Nguyễn Quang Lập's Blog, page 30
April 27, 2013
Lý luận và cuộc sống ngày càng xa nhau, phản bội nhau.
Đoàn Vương Thanh
Xưa nay lý luận chỉ có thể đúng khi nó có tác dụng soi đường cho thựctiễn. Nếu chừng nào nó xa rời thực tiễn, xa rời cuộc sống thì nó trở thành vật cản, trở thành tai hại và cứ nhắm mắt theo nó thì cuộc sống sẽ đi vào bế tắc, thậm chí những thành quả mà trước đó có thể bị mai một hoặc mất đi.
Ở Việt Nam ta, từ lâu, mỗi khi đảng viên mới được kết nạp, dứt khoát phải đi học một lớp “bồi dưỡng đảng viên mới” với những bài học lý thuyết gần như bất biến, nói về “Đảng kiểu mới” về “sự ra đời và hoạt động của Đảng”, “sự cần thiết phải có đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam” và toát lên một cách tổng hợp là kể lể công lao của Đảng, coi Đảng như một vị cứu tinh, đảng chỉ có đúng không bao giờ sai, hoặc “trung ương đúng, đường lối chủ trương, chính sách của Đảng lúc nào cũng đúng, chỉ có chỉ đạo, thi hành là sai và có sai, thậm chí nghiêm trọng…” Và dấu ấn để “trói” đảng viên vào với Đảng là lời thề “tuyêt đối trung thành” với Đảng, nguyện hi sinh phấn đấu đến hơi thở cuối cùng cho sự nghiệp của Đảng !” Chính cái đó đã tạo nên những con người của Đảng, lúc đầu rất trung thành, và trong thực tế có nhiều đồng chí nêu gương hi sinh trước bom đạn, trước đòn tra tấn dã man của quân thù, giữ vững khí tiết. Nhiều đồng chí thể hiện sự thương yêu đồng chí, thương yêu nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.
Đảng giáo dục đảng viên và quần chúng trung kiên theo đảng
phân biệt rõ bạn thù, thậm chí chỉ mặt từng loại kẻ thù từ bên ngoài
và từ bên trong. Phải chấp hành chủ nghĩa Mac-Lenin, chủ nghĩa Lenin,
sau này lại còn tôn thờ chủ nghĩa Mao Trạch Đông, tức là Maoits. Tất
cả toát lên là phân chia giai cấp, không chỉ hai thành phần giai cấp
bóc lột và giai cấp bị bóc lột mà còn chẻ nhỏ, “cụ thể hóa” tiêu chuẩn
từng giai cấp nữa, để khi “đánh” cho trúng. Một thời khẩu hiệu “Trí
phú địa hào, đào tận gốc, chốc tận rễ” không những “tiêu diệt” những
tên trùm sỏ mà còn tiêu diệt cả những kẻ liên quan. Trong việc giải
quyết mâu thuẫn đối kháng giữa “giai cấp bóc lột” ở nông thôn là địa
chủ, phú nông, còn phân ra cụ thể: “địa chủ cường hào gian ác”, “địa
chủ cường hào gian ác đầu sỏ”, “địa chủ thường” địa chủ kháng chiến”
thậm chí có nơi còn có “địa chủ kiêm tư sản”, “địa chủ phản
động”…nghĩa là muốn tiêu diệt giai cấp địa chủ phải tiêu diệt đủ
loại địa chủ.
Với phú nông cũng vậy, có phú nông bóc lột, có phú nông
lao động. Cả đến trung nông, nghĩa là người nông dân chịu khó lao
động có bát ăn bát để, cũng là “trung nông lớp trên, trung nông lớp
dưới. Trung nông không được liệt vào “giai cấp bị bóc lột”. Chỉ có bần
nông và cố nông mới là giai cấp bị bóc lột, vì thế họ nghèo nhất ở
nông thôn, bị áp bức nhất ở nông thôn. Nay nhờ có cách mạng, đúng ra
nhờ có giảm tô, cải cách ruộng đất mới được chia ruộng , mới được mở
mày mở mặt, phải gọi họ là cốt cán, phải đưa đi đào tạo trở thành cán
bộ nòng cốt lãnh đạo ở nông thôn. Khi phân chia các loại thành phần,
Đội cải cách ruộng đất không căn cứ vào cái gì cả, chủ yếu là căn cứ
vào lời khai của mấy ông bà, cô cậu cốt cán, mà khi về làm việc giảm
tô cải cách, Đội đã dựa vào họ. Như ở quê tôi, đội đã “dựa”
vào cả ngụy binh, cả gái làm tiền.
Cái mớ lý luận về giai cấp đấu tranh ấy hoành hành ở nước ta khá nhiều năm, gây ra vô vàn tai hại, khi biết sai lầm, đảng chỉ sửa những cái đảng cho là đã sai, còn những điều làm mất cả tình làng nghĩa xóm, hỏng cả tình máu mủ… thì không. Con gái, con dâu đấu tố vu khống cha mẹ mình, cha mẹ chồng, bới móc ông bà cụ kỵ nhà chồng để lại sự oán ghét năng nề đến mấy chục năm chưa hề phai nhạt thì đảng chưa bao giờ đặt vấn đề sửa sai và sửa sai đến nơi đến chốn.
Độ khoảng ba bốn thập kỷ gần đấy, nghĩa là sau thống nhất nước nhà, những mớ lý luận cũ rích từ thời tám hoánh nào , thậm chí từ hồi cải cách giảm tô, từ khi thực hiện “cải tạo tư sản” vẫn được mang ra áp dụng. Nhưng thực tế cuộc sống, đặc biệt ở miền Nam, dân không chịu “nuôt” cái lý luận gàn dở của đảng, nên không tiếp thu và không thực hiện một cách tự giác mà chủ yếu là bị bó buộc, bị cường quyền áp đảo. Ngày nay, những nhà lý luận “cộm cán” có bằng Tiến si lý luận hẳn hoi không chỉ lên lớp về “chủ nghĩa xã hội” đối với cán bộ đảng viên và lớp trẻ trong nước mà còn đi “rao giảng” ở một Trường Đảng cao cấp nước bạn, làm cho người hàng xóm nghe mà rùng mình ghê sợ
Từ ngày “đổi mới và hội nhập” cái mớ lý luận cũ của ta tỏ ra không thích hợp, phải chuyển đổi, nhưng chủ yếu vẫn là chuyển về những nguyên tắc của chủ nghĩa tư bản mà thôi, chứ có sáng tạo ra thứ chủ nghĩa nào khác hơn đâu. Những người đã qua các lớp “bồi dưỡng chính trị” cho cán bộ đảng viên ở ta đều được nghe giảng về những nguyên tắc lớn của hai thứ chủ nghĩa này. Chủ nghĩa tư bản là “người bóc lột người”, chủ nghĩa xã hôi” ngàn lần tươi đẹp hơn, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng mọt xã hội công bằng dân chủ gấp vạn lần chủ nghĩa tư bản.
Ta thử nhìn qua lại một chút xem
sao. Bây giờ ở Việt Nam không còn giai cấp tư sản theo kiểu cũ nhưng
lại xuất hiện giai cấp tư sản kiểu mới, mà phương tây gọi là “tư bản
đỏ”, thực hiện “xóa bỏ khoảng cách giầu nghèo” nhưng ta lại đào sâu
hơn, giãn độ ngăn cách xa hơn giữa giầu và nghèo, để rồi lại “la lên”
“xóa đói giảm nghèo”. Vậy ở Việt nam ta đang theo Đảng xây dựng chủ
nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản?
Xây dựng chủ nghĩa xã hội với nền kinh tế quốc hữu hóa đất đai, nhà máy, công nông trường xí nghiệp, toàn bộ là “quốc doanh” nhưng quốc doanh đâu có biết quản lý, cung cúc chấp hành lệnh trên, chỉ lo thu vén cá nhân, dựa dẫm vốn liếng của Nhà nước để mọi thứ đều thua lỗ.
