Nguyễn Quang Lập's Blog, page 28
April 30, 2013
Đoản khúc buồn 30/4
Quách Hoàng Lân
Khi tôi ra đời, đất nước đã thống nhất được 5 năm. Khi tôi là một đứa trẻ, với những gì tôi được học trong nhà trường thì ngày thống nhất 30/4 được mô tả như là ngày hội chiến thắng của toàn dân tộc. Theo năm tháng, tôi lớn dần và những góc nhìn khác biệt về cuộc chiến bắc nam lần thứ 2 (lần thứ nhất là Trịnh-Nguyễn phân tranh) làm cho tôi hoài nghi ý nghĩa của cuộc chiến.
Câu hỏi day dứt mãi trong tôi là: Ai là người chiến thắng thực sự trong cuộc chiến này? Không thể nói chiến thắng này là của toàn dân tộc vì sau cuộc chiến hơn 3 triệu người đã phải rời bỏ tổ quốc ra đi, nhiều người trong số họ đã bỏ mạng trên biển, nhiều người ở lại đã bị giam cầm tra tấn trong các trại tập trung hay bị đẩy lên vùng ma thiêng nước độc, không thể nói chiến thắng là của họ. Không thể nói chiến thắng này là của dân Miền Bắc vì nếu nói thế thì hóa ra dân Bắc xâm lược Miền Nam à? Chiến thắng này có thể gán cho những người cộng sản được không? Có thể, bởi vì sau cuộc chiến toàn đất nước đã bị nhuộm đỏ. Tuy nhiên, nếu xem chiến thắng này là của Đảng cộng sản thì cái giá mà dân tộc phải trả là quá đắt: đó là từ đó trở đi dân tộc lại tiếp tục rơi vào vòng nô lệ của một thứ tư tưởng ngoại lai là chủ nghĩa Mac-Lê-Mao, và đẩy dân tộc tới chỗ bị người tàu chi phối ngay trong bộ não. Tôi nghĩ chúng ta đã mất biển đảo và một phần đất liền, điều đó thật tệ, nhưng điều tệ hơn là cái đầu của chúng ta, đặc biệt của những nhà lãnh đạo, chẳng có định hướng gì cả ngoài việc ngó sang bên Tàu xem họ làm gì để làm theo. Tất cả những biểu hiện của tư tưởng chống lại sự Hán hóa trong bộ não luôn bị đàn áp thẳng tay và cực kỳ thô bạo. Nhiều người đã bảo, chiến thắng 30/4 đánh dấu một thời kỳ Bắc thuộc mới. Tóm lại, chiến thắng này chỉ có thể xem là thuộc về những người cộng sản quốc tế (những người Cs Liên Xô+Trung Quốc + Việt nam) chứ không thể xem là của riêng người CS Việt Nam. Tôi đã khóc khi nghĩ về thân phận của dân tộc mình, đất nước mình, đã bị các đế quốc (Pháp, Mỹ, Tàu) xem như một cô gái đẹp và hiền lành để chúng tranh giành với nhau (các bạn có thể xem phim “Một người Mỹ trầm lặng” để hiểu thêm cái paradigm của mấy đế quốc đó đối với dân tộc Việt), trong khi đó những đại diện ưu tú của dân tộc luôn tìm cách bỏ tổ quốc ra đi để bán chất xám cho chính các đế quốc đó.
Vậy, những ai có thể tự hào về chiến thắng 30/4? Như trên đã nói, chiến thắng này không thuộc về dân tộc Việt, cũng không thuộc hoàn toàn về những người cộng sản Việt, cho nên không ai có thể tự hào về chiến thắng 30/4. Vậy có nên gọi 30/4 là ngày “Chiến Thắng” hay không? Theo tôi là hoàn toàn không nên. Việc thống nhất đất nước là cần thiết dù cho chúng ta đã chọn một cách thức tồi tệ để có được nó. Chúng ta vẫn có thể kỷ niệm 30/4 và chỉ nên gọi đó là ngày “thống nhất đất nước” để tránh kích động hận thù trong quá khứ. Liệu chúng ta có thể hàn gắn được vết thương chiến tranh đã hằn sâu trong tâm hồn của người dân ở hai bên chiến tuyến? Đến bây giờ 38 năm sau ngày thống nhất, vết thương tâm hồn đó lại mưng mủ và làm đau nhói tim ta! Có thể hàn gắn được vết thương đó không, khi mà cứ đến ngày này, bên chiến tuyến này vẫn linh đình kỷ niệm “chiến thắng” một cách ngạo mạn, còn bên chiến tuyến kia lại ôm sầu của một ngày “quốc hận”.
Tôi vẫn nghĩ lạc quan là vẫn có thể hàn gắn được vết thương này. Tuy nhiên, để làm được điều đó, tức là để hòa giải dân tộc thì cần một sự dũng cảm và quyết đoán của cả hai phía, và đặc biệt là của những người cộng sản lãnh đạo đất nước hiện thời. Điều đầu tiên cần làm là đánh giá lại cuộc chiến một cách khách quan thông qua đối thoại bình đẳng giữa những người ở hai bên chiến tuyến. Những người cộng sản cần phải dũng cảm thừa nhận một cách thành thực rằng họ đã thắng trong chiến tranh nhưng đã thất bại trong hòa bình, trong điều hành đất nước. Và họ cần phải hòa giải chân thành bằng cách chia sẻ hay nhường lại quyền điều hành đất nước cho những người có tài năng và tâm huyết bất kể đó là người thuộc chiến tuyến hay đảng phái nào.
Tác giả gửi Quê Choa
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả








Nhân bàn về hòa giải dân tộc – Xin đừng trống đánh xuôi, kèn thổi ngược!
“Để thực hiện chính sách Đại đoàn kết dân tộc thì một yếu tố quan trọng là sự chân thành, cởi mở và chân thật. Không có sự chân thật thì sao có sự hòa hợp, hòa giải được”
Mình hoàn toàn nhất trí với ý kiến trên của ông Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng Ngoại giao kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài trong bài trả lời phỏng vấn của Báo Thanh Niên nhân ngày 30/4 với tiêu đề “Hòa hợp tạo ra sức mạnh cho dân tộc”.
Nhưng cho dù cả hai phía đều phải chân thành cùng chìa tay ra cho nhau như ý của ông Sơn trong bài trả lời phỏng vấn trên thì vẫn phải có một bên chịu trách nhiệm chính cho một thực tế là cho đến nay, sau 38 năm “giải phóng miền nam”, hòa giải và hòa hợp thực sự vẫn chưa đến với dân tộc Việt Nam.
Bên chịu trách nhiệm chính ấy là ai nếu không phải là bên đã nắm được chính quyền trong phạm vi cả nước trong suốt 38 năm qua? Phạm vi bài này không bàn đến những hoàn cảnh chủ quan và khách quan đã đưa đẩy bên này, bên kia vào các vị thế khác nhau mà chỉ khẳng định một điều không thể bàn cãi là một khi bên nào được đặt vào vị thế lãnh đạo nhà nước, tạm gọi là “bên thắng trận”, thì mọi điều hay dở, mọi thành công hay thất bại của quốc gia đều phải được quy trước hết vào trách nhiệm điều hành quốc gia của bên đó.
Trách nhiệm điều hành quốc gia của chính quyền nhà nước thì nhiều. Phạm vi bài này chỉ bàn đến trách nhiệm của nó trong việc quy tụ, thu phục nhân tâm của mọi người Việt Nam, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng, tôn giáo. Đây cũng là trách nhiệm phải hoàn thành của mọi thực thể nắm quyền lãnh đạo nhà nước một cách chính danh trên thế giới. Nếu chỉ xét riêng điều này thì có thể nói rằng Nhà nước Việt Nam hiện tại vẫn chưa hoàn thành trách nhiệm chính của mình trước dân tộc khi hòa giải thực sự vẫn còn chưa đến với người Việt Nam, khi mà “38 năm nay mình vẫn nói là thống nhất đất nước” mà vẫn “chưa thống nhất được lòng người” như chính lời của ông Nguyễn Thanh Sơn.
Sự chưa hoàn thành trách nhiệm ấy đã được Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn thừa nhận khi trong bài trả lời phỏng vấn trên, ông đã nhiều lần nhấn mạnh về sự thiếu chân thành và dũng cảm của “chúng ta”, xin trích một đoạn ngắn trong bài trả lời phỏng vấn trên:
“Hơn bao giờ hết chúng ta cần có sự dũng cảm đột phá, sẵn sàng chịu trách nhiệm. Hiện nay cái dũng cảm còn thiếu quá, chân thành còn thiếu quá. Đến khi có vấn đề cần có người xử lý, có người chịu trách nhiệm thì không ai làm. Đó là nỗi ray rứt của chúng ta.”
“Chúng ta” trong câu này và trong ngữ cảnh của toàn bộ bài phỏng vấn trên không thể được hiểu là ai khác ngoài những người có trách nhiệm trong bộ máy nhà nước, có thể được hiểu là từ những lĩnh vực cụ thể như an ninh- quốc phòng- ngoại giao- truyền thông cho đến cơ quan lãnh đạo cao nhất là Bộ chính trị.
Cứ tạm tin vào sự chân thành và cũng là sự dũng cảm của ông Nguyễn Thanh Sơn thì những phát biểu trên của ông cũng cho thấy một sự thật rằng sự chân thành, sự dũng cảm ấy vẫn còn rất thiếu ở những đồng chí của ông- như lời ông nói “các anh bên công an là cơ quan an ninh nhìn đâu cũng thấy gián điệp như bác sĩ nhìn đâu cũng thấy vi trùng”, hay “cái khó của chúng ta là tư duy, nhận thức của lãnh đạo các cấp khác nhau…”
Tóm lại, căn cứ vào phát biểu của ông Sơn thì trách nhiệm chính vẫn thuộc về “chúng ta” – mà nói cụ thể hơn phải là “Nhà nước ta”.
