Nguyễn Quang Lập's Blog, page 22
May 7, 2013
Ngày của em và tôi
Võ Trung Hiếu
Nếu mỗi ngày trôi qua vô vị
Không niềm vui, không tiếng thở dài
Mặt trời vẫn hướng đông mà mọc
Em mơ gì cho một sớm mai ?
Một ngày trôi qua em chẳng chờ ai
Chẳng đợi nữa một hồi chuông điện thoại
Những lá thư gửi đi không cần hồi âm lại
Chiều lại ra đi nhường chỗ đêm dài
Một ngày trôi qua trên những bờ vai
Những đôi mắt chỉ nhìn về phía trước
Những con người đang hít thở, kiếm tiền và bắt chước
Những trái tim không còn thổn thức buồn vui
Một ngày trôi qua như giấc ngủ vùi
Những tôi và em chúi đầu vào công việc
Lắm lúc quên cả tên mình vì stress
Ôi ! Thiên đường công nghiệp hay ho
Một ngày đi qua cùng những lát thịt bò
Người ta băm nát ra và gọi là fast-food
Thì giờ của tôi được băm thành từng phút
Ngôn ngữ của tôi là ” Xin lỗi ” , ” Cảm ơn”
Một ngày trôi qua cùng với nỗi cô đơn
Trên hành tinh sáu tỷ hơn đồng loại
Em muốn tìm bạn trai, tôi muốn tìm bạn gái
Phải trèo vào internet gửi email
Một ngày đi qua trái đất vẫn quay theo
Tôi cười khóc với thị trường chứng khoán
Em buồn vui với lập trình, kế toán
Những nụ cười bằng tư duy, những nước mắt đo bằng byte
Một ngày đi qua người ta ngắm nhìn ai ?
Những Bill Gates đang kiếm tiền bạc tỷ
Những bức chân dung mỉm cười hoan hỉ
Những vĩ nhân đáng yêu của thời đại kim tiền
Một ngày đi qua có thể bình yên
Có thể giông bão theo El Nino về gầm thét
Núi lửa có thể phun, nước hung dữ thành cái chết
Trong cơn hãi hùng cát bụi sẽ bằng nhau
Một ngày trôi qua trên quả địa cầu
Em đừng hỏi tôi vì sao buồn thế
Tôi ước gì tôi mãi là đứa trẻ
Để không buồn cho cuộc sống quanh mình
29.10.1999
Tác giả gửi Quê choa








Xin các vị đừng bàn thêm cho rách việc!
Lê Đỉnh
Kính gửi: Các vị thế lực thù địch, các vị suy thoái các kiểu…
Đã đến lúc chúng tôi thấy cần trao đổi thẳng thắn với chư vị, trên tinh thần nói thẳng, nói thật. Nếu điều này có làm cho các vị không vừa lòng thì xin chư vị thông cảm, vì chúng tôi không quen dối trá và giấu diếm sự thật.
- Nhà chúng tôi ở đều là biệt thự, mà không biệt thự thì cũng phải là nhà loại sang.
- Xe chúng tôi đi phải là xe loại xịn nhất nước.
- Thức ăn của chúng tôi phải là cao lương mỹ vị.
- Sức khỏe của chúng tôi là tài sản quốc gia, phải có người bảo vệ và chăm sóc đặc biệt.
- Tài sản của chúng tôi phải là tài sản quốc gia gom lại và nhân dân phải có nghĩa vụ đóng góp, làm cho nó ngày càng dày dặn và kếch xù hơn.
- Con cháu chúng tôi phải được học tập và rèn luyện ở những trường tốt nhất, bất kể ở trong hay ngoài nước, đặc biệt là ở các nước tư bản giãy chết. Chúng phải có vị trí xứng đáng để tiếp tục sự nghiệp cao cả và sự cống hiến vĩ đại của cha, ông chúng.
- Nếu làm chính trị thì phải nằm trong tốp lãnh đạo kế cận và phải thăng tiến với mức siêu tốc.
- Nếu làm kinh doanh thì phải là doanh nhân thành đạt, giàu có, siêu hạng.
- Nếu làm nghiên cứu khoa học thì phải là cán bộ quản lý.
Dựa vào lý lịch cha truyền con nối như bác Kim, bác Ủn. Với truyền thống cách mạng vẻ vang của gia đình, chúng tôi đã xử lý thành công vấn đề này, sẽ còn tiếp tục và mãi mãi với các hậu duệ để bảo vệ nền móng vững chắc và sự trường tồn của chế độ.
- Sống đã vậy, chết chúng tôi phải có nghĩa địa riêng, không chung đụng với bất cứ ai.
Sứ mệnh lịch sử mà dân tộc giao phó, chúng tôi đã hoàn thành xuất sắc, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, được nhân dân tin yêu và kính phục, được ghi trong hiến pháp. Chúng tôi sẽ thừa thắng xốc tới, tiếp tục và đẩy mạnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, cho dù chưa biết mặt ngang, mũi dọc nó như thế nào. Không những thế còn phải phấn đấu xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Công lao của chúng tôi như vậy, chẳng lẽ lại để cho bọn người cơ hội, suy thoái, cùng với các thế lực thù địch nhảy vào xâu xé và đòi chia phần sao? Máu người đâu phải nước lã! Bàn tiệc bày sẵn đã có chủ, bỗng dưng có những kẻ không có công lao, thành tích gì ở đâu nhảy vào đòi thụ hưởng thì ai mà chịu được các vị “khách không mời mà đến” này?
Quyền lực đâu phải là thứ phân chia một cách dễ dàng như vậy được?
Hơn lúc nào hết chúng ta phải khẳng định vai trò tiên phong, gương mẫu của một chính đảng được rèn luyện, thử thách trong bão táp cách mạng và đã được thực tế chứng minh, nhất là 38 năm qua, sau ngày đất nước thống nhất. Chúng ta không chỉ thành công trên mặt trận kinh tế, đời sống nhân dân từ miền xuôi đến miền núi không ngừng được cải thiện. Tự do, dân chủ, nhân quyền có rất nhiều tiến bộ, được thế giới công nhận và hết lời ca ngợi.
Không có chúng tôi thì làm gì có non song đất nước, có dân tộc mà nói đến Tổ quốc, đồng bào? Không có sự lãnh đạo của Đảng ai biết đến Việt Nam trên bản đồ thế giới?
Vậy thì làm sao chúng tôi lại không được hưởng đặc quyền, đặc lợi, dành cho cá nhân, gia đình, họ tộc và phe nhóm?
Các thế lực thù địch, bọn diễn biến hòa bình, bọn suy thoái các kiểu từ tư tưởng đến đạo đức, lối sống… đang rất cay cú và hằn học, đòi xóa bỏ chúng tôi. Họ đòi đa nguyên đa đảng, đòi tam quyền phân lập, đòi quân đội phải “trung với nước, hiếu với dân” như ý cụ Hồ. Họ không hiểu trung với nước có nghĩa là trung với Đảng. Không có Đảng thì làm gì có nước và ngược lại, nước mà không có Đảng thì nước không chỉ ô nhiễm mà còn chảy ra sông ra biển của người khác, chứ làm được cái gì?
Đối với chúng tôi, tiền bạc của cải là rất quý báu không thì ai dại gì mà làm cách mạng? Nó càng nhiều, càng ít, nhưng mà chúng tôi quan tâm đặc biệt là sự lựa chọn của lịch sử, nhân dân đã giao phó thì phải “chịu” vậy. Dù không muốn, dù vạn bất đắc dĩ, chúng tôi cũng không thể thoái thác.
Tận trung với Đảng, tận hiếu với dân là động cơ, là mục tiêu cháy bỏng, mà chúng tôi đêm ngày tâm niệm. Chúng tôi sẵn sàng phục vụ đến hơi thở cuối cùng kể cả đời con, đời cháu và các hậu duệ nối tiếp.
Thưa các vị thế lực thù địch, các vị diễn biến hòa bình và các vị suy thoái các kiểu…
Cái gì đã là “tất yếu”, là “quy luật”, là lịch sử giao phó, là ý dân tức ý trời thì xin các vị đừng bàn dông dài cho rách việc.
Tác giả gửi Quê Choa
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả.








Thứ tự ưu tiên và Hội nghị TW 7
Chuyện cực ngắn: Trong giờ giáo dục công dân, thầy giáo hỏi học trò :” Nều cung điện Louvre chẳng may bị cháy, và bạn chỉ có thể cứu một bức họa duy nhất, vậy bạn chọn bức họa nào ?”
Phần đông học sinh trả lời : chọn bức Mona Lisa, vì đó là một trong những bức tranh quý nhất của bảo tàng.
Riêng em Jules Verne trả lời là em sẽ chọn bức tranh nào gần cửa thoát hiểm nhất. Vì em không thể chạy ngược lên lầu 2 để đến bức Mona Lisa đặt nơi thâm nghiêm, thì em sẽ bị lửa nuốt mất.
Jules Verne đã nhận được điểm thưởng. Sau nầy em đó chính là nhà văn nổi tiếng của nước Pháp.
(dựa theo Xuân Dung/dân trí)
Sát rạt với câu chuyện hôm qua, 2-5, về Hội nghị TW 7 của VN.
Ngài TBT Nguyễn Phú Trọng đã đưa ra 6 vấn đề cho hội nghị. Trong tình hình dầu sôi lửa bỏng của toàn xã hội về nền kinh tế đang rơi tự do chưa có lối thoát, trước sự đe dọa hằng ngày về chủ quyền đất nước, và đặc biệt, sự mâu thuẩn đang hồi gay cấn trong nội bộ Đảng với những cú ra đòn độc, dồn dập của các phe phái, dân chúng thì đang bất mãn tràn hông ; thì 6 vấn đề trên, có vấn đề nào là ưu tiên cấp bách đối với tình hình hiện nay ?
1) Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị….bla, bla,
2) Tăng cường sự lãnh đạo của đảng…bla, bla.
3) Bàn về dự thảo sửa đổi HP….bla bla.
4) Sơ kết một năm thực hiện NQ ĐH XI, và…bla bla
5) Xây dựng quy hoạch cán bộ chiến lược, lãnh đạo Đảng, Nhà nước cho nhiệm kỳ 2016-2021 và các nhiệm kỳ kế tiếp (cho lứa con và cháu). Bầu bổ sung các nhân vật vào BCT và Ban Bí thư.
6) Ứng phó biến đổi khí hậu…bla bla.
Trong 6 vấn đề trên, thì có hơn 5,5 cái là giống bức họa Mona Lisa, chì dưới 1/2 mục 5 là giống bức họa gần cửa thoát hiểm : Bầu bổ sung các nhân vật vào BCT. !
Tuy vẫn biết là huê dạng để phôi pha che lấp, nhưng không xong ! Kết quả của một ngày tranh đấu cực kỳ căng thẳng, đến 10 giờ đêm, người dân không biết là nên vui hay buồn ? Vui là vì “sự thua” của phe bảo thủ, mà buồn là vì “sự thắng” của phái lợi ích. !!!
Cái dưới “một nửa” nầy làm gãy đổ hết hơn 5,5 cái kia, nói chi tới “những nhiệm kỳ kế tiếp” cho con cháu chúng ta, hởi TBT ?
Những ngày kế tiếp, bàn là bàn các chuyện để bàn.
Kẻ thù thì đang xua binh mã, khua chiêng múa kiếm.
Nhân dân đang khóc đây ! Hởi…Hội nghị !
HĐN, 3-5








Đã đến lúc thực tiễn Việt Nam quyết định lý luận Việt Nam
Đoàn Vương Thanh
Lý luận không phải chỉ là lý luận càng không phải là một mớ lý thuyết
suông hoặc bị ảnh hưởng của các chủ nghĩa này nọ được áp dụng giáo
điều vào Việt Nam, lợi thì chưa thấy lợi bao nhiêu mà hại thì đã nhỡn
tiền.
Đã đến lúc thực tiễn Việt Nam, những vấn đề diễn biến của xã hội Việt Nam trong suốt 83 năm do Đảng Cộng sản nhận quyền lãnh đạo cũng như trong nửa thế kỷ sau thống nhất nước nhà, chúng ta đã có nhiều bài học sâu sắc về áp dụng lý luận cách mạng của nước ngoài, khi thì của Liên Xô, khi thì của Trung Quốc, còn cái thực chất lý luận của Việt Nam lại vắng bóng hoặc ít được áp dụng một cách triệt để.
Như vậy, các nhà lý luận cho rằng chúng ta đã theo “chủ nghĩa giáo điều” lúc thì thiên tả, lúc thì thiên hữu, về mặt tích cực đã góp phần vào những thắng lợi của cách mạng Việt Nam, mặt khác cũng đã gây ra không ít tai họa cho Việt Nam. Trong khi đó, kể cả chủ nghĩa Mac-Lenin, cơ bản cũng không thể áp dụng phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam, tâm lý và nhu cầu của người Việt Nam. Thời kỳ ra đời Quốc tế cộng sản Đệ nhị cũng như Quốc tế cộng sản Đệ tam, cơ bản vẫn xuất phát từ thực tế phát triển của các nước chấu Âu, đem áp dụng vào Việt Nam là không phù hợp. Chúng ta luôn nói rằng chúng ta áp dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lenin vào hoàn cảnh Việt Nam, nhưng thực tế chúng ta chưa khắng định được những vấn đề sáng tạo ấy, mà vẫn như là những “chú khỉ hay bắt chước”.
Rồi sau này xuất hiện lý luận của chủ nghĩa Mao, gọi là “Mao-ít”. Điểm nổi bật của chủ nghĩa Mao là “chủ nghĩa sô vanh nước lớn” chuyên bắt nạt các dân tộc nhỏ. Từ đó, chủ nghĩa Mao khẳng định “chủ nghĩa tư bản thế giới đang rẫy chết, chủ nghĩa xã hội đang chiếm ưu thế, và chính giai cấp vô sản thế giới sẽ tiêu diệt sạch sành sanh chủ nghĩa tư bản thế giới để xây dựng chủ nghĩa cộng sản nghìn lần tươi đẹp hơn. Vì thế trong thực tế, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã trải qua nhiều lần thực hiện các “cuộc cách mạng không tưởng và vô cùng tàn bạo, điển hình là cuộc cách mạng kinh tế nông thôn theo “Đại Trại”, cuộc “cách mạng văn hóa”, như chiến dich “chim sẻ”, chiến dịch “cả nước làm gang thép !”… đã đưa hàng chục triệu nhân dân Trung Quốc đến nhà mồ và đất nước kiệt quệ.
Còn Việt Nam ta một thời gian cũng bị điêu đứng vì cuộc cách mạng ruộng đất, gọi là “giảm tô cải cách ruộng đất, người cày có ruộng”. Rồi “cuộc đấu tranh với bọn “phản động trong nhóm Nhân Văn giai phẩm”, “cuộc cải tạo tư sản sau hòa bình năm 1954 ở miền Bắc và sau 1975 ở miến Nam, công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp, cũng định có hơi hướng trở thành kinh tế nông trường quốc doanh và nông trang tập thể do ảnh hưởng của Liên Xô. Rồi đến cuộc vận động “xây dựng cấp huyện”, sáp nhập các tỉnh thành phố, các huyện để “làm ăn lớn”…Tóm lại chúng ta đã áp dụng một mớ lý luận về cái gọi là “chủ nghĩa xã hội” ở đâu đó vào nước ta, chỉ làm cho dân ta điêu đứng, kéo lùi lịch sử phát triển của dân tộc .
Một thời gian các dân tộc Việt Nam tin Đảng như những người theo đạo tin vào Phật, tin vào Chúa . Ngày nay, các dân tộc Việt Nam, đứng trước sự phát triển “thụt lùi” của Đảng, sự suy thoái như là một quy luật của Đảng, các dân tộc Việt Nam ngày càng nhận ra mặt phải mặt trái của con đường mình đang đi. Hơn 6 thập kỷ có nước độc lập, gần 40 năm có đất nước hòa bình thống nhất, như Hàn Quốc chẳng hạn, dân ta đã có thể tiến lên đến mức nào rồi, chứ đâu có “tậm tịt” như hiện nay. Hàn Quốc chẳng cần theo chủ nghĩa nào cả, không cần Mác, không cần Lênin, không cần Mao và chính bản thân Hàn Quốc cũng không cần có “chủ nghĩa Păc-chung-hi” nào cả. Chỉ có “chủ nghĩa dân giầu nước mạnh, dân chủ, tự do” huy động sức sáng tạo của chính bản thân nhân dân họ vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng đất nước ngày càng phát triển bền vững. Một nửa phía bắc của Triều Tiên theo chủ nghĩa “cộng sản phong kiến” thì như thế giới đã biết, ngày nay đi đến đâu ?
Nếu như, ngay sau năm 1975, thời cơ vàng “nghìn năm có một” giang sơn thu về một mối, chúng ta có thể có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển mọi mặt của đất nước. Dân Việt Nam thông minh và đầy sáng tạo, chỉ cần biết tổ chức họ lại, khai thác tiềm năng của họ, xóa bỏ thật sự hận thù, hòa hợp, hòa giải dân tộc, coi tất cả những vấn đề xảy ra trong hơn ba mươi năm chiến tranh chỉ là những vấn đề của lịch sử. Đồng thời chống thành kiến, chống định kiến, xây dựng một đội ngũ lãnh đạo toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, vì nhân dân, vì sự hùng mạnh của đất nước. Nếu vậy chúng ta đã khai thác được không ít chất xám của cả hai bên, của cả những người của Việt Nam Cộng hòa và của cả những người do Việt Nam Dân chủ cộng hòa đào tạo, bồi dường nhằm một mục đích chung. Khi đó đất nước đã có một bước tiến rất xa, có thể chưa bằng Hàn Quốc, Singapo, nhưng cũng không kém mấy sự tiến triển của họ.
Trong đại chiến thế giới lần thứ hai, nước Nhật bị lôi vào cuộc và cũng trải qua chiến tranh khốc liệt, nhưng sau đó những người Nhật Bản thông minh mặc dù vẫn duy trì chế độ “Nhật hoàng” nhưng lại có dân chủ hơn bao giờ hết. Người Nhật được cải tạo cả về thể chất lần tinh thần và họ đã sáng tạo ra một nước Nhật hiện đại về tất cả mọi mặt như bây giờ. Vậy họ có cần theo chủ nghĩa Mác-Lenin đâu, họ có lý luận Mac-xít, Lê-ninit đâu.
Cho đến những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 mà ở Việt Nam ta vẫn “kiên trì đeo đuổi chủ nghĩa Mác Lê”. Cái chủ nghĩa này ngay ở nơi xuất xứ của nó cũng đã và đang bị bác bỏ, cho vào thùng rác của lịch sử, vậy mà ta lại cứ “tôn thờ”. Các nhà lý luận của ta thêm vài ba chữ vào cái đuôi như ” vận dụng sáng tạo”. Thật ra vẫn là con đường mòn, thậm chí là con đường lạc hậu, không có ánh sáng cuối con đường. Đã đến lúc, Việt Nam ta nên giũ bỏ tất cả các chủ thuyết không phải là của mình. Từ thực tiễn cách mạng, từ truyền thống vẻ vang của lịch sử đất nước mình, con người mình, văn hóa mình mà xây dựng thành “lý luận” phát triển của chính mình, không lệ thuộc, không “giáo diều” bất kỳ một loại “lý luận” lai căng nào khác.