HTX nông nghiệp cả làng bậc thấp rồi lên bậc cao, tất cả là “cha chung
không ai khóc” chẳng ai có sáng tạo, chẳng ai chịu làm việc cho ra
hồn, lúc nào cũng hô hào thi đua, hết “phong trào Đại Phong” lại
“phong trào 5 tấn” mà năng suất cây trồng, năng suất lúa vẫn cứ tụt
dài, đồng đất thì hoang hóa, sản lượng lương thực èo ẹt ở con số không
đủ ăn, công lao động gia trị bằng 2 lạng thóc, cái nghèo cái đói cứ
theo rịt người nông dân. Thế mà chỉ thực hiện hai lần “khoán” khoán
100 và khoán 10, nông dân một phần được cởi trói, bà con cả nước đã
làm ra 45 triệu tấn thóc, trong khi ruộng canh tác lại bị thu hồi hàng
vạn ha cho “dự án”, lại có 7,5 triệu tấn lương thực quy gạo xuất khẩu.
Tuy nhiên đấy mới chỉ nhìn sơ qua vào nông nghiệp hay rộng ra một chút
là “tam nông thôi”, chứ còn các mặt kinh tế khác hễ cứ dính vào “quốc
doanh” là y như đổ bể, thụt két, lỗ vốn, nợ xấu, nợ công…nghĩa là
làm không có lời mà chỉ có rạn nứt và đổ vỡ. Nói ra thì lại bảo tại
“suy thoái kinh tế toàn cầu” nó ảnh hưởng. Ngụy biện. Vậy mà những nhà
lý luận lâu nay không thấy có phát kiến gì mới để mà soi đường, để mà
ngăn cản sự suy thoái?
Một tầng lớp cán bộ các cấp từ những người chưa
giầu hoặc còn là người nghèo nay bỗng “đứng dạy sáng lòa” để rồi có
tiền hàng trăm tỷ xây dựng biệt thự, xây dựng nhà thờ tổ, cho các con đi
học nước ngoài và cho con “phè phưỡn” ở đâu đó, mấy năm trở về bố đã
chọn cho những cái ghế “ngon” rồi tha hồ mà sung sướng. Vậy các nhà lý
luận của ta bây giờ, giải thích thế nào về phân chia giầu nghèo mới,
phân chia giai cấp mới và có cần tiến hành đấu tranh giai cấp nữa hay
không ?
Độ khoảng hai chục năm nay, chúng ta được LHQ ghi nhận “thành tích “xóa đói giảm nghèo”, nhưng lại không thấy ghi nhận “xóa no giảm giầu” nguyên nhân gây ra các giai cấp đối kháng nhau, sinh ra đấu tranh giai cấp?…
Vậy thời đại hiện nay, mô hình của chủ nghĩa xã hội ở nước ta là những vấn đề gì ? Kinh tế thì trở lại những yếu tố thị trường của tư bản chủ nghĩa, xã hội thì phân chia đẳng cấp, phân chia giầu nghèo ngày càng sâu sắc, các quan chức từ xã trở lên trở thành “giai cấp khác”, còn nhân dân lao động vẫn là “giai cấp lao động”. Giai cấp công nhân để tạo ra nhân tố lãnh đạo cách mạng có còn không? Công nhân, nhân viên trong thời buổi kinh tế thị trường không khác mấy kẻ đi làm thuê cho các ông chủ lớn nhỏ trong mọi lĩnh vực, trong mọi doanh nghiệp, làm tốt chưa chắc được khen, làm chưa tốt bị đuổi việc ngay lập tức.
Xã hội đã và đang hình thành ‘tầng lớp đại gia” ăn không bao giờ hết của ngon vật lạ, ở không bao giờ hết nhà, biệt thự và vi la, đi toàn xe con trị giá hàng nghìn con trâu của nông dân, con cái đi học, chơi game ở nước ngoài…Những điều này đang diễn ra tại xã hôi xã hội chủ nghĩa của chúng ta, các nhà lý luận thử giải thích xem sao !
Chúng ta không chỉ có nạn nói dối hoành hành, nạn tham nhũng hoành hành, xã hội đen đang làm loạn đất nước mà còn tạo ra rất nhiều giai tầng xã hội không còn ở cái mức “trí phú địa hào” nữa mà là những ông vua lớn nhỏ. Nhiều khi, tôi hơi lẩn thẩn nghĩ đến nước ta hiện có 9068 xã, phường, thị trấn, thì có đến gần 19.000 “ông vua, bà chúa” ở cơ sở, ấy là chưa nói đến các “ông vua bà chúa cấp huyện, quân, thị xã, thành phố tỉnh thuộc trung ương. Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch tỉnh, cho đến giám đốc các sở bây giờ cũng trở thành “những ông vua địa phương, vua ngành” cát cứ rất dữ dội. Vậy kính nhờ các nhà lý luận thử đưa ra những luận điểm để dùng lý luận soi sáng thực tế xem sao!
Vậy mà CNXH, cái danh hiệu hão huyền của đất nước, nhiều người góp ý bảo bỏ đi vì nó chưa có thì vẫn bị “các nhà lý luận bảo thủ” khư khư giữ lấy.Giữ lấy cái không có, cái mà thế giới loài người đã vứt nó vào đống rác rồi , hỡi ôi…
Tác giả gửi cho Quê Choa
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả








Hòa giải dân tộc cũng là chuyện của người Việt trong nước
Hôm đọc bài thơ “Đất nước, những năm tháng thật buồn” của bác Nguyễn Khoa Điềm, tôi nghĩ bác ấy đã nói hộ tâm tư của không ít người, trong đó có cả tôi.
Bấy lâu nay tôi cũng như nhiều người chỉ biết than thở với bạn bè, mượn câu trong bài học ngày xưa, rằng chúng ta “sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan”. Những tưởng chiến tranh qua lâu rồi thì đất nước thái bình, yên vui, cuộc đời sẽ ấm no hạnh phúc. Vậy mà hễ cứ “mở mắt” ra là thấy tin cướp, giết, hiếp. Lên mạng nghe toàn chuyện buồn như đâu đâu cũng thấy dân bị cưỡng chế đất sinh nhai, đi kêu oan bị bỏ tù. Chuyện dân bị công an đánh chết cả ngoài đường lẫn trong đồn. Chuyện công an ngang nhiên nhận mãi lộ. Chuyện người ta đua nhau chạy dự án làm công trình thế kỷ này nọ để kiếm lời, bỏ qua chuyện không xa thủ đô, dân vẫn phải qua sông bằng đò kéo dây. Người nghèo ở các vùng sâu nghèo không thể nghèo hơn… Ti tỷ những nỗi buồn.
Ngẫm ra người Việt Nam mình đi ra ngoài thế giới cũng đâu có kém cỏi gì, vậy sao lại bất lực ngay trên quê hương mình đến thế? Trước còn đổ tại chiến tranh liên miên khiến đất nước kiệt quệ, không thể phục hồi ngay được. Giờ chiến tranh kết thúc đã quá lâu, đất nước có bị tàn phá cũng không thể tàn khốc hơn Nhật Bản sau chiến tranh. Vậy mà ì ạch mãi vẫn chưa thoát nghèo. Có những số phận tưởng chừng như có độc lập hay không độc lập chả khác gì nhau, không thấy ấm no và hạnh phúc hơn chút nào.
Đâu phải không có câu trả lời. Có quá nhiều giải pháp được đưa ra, nhưng nếu như con người ta có thể tự do lựa chọn cho mình thì chả phải bàn. Không biết có ai ít nhất một lần trong đời, chưa từng đặt ra cho mình một câu hỏi, là tại sao ta lại không được quyền tự do chọn lựa không?
Ai cũng hiểu phương pháp bẻ bó đũa. Một trong những giải pháp để đất nước lớn mạnh là tất cả người Việt cũng phải trở thành một bó đũa lớn như thế. Vì vậy, tư tưởng xóa bỏ hận thù đã được manh nha từ lâu ngay trong lòng thế hệ người Việt lớp trước. Một bài học lớn về lòng vị tha của người Mỹ đối với nhau sau chiến tranh. Một bài học khác về sự tàn ác, vô nhân đạo giữa con người với con người là cách mạng văn hóa ở Trung Quốc. Hai bài học đó quá đủ cho dân ta nhận thấy, con đường nào mình nên chọn.
Thưc ra sau chiến tranh, không phải tất cả người Việt ở 2 phía đều căm thù nhau. Nếu không có chuyện phân biệt kẻ thắng người thua, không có chuyện “trừng phạt” dẫn đến thảm cảnh hàng triệu người Việt Nam phải rời bỏ quê hương, gây nên oán thù suốt mấy chuc năm qua làm chia rẽ lòng người, thì nước Việt ta biết đâu sẽ lớn mạnh chả kém gì nước Nhật, hay Mỹ?