Mình nghĩ không phải chỉ là sự khác nhau trong tư duy, nhận thức của các cấp lãnh đạo mà phải nói thẳng ra là tình trạng trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Chỉ riêng việc này thôi cũng cho thấy rất rõ tình trạng này – đó là trong những ngày này, khi mà hết ông Nguyễn Thanh Sơn, ông Nguyễn Dy Niên, bà Tôn Nữ Thị Ninh và nhiều ông bà khác thuộc “phe thắng trận” lên diễn đàn nói về hòa giải, hòa hợp dân tộc, rằng cần phải gác lại quá khứ, quên đi hận thù, hướng đến tương lai, thì đồng chí Trần Bình Minh của “chúng ta” hàng ngày vẫn cứ cho nhà đài VTV phát đi phát lại những lời ca sắt máu đầy hận thù của một thời huynh đệ tương tàn - “ôi xương tan máu rơi lòng hận thù ngất trời…thúc giục lòng ta xung phong đi giết thù…”
Hận thù ngất trời như thế thì bao giờ mới có thể cởi bỏ hết được đây?








Cái chúng ta cần bây giờ là một lá cờ khác
Tôi tặng những dòng tâm tư này cho blogger AnhVu của Vũ Thị Phương Anh. Đọc những ký ức buồn của chị, tôi cảm thấy có chung một niềm đồng cảm sâu sắc với những người ở phía “Thua toàn tập”. Đó là nhân dân chứ chẳng phải một thế lực chính trị nào khác như có người từng nói. Và tôi, chị đều là những người thua cuộc.
30/4 – Với tôi, từ rất lâu đó chỉ là ngày nghỉ. Không phải tôi lãng quên những người đã chết trong cuộc chiến tranh này, cho dù họ là người lính hay dân thường, miền Nam hay miền Bắc. Hồi còn bé, tôi đọc “Hội chợ phù hoa” và nhớ một đoạn văn đại ý nói rằng, trong một cuộc chiến, khi người lính này đâm lưỡi dao vào ngực đối phương, thì cũng đồng thời đâm lưỡi dao đó vào ngực một người mẹ ở bên kia chiến tuyến. Thế nên tôi sớm có cái nhìn khác về những người ở “phía bên kia”. Thực lòng tôi vui mừng khi người ta nói sẽ không có tắm máu.
Chiến tranh kết thúc không có nghĩa là đau khổ đã chấm dứt. Nó rẽ sang một ngả đau thương khác. Đúng là không có tắm máu. Nhưng người ta không chết ngay bởi súng đạn, mà là chết từ từ. Cái chết này còn kinh khủng hơn nhiều. Sau này khi cuốn “Bên thắng cuộc” của nhà báo Huy Đức ra đời, một người bạn trên facebook đọc đến chương “Thăm nuôi” thì nghẹn ngào thốt lên: Ui! Bao nhiêu kỷ niệm đau thương ùa về. Tiếng kêu của bạn tôi như một vết cứa vào lòng.
Tôi có đọc một vài cuốn truyện như “Người có trái tim chó” của Nga, “Sống chết ở Thượng Hải”, “Báu vật của đời” của Trung Quốc, “chuyện làng Cuội” của Việt Nam. Dường như cách hành xử của người công sản ở nước nào cũng giống nhau cả. Tôi không lạ, nhưng chắc chắn không biết được hết, cũng không thể cảm nhận được những gì mà con người vẫn còn phải chịu đựng sau chiến tranh. Không có cách gì lý giải được việc sau chiến tranh, lòng người còn tan hoang hơn cả đất nước bị tàn phá bởi bom đạn. Không chỉ người miền Nam tiếp tục rời bỏ quê hương, mà người miền Bắc cũng ra đi.
Tôi không có ý định kể lại chuyện quá khứ. Nhiều người cũng đã muốn khép lại nó. Người ta nói nhiều hơn đến hòa giải hận thù giữa bên “Thắng” và “Thua”. Nhưng thực khó khi cả hai bên vẫn còn không ít nhiều người chưa thực sự mở lòng. Bên “Thua” nhất định giương lá cờ 3 sọc, đòi xóa bỏ chế độ cộng sản đang thống trị,. Bên “Thắng” tệ hơn, cứ gần đến ngày 30/4 hàng năm là toàn bộ hệ thống truyền thông lại ra rả ca ngợi “chiến thắng”.
Có người bảo, tôi chả thích cả cờ đỏ sao vàng lẫn cờ vàng ba sọc. Cái chúng ta cần bây giờ là một lá cờ khác. Tôi cũng nghĩ như vậy, cần có một màu cờ khác để dung hòa hơn là cứ ngồi tranh cãi nhau cho đến chết. Việc kẻ đang khua chiêng gõ mõ chưa hẳn là để khoe mẽ mà có khi chỉ là che giấu nỗi sợ hãi nào đó ở bên trong.
Đôi khi để hòa giải, người ta không cần cả những lời xin lỗi hay tha thứ ?








Thư tâm tình gửi các bạn chống cộng quá khích
Nhân đọc bài Trách nhiệm với non sông của ông Bằng Phong Đặng Văn Âu, tôi viết thư này muốn trao đổi, tâm sự với các bạn chống cộng quá khích, nếu bạn không phải là những người chống cộng quá khích thì không nên đọc
Tôi sinh trưởng ở một tỉnh miền Bắc, vào quân đội, ra chiến trường nhưng không tham gia đơn vị chiến đấu mà ở đơn vị hậu cần. Vì vậy tôi chưa hề bắn súng vào bất kỳ ai. Tuy nhiên, trong một đợt ném bom của không quân Mỹ tôi bị thương, không nặng lắm, được đi điều trị, khi trở lại đơn vị thì miền Nam đã giải phóng. Tóm lại, cuộc sống của tôi cũng bình thường như nhiều người khác. Vào mấy năm gần đây, gia đình tôi nằm trong diện phải giải phóng mặt bằng. Nói thế chắc các bạn biết rồi. Tôi gia nhập vào nhóm những người được gọi là dân oan, thường xuyên đến trước cổng cơ quan nhà nước đòi giải quyết quyền lợi mà chưa biết đến bao giờ mới xong.
Ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng, tôi làm quen với nhiều người dân oan khác, tìm hiểu hoàn cảnh của họ. Hóa ra không phải chỉ có gia đình tôi, quê tôi đang bị nhà nước cướp đất mà khắp nơi trong nước đang diễn ra tình trạng cướp đất, ngày càng tàn khốc, ngày càng trắng trợn. Tôi cùng với nhân dân bị oan khuất bắt đầu đấu tranh, giúp đỡ lẫn nhau trong cơn hoạn nạn. Thế rồi những người bạn dân oan của tôi hướng dẫn tôi sử dụng mạng vi tính. Cả một chân trời thông tin ào đến với tôi. Từ mạng, tôi biết có nhiều người đang đấu tranh đòi quyền dân chủ, tự do cho đất nước. Cuộc đấu tranh của dân oan được các bạn ở hải ngoại ủng hộ trên mạng. Quả thật chúng tôi rất mừng. Tôi còn biết thêm nhiều bạn trước đây đã vượt biển, chịu bao sóng gió, nguy hiểm để đến được một nước nào đó. Đến nay những người ấy đếu thành đạt, sống ở nước ngoài mà vẫn đau đáu nhìn về quê hương. Nhiều bạn lên tiếng đòi dân chủ cho nhân dân, tự do cho tổ quốc. Tuy nhiên, đọc thông tin trên mạng có một số bạn, nhiều người gọi là “chống cộng quá khích” tôi rất lấy làm tiếc. Tôi nghĩ tâm nguyện của các bạn chống cộng quá khích chỉ muốn mang lại những điều tốt đẹp cho đất nước chứ không hề định cản trở cuộc đấu tranh của nhân dân. Nhưng các bạn nóng lòng sốt ruột, đặt ra những yêu cầu “quá khích”, nếu ai không đồng ý thì các bạn tập trung “ném đá” dữ dội, vô hình trung làm hại nhiều người tích cực đang đứng trong mũi nhọn của cuộc đấu tranh.
Có một lần vào Huế, tôi nói chuyện với một người lái xe ôm. Tôi hỏi: Trước năm 75 anh làm nghề gì? Trả lời: Tôi đi lính ngụy! Tôi nói: Anh không nên nói thế, phải nói là gia nhập quân lực Việt Nam cộng hòa oai hùng. Oai hùng chứ không anh hùng. Một quân đội vứt súng chạy như vịt thì không thể gọi là anh hùng, tuy trong đó cũng có những người đáng gọi là anh hùng. Mà tại sao các anh lại vứt súng bỏ chạy thế? Trả lời: Vì chỉ huy chạy hết rồi còn đâu! Tôi nói: Không nói thế được đâu, nếu chỉ huy chạy thì sao anh không lên nắm quyền chỉ huy để tiếp tục chiến đấu? Phải xử bắn tại chỗ những tên chỉ huy hèn nhát, rồi vừa chiến đấu vừa binh vận, thuyết phục chúng tôi trở về bảo vệ đồng bào miền Nam mới phải chứ? Đến đây thì người cựu binh quân lực Việt Nam cộng hòa im bặt, không trả lời được nữa. Tôi hỏi tiếp: Anh có là sĩ quan không? Trả lời: Sĩ quan cấp thấp. Lại hỏi: Thế tại sao năm 75 anh không rút súng tự xử để bảo vệ lý tưởng? Lại im lặng.
Tôi hỏi tiếp: Các anh có biết vì sao mình thua không? Trả lời: Vì các anh giỏi hơn! Tôi nói: Không phải, anh nhầm lớn, chúng tôi không giỏi hơn các anh. Tôi là một cựu chiến binh miền Bắc, được đảng và nhà nước đào tạo, giáo dục, khi vào miền Nam tôi thấy trình độ chung của chúng tôi kém các anh nhiều. Các anh có học hơn, sống với nhau có tình, ứng xử rất có văn hóa. Chẳng hạn khi vào thành phố hỏi đường, anh em miền Nam chỉ đường nhiệt tình, vui vẻ, dễ mến, mặc dù lúc đầu chúng tôi khó chịu vì có anh để tóc dài. Lại trả lời: Vì bên giải phóng được viện trợ nhiều súng đạn hơn! Tôi nói: Anh lại nhầm, lúc ở chiến trường chúng tôi không nhiều súng đạn hơn các anh. Lại trả lời: Vì miền Nam bị Mỹ bỏ rơi, còn miền Bắc được Liên Xô, Trung Cộng chi viện. Tôi nói: Anh vẫn nhầm, thế anh có biết năm 1972 tổng thống Nixon sang thăm Trung Quốc, báo Nhân dân ở Hà Nội đăng bài xã luận cho rằng bị phản bội không? Năm 1972 Trung cộng bắt tay với Mỹ, bỏ rơi Việt Nam. Nói bị bỏ rơi thì chính miền Bắc mới là người bị bỏ rơi. Tôi nói thêm: Khi QĐND Việt Nam tiến đến Xuân Lộc, anh có biết là các chiến sĩ quân lực VNCH đã chiến đấu kiên cường tới mức QĐND VN phải né tránh đi vòng đường khác không? Điều đó nói lên rằng một bộ phận quân lực VNCH (đáng tiếc cho các bạn, chỉ có một bộ phận chứ không phải là toàn quân) đã chiến đấu xứng đáng là người lính trên chiến trường. Nếu toàn thể quân lực VNCH chiến đấu như thế thì hôm nay các bạn không phải hối hận, những người như chúng tôi không phải lấy làm tiếc cho các bạn, cũng là cho chính chúng tôi. Tổ quốc Việt Nam cũng khác chứ không phải như hôm nay!
