn có tám chục. Đấy mới chỉ là công trình nhỏ thôi đấy”. Ở đây, “xơi” là một từ được ông dùng rất “đắt”.
Đó là chuyện ở xã ông Lê Khả Phiêu. Còn với bản thân ông thì sao?
- “Tôi nói thật có chuyện họ đến biếu tiền, năm nghìn, mười nghìn chứ không ít đâu”.
- “Năm, mười nghìn đô?”.
- “Đô chứ. Lúc tôi còn thường trực Bộ Chính trị đã có rồi, lúc làm Tổng bí thư càng có”.
Thật khó mà tin được một ông Tổng bí thư bộc lộ vấn đề chống tham nhũng một cách thẳng thắn đến thế. Năm 2009, trang mạng BBC có loan truyền hình ảnh đến thăm nhà cựu Tổng bí thư Lê Khả Phiêu. Người ta thấy, trong nhà ông có từ cặp ngà voi đến một chiếc lư được bảo quản cận thận trong hộp kính, chiếc trống đồng, còn trên sân thượng là vườn sau rạch – những hình ảnh chẳng biết hư thực ra sao.
Thời gian gần đây, người ta ít khi thấy ông Lê Khả Phiêu lên tiếng, kể cả việc triển khai Nghị quyết 4 về phê bình và tự phê bình mới đây, trong khi ông đi thăm đây đó lại khá nhiều. Cũng có ý kiến cho rằng, việc ông thường xuất hiện với một ông “quan to” Chính phủ gây nên sự “phản cảm” – vì uy tín ông “quan to” ấy rất thấp và ngày càng xuống thấp. Nhưng, trong chính trị, người ta hiểu rằng, thông điệp mà ông phát ra, có lẽ, chính là ở sự “sát cánh” ấy.
Bốn ông họ Lê – thực ra chỉ có ba ông họ Lê thôi, còn một ông họ Phan (Phan Đình Khải – Lê Đức Thọ). Những chức danh quan trọng nhất trong thiết chế chính trị VN, bốn ông họ Lê đều đã từng nắm giữ: Tổng bí thư, Bí thư thứ nhất, Chủ tịch nước, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng tham mưu trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị, Thượng tướng, Đại tướng…
Có những sự trùng hợp kỳ lạ: Lê Duẩn và Lê Đức Thọ là một “cặp bài trùng” nổi tiếng, cộng tác chặt chẽ với nhau từ những ngày chống Pháp, ấy thế mà thời gian cuối đời hai ông lại có những ngã rẽ đáng kinh ngạc. Còn ông Lê Đức Anh và Lê Khả Phiêu, có thể nói điều gì tương tự? Việc ông Lê Khả Phiêu lên Tổng bí thư, tất nhiên ảnh hưởng của ông Lê Đức Anh rất lớn; ngược lại, cũng từ ảnh hưởng của ông Lê Đức Anh và hai ông có vấn khác mà ông Phiêu bị hạ bệ. Thời tiết chính trị, thật chẳng bao giờ có thể dự đoán chính xác được.
Bốn ông họ Lê đều nổi danh trong lịch sử VN hiện đại và chúng ta tin rằng rồi đây lịch sử sẽ dành cho họ những hàng chữ nét đậm.








Ngũ kế vần Ê trong công tác cán bộ
Dư luận xã hội hiện nay đã nêu khá phổ biến hiện tượng, đặt vấn đề trên các phương tiện thông tin đại chúng về việc bổ nhiệm, đề bạt, cất nhắc cán bộ đang tồn tại theo công thức để có cái kết trong cái trục xoay theo “vần Ê” theo thứ tự ưu tiên trước-sau là: HẬU DUỆ, TIỀN TỆ, CÙNG HỆ, HỢP LỆ rồi sau cùng mới đến TRÍ TUỆ. Đây được gọi là sự sắp đặt của “Ngũ kế vần Ê trong công tác cán bộ”.
Về HẬU DUỆ: Trước hết phải quan tâm ưu tiên đề bạt, cất nhắc, bố trí, sắp xếp để có ghế “ngon” cho con, em những vị lãnh đạo đương chức, đương quyền. Trong một vài nhiệm kỳ, họ đều phải nghĩ kế, tìm cách làm sao sắp xếp, chọn ghế “tốt” cho con, em và nhiều khi cả cháu trong gia đình, dòng tộc nội, ngoại. Thế nên, người ta mới đúc kết công thức nhân sự 20C là: “Con cháu các cụ cả, cần chăm chút, coi cơ cấu, chọn chỗ cho chúng có cái chức chủ chốt”. Những nhân sự trong diện này mà được bậc trưởng thượng đã có ý định rõ ràng, có chủ đích “cắm chỗ”, được chú ý quan tâm thì chắc chắn là hưởng lộc chính trị ngon lành, “bỏ cối không trật”. Đây được coi là hạng Nhất, chất lượng tiêu chuẩn Vàng.
Kế đến là, ưu tiên thứ nhì phải là tiêu chuẩn TIỀN TỆ, tức là tình trạng mua chức, mua quyền. Không ít trường hợp ông A, bà B bỗng chốc xuất hiện chức danh này, vị trí kia mà thiên hạ thấy lạ hoắc, như dưới đất chui lên trên trời rơi xuống. Học hành chưa đâu vào đâu, bằng cấp thì mánh lới chạy chọt, phải mua mới có, công lao, thành tích, năng lực chẳng có bao nhiêu, không thấy đưa ra “hỏi ý đồng bào”, không được dân bầu, dân cử, nhưng bỗng nhiên thây lù lù cái quyết định bổ nhiệm sáng rỡ. Tiêu chuẩn Quốc tế mang tên ISO là chuyên xét để công nhận tiêu chuẩn hóa chất lượng sản phẩm trong sản xuất, thương mại và thông tin. Nhưng nếu xét về tiêu chuẩn cán bộ mà tạm gọi cũng ISO – 1001 (có 1001 chuyện về công tác cán bộ, kể hoài không hết), vì đồng tiền vòng vèo trăm nẻo, đi lối nào có trời mà biết. Đây là chất lượng tiêu chuẩn Bạc.
Thứ ba là CÙNG HỆ: (Thường là Nhóm lợi ích) Phải là có phe cánh, ê kíp, cùng nhóm lợi ích với nhau. Trong tiêu chuẩn cùng hệ này phải quan tâm chọn lọc, bồi dưỡng, cất nhắc, bổ nhiệm trong số những người vốn có mối quan hệ thân quen, mối làm ăn từ trước và nhất là hiện tại, có ngang tầm về chính trị, tư tưởng, quan điểm, nhận thức; lại phải có đạo đức, lối sống, tác phong, tính cách hợp nhau, phải biết cùng ăn cùng chịu, cùng hưởng, cùng chia, chấp nhận và biết cách vào hùa chung hụi. Cái tiêu chuẩn cùng hệ này có kiểu dáng na ná như “môn đăng hộ đối”, cùng cảnh (về mức sống, khả năng kinh tế) với nhau. Mọi việc, kể cả việc làm sai trái cũng phải biết “đồng thanh tương ứng, đồng khí tường cầu”, khi gặp những tình huống cần thiết phải biết “ứng hiệp” cho nhau, bảo vệ nhau. Nhưng trước hết của sự đồng ứng cùng hệ phải có vốn, đất đai, trang trại, xe cộ, nhà cửa phải tương đương nhau, thì mới “dễ chơi”, dám và biết chịu chơi. Nếu bầu bán mà cùng hệ, dù là hệ gì chăng nữa, trong chi bộ có số đông cùng hệ thì chắc chắn số phiếu bầu sẽ cao. Cái này không gọi là dân chủ được, mà coi như một dạng “hiệp chủ”. CÙNG HỆ được xếp ở hàng tiêu chuẩn Đồng.
Thứ tư là HỢP LỆ: Là muốn sắp xếp ông A, bà B, cậu ấm C, cô chiêu D vào các chức danh, có ghế đàng hoàng, phải tìm cách hợp thức hóa hồ sơ, thủ tục, phải qua ý kiến đề xuất của Hội đồng nhân dân hẳn hoi, có khi chỉ cần vài văn bản đề xuất của Mặt trận, công đoàn, đoàn thanh niên, miễn là phải được phết lên một thứ nước sơn “dân chủ” để hợp thức hóa việc bổ nhiệm. Cái tiêu chuẩn hợp lệ này bắt nguồn từ những mối quan hệ cá nhân, những cách nhìn nhận, xem xét tùy tiện, lối làm việc vô trách nhiệm, cảm tình và cảm tính vượt lên mọi quy trình, quy hoạch, quy định, nguyên tắc.
Cuối cùng, áp chót, mới đến tiêu chuẩn TRÍ TUỆ. Những người thông minh, được đào tạo chính quy, học hành bài bản, bằng cấp nghiêm chỉnh, thực sự tỏ ra có năng lực, được quần chúng tín nhiệm, tin phục, kỳ vọng thì lại ít được quan tâm, và cũng không còn chỗ, vì các tiêu chuẩn trên đã choán mất gần hết ghế rồi. Những người này phần lớn thuộc thành phần con em lao động, không quyền thế, không thân thích, ít có mối quan hệ, lại không biết chạy cửa này cửa kia, thì khó có điều kiện được đưa vào nguồn hoặc được sắp chỗ để phấn đấu, cống hiến. Tất nhiên cũng không loại trừ có những người thuộc diện này có số được ăn may mưa móc, tức là được cơ quan tổ chức Đảng, ngành nội vụ phát hiện, đạt được sự khách quan, công minh, xuất phát từ nhu cầu nhiệm vụ một cách vô tư. Nhưng hầu như ít lắm, “ăn may” nhằm vào lúc đơn vị tiếp nhận cân “cân đối” cán bộ để tránh tiếng thôi!
Hệ lụy cuối cùng của “Ngũ kết vần Ê” trong công tác cán bộ là phải gặt về vần Ê tương xứng, và đói trọng, là bị xã hội PHÊ, CHÊ. Chắc chắn hậu quả để lại là công việc bị TRẦM BÊ, TRÌ TRỆ, không còn đáp ứng được mục tiêu xây dựng xã hội dân chủ-công bằng-văn minh, như ta vẫn đọc thấy phần kết luận ở các nghị quyết bất kỳ đại hội nào, như lời hô hào nghe sang sảng trên nghị trường, trên bục phát biểu hội nghị. Mà đã như vậy, biết bao giờ mới đạt được mục tiêu đưa ra rất hợp lòng người với tiêu chí đã thành khẩu hiệu quá quen: “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”!?
BVB
Rút từ Trục xoay nhân sự theo vần ” ê”