Chuyện hòa giải không còn là của riêng người Việt trong nước và người Việt tha phương, mà chính người Việt trong nước cũng cần hòa giải với nhau. Nếu không cố gắng tìm tiếng nói chung, vô hình chung chúng ta càng đẩy mình ra xa nhau.
Đây hoàn toàn không phải là sự thỏa hiệp. Ít nhất đã có nhiều người ở cả hai phía của cuộc chiến trước đây, giờ trở thành bạn bè thân thiết qua mạng. Họ đều có chung một khao khát cho đất nước, sau ngần ấy năm đau khổ vì chiến tranh và ly tán, nay phải được bình yên và hạnh phúc. Tôi tin chả có thế lực thù địch nào bên ngoài, nguy hiểm bằng chính sự tha hóa ở bên trong đang làm mục ruỗng đất nước mình.
Trên mạng mới đây xuất hiện một clip do một nhóm trẻ thực hiện, nói về sự hòa giải. Ý nghĩa tích cực của clip này rất đáng được lắng nghe. Chắc chắn nhiều người sẽ rất mừng khi thấy lớp thanh niên ngày nay, vẫn còn nhiều người đang sống có trách nhiệm với tương lai như thế.
*Chuyện ngoài lề:
Hôm sang Văn Giang nhân kỷ niệm một năm cưỡng chế đất (ngày 24/4), trời rất nắng. Tôi đang kêu nóng quá thì mấy bà mấy bác bảo, ăn thua gì, năm ngoái khi cưỡng chế còn nắng nóng hơn thế này. Thế mà “bọn nó” phải mặc áo giáp dày hự chạy hùng hục trong làng, mồ hôi mồ kê túa ra đầm đìa.
Tôi cười bảo, thực ra họ cũng khổ chứ chả riêng dân mình. Có oán là oán cái kẻ ra lệnh, chứ bản thân họ cũng chẳng có sơ múi gì từ mảnh đất này. Còn đương nhiên cũng có những kẻ có máu côn đồ trong đó, mới có gan đánh đập bà con nông dân mình như thế chứ.
Mấy bà mấy bác đều bảo, ừ đúng rồi, chúng nó cũng chỉ là thằng lính thôi.








Ngân hàng nhà nước “xiếc” công luận?
Báo Tuổi Trẻ ngày 27-4 có bài Đấu thầu vàng không phải để bình ổn giá. Bài báo cho biết, tại cuộc họp báo chiều 26-4 của Văn phòng Chính phủ, trước thực trạng khó hiểu: sau mỗi phiên Ngân hàng nhà nước đưa vàng ra bán đấu thầu, giá vàng trong nước càng tăng, càng bỏ xa giá vàng thế giới, Phó Thống đốc Ngân hàng nhà nước Lê Minh Hưng biện bạch: “Khi Ngân hàng nhà nước tham gia bình ổn thị trường vàng thông qua hoạt động đấu thầu vàng miếng thì Ngân hàng nhà nước đã công bố rõ: đây là hoạt động bình ổn thị trường và Ngân hàng nhà nước không bình ổn giá”(!). *
Người đại diện Ngân hàng nhà nước tung ra cái hỏa mù: Ngân hàng nhà nước (bán) đấu thầu vàng là góp phần tăng lượng cung trên thị trường vàng. Nếu không, trong bối cảnh không cấp phép nhập vàng để sản xuất vàng miếng, thị trường trong nước còn biến động rất mạnh.
Thế nhưng, ông Hưng lảng tránh câu hỏi: tại sao Ngân hàng nhà nước không cấp phép nhập vàng cho sản xuất vàng miếng, ngõ hầu tăng hơn nữa lượng cung, đủ mức để ổn định, cân bằng thị trường vàng? Trên báo chí, tại các diễn đàn, nhiều chuyên gia đã cảnh báo tình trạng giá vàng trong nước suốt mấy năm quá cao so với thế giới là động lực ghê gớm thúc đẩy hoạt động gom ngoại tệ để nhập lậu vàng, ngân sách thất thu thuế, không lực lượng chống buôn lậu nào ngăn nổi. Lại nữa, vàng càng tăng giá, người ta càng có xu hướng ẩn náu vào vàng, hạn chế bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh. Đương nhiên, lực hút của vàng cũng làm giảm chi tiêu mua sắm hàng hóa, hậu quả là sản xuất điêu đứng. Giá vàng trong nước biến động cao bất thường suốt thời gian dài – ai được, ai mất? phương hại đời sống kinh tế – xã hội đến mức nào?
*
Dưới nhãn quang kinh tế học, một cách hài hước, luận điểm “Khi Ngân hàng nhà nước tham gia bình ổn thị trường vàng thông qua hoạt động đấu thầu vàng miếng thì Ngân hàng nhà nước đã công bố rõ: đây là hoạt động bình ổn thị trường và Ngân hàng nhà nước không bình ổn giá” của đại diện Ngân hàng nhà nước đáng được lấy làm đề tài luận án tiến sĩ ngành ngân hàng, đem bảo vệ trước Hội đồng nơi chú Cuội – chị Hằng và nhận giải Nobel kinh tế trên sao Hỏa, bởi ý tưởng trên cực kỳ “mới”, có thể coi là phát minh “độc đáo”.
Lịch sử kinh tế học, khi đề cập đến thị trường, các kinh tế gia, thuộc mọi trường phái Đông – Tây, kim – cổ, chưa bao giờ hình dung nổi một kiểu thị trường không liên quan, dính dáng gì đến giá cả, kể cả ở thị trường sơ khai hàng đổi hàng, thời chưa xuất hiện tiền tệ là vật trao đổi trung gian – thời “1 cái rìu = 5 con dê”. Ai có hiểu biết về kinh tế học cũng đều biết điều sơ đẳng: đề cập đến thị trường, không thể không gắn liền với giá cả. Không chỉ vậy, cùng với các yếu tố cơ bản như tổng cung thị trường, tổng cầu thị trường, giá cả là yếu tố xuyên suốt, bao trùm mọi khía cạnh và động thái của thị trường. Nói một cách khác, không có yếu tố giá cả, không có khái niệm thị trường. Quy luật chung của kinh tế thị trường là, khi tổng cung tăng, giá cả sẽ giảm. Nghĩ nát óc, người có kiến thức kinh tế cũng không thể hiểu, bằng cách nào, Ngân hàng nhà nước, trong khi không đặt mục tiêu bình ổn giá vàng, mà lại có thể nhắm tới và thực hiện được bình ổn thị trường vàng? Thị trường là khái niệm kinh tế học, diễn giải nôm na là cái chợ. Có cái chợ nào không dính tới giá cả?
Thực tế, trên thị trường vàng Việt Nam gần đây, sau những phiên Ngân hàng nhà nước tung hơn 12 tấn vàng ra bán, giá vàng không những không giảm, mà lại càng tăng. Phải chăng, đây là đặc điểm riêng có của phương thức quản lý kinh tế thị trường, gắn cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa”?!
*
Không cần thông minh cũng hiểu, trước hiện tượng tréo ngoe: càng tung vàng ra bán đấu thầu, giá vàng càng lên, càng bỏ xa giá vàng thế giới, lập luận “Ngân hàng nhà nước không bình ổn giá” nhằm tránh cơn giận dữ chính đáng của công luận, trước thực tế suốt mấy năm nay, giá vàng trong nước luôn cao chót vót, chênh lệch có thời điểm lên tới 7 triệu đồng/lượng so với giá vàng trên thị trường thế giới. Và hệ quả của nó, đến các bà nội trợ cũng thấm thía, vàng lên giá không chỉ là chuyện của những người cầm vàng.
Vàng cao bất thường, tác động lên giá cả, từ hàng hóa tiêu dùng, dịch vụ thiết yếu… đến giá nhà ở, bất động sản, vật tư nguyên liệu sản suất… còn trực tiếp và dữ dội hơn tác động của các phương tiện dự trữ, thanh toán khác như ngoại tệ, đá quý, chứng khoán… Việc giá vàng trong nước liên tục “nổi điên”, không thể không phương hại dữ dằn đến sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội.