Ngay cả chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không nhận cụ là “nhà tư tưởng” nhà lý luận nào cả. Chính cụ là một nhà cách mạng có tâm huyết tràn đầy thực tiễn và lý luận Việt Nam. Tính dân tộc Việt của Cụ thể hiện rất rõ trong mọi mặt đời sống và hoạt động của Cụ. Tiếc rằng, ngay cả những người hăng hái tổ chức cuộc vận động “Học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” cũng chẳng học được chút nào đạo đức của Cụ. Nếu toàn đảng thực sự học được và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh thì chắc chắn không có “một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên suy thoái về chính trị tư tưởng lối sống” như chính Nghị quyết của Đảng đã khẳng định.
Khi sắp kết thúc bài viết này được tin Hội nghị lần thứ 7 của BCH
trung ương Đảng đang họp. Những thông tin về hội
nghị mặc dù chưa được các truyền thông của Đảng và Nhà nước đưa tin,
nhưng chúng tôi theo dõi nhiều nguồn. Thú thực tôi có cảm
giác đây là một cuộc họp của “Đảng ủy xã, phường” mà thôi vì nội dung
vừa hời hợt vừa tham lam. Kết cục là chưa giải quyết được gì trên tầm
chiến lược, trên tầm vĩ mô, nhằm hướng tới một đất nước dân chủ, tự
do, kỷ cương và đạo đức mới !
Tác giả gửi cho Quê Choa
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả








Kiến nghị hủy bỏ quy định về Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng và xuất nhập khẩu nguyên liệu vàng sản xuất vàng miếng tại Nghị định 24/2012/NĐ-CP

Ls Trần Vũ Hải
Kính gửi: Ủy ban thường vụ Quốc hội (Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng)
Đồng kính gửi: Chính phủ (Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng)
Tôi - Trần Vũ Hải, công dân Việt Nam, hành nghề luật sư tại địa chỉ số 81 phố Chùa Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội - căn cứ Điều 53 Hiến pháp 1992: “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước…”, xin gửi tới Quý Cơ quan kiến nghị có nội dung sau đây:
Ngày 03/04/2012, Chính phủ ban hành Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng có hiệu lực từ ngày 25/05/2012. Điều 4 khoản 3 Nghị định này quy định Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, và theo Nghị định này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thay mặt Nhà nước thực hiện độc quyền này. Theo Điều 16 khoản 2 của Nghị định này, vàng miếng được bổ sung vào Dự trữ ngoại hối Nhà nước, tức được coi là ngoại hối theo Luật Ngân hàng.
Chúng tôi thấy rằng quy định về độc quyền này là không phù hợp Luật Ngân hàng, Pháp lệnh ngoại hối hiện hành và một số luật khác.
Điều 4 Luật Ngân hàng (được ban hành năm 2010) về nhiệm vụ, quyền hạncủa NHNN có quy định: “… Quản lý nhà nước về ngoại hối, hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng”, “quản lý Dự trữ ngoại hối Nhà nước…” nhưng không quy định NHNN thay mặt Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, độc quyền xuất nhập khẩu nguyên liệu vàng làm vàng miếng.
Điều 31 Luật Ngân hàng quy định những nhiệm vụ, quyền hạn của NHNN về quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối, trong đó có nhiệm vụ, quyền hạn: “…Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối cho tổ chức tín dụng, các tổ chức khác có hoạt động ngoại hối…”.
Điều 33 Luật này quy định:“Ngân hàng Nhà nước thực hiện việc mua, bán ngoại hối trên thị trường trong nước vì mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia; mua, bán ngoại hối trên thị trường quốc tế và thực hiện giao dịch ngoại hối khác theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.”
Như vậy, Luật Ngân hàng 2010 không cấm các tổ chức tín dụng (TCTD) và các tổ chức khác có hoạt động ngoại hối (trong đó có hoạt động sản xuất vàng miếng, kinh doanh xuất nhập khẩu nguyên liệu vàng sản xuất vàng miếng), nhưng phải được NHNN cấp phép khi có hoạt động ngoại hối. Luật Ngân hàng 2010 cho phép NHNN thực hiện việc mua bán ngoại hối (trong đó có vàng miếng) nhưng không quy định NHNN độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất nhập khẩu nguyên liệu sản xuất vàng miếng.
Theo Điều 31 Pháp lệnh ngoại hối 2005: “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng của tổ chức tín dụng và các tổ chức được phép kinh doanh vàng.” Như vậy, các TCTD và các tổ chức khác được phép kinh doanh vàng được quyền xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu(kể cả vàng miếng), nhưng phải chịu sự quản lý của NHNN. Do đó, quy định độc quyền Nhà nước về xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng của Nghị định 24/2012/NĐ-CP trái với Pháp lệnh ngoại hối 2005 (đang có hiệu lực).
Luật Các Tổ chức tín dụng (ban hành năm 2010) cho phép các TCTD hoạt động kinh doanh dịch vụ ngoại hối (trong đó có kinh doanh vàng miếng) theo quy định của NHNN, không có quy định nào cấm các TCTD kinh doanh sản xuất vàng miếng và xuất nhập khẩu nguyên liệu sản xuất vàng miếng.
Luật Thương mại không có điều khoản nào quy định Nhà nước độc quyền kinh doanh xuất nhập khẩu nguyên liệu vàng để sản xuất vàng miếng.
Không có điều khoản nào của Hiến pháp, không có luật nào, Pháp lệnh nàoquy định Chính phủ được quyền tuyên bố Nhà nước tước quyền kinh doanh trong một lĩnh vực nào đó của các chủ thể khác để giành độc quyền kinh doanh cho mình như theo quy định tại Nghị định 24/2012/NĐ-CP. Nghị định này của Chính phủ đã tước bỏ quyền kinh doanh sản xuất vàng miếng, xuất nhập khẩu nguyên liệu vàng để sản xuất vàng miếng của các TCTD và các tổ chức khác có hoạt động kinh doanh vàng, tuyên bố Nhà nước độc quyền kinh doanh trong những lĩnh vực này. Quy định này khiến nhiều TCTD và các tổ chức khác bị thiệt hại, nhưng không được bồi thường, gián tiếp để các cổ đông của họ bị thiệt hại do doanh nghiệp giảm sút lợi nhuận, thậm chí bị lỗ, dẫn đến giá cổ phiếu (giá trị tài sản của các cổ đông) sụt giảm.
Thực tế, khi NHNN thực hiện độc quyền sản xuất vàng miếng, chênh lệch giá vàng tại Việt Nam và thị trường quốc tế tăng cao. Lãnh đạo NHNN cho rằng chênh lệch này thuộc về ngân sách Nhà nước. Sự biện bạch này rất nguy hiểm, vì thực tế NHNN có lợi là chủ yếu khi công bố kết quả tài chính. Kết quả tài chính tốt, các cán bộ công chức nhân viên của NHNN sẽ được đảm bảo thưởng, phúc lợi ở mức cao, kinh phí khoán và kinh phí khác của NHNN được điều chỉnh tăng. Mặt khác, không thể vì lý do lợi nhuận chuyển về ngân sách Nhà nước để Nhà nước độc quyền kinh doanh trong bất cứ lĩnh vực gì.
Rõ ràng việc Chính phủ tuyên bố độc quyền kinh doanh về sản xuất, xuất nhập khẩu vàng miếng trong Nghị định 24/2012/NĐ-CP đã tạo tiền lệ xấu, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường pháp lý kinh doanh tại Việt Nam. Các doanh nghiệp, nhà đầu tư và người dân lo ngại, Chính phủ có thể tuyên bố độc quyền kinh doanh trong các lĩnh vực khác với lý do mang lại lợi nhuận cho ngân sách Nhà nước. Ví dụ các cơ quan Nhà nước khác noi gương NHNN đề xuất Nhà nước độc quyền kinh doanh sản xuất,xuất nhập khẩu khoáng sản, xăng dầu, lương thực, sữa, dược phẩm…, định giá theo ý muốn (cao hơn hoặc thấp hơn so với thị trường quốc tế) với lý do chênh lệch giá sẽ thuộc về ngân sách Nhà nước. Trong tình hình khó khăn về ngân sách Nhà nước, những đề xuất này có vẻ hợp lý và Chính phủ có lý do để xem xét, vì đã có tiền lệ tuyên bố Nhà nước độc quyền kinh doanh về vàng miếng như theo Nghị định 24/2012/NĐ-CP.
Để đảm bảo môi trường kinh doanh minh bạch, chúng tôi đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội căn cứ Điều 91 Hiến pháp, tạm đình chỉ hiệu lực quy định Nhà nước độc quyền kinh doanh vàng miếng trong Nghị định 24/2012/NĐ-CP và yêu cầu Chính phủ hủy bỏ nội dung này, vì nội dung đó không phù hợp với Luật Ngân hàng 2010, Luật các Tổ chức tín dụng 2010, Luật Thương mại, Pháp lệnh ngoại hối 2005.
Trân trọng.
Trần Vũ Hải
Dẫn theo Tễu’sblog








May 6, 2013
Thống đốc đã đúng trừ việc nói dân được lợi
Thống đốc cũng đã, cực kỳ dũng cảm, chấp nhận điều tiếng “con buôn”, phớt lờ những chỉ trích “lấy vốn của dân đi mua vàng”, bỏ qua luôn chuyện bị đánh giá “dân chỉ thấy hoạt động nổi bật của ngân hàng nhà nước là lo bán vàng”. Thống đốc đã đúng trong vai một viên cẩm cầm dùi cui ổn định thị trường. Trừ việc cho rằng nhân dân được lợi
Thống đốc Nguyễn Văn Bình, trên truyền hình quốc gia đã đáp rằng: “Chênh lệch giá vàng là thuộc về đất nước, thuộc về nhân dân”. Để rõ nghĩa hơn, Thống đốc lý luận: Nếu mua vàng giá cao hơn thì cũng bán giá cao, do vậy sự chênh lệch ở đây không phải là thiệt thòi của người mua và bán”.