Thủ phạm ” vàng hóa” nền kinh tế
Bài báo “Rửa vàng bằng cơ chế” của tác giả Nguyên Hằng đăng trên báo Thanh Niên ngày 24/4 vừa qua bị Ngân hàng Nhà nước phản ứng mạnh đến nỗi Ban biên tập phải rút bài xuống, ngày hôm sau, báo Thanh Niên phải đăng đính chính. Chưa hết, Ngân hàng Nhà nước còn hình sự hóa mời Bộ Công an vào cuộc để xem xét, xử lý!
Đọc kỹ, khách quan nhận xét tác giả bài viết trên báo Thanh Niên ngoại trừ về đưa tin số lượng vàng chưa được chính xác, tất cả nội dung bài viết còn lại đều chuẩn không cần chỉnh. Là nhà khoa học, thường xuyên viết báo, tôi thật sự cảm thông, chia sẻ với nỗi đau của các nhà báo và người làm báo chính thống ở Việt Nam trong thời buổi nhiễu nhương:
“Bắt rút bài phải rút bài
Dù tin đúng, bảo rằng sai cùng đành!”
Phương pháp tiếp cận kinh tế thị trường
Cuộc chiến tranh thông tin, cũng là cuộc chiến tranh tâm lý. Đây là một thực tế diễn biến, trước mắt, có thể nói là đã xẩy ra tối thiểu từ những năm trước đại chiến thế giới lần thứ II. Đó là cuộc chiến tranh quán triệt chính sách của Goebbel là “Nói dối một lần không ai tin, nói dối lặp lại mười lần thì dẫn đến bán tin bán nghi nhưng nói dối lập lại đến một trăm lần thì mọi người tin đó là sự thật”. Luận thuyết này chỉ thể hiện một sự kiện dã sử của Trung Quốc về mẹ Ông Mạnh Tử. Bà mẹ này đang ngồi dệt vải thì có người đến báo tin là con bà phạm tội giết người và đã được dẫn lên quan. Bà không tin nên vẫn điềm nhiên ngồi dệt như thường. Nhưng đến khi có người thứ ba đến đưa tin đó thì bà hốt hoảng bỏ khung cửi để chạy đến công đường.
Hiện nay, cuộc chiến này được thể hiện trong việc làm đồng nhất nền kinh tế thị trường với sự vận hành nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường là một thực thể khách quan nhưng lại phát triển, vận hành theo các quy luật của nền kinh tế này. Về cơ bản có hai cách vận hành. Một là để các quy luật tự phát tác động vào quá trình phát triển của thị trường. Đó là cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường dưới bàn tay vô hình của thị trường dẫn đến chạy theo tỷ suất lợi nhuận cao làm cho nền kinh tế phát triển mất cân đối dẫn đến các cuộc khủng hoảng chu kỳ. Hai là con người, do nhận thức được các quy luật kinh tế, vận dụng các quy luật đó phục vụ lợi ích của mình, qua đó hạn chế (khắc phục ở mức độ nhất định) tình trạng phát triển vô tổ chức, dẫn đến những mất cân đối nghiêm trọng, đến các cuộc khủng hoảng chu kỳ. Đó là cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Trong tác phẩm “Chống Duy Rinh”, F. Ăng Ghen đã đề cập đến thực trạng là nhà nước tư bản chủ nghĩa cũng buộc phải thực hiện chức năng quản lý thị trường để ngăn chặn tính tự phát dẫn đến các cuộc khủng hoảng chu kỳ. Sau này J.Keynes đưa ra học thuyết về vai trò quản lý của nhà nước và cuộc đại khủng hoảng của thập kỷ 30 của thế kỷ XX đã buộc các nhà khoa học và nhả quản lý phải chấp nhận học thuyết về vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường để khắc phục tình trạng mất cân đối cung – cầu.
Tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về quan hệ cung – cầu bộc lộ rất rõ trong các cuộc chiến tranh. Trong nền kinh tế thị trường thời chiến, vai trò quản lý của Nhà nước để bảo đảm các quan hệ cân đối cung – cầu đối với các nhu yếu phẩm cơ bản đã bộc lộ ra, dẫn đến việc Nhà nước phải thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp ở những mức độ nhất định. Điều này, thể hiện qua việc các nước tham chiến phải áp dụng một cách phổ biến chế độ bán một số nhu yếu phẩm theo tem phiếu, với giá mang tính chất bao cấp, tách xa giá chợ đen.
Trong điều kiện cung nhỏ hơn cầu đã xuất hiện trong thời kỳ chiến tranh nên đã xuất hiện và phát triển học thuyết trọng cung để khắc phục tình trạng mất cân đối đó. Thế nhưng đến khi kết thúc chiến tranh, nền kinh tế đã phục hồi trên cơ sở công nghệ hiện đại thì cung lớn hơn cầu. Đến thời điểm này, xuất hiện và phát triển học thuyết tự do mới về kinh tế, đòi hỏi Nhà nước không được can thiệp vào quan hệ cung – cầu.
Tác động đầu tiện của học thuyết tự do mới về kinh tế là dẫn đến sự hình thành môn học Marketing dạy cách bán hàng nhưng quên không dạy cách mua hàng nên khách hàng chạy theo mốt thời trang, mời chào cùa người sản xuất, lao vào mua hàng ngay cả khi cầu có khả năng thanh toán thấp. Sau này, nhân dịp cuộc khủng hoảng dầu mỏ do các nước OPEC gây nên, FED và Tổng thống Mỹ Regan, Thủ tướng nước Anh Thatcher đã vận dụng học thuyết tự do mới về kinh tế theo tinh thần là hạ thấp tối đa vai trò quản lý của Nhà nước (nếu không phải là muốn thủ tiêu vai trò quản lý đó của Nhà nước) để phát huy tối đa vai trò chủ động của các doanh nhân, dẫn đến phát huy vai trò bàn tay vô hình của thị trường. Đó là mô hình nền kinh tế thị trường tự do kiểu Mỹ mà hậu quả là dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, suy thoái của nền kinh tế, bùng nổ vào năm 2008, đến nay vẫn chưa phục hồi.
Đối với Việt Nam, chính sách kinh tế thiếu nhất quán. Nhiều lúc lúng túng, mất vai trò quản lý của Nhà nước, các đại gia tha hồ thao túng nên mới xẩy ra tình trạng bất cập, gây bức xúc trên thị trường. Trước đây, trong một thời gian dài, VN quy định một tỷ giá hối đoái ổn định, chủ yếu là đối với đồng Rúp của Liên Xô và khối Varsovie. Do đó, sau khi chúng ta thực hiện chính sách mở cửa, mở rộng sang quan hệ thương mại với các nước phương Tây thì tỷ giá hối đoái đó không còn phản ánh thực tế. Từ đó, hình thành và phát triển một thị trường tự do (kinh tế ngầm, chợ đen) về ngoại tệ với tỷ giá trên thị trường chợ đen cao hơn rất nhiều so với tỷ giá của nhà nước. Trước tình hình đó, đã có sự dường như quay ngoắt 180 độ là Ngân hàng Nhà nước đã thả nổi thị trường ngoại tệ, lấy tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng làm tỷ giá chính thức. Tỷ giá này được công bố hàng ngày trên báo Nhân dân. Theo đó thì vào ngày 1/10/1999, tỷ giá đó là 1$ = 3.981 đồng VN. So với tỷ giá công bố trên báo Nhân dân ngày 30/4/2013 thì tỷ giá đó là 1$ = 20.828 đồng VN. Như vậy là đã xẩy ra tình trạng đồng tiền Việt Nam mất giá một cách nghiêm trọng (khác xa so với giá trị đồng tiền Baht của Thái Lan và Kip của Lào).
Về phương diện này, cần lưu ý đối chiếu với các Nghị quyết Đại hội Đảng về nhiệm vụ “tạo điều kiện cho đồng tiền Việt Nam có thể chuyển đổi tự do, trở thành phương tiện thanh toán duy nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam. (Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đại hội VII, trang 45). Nhiệm vụ là cho đồng tiền VN trở thành đồng tiền có khả năng chuyển đổi, được các Đại hội sau đó nhắc lại (Văn kiện Đại hội VIII, trang 103, Văn kiện Đại hội IX, trang 101). Như vậy, có thể khẳng định là công tác quản lý Nhà nước trên thị trường tiền tệ nói chung, trên thị trường ngoại tệ nói riêng, đã không quán triệt được các Nghị quyết Đại hội Đảng. Nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ việc công tác quản lý Nhà nước đã buông lỏng nhiệm vụ cân đối cung – cầu ngoại tệ và nhiệm vụ tăng hiệu quả kinh tế của đồng vốn đầu tư (ICOR), một trách nhiệm vượt khỏi chức năng quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước và của một số Bộ, ngành có liên quan.
Chính sách không nhất quán về quản lý vàng
Vàng ở nước ta có 3 chức năng song song tồn tại (1) Vật cất trữ phòng thân; (2) Phương tiện thanh toán, như tiền tệ; (3) Là hàng hoá, làm đối tượng kinh doanh như bất kỳ hàng hoá nào khác.
Năm 2008 chính sách quản lý vàng ở nước ta quá nhấn mạnh vàng với tư cách là phương tiện thanh toán, coi nó là tội đồ gây ra lạm phát, cho nên đã hô hào chống “đô la hoá”, chống “vàng hoá”! Đây là quan điểm sai lầm dẫn đến cấm kinh doanh vàng miếng. Vàng không thể gây ra lạm phát, vì có “in” được vàng như giấy đâu mà gây lạm phát. Vàng có hai phần: vàng là tiền và vàng là hàng hóa. Vàng là hàng hóa thì tự do kinh doanh. Vàng là tiền thì cần hạn chế. Việc Ngân hàng Nhà nước cho nhận ký gửi vàng như USD là biến cái nằm trong gầm giường thành tiền, và làm như vậy chính Ngân hàng Nhà nước đã “vàng hóa” nền kinh tế. Cái đó cần phải chấm dứt. Bởi không chấm dứt, tất nhiên nó vừa thay đồng tiền nội vừa gây khó khăn cho quản lý ngoại hối. Ngân hàng Nhà nước không có lý do gì lại giao độc quyền cho mình. Còn kiểm soát xuất nhập vàng như tiền thì có thể bằng chính sách thuế, bằng chính sách đăng ký kể cả quota như ngoại tệ (cho phép 1 người nào đó mang ra, mang vào USD ở mức hạn định). Cần nhìn vàng như ngoại hối. Capital Control (kiểm soát dòng chảy tư bản) là cần thiết, và ngay cả IMF bây giờ cũng chấp nhận chứ không đòi hỏi các nước phải theo Free Capital Flow như trước kia, một trong những lý do gây ra khủng hoảng tài chính năm 1997 ở Châu Á và sau đó ở nhiều nước trên thế giới. Tất nhiên, cho đến nay khi nói đến dòng chảy tư bản thì người ta mới chỉ nghĩ đến ngoại hối, mà không ai để ý đến vàng. Có lẽ đây là trường hợp đặc biệt của Ấn Độ và Việt Nam.
Trong thực tế, trước năm 2008, một thời gian dài, phạm vi sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán đã bị thu hẹp do sức mua của VND khá ổn định và khi giá vàng thế giới biến động thì người ta càng hạn chế dùng vàng như là tiền tệ. Với tư cách là hàng hoá, là đối tượng kinh doanh thì luôn có đầu cơ. Từ đó, khi giá vàng trong và ngoài nước có chênh lệch, để chống đầu cơ khi thì tuyên bố Nhà nước cần phải bình ổn thị trường vàng, khi thì tuyên bố thả nổi!? Chính sách quản lý vàng thay đổi xoành xoạch, gây mất mát quá lớn cho nhiều tổ chức tín dụng và chưa tính tới nhu cầu cất trữ phòng thân của người dân, mỗi năm cũng cần 30-40 tấn vàng.
Quan điểm xử lý sai
Trước tháng 5 năm 1989, Nhà nước độc quyền kinh doanh vàng. Chính sách này đã thất bại. Từ tháng 5 năm 1989, Nhà nước có chính sách cho tư nhân kinh doanh vàng, cho vàng trong nước và ngoài nước liên thông. Thực chất chuyển sang kinh tế thị trường về kinh doanh vàng. Nhờ đó, chúng ta có 17-18 năm giá vàng ổn định. Bây giờ, Nhà nước quay trở lại độc quyền kinh doanh vàng. Thực chất là đi ngược lại với Đổi mới. Theo quy luật và thực tế, chính sách độc quyền kinh doanh vàng đã và sẽ thất bại nặng nề. Điều đáng buồn là lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho đến nay, không trung thực nhìn nhận thất bại để sửa chữa mà còn “vụng chèo khéo chống” khi tuyên bố Ngân hàng Nhà nước chỉ lo ổn định thị trường vàng, chứ không lo ổn định giá vàng!?
Thay cho lời kết
Ngân hàng Nhà nước cho nhận ký gửi vàng như USD là biến cái nằm trong “gầm giường” thành tiền, cho nên chính Ngân hàng Nhà nước là thủ phạm đã “vàng hóa” nền kinh tế.
Tiếp theo bài “Quản lý vàng – thất bại được báo trước” (tác giả Tô Văn Trường), bài viết này càng khẳng định rõ việc quản lý vàng sai từ quan niệm, quan điểm, chứ không chỉ cách kinh doanh (đấu thầu hay bằng cách thức khác…). Đó là chưa nói đến một đất nước không tự sản xuất vàng, ngoại tệ trong tay Nhà nước không đáng kể mà tuyên bố tự mình độc quyền kinh doanh mà ổn định được giá vàng là điều không tưởng. Thay cho kết luận bài viết này bằng mấy vần thơ :
Sinh ra cái thứ độc quyền
Chẳng qua thao túng đồng tiền dễ hơn
Máu tham khi đã nổi cơn
Gom vàng, dìm giá khi vờn khi buông
Xem ra nào khác vở tuồng
Nửa chừng vở diễn rung chuông khép màn
Mặc cho thế sự bẽ bàng
Sinh ra nhiễu sự trái ngang hại đời.
TVT