Hiện tượng thực tế hơn 12 tấn vàng được Ngân hàng nhà nước tung ra bán, càng làm thị trường vàng trong nước lên cơn khát, làm giới kinh tế suy đoán hai khả năng. Một là, lượng cung tăng như muối bỏ biển trước nhu cầu của các ngân hàng thương mại và người dân. Nếu tiếp tục bán ra mà không nhập khẩu để thay thế, bổ sung, chẳng mấy nữa, dự trữ vàng trong ngân khố quốc gia làm sao tránh khỏi về “mo”? Nếu không bán nữa, làm sao giá vàng có thể hạ? Hai là, không loại trừ khả năng giới đầu cơ ở các ngân hàng thương mại tin chắc ở khả năng vẫn lũng đoạn được cơ chế điều hành vàng của Ngân hàng nhà nước – tới đây, Ngân hàng nhà nước sẽ tiếp tục không cấp phép nhập vàng, giá vàng trong nước vẫn tiếp tục tăng, duy trì mức chênh lệch lớn so với giá vàng thế giới.
*
“Ngân hàng nhà nước không bình ổn giá” – Ô hay! Ngân hàng nhà nước đứng ở đâu trong vai trò quản lý nhà nước đối với nền kinh tế và đời sống xã hội? Kìm hãm mức tăng của chỉ số giá cả là mục tiêu tối quan trọng của Chính phủ, đến mức hầu như phiên họp nào cũng bàn tới. Nhưng đó là chuyện của Chính phủ, Ngân hàng nhà nước bất biết, bất cần?
*
Thị trường là thị trường, chẳng liên quan gì đến giá cả? Bình ổn thị trường không dính dáng gì đến bình ổn giá cả? Với lập luận: “Khi Ngân hàng nhà nước tham gia bình ổn thị trường vàng thông qua hoạt động đấu thầu vàng miếng thì Ngân hàng nhà nước đã công bố rõ: đây là hoạt động bình ổn thị trường và Ngân hàng nhà nước không bình ổn giá”, Ngân hàng nhà nước đang diễn xiếc trước công luận?
V.V.T.
–
* Mời xem thêm: – Phó thống đốc: “Đấu thầu vàng đã đạt mục tiêu” (VnEco). “… khi Ngân hàng Nhà nước tham gia bình ổn thị trường vàng thông qua việc đấu thầu vàng thì Ngân hàng Nhà nước đã công bố rất rõ đây là hoạt động bình ổn thị trường, không phải là bình ổn giá. Thông qua việc đấu thầu Ngân hàng Nhà nước không nhằm mục tiêu kéo giá vàng xuống ngay lập tức cân bằng với giá vàng thế giới mà chúng tôi chủ yếu thực hiện việc tăng cung ra thị trường để qua đó giải quyết vấn đề nhu cầu vàng.” – Phó Thống đốc NHNN: Chính sách quản lý vàng ‘thành công lớn’ (VNN).
- “Rửa vàng” từ chính sách của Ngân hàng nhà nước (RFA/ BS).
- Từ thống kê về Việt Nam của Hiệp hội Vàng thế giới: “Rửa” vàng bằng cơ chế ? (TN/ BS).
- Thấy gì qua vụ bài báo “Rửa vàng bằng cơ chế?” bị “bóc”? (Ba Sàm).








Giải thích số liệu của Hội đồng Vàng

“Nhu cầu tiêu thụ vàng” này thực chất là gì mà đã gây khó cho phóng viên báo Thanh Niên?
Định nghĩa đi kèm với báo cáo cho biết: “Nhu cầu tiêu thụ [vàng] là tổng lượng vàng nữ trang và vàng thỏi tiêu thụ trong một nước hay nói cách khác, đó là tổng lượng vàng các cá nhân mua trực tiếp”.
Nghe cũng rõ ràng rồi.
Nhưng ở các nước khác, người tiêu dùng thường mua vàng, chủ yếu là vàng nữ trang và giữ lâu dài. Còn ở Việt Nam, người dân có thể mua bán vàng nhiều lần với cùng số vàng đó. Ví dụ, trước đây một người có thể lấy tiền mặt mua 100 lượng vàng để thanh toán tiền mua nhà. Sau đó chủ nhà lại bán 100 lượng vàng này ngay, cứ thế 100 lượng vàng này có thể xoay vòng nhiều lần tạo ra một doanh thu lớn cho các công ty kinh doanh vàng bạc. Vì thế, câu hỏi đặt ra là khảo sát của Hội đồng Vàng Thế giới đã tính đến yếu tố này chưa khi nói về nhu cầu vàng của Việt Nam? Liệu có khả năng tính trùng lắp không?
Tôi liên lạc với Hội đồng Vàng Thế giới ở Luân Đôn và nhận được câu trả lời: Dữ liệu và thông tin trong báo cáo “Xu hướng nhu cầu vàng trong cả năm 2012” là do bộ phận nghiên cứu Thomson Reuters GFMS cung cấp.
Liên lạc tiếp với Thomson Reuters GFMS ở Luân Đôn thì được chuyển về chi nhánh của họ tại Úc và một chuyên viên phân tích cao cấp của GFMS tại Úc cho biết xét về mặt tiêu thụ, họ đã cố gắng tính toán để có được con số “ròng”, tức là đã loại trừ yếu tố mua đi bán lại sau khi thu thập số liệu thông qua các hãng vàng lớn.
Chuyên viên này, bà Cameron Alexander, chuyên trách nghiên cứu thị trường Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác, cho biết thêm “Một số lượng lớn vàng nhập vào Việt Nam là theo cách phi chính thức. Trước đây khi có một vài công ty sản xuất vàng miếng, hầu hết hàng nhập khẩu được dập thành vàng mang tính đầu tư. Tuy nhiên, ngày nay khi chỉ có SJC được quyền sản xuất vàng miếng thì vàng nhập được dùng để chế tác nữ trang”.
Bà Alexander không muốn đưa ra con số phỏng đoán là bao nhiêu phần trăm nhu cầu tiêu thụ vàng được đáp ứng bằng vàng nhập theo con đường phi chính thức nhưng nói rõ: “Các bằng chứng riêng lẻ cho thấy vàng vẫn đang được nhập không chính thức vào Việt Nam”. Bà nói thêm là do tiến hành nghiên cứu các thị trường lân cận nên biết rõ chuyện mua bán xuyên biên giới này.








Nhìn cách hành xử của thủ tướng Nhật Bản mà thèm
Đáp trả mạnh mẽ. Đó là tuyên bố của thủ tướng Nhật Bản sau khi Trung Quốc cho tàu lượn lờ vùng biển hai nước tranh chấp.
Đối phương chỉ mới ra đòn gió, người đứng đầu chính phủ Nhật Bản đã tỏ rõ sự bảo vệ chủ quyền một cách quyết liệt. Đích thân thủ tướng chính phủ lên tiếng, chứ không cần dùng cái loa người phát ngôn bộ ngoại giao.
Nhìn cách hành xử của thủ tướng Nhật Bản mà thèm, mà ao ước, mà so sánh.
Nhật Bản không có những chữ vàng, chữ tốt trong quan hệ với Trung Quốc. Những chữ ấy (16 chữ vàng, 4 tốt) chẳng là gì cả, cách chơi chữ chỉ là trò thư giãn mà thôi. Giống như đội bóng chuyên nghiệp, Nhật Bản ra sân sòng phẳng và chơi hết mình với Trung Quốc. Về lĩnh vực bóng đá, đẳng cấp Nhật Bản đứng trên Trung Quốc, kể cả khu vực cũng như thế giới. Tiềm lực quốc phòng Nhật Bản cùng với đồng minh thân cận, ai dám bảo thua kém Trung Quốc.
Biển Đông như là cái ao làng, xảy ra tranh chấp tứ phía. Trung Quốc là gã tự xưng anh chị gây chuyện với mọi láng giềng. Philippines đệ đơn lên tòa án quốc tế, không để Trung Quốc ỷ thế nước to bắt nạt nước nhỏ. Nhật Bản có cách làm khác. Vẫn mềm dẻo trong quan hệ ngoại giao, nhưng khi đối phương giở trò luật rừng, người đứng đầu chính phủ Nhật Bản ngay tức thời dõng dạc tuyên bố: Nhật Bản sẽ đáp trả mạnh mẽ.
Trung Quốc gây chuyện với Việt Nam còn ghê gớm hơn so với các nước trong khu vực. Chiếm đảo. Cướp tàu và bắt ngư dân. Phong tỏa ngư trường… Trung Quốc dùng mọi thứ, làm mọi cách bắt nạt Việt Nam. Bị o ép quá thể nhưng cách phản ứng của Việt Nam xem ra không tương xứng. Thường thì, mỗi khi Trung Quốc lấn tới, người phát ngôn Bộ Ngoại giao lại có dịp lên tiếng. Nhưng chưa khi nào thấy những người đứng đầu đất nước tỏ rõ thái độ kịp thời và đanh thép như thủ tướng Nhật Bản. Hành xử thế nào là quyền của các vị nhưng đừng để những cái đầu sặc mùi đại Hán nghĩ rằng Việt Nam khiếp sợ Trung Quốc.