Và đây là câu trả lời cho câu hỏi tưởng như khó, rằng: Giá vàng trong nước và thế giới chênh lệch cao thì ai sẽ là người được hưởng lợi?
Đây có lẽ là căn nguyên cho những cái tít báo: “Nhân dân và đất nước có lợi từ chênh lệch giá vàng”.
6-7 triệu chênh lệch giữa một lượng vàng trong nước và thế giới là một con số kỷ lục. Nhưng thật ra, Thống đốc đã nói đúng. Người dân phải mua cao, nhưng cũng có thể bán với giá cao, bởi sự liên thông giữa thị trường trong nước và thế giới đã được “dựng barie” rồi còn đâu. Nhớ lại một thời, cũng vừa mới qua đây thôi, khi người người mua vàng, nhà nhà bán vàng với “hoạt cảnh mổ bò” trên phố Hà Trung, khi sàn vàng đúng nghĩa như một sòng bài, Thống đốc đã cho “dựng barie” cả ở việc cho nhập khẩu vàng tự do, cả ở việc hoạt động của các sàn vàng.
Hôm qua, ông trả lời cực nhất quán, rằng mục tiêu là ổn định thị trường chứ không ổn định giá. Rằng: “Đến nay, toàn bộ hoạt động (nhập vàng) do nhà nước đảm nhiệm nên toàn bộ chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới là thuộc về ngân sách nhà nước”.
Nhưng hóa ra, việc “dựng barie” để sau đó, NHNN trở thành một thứ con buôn độc quyền.
Nhưng ngay cả như thế, Thống đốc cũng đã dũng cảm chấp nhận điều tiếng “con buôn”, phớt lờ những chỉ trích “lấy vốn của dân đi mua vàng”, bỏ qua luôn chuyện bị đánh giá “dân chỉ thấy hoạt động nổi bật của ngân hàng nhà nước là lo bán vàng”.
Thống đốc đã đúng trong vai một viên cẩm cầm dùi cui ổn định thị trường. Trừ việc cho rằng nhân dân được lợi.
Rất đơn giản, dù “viên cẩm” có muốn hay không thì trong dân, vàng vẫn đang được sử dụng với 3 chức năng chính: Thanh toán, với “đơn vị tiền tệ” là “cây”, “chỉ”; Tích trữ tài sản dự phòng rủi ro- từ cả ngàn năm nay đã trở thành một tập quán; Và thứ 3: Một phương tiện đầu tư kiếm lời.
Nhớ hồi việc mua bán vàng miếng bị ngăn cấm, để “Làm sao đưa toàn bộ lượng vàng vật chất có trong dân chúng vào kho quản lý tập chung do nhà nước quản lý” và, trên cơ sở vàng của mình nằm trong “ống bơ nhà nước” này người dân có vàng “có thể mở tài khoản tại công ty kinh doanh vàng và yêu cầu các công ty này thực hiện việc lưu ký vàng…”, ông Bình, khi đó còn là Phó Thống đốc khẳng định sẽ “ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động đầu cơ, găm giữ, thao túng thị trường”.
Đầu cơ đã được ngăn chặn, thao túng cũng bị đầy lùi, nhưng việc “găm giữ” của dân thì còn lâu.
Người dân thà bị bắt chứ quyết không đổi vàng sang vnd, một đơn vị tiền tệ cần phải nói thẳng thắn với nhau là chưa được bất kỳ quốc gia nào khác chấp nhận và mỗi năm mất giá gần 2 con số.
Tham vọng “đưa vàng vào tập thể” đã thất bại trước thói quen tích trữ đề phòng rủi ro rất chính đáng của người dân. Và việc phải mua đắt 5-7 triệu cho mỗi lượng vàng khó có thể coi là hưởng lợi??????
Cũng cần phải nói thêm rằng nếu Thống đốc đã khẳng định nhân dân cũng được lợi từ chênh lệch giá vàng, thì có lẽ, còn lâu giá vàng trong nước về vế bên kia của dấu bằng so với giá vàng thế giới.








Gia đình blogger Hoàng Vi bị công an khủng bố

Bà Nguyễn Thị Cúc bị Công an đánh sưng mắt và dí thuốc lá đang cháy vào trán. (Hình: VRNs)
NQL: Không thể tưởng tượng được công an nhân dân là hành xử với dân lành du côn như đám xã hội đen, tàn ác như những tên khủng bố. Bây giờ mới hiểu vì sao nhiều người chết thảm tại đồn công an.
Theo tin được các bloggers truyền nhau trên các mạng xã hội, blogger Nguyễn Hoàng vi và bà mẹ (bà Nguyễn Thị Cúc), em gái, Nguyễn Thảo Chi, con trai và người bạn Châu Văn Thi, tới trụ sở công an phường Phú Thạnh, quận Tân Phú, để đòi lại các tài sản cá nhân mà Hoàng Vi đã bị công an cướp mất.
Các tài sản này gồm một máy ipad, một điện thoại di động, một thẻ nhớ 2GB và bóp đựng tiền trong có 600,000 đồng. Công an bắt cóc cô lúc cô tham dự buổi sinh hoạt ngoài trời sáng Chủ Nhật 5/5/2013 “dã ngoại nhân quyền” đã được loan báo rộng rãi từ trước.
Dù nhất định không chịu về nếu không nhận lại được các tài sản đã bị cướp, cô cũng vẫn bị Công an khống chế và hộ tống về nhà chứ không chịu trả. Ngày hôm sau tức Thứ Hai, thì cô và các người thân trong nhà tới trụ sở công an phường nói trên tiếp tục đòi.

Cô Nguyễn Thảo Chi, em của blogger Nguyễn Hoàng Vi, bị Công an đánh hội đồng, gẫy 3 cái răng. (Hình: VRNs)
Tại đó, không những không trả các tài sản của công dân bị cướp đoạt không hề có biên bản như luật lệ của chế độ đòi hỏi, những người đi đòi còn bị đám Công an trong phường Phú Thạnh đánh hội đồng rất dã man.
Theo sự mô tả lại, bà Nguyễn Thị Cúc, 57 tuổi, không những bị Công an đánh sưng mặt mà còn lấy điếu thuốc lá đang cháy dí vào trán. Cô Nguyễn Thảo Chi, 22 tuổi, em Hoàng Vi, bị Công an đánh nặng nhất, gãy 3 cái răng và mất nhiều máu.
Nhằm khủng bố tinh thần cô và cả gia đình, nhà cầm quyền địa phương đã huy động một lực lượng đông đảo gồm nhiều thành phần khác nhau đến nhà cô.
“…chiều nay lúc 14g tại công an phường Phú Thạnh, quận Tân Phú, nhà cầm quyền huy động rất đông công an, dân phòng, Hội phụ nữ…đoàn viên, thanh niên đến đàn áp, đánh và sách nhiễu gia đình Hoàng Vi cũng như bạn bè của cô”, báo mạng chacuuthe.com tường thuật.

Blogger Nguyễn Hoàng Vi.(Hình: VRNs)
“Mình thì đã quá quen với những trò khốn nạn của nhà cầm quyền mà công cụ là lực lượng an ninh rồi…Nhưng đau nhiều khi chiều nay chứng kiến cảnh bọn họ huy động tất cả các lực lượng công quyền: công an, dân phòng, hội phụ nữ, đoàn viên – thanh niên của phường để đánh đập gia đình và bạn bè mình…Nước mắt rơi thật nhiều…Nhưng vẫn cố gắng cầu nguyện đừng để lòng mình hận thù họ… Và xin ban bình an & sức mạnh lên những người đã bị nhà cầm quyền bách hại chiều nay…” Cô Hoàng Vi viết trên facebook.
Theo nguồn tin, Bà Cúc, cô Thảo Chi và blogger Châu Văn Thi (bị đánh vào đầu) tới bệnh viện quận 3 điều trị thương tích cũng vẫn bị một đám Công an đông đảo bám theo và tiếp tục khủng bố.
Theo nguồn tin của Dân Làm Báo “sau khi đánh đập dã man gia đình Hoàng Vi tại đồn CA, bọn chúng tiếp tục bám theo mọi người đến bệnh viện. Khi vừa xuống xe tại bệnh viện, bọn chúng lại bất ngờ lao đến hành hung gia đình và bạn bè Hoàng Vi. Gia đình và bạn bè cô liên tục hứng chịu những đòn trả thù hết sức tàn bạo của những tên công an, côn đồ. Mẹ của Hoàng Vi dù rất yếu do bị lên cơn đâu tim cũng bị những tên công an, mật vụ dùng điếu thuốc đang cháy đâm thẳng vào mặt”.
Buổi sinh hoạt phân phát và thảo luận về bản “Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền” được các nhóm công dân có tên là “Công dân tự do” tổ chức tại 3 địa điểm Hà Nội, Nha Trang và Sài Gòn buổi sáng Chủ Nhật 5/5/2013. Nhà cầm quyền CSVN đã huy động một lực lượng Công an thật đông đảo để đàn áp ngay từ khi họ bắt đầu xuất hiện. (TN)








Phương án và cơ hội nhân sự Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam đang đứng trước cơ hội tiến hành một cuộc cách mạng nếu kịp thời thay đổi nhân sự vào thời điểm hiện nay mà không chờ tới năm 2016 khi nhiệm kỳ hiện tại của Ban chấp hành Trung ương Đảng kết thúc.