Cải cách chính trị để giữ chủ quyền
Hội thảo Quốc tế ‘Chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa – khía cạnh lịch sử và pháp lý’ vừa được tổ chức tại Quảng Ngãi hôm 27/4.
Hội thảo này có sự tham gia của khoảng 50 học giả, nhà nghiên cứu quốc tế, trong đó có những tên tuổi như Giáo sư Carlyle Thayer, Giáo sư Ngô Vĩnh Long, Giáo sư Renato Cruz DeCastro, …
Tiến sỹ Jonathan London từ trường City University of Hong Kong, chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam, cũng mang đến hội thảo một tham luận mà ông cùng soạn thảo với Tiến sỹ Vũ Quang Việt [ông Việt không có mặt trong hội thảo], trong đó hai ông đề cập tới nhu cầu cải cách chính trị để hỗ trợ vấn đề chủ quyền.
BBC đã hỏi chuyện Tiến sỹ London về hội thảo.
Tiến sỹ Jonathan London: Tôi đánh giá cao kết quả của hội thảo này. Trong hội thảo các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều bằng chứng rõ ràng về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa và đã thảo luận rất cụ thể về các đòi hỏi phi pháp và bất chính đáng của Trung Quốc đối với Biển Đông.
Sự vắng mặt của các học giả Trung Quốc tại đây, theo tôi thì có cả mặt lợi và không có lợi, vì chúng ta không được nghe và thảo luận về các bằng chứng của TQ nhưng cũng tránh được các cãi cọ nảy sinh do lý luận tuyên truyền của các học giả của nước này.
Tôi đã nêu rõ trong hội thảo ba vấn đề: nhu cầu cần làm rõ các bằng chứng và lý luận về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo ở Biển Đông.
Thứ hai là quảng bá các bằng chứng đó cho thế giới thấy.
Thế nhưng thứ ba, cũng cần thấy rằng Trung Quốc là nước mạnh, có trong tay vũ khí hùng hậu và hung hăng trong tư cách một đế quốc. Nó dẫn tới câu hỏi Việt Nam phải làm gì.
Trung Quốc, như đã nói là một quốc gia lớn, mạnh, quan trọng… và cũng rất tự hào dân tộc. Người Trung Quốc không dễ gì chịu ‘mất mặt’ trước thế giới. Việt Nam do vậy phải tìm ra phương cách làm sao để vừa có cơ sở pháp lý vừa được Trung Quốc chấp nhận.
Một số nhà nghiên cứu, như bản thân tôi, cho rằng Việt Nam cần duy trì quan hệ hai bên cùng có lợi với Trung Quốc [ngay cả trong quá trình đấu tranh về chủ quyền].
BBC: Một phần tham luận được biết là gây tranh luận của ông có nhắc tới khuyến cáo chính trị trong vấn đề chủ quyền?
Tiến sỹ Jonathan London: Bài tham luận của tôi và Tiến sỹ Vũ Quang Việt có phần cuối cùng tập trung vào giải pháp trong vấn đề chủ quyền: làm gì và làm thế nào.
Tôi có nhắc lại tại hội thảo một câu nói của ai đó không rõ, rằng “theo Mỹ thì mất chế độ còn theo Trung Quốc thì mất nước”.
Ngoài hai phương án trên, phương án thứ ba là thế nào? Quan điểm của chúng tôi là nếu Việt Nam muốn giành được sự ủng hộ của quốc tế thì nên đẩy mạnh cách cải cách về chính trị và nhân quyền.
Chừng nào Việt Nam còn bắt giữ, đàn áp, hạn chế tự do ngôn luận thì ít quốc gia nào trên thế giới ủng hộ Việt Nam. Nếu Việt Nam thay đổi theo chiều hướng cởi mở như vậy thì Việt Nam sẽ giành được sự ủng hộ của quốc tế, có thế mạnh trong vẫn đề chủ quyền.
BBC: Sau khi trình bày tham luận thì phản ứng của cử tọa như thế nào, thưa ông?
Tiến sỹ Jonathan London: Có ba phản ứng. Một số học giả nước ngoài biết nhiều về Việt Nam thì cảnh báo: “Có muốn về Việt Nam nữa không?”. Một số thuộc ban tổ chức thì nói rằng không nên tham luận như vậy và không nên đề cập vấn đề ngoài lề như vậy.
Nhưng cũng có người tới gặp tôi và cảm ơn vì đây là chủ đề quan trọng cần được nói tới.
Cả tôi và ông Vũ Quang Việt đều không thể hoàn toàn chắc chắn tất cả những điều chúng tôi đưa ra đều đúng 100% nhưng đóng góp của chúng tôi là để góp phần giúp Việt Nam giải quyết vấn đề chủ quyền.
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lịch sử để chọn con đường cải cách, đẩy mạnh cải cách chính trị để thu hút hậu thuẫn cho chủ quyền của mình ở Biển Đông.
Tôi còn đề cập tới Kiến nghị 72 của các trí thức nhân sỹ về sửa đổi Hiến pháp trong phần trình bày của mình, đề nghị Nhà nước Việt Nam cân nhắc các đề xuất của Nhóm 72 để làm sao có một hệ thống hiệu quả, minh bạch hơn và có trách nhiệm hơn với các công dân của mình.
Tôi nghiên cứu về Việt Nam đã 20 năm nay. Sau 20 năm nghiên cứu sâu về Việt Nam, tôi thấy tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông thực ra có liên quan tới nền kinh tế-chính trị của Việt Nam.








Số phận 10 nhân vật quyền lực nhất Sài Gòn sau 1975
Nguyễn Văn Thiệu (1923-2001) là Tổng thống chế độ Sài Gòn từ 1967-1975. Đêm 25/4/1975, ông rời VN đi Đài Loan dưới danh nghĩa phúng điếu Tưởng Giới Thạch, rồi bay thẳng sang Anh định cư. Đầu thập kỷ 1990, ông Thiệu chuyển sang sống tại Foxborough, Massachusetts, Mỹ và sống một cuộc sống thầm lặng trong quãng đời còn lại ở đây. Ông qua đời ngày 29/9/2001, sau khi đột quỵ tại nhà riêng ở Foxborough, thọ 78 tuổi.
.
Dương Văn Minh (1916-2001) là Tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn. Sau năm 1975, ông sống tại TP Hồ Chí Minh, cho đến năm 1983 thì sang Pháp định cư. Nhưng ngay sau đó, ông lại chuyển sang California (Mỹ), sống với gia đình con gái. Ông qua đời ngày 6/8/2001, thọ 86 tuổi. Thời gian cuối đời, Ông Dương Văn Minh đã bày tỏ mong muốn được trở về quê hương và sống như một người dân Việt Nam bình thường.
Trần Văn Hương (1902-1982) là cựu Thủ tướng (1964–1965; 1968–1969), phó tổng thống(1971-1975), rồi Tổng thống trong thời gian 7 ngày (21-28/4/1975) của chế độ Sài Gòn. Sau 1975, ông chọn ở lại quê hương, tiếp tục sống ở căn nhà của mình ở Sài Gòn. Những năm tháng cuối đời, ông sống chung với em gái, em rể, và người con trai lớn là Lưu Vĩnh Châu – từng là một đại úy Quân đội Nhân dân Việt Nam, đã tham gia trận Điện Biên Phủ. Ông mất ngày 27/1/1982, hưởng thọ 80 tuổi.
Nguyễn Cao Kỳ (1930-2011) là một sĩ quan cao cấp và là cựu Thủ tướng và Phó Tổng thống của chế độ Sài Gòn. Năm 2004, ông đã về thăm quê hương trong tinh thần hòa giải dân tộc. Ông mất ngày 23/6 tại một bệnh viện ở Malaysia, thọ 81 tuổi.
Nguyễn Xuân Oánh (1921–2003), là cựu Phó Thủ tướng kiêm Thống đốc Ngân hàng, 2 lần là quyền Thủ tướng trong chính phủ Sài Gòn. Sau 1975, ông tiếp tục được chính quyền mới trọng dụng. Trong tiến trình Đổi mới cuối thập niên 1980, ông đã có đóng góp lớn vào việc cải cách các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, đầu tư nước ngoài… tại VN. Ông từng là cố vấn kinh tế cho Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Võ Văn Kiệt và cũng là Đại biểu Quốc hội, Ủy viên UBTW Mặt trận Tổ quốc VN. Ông mất ngày 29/8/2003 tại TP HCM.
Vũ Văn Mẫu (1914-1998) là một chính trị gia kiêm học giả về ngành luật nổi tiếng ở Sài Gòn trước năm 1975. Ông từng giữ chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao rồi Thủ tướng của chế độ Sài Gòn. Sau 1975, ông ở lại VN trong một thời gian, rồi sau đó sang Pháp và định cư ở đây cho đến tận cuối đời. Ông Vũ Văn Mẫu mất ngày 20/8/1998 tại Paris, thọ 84 tuổi.
Nguyễn Hữu Có (1925-2012) là cựu Phó thủ tướng kiêm tổng trưởng Quốc phòng và tổng tham mưu trưởng quân lực chính quyền Sài Gòn. Sau năm 1975, ông ở lại VN và phải đi cải tạo đến năm 1987. Tuy vậy, đến cuối năm 2004, ông được bầu làm Ủy viên UBTW Mặt trận Tổ quốc VN và được chính phủ VN xem như một biểu tượng của sự hòa giải dân tộc, xóa bỏ hận thù của 30 năm chiến tranh. Ông mất tại TP HCM ngày 3/7/2012, hưởng thọ 87 tuổi. Trong ảnh là vợ chồng ông Nguyễn Hữu Có, chụp vào tháng 2.2012.
Trần Văn Đôn (1917-) là tướng lĩnh cao cấp của Quân lực Sài Gòn và là Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng trong nội các cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Vào ngày 29/4/1975, ông là một trong những người di tản trên chuyến trực thăng nổi tiếng của Mỹ xuất phát từ tầng thượng tòa nhà 22 phố Gia Long (nay là phố Lý Tự Trọng) ở Sài Gòn. Sau đó, ông sang Pháp định cư và sinh sống ở đó cho tới nay.
Cao Văn Viên (1921-2008) là 1 trong 5 người được phong hàm đại tướng quân lực chế độ Sài Gòn. Ông là vị tướng giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng trong thời gian lâu nhất (1965-1975) và cũng là người cuối cùng giữ cương vị này của chế độ Sài Gòn. Năm 1975, trước các thất bại quân sự, ông từ nhiệm ngày 27/4 và lên máy bay di tản sang Mỹ. Sau 1975, ông sống lặng lẽ tại Arlington, Virginia. Ông mất ngày 22/1/2008 tại viện dưỡng lão, thọ 87 tuổi.
Vương Văn Bắc (1927-2011) là một luật sư và Tổng trưởng Ngoại giao vào những năm cuối cùng của chế độ Sài Gòn. Sau ngày 30/4/1975, ông sang Pháp định cư. Nhờ học vấn uyên thâm, ông được ngành luật của nước Pháp trọng dụng và làm việc cho đến năm 80 tuổi mới nghỉ ngơi. Ông mất ở Paris ngày 20/6/2011.
Theo NĐT