Có thể có những kẻ vì lợi ích riêng mà cam tâm theo đuôi bọn bành trướng. Nhân dân Việt Nam thì ngược lại, không sợ và không thua bọn xâm lược, kể cả những kẻ tự cho là hùng mạnh. Sự kiện biên giới phía Bắc tháng 2.1979 vẫn còn nguyên giá trị.








Bốn ông họ Lê -Phần 1
Lê Mai
“Bằng cách nào cũng phải chiếm lại Hoàng Sa” – câu nói của Lê Duẩn qua lời bà Bảy Vân, phu nhân của ông, trong một cuộc trả lời phỏng vấn Đài BBC. Cho đến nay, chưa có bất cứ lãnh đạo nào của VN thể hiện quan điểm và quyết tâm sắt đá lấy lại Hoàng Sa như Lê Duẩn. Tầm nhìn sâu sắc của Lê Duẩn về các mưu đồ đen tối của TQ đối với VN đã được lịch sử chứng minh đầy thuyết phục.
Trong khi Hồ Chí Minh với tài ngoại giao kiệt xuất của mình đã cân bằng mối quan hệ tam giác phức tạp giữa VN, TQ và LX, làm cả hai nước “đàn anh XHCN” đều trợ giúp VN trong cuộc chiến với người Mỹ thì Lê Duẩn – không ít trường hợp, không ngần ngại bày tỏ sự không hài lòng của ông đối với các nhà lãnh đạo TQ. Ông giao thiệp với Mao một cách bình đẳng, nhận ra lối chơi chữ của Mao rất nhanh. Một lần Mao hỏi Lê Duẩn: “Có phải Việt Nam đã đánh thắng quân Nguyên và quân Thanh không?”. Lê Duẩn đáp: “Đúng, còn đánh thắng cả quân Minh nữa” – quân Minh là người Hán, dân tộc đa số của TQ. Ý của Lê Duẩn là chúng tôi đã và sẽ đánh thắng các ông, chúng tôi không sợ các ông đâu.
Trong một lần gặp khác, chẳng biết Mao có ý gì khi nói với Lê Duẩn rằng hiện ở nông thôn TQ thì địa chủ trở lại thống trị, còn ở thành thị thì giai cấp tư sản thống trị, vì rằng các Chủ nhiệm hợp tác xã đều lấy vợ là con của địa chủ, các giám đốc Xí nghiệp đều cưới con của tư bản làm vợ? Mao rất đểu, nói theo kiểu bóng gió, ám chỉ…? Lê Duẩn rất bực, nói với Trần Quỳnh, “Cha này lý luận lang bang, lấy vợ địa chủ trở thành giai cấp địa chủ” (theo hồi ký Trần Quỳnh). Sử dụng từ “cha này” để chỉ Mao, điều đó có nghĩa là Lê Duẩn không hề coi Mao là “thần thánh” hay “lãnh tụ” gì cả. Khác với Mười Cúc Nguyễn Văn Linh, Bí thư Trung ương Cục miền Nam, khi nói chuyện với Mao, thường gọi Mao là “Bác Mao” (Uncle Mao) – Thưa bác Mao! Đúng vậy, bác Mao. Như bác Mao nói…
Đối với Mao như thế, thì đối với Chu Ân Lai hay Đặng Tiểu Bình, có gì đáng ngại?
Lê Duẩn đã trách cứ Chu về việc ép VN ký Hiệp nghị Geneve, chia cắt hai miền Nam – Bắc, Chu đã phải tỏ ý xin lỗi ông. Đến năm 1972, Chu sang Hà Nội thông báo về cuộc đi thăm TQ của Nixon, Chu lại bị Lê Duẩn chất vấn, rằng TQ đưa VN ra đổi chác và Chu – lần thứ hai, lại phải xin lỗi ông. Khi Chu trở về nước, Lê Duẩn thậm chí không tiễn ông ta theo phong cách ngoại giao! Nhớ lại những năm năm mươi thế kỷ trước, Lê Duẩn hoạt động bí mật ở miền Nam, thường lánh sang Cambodia. Tại Phnôm Pênh, có những khi ông lặng lẽ quan sát dòng người vô tận Cambodia vẫy cờ hoa đón Chu Ân Lai – khi đó Chu thật nổi danh trên toàn thế giới. Thế nhưng giờ đây, ông đang đối mặt ngang hàng với Chu, kiên quyết bảo vệ lợi ích của VN.
Còn Đặng – một con người ghê gớm, đã không thể nào thuyết phục nổi Lê Duẩn đi với TQ để chống LX, dù ông ta hứa cho không VN 2 tỷ nhân dân tệ. Cú đụng đầu lịch sử giữa TQ và VN vào tháng 2 năm 1979, cũng có thể coi là giữa Đặng và Lê Duẩn, kết thúc với thất bại thảm hại của Đặng.
Lê Duẩn – tất nhiên, không phải là nhà quân sự chuyên nghiệp, song ý kiến của ông trong nhiều chiến dịch rất sắc sảo. Ông đã trực tiếp viết một bức điện gửi Văn Tiến Dũng, đại diện A.75, trong trận Buôn Ma Thuột: “Hai ngày nay tôi không ngủ được vì các anh đánh phân tán – Ba”. Nhưng thế nào là “đánh phân tán” thì ông không chỉ ra.
Sau trận Buôn Ma Thuột, tình hình phát triển quá nhanh làm các nhà lãnh đạo Bắc VN quyết định chiếm miền Nam trước mùa mưa. Thấy đã chắc ăn, Lê Đức Thọ bèn xin Lê Duẩn vào Nam và được Lê Duẩn đồng ý với lời dặn dò: lần này vào, nếu có gì trắc trở, hãy ở lại, giải phóng miền Nam xong rồi mới về.
Ngày 28.3.1975, Lê Đức Thọ đến Buôn Ma Thuột. Các lực lượng tại đấy nhận lệnh gấp rút chuẩn bị cuộc đón tiếp. Một địa điểm được chọn là căn cứ Trung đoàn 45 ở phía Đông thị xã, vừa đảm bảo an toàn, vừa đảm bảo bí mật và khang trang hơn nơi khác. Gần trưa, mọi công tác chuẩn bị đón tiếp tạm xong thì một tiếng nổ long trời vang lên, làm rung chuyển các cánh cửa chớp rồi xen kẽ là các tiếng nổ khác. Hóa ra, một kho đạn súng bộ binh nằm ngay cạnh phòng khách phát nổ. Thế là lại phải chạy nháo nhào tìm một địa điểm khác đón Lê Đức Thọ.
Đây không phải là lần đầu tiên Lê Đức Thọ vào Nam. Năm 1949, ông là Phó bí thư Xứ ủy Nam Bộ mà Bí thứ là Lê Duẩn. Năm 1955, ông tập kết ra Bắc và cuối năm đó, ông được bầu bổ sung vào Bộ chính trị. Trong cuộc tổng tấn công năm 1968, ông cũng vào Nam chỉ đạo nhưng đến tháng Năm, tình hình gần như không còn chút hy vọng gì vào một chiến thắng quân sự nữa, ông được gọi trở về Bắc để làm Cố vấn đặc biệt cho Đoàn đại biểu VNDCCH tại cuộc đàm phán Pari về VN. Ông có mặt ở nhiều sự kiện nổi bật của lịch sử VN, song hãy nghe Lê Duẩn nhận xét, “anh lạ thật… Những khi nào cần nổi danh là anh cứ xin tôi, đi Pari, rồi đi miền Nam khi sắp giành chiến thắng…”.
Và giờ đây, Lê Đức Thọ – người được giải thưởng Nobel Hòa bình với Kissinger, đang tiếp tục di chuyển vào Nam Bộ theo đường 14 với mục tiêu “giải phóng miền Nam”. Công binh được lệnh phải rà phá kỹ bom mìn, lại phải đưa nhiều xe tải chở đầy gạo chạy trước mở đường, tất cả tuyệt đối không đi chệch khỏi vệt bánh xe, khi nghỉ chỉ đứng giữa đường. Từ trạm đón tiếp của Trung ương Cục, một chiếc Honđa chở Lê Đức Thọ tới nơi làm việc của Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng đang nóng lòng đón đợi.