Nhận xét được nhà quan sát từ nước ngoài, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng thuộc Đại học George Mason, Hoa Kỳ, nói với BBC nhân dịp Hội nghị Trung ương 7, khoá XI của Đảng Cộng sản đang diễn ra từ ngày 02-11/5/2013.
Giáo sư Hùng nói: “Hội nghị này có nhiều vấn đề chứ không phải chỉ về nhân sự, nhưng có lẽ nhân sự là quan trọng nhất. Nó trùng hợp với thay đổi Hiến pháp, nhưng nhân sự là thay đổi quan trọng nhất.
”Thứ nhất họ đã đưa ông Nguyễn Bá Thanh về làm Nội chính rồi, vấn đề đặt ra là họ có đưa ông Thanh vào Bộ Chính trị hay không. Nếu không thì thấy quyền của ông Nguyễn Bá Thanh cũng kém và việc đánh tham nhũng hay sự sắp xếp thay đổi nhân sự cũng không có gì ghê gớm cả.”
Nhà nghiên cứu bình luận về vị thế của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và chiều hướng vận động:
”Nhiều người chán ông Trọng, nhưng không thấy rõ sự vận động để thay thế ông Trọng… Bây giờ thay đổi mà ghép hai vị trí vào, tôi thấy là việc làm hợp lý và tôi nghĩ nhiều người ở Việt Nam cũng nghĩ là phải làm chuyện đó.
Về chiều hướng chuyển động, thay đổi nhân sự trên chính trường Việt Nam, Giáo sư Hùng nói:
”Trong trường hợp muốn có lãnh đạo mới và phối hợp hai chức Chủ tịch nước và Tổng bí thư Đảng, thì phải có một thời gian, nếu thời gian đó phải chờ đến 2016, thì tôi thấy là quá muộn để cho Việt Nam làm tốt được.
”Nếu họ chờ đến 2016 thì muộn quá rồi, còn nếu làm bây giờ thì tôi nghĩ đó là sự chuyển động có tính cách cách mạng.”
‘Ai thay Thủ tướng?’
[image error]
Tôi nghĩ bây giờ nên hợp nhất hai chức vụ đó lại (Tổng Bí thư và Chủ tịch Nước), ông Dũng nắm cũng được mà ông Sang nắm cũng được, rồi hợp nhất lại đi. Tôi nghĩ ông Trọng nên nghỉ lúc này”- Blogger Trương Duy Nhất
Ông nói: “Để nói rằng ông nào đánh ông nào, có thật hay không, bây giờ làm sao mà nói được, nhưng người dân người ta nhìn vào thấy nó rối lên. Nó rất bất an. Dư luận người ta nhìn vào, người ta thấy rối, người ta đánh giá thế thôi.”
Ông Nhất cho rằng hội nghị Trung ương 7 đang diễn ra tại thời điểm trong nội bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng thiếu một sự thống nhất, ăn khớp:
”Sự thống nhất giữa Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương thiếu ăn khớp, thống nhất với nhau… Sự thống nhất và uy lực của Bộ Chính trị qua các hội nghị Trung ương gần như không bằng các nhiệm kỳ trước,” ông nói.
”Như Hội nghị 6 chẳng hạn, ví dụ trường hợp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, khi đó Bộ Chính trị thống nhất đề nghị xin ý kiến Trung ương để có một hình thức kỷ luật nào đó và xin ý kiến Trung ương,
”Nhưng ra Trung ương bỏ phiếu thì lại phần lớn không đồng ý với ý kiến của Bộ Chính trị, mà lại bác đi, không kỷ luật Thủ tướng. Những cái đó nói lên điều rằng sự thống nhất của Bộ Chính trị không được sự đồng tình của phần đông Ban Chấp hành Trung ương.”
Ông Nhất, do đó, đặt vấn đề về uy tín của ông Tổng bí thư Đảng Cộng sản và cho rằng ông Nguyễn Phú Trọng nên cân nhắc rời chức vụ sớm:
“Trước tình hình như thế này, tình hình nội tại như thế này, tôi nghĩ người nên ra đi là Tổng Bí thư. Theo tôi, Tổng Bí thư nên ra đi. Nhưng thực tế có hay không, thì theo tôi ông Trọng khó ra đi lắm…
”Giả sử cứ cho ông Trọng nghỉ đi, thì (thay thế) chỉ có hai nhân vật là Thủ tướng và Chủ tịch Nước thôi, và tôi nghĩ bây giờ nên hợp nhất hai chức vụ đó lại (Tổng Bí thư và Chủ tịch Nước), ông Dũng nắm cũng được mà ông Sang nắm cũng được, rồi hợp nhất lại đi. Tôi nghĩ ông Trọng nên nghỉ lúc này.”
Trao đổi với BBC, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng cũng nhấn mạnh Đảng cần cân nhắc khía cạnh ‘chỉ huy thống nhất’ trong nội bộ lãnh đạo cao cấp, đặc biệt qua phương án hợp nhất hai chức vụ đứng đầu Đảng và nhà nước.
Ông nói: “Làm việc đó mới có chỉ huy thống nhất để làm chuyện khác quan trọng, cả trong việc đối nội, nhất là trong việc đối ngoại. Bởi vì cứ chia phân ba như thế thì không có cách gì có chỉ huy thống nhất được.”
‘Cảnh báo trong, ngoài’
[image error]
Làm gì thì làm, đừng quá lệ thuộc vào Trung Quốc, cũng nên nhìn thấy một bàn tay thiện chí từ Phương Tây đang đưa ra đối với Việt Nam”- Nhà báo tự do Phạm Chí Dũng
mối tương quan này, trong một mối tương quan khác liên quan tới các đồng minh chiến lược đã và trong tương lai của Việt Nam ở Nhật, ở Mỹ và Liên minh Châu Âu.
“Làm gì thì làm, đừng quá lệ thuộc vào Trung Quốc, cũng nên nhìn thấy một bàn tay thiện chí từ Phương Tây đang đưa ra đối với Việt Nam.
”Điều đó sẽ liên quan, tác động tới những vấn đề nhân sự và những biến động nhân sự của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, có thể không chỉ trong hội nghị này, mà còn trong các hội nghị tiếp theo.
”Tôi nghĩ sẽ phải mất một thời gian nữa, ít nhất là từ một năm, tới một năm rưỡi, để giải quyết một số vấn đề nào đó về nhân sự trong Bộ Chính trị, chứ không phải được ngay bây giờ.”
Hôm Chủ Nhật, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng cũng cảnh báo rằng Việt Nam đang ở trong một tình trạng nguy hiểm khi có thể đối diện bất cứ lúc nào với nguy cơ đổ vỡ bất lường do các bế tắc về thể chế, cũng như lộ trình, kịch bản thoát ra.
Ông nói: “Ở Việt Nam không có một triệu chứng gì cho thấy người ta sẽ chịu chuyển quyền hòa bình, ôn hòa cả. Ở Việt Nam cũng không có những định chế cho chuyển quyền ôn hòa như trong trường hợp Miến Điện. Cho nên nếu chuyển quyền thì nó sẽ là một sự sụp đổ,
”Thành ra tôi rất e ngại rằng trước hết là không tiên đoán được và khi đã sụp đổ xảy ra thì chỉ là trường hợp tức nước vỡ bờ, thì không ai có thể tiên đoán được lúc nào là tức nước vỡ bờ cả,” nhà quan sát và học giả từ Hoa Kỳ nói với BBC.








Phải chăng đó mới là suy thoái?
Định chả viết, ngại người ta bảo mình lạc đường sang bàn chuyện chính chị chính em. Nhưng ai bảo đây không phải là vấn đề xã hội, chứng minh xem nào. Mà đã xã hội thì tôi chả tránh, có quyền có ý kiến như mọi công dân bình thường.
Thì cái chuyện đảng cầm quyền đang họp hội đó mà. Chuyện riêng của họ, thực ra đối với tôi chả có ý nghĩa gì, không muốn quan tâm. Họp kín như bưng, dân chẳng ai biết họ bàn luận cái chi, ra sao, mặc dù người họp lúc nào cũng bảo vì dân do dân. Thì dân không biết đã đành một nhẽ, nhưng khổ nỗi thông tin cứ kín kín hở hở xì ra. Đến khổ.
Chẳng hiểu những điều mà dư luận xì xầm mấy bữa qua có đúng không, đúng bao nhiêu phần trăm, hệ thông tin chính thống nhà nước chưa công bố nên càng nhiều mù mờ, đồn đoán. Giả dụ đó là sự thật thì tôi nghĩ như thế này:
1.Hội nghị của đảng, họp công khai nhưng rất bí mật, khai mạc ngày 2.5, đến hôm sau cứ họp tới đâu thông tin xì ra tới đó, nhất là buổi tối. Dân đen đếch có anh nào bén mảng được, nhà báo cũng không, vậy chắc phải có kênh có nguồn. Cứ đặt trường hợp “bị lộ tin” thì cái gọi là ban Bảo vệ chính trị nội bộ quá kém, bất lực. Tuy nhiên tôi lại cho rằng chuyện “xì-tin” phải được sự điều khiển, cho phép, tạo điều kiện của ai đó thì mới tòi ra dễ thế. Dân gian thường gọi nôm na dạng này là phe phái chơi nhau.
2.Nếu đúng như những thông tin đã phát lộ thì điều mà xưa nay đảng vẫn tự hào “sự đoàn kết trong đảng” đã có vấn đề. Nhớ lại khi xưa, chủ trương của cấp cao, của cá nhân lãnh đạo cao nhất thường được quán triệt nhất trí gần như trăm phần trăm, nay thì các ủy viên trung ương không lừ khừ như ông từ giữ đền, chuyên gật đầu nữa. Họ sử dụng quyền tư duy của mình để khẳng định mình không phải rô bốt. Thực tế đảng đã không thể kiểm soát được những thành viên của mình theo mệnh lệnh, theo khuôn khổ áp đặt. Đối với đảng, đó là bước lùi; nhưng với dân chủ trong đảng, đó là bước tiến.