Giải phóng
Võ Trung Hiếu
Nếu nhân loại vẫn bình yên
“Giải phóng” trong từ điển sẽ là một từ rất khác
Không đơn giản chỉ là ngừng tiếng súng
Không đơn giản là cắm cờ chiến thắng
Không đơn giản chỉ là ung dung ủi sạch một ngôi nhà hay thửa ruộng
Không đơn giản chỉ là đọc dõng dạc một lời tuyên ngôn
Năm 3013
Với thế giới đã qua nhiều thế kỷ thăng trầm văn minh
” Giải phóng ” không còn là tiến quân đánh chiếm
Không còn là rùng rùng biểu ngữ băng – rôn
Không còn là thay cộng hoà bằng dân chủ
Không còn chỉ là thay một chính thể, một màu cờ
Không còn là thay một thửa ruộng bằng sân gôn hay chung cư
Không còn là giao mặt bằng cho các nhà đầu tư
Năm 3013
” Giải phóng ” phải là mang lương tri, hạnh phúc vượt biên thuỳ
Phải là sự lên ngôi của chính nghĩa và lẽ phải
Phải là xoá tan những cách ngăn, hận thù, sợ hãi
Phải là sự đổi thay đầy ắp công bằng, tiến bộ, văn minh
Phải là những khát vọng, ước mơ được giải thoát, phóng sinh
Phải là triệu trái tim hoà nhau thành một mối
thực sự giống nòi
đúng nghĩa anh em
Cùng chung tay và nhìn về phía trước
Gác lại lịch sử hôm qua, làm rạng ngời tổ quốc
” Giải phóng ” – xét cho cùng nghĩa là thế thôi …
Năm 3013
Tôi và bạn khuất rồi
Sao kịp thấy thế nào là giải phóng ?
Nhưng dẫu sao ta có quyền hy vọng
Khi lương tri, đạo lý, nhân văn còn ngự trị trên đời
Hễ cuộc sống đặt ra biện chứng nhu cầu
Người đủ văn minh mà giải phóng cho nhau
30.4.2013
VTH
Tác giả gửi Quê Choa