April 26, 2013
Sự thật đằng sau việc điều hành giá vàng?
Cách đây hơn một tháng, báo VNEpress có đăng bài phỏng vấn ông Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước – Lê Minh Hưng và Chủ tịch Hội đồng Thành viên Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn – Lê Hùng Dũng về chủ đề ‘Ngân hàng Nhà nước mua bán vàng không vì lợi nhuận’. Lúc đó hai câu trả lời riêng rẽ của ông Lê Hùng Dũng đã khiến tôi ngờ ngợ về mức độ logic của nó.
Trả lời 1:
Trước đây để giữ giá sát với thế giới, chúng ta phải nhập vàng về đáp ứng nhu cầu thị trường. Trung bình mỗi năm Việt Nam phải nhập 30-40 tấn vàng. Nếu tính tạm mỗi tấn vàng 60 triệu USD, số ngoại tệ bỏ ra lên tới 1,8-2,4 tỷ USD, tương đương 37.000-50.000 tỷ đồng. Đây là một lượng tiền quá lớn, có thể gây ra lạm phát cao và làm cho nhiệm vụ kiềm chế lạm phát sẽ khó khăn và bất khả thi.
Trả lời 2:
Thời gian tới, khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện can thiệp thị trường, đồng thời SJC gia công thì nguồn vàng lớn sẽ được bung ra thị trường và đủ lớn thì giá trong nước sẽ về sát thế giới.
Về mặt logic, đây là câu trả lời huề vốn. Câu 1 nêu lên khó khăn của chính phủ trong việc liên thông giá vàng với thế giới, đó là tốn kém lên tới 2,4 tỷ USD. Trong khi đó câu 2 lại trấn an bằng việc nhà nước sẽ can thiệp liên thông giá trong tương lai.
Vậy tóm lại, ý đồ chính thức của của NHNN trong vấn đề này là gì?
Nếu để thực hiện liên thông giá, NHNN không cần phải thực hiện một loạt hành vi rối rắm trong 6 tháng qua mà cứ để mặc thị trường tự do lên xuống như trước đây. Những diễn biến gần đây trên thị trường vàng, từ việc độc quyền kinh doanh, đến cố ý đặt giá chênh lệch so với thế giới, không thể lý giải nỗ lực liên thông giá của NHNN. Giá vàng do NHNN bán ra luôn chênh lệch từ 10 đến 20% giá trị so với giá thế giới.
Có hai cách lý giải:
Một cách chính đạo, có thể đọc lời ông Phó Thống đốc NHNN hôm qua:
Phó Thống đốc Lê Minh Hưng cho biết, trước đây, nhiều doanh nghiệp được cấp phép sản xuất vàng, khi thị trường có chênh lệch giữa trong nước và quốc tế thì xảy ra hiện tượng các doanh nghiệp cần một lượng ngoại tệ lớn để nhập khẩu vàng sản xuất vàng miếng, ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ giá và gây áp lực nên lạm phát. Đây là yếu tố quan trọng để ban hành Nghị định 24. Quản lý chặt chẽ nhập khẩu, sản xuất vàng miếng là yếu tố quan trọng để ổn định thị trường, tỷ giá.
Điều này có nghĩa là từ đây NHNN sẽ chủ đạo việc kinh doanh vàng bằng một giá bằng phẳng, không lướt sóng lên cũng như sóng xuống theo giá thế giới nữa mà giá vàng sẽ ổn định, nhằm mục đích ổn định tỉ giá trong nước. Theo đó, mục đích liên thông giá vàng sẽ bị bỏ rơi, đúng như lời của Thống đốc Nguyễn Văn Bình trước đó.
Một cách tà đạo, không thể không suy nghĩ về lời phát biểu của ông Lê Hùng Dũng trước đây và nhìn vào con số 2,4 tỷ USD nhập vàng mỗi năm. Trước đây, công việc nhập vàng nằm trong tay các công ty tư nhân và họ mua vàng quốc tế về và bán với giá chênh lệch chừng 5% so với giá thế giới. Trong khi đó hiện nay toàn bộ con số nhập vàng đó sẽ nằm trong tay nhà nước và mức chênh lệch là chừng 10-20%. Tính ra lợi nhuận chênh lệch bán – mua là khoảng 250-500 triệu USD.
Chênh lệch bán mua này sẽ đi về túi ai? Liệu đây có phải là mục đích ẩn đằng sau ván bài ổn định giá vàng? Câu trả lời chỉ có người trong cuộc mới giải đáp được.
Dù giải thích kiểu gì đi nữa, thì sau phát biểu của ông Thống đốc NHNN cũng như Phó Thống đốc, giá vàng trong nước được hiểu là sẽ KHÔNG BAO GIỜ ngang bằng giá quốc tế. Đó là mục đích của Nghị định 24. Câu hỏi đặt ra cần giải đáp hiện nay là chênh lệch đó sẽ đi về túi ai? Đó mới là vấn đề.








Tiền của bà con, ai đang dùng để tiêu?
Bà con tôi nói ở đây là đồng bào như chữ ông Hồ Chí Minh dùng, tức bao gồm tất cả người Việt Nam, từ người gìa cả đến người trẻ em, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, mang quốc tịch Việt Nam, trong đó có các cháu nhi đồng đang ở tuổi “như búp trên cành” -
“Trẻ em như bút trên cành,
Biết ăn chơi, biết học hành là ngoan- Thơ Hồ Chí Minh”
Hay như các cụ già được bỏng bảy lụa là:
“ Sữa đẻ em thơ, lụa tặng già – Thơ Tố Hữu”;
Như học sinh ở Thanh Hóa phải dùng bẩy bắt chuột để có tí tanh vào dạ dày;
như trẻ em trên Điên Biên quanh năm trong bữa ăn chỉ có cơm chan với muối hòa nước suối;
như những người dân ốm đau đến bệnh viện chữa bệnh mà phải nằm la liệt trong cả gầm giường, vỉa hè, ban công của bệnh viện …để được chữa bệnh;
như các mẹ, các gì… ngày ngày đi chợ mà mua bán cứ như bị ai đó móc túi;
như những anh, những bác, nhưng chú xe ôm suốt ngày dong ruổi xe máy trên đường;
như những người nông dân bị mất đất, mất ruộng thành thân phận thất nghiêp;
như những người quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời mà lương thực không no cái bụng;
bà con ở đây còn là những công nhân, viên chức, lương ba cọc ba đồng trong cơ quan, công trường, xưởng máy, chẳng đủ nuôi thân.
Đất nước đã có gần 70 năm Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa rồi, dân chủ “triệu lần hơn” đã tăng gấp mấy lần triệu rồi? mà bà con vẫn cực khổ vậy?
Có bà con nào trăn trở về điều này không? Tại sao bà con lại lâm vào tình trạng đói khổ này, tiền của của bà con đâu rồi? Hay bà con chỉ dám ngửa mặt lên trời hay lom khom cúi xuống nhìn đất rồi ngậm ngùi than thân, trách phận, cho rằng cái số của mình phải khổ như vậy? chứ biết trách ai?
Không phải như vậy đâu, bà con ơi!
Đất nước Dân chủ và Cộng hòa gần 70 năm trong đó có gần ba mươi năm Đổi mới và dân chủ “triệu lần hơn” nếu nhìn vào tiền nhà nước mình đại diện cho dân mình vay của nước ngoài, nhận viện trợ của nước ngoài, cũng như tài nguyên đất nước được khai thác từ dầu khí ở Biển Đông đến các mỏ quặng khai thác rầm rầm ở mọi vùng miền của đất nước đến “đất vàng”, đất “ bờ xôi, ruộng mật” của bà con ầm ầm được quy hoạch rồi xây dựng thành khu đô thị này, khu biệt thư kia thì tiền của bà con phải có rủng rinh ở trong túi chứ? Rồi phố phường, làng bản phải có đường đi lối lại phong quang đàng hoàng chứ? “ Búp trên cành” được học hành không phải mất tiền chứ? bệnh viện, dịch vụ vì con người đã phải được cải thiện chứ? Đằng này, có thấy được gì cho bà con lắm đâu. Không những thế, tiền trong túi bà con “trần đời” lúc nào củng rổng, sống cầm hơi đã khó khăn mà còn phải ngày đêm luôn lo lắng phòng thân khi ốm, khi đau, lấy tiền đâu mà chữa trị; rồi con cái học hành, ma chay cưới xin, lấy đâu ra tiền mà chi tiêu?