3.Uy quyền của người đứng đầu đảng (bí thư thứ nhất, sau này là tổng bí thư) từ trước đến nay luôn là tối thượng. Mặc dù đảng đề ra nguyên tắc lãnh đạo tập thể nhưng quyền quyết định thường dành cho Bộ chính trị, tổng bí thư. Đã có luật bất thành văn, tổng bí thư làm gì cũng ít khi sai, cứ thế mà theo đã, sai đâu tính sau. Nhưng giờ đây vai trò vị trí uy quyền của tổng bí thư bị xuống dốc thê thảm. Bằng chứng là những điều ông ấy muốn nhưng người ta không làm theo mà ông ta không làm gì được.
4. Hồi thăm Phú Thọ, ông tổng bí thư có nhắc đến sự suy thoái. Nhiều ý kiến cho rằng ông ấy dùng chữ suy thoái không đúng đối tượng, hoàn cảnh, vụ việc. Có nhẽ lần hội nghị này, chữ suy thoái ấy mới được thể hiện rõ chăng, đúng đối tượng chăng?
6.5.2013








Thư ngỏ gửi BCHTƯ Đảng nhân Hội nghị TƯ 7 khoá XI
Kính gửi Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Tôi là Đào Tiến Thi, thường trú tại 113E Hoàng Hoa Thám, Ba Đình, Hà Nội, chứng minh nhân dân số 013060932; là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (thẻ Đảng số 97 003164); lĩnh vực hoạt động: biên tập sách, nghiên cứu văn học (hiện là hội viên Hội Văn học nghệ thuật Vĩnh Phúc), nghiên cứu ngôn ngữ (hiện là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam).
Với ý thức trách nhiệm trước vận mệnh đất nước, tôi trân trọng gửi đến BCH Trung ương một số ý kiến về bài học có thể rút ra từ cuộc vận động canh tân của các sỹ phu Nho học đầu thế kỷ XX.
Thưa quý vị Trung ương
Dân tộc Việt Nam cũng như Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay đang đứng trước tình thế buộc phải lựa chọn con đường tồn tại và phát triển của mình, nếu không muốn bị diệt vong.
Qua nghiên cứu lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy đây là giai đoạn dân tộc ta đột nhiên thức tỉnh và hội nhập với thế giới hiện đại, mà người khai sáng lại chính là những con người thế giới cũ: tầng lớp sỹ phu Nho học cuối cùng của chế độ phong kiến thời kỳ suy tàn. Họ là những nhà cách mạng, nhà văn như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Nguyễn Thượng Hiền, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền,… Họ có thể đứng chân ở những tổ chức khác nhau (Đông du, Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục,…), hoạt động trên những lĩnh vực khác nhau nhưng đều chung một chí hướng: quyết tâm canh tân đất nước, đồng thời “thay máu” chính mình.
Để làm được điều đó, các cụ thời ấy đã phải phá lệ, cụ thể đã phải làm ít nhất ba việc “phản lại” truyền thống sau đây:
-Kịch liệt phê phán ý thức hệ Nho giáo, đề cao dân quyền, coi dân quyền là cội nguồn của quốc gia thịnh trị;
-Từ bỏ đặc quyền đặc lợi của chính mình – một giai cấp đã ăn trên ngồi trốc một nghìn năm;
- Đón nhận những yếu tố tiến bộ từ phía kẻ thù với một tinh thần cầu thị cao.
Chúng tôi thấy những điều này là bài học rất hay cho Đảng Cộng sản Việt Nam hôm nay. Dưới đây xin phân tích cụ thể hơn.
1. Kịch liệt phê phán ý thức hệ Nho giáo, đề cao dân quyền, coi dân quyền là cội nguồn của quốc gia thịnh trị
Nho giáo là một hệ tư tưởng – chính trị – đạo đức có ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam. Trong suốt một nghìn năm dưới chế độ phong kiến, Nho giáo chi phối toàn bộ đời sống xã hội, đặc biệt là đối với giai cấp phong kiến. Theo chúng tôi, Nho giáo có ba phần: phần tư tưởng (triết học), phần học thuyết chính trị và phần đạo đức. Ở đây xin chỉ bàn phần học thuyết chính trị (cũng là phần chủ yếu của Nho giáo) trong quan hệ với tầng lớp sỹ phu nói trên. Chúng tôi tạm dùng thuật ngữ ý thức hệ Nho giáo thay vì học thuyết chính trị Nho giáo để nó tương ứng với các thuật ngữ hiện nay thường dùng như ý thức hệ Mác – Lênin, ý thức hệ tư sản, tức là tạm tách chúng ra khỏi các bình diện tư tưởng và đạo đức trong các học thuyết đó.
Nho giáo đặt ra những tam cương, ngũ thường, ngũ luân,… để tạo ra các rường mối xã hội chặt chẽ mà thực chất cuối cùng chỉ để đặt ông vua làm chủ nhân của đất nước. Các quan chỉ tuân theo lệnh vua, còn “thần dân” thì tuân lệnh các quan. Nói cách khác, chỉ có nhà vua là “công dân đích thực”, còn tất cả đều là nô lệ. Trong xã hội ấy, quyền (cũng như ơn huệ) đều từ trên ban xuống và người dưới chỉ có thực hiện, chứ không có chiều ngược lại. Cho nên nếu may mắn gặp được “vua thánh tôi hiền”, biết “chăn dân” (tương tự như chăn đàn cừu) thì dân được nhờ, còn nếu vua quan bạo ngược thì dân cũng không có quyền chống lại.
Các triều đại phong kiến thường tuyên truyền rằng xã tắc là của “tiền vương”, “tiền triều” của họ để lại. Đó chẳng qua là một cách đánh tráo. Các sỹ phu Nho học đầu thế kỷ XX đã đặt ngược lại: người dân mới chính là chủ nhân của đất nước. Bởi vì chính nhân dân là người xây đắp nên đất nước. Phan Bội Châu viết: “Phát cây bụi lá gai góc, khó nhọc để mở ra thế giới này, không phải là tay chân của hàng nghìn vạn người chúng ta chăng? Sớm chuyên chở, chiều chuyên chở đất cát để lấp kín khe núi kia, không phải là máu mỡ mồ hôi của tổ tiên hàng nghìn vạn người chúng ta chăng? Tổ tiên ta đem nước để lại cho con cháu. Ta là con cháu, ta nhận nước ở tổ tiên ta. Nước vốn là gia tài của dân ta”.
Các sỹ phu cũng thấy rõ nền chính trị toàn trị của nhà nước phong kiến là nguyên nhân của mọi thối nát, từ cung đình cho đến dân gian. Con người quen sống trong phục tùng và sự sợ hãi, trở nên ngu hèn, mất cả khả năng nhận thức:
Quyền dân chủ trên đầu ức chế
Trải nghìn năm dân trí còn gì.
(Phan Bội Châu)
Vì dân không có quyền gì trên chính đất nước của mình cho nên tất nhiên cũng thờ ơ với vận mệnh đất nước; chưa kể, còn quay lại xâu xé nhau vì những cái lợi nhỏ nhen: “Suốt cả thành thị cho đến hương thôn, đứa gian giảo thì như ma, như quỷ, lường gạt, bóc lột, cái gì mà chẳng dám làm; đứa hèn yếu thì như lợn như bò, giẫm cổ đè đầu cũng không dám ho he một tiếng. Cả mấy mươi triệu người như một đàn ruồi lũ kiến, không còn chút nhân cách nào” (Phan Châu Trinh).
Ngày nay ta đưa khẩu hiệu “dân giàu, nước mạnh”, còn các chí sỹ thời ấy dùng “dân mạnh”, “dân khôn”, thiết nghĩ là chính xác hơn. Dân giàu chưa chắc đã là “dân mạnh” và dân giàu chưa chắc đã làm cho nước mạnh (nếu ý thức công dân kém, nếu sống bo bo, ích kỷ thì chỉ có hại cho đất nước). “Dân mạnh” trước hết là mạnh về ý chí, mạnh về tri thức, mạnh về nghề nghiệp, sau đó mới là mạnh về sản nghiệp. Quan hệ dân – nước là quan hệ:
Nước muốn mạnh thời dân phải mạnh
Dân có khôn thời nước mới khôn.
(Thơ Đông Kinh nghĩa thục)
Nếu công cuộc duy tân thắng lợi thì hình ảnh đất nước ta sẽ là hình ảnh một xã hội dân trị (chữ thời đó thường dùng để phân biệt với quân trị). Phan Bội Châu viết: “Sau khi đã duy tân rồi thì dân trí sẽ được mở mang, dân khí sẽ lớn mạnh, dân quyền sẽ phát đạt, vận mệnh nước ta do dân ta nắm giữ. Giữa đô thành nước ta đặt một toà nghị viện lớn. Bao nhiêu việc chính trị đều do công chúng quyết định. Thượng nghị viện phải đợi trung nghị viện đồng ý, trung nghị viện phải đợi hạ nghị viện đồng ý mới được thi hành. Hạ nghị viện là nơi đa số dân chúng có quyền tài phán việc của trung nghị viện và thượng nghị viện. Phàm là dân nước ta, không cứ sang hèn, giàu nghèo, lớn bé đều có quyền bỏ phiếu bầu cử. Trên là vua nên để hay truất, dưới là quan nên thăng hay giáng, dân ta đều có quyền quyết đoán cả”.