Nhiều khi tôi tự hỏi: Vì sao quân lực VNCH lại thua trận và sụp đổ hoàn toàn được nhỉ? Khi người Mỹ rút quân, đã để lại cho miền Nam một số lượng vũ khí khổng lồ, rất hiện đại. Chẳng hạn, theo đài Sài Gòn lúc ấy, không quân VNCH đúng thứ ba trên thế giới về số lượng. QĐND VN không được viện trợ khẩn cấp, chỉ dùng những thứ đã được viện trợ từ trước, tức là không hơn gì về vũ khí. Ngày hôm nay rất nhiều bạn cựu chiến binh quân lực VNCH đổ lỗi cho việc thiếu vũ khí, rồi bị Mỹ bỏ rơi… tôi thấy không thuyết phục. Nếu không chỉ đúng nguyên nhân của thất bại thì các bạn không rút được kinh nghiệm và sẽ lại tiếp tục thất bại thôi.
Vậy vì sao quân lực VNCH thất bại, nói rộng hơn vì sao chính quyền VNCH thất bại?
Chính quyền VNCH thất bại vì thiếu yếu tố căn bản quyết định sự tồn tại của nó, cũng là yếu tố quyết định thắng bại của mọi cuộc chiến tranh: yếu tố nhân dân. Bây giờ các bạn thử nhìn lại cuộc chiến từ đầu. Vừa lên làm tổng thống VNCH ông Ngô Đình Diệm đã hô hào “Bắc tiến”. Thậm chí nhà thơ Vũ Hoàng Chương còn làm thơ cổ vũ: Hẹn một ngày mai về cố đô / Lưỡi lê no máu rửa Tây hồ… Sau đó ông Diệm tung nhiều toán gián điệp biệt kích ra miền Bắc nhằm gây dựng lực lượng. Nhưng tất cả các toán gián điệp biệt kích đều bị bắt, không một toán nào đứng chân trên miền Bắc được. Thậm chí công an miền Bắc còn lập chuyên án, tổ chức bắt giữ các toán mới thâm nhập để thụ vũ khí, vật dụng…Ngược lại, nhiều tốp cán bộ miền Bắc trở vào Nam, xây dựng các khu căn cứ để nhận vũ khí từ ngoài Bắc chuyển vào, phát động chiến tranh du kích. Tại sao Tổng thống Ngô Đình Diệm thất bại trong việc thâm nhập miền Bắc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lại thắng lợi trong việc cử cán bộ thâm nhập miền Nam. Đấy là vì Chủ tịch Hồ Chí Minh khai thác tốt yếu tố nhân dân. Đất nước nào thì nhân dân cũng là tập thể có nhiều thành phần. Có bộ phận nhân dân luôn ủng hộ chính quyền, có bộ phận khác thì chống chính quyền, và có bộ phận chỉ biết làm ăn, không tham gia vào các phong trào chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đã khai thác sự ủng hộ của bộ phận nhân dân ủng hộ ông ngay tại miền Nam, vì vậy tạo dựng được các căn cứ để chuyển quân từ Bắc vào Nam tiến công đánh đổ chính quyền VNCH. Vào đầu năm 1975 QĐND VN có thể đưa xe tăng tiến vào các thành phố lớn ở miền Nam. Thế xăng ở đâu để cấp cho xe tăng? Các bạn cứ hình dung công binh miền Bắc đã lắp đặt đường ống dẫn xăng dầu vào sâu trong đất miền Nam, áp sát ngay các thành phố. Vì sao công binh miền Bắc làm được điều đó? Vẫn là yếu tố nhân dân. Không có nhân dân, QĐND VN không đủ hậu cần cho cuộc tiến công, đương nhiên sẽ không có cái ngày 30/4/1975. Suôt cả cuộc chiến, quân lực VNCH có thể tấn công vào Căm-pu-chia, sang Lào nhưng chưa bao giờ tấn công ra miền Bắc. Vì sao vậy? Nếu tiến công ra Bắc để ngăn chặn chiến tranh từ gốc của nó thì sao? Các tướng lĩnh quân lực VNCH cho rằng quân miền Bắc xuất phát từ Căm-pu-chia tiến vào miền Nam nên tấn công sang để ngăn chặn từ xa, thế thì tại sao không tấn công tận gốc là miền Bắc? Lý do đơn giản vì nếu đổ quân ra Bắc thì chắc chắn thất bại. Kinh nghiệm cho thấy ngay việc tung các toán gián điệp biệt kích ra cũng không thành công, lấy cơ sở nào để nói tiến ra Bắc thắng lợi. Chúng ta lại thấy yếu tố nhân dân quyết định thắng bại trong cuộc chiến. Tôi có thể nói thêm: Tháng 4/1975, khi quân giải phóng tiến vào, người dân ở thành phố miền Trung bỏ chạy về phía Nam. Nếu giả định không phải là quân giải phóng tiến vào Nam mà là quân lực VNCH tiến ra Bắc thi cái gì sẽ xẩy ra? Chắc chắn nhân dân miền Bắc sẽ tiến hành chiến tranh du kích tại những vùng quân lực VNCH chiếm được. Nhân dân sẽ không bỏ chạy đâu, đó chính là nét khác biệt với tình hình ở miền Nam.
Sau ngày 30/4/1975, chính quyền cộng sản bắt đầu thực hiện các chính sách cải tạo xã hội. Bản chất các chính sách này là sai, không phù hợp với tiến trình phát triển của nhân loại. Nền kinh tế xuống dốc làm nhân dân cả nước sống trong đau khổ triền miên. Chính sách đổi mới nửa vời tuy có làm đời sống thay đổi chút ít nhựng Việt Nam vẫn ngày càng tụt hậu so với các nước láng giềng. Đến lúc toàn khối XHCN Đông Âu sụp đổ thì đảng cộng sản Việt Nam mất chỗ dựa chính trị, bí bách phải bám vào Trung Quốc. Đây là chỉ dấu cho chúng ta biết các nhóm lợi ích điều khiển đảng cộng sản đã tách khỏi nhân dân. Kể từ đó các nhóm lợi ích giành giật nhau quyền lãnh đạo, chà đạp lên toàn thể nhân dân, vơ vét biến của chung thành của riêng nhóm lợi ích. Biểu hiện bề mặt của chuyện này là các chính sách cướp đất, rửa vàng… Nhóm lợi ích đã trở thành giặc nội xâm tàn bạo nhất trong lịch sử 4000 năm dựng nước của dân tộc ta. Có áp bức thì có đấu tranh. Nhân dân bị áp bức nhiều tỉnh thành đấu tranh, nổi bật nhất là chống cướp đất. Cuộc đấu tranh của nhân dân, đặc biệt là dân oan toàn quốc đã và đang thức tỉnh ngay cả những đảng viên cộng sản lão thành, có nhiều năm cống hiến cho đảng. Đây là cuộc đấu tranh mà một bên là các nhóm lợi ích trong đảng cộng sản Việt Nam, một bên là toàn thể nhân dân Việt Nam, trong đó có cả các đảng viên trung kiên của đảng. Chúng ta cần đoàn kết toàn bộ những người yêu nước, yêu nhân dân, không kể đến quá khứ của họ. Những đảng viên “trung kiên”, “chân chính” của đảng cộng sản, nếu đứng về phía nhân dân thì cần được hoan nghênh, ủng hộ. Không nên đề ra những yêu cầu quá khích cho bất cứ ai, nhằm đoàn kết rộng rãi nhất với mọi người. Chúng ta đấu tranh không phải để “xả giận” cho thất bại trước đây, không phải để “trả thù” kẻ áp bức chúng ta, cho dù những kẻ áp bức ấy thực sự mất hết tính người. Chúng ta đấu tranh nhằm xây dựng một xã hội dân sự trên nước Việt Nam này, ở đó ai cũng được tự do, bình đẳng trước pháp luật, được quyền sống và mưu cầu hạnh phúc.
Tôi có lúc đã ngưỡng mộ, thán phục một số người chống cộng như Nguyễn Khoa Nam, Lý Tống… Nghe tin Lý Tống cưỡi lên máy bay, rải truyền đơn giữa Sài Gòn tôi hết sức thán phục. Đấy là hành động anh hùng giữa đời thường. Nhưng khi nghe chuyện Lý Tống xả thuốc mê vào ca sĩ Việt cộng trên sân khấu thì hình ảnh Lý Tống đã chết trong tôi. Lý Tống anh hùng đã trở thành Lý Tống côn đồ, vô văn hóa. Người ta không thể chống bọn vô văn hóa bằng hành động vô văn hóa, thiểu năng trí tuệ. Nhiều trang mạng ở nước ngoài dùng những từ ngữ như “bưng bô cộng sản” tự làm xấu đi hình ảnh những anh hùng chống cộng trong mắt tôi (ăn nói kiểu gì mà… mất vệ sinh thế?). Vậy thật ra các bạn là ai? Các bạn là những người anh hùng lỡ vận muốn cứu nhân dân đang chìm trong ách thống trị tàn bạo của nhóm lợi ích trong đảng cộng sản hay các bạn chỉ là đám đầu gấu bị mất quyền lợi muốn chiếm lại vị trí ăn trên ngồi trốc trước kia? Các cụ ta dạy: Người thanh ăn nói cũng thanh, các bạn hãy tỏ ra là những người hơn hẳn về văn hóa, có đũng khí, thông minh nhưng chưa gặp vận. Bây giờ là lúc vận nước đang đến, các bạn hãy dùng kinh nghiệm, khả năng của mình để giúp nhân dân vượt qua cơn bĩ cực, tên tuổi các bạn sẽ được người sau mãi mãi nhớ đến, biết ơn.