Tiền của bà con mất đâu cả rồi?
Chỉ lướt trên mạng Ba sam vài ba hôm nay thì thấy, tiền của bà con, nó nằm ở đây này:
- Nó nằm ở giá xăng dầu tăng thêm 1.430 đ/ lít trong khi giá dầu của thế giới giảm mà nước mình lại chỉ có tăng ( tăng ngày 28.3).
“Nó nằm ở giá gạo bị các doanh nghiệp mua và chào bán xuất khẩu giảm 5%. Giá gạo giảm như vậy, nó cũng đi ngược lại với xu thế của thế giới:
“Giá xuất khẩu gạo Việt Nam giảm là đi ngược lại với xu thế chung của thế giới bởi theo thống kê của Tổ chức Nông lương thế giới (FAO), quí 1-2013, giá gạo xuất khẩu của thế giới tăng 2% so với cùng kỳ, trong khi đó, VFA, cho biết bình quân giá xuất khẩu gạo quí 1-2013 của Việt Nam đã giảm đến 44,52 đô la Mỹ/tấn – Báo TBKTSG”.
Nó nằm ở đây:
“Sản lượng hồ tiêu của Việt Nam chiếm hơn 50% thị phần thế giới, nhưng giá trị mang lại không cao so với tiêu xuất khẩu của Ấn Độ, Brazil… và thương hiệu đang ngày càng xấu đi! Ngày càng mất giá”,
trong đó tội đồ là:
“Cách làm ẩu của nhiều doanh nghiệp, thương lái đang gây mất uy tín của thương hiệu hồ tiêu Việt Nam và cả nông dân sản xuất – Báo Dân Việt”.
Nó nằm ở đây:
“Ngày 6.12.2003, ngay sau khi ông Lê Duy Nguyên nghỉ hưu, UBND huyện Quỳnh Lưu đã ký Quyết định số 281, cấp cho ông Nguyên 820ha đất ở vùng thượng nguồn khe Xu, khe Củi giáp Thanh Hóa.
Trước đó, ngày 11.8.1993, ông Nguyên xin thành lập doanh nghiệp trồng rừng mang tên Lê Duy Nguyên, do vợ ông là bà Nguyễn Thị Hưng đứng tên làm chủ. Như vậy là ông Nguyên đã thành lập doanh nghiệp trồng rừng từ khi chưa có đất rừng – VOV”
Vị đại biểu này chiếm của người dân tới 820 ha đất rừng..
Nó nằm ở đây:
“Trưa 24.4, Phòng CSĐT tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ (PC46)- Công an TPHCM đã tống đạt quyết định khởi tố bị can, thực hiện lệnh bắt tạm giam, khám xét nơi ở, nơi làm việc đối với ông Lê Quốc Cường – Trưởng ban Bồi thường giải phóng mặt bằng Q.1, TPHCM.
Ông Cường bị bắt về hành vi “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ… chiếm đoạt tài sản” với sô tiền hơn 10 tỉ đồng để phục vụ công tác đền bù cho các hộ dân trong một số dự án trên địa bàn. Thế nhưng, với số tiền của Nhà nước này, ông Cường lại mang gửi vào Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – chi nhánh Chợ Lớn, TPHCM.-Báo Pháp Luật TPHCM”.
Thưa bà con, đây mới là số liệu thông kê mà báo chí Việt Nam trong một vài ngày gần đây đăng tải, còn lộn mắt lại nhìn về gần ba mươi năm đổi mới thì số tiền bà con bị mất lên đến con số hàng chục tỷ đô la:
như vụ tham ô tham nhũng ở PU 18 trước đây và Vinashin, Vinaline còn nóng như hiện nay:
“Theo cáo trạng dài 32 trang của Viện KSND tối cao, bị cáo Phạm Thanh Bình cùng các đồng phạm đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế trong lĩnh vực đầu tư, quản lý, sử dụng vốn và tài sản của Nhà nước ở năm dự án với tổng thiệt hại trên 910 tỉ đồng”.
Ấy là chưa tính các thương vụ làm ăn:
Vụ mua tàu cả 100 tỷ đồng mà tàu ấy chỉ có giá trị bán với giá bán sắt vụn -
“Theo tiết lộ của lãnh đạo Vietship, mức giá mua tàu là 70 tỷ đồng, bằng một phần sáu so với giá 420 tỷ đồng Falcon Shipping phải trả (trên sổ sách) khi mua tàu năm 2008. Tính trên tổng trọng lượng rỗng của tàu (11.408 tấn), giá bán như vậy chỉ tương đương khoảng 6 triệu đồng một tấn thép, thấp hơn cả giá sắt vụn ở thời điểm hiện tại (khoảng 8,4 – 8,9 triệu đồng một tấn)
Nó nằm ở đây:
“Tổng công ty Dầu khí Việt Nam là Tổng công ty 91 mạnh nhất nước. Tuy nhiên, đây lại là Tổng công ty dẫn đầu về số bị can (18 người) trong một đường dây tham ô đặc biệt nghiêm trọng. Chỉ qua việc thực hiện 2 dự án thuộc loại nhỏ và trung bình, 8 bị can, trong đó có một nguyên Phó tổng giám đốc đã làm thất thoát và chiếm đoạt 54,7 tỷ đồng”
Nó nằm ở đây:
“Theo TTCP, thống kê sơ bộ của 60 tỉnh thành, phố về kết quả kiểm tra việc tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai đã phát hiện khoảng 190.000 trường hợp vi phạm (chủ yếu bán đất trái pháp luật, cấp đất trái thẩm quyền) với tổng diện tích 8.000 ha. (Số liệu năm 2010)
Nó nằm ở đây:
Vụ thất thoát gần 3000 tỷ ở Agribank và hàng trăm vụ lừa đảo có sự thông đồng của cán bộ ngân hàng để chiếm đoạt hàng ngàn tỷ đồng.
Nó còn nằm ở hàng trăm vụ đổ bể tín dụng mà tiền tươi, thóc thật của bà con lên cũng lên đến cả ngàn tỷ đồng đã bị người khác ăn cướp trắng trợn để rồi họ thay mặt bà con, tiêu tiền hộ bà con.
Nó còn nằm ở các biệt thư, vi la của lãnh chúa này, quan chức kia, như nhà thờ họ ở Kiên Giang, biệt thư ở Hưng yên và hàng trăn biệt thư, vi la, cao ốc ở Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, và ở các thành phố khác nữa.
Nó còn nằm ở nơi bà con hiện mỗi người phải gánh một khoản nợ công lên đến 742 đô la ( theo tài liệu của Việt Nam, nợ công của Việt Nam là 66,8 tỷ đô la, tương đương 55% GDP), còn theo tính toán của thế giới mỗi bà con phải gánh nợ gấp đôi số nợ này, tức 1.430 đô la ( theo tài liệu của thế giới, nợ công của Việt Nam là 128, 9 tỷ đô la, tương đương 106% GDP – Theo báo Tuổi trẻ ngày 27.4.2013) mà Chính phủ đã đại diện cho bà con vay của nước ngoài để đem về kiến thiết đất nước, mở trường học, làm bệnh viện, cứu nghèo, cứu nạn cho bà con.
Tiền của bà con nằm ở đó cả đấy. Nhưng có điều, nếu bà con muốn nói không với những khoản nợ này hay muốn xin các vị rằng tiền của chúng tôi hãy trả lại cho chúng tôi để chúng tôi tự quyết thì bà con cũng chẳng thể có cách gì để lấy lại nó được.
Thế thì, bà con cứ yên tâm mà chịu đựng đi. Bà con cứ đói khổ mà chịu đựng đi, để rồi đến ngày có kẻ sẽ đè cổ bà con ra để bà con trả nợ thay cho những người vay nợ, nhưng kẻ tham ô, tham nhũng, làm thất thoát tài sản của dân, của nước, tức là của chính bà con.
Đau! Đau mà chẳng biết làm cách gì cho vợi đau!
BĐX








Ai đang đầu cơ vàng?