2. Từ bỏ đặc quyền đặc lợi của chính mình – một giai cấp đã từng “ăn trên ngồi trốc” suốt một nghìn năm
Bác bỏ ý thức hệ Nho giáo, đề cao dân quyền, các sỹ phu Nho học thời đó cũng đương nhiên tự tước đi quyền và lợi của mình. Bởi vì cho đến lúc đó, tuy chủ quyền quốc gia đã mất nhưng bộ máy phong kiến vẫn được duy trì. Các sỹ phu thời ấy vẫn thoải mái ăn trên ngồi trốc, vinh thân phì gia nếu muốn. Thực tế trong số họ cũng đã có người đỗ đạt cao, có thể nhận lấy sắc phong của vua (hay của quan toàn quyền, thống sứ) để ra làm quan (một số đã từng ra làm quan như Nguyễn Thượng Hiền, Phan Châu Trinh,…) nhưng họ đã chọn con đường dấn thân vì đất nước. Những hoạt động cách mạng của họ, chưa kể nỗi nguy hiểm do chính sách đàn áp của thực dân và phong kiến (hàng loạt chí sỹ đã bị giết hoặc bị tù đày), mà nếu thành công thì cũng không phải để họ “được làm vua”, mà để xây dựng một chế độ xã hội hoàn toàn khác: chế độ dân trị (dân chủ). Người nhà nước, theo quan niệm của các sỹ phu, chẳng qua là những người được nhân dân thuê mướn để quản lý xã hội: “Than ôi, nước không phải là gia tài tổ nghiệp của dân ta hay sao? Dân nước ta không phải là chủ nhân đời đời giữ gia tài tổ nghiệp này chăng? Sao dân ta lại bỏ cái quyền làm chủ nhân, bỏ cái chức trách làm chủ nhân của mình? Đem sự mất còn hưng phế của cái gia tài tổ nghiệp gửi cho bọn nhân công được thuê mướn để trông nom, không những không thể khiến gia tài tổ nghiệp mãi mãi do mình thừa kế, mà lại còn không cả gia tài tổ nghiệp này phải thuộc về mình” (Phan Bội Châu).
Dân quyền như vậy là một quyền hết sức tự nhiên, không phải do giai cấp thống trị ban phát. Xem thế thì các cụ đã “phản bội” lại quyền lợi của giai cấp của mình, nhưng đó là sự “phản bội” vĩ đại, là “cái gì của Xê-da trả lại cho Xê-da”.
Một loại đặc quyền khác của nho sỹ trong chế độ quân trị là danh vọng, mà thực ra phần nhiều là hư danh. Các sỹ phu đương thời cũng ném con mắt khinh bỉ vào các thứ hư danh đó: “Người trong nước (quân trị) không cần nhân cách, không cần học thức, không cần làm sự nghiệp gì, chỉ tính sao mua được chút quan, nho nhỏ cũng được chút phẩm hàm (…). Những nước ấy thì trong nước nó chỉ lủng củng có quan với phẩm hàm thôi, chứ có nhân vật gì nữa đâu, nước nó thường bị mất trước hơn mọi nước” (Ngô Đức Kế).
Còn có một thứ đặc quyền nữa cũng bị các cụ lên án gay gắt là đặc quyền “yêu nước”. Chế độ quân chủ “cấm học trò và dân không được nói đến chính trị”, vì “biết chính trị nhiều thì sinh ra cách mạng” (Phan Châu Trinh). Nhưng hậu quả là đặc quyền ấy quay trở lại tiêu diệt chính nó: “Có hay đâu giữ khéo quá thì dân trong nước nó ngu, không động đến ngôi vua thật, mà các nước ngoài họ tới họ lấy thì dễ như chơi, nghĩa là dân nó ngu, nó không biết nước là cái gì nữa cả. Ta thử xem gương nhà Tống trước thì mất với Liêu, sau mất với Kim, rồi sau mất với Mông Cổ; còn nhà Minh thì lại mất với Mãn Châu, Cao Ly thì mất với Nhựt Bổn, An Nam thì mất với Tây” (Phan Châu Trinh).
3. Đón nhận những gì tiến bộ đến từ phía kẻ thù với một tinh thần cầu thị cao
Ban đầu, người phương Tây đến nước ta để buôn bán, chưa phải là kẻ thù. Nhưng vua quan nhà Nguyễn theo thói quen kỳ thị của Nho giáo hủ lậu và cũng học đòi các vua chúa Trung Hoa, tự coi mình là “văn minh” mà miệt thị người Tây là “di”, “rợ”, nên đã thi hành chính sách “bế quan toả cảng” với họ. Thậm chí khoa học, kỹ nghệ, máy móc của phương Tây cũng bị coi là là thứ “quỷ thuật”, “cơ xảo”, có thể làm hỏng đạo Thánh hiền! Về sau, phải đương đầu với sức mạnh của họ thì lại quá sợ hãi, vào trận chưa đánh đã bỏ chạy, cuối cùng triều đình bó tay đầu hàng (khi chưa đến mức phải đầu hàng). Và khi thua rồi thì không tìm căn nguyên, lại đổ cho “mệnh trời”, cho “khí số” đã hết.
Nhưng đến thế hệ các sỹ phu đầu thế kỷ XX, nhờ đọc tân thư, nhờ độc lập suy nghĩ, họ hiểu ra căn nguyên vì sao mà Tây thắng ta thua. Ấy là chỉ bởi cái nguyên lý “ưu thắng liệt bại” (mạnh được yếu thua) của cuộc cạnh tranh sinh tồn tất yếu này. Nhưng vì sao người Âu mạnh giỏi mà ta yếu hèn? Văn minh tân học sách (một bài trong sách giáo khoa của Đông Kinh nghĩa thục thời đó) cắt nghĩa (tóm tắt) như sau:
Thứ nhất, về tư tưởng, văn minh châu Âu lấy nguyên lý động làm nguyên lý tồn tại và phát triển. Muốn động thì phải khuyến khích sự tương phản (đối lập): “Thế nào là ảnh hưởng tương phản? Xét ra các nước châu Âu, trên có nghị viện duy trì quốc thị, dưới có báo quán để đạo đạt hạ tình. Đại trước tác thì có Dân ước của Lư Thoa (Khế ước xã hội của Rousseau), Tiến hoá luận của Tư Tân Đắc (Spencer), Dân quyền thiên của Mạnh Đức Tư Cưu (Bàn về tinh thần pháp luật của Montesquieu). Suy rộng ra, nào diễn thuyết, nào thi ca, đều cốt để phát huy cái chủ nghĩa yêu nước, yêu nòi giống. Nước ta có thế không? Làm văn sách thì chỉ sợ phạm huý, dâng thơ cho người trên thì chỉ e phạm tội vượt phận nói leo, chỉ chừng đó là đã khác hẳn (các nước) không cấm (nhân dân) bàn bạc”.
Thứ hai, về chính trị, “Người châu Âu họ tổ chức chính quyền trong nước có chính thể lập hiến, có chính thể quân dân cộng hoà. Có số bao nhiêu người đấy thì cử một người làm nghị viên. Hễ bàn đến một việc gì thì trước phải khai hội, kẻ bàn người nói, sớm sửa đi chiều sửa lại, cốt làm cho đúng chân lý, hợp với tình hình. Nước ta có thế không? Hành chính thì cấm thay đổi, sửa sang; dùng người thì quý sự im lìm, lặng lẽ; chiếu theo lệ cũ, nhưng lệ không nhất định; luật cũng có ban bố đấy, nhưng dân gian không được đọc luật”.
Thứ ba, về văn hoá – tinh thần, “Người Âu cho nước và dân là có quan hệ mật thiết với nhau. Cho nên có chính thể cộng hoà, mà quốc thể tức là gia thể; có tục thượng võ mà quốc hồn tức là gia hồn; có lệ hỗ trái (cho vay), mà quốc mạnh tức là gia mạnh; có lối kiêm biện (công chức được giao phụ trách một số công việc nhất định), mà quốc sự tức là gia sự; có phái tự do, mà quốc quyền tức là gia quyền. Nước ta có thế không? Ngoài văn chương, không có gì là quý; ngoài áp chế không có gì là tôn chỉ; ngoài phục tòng không có gì là nghĩ xa”.
Trên nguyên lý đó, các sỹ phu Nho học kiên quyết đoạn tuyệt với nền học “chi hồ giả dã”, cái nền học đã làm cho “người ngu nước yếu”, và họ ra sức cổ vũ học theo văn minh phương Tây:
Văn minh ta phải học khôn
Theo thầy Anh, Pháp, noi gương Hoa Kỳ
Trăm nghề học, học chi cũng học
Học thiên văn rồi học địa dư
Học toán pháp, học binh thư…
(Khuyết danh, Quảng học vấn)
Và trước ta, những nước học theo phương Tây đều trở nên văn minh:
Xiêm La trước thiệt là ngu dại
Rước thầy Anh học mãi khôn
Bây giờ dân đã tỉnh hồn
Lá cờ độc lập, gió còn phất phơ
Nhật Bổn nọ thuở vừa ngu nhược
Kén người đi các nước học hành
Bây giờ dân đã văn minh
Tiếng anh hùng đứng một mình cõi Đông…
(Khuyết danh, Quảng học vấn)
Thực ra để đoạn tuyệt cái quá khứ vàng son của mình, các cụ cũng đầy trăn trở, thậm chí đau đớn. Trước đó chưa lâu (cuối thế kỷ XIX), các cụ Nho học của ta còn tẩy chay tất cả những gì thuộc về “Tây dương”: không cho con đến trường Tây, không dùng dầu tây (dầu hoả), mạt sát những công chức làm cho sở Tây dám cả gan “vứt bút lông đi giắt bút chì”,… Ngoài ra, những con người vốn nhiều đời lặn lội trong “rừng Nho biển Thánh” (Rừng Nho biển Thánh mênh mông/ Dễ ai lặn lội cho cùng vậy vay – Nguyễn Đình Chiểu”), nay đến với nền tư tưởng và học thuật mới, cũng chẳng dễ gì tiếp thu. Thế nhưng để cứu nước cứu đời, các cụ đã phải chấp nhận những cái vốn không thể chấp nhận. Ngoài chấp nhận những điều nói trên, có thể còn phải kể cái khó chấp nhận nữa là chấp nhận quy luật cạnh tranh, vì nó rất “nghịch” với đạo Thánh hiền. Văn minh tân học sách viết: “Văn minh (hay phát triển) không phải chỉ có thể mua bằng giá trị mà thôi, mà còn phải mua bằng đau khổ nữa. Giá trị là gì? Tức là tư tưởng. Đau khổ là gì? Là cạnh tranh. Càng tư tưởng thì càng cạnh tranh, càng cạnh tranh thì càng tư tưởng. Rồi do đấy, hết thảy các khoa thanh học, quang học, trọng học, điện học (…) không môn học nào là không phừng phực nảy ra. Lý do để đi tới chỗ cực điểm của văn minh là như thế đó”.