“Chính trị hóa” làm tê liệt xã hội
Nhân việc bàn về “phi chính trị hóa quân đội”, cũng là cơ hội để chúng ta nhìn lại hàng loạt vấn đề của xã hội hôm nay như đạo đức suy đồi, quá tải bệnh viện, giáo dục xuống cấp, thanh niên không có tay nghề lẫn kỹ năng làm việc, không thể tuyển người giỏi vô làm công chức… Có thể khẳng định, đó là do chúng ta “chính trị hóa” mọi mặt của đời sống xã hội. Chính trị hóa len lỏi tới mọi ngành nghề, mọi giới và mọi nơi. Chính trị hóa đã làm xơ cứng xã hội, làm tê liệt xã hội, khiến không ai dám nói thật vì sợ “phản động”, không ai dám làm vì sợ “làm trái ý lãnh đạo”, không ai dám sáng tạo vì sợ “lãnh đạo biết mình giỏi hơn”… Suy cho cùng, ai cũng phải căng thẳng, vắt óc suy nghĩ để nói gì và làm gì sao cho đẹp lòng lãnh đạo để mà sống vì miếng cơm manh áo. “Nói thật thì sợ mất lòng” nên đành phải… nói dối. Mà nói dối lâu ngày thành thói quen và trở thành bản chất của mình lúc nào không hay. Hậu quả là mọi người chỉ nói theo những gì lãnh đạo (cơ quan, tổ chức…) đã nói và muốn nghe. Những ai tồn tại và được thăng tiến được trong môi trường đó thì gần như chắc chắn cũng thuộc hàng “nịnh hót” và “miệng lưỡi đỡ tay chân” mà thôi. Mà người giỏi, người tài thì không ai thích làm chuyện đó cả, mà họ cần một lãnh đạo anh minh, biết tạo đất để họ dụng võ, phát huy hết khả năng của mình. Thế thì làm sao chúng ta có được người giỏi người tài, khi mà hiện nay tiêu chí xét thăng chức quản lý từ cấp thấp nhất là phó phòng, phó khoa của một bệnh viện bắt buộc phải là… đảng viên Đảng Cộng sản bất kể chuyên môn “có vấn đề”!
Chúng ta đã trải qua nhiều thời kỳ: chiến tranh, bao cấp, đổi mới. Dễ nhận ra rằng, khi “chính trị hóa” càng rộng ra nhiều mặt của xã hội thì không khí càng “nghẹt thở” và càng trở nên “bí hiểm”. Trước đây, thời bao cấp do chính trị hóa cả lĩnh vực kinh tế nên hậu quả là ai cũng trở thành “tội phạm” vì bán các mặt hàng cơ bản như thực phẩm, hàng gia dụng… mặc dù chỉ đơn thuần là “làm để kiếm ăn”. Lúc đó chúng ta gọi một cách khinh miệt những người buôn bán là “bọn con buôn” và đổ hết những lý do làm kinh tế xáo trộn lên đầu họ. Sau khi mở cửa và “đổi mới”, chúng ta “thôi chính trị hóa” lĩnh vực kinh tế bằng cách dẹp bỏ chế độ tem phiếu và cửa hàng bách hóa, trả lại việc buôn bán cho dân nên kinh tế phát triển, có của ăn của để, và những người buôn bán được gọi một cách trìu mến là “thương nhân”, “doanh nhân”. Nói vậy không phải để bình phẩm đúng sai của lịch sử, nhưng để cho thấy cũng cùng một vấn đề, nhưng nếu nhìn dưới một lăng kính “chính trị” thì sẽ thấy đâu cũng là “kẻ thù”, cũng là “phản động”, nhưng nếu nhìn với lăng kính “dân sự” thì ai cũng có công đóng góp phát triển đất nước.
Như vậy có bao nhiêu lĩnh vực nữa mà chúng ta đã gỡ bỏ thành công cái “vòng kim cô” “chính trị hóa” và trả nó về “dân sự”, và rồi nhận ra rằng “tại sao ta không gỡ nó sớm hơn, vì nó có hại gì đâu?”. Đơn cử một lĩnh vực nữa chúng ta đã làm được, đó là người dân được tự do đi nước ngoài, điều mà cách đây không lâu là “phạm pháp”, là “phản bội Tổ quốc”, thậm chí du kích được quyền bắn bỏ ngoài bãi biển bất kỳ ai “đi vượt biên” mà không cần xét xử. Thế rồi mở cửa… nhưng vẫn chưa mở hết với lĩnh vực này. Tôi nhớ cuối những năm 1990 đầu những năm 2000 muốn làm passport phải khai báo là “thất nghiệp” hoặc “lao động tự do”, chứ nếu khai là trí thức như bác sĩ, dược sĩ… thì không thể nào được cấp passport. Ngày nay thì mọi người đều có thể làm passport một cách tự do mà không cần có lý do, muốn đi nước nào thì đi, miễn nước đó nhận mình, kể cả “đế quốc Mỹ”. Vậy thực sự việc đi nước ngoài có quá nguy hiểm với chế độ, có “làm mất chế độ” như chúng ta từng lo sợ không? Ngược lại nữa là khác! Lượng kiều hối quay ngược lại để phát triển đất nước là một minh chứng thưc tế.
Thử nhìn vào Bắc Triều Tiên xem lãnh đạo họ hành xử có bất thường không? Nếu trả lời “có”, tức là chúng ta đã thoát ra rồi, đang đứng ngoài nhìn vào họ. Nếu chúng ta đứng chung với họ thì sẽ trả lời là “không có gì bất thường”. Quay ngược lại thời bao cấp, hình ảnh của chúng ta trong con mắt của thế giới giống y như vậy, giống đến từng chi tiết nhỏ nhất. Giờ đây, chúng ta đang cố giữ thể chế “toàn trị”, cái mà thế giới phương Tây văn minh họ lên án rất nhiều vì nó làm khổ dân, làm suy yếu đất nước và khuyên chúng ta nên thay đổi để có lợi cho chính chúng ta, giúp chúng ta phát triển hơn, văn minh hơn, đồng thời bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ tốt hơn. Vậy hãy thử dũng cảm “nhảy ra” khỏi cái vòng luẩn quẩn đó thì mới thấy chúng ta “đang bất thường”. Đừng cố thanh minh và biện minh làm gì, chỉ tốn thời gian và càng chứng tỏ mình “tham quyền cố vị” mà thôi. Muốn xem một trận bóng hay thì phải ngồi ở khán đài, chứ đâu ai đứng trong sân mà xem. Hãy thử đứng ở khán đài một lần để có cảm giác như thế nào là bình thường và bất thường.
Quay sang Miến Điện, những cú xoay chuyển ngoạn mục của họ có làm họ suy yếu thêm không? Có làm họ “lệ thuộc Mỹ” không hay là thoát khỏi “gọng kìm Trung Quốc”? Có bị ai “giật dây” không? Dân họ sướng hơn hay khổ hơn sau cú chuyển xoay đó? Xã hội của họ có bị rối loạn không hay là dễ thở hơn nhiều? Với đà này, chỉ cần 10 năm nữa họ sẽ vượt qua mặt chúng ta ngay, chắc chắn là vậy. Phải nói ngay, Mỹ không có tham vọng lãnh thổ, không chiếm nước ta, trong khi Trung Quốc nhiều lần bành trướng xâm lược nước ta. Minh chứng cho điều này là chỉ khi Mỹ rút khỏi chiến tranh Việt Nam thì Trung Quốc mới dám khởi binh chiếm Hoàng Sa. Như vậy ai dã tâm thì đã biết rõ rồi.
Các vấn nạn xã hội hôm nay mà chúng ta đang phải đối mặt đều có cùng một nguyên nhân là “chính trị hóa”. Do chính trị hóa nên nhiều lĩnh vực đáng lẽ thuộc dân sự, nhưng lại được tổ chức và vận hành mang màu sắc chính trị. Hậu quả là, các tiêu chí đánh giá tổ chức dân sự đó tốt hay xấu đáng lý ra phải dựa vào các tiêu chuẩn chuyên môn, nhưng lại dựa vào tiêu chí chính trị! Hãy thử phân tích từng quốc nạn sẽ rõ.
1. Quá tải bệnh viện
Tôi thấy trải qua bao đời Bộ trưởng Bộ Y tế, và với quyết tâm chính trị rất lớn là làm sao để giảm quá tải bệnh viện, nhưng đều thất bại. Kết quả là quá tải bệnh viện lớn, chuyên môn sâu ở Hà Nội và Sài Gòn vẫn là vấn đề nhức nhối chưa có lời giải. Bộ trưởng nào lên cũng tìm một lý do để giải thích cho sự quá tải đó, nhưng tất cả đều là mệnh lệnh hành chánh và không thể thành công trong thực tiễn. Các giải pháp “ngăn sông cấm chợ” (khám bệnh theo tuyến, trái tuyến trả tiền cao hơn) đã từng làm và từng thất bại, nhưng nay lại tiếp tục đem ra làm, và chắc chắn sẽ thất bại tiếp. Sao không thử nghĩ, nếu con của Bộ trưởng bị bệnh nguy cấp trên đường đi công tác, Bộ trưởng có dám đưa con vô cấp cứu tại một bệnh viện tỉnh không, chưa nói đến bệnh viện huyện, hay là tức tốc về Sài Gòn hay Hà Nội để cứu chữa, hay thậm chí bay sang nước ngoài? Thế thì tại sao lại bắt người dân phải vô khám những nơi điều trị kém như vậy? Ngày càng có nhiều bệnh viện cấp tỉnh kém về chuyên môn, mặc dù có trang bị trang thiết bị hiện đại, thì người dân ngày càng kéo về thành phố lớn. Tại sao như vậy?
Tại vì, không gì thay thế được con người cả. Nếu thay được, người ta đã chế tạo ra máy khám bệnh rồi, và không cần đào tạo bác sĩ làm chi cho tốn công, tốn tiền… Mà muốn có con người tốt thì phải được tổ chức tốt, thì mới thu hút được người giỏi ở lại và cống hiến hết mình. Chỉ cần có người giỏi làm việc thì không cần đầu tư máy móc hiện đại, cũng giải quyết nhiều vấn đề rồi. Mà muốn những người này ở lại làm, cách duy nhất là phải có lãnh đạo khoa, lãnh đạo bệnh viện giỏi, và…không cần là đảng viên!
Người giỏi chuyên môn thì sẽ lấy tiêu chí chuyên môn ra để phấn đấu và để đánh giá nhân viên dưới quyền, kết quả là chuyên môn ngày càng cao và tăng uy tín cho bệnh viện. Còn người thăng tiến nhờ chính trị mà chuyên môn kém thì chắc chắn sẽ tập hợp quanh mình những người kém cỏi và khiến nhiều người giỏi và tâm huyết nghề nghiệp phải ra đi. Đó là chưa kể họ sẽ tham nhũng thông qua việc mua sắm thiết bị chất lượng kém với giá cao, bất chấp có ảnh hưởng tới hoạt động chuyên môn. Hiếm có người nào thăng tiến nhờ chính trị mà lại vừa giỏi chuyên môn. Tôi có bạn bè làm trưởng phó khoa, thậm chí giám đốc bệnh viện, họ tâm sự “vô Đảng cho có thôi, chứ mình chỉ thích làm chuyên môn”.
Như vậy hăy trả tổ chức bệnh viện về “dân sự” và thay đổi tiêu chí đánh giá bệnh viện dựa trên uy tín của bệnh viện về chuyên môn với dân chúng. Chỉ cần 64 tỉnh thành có 64 bệnh viện tỉnh thực sự giỏi chuyên môn là đủ sức giảm tải cho bệnh viện ở hai thành phố lớn Hà Nội và Sài Gòn. Không ai muốn tốn tiền tốn bạc, ăn dầm nằm dề tại các bệnh viện thành phố, phải bỏ công ăn việc làm để nuôi bệnh cả.
Tình hình hiện nay, chúng ta có dũng cảm “bỏ tiêu chuẩn đảng viên” trong lựa chọn giám đốc bệnh viện cũng như trưởng và phó khoa phòng không? Song song đó là thi tuyển giám đốc để chọn ra 64 giám đốc bệnh viện tỉnh giỏi, biết làm việc, có tâm với ngành. Chỉ cần vậy, trong vòng 5 năm sẽ xóa ngay tình trạng quá tải bệnh viện thành phố.
2. Giáo dục xuống cấp và đạo đức suy đồi
Giáo dục cũng tương tự, từ cấp tổ phó bộ môn trở lên phần lớn là đảng viên. Đó là chưa kể chương trình giáo dục chúng ta quá nặng nề về chính trị. Ngay cả dạy lịch sử, chúng ta cũng không khách quan, mà nặng tính chính trị, lồng ghép bình luận lịch sử theo quan điểm chính trị của Đảng Cộng sản. Chính vì cách dạy lịch sử như vậy, nên không thể có lịch sử hay, không thể trách tại sao học sinh không biết lịch sử nước ta qua 4000 năm lịch sử hay tới mức nào. Ba tôi là Giáo sư dạy sử tiểu học thời chế độ Việt Nam Cộng hòa, chỉ cần nghe ông kể chuyện sử trong mỗi bữa ăn tôi cũng đã thuộc rồi, và thấy rất hay. Tôi biết tại sao có Trịnh-Nguyễn phân tranh, tại sao có dải đất phía Nam trù phú, tại sao ngoài Bắc có “con cả” nhưng trong Nam không có, mà bắt đầu là “con thứ Hai”, tại sao có áo dài Việt Nam, từ thời nào bắt đầu mặc quần hai ống, Huyền Trân Công Chúa có công như thế nào… rất rất và rất nhiều điều để nói.
Đạo đức xuống cấp là do chúng ta không dạy học sinh cách ứng xử, cách xưng hô, thưa gởi như thế nào. Con tôi mới học lớp 1, nhưng nó đột nhiên hỏi tôi: “Ba, bộ Bác Hồ tốt lắm hả Ba?”. Tôi ngạc nhiên và thắc mắc, tại sao chuyện “đi thưa về trình” tôi lại phải nhắc mỗi ngày cả năm rồi mà nó vẫn quên hoài, có ông bà nội ngoại đến thăm thì phải nhắc nó liên tục để thưa, trong khi lại hỏi chuyện đó với một thái độ rất ngưỡng mộ! Tôi hỏi con “Vậy con biết Bác Hồ là ai không?”. Con trả lời “Dạ không. Nhưng Bác Hồ cho mình cơm ăn áo mặc, tốt lắm Ba”. Tới đó tôi cũng không biết nói gì hơn. Phải chi nhà trường dạy nó cách thưa Ba Mẹ đi học thì nói làm sao (“Thưa Ba Mẹ con đi học”) và cách trình khi về nhà như thế nào (“Thưa Ba Mẹ con đi học về”) và cách đứng nghiêm, khoanh tay, cúi đầu như thế nào và bắt các em thực tập tại lớp. Tôi đảm bảo chỉ cần có một lần như vậy, các em sẽ nhớ và làm theo ngay, vì các em rất nghe lời cô giáo, hơn cả ba mẹ. Những gì cô thầy dặn ở lớp, các em rất nghe theo, và về nhà đòi cho bằng được. Điển hình là đòi quà sinh nhật bạn trong lớp, tối 9-10 giờ phải đi mua cho bằng được, không thì không dám đi học nữa?!
Thiết nghĩ, mỗi lứa tuổi các em sẽ thường gặp những vấn đề trong cuộc sống hàng ngày. Làm sao để các em biết ứng xử trong hoàn cảnh đó, biết phát hiện tình huống nguy hiểm và biết cách thoát ra bằng cách nào. Chỉ bao nhiêu đó thôi cũng đủ để giảm đi rất nhiều tình huống bi thương như nạn hiếp dâm trẻ em, mà người phạm tội lại chính là những người thân hay lại chính là thầy giáo như đã thấy. Đừng dạy quá nhiều chính trị, triết học suốt cả 12 năm học, rồi lên Đại học cũng dạy tiếp tục, mặc dù cả người dạy và người học đều biết rõ nó vô bổ và phi thực tế, nhưng lại là cái “cần câu cơm” cho các giáo viên dạy các môn đó.
Người nước ngoài họ không khinh ta nghèo hay giàu, mà chỉ khinh ta không biết cách ứng xử nơi công cộng. Ngay cả chúng ta với nhau, cũng đôi lúc thốt ra câu này “giàu mà hành xử chẳng ra gì”. Vậy hãy dạy các em đừng hành xử “chẳng ra gì” như vậy, để các em “thành người”. Không có gì khó cả, chỉ cần dựa vào nhu cầu sống hàng ngày, các em lứa tuổi đó thì dạy gì để sống với cộng đồng.
- Tiểu học: dạy đi thưa về trình, yêu quý ông bà cha mẹ thể hiện như thế nào, cách chào khách khi có khách tới nhà, cách giữ vệ sinh bản thân.
- Trung học cơ sở: giáo dục giới tính, nhận diện những tình huống nguy hiểm cho giới tính và cách thoát ra, cách đi đường, cách ứng xử nơi công cộng (nói nhỏ, nhường người lớn tuổi và phụ nữ, xếp hàng, đón xe buýt…)
- Trung học phổ thông (cấp 3): cách thuyết trình, nói chuyện trước đám đông, cách giao tiếp ngoài xã hội, cách nói chuyện với người nước ngoài, cách ứng xử với bạn bè cùng phái và khác phái, hậu quả cho bé gái của việc quan hệ tính dục khi chưa đủ tuổi trưởng thành, tình yêu trong sáng…
Nhân cách con người hình thành qua các cách hành xử hàng ngày, lâu dần thành thói quen và trở thành bản chất của một con người, thông qua quá trình sống ở gia đình và học ở trường. Nhà trường có tác động rất lớn tới việc hoàn thiện nhân cách của trẻ. Do đó phải dạy trẻ, mà không chỉ dạy, mà phải uốn nắn từng chi tiết, để làm sao trẻ thực tập được, ứng xử như một người văn minh, có văn hóa, gọi là “có học thức”. Điều đó cần cả nội dung hay, giáo trình hấp dẫn, cách dạy có phương pháp, lẫn người thầy gương mẫu.
Khó để có người thầy như vậy trong xã hội ngày nay, nhưng nếu không bắt đầu thì sẽ mai một dần, sẽ hết dần những người có tâm huyết với giáo dục, chỉ còn lại những người toan tính về chính trị thì sẽ mất đi cái “đậm đà bản sắc văn hóa” mà chúng ta treo nhan nhản ở mỗi trường học. Nhưng cái bản sắc đó là gì, thì chưa chắc ông Bộ trưởng biết mô tả cụ thể, nói chi đến đưa ra chiến lược rồi triển khai thực tế, là khoảng cách rất xa.
Hãy trả giáo dục về dân sự, sức sáng tạo mạnh mẽ của người Việt sẽ làm nên những điều kỳ diệu mà không cần phải tốn nhiều thời gian, không cần phải “nhập khẩu” chương trình giáo dục, cũng không cần mời chuyên gia nước ngoài nào cả. Chỉ cần “phi chính trị hóa” nền giáo dục, để từng người hiến kế mà không bị quy chụp, không bị cho là phản động.
3. Không thể tuyển người giỏi làm công chức
Các ngành như Hải quan, Thuế, cơ quan nhà nước… thì đâu cần phải chính trị hóa. Làm công chức đâu nhất thiết phải theo Đảng Cộng sản hay bất kỳ một đảng nào khác? Việc chính trị hóa làm cho các công chức “tưởng mình là ngon” nên cứ “vênh vênh” và la ó chửi bới người dân rất khó coi. Chưa kể ăn cắp giờ công để làm việc riêng, tạo nên sức ỳ cho nền hành chánh nước nhà.
Các cơ quan làm công việc hành chánh cần chuyển về dân sự, không cần tuyển dụng dựa vào “lý lịch tốt” mà bỏ qua các yếu tố chuyên môn giỏi. Việc thăng chức cũng dựa vào chuyên môn, chứ không dựa vào lý lịch và đảng viên, sẽ loại bỏ những thái độ hống hách đặc quyền hiện nay. Lúc đó chính quyền sẽ trở nên thân thiện hơn với dân, mọi người sẽ làm việc theo chuyên môn, theo luật chứ không theo bất kỳ một mệnh lệnh chính trị nào khác.
Khi “dân sự hóa” các cơ quan hành chánh, một người công chức sẽ thấy trách nhiệm mình lên cao, phải làm gì để xứng đáng với vị trí đó, nếu vi phạm thì vẫn bị đuổi việc nghiêm khắc bởi người trực tiếp quản lý thì thái độ sẽ tốt hơn nhiều, bởi lúc đó họ biết rằng không còn chỗ dựa nào khác ngoài sếp trực tiếp của mình. Khi người công chức thấy người quản lý của mình xử lý anh minh, có chuyên môn cao, xử lý tình huống tốt và đáng để học hỏi, tự động anh ta sẽ phải làm việc hết mình và không dám chểnh mảng.
4. Báo chí và truyền thông không dám nói thật
Khi thông tin bị kiểm soát bằng chính trị, chứ không phải bằng luật thì không ai dám nói thật. Báo chí không tự do, không thể tạo ra tranh luận để tránh sai lầm đáng tiếc. Một vấn đề càng được tranh luận nhiều chiều, nó sẽ càng đi tới đồng thuận và thiệt hại do sai lầm khi triển khai càng thấp. Đó là mặt tích cực của báo chí cần phải được nhìn nhận. Có thể xem các điển hình của sự tranh luận là hầm Thủ Thiêm, dự án bô-xít Tân Rai, dự án tàu cao tốc Bắc-Nam…
Khi mọi phát biểu đều phải “rào trước đón sau”, đều sợ “phạm thượng” thì sẽ không có góp ý chân thành, không có lời nói thật để nghe, và chắc chắn sẽ lạc lối.
Sự tranh luận tự do sẽ làm cho vấn đề trở nên khách quan và ngày càng sát thực tế. Nhu cầu đó chắc chắn một xã hội nào cũng cần. Nhưng nếu bị “chính trị hóa” như hiện nay, ai cũng sợ bị chụp mũ, bị ghép tội, thì chẳng ai dám nói thật, vì nói thật chỉ “rước họa vào thân” mà thôi.
5. Nghệ thuật không có tác phẩm hay
Chúng ta hay than vãn vì sao ngày càng không có tác phẩm nghệ thuật hay. Câu trả lời là, nó phụ thuộc với mức siết và kiểm duyệt vì mục đích chính trị. Người nhạc sĩ, thi hào, văn hào, nghệ sĩ… chỉ có thể cống hiến những tác phẩm hay nhất khi họ đạt được sự rung cảm cao nhất khi sáng tác, thể hiện… Lúc đó, họ sẽ cảm thấy “mình ở trong đó” và nói lên hết những gì từ đáy lòng. Việc kiểm duyệt làm họ nhụt chí và không còn sáng tạo nữa. Sáng tác nhiều lúc là ngẫu hứng chứ đâu phải “theo giờ giấc” được.
Sự tự do nói lên những suy nghĩ của họ sẽ tạo nên những tác phẩm bất hủ vượt thời gian.
6. Không dám bỏ tiền ra để làm ăn
Khi mà “kinh tế Nhà nước là chủ đạo” thì không ai dám bỏ tiền ra làm ăn cả, vì sợ một ngày nào đó “mất trắng”. Ngành nghề nào Nhà nước cũng “chủ đạo” cả, từ thu mua xuất khẩu nông sản cho tới dịch vụ hàng không, đóng tàu… đều có công ty Nhà nước. Khó có một lĩnh mực nào mà Nhà nước không nhảy vào. Nếu “muốn sống” thì phải “né” mấy ngành đó hoặc phải “có ai chống lưng” hoặc phải là doanh nghiệp nước ngoài (vì không dám “đụng”). Kết quả là ai cũng thấy, các ngành “mũi nhọn, xương sống” đều bị gãy, đều thua kém các doanh nghiệp nước ngoài, hoặc thậm chí có doanh nghiệp nhà nước chỉ làm thuê cho công ty nước ngoài đội lốt để nhận lấy vài phần trăm ít ỏi. Trong khi, dân có thể tự làm và thậm chí có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài trong nhiều lĩnh vực.
Nếu chúng ta “dân sự hóa” nền kinh tế, trả về cho dân tự làm tất cả các ngành nghề và họ sẽ cạnh tranh nhau để tồn tại, thì sẽ rất tốt cho xã hội. Nhà nước chỉ giữ những ngành chiến lược hoặc chỉ làm những ngành mà dân không làm như công nghiệp quốc phòng, dịch vụ công ích… Thu nhập của Nhà nước không phải từ các công ty Nhà nước, mà từ việc thu thuế. Chính sách thuế thấp nhưng công bằng, quản lý tốt, sẽ làm tăng ngân sách chứ không giảm. Là một người dân, khi đóng thuế thấp và phải chăng, ai cũng ý thức để đóng, thu đủ 100%, còn hơn là đặt mức thu quá cao rồi thất thu nhiều do trốn thuế. Khi người dân thấy nghĩa vụ của mình phải nộp thuế để phát triển đất nước, thì khi đó họ cũng thấy yêu nước hơn.
Nhà nước chỉ nên tập trung xây dựng bộ luật hoàn chỉnh, công bằng cho tất cả mọi người, chứ không nên ưu ái cho bất kỳ doanh nghiệp nào, kể cả doanh nghiệp nước ngoài. Khi chính sách rõ ràng, ưu tiên cho doanh nghiệp đầu tư lĩnh vực chiến lược do Nhà nước đề ra, sẽ được ưu tiên thuế thấp. Không nên ôm đồm lập ra nhiều doanh nghiệp Nhà nước để rồi mất kiểm soát dòng tiền Nhà nước đầu tư, tạo ra hệ lụy rất lớn cho xã hội, mà khó có thể giải quyết ngày một ngày hai.
Chúng ta hay nói “vàng trữ trong dân rất lớn” nhưng chặn hết ngõ đầu tư: chứng khoán, đô la, vàng, bất động sản… nếu dân có tiền thì đầu tư vào cái gì? Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ, chưa có lối thoát, lại bàn chuyện giải cứu. Sao không mạnh dạn bán hết các doanh nghiệp đó cho dân? Khi nhà nước cam kết “không quốc hữu hóa” và “tôn trọng và đảm bảo vĩnh viễn quyền sở hữu tư nhân” trong Hiến pháp (chứ không phải Sở hữu Nhà nước là chủ đạo như hiện nay) thì tôi dám chắc không phải nặng đầu để suy nghĩ “giải quyết” các bài toán doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ. Lúc đó đâu cần phải dùng mọi biện pháp như Ngân hàng Nhà nước làm hiện nay để “huy động vàng trong dân”? Nhưng rồi có huy động được không, cho tới thời điểm này?
N.Q.B.T.