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình từng tuyên bố vào tháng 10 năm 2011: “Mục tiêu thời gian tới là đưa chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới về mức 400 nghìn đồng/lượng. Nếu giá vàng có sự vượt quá mốc điểm này tức là bị đầu cơ”. Đây là tiêu chí rất rõ ràng để nhận diện hiện tượng đầu cơ vàng. Hiện nay mức chênh lệch giá vàng giữa trong nước và thế giới đã gấp cỡ 10 lần con số 400 nghìn đồng/lượng. Như vậy theo đúng tiêu chí mà NHNN từng tuyên bố qua phát biểu của ông Thống đốc, vàng ở Việt Nam hiện nay đang bị đầu cơ. Vấn đề bây giờ là ai đang đầu cơ vàng, hay nói cách khác là tiền chênh lệch giữa hai mức giá đấy đang chảy vào túi ai?
Muốn xác định ai đang đầu cơ vàng thì chúng ta tìm chỉ dấu để xác định. Hiện nay chỉ có duy nhất NHNN đang bán vàng ra để bình ổn thị trường. Phần lợi nhuận chênh lệch giá này tất nhiên chảy vào túi NHNN. Như vậy có thể thấy chỉ dấu này cho thấy chính Chính phủ Việt Nam đang đầu cơ vàng. Chỉ dấu thứ hai là Thống đốc NHNN không bị cách chức. Nếu NHNN làm ra chính sách để tạo điều kiện hình thành đầu cơ vàng cho một nhóm đặc lợi cá nhân nào đó thì cái ghế Thống đốc không thể yên ổn. Ngày 22/12/2012 Tổng bí Đảng Nguyễn Phú Trọng thăm và làm việc với NHNN đồng thời đánh giá cao hoạt động của NHNN. Tháng 9 năm 2012 Chủ tịch nước Trương Tấn Sang chỉ đạo hội nghị kiểm điểm của ban cán sự Đảng của NHNN và cũng đánh giá cao những nỗ lực hoạt động của NHNN. Những hoạt động này là chỉ dấu cho thấy chính sách của NHNN được Đảng cầm quyền và Nhà nước đánh giá cao. Như vậy có thể suy ra Đảng cầm quyền và Nhà nước đang ủng hộ chính sách tạo ra đầu cơ vàng.
Vậy còn ai đang đầu cơ vàng ở đây ngoài chính Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam? Tại sao họ phải làm như vậy? Rất có thể đầu cơ vàng chính là chính sách tận thu tiền từ nhân dân trong bối cảnh nền kinh tế đang be bét và xuống dốc, và ngân sách nhà nước đang bị thâm thủng nghiêm trọng.








Vàng và Vinashin
Vào thời điểm mà thị trường vàng trở nên sôi động nhất từ trước đến nay với ồ ạt các phiên đấu thầu, Thanh tra Chính phủ đã công bố quyết định thanh tra trách nhiệm việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động này.
Như để hưởng ứng cho quyết định thanh tra này, ngày 23/4, có hẳn một cuộc hội thảo mang cái tên khá “giật gân” là “Thị trường vàng Việt Nam và những ẩn số” do Trung tâm Nghiên cứu, kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp tổ chức tại Tp.HCM. Tuy nhiên, chưa có ẩn số nào được nhìn ra tại cuộc hội thảo này. Và dư luận sẽ càng phải “nín thở” hơn trong chờ đợi kết quả của cuộc thanh tra.
Thực tế, vấn đề quản lý thị trường vàng và trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước trong quản lý thị trường vàng, trong suốt thời gian qua đã dấy lên nhiều hoài nghi.
Tại Nghị trường Quốc hội cũng như tại các phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, theo đề nghị của số đông đại biểu Quốc hội, người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước, Thống đốc Nguyễn Văn Bình, đã có không dưới hai lần phải trả lời chất vấn nội dung này và ông Bình cũng là thành viên Chính phủ có tần suất đăng đàn nhiều nhất tại 4 kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa XIII.
Trong hầu hết các phiên trả lời chất vấn, Thống đốc Bình đều không đem lại sự thỏa mãn cho các đại biểu Quốc hội, thậm chí, như tại phiên trả lời chất vấn hồi tháng 11 năm ngoái, ông Bình đã phải cảm thán rằng: “Tôi đã giải thích quá nhiều và năng lực giải thích của tôi cũng có hạn cho nên đại biểu chưa hiểu hết được”.
Song vấn đề, có lẽ không phải do năng lực giải thích, mà nằm ở những ẩn khuất trong điều hành. Bởi như chất vấn của Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội Tp.HCM Trần Du Lịch: “Thống đốc hứa rằng thị trường biến động chênh lệch 400.000 giữa trong nước, ngoài nước thì Ngân hàng Nhà nước điều tiết. Bây giờ không làm được thì lại bảo rằng không cần liên thông với thị trường nước ngoài, thì Thống đốc nghĩ thế nào?” và “Bình ổn hay là tiêu diệt thị trường vàng?”.
Hay như chất vấn của đại biểu Nguyễn Văn Tuyết (Bà Rịa – Vũng Tàu): “Vì sao cơ chế quản lý thị trường vàng, kinh doanh vàng miếng chưa đem lại hiệu quả và chưa đạt được mục tiêu là đưa giá vàng trong nước sát với giá vàng thế giới. Trong khi đó, Ngân hàng Nhà nước không tập trung vào quản lý chất lượng vàng mà lại quản lý thương hiệu để tạo ra sự độc quyền và có biểu hiện lợi ích nhóm trong vấn đề này hay không?”.
Câu chuyện với vàng hiện nay có nhiều tình tiết tương đối giống với câu chuyện nổi tiếng về “con tàu” Vinashin. Vinashin ban đầu được nhắc đến, như một tập đoàn nhà nước có nhiều sáng kiến hoành tráng và táo bạo, có nhiều bước đi hùng dũng tưởng như đưa ngành công nghiệp tàu biển của Việt Nam lên đỉnh cao đến nơi.
Rồi Vinashin bắt đầu gây sóng ở nghị trường Quốc hội, ban đầu chỉ là sự hiện diện khá ẩn ý mà trong kỳ họp hồi cuối năm 2009, Bí thư Đà Nẵng khi đó là ông Nguyễn Bá Thanh có nhắc đến là con tàu nghìn tỷ đồng, chạy chưa được mấy chuyến đã phải nằm “đắp chiếu”.
Sau những ẩn ý ban đầu này, nỗi nghi vấn về Vinashin ngày càng trở nên lớn hơn và được đề cập đến ngày một thẳng thắn, quyết liệt hơn. Bão tố đã thực sự đến với con tàu khổng lồ này một năm sau đó.
Ở nghị trường Quốc hội tháng 10/2010, lần lượt các bộ trưởng phải đăng đàn giải trình, trong đó có Tổng thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền. Tổng thanh tra cho biết, Chính phủ đã chủ động nắm tình hình, đã phát hiện nhiều dấu hiệu vi phạm của Vinashin và đã ba lần đề xuất kế hoạch thanh tra toàn diện nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên chưa làm được.
Một trong những lý do khiến chưa thanh tra toàn diện, được ông Truyền nhắc đến là vào năm 2009 khi Thanh tra Chính phủ tiếp tục đề xuất kế hoạch thanh tra toàn diện Vinashin, Chính phủ đã duyệt kế hoạch thanh tra nhưng đến tháng 3/2009, Chính phủ họp ra nghị quyết là phải điều chỉnh để giảm áp lực thanh tra các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước để các đơn vị này tập trung vào nhiệm vụ khắc phục hậu quả kinh tế, khắc phục suy thoái.
Kết cục của vụ bê bối mang tên Vinashin đến nay dư luận đều đã rõ. Qua vụ bê bối này, có thể thấy rõ rằng, “linh cảm” của Quốc hội là khó có thể sai, vấn đề là Chính phủ có kịp thời và cầu thị trong khi lắng nghe và tiếp nhận những linh cảm này hay không. Như với Vinashin, là quá chậm.
Với vàng, hiện chưa thấy có dấu hiệu nào cho thấy cuộc thanh tra này sẽ gặp phải trắc trở như với cuộc thanh tra dành cho Vinashin. Cùng đó, còn thêm một thuận lợi nữa là “linh cảm” của Quốc hội về những điều chưa minh bạch trong quản lý, điều hành thị trường này đến nay đã là rõ hơn nhiều so với thời kỳ linh cảm về Vinashin. Bởi khi nhắc đến lĩnh vực này, đại biểu Quốc hội luôn nói thẳng mà chưa từng phải giữ ẩn ý như với Vinashin.








Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