Tôi nhớ đến đêm 23/4/2012. Đấy là đêm mà nhiều anh em chúng tôi đã đến cánh đồng huyện Văn Giang, Hưng Yên, cùng nhân dân đốt lửa chờ đám giặc nội xâm đến cướp đất. Có người ở ngay trên cánh đồng với nhân dân, có nhóm “phục kích” ở xã bên, nếu giặc nội xâm cướp đất ban đêm thì sẽ chi viện nhân dân bằng đòn đánh úp từ phía sau lưng chúng. Chúng tôi là cựu chiến binh, có người là biệt động mà. Rồi chúng tôi bàn đi bàn lại: Có dùng vũ khí chống cưỡng chế hay không? Vì là các cựu chiến binh, nếu cần vũ khí thì chúng tôi sẽ có vũ khí. Nếu dùng vũ khí nghĩa là có người chết, nghĩa là sẽ có đàn áp khốc liệt, phần thiệt sẽ thuộc về nhân dân. Đến tận lúc trời mờ sáng mới đi đến quyết định: Đấu tranh hợp pháp, bảo toàn sinh mạng cho cả hai bên, bên bị cưỡng chế và bên đi cưỡng chế. Cần phải tận dụng tất cả tiếng nói của nhân dân, của các đảng viên cộng sản còn lương tri để chặn bàn tay tội ác của nhóm lợi ích tại Văn Giang. Để xây dựng một xã hội dân sự lành mạnh, chúng ta phải học theo cụ Nguyễn Trãi: Dùng đại nghĩa thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Đất nước đang trong những năm tháng khó khăn, rất cần sự hỗ trợ từ nhiều phía, và tôi tin các bạn là những người đại nghĩa, chí nhân, sẽ có phương thức hiệu quả giúp nhân dân trong lúc khó khăn này.
Nguyễn Thành Công, cựu chiến binh QĐND Việt Nam








April 29, 2013
Tự do báo chí ở Việt Nam và Miến Điện

Một sạp bán báo vỉa hè Sài Gòn
Trong hai năm vừa qua Miến Điện đã có những bước đi ngoạn mục trên tiến trình dân chủ hóa. Một điểm trọng yếu của tiến trình dân chủ hóa ấy chính là tự do ngôn luận. Trong tháng tư này, khi Việt Nam vẫn còn loay hoay với Hiến pháp của chính mình thì Miến Điện đã có báo chí tư nhân.
ĐCS còn nắm quyền…
Miến Điện là một quốc gia hiện thời nghèo hơn Việt Nam, có cùng quá khứ thuộc địa, chiến tranh độc lập và nền kinh tế đóng cửa như Việt Nam. Tuy nhiên quốc gia này trong hai năm qua đã có những thay đổi rất lớn. Tháng tám năm 2012, Miến Điện hủy bỏ việc kiểm duyệt báo chí, đầu tháng tư năm nay, hàng lọat tờ báo tư nhân được phát hành. Báo Tuổi trẻ, một tờ báo có số phát hành hàng đầu ở Việt Nam đã đưa tin về sự kiện báo chí Miến Điện được tự do, tờ này còn trích lời một nhà báo Miến Điện là mừng rơi nước mắt. Các nhà báo Việt Nam đón nhận tin này bằng những thái độ khác nhau.
Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh, từng làm cho tờ Thanh Niên, một nhật báo lớn trong nước, ông cũng được Tổ chức phóng viên không biên giới trao giải Netizen năm nay cho họat động blog của mình, ông nói,
Sự thay đổi ở Miến Điện làm phấn khởi người Việt Nam. Ở Việt Nam thì cái gì cũng có ghi trên giấy tờ hết, nhưng trong thực tế không thế. Chắc chỉ có Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên gọi là có tự do báo chí mà lại nằm trong tay nhà nước hết. Điều đó gây ra sự ngộ nhận là có tự do. Không có tờ báo nào ngòai đảng cả.
Ông cũng nói về sự cần thiết của báo chí tư nhân như sau,
Vừa rồi báo Quân đội nhân dân nói là không cần báo tư nhân. Không có báo chí tư nhân thì làm sao có góc nhìn khác được.
Một nhà báo khác là Trương Duy Nhất, cũng là chủ nhân của blog tên là Một góc nhìn khác, thì nói về quyền tự do ngôn luận,
Tự do ngôn luận là điều rất cần thiết. Đó là một trong những quyền cơ bản.
Anh cũng nói về sự hao tiền tốn của của nền báo chí Việt Nam hiện đang do đảng cộng sản kiểm sóat hòan tòan, cũng như hiệu ứng tích cực của các trang thông tin do các blogger làm trên không gian Internet:
Bao nhiêu tiền của nhân dân bỏ vào Thông tấn xã nhưng có ra cái gì đâu. Những trang như Bauxite Ba Sàm gây những hiệu ứng tích cực. Các tờ như Nhân dân phát cho cán bộ thì họ cũng để mạng nhện bám đầy thế thôi.
Trang của tôi so với tờ Nhân dân, tờ báo gọi là chính thống của cái đất nước này hay trang của đảng cộng sản thì nó đứng hơn cả nghìn bậc.
Nhà báo Hùynh Ngọc Chênh cũng có ý kiến về việc phát triển thông tin thông qua Internet,
May là nhờ có Internet, tạo điều kiện cho nhiều blogger đấu tranh cho một nền báo chí tự do, nhiều người có thể nói lên ý kiến mà không được báo chính thống đăng, tuy thế cũng bị hạn chế.
… thì không có tự do báo chí
Đây cũng là ý kiến của một nhà báo nước ngoài gốc Việt là Andrew Lâm khi nói về tự do ngôn luận ở Việt Nam, anh nói rằng không gian Internet giúp cho người dân ở các nước như Trung Quốc hay Việt Nam, nơi có sự kiểm duyệt gắt gao báo chí, được phát biểu ý kiến của mình.
Nhà báo Hùynh Ngọc Chênh gắn liền sự tự do báo chí với những cải cách chính trị khi ông so sánh sự cải tổ chính trị tại Miến Điện với hiện tình Việt Nam:
Nhưng có lẽ những nhà lãnh đạo Miến thực lòng với đất nước của họ hơn. Chấp nhận đảng đối lập, chấp nhận tự do báo chí. Khi chấp nhận báo chí tự do là chấp nhận thực tình.
Và theo ông thì tự do báo chí ở Việt Nam sẽ có Khi điều 4 của Hiến pháp thay đổi thì có sự tự do báo chí.
Còn nhà báo Trương Duy Nhất thì nói Cái đời tôi chắc không hy vọng.
Anh cho rằng có sự khác nhau về bản chất của các tiến trình chính trị xã hội ở Miến Điện và Việt nam,
Miến điện không phải là mở cửa mà thay chuyển tòan bộ, tận gốc. Miến điện đi chậm nhưng thay đổi căn cơ, thay đổi về tư tưởng.
Lý do của sự thay đổi khác nhau giữa hai quốc gia, thì theo nhà báo Hùynh Ngọc Chênh chính là sự thống trị của lý thuyết cộng sản cũng như bộ máy của đảng cai trị,
Sự đặt ra bộ máy Đảng làm mọi thứ làm sự thay đổi khó hơn. Ở Míến nhóm quân nhân không bị ràng buộc bởi một lý thuyết nào nên có lẽ vì thế sự thay đổi dễ dàng hơn.
Chúng tôi cũng đã đặt những câu hỏi tương tự với hai nhà báo khác, của hai cơ quan truyền thông lớn của nhà nước việt Nam. Người thì từ chối trả lời với lý do ông là đảng viên nên không được tự ý trả lời phỏng vấn, người kia thì viện lẽ đây là một vấn đề nhạy cảm nên không phát biểu.
Như vậy tự do ngôn luận ở Việt Nam đã được he hé mở trên không gian mạng. Còn lĩnh vực báo giấy thì đảng cộng sản vẫn nắm chặt. Một nền báo chí tư nhân nhiều sắc màu đa chiều vẫn là niềm mơ ước của các nhà báo hăng hái cổ vũ cho tự do ngôn luận như Trương Duy Nhất và Hùynh Ngọc Chênh, cho tới khi nào các nhà lãnh đạo đảng cộng sản thực lòng thay đổi như các đồng nghiệp bên xứ chùa Vàng.








Đâu rồi thành quả của Cách mạng tháng tám?
Đoàn Vương Thanh
Tôi viết bài này giữa ngày 30-4, kỷ niệm 38 năm ngày hoàn toàn giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhưng tôi chưa dám đề cập đến
những vấn đề “nóng hổi” trong sự nghiệp thiêng liêng ấy, chỉ dám
nói về một khía cạnh mà chính Đảng lãnh đạo nhiều năm đã thi hành, có
ưu có khuyết, thậm chí phải đổi bằng cái chết của hàng nghìn đảng viên
và cán bộ, quần chúng ưu tú. Đó là việc thi hành một cách giáo điều,
tả khuynh, chủ quan, độc đoán lý thuyết của “ai đó” không phải
người nước mình, tiến hành cuộc “đấu tranh giai cấp” rất khốc liệt, để
lại những hậu quả cũng rất năng nề, mà trong lịch sử phát triển của
dân tộc, các nhà sử học và nhân dân ta không thể quên !
Cuộc đấu tranh giai cấp dai dẳng, khốc liệt ấy kéo dài từ khi Đảng có Luận cương chính trị đầu tiên, dưới ngọn cờ “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại !” và “Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại”. Nhiều tác phẩm lý luận về đấu tranh giai cấp được in, phát hành và làm tài liệu hướng dẫn trong các lớp bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho đảng viên, cán bộ, nhất là nó được áp dụng vào thực té cuộc sống, vào nhiều cuộc vận động “long trời lở đất” làm điêu đứng không biết bao nhiêu gia đình, bao nhiêu tầng lớp, bao nhiêu đảng viên cán bộ, trung kiên và làm thui chột bao nhiêu nhân tài của đất nước, như những người đứng tuổi và các lão ông lão bà còn nhớ rõ, chứ đối với lớp trẻ còn đi học hiện nay thì phải có sự giáo dục phân tích kỹ lưỡng thấu tình đạt lý thì các cháu mới có thể hiểu được.