Nếu xét một cách cục bộ thì các phong trào vận động canh tân đất nước đầu thế kỷ XX đều thất bại. Tuy nhiên, xét đóng góp của nó trong tiến trình lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, thậm chí đến tận thời điểm này, thì không hẳn là thất bại, mà có lẽ chỉ nên nói là thành công không mỹ mãn. Có thể nói như vậy, vì các phong trào ấy đã tạo ra cơ sở và lực đẩy để xã hội Việt Nam bước vào thời kỳ hiện đại, hội nhập với thế giới văn minh. Thực tế ta thấy từ những năm sau Thế chiến thứ nhất, tận dụng chính sách khai thác thuộc địa, tận dụng sách lược “hợp tác với người bản xứ” (tức “Pháp Việt đề huề”) của người Pháp, người Việt Nam, mà tiên phong là đội ngũ trí thức cũ nói trên (sỹ phu Nho học, sau này gọi là cựu học) cùng với các trí thức mới (tân học) đã chủ động nắm lấy cơ hội này để phát triển. Đường sắt, bưu điện, ngân hàng, trạm khí tượng, nhà máy, hải cảng, báo chí, trường đại học, viện nghiên cứu,…. ra đời và từ đó kéo theo sự ra đời của nhà tư sản (bây giờ gọi là doanh nhân); ra đời các ông phán, ông ký, ông thông; các bác sỹ, luật sư, kỹ sư, nhà báo, nhà văn, nhà giáo,… Nếu cứ nhất nhất tẩy chay người Pháp hoặc ngược lại, chỉ biết cúi đầu làm cu-li cho họ thì chắc cho đến năm 1945, đất nước ta vẫn không có gì. Nhưng dân tộc ta, dẫn đầu là tầng lớp trí thức, vừa vẫn tiếp tục chống thực dân Pháp lại vừa chủ động nắm lấy văn minh Pháp, hợp tác với những người Pháp tiến bộ và kết quả là đẩy xã hội Việt Nam phát triển hết sức mau lẹ. Lòng yêu nước, tinh thần dân tộc cũng theo đó mà trưởng thành. Các yếu tố này đóng góp quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945. Chưa kể, khi vừa giành chính quyền, ta có ngay những cơ sở vật chất cần thiết cùng đội ngũ các nhà chuyên môn làm rường cột cho đất nước những năm đầu độc lập và kháng chiến chống Pháp.
Thưa quý vị Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng là ngọn cờ tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp cần lao. Trong quá trình ấy, Đảng có lúc phải tận dụng ngọn cờ chủ nghĩa Mác – Lênin và CNXH. Đến nay những thứ này đã tỏ ra sai lầm và bất cập và do đó, đặt Đảng vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Chúng tôi thực sự thông cảm điều đó. Nhưng nếu cứ tiếp tục độc tôn chủ nghĩa Mác – Lênin (một thứ học thuyết nhiều sai lầm, hoang tưởng), nếu cứ tiếp tục xây dựng CNXH (một mô hình đầy phi lý, trái quy luật), nếu cứ tiếp tục tẩy chay thế giới phương Tây (một chủ trương đi ngược thời đại, vì thực chất thế giới phương Tây là những mô hình xã hội dân chủ, chí ít cũng văn minh, tiến bộ hơn ta nhiều lần) thì chỉ tiếp tục đưa dân tộc – và cả Đảng – vào chỗ bế tắc. Trước mắt, sự suy yếu của nước ta thực sự đang trở thành miếng mồi ngon cho một đế quốc đang trỗi dậy đầy tham vọng: đế quốc Trung Hoa. Nước mất thì Đảng cũng không còn, hoặc may mắn lắm thì cũng chỉ được cái hư vị như triều đình nhà Nguyễn dưới thời cai trị của thực dân Pháp mà thôi. Chúng tôi nói “may mắn lắm”, vì khả năng được như triều Nguyễn cũng khó. Người Pháp chiếm Việt Nam không cần tiêu diệt văn hoá Việt Nam; trái lại, còn giúp người Việt Nam bảo tồn văn hoá (trước Cách mạng có Viện Viễn Đông Bác cổ ở Hà Nội, có Hội Đô thành Hiếu cổ ở Huế,…) như muốn tăng sự đa dạng văn hoá cho chính quốc. Còn người Trung Quốc là hàng xóm của Việt Nam; họ không chỉ muốn nô dịch dân ta mà còn muốn thôn tính lãnh thổ nước ta, biến nước ta thành quân huyện của Trung Quốc. Bởi vậy, trong lịch sử, mỗi khi chiếm được nước ta, họ đều thi hành chính sách đồng hóa dã man và thâm độc nhằm xoá bỏ văn hoá, lịch sử và giống nòi dân tộc Việt Nam. Chính sách này cũng đã từng áp dụng đối với nhiều nước bị họ thôn tính.
Thiết tưởng nhân dân Việt Nam sẵn sàng ủng hộ Đảng tiếp tục lãnh đạo đất nước, nếu Đảng tự “lột xác”, tự “thay máu” để trở về với nhân dân, với dân tộc. Thực chất thì Đảng cũng đã từ bỏ một nửa chủ nghĩa Mác – Lênin và CNXH khi chấp nhận kinh tế thị trường. Chấp nhận kinh tế thị trường cũng là chấp nhận dân chủ trong kinh tế, nay chỉ còn một nửa còn lại là chấp nhận dân chủ trong chính trị. Nhưng chính sự nửa vời này đã dẫn đến tình trạng “đầu Ngô mình Sở”: kinh tế thị trường, vận hành theo nguyên lý thị trường nhưng bên trên lại là nhà nước XHCN, vận hành theo nguyên lý XHCN. Điều đó trái hẳn với nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin: thượng tầng kiến trúc (chính trị) phải phù hợp với hạ tầng cơ sở (kinh tế). Cốt lõi của kinh tế thị trường là tự do cạnh tranh, lẽ ra nó phải đi kèm với nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự và tự do báo chí, tự do ngôn luận để đặt nền kinh tế tự do cạnh tranh trong vòng kiểm soát của pháp luật và công luận. Thế nhưng trong thể chế “Đảng lãnh đạo”, thực chất là Đảng toàn trị, đã làm cho các yếu tố sau không thể nào có được (hoặc có một cách hình thức). Kẻ có tiền và kẻ có quyền tất nhiên sẽ “đi đêm” (và cả “đi ngày”) với nhau mà không ai làm gì được. Đó là cội nguồn của tham nhũng, của lạm quyền, của tội ác và của tất cả các tệ nạn xã hội. Tất nhiên xã hội nào cũng có các hiện tượng này, nhưng ở ta khác họ ở chỗ là nó gần như vô phương cứu chữa.
Vừa qua chúng tôi đã thất vọng qua các Hội nghị BCH Trung ương 4, 5, 6; mới đây, lại thêm thất vọng qua phát biểu khai mạc của ông Tổng bí thư tại Hội nghị BCH Trung ương 7 khi thấy chủ trương vẫn giữ nguyên tinh thần cũ, chỉ có điều chỉnh nhỏ. Tuy vậy chúng tôi vẫn hy vọng vào trí tuệ của đông đảo Ban Chấp hành Trung ương, ở đó có nhiều vị sống gần dân hơn, thực tế hơn; ở đó, vẫn còn nhiều vị có trình độ và có trách nhiệm. Lịch sử mấy chục năm qua đã chứng minh, nếu ở trên thượng tầng có ông Trường Chinh bảo thủ, cứng nhắc, thì ở tỉnh vẫn có ông Kim Ngọc thương dân, dám vượt rào. Và ngày nay vẫn thấp thoáng những Kim Ngọc ở các ông (bà) Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Văn An, Nguyễn Minh Nhị,…
Đề cập lớp nhà Nho tiên phong đầu thế kỷ XX làm bài học cho Đảng CSVN hôm nay, chúng tôi cũng mới chỉ đề cập tinh thần đổi mới nói chung, còn về cách cách thức đổi mới, nếu Đảng chấp nhận, tôi nghĩ sẽ có những chuyên gia vạch ra lộ trình cụ thể. Tinh thần đổi mới tóm lại là tinh thần cầu thị, sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì cũ nát, bảo thủ, hoang tưởng, đặc biệt, dám từ bỏ những đặc quyền đặc lợi phi lý của mình. Nếu đặt Tổ quốc và nhân dân lên trên hết thì không có gì không thể vượt qua. Nếu làm được điều đó, Đảng không những vẫn tiếp nối được sự nghiệp cao cả của thế hệ các nhà cách mạng cộng sản đầu tiên mà còn cứu được nguy cơ Đảng sụp đổ.
Do khuôn khổ một bức thư, chúng tôi không thể phân tích và biện luận đầy đủ, mà chủ yếu nêu lên vấn đề. Hy vọng sẽ được trao đổi dân chủ và cởi mở.
Đào Tiến Thi
(Ngọc Hà, đầu tháng 5-2013)








Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