April 30, 2013
“Quay đầu là bờ”, anh hai, anh ba, anh tư, dì chín, mợ năm …ơi!
Hôm trước BĐX có bài “Từ ngoại lệ của dân nước mình đến ngoại lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam” là muốn nhắn nhủ các đồng chí Cộng sản Việt Nam, bản chất cũng chí là anh cả, anh ba, anh tư, gì năm, gì chín… thoát thai từ nhà quê, trong hơi thở còn hôi mùi bùn đất trâu bò nên cần lẹ làng vứt bỏ cái áo khoác Cộng sản hôi hám lộn sòng trên người mấy chục năm đi để về với bà con dân tộc, tránh để tình cảnh đất nước bị dồn đến chân tường mà rơi vào thảm họa như các đảng cộng sản cầm quyền trên thế giới. Chẳng biết Bà nói có lọt được vào lổ tai các vị ấy không?
Trong khi Bà còn phân vân như vậy thì liên tục trên thế giới từ châu Âu cho đến châu “phương Tây” xuất hiện nhiều tổ chức và cá nhân lên tiếng chỉ trích Cộng sản Việt Nam đang cầm quyền ở Việt Nam vi phạm nhân quyền ngày một trầm trọng hơn. Lần này họ nói với thái độ gay gắt hơn, quyết liệt hơn, rõ ràng hơn, rằng, nếu lãnh đạo Việt Nam cứ tiếp tục vi phạm nhân quyền, không thực hành cải cách chính trị thì sự hợp tác và ủng hộ Việt Nam của họ sẽ không còn, cụ thể là vấn đề toàn vẹn lãnh thổ ở Biển Đông, vấn đề hợp tác và đầu tư trong làm ăn và những viện trợ nhân đạo khác.
Mà theo các số liệu và sự kiện đã công bố thì những cái xấu của nước mình đã và đang bị dồn đến chân tường thật rồi.

Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, ông David Shear, nhấn mạnh bảo vệ nhân quyền phổ quát là khía cạnh quan trọng trong bang giao Việt-Mỹ và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục kêu gọi chính phủ Việt Nam phóng thích tất cả tù nhân chính trị.
Ngoài Biển Đông bọn Tầu Cộng không chỉ đưa tàu to súng lớn lượn lờ trên lãnh hải của ta mà nó còn công khai tập trận, đưa cả người ra du lịch ở quần đảo Hoàng Sa của ta, đặc biệt hơn chúng còn công khai bắn tầu và ngư dân của ta khi bà con ta đang hành nghề trên biển của ta.
Ta có phản đối đấy, nhưng có mấy tiếng nói của tổ chức này, cá nhân kia hay chính danh là chính phủ lên tiếng ủng hộ chúng ta đâu.
Trong đất liền thì tình hình kinh tế đang ngày một nguy ngập. Hàng loạt các doanh nghiệp thi nhau phá sản và không còn hoạt động kinh doanh gì đã lên đến cả trăm vạn công ty, rồi đặc biệt là cái khoản nợ công đã lên tới 128, 9 tỷ đô la ( theo tinh toán của thế giới), bằng 106 % GDP của nước mình.
Thế nước đã đến hồi nguy ngập quá rồi.
Thời nay muốn làm ăn, muốn bảo vệ được lãnh thổ mà không có bạn bè thật tâm, thật lòng dựa trên những giá trị đạo đức phổ quát của con người, tức là nhân quyền, thì phát triển đất nước, bảo vệ đất nước bằng cách chi đây?
Các đồng chí cộng sản là anh cả, anh hai, gì tư, mợ chín đang lãnh đạo đảng và nhà nước ơi, chắc các anh, các gì hẳn còn nhớ, hồi ta đánh Pháp, đánh Mỹ mà Pháp, Mỹ đều phải chạy về nước là ta được sự ủng hộ của nhân dân khắp năm châu, trong đó có nhân dân Pháp, Mỹ. Tại sao họ lại ủng hộ ta? Vì ta có chính nghĩa. Cái chính nghĩa đó là giành độc lập cho dân tộc và thống nhất đất nước.
Vậy thì tại sao bây giờ họ lại không ủng hộ ta như hồi đánh Pháp, đánh Mỹ và hồi đầu thực hành hội nhập nữa? Vì ta cứ cố tình

Vào ngày 18 tháng 4, Nghị Viện Liên Minh Châu Âu thông qua nghị quyết lên án nhà cầm quyền Hà Nội vi phạm nhân quyền, quyền tự do tôn giáo, tự do ngôn luận. Nghị quyết được sự nhất trí của 6 chính đảng, chỉ có một đảng là đảng cực tả bỏ phiếu trắng.
Một trong những dấu hiệu biểu trưng sự phản đối của đại biểu tại Quốc hội Liên minh Châu Âu hôm 18 tháng 4, 2013
không thực hiện chính nghĩa.
Ta nói dân ta đã có tự do, dân chủ nhưng ta chưa có đa nguyên đa đảng thì dân chủ dựa vào đâu? Làm sao có thế có được? Thế giới người ta biết tỏng rằng, một chế độ xã hội không có đa nguyên thì không thể có dân chủ.
Ta nói các thành phần kinh tế bình đẵng với nhau mà nhà nước cũng làm kinh tế, quân đội, công an cũng làm kinh tế, tức cũng có công ty thì bình đẵng ở đâu? Thế giới người ta biết tỏng rằng, làm ăn mà không có cạnh tranh bình đẳng thì làm ăn thế nào được, phát triển thế nào được. Nhà nước mà làm kinh tế thì sớm muộn nền kinh tế ấy cũng lụn bại.
Ta nói mọi công dân đều bình đẵng trước pháp luật, nhưng nước ta chưa có tam quyền phân lập thì cơ sở nào để bình đẵng? Thế giới người ta biết tỏng rằng, không có tam quyền phân lập thì án nào cũng chí là án lấy ra từ túi các anh, các gì mà thôi.
Thời đại internet bùng nổ thông tin, to nhỏ gì cũng đều lọt vào buồng riêng của mỗi gia đình, mình chẳng thể đu dây, lừa mị, “che lồn lá khoai” mãi được đâu. Nó chuế lắm.