Đã gần 40 năm ( từ 30/4/1975), nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong khi bản chất của Đảng ngày càng thoái hóa, như có người đã nói “đảng viên nhan nhản, cộng sản thì không”, xây dựng “chế độ mới” không mới chút nào, lại còn có thể là độc tài toàn trị, điều mà Đảng vô cùng căm ghét chống lại. Bốn mươi năm qua, thực tế đất nước ta, cứ nói thật nhiều, nói thật to, tốn kém tiền củanhân dân để tuyên truyền, song kết quả thường được ít, rất ít hoặc ngược lại không được gì.
Ví dụ, ta “khuếch trương” ghê gớm kết quả “xóa đói giảm nghèo”, nhưng nhiều vùng, nhiều đối tượng nhân dân, và các cụ già em bé nhiều chưa được ăn no, chưa được mặc ấm, học hành nhếch nhác khổ sở. Nhiều vị lãnh đạo cao của ta khi nghe và thấy tình cảnh ấy đã cảm động rơi nước mắt, nhưng sau khi các vị ấy lên xe về nhiệm sở thì mọi việc lại đâu đóng đấy. Người ta có thể bỏ ra (lấy được ở đâu mà bỏ ra ?”) hàng chục, hàng trăm tỷ xây biệt thự riêng, xây nhà thờ tổ này nọ, những lại không dám ký duyệt kinh phí xây dựng một cái cầu nhỏ bắc qua sông cho trẻ em đi học. Bên trên có quyết trợ cấp hàng tháng cho các cháu nội trú ở vùng này vùng khác, những mãi 6 tháng một năm, tiền chưa được rót về. Đói thì nhịn một bữa còn khó đằng này cứ phải chờ “ơn mưa móc” từ phương trời xã xôi nào ấy.
Còn một tầng lớp “đặc quyền đặc lơi” không mất mấy
chất xám, không cần đầu tư trí tuệ và kết quả học vấn, chỉ là đầu tư
luồn lọt, dựa thế, vây cánh, “lợi ích nhóm”, miệng thì luôn “cách
mạng” luôn “liêm khiết”, luôn “chí công vô tư” nhưng trong hành động
thì không từ một thủ đoạn nào, từ bản thân, từ con cháu, từ anh em, từ
vây cánh…tìm mọi cách vơ vét, bòn rút ngân sách, của cải của nhân
dân, tham nhũng vô vàn để giầu lên, được đứng trong đội ngũ những
người giầu có ở Việt Nam. “Đảng cho phép làm giầu, tôi là đảng viên
phải chấp hành nghị quyết của Đảng, có chút xíu dành lại cho con
cháu…” Họ còn giầu lên từ cơ chế, chính sách, từ cho phép trả lương
ngất ngưởng, cho phép “buôn lậu” vàng, buôn lậu xăng dầu, cho phảy
phết nâng cao không ngừng giá bán điện…Tất cả giá cả các mặt hàng
thiết yếu chỉ có tăng mà ít khi có giảm hoặc tăng tiền nghìn, giảm
tiền đồng…
Độ mười năm qua, tầng lớp cán bộ xã, thôn ở quê tôi được quy hoạch vào “Khu công nghiệp” dựa vào chuyển nhượng đất đại cho doanh nghiệp công nghiệp dịch vụ nhằm tiến lên công nghiệp hóa, ai cũng có một vài xuất đất mua giá 50 triệu bán 750 triệu, 800 triệu thậm chí một tỷ đồng/100-150 mét vuông tùy theo địa hình, địa mạo. Trong khi đó, lương phần cứng của nhiều “sếp” hàng mấy trăm triệu một tháng, còn công nhân “giai cấp lãnh đạo” làm việc tại các công ty nhà máy hầu hết do tư nhân đầu tư xây dựng chỉ từ 3 triệu đến 4 triệu đồng.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, nhờ có “khoán” đến hộ nông dân và cởi trói nhiều mặt nên sản xuất thường là đủ ăn, nhưng bây giờ lại bị thu hồi hết đất, họ loay hoay kiếm ăn từng bữa toát mồ hôi. Một trăm thứ nghề được phát triển, kể cả làm cái nghề “bán trôn nuôi miệng” hoặc là xin đi lấy chồng hoặc làm ô-xin ở Hàn Quốc, Đài Loan và nhiều nơi khác. Dân Việt Nam bây giờ được tham gia xây dựng “chủ nghĩa xã hội” mà nhiều người còn khổ như trâu, ngựa…
Tự nhiên đời sống giầu nghèo sinh ra những tầng lớp, những giai cấp khác nhau, có giai cấp quý tộc mới, địa chủ mới, tư bản đỏ thì tất nhiên có giai cấp công nhân làm thuê, có tầng lớp cán bộ đè nén ức hiếp dân, có người giầu khinh người nghèo, thậm chí cậy có của áp bức người nghèo. Nghèo sinh ra trộm cướp, vào “xã hội đen”, phạm tội không có tiền chạy chọt thì cứ việc ngồi bóc lịch. Thế cho nên, biết là “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” nhưng có người hết hạn tù được tha lại xin ở lại trại vì về nhà vợ đã bỏ, con đi bụi đời, nhà cửa không có, nghề nghiệp không, lấy gì mà sống- “cứ cho em ở lại trại làm chân quét dọn cũng được miễn là có ngày hai miếng cớm ăn !” Chao ôi thật cám cảnh !
Ngày xưa, ta có tiêu chuẩn quy định thế nào là giầu, thế nào là nghèo. Ngày nay, ta có nên khôi phục lại cái tiêu chuẩn ấy không ? Giầu nghèo sinh ra giai cấp. Ở ta đa phần giầu có do tham ô, tham nhũng, buôn lậu, lừa lọc mà có; Đa phần nghèo không do lười biếng, không biết làm ăn mà bị bóc lột bị trấn lột bị ăn cướp. Cuộc Cách mạng tháng tám là để giành lại công bằng bác ái cho nhân dân, xóa bỏ bóc lột và người cày có ruộng... 65 năm qua thành quả cuộc Cách mạng ấy đã biến mất không còn dấu tích. Đó là một sự thật.
Đề thực hiện khẩu hiệu “công bằng, dân chủ văn minh”, hãy khoan nói đến : “dân chủ”, “văn minh” mà chỉ nói đến “công bằng” thôi, liệu chúng ta có nên tiến hành một cuộc “đấu tranh gia cấp” trong tình hình mới nữa hay không?
Tác giả gửi cho Quê Choa
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả








Suy nghĩ về vai trò của trí thức hôm nay
Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cương thường nặng núi sông
(Phan Văn Trị)
Sau hôm Nguyễn Chí Đức bị đánh (do đi dự phiên toà “công khai” xử Đoàn Văn Vươn), tôi gọi điện hỏi thăm. Dù đang bị đau cả thể xác lẫn tinh thần nhưng Chí Đức chỉ nói qua về mình, còn chủ yếu anh đề cập các vấn đề của đất nước với một nỗi lo lắng khôn nguôi. Cuối cuộc nói chuyện, Chí Đức buồn bã bảo tôi: “Em sợ rằng trong khoảng 5 năm nữa, lớp các bác nhân sỹ, trí thức lớn hôm nay sẽ vãn đi hoặc là đã quá già mà không có lớp kế tục. Nếu chỉ có những người như bọn em thì dầu có hăng hái cũng chẳng mấy tác dụng”.
Nỗi lo của Chí Đức cũng là nỗi lo của tôi. Thực ra thì đội ngũ trí thức có tinh thần phản biện, đóng góp vào công cuộc tiến bộ xã hội và bảo vệ đất nước vẫn không ngừng tăng lên, nhưng những người có uy lực thì vẫn là số ít. Ấy là những bậc trí thức vốn trước đó có một vị thế nhất định ở “lề phải”. Khi tham gia “lề trái – lề dân”, họ có sức mạnh riêng, nhưng họ lại phải hai lần dũng cảm để bước qua: trước khi chấp nhận những phiền toái, tai ương đến với mình, họ phải chấp nhận từ bỏ hầu hết những bổng lộc đã có.
Cho nên ngoài số vẫn đang trong cơn mê dài (mê danh, mê lợi, mê quyền lực, mê bổng lộc bề trên) đáng khinh bỉ, thì thật cũng khó mà trách những người biết cả nhưng lẩn tránh trách nhiệm xã hội, rút vào “tháp ngà khoa học” hoặc phiêu du tháng ngày.
Cũng từ vấn đề Chí Đức đặt ra, tôi bất giác nghĩ đến tình huống nếu bây giờ Trung Cộng tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược thì liệu dân tộc này đã chắc gì làm được một cuộc kháng chiến như triều Nguyễn nửa cuối thế kỷ XIX? Cuộc kháng chiến ấy, theo hình dung của nhà thơ Bế Kiến Quốc:
Thuở ấy non sông lâm trận giặc
Pháo mã bâng khuâng lạc thế cờ
Vua thì nhu nhược, triều đình nát
Lòng ai trung nghĩa hoá bơ vơ.
Thực tế thuở ấy, tuy rằng vua (Tự Đức) nhu nhược, tuy rằng kháng chiến một cách cầm chừng nhưng vẫn còn là kháng chiến. Đặc biệt thuở ấy có tầng lớp văn thân, sỹ phu là linh hồn của cuộc chiến tranh giữ nước, dù có thể không trực tiếp tham gia đánh giặc.
Đốc học Nam Định Phạm Văn Nghị (1805 – 1880) vốn sức yếu nhưng nghe tin Pháp đánh Đà Nẵng (1858), đã tự chiêu mộ trong đám học trò và thanh nhiên yêu nước được một đội quân 300 người xin vua đi chiến đấu. Vào đến Huế thì quân Pháp đã rút khỏi Đà Nẵng, vào đóng quân ở Gia Định; ông lại xin vào Gia Định nhưng Tự Đức bắt ông trở về (vì triều đình đang muốn “hoà” với giặc Pháp).
Trương Định (1820 – 1864) vốn chỉ là một quản cơ đồn điền – một chức nhỏ trong quân đội làm nhiệm vụ chiêu mộ dân nghèo đi khai hoang, gặp lúc đất nước có giặc đã tự chiêu mộ được 6000 nghĩa binh, đánh địch suốt vùng Gò Công – Tân An. Khi triều đình Huế ký hoà ước Nhâm tuất (1862), yêu cầu ông bãi binh, ông đã nói một câu nổi tiếng: “Triều đình Huế không nhìn nhận chúng ta, nhưng chúng ta cứ bảo vệ Tổ quốc chúng ta”[1].
Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) là nhà thơ chiến sỹ vẫn còn phảng phất hào khí Đồng Nai thời đi mở đất. Suốt từ những ngày đầu Pháp đánh Gia Định cho đến khi vua Hàm Nghi bị bắt (1888), thơ văn ông là nguồn cổ vũ to lớn đối với cuộc chiến đấu của nhân dân Lục tỉnh.
Phan Văn Trị (1830 – 1910) đỗ đạt, tài cao nhưng gặp buổi loạn không ra làm quan, ở nhà dạy học và bốc thuốc, đồng thời chiến đấu bằng ngòi bút trong cuộc Nam Kỳ kháng chiến. Ông nổi tiếng với 10 bài hoạ để đập lại Tôn Thọ Tường – một trí thức có tài nhưng thân Pháp, tuyên truyền cho tư tưởng đầu hàng.
Hoàng Diệu (1828 – 1882) là một quan văn, nhưng ngay khi nhận chức tổng đốc Hà Nội (1880) đã ra sức lo bố phòng, chuẩn bị đánh giặc. Trong cuộc giữ thành ngày 25-4-1882, ông là người trực tiếp chỉ huy chiến đấu cho đến khi vỡ trận (trong khi các quan võ dưới quyền ông bỏ chạy ngay từ phút đầu). Trước khi thắt cổ tự tận, ông để lại bức Di biểu đầy huyết lệ: “Thành mất không sao cứu được, nghĩ thẹn với nhân sỹ đất Bắc lúc sinh thời. Thân chết có quản gì, nguyện theo Nguyễn Tri Phương xuống đất”.
Nguyễn Trường Tộ (1830 – 1871) vừa là nhà Nho, vừa là một người Công giáo, một người hiểu biết thế giới phương Tây, cho nên liên tiếp đưa ra các kiến nghị nhằm chấn hưng đất nước. Nếu vua Tự Đức nghe theo ông thì không những nước ta thoát khỏi cuộc nô dịch của thực dân Pháp, mà có thể thoát cả đêm trường trung cổ[2]. Làm phiên dịch trong các cuộc đàm phán giữa triều Nguyễn với thực dân Pháp, nắm rõ tình hình quân Pháp, lại nhằm đúng lúc Pháp bối rối trong chiến tranh Pháp – Phổ (1870 – 1871), ông đã vạch ra kế hoạch đánh úp Gia Định để lấy lại Nam Kỳ, nhưng tiếc rằng kế hoạch chưa được duyệt thì ông mất.
Nguyễn Lộ Trạch (1853 – 1895), cũng giống như Nguyễn Trường Tộ, luôn luôn đưa ra kiến nghị mong triều đình Huế thực thi cải cách. Trong Thời vụ sách (Kế sách đối với thời cuộc), ông đề ra một loạt biện pháp cấp bách để phòng thủ và phát triển đất nước, trong đó có việc đưa con em tài giỏi ra nước ngoài học khoa học thực nghiệm và cơ khí phương Tây, mở rộng ngoại giao với các nước châu Âu, nhất là Đức và Anh để kiềm chế Pháp. Trong khi triều Nguyễn cứ loay hoay lo đi chuộc lại Lục tỉnh (Nam Kỳ) thì theo Nguyễn Lộ Trạch, Lục tỉnh có thể lấy lại nếu thế nước mạnh lên và nhất là từ nay đừng để xảy ra sự việc như Lục tỉnh nữa.
Sơ qua một vài gương “trung nghĩa hoá bơ vơ” như trên để thấy cái không khí bi thương nhưng anh dũng của dân tộc ta thời ấy, đồng thời cũng thấy rằng họ không hẳn đã “bơ vơ”. Phải nói rằng, dù vua quan nhà Nguyễn hèn nhát, từng bước bán rẻ cơ đồ cho ngoại bang, nhưng nhân dân và văn thân, sỹ phu ta đã làm cho thực dân Pháp phải lao đao khốn đốn. Chúng phải mất 25 năm (1858 – 1883) mới cơ bản chiếm xong nước ta và sau đó còn phải mất gần 30 năm nữa để “bình định”. Bởi sau khi nhà vua 14 tuổi Hàm Nghi xuất bôn và xuống chiếu Cần vương (1885) thì cả nước lại bùng lên một phong trào kháng chiến sôi nổi, mạnh mẽ chưa từng thấy, kéo dài cho đến tận những năm cuối cùng của thế kỷ XIX.
Các văn thân, sỹ phu thuở ấy đều xuất thân Nho học. Tuy rằng học thuyết Nho giáo đến lúc này đã trở nên bảo thủ, bất cập với thời đại, nhưng bù lại, ý thức trách nhiệm với đời do Nho giáo hun đúc cộng với lòng yêu nước nồng nàn đã cho họ tầm vóc của những người trượng phu của thời đại. Nhiều văn thân, sỹ phu đã hy sinh một cách lẫm liệt vì nghĩa lớn.
Còn bây giờ? Cứ tình hình này mà không được cải thiện thì khi Trung Cộng tấn công, kịch bản diễn ra sẽ hết sức tồi tệ, thậm chí chúng ta hôm nay có thể rất đáng xấu hổ với hậu thế. Tôi hình dung đó là cái cảnh trên “thượng tầng” thì “Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng”, còn bên dưới thì binh lính hoang mang, lòng dân ly tán. Lấy đâu ra những Trương Định, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng, Nguyễn Quang Bích,…?
Tất nhiên, ngày nay nếu “non sông lâm trận giặc” thì các nhân sỹ, trí thức không có lợi thế như các văn thân, sỹ phu thời trước: tất cả đều tay không tấc sắt. Chỉ có “ba tấc lưỡi” làm vũ khí duy nhất. Nhưng “ba tấc lưỡi” ở vào những tình thế khẩn cấp nhiều khi cũng không còn giá trị. Vậy thì phải làm gì? Câu trả lời là phải tích cực khai dân trí từ bây giờ. Phải cho đông đảo nhân dân ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình đối với đất nước. Cách đây hơn 100 năm, Cụ Phan Bội Châu đã viết: “Nước vốn là gia tài của dân ta. Có cái gia tài không gì lớn bằng như thế, có một tổ nghiệp vô lượng vô biên như thế, mà ta nỡ bỏ hoang như ruộng đá (…) đem hết trách nhiệm mất còn của nước gửi gắm cho một số rất ít người, nào vua nào quan kia. Giặc đến chỉ hỏi vua và quan, còn ta chỉ nhởn nhơ trong cái vũng danh lợi của loài sên loài nhặng, vui thú trong cái chốn dục vọng ăn uống gái trai. Đến nỗi hỏi có nước không, nước còn không lại cứ mơ mơ màng màng không biết trả lời ra sao”. Xem thế thì đa số dân ta ngày nay “cổ hủ” biết bao khi vẫn nghĩ “đã có Đảng và Nhà nước lo”.
Cũng có một điều mừng là các bác trí thức – quan chức cũ đứng về phía “lề trái – lề dân” vẫn tiếp tục đông lên, trong đó có cả những “danh” lớn: Nghệ sỹ Kim Chi, TS. Nguyễn Đình Lộc (nguyên Bộ trưởng Tư pháp), Thiếu tướng công an Phạm Chuyên (nguyên Giám đốc Công an Hà Nội), nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (nguyên Uỷ viên Bộ chính trị, Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương Đảng),… Chẳng có ai vận động được các bác cả. Mà chẳng qua là sự phản tỉnh, để rồi cuối cùng trở về với nhân dân, với dân tộc. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có những vần thơ thật da diết, đặc biệt bài thơ mới đây: Đất nước những tháng năm thật buồn.
– Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
Trong không gian đầy sợ hãi?
– Bây giờ lá cờ trên cột cờ Đại Nội
Có còn bay trong đêm?
Sớm mai còn giữ được màu đỏ?
Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng
Mong gặp một con cá hanh khác?
Giá như sự phản tỉnh ấy đến với cả những người đương chức? Thì đất nước lo gì không có những Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng,…?
Non sông cứ mỗi ngày lại “lâm trận giặc” (cả “nội xâm” và ngoại xâm) sâu hơn.
Trước mắt, một mùa hè lại đang đến. Chẳng biết hè này Trung Cộng sẽ giở những chiêu trò gì nữa để tiếp tục áp chế chủ quyền của ta? Nhưng có một điều biết trước: Dù Trung Cộng ngang ngược đến đâu, Đảng và Nhà nước ta vẫn chủ trương “kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam với tinh thần không để sự việc tái diễn” như tướng Nguyễn Chí Vịnh đã hứa với Trung Cộng hồi mùa thu 2011, sau khi có hàng loạt cuộc biểu tình vào mùa hè năm ấy.
Và nhiệm vụ lại đặt trên vai các vị nhân sỹ, trí thức. Làm gì đây? Kiến nghị? – Không ai nghe. Biểu tình? – Bị cấm ngặt. Nhưng chẳng nhẽ bó tay? Không thể bó tay, bởi vì:
Một gánh cương thường nặng núi sông.
ĐTT
—————–
[1] Trong các sách giáo khoa ngày trước câu này là : “Triều đinh nghị hoà thì cứ nghị hoà, Định không nỡ ngồi nhìn giang sơn chìm đắm”.
[2] Trong Thiên hạ đại thế luận, những điều kiến nghị nhà nước phong kiến của Nguyễn Trường Tộ thật gần gũi chúng ta hôm nay. Ví dụ đoạn sau đây:
“Hiện nay tình hình trong nước rối loạn (…) tiền của sức lực của dân đã kiệt quệ, việc cung ứng cho quân binh đã mệt mỏi, trong triều đình quần thần chỉ làm trò hề cho vui lòng vua, che đậy những việc hư hỏng trong nước, ngăn chặn những bậc hiền tài, chia đảng lập phái khuynh loát nhau, những việc như vậy cũng đã nhiều; ngoài các tỉnh thì quan tham lại nhũng xưng hùng xưng bá tác phúc tác oai, áp bức tàn nhẫn kẻ cô thế, bòn rút mỡ dân, đục khoét tuỷ nước, việc đó đã xảy ra từ lâu rồi. Những kẻ hận đời, ghét kẻ gian tà, những kẻ thất chí vong mạng, phần nhiều ẩn núp nơi thảo dã, chính là lúc Thắng, Quảng sẽ thừa cơ nổi dậy. Thế mà sao đối ngoại thì không có cách nào để động đến một mảy may lông của quân Pháp, cũng chẳng thuyết phục được ai để giải vây cho, lại đi tàn sát dân mình, giận cá chém thớt, khiến cho dân bị cái hại “cháy nhà vạ lây”. Thật đúng như câu nói: “đào ao đuổi cá”, “nối giáo cho giặc”. Cây cối trước hết tự nó hủ mục sau mới bị sâu đục; nước mình trước hết không biết tự giữ thể diện thì người ta mới khinh mình; dân loạn bên trong, rồi kẻ địch mới nhân đó mà vào. Như thế loạn không phải chỉ từ bên ngoài mà ở ngay trong nước vậy. Than ôi! Dân chúng phụng sự quan trên, đóng thuế nạp tô, để mong được sống yên thân, thế mà bây giờ lại lấy những thứ nuôi sống người đó để làm hại người, nỡ khiến dân chúng vấp phải họa binh đao, nỡ tranh giành cái nhỏ mà bỏ cái lớn, cũng như muốn bảo tồn cành lá mà lại đem đẵn cả cội gốc. Cho nên mới nói: không sợ thế giặc ngang tàng mà sợ lòng người rời rạc. Lòng người đã rời rạc, đã muốn chóng mất, thì dù có thành trì bằng kim loại, có ao nước sôi cũng phải bỏ mà chạy, ai ở đó chịu chết mà giữ cho”.








Lấy đâu ra “con người XHCN” để xây dựng thành công CNXH?
Ls Trần Hồng Phong
Ngày 30/4 này là đã 38 năm đất nước thống nhất, dồn lực xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH). Thế mà tới nay chúng ta vẫn chưa xây dựng xong chế độ XHCN như “Bác Hô và nhân dân đã chọn” ( lời của Đảng). Một xã hội cái gì cũng hay, cũng đẹp, không còn giai cấp lãnh đạo hay bóc lột, mọi người hưởng thụ theo nhu cầu, ai cũng ấm no, hạnh phúc … thì ai mà chẳng muốn. Nhưng chưa bao giờ thấy, dù chỉ thoảng qua, vì sao?
Tôi bèn lên Google đánh câu : “ Vì sao chưa xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội?”. Kết quả là … không có trả lời nào !
Suy nghĩ một lát, tôi liền nhớ Bác Hồ có nói: “muốn xây dựng thành công CNXH thì phải có những con người XHCN”. Ngày còn đi học ở trường Đại học kinh tế TP.HCM, tôi được giảng và nhớ đại khái con người XHCN rất là hay, và phải là người: vô sản (không có tài sản riêng), luôn sẵn sàng hy sinh vì mọi người, có lý tưởng cao đẹp, có tri thức …vv.
Tôi ngồi nghĩ hoài, chẳng thấy ai trong số những người mình quen, hoặc biết xứng đáng là con người XHCN cả. Tôi lại tự hỏi: vậy lấy đâu hay từ đâu mà có được những con người XHCN?
Thế là tôi lại tiếp tục tìm trên mạng internet. Thì vừa may, tìm được bài “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới”. (tại đây)
Trong phần “Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược trồng người”, chỉ ra rõ là “Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có những con người XHCN”. Và giải thích thế này: “Con người XHCN đương nhiên phải do CNXH tạo ra”. (Xin nói rõ : Đây là tài liệu chính thống đang được giảng dạy ở các trường Đại Học. Khoảng những năm 1990, khi tôi đang học đại học thì chưa có môn “tư tưởng Hồ Chí Minh” này).
Đến lúc này và theo đó, tôi mới vỡ lẽ là: Thì ra lâu nay chúng ta chưa có những “con người XHCN” là vì chúng ta chưa có CNXH. Cương lĩnh, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam tới nay đều khẳng định là chúng ta đang xây dựng, chứ chưa có CNXH.
Thế nhưng, Bác Hồ lại dạy là “muốn xây dựng CNXH thì trước hết cần phải có con người XHCN”. Thế mới khó chứ. Việc này sao thấy cứ như là đánh đố theo kiểu: con gà có trước hay quả trứng có trước.
Chợt nhớ cách nay cũng chưa lâu, ở TP.HCM có qui định là muốn có hộ khẩu thành phố thì phải có nhà ở thành phố. Mà muốn có nhà ở TP thì phải có hộ khẩu ở TP. Làm người dân, trong đó có tôi, phải kêu trời ! May quá, sau đó có Luật cư trú, nên mới thoát được cảnh “thách đố” nhau như vậy.
Quay lại chuyện xây dựng CNXH ở nước ta. Theo tôi được học, thì chính chủ nghĩa Mác – Lê Nin cũng chỉ đưa ra mô hình XHCN dựa theo trí tưởng tượng của mình. Còn trên thực tế chưa từng có. Và khoảng 200 quốc gia trên toàn thế giới hiện nay, hình như cũng chỉ có duy nhất Việt Nam mình là chọn con đường XHCN.
( Có người nói là Trung Quốc, hay Triều Tiên, Cu Ba cũng chọn con đường XHCN. Nhưng thực ra không phải. TQ là nước đa đảng, còn Triều Tiên và Cu Ba thì giống như phong kiến thì đúng hơn, chế độ cha truyền con nối, hoặc anh nhường cho em…).
Như vậy, nói túm lại, thắc mắc của tôi là : chúng ta chưa có CNXH, thì làm sao có con người XHCN ? Mà chưa có con người XHCN thì làm sao có thể xây dựng CNXH được? Bác nào biết vui lòng giải thích dùm !
Tác giả gửi Quê Choa
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả








Chính trị của quân đội chính là ” Vì nước, vì dân”
Thư ngỏ kính gửi thiếu tướng Bùi Phan Kỳ
Tôi là Lương Minh Châu, 87 tuổi đời, 67 tuổi Đảng, cũng là quân nhân đã nghỉ hưu. Như vậy tôi với thiếu tướng vừa là đồng niên vừa là đồng đội, đồng Đảng. Tuy không quen biết và cũng không có vinh dự cùng làm việc với nhau thời gian trong quân ngũ, nhưng chiều ngày 13-3-2013, tôi được nghe đồng chí phát biểu trong buổi tọa đàm về phi chính trị hóa quân đội (qua TV), tôi thấy có đôi điều muốn trao đổi với đồng chí, rất mong đồng chí tha thứ cho sự mạo muội này và để tâm nghe nhé.
Trong buổi tọa đàm góp ý vào bản hiến pháp sửa đổi, tôi nghe thiếu tướng nói: “Nếu phi chính trị hóa, quân đội sẽ là đội quân phi chính nghĩa, thiên lôi chỉ đâu đánh đó hay là thứ robot vũ lực chứ không phải quân đội có đầu óc nữa”.
Theo tôi, nếu có cái thứ quân đội như đồng chí nói thì chỉ là bọn lính đánh thuê, bọn ‘lê dương’, chứ không phải là quân đội. Đã là quân đội của một quốc gia thì không bao giờ có loại quân đội phi chính trị cả. Quốc gia nào cũng vậy, lập ra quân đội là để chống ngoại xâm, bảo vệ và giữ gìn nền độc lập của Tổ quốc, đó là mục đích và nhiệm vụ thiêng liêng nhất của quân đội. Chính phủ và đảng cầm quyền phải có trách nhiệm chăm lo giáo dục cho quân đội tinh thần yêu nước và lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc. Đảng cầm quyền cũng phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc. Một quân đội không có tinh thần yêu nước, không tuyệt đối trung thành với Tổ quốc thì quân đội ấy không thể có tinh thần chiến đấu cao, chiến đấu dũng cảm được, đó là nguyên lý. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Quân đội nhân dân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu“, chứ không phải phục vụ cho một đảng phái chính trị hay một nhóm, một tập đoàn lợi ích nào. Cho nên, chính trị của quân đội chính là tận trung vơi nước, tận hiếu với dân.
Thiếu tướng nói: “Quân đội phải tuyệt đối trung thành với chủ thể đã lập ra nó, điều đó đã được lịch sử khẳng định từ thời phong kiến”(!!!)
Thời phong kiến, để bảo vệ ngai vàng của vua chúa và cả dòng họ, chúng đề ra giáo lý tam cương:
Quân thần cương (đạo vua tôi)
Phụ tử cương (đạo cha con)
Phu phụ cương (đạo vợ chồng)
Đặc biệt chúng đề cao ‘quân thần cương’: “Vua bảo chết thì bề tôi phải chết, bề tôi không chết là bất trung” (Quân xử thần tử / Thần bất tử bất trung).
Chế độ phong kiến coi tam cương là mẫu mực của đạo đức nên đã giáo dục rất sâu sắc và thực hành rất triệt để nội dung đó. Nó đã ăn sâu bám rễ vào toàn xã hội thời phong kiến. Đất nước là của Vua, nhân dân là con dân của vua,đất đai, rừng núi sông ngòi…tất cả đều là của vua.

Thiếu tướng Bùi Phan Kỳ
Cái giáo lý ấy đến nay vẫn còn phảng phất tồn tại trong một số cái đầu cổ hủ, có khi họ còn coi đó là đặc trưng văn hóa Phương Đông, nhưng dân tộc Việt Nam ta, ngay trong thời phong kiến đã có rất nhiều tấm gương không ngu trung như vậy. Tôi xin nêu vài ví dụ: Lý Công Uẩn là một vị tướng triều tiền Lê, từng phò Lê Đại Hành đánh thắng quân xâm lựơc Tống, nhưng khi Lê Ngọa Triều (là con đẻ Lê Đại Hành, nối ngôi đúng theo luật lệ đương thời) mà hoang dâm tàn ác, sát hại trung lương, trở thành ‘hôn quân’, thì Lý Công Uẩn đã lật đổ triều tiền Lê, lập ra triều Lý. Hay như tướng quân Trương Định, khi triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng Pháp, ra lệnh bãi binh, tướng Trương Định vì yêu nước,quyết không chịu bãi binh, mà nêu khẩu hiệu “tham quan mãi quốc, triều đình khi dân ”(nghĩa là: bọn tham quan bán nước, triều đình khinh dân) và chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Đó là những tấm gương sáng, chỉ phục tùng và chịu sự lãnh đạo chỉ huy khi chủ thể ấy còn một lòng vì dân vì nước. Khi họ đã thoái hóa biến chất trở thành lực cản sự phát triển của dân tộc thì không thể phục tùng một cách mù quáng được, đó là thời kỳ phong kiến đấy. Tôi chỉ xin nêu vài ví dụ thế thôi, tôi không có ý kết luận thiếu tướng nói như vậy đúng hay sai, xin thiếu tướng đại xá cho.