Giáo sư Jonathan London trả lời báo chi Việt Nam tại Hội thảo về Biển Đông tại Quảng Ngãi ngày 27 và 28.4.2013: “Dù Việt Nam có những bằng chứng rất vững chắc về chủ quyền Biển Đông, nhiều nước như Mỹ và châu Âu rất ngại ủng hộ mạnh mẽ, chính bởi vì những vấn đề chính trị của Việt Nam.Việt Nam phải cải cách chính trị để được quốc tế ủng hộ về Biển Đông”
Thà các anh, các gì cứ như Triều Tiên độc quyền phong kiến, nhất quyết bịt tai hết thảy người dân lại cho nó cam, đằng này, các văn bản nào hay ho về con người, về xã hội của các tổ chức trên thế giới mình cũng cam kết ký kết vào đó như phòng chống tham nhũng, quyền của trẻ em, đặc biệt là công ước về nhân quyền mà chính các anh, các gì lại là người đầu tàu vi phạm thì nói chi đến mấy ông lính là công an, bộ đội, công chức, viên chức lèm nhèm.
Thế giới người ta biết tỏng cả rồi.
Bài học đánh Mỹ, đánh Pháp còn sờ sờ ra đấy. Anh cả, anh ba, anh tư, gì chín… đã vội quyên rồi sao?
Không được thế giới ủng hộ, giúp đỡ, các anh, các gì có thể bảo vệ và xây dựng đất nước này được không? Tất nhiên là không rồi.
“Quay đầu là bờ” anh tư, anh ba, gì chín… ơi! Kẻo mất hết đến nơi rồi!
B.Đ.X








“Quay đầu là bờ”, anh hai, anh ba, anh tư, gì chín, mợ năm …ơi!
Hôm trước BĐX có bài “Từ ngoại lệ của dân nước mình đến ngoại lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam” là muốn nhắn nhủ các đồng chí Cộng sản Việt Nam, bản chất cũng chí là anh cả, anh ba, anh tư, gì năm, gì chín… thoát thai từ nhà quê, trong hơi thở còn hôi mùi bùn đất trâu bò nên cần lẹ làng vứt bỏ cái áo khoác Cộng sản hôi hám lộn sòng trên người mấy chục năm đi để về với bà con dân tộc, tránh để tình cảnh đất nước bị dồn đến chân tường mà rơi vào thảm họa như các đảng cộng sản cầm quyền trên thế giới. Chẳng biết Bà nói có lọt được vào lổ tai các vị ấy không?
Trong khi Bà còn phân vân như vậy thì liên tục trên thế giới từ châu Âu cho đến châu “phương Tây” xuất hiện nhiều tổ chức và cá nhân lên tiếng chỉ trích Cộng sản Việt Nam đang cầm quyền ở Việt Nam vi phạm nhân quyền ngày một trầm trọng hơn. Lần này họ nói với thái độ gay gắt hơn, quyết liệt hơn, rõ ràng hơn, rằng, nếu lãnh đạo Việt Nam cứ tiếp tục vi phạm nhân quyền, không thực hành cải cách chính trị thì sự hợp tác và ủng hộ Việt Nam của họ sẽ không còn, cụ thể là vấn đề toàn vẹn lãnh thổ ở Biển Đông, vấn đề hợp tác và đầu tư trong làm ăn và những viện trợ nhân đạo khác.
Mà theo các số liệu và sự kiện đã công bố thì những cái xấu của nước mình đã và đang bị dồn đến chân tường thật rồi.

Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, ông David Shear, nhấn mạnh bảo vệ nhân quyền phổ quát là khía cạnh quan trọng trong bang giao Việt-Mỹ và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục kêu gọi chính phủ Việt Nam phóng thích tất cả tù nhân chính trị.
Ngoài Biển Đông bọn Tầu Cộng không chỉ đưa tàu to súng lớn lượn lờ trên lãnh hải của ta mà nó còn công khai tập trận, đưa cả người ra du lịch ở quần đảo Hoàng Sa của ta, đặc biệt hơn chúng còn công khai bắn tầu và ngư dân của ta khi bà con ta đang hành nghề trên biển của ta.
Ta có phản đối đấy, nhưng có mấy tiếng nói của tổ chức này, cá nhân kia hay chính danh là chính phủ lên tiếng ủng hộ chúng ta đâu.
Trong đất liền thì tình hình kinh tế đang ngày một nguy ngập. Hàng loạt các doanh nghiệp thi nhau phá sản và không còn hoạt động kinh doanh gì đã lên đến cả trăm vạn công ty, rồi đặc biệt là cái khoản nợ công đã lên tới 128, 9 tỷ đô la ( theo tinh toán của thế giới), bằng 106 % GDP của nước mình.
Thế nước đã đến hồi nguy ngập quá rồi.
Thời nay muốn làm ăn, muốn bảo vệ được lãnh thổ mà không có bạn bè thật tâm, thật lòng dựa trên những giá trị đạo đức phổ quát của con người, tức là nhân quyền, thì phát triển đất nước, bảo vệ đất nước bằng cách chi đây?
Các đồng chí cộng sản là anh cả, anh hai, gì tư, mợ chín đang lãnh đạo đảng và nhà nước ơi, chắc các anh, các gì hẳn còn nhớ, hồi ta đánh Pháp, đánh Mỹ mà Pháp, Mỹ đều phải chạy về nước là ta được sự ủng hộ của nhân dân khắp năm châu, trong đó có nhân dân Pháp, Mỹ. Tại sao họ lại ủng hộ ta? Vì ta có chính nghĩa. Cái chính nghĩa đó là giành độc lập cho dân tộc và thống nhất đất nước.
Vậy thì tại sao bây giờ họ lại không ủng hộ ta như hồi đánh Pháp, đánh Mỹ và hồi đầu thực hành hội nhập nữa? Vì ta cứ cố tình

Vào ngày 18 tháng 4, Nghị Viện Liên Minh Châu Âu thông qua nghị quyết lên án nhà cầm quyền Hà Nội vi phạm nhân quyền, quyền tự do tôn giáo, tự do ngôn luận. Nghị quyết được sự nhất trí của 6 chính đảng, chỉ có một đảng là đảng cực tả bỏ phiếu trắng.
Một trong những dấu hiệu biểu trưng sự phản đối của đại biểu tại Quốc hội Liên minh Châu Âu hôm 18 tháng 4, 2013
không thực hiện chính nghĩa.
Ta nói dân ta đã có tự do, dân chủ nhưng ta chưa có đa nguyên đa đảng thì dân chủ dựa vào đâu? Làm sao có thế có được? Thế giới người ta biết tỏng rằng, một chế độ xã hội không có đa nguyên thì không thể có dân chủ.
Ta nói các thành phần kinh tế bình đẵng với nhau mà nhà nước cũng làm kinh tế, quân đội, công an cũng làm kinh tế, tức cũng có công ty thì bình đẵng ở đâu? Thế giới người ta biết tỏng rằng, làm ăn mà không có cạnh tranh bình đẳng thì làm ăn thế nào được, phát triển thế nào được. Nhà nước mà làm kinh tế thì sớm muộn nền kinh tế ấy cũng lụn bại.
Ta nói mọi công dân đều bình đẵng trước pháp luật, nhưng nước ta chưa có tam quyền phân lập thì cơ sở nào để bình đẵng? Thế giới người ta biết tỏng rằng, không có tam quyền phân lập thì án nào cũng chí là án lấy ra từ túi các anh, các gì mà thôi.
Thời đại internet bùng nổ thông tin, to nhỏ gì cũng đều lọt vào buồng riêng của mỗi gia đình, mình chẳng thể đu dây, lừa mị, “che lồn lá khoai” mãi được đâu. Nó chuế lắm.

Giáo sư Jonathan London trả lời báo chi Việt Nam tại Hội thảo về Biển Đông tại Quảng Ngãi ngày 27 và 28.4.2013: “Dù Việt Nam có những bằng chứng rất vững chắc về chủ quyền Biển Đông, nhiều nước như Mỹ và châu Âu rất ngại ủng hộ mạnh mẽ, chính bởi vì những vấn đề chính trị của Việt Nam.Việt Nam phải cải cách chính trị để được quốc tế ủng hộ về Biển Đông”
Thà các anh, các gì cứ như Triều Tiên độc quyền phong kiến, nhất quyết bịt tai hết thảy người dân lại cho nó cam, đằng này, các văn bản nào hay ho về con người, về xã hội của các tổ chức trên thế giới mình cũng cam kết ký kết vào đó như phòng chống tham nhũng, quyền của trẻ em, đặc biệt là công ước về nhân quyền mà chính các anh, các gì lại là người đầu tàu vi phạm thì nói chi đến mấy ông lính là công an, bộ đội, công chức, viên chức lèm nhèm.
Thế giới người ta biết tỏng cả rồi.
Bài học đánh Mỹ, đánh Pháp còn sờ sờ ra đấy. Anh cả, anh ba, anh tư, gì chín… đã vội quyên rồi sao?
Không được thế giới ủng hộ, giúp đỡ, các anh, các gì có thể bảo vệ và xây dựng đất nước này được không? Tất nhiên là không rồi.
“Quay đầu là bờ” anh tư, anh ba, gì chín… ơi! Kẻo mất hết đến nơi rồi!
B.Đ.X








Ba lần lấy chồng, ghét của nào trời trao của ấy
Sau bữa cà phê với con Tím, tết mình đem vợ con về quê. Nghe tin mình về quê chị Điểm nhắn hai ba nhắn, nói cu Lập tranh thủ lên nhà chị chơi, có việc. Không lên chị giận. Mình lên.
Mình hỏi tụi nó răng rồi chị? Chị thở hắt, nói răng nữa. Lấy nhau chơ răng. Nhưng tao nghi kiểu đó không được ba bảy hăm mốt ngày mô. Mình hỏi sao, chị chép miệng nói tính con Tím tau biết, thích thì chết cũng đeo lấy, hết thích ba vạn cũng bỏ. Tính thằng cu nhà tau cũng rứa. Bây giờ chúng nó đang hạnh phúc nhưng ngó bộ éo le lắm em ơi. Mình nói chị đừng lo xa quá, chuyện hạnh phúc gia đình không ai biết trước được, chị cứ để vậy, đến đâu hay đó chị ạ. Chị lắc đầu thở dài, nói để răng được mà để, tau gọi mi lên để tính giùm cho chị đây.
Chị Điểm ngước lên nhìn mình đầy van lơn. Mình nói em chẳng có cách chi mô, thấy có một cách cổ điển thiên hạ vẫn hay dùng. Chị hỏi cách chi, mình nói nên để thằng cu đi xuất khẩu lao động chừng dăm năm…Sang đó trước sau nó cũng quên con Tím, nếu không quên được sẽ có cô gái trẻ đẹp khác giúp nó quên. Mắt chị Điểm sáng lên, nói ừ, e phải đó hè. Em giúp chị nghe. Mình ok liền, nói việc này em lo được, đang có đợt công nhân xuất khẩu sang Đức. Hai tay chị Điểm chụp lấy tay mình nói rối rít giúp chị nghe em, giúp chị nghe em.
Ra tết mình vô Huế gặp con Tím bàn chuyện cho thằng cu đi xuất khẩu, chị Điểm cũng đã gọi điện bàn với nó rồi. Nhưng thằng cu không chịu đi, dứt khoát không. Con Tím nhìn mình buồn buồn, nói hay là mi xin cho tau đi. Mình nói cũng được nhưng nếu thằng cu cũng không chịu thì răng. Con Tím dướn mắt lên cười nhạt, nói quyền chi hắn? Mình nói mi đã cho hắn được cái quyền làm chồng thì hắn phải có cái quyền đó chớ. Con Tím ngồi trơ thở hắt, nói ừ hè. Tự nhiên con Tím bật cười, nói cái số tau vô duyên chi lạ. Dứt lời nước mắt nó chảy ròng ròng.
Bây giờ mình mới nhìn thấy vệt thâm tím dưới mang tai con Tím. Vệt thâm tím chỗ đó không thể nói dối vấp ngã được. Mình nói thằng cu đánh mi à, hắn ghen quá phải không? Con Tím khẽ gật đầu. Lần nào đánh xong hắn cũng quì lạy xin lỗi mi phải không? Con Tím khẽ gật đầu. Mình nói mi tính bỏ hắn nhưng không được phải không? Con Tím khẽ gật đầu. Mình nói mi sợ bỏ hắn thì hắn sẽ đâm đầu vào tàu hỏa tự tử phải không? Con Tím giật mình trợn mắt, nói ủa chớ răng chuyện chi mi cũng biết.
Mình chả biết gì hết nhưng trò đời là vậy. Chuyện này mình gặp nhiều rồi. Xưa có chị H. yêu thằng cu con, nó ghen đánh chị ghê quá. Mình bảo chị bỏ quách đi, chị nói chị cũng muốn bỏ lắm nhưng nó đã dọa rồi, nếu chị bỏ nó thì nó đâm đầu vào đầu tàu hỏa chết ngay lập tức. Mình nói chị cứ bỏ đi xem nó có chết không nào. Chị H. bỏ thằng cu, chẳng thấy nó đâm vào đầu tàu hỏa mà đâm đầu vào một cô ả khác. Lại còn viết thư cho chị than thở nó phải yêu một người khác để “quên đi một nỗi đau”. Mẹ sư bố thằng cu con, hi hi.
Chuyện xuất khẩu lao động cho con Tím dừng ở đó, phần vì mình phải lo chuyển cả nhà ra Hà Nội, phần vì chị Điểm có gọi điện cho mình, nói thằng cu có việc làm khá tốt ở Sài Gòn rồi. Ừ thôi, đi Sài Gòn cũng như đi nước ngoài vậy, miễn là con Tím tách được thằng cu. Mãi đến cuối năm 2002, mình vào Sài Gòn tìm nấm Linh Chi cổ, nghe nói nấm này chữa được bệnh của mình. Mình ở khách sạn gì quên rồi, phố nào đường nào cũng quên nốt. Chỉ nhớ Hồng Ánh thuê khách sạn này vì nó sát ngay công viên để cho mình sáng sáng ra công viên tập tểnh đi bộ. Hai tuần ở sài Gòn, sáng nào mình cũng đi bộ trong công viên từ 5 giờ đến 7 giờ sáng. Một hôm mình đang chấm chấm phẩy phẩy trong công viên, một người chạy qua mình bỗng quay ngoắt lại nhìn mình trân trố rồi vỗ tay đánh bốp kêu to, nói oa chà Nguyễn Quang Lập! Mình định thần mất gần một phút mới nhận ra đó là anh Đoàn.
Anh Đoàn ôm lấy mình cười hể hả, nói tưởng đến chết không gặp được nhau nữa, té ra quả đất tròn thiệt bay ơi! Anh lại nhấc bổng mình lên nhún mấy nhún, nói mi vô đây con Tím mừng lắm đây. Mình ngạc nhiên nhìn anh Đoàn, nói anh cũng còn nhớ con Tím à. Anh cười cái hậc, nói thằng ni nói chi lạ, làm răng quên được đứa con gái cầm cu mình từ hồi lớp 5. Hi hi.
Anh Đoàn đưa mình đi ăn sáng uống cà phê. Anh làm nghề sửa xe máy. Hiệu sửa xe của anh ở gần đây, sáng nào anh cũng ra công viên chạy mấy vòng, đi ăn sáng uống cà phê xong thì mở hiệu làm đến chín mười giờ đêm. Anh nói nhưng bữa ni tau đóng cửa hiệu chơi với mi cả ngày. Mình nói anh cứ đi làm đi, chỉ cần anh báo con Tím giùm em là được. Anh nói tất nhiên rồi, biết mi vô mà không cho con vợ tau gặp thì có mà chết với hắn. Mình sửng sốt nhìn anh Đoàn, nói con Tím là vợ anh à? Anh Đoàn nhăn răng cười, nói tất nhiên. Nó không vợ tao thì vợ ai.
Thấy mình cứ đứng trơ nhìn, anh Đoàn kéo mình ngồi xuống ghế, nói ngồi xuống đi để tau kể cho nghe. Oa chà, nhiều chuyện hay tàn bạo mi ơi. Anh kể sau vụ bị con Tím cầm cu , anh bỏ học đi lái máy cày. Sau bỏ máy cày đi lái xe tải. Được ít vốn liếng anh bỏ lái xe tải đi buôn trầm, phất lên rất nhanh và cũng sụp xuống rất nhanh vì cờ bạc. Trắng tay, năm 1995 anh bỏ vô Sài Gòn mở hiệu sửa xe máy vỉa hè, đêm ngủ nhờ dưới gầm cầu thang khu tập thể gần đó. Cuối năm 2000 một hôm con Tím dắt xe máy vào hiệu, vừa trông thấy anh nó đã rú lên vội vàng dắt xe đi ra. Con Tím sợ, nó nghĩ vì nó mà anh Đoàn bỏ học, chắc anh thù nó lắm. Anh Đoàn đuổi theo giữ nó lại, mắng nó te tua, nói anh em lâu ngày mới gặp nhau, chi mà sợ tau như sợ cọp rứa mi.
Từ đó anh em thân nhau, con Tím tháo khoán cái xe máy cho anh Đoàn. Bất kì xe hỏng ở đâu, hễ nó gọi là anh Đoàn xách đồ đến liền. Được hơn một năm anh Đoàn mới biết chồng con Tím là con chị Điểm. Thằng cu vào Sài Gòn làm việc, ép con Tím phải bán nhà vào theo. Dạo này vợ chồng nó đã hục hặc lắm rồi, thằng cu đánh con Tím như cơm bữa. Nó ghen tứ tung, ghen cả với anh Đoàn. Nhiều lần con Tím phải chạy đến cầu cứu anh Đoàn. Anh Đoàn xách dao phay đến tận nhà chỉ mặt thằng cu dọa nó. Thằng cu không sợ, nó biết anh Đoàn là bạn học của chị Điểm, chắc chắn không dám làm gì nó.
Thấy con Tím bị đánh đòn mà mình không làm gì được, anh Đoàn tức lắm chửi um lên, nói con ni ngu chi ngu tàn bạo, lấy ai lại đi lấy cái thằng mất dạy đó, thà lấy tao còn hơn. Con Tím cười, nó nhắc đến chuyện xưa, nói bộ anh không mất dạy à. Anh cười khì, nói tao có thể mất dạy cả thế giới, riêng vợ thì không. Con Tím lại cười, nói được rồi, khi mô tui gặp chị hỏi xem anh có mất dạy với vợ không. Anh Đoàn hỏi chị mô. Con Tím nói chị vợ anh đó. Anh Đoàn cười cái hậc, nói vợ con mô rứa hè.
Con Tím tròn xoe mắt, nói anh không có vợ thiệt à. Anh nói thiệt chớ răng không thiệt. Tại mi đó. Con Tím nói tại tui cái chi. Anh Đoàn trợn mắt lên, nói tại mi cầm cu tao, từ đó không có đứa mô dám cầm cu tao nữa. Con Tím cười rũ, đấm anh huỳnh huỵch.
Con Tím cứ tưởng anh Đoàn nói đùa, người như anh Đoàn không có vợ thật khó tin. Nó nghĩ chắc anh có vợ con rồi, nếu không thì cũng do bỏ nhau chứ không thể không có, té ra anh Đoàn chưa hề lấy ai thật. Mấy lần con Tím đòi đến nhà anh chơi, anh nói tao không có nhà. Con Tím cứ tưởng anh đùa, đến khi mục sở thị anh ngủ tại gầm cầu thang nó mới tin anh Đoàn nói thật, từ nhà cửa đến vợ con anh Đoàn đều không có.
Chuyện gì đến rồi phải đến. Một hôm con Tím gọi điện cầu cứu, anh Đoàn bỏ việc chạy đến. Thằng cu cài chặt cửa, anh Đoàn khỏe như trâu đạp mấy đạp là cửa bung ra. Con Tím đang nằm trên vũng máu, nó bị thằng cu lột truồng ra đánh cho tơi tả . Anh Đoàn hét to một tiếng, nói cha tổ mi thằng mất dạy!… Anh lao vào đánh thằng cu túi bụi. Anh bóp cổ thằng cu, nói mi cút ngay. Mi lấy con Tím không hôn thú, nhà này là của con Tím, con Tím đuổi mi mấy lần mi không chịu đi. Giờ chính thức tao đến để đuổi cổ mi ra khỏi nhà. Cút ngay không oong- đơ chi hết. Thằng cu nói quyền gì ở chú mà đuổi tui, anh Đoàn nói quyền chớ răng không. Từ giây phút này tao là chồng con Tím, nghe rõ không thằng chó!
Thằng cu bị tóng cổ ra khỏi nhà. Anh Đoàn quyết định ở lại canh cửa nhà con Tím mười ngày. Anh bỏ hết việc ngồi canh cửa. Đêm đến anh cũng ngồi canh cửa từ đầu hôm cho đến sáng. Đến ngày thứ mười không thấy thằng cu lai vãng gì nữa anh Đoàn mới chào con Tím ra về. Con Tím kéo áo anh níu lại, nói anh về mô nữa, đây là nhà của anh rồi mà. Thế là họ thành vợ chồng.
Mình hỏi anh Đoàn, nói lấy nhau kiểu rứa con Tím có hạnh phúc không. Anh Đoàn trợn mắt lên, nói răng không, thằng ni hỏi chi lạ rứa hè! Con vợ tao nói trong ba thằng chồng, tau là thằng làm nó hạnh phúc nhất đó. Anh Đoàn ngửa cổ cười kha kha kha, nói đàn ông không bần tiện, không ngoại tình, không đánh đập vợ con, chim cò lại không suy thoái thì không một con vợ nào trên đời lại không hạnh phúc. Tau nói rứa có đúng không nhà văn?
He he.
NQL








Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