Trong buổi tọa đàm ấy, thiếu tướng nói: “Nếu quân đội chỉ trung thành với tổ quốc là phi chính trị hóa quân đội, là tự hạ thấp mình thành thiên lôi chỉ đâu đánh đấy”(!!!).
Một quân đội có tinh thần yêu nước và chỉ trung thành với TỔ QUỐC mà bị đồng chí đánh giá như vậy ư? Tôi không nhận xét đồng chí nói như thế đúng sai ra sao, tôi chỉ xin nêu một ví dụ: Hồng quân công nông do Lênin và đảng Bolchevik sáng lập, đã chiến đấu lật đổ chế độ Sa Hoàng và đập tan bọn Bạch vệ, rồi sau đó đã cùng nhân dân Liên Xô ,dưới sự lãnh đạo của đảng CS Liên Xô, đã chiến đấu vô cùng anh dũng, tieu diệt hoàn toàn chủ nghĩa phát xít ở tận hang ổ của chúng, không những cứu Liên Bang Xô Viết mà còn cứu cả nhân loại…Hồng quân Liên Xô, KGB, lực lượng cảnh sát LX đều do đảng cộng sản Liên Xô lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện; tất cả sỹ quan từ cấp thiếu úy đến cấp tướng, nguyên soái đều là đảng viên đảng CSLX, thế mà trong những năm 1989-1990-1991, do một bộ phận không nhỏ đảng viên ở cấp cao thoái hóa biến chất, nội bộ đảng mâu thuẫn bè phái chia rẽ sâu sắc, mất hết lòng tin của nhân dân, Gorbachev đã tuyên bố giải tán đảng,khiến đảng CSLX tan rã, mất hết quyền lãnh đạo nhưng Hồng quân LX, KGB, cảnh sát đều án binh bất động.Các nước thuộc Liên Xô cũ thì lấy ngày LX tan rã làm ngày quốc khánh của mình, còn quân đội của nước nào trở về nước đó, tiếp tục làm nhiệm vụ thiêng liêng của mình là bảo vệ Tổ quốc.
Tại sao cùng một quân đội do đảng tổ chức và lãnh đạo, khi sự yên bình và lợi ích nhân dân bị chà đạp, khi giặc ngoại xâm đe dọa đất nước, khi Tổ quốc lâm nguy thì chiến đấu ngoan cường như vậy,dù phải hi sinh cả tính mạng cũng không sờn lòng nản chí. Nhưng khi đảng thoái hóa biến chất trở thành lực cản sự phát triển của quốc gia dân tộc thì quân đội không bảo vệ, mặc dù đảng đó đã tổ chức ra nó? Như vậy rõ ràng quân đội chỉ trung thành với Tổ quốc và chỉ chịu sự chỉ huy lãnh đạo của đảng khi đảng cũng trung thành với tổ quốc và không thoái hóa biến chất…Một quân đội biết phân biệt đúng sai, chỉ kiên quyết ủng hộ bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, không đồng tình ủng hộ cái sai có hại cho quốc gia dân tộc là một quân đội chân chính, một quân đội không hề thiếu tính chính trị, đúng không thưa thiếu tướng? Chúng ta đều biết quân đội liên bang Nga ngày nay có một bộ phận lớn là nòng cốt của quân đội Liên Xô trước đây. Hầu hết sỹ quan tướng lĩnh đều được đào tạo từ thời Liên Xô. Quân đội Nga ngày nay không còn chịu sự lãnh đạo của đảng CS Nga, chỉ phục tùng sự chỉ huy của chính phủ mà trực tiếp là Tổng thống. Quân đội Nga ngày nay là đối thủ đáng gờm nhất của quân đội Mỹ và khối NATO. Vậy theo thiếu tướng, quân đội Nga ngày nay có phải là robot vũ lực không? Có phải là quân đội không có đầu óc không?
Trong buổi tọa đàm do báo QĐND tổ chức, đồng chí nói: “Nếu quân đội trung thành với tổ quốc thì tổ quốc ở đây là của ai, vì ai, do ai? Không bao giờ có tổ quốc chung chung cả, tổ quốc phải gắn liền với chế độ ”Xin thưa, Tổ quốc là của toàn thể nhân dân, Tổ quốc VN ngày nay là của 90 triệu đông bào các dân tộc cùng chung sống trên đất nước VN, chứ không phải là của riêng ai hay một nhóm người nào. Do ai ư? Xin thưa: do tổ tiên, ông cha ta biết bao thế hệ, dầy công khai phá, bồi đắp xây dựng và bảo vệ bằng mọi giá, của hàng triệu triệu anh hùng liệt sỹ đã chiến đấu hy sinh mới có ngày nay cho chúng ta thừa hưởng. Chúng ta phải có trách nhiệm bảo vệ và xây dựng, như Bác Hồ nói với các cán bộ chiến sỹ đại đoàn Quân tiên phong (F 308): “ Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Còn nói rằng: tổ quốc phải gắn liền với chế độ? Xin thưa, tổ quốc dân tộc là phạm trù vĩnh cửu không bao giờ thay đổi, chế độ là phạm trù lịch sử. Chế độ này thoái hoá trở thành lực cản trở sự phát triển của xã hội thì có chế độ khác tiến bộ hơn thay thế, đó là lẽ tự nhiên. Nó đúng với quy luật phát triển của xã hội. Ngay cả Mác và Ăng ghen cũng từng nói: xã hội phát triển và tiến bộ không ngừng kia mà? Khi anh (chế độ) còn một lòng một dạ phục vụ nhân dân thì nhân dân tin theo, nhưng khi anh đã thoái hóa biến chất trở thành hôn quân bạo chúa thì dân không tin nữa, dù anh đưa hết luật này luật nọ ra thuyết, dân vẫn không tin theo.
Thiếu tướng đã yêu cầu khán giả truyền hình: “Hãy chỉ cho tôi, có quốc gia nào trong số 200 quốc gia trên thế giới, quân đội không phục tùng một chính đảng?” Thưa thiếu tướng, nhiều lắm ạ, không thể kể hết! Đó là những quốc gia có đa đảng đối lập. Chỉ xin nêu vài ba nước: nước Mỹ lúc thì đảng Dân chủ cầm quyền, lúc thì đảng Cộng hòa cầm quyền, quân đội chỉ chịu sự chỉ huy của chính phủ mà trực tiếp là Tổng thống. Nước Pháp lúc thì đảng Dân chủ, lúc thì đảng Xã hội cầm quyền, quân đội cũng chỉ phục tùng sự chỉ huy của chính phủ mà trực tiếp là Tổng thống. Ngay trong khối ASEAN như Indonesia, Philipines cũng thế.
Xin đừng quên sự kiện lịch sử: ngày 26-5-1946 nhân dịp trường võ bị Trần Quốc Tuấn (nay là trường sỹ quan lục quân 1) khai giảng khóa đầu tiên, Bác Hồ tới dự và đã trao tặng cho hơn 300 cán bộ học viên nhà trường lá cờ thêu 6 chữ vàng “TRUNG VỚI NƯỚC HIẾU VỚI DÂN”. Bác đã nói: “Trung với nước hiếu với dân là bổn phận cao cả thiêng liêng nhất và cũng vinh dự nhất của anh em”. Năm 2011, nhà xuất bản Quân đội nhân dân đã xuất bản cuốn sách tựa đề “ 65 năm dưới lá cờ Trung với Nước Hiếu với Dân” do đồng chí Võ Hợp chủ biên nhân kỷ niệm khai giảng khóa 1 trường Võ bị Trần Quốc Tuấn. Cũng xin đừng quên nhạc hiệu buổi phát thanh Quân đội nhân dân vẫn là bài VÌ NHÂN DÂN QUÊN MÌNH.
Chào thân ái
Lương Minh Châu
(Đại tá Q Đ về hưu, Nhà T1 phố Phương Mai
Quận Đông Đa Hà Nội – ĐT: 04 38528029)








Con đường trước mặt
Nguyễn Khoa Điềm
NQL: Bác Nguyễn Khoa Điềm vừa gửi cho Quê Choa bài thơ mới, viết trong tháng tư này. Cảm ơn bác rất nhiều.
Những ai đã đọc trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm sẽ hiểu Con đường trước mặt hôm nay cũng chính là Mặt đường khát vọng năm xưa nhưng ở một tâm thế khác, tậm thế của một người cộng sản sau nửa thế kỉ chiêm nghiệm về con đường mình đã chọn: Trăm năm rồi ta đếm bước sông Hương/ Vẫn soi thấy niềm đau và nổi giận
Chúng ta phải thay đổi tất cả
Kể cả từng chiếc cúc áo
Miễn là Tổ quốc phải thật sự độc lập
Nhân dân được tự do
Con em ta lớn lên
Làm người vinh dự
Tôi không tin
Trước khi bảo vệ chủ quyền ta phải bảo vệ chính ta
Trước khi ban bố dân chủ tự do ta phải dựng pháo đài
Mà chính là phải bảo vệ người ngư dân đơn thân trên biển
Bảo vệ từng đồng tiền trong ngân khố
Bảo vệ từng ngọn núi không bị chặt phá, mồ côi
Bảo vệ từng ngôi mộ tổ tiên
Bảo vệ từng người dân cày đang khát đất
Trước khi bảo vệ mình ta phải làm tất cả
Cho Tổ quốc, nhân dân
Như người cộng sản năm 30
Bị đày lên rừng, bị đưa ra bể
Chúng ta vẫn sinh sôi, tồn tại
Tôi không tin cộng sản là mớ lý thuyết
Mỗi người phải thuộc
Mà tôi tin điều tốt chúng ta làm được
Tôi tin điều tốt trong mỗi người
Được nhìn nhận
Không kể ai
Có thể làm một điều gì cho dân, cho nước
Tôi chán ghét
Những vàng bạc chúng ta cấp phát cho mọi người
Kể cả đức tin và kim chỉ
Không hề làm nên sức mạnh
Niềm hy vọng,
Luôn luôn là niềm hy vọng
Phải thay đổi
Cho dù cái chết rình rập chúng ta
Nhân dân muôn đời làm ra lịch sử
Và chúng ta, người cộng sản
4.2013








Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
