Nguyễn Quang Lập's Blog, page 21
May 8, 2013
Duy tâm
Võ Trung Hiếu
Bạn trò chuyện với ai trong nghi ngút khói hương ?
Tại sao Hitler cần phải ba lần gặp bà lão mù Vanga để tìm lời tiên đoán ?
Tại sao các nguyên thủ quốc gia vô thần vẫn cần xem ngày lành tháng tốt ?
Tại sao phải mang tảng đá gây tranh cãi nào kia trấn giữa đền Hùng ?
Nếu tồn tại trên đời hai cõi âm dương
Nếu tử vi là mẫu số chung
Và người mang số phận
Vậy còn quê hương, đất nước thì sao ?
Trên hành tinh này
Bên cạnh những hoa thơm mật ngọt
Có những vùng đất nghìn năm chưa ngớt binh đao
Có những xứ sở chưa từng ngẩng đầu hạnh phúc
Có những quốc gia héo mòn và tù ngục
Có những bộ lạc mãi lưu vong trên mảnh đất cội nguồn
Ngay cả những núi rừng suối sông
Cũng được sinh ra, buồn vui và một ngày gục chết
Vạn vật phải chăng đều không ngoài số phận
Sấp ngửa âm dương, nhân quả, mất còn …
Đừng hỏi vì sao lương ì ạch, giá cả lại tăng
Đừng hỏi vì sao lũ trẻ vùng cao vẫn bữa rau bữa cháo
Đừng hỏi vì sao những người tài năng không được làm lãnh đạo
Đừng hỏi vì sao mỗi ngày trôi qua toàn chuyện đáng buồn trên báo
Đừng hỏi vì sao nhìn đâu cũng bộn bề ngổn ngang
Câu trả lời có thể rất bàng hoàng
Cũng có thể giản đơn – Đấy là số phận !
8.5.2013
VTH
Tác giả gửi Quê Choa








Sự thật đằng sau việc NHNN liên tục bán vàng
Nói “sự thật” cho kêu vậy chứ đến nay hầu như ai cũng rõ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) bán vàng thông qua các phiên đấu thầu là nhằm giúp các ngân hàng thương mại tất toán trạng thái vàng. Vấn đề là vì sao NHNN phải làm như vậy?
Dùng chữ “tất toán” với “trạng thái” có thể gây khó hiểu. Nói theo kiểu đơn giản hóa, là trước đây ngân hàng thương mại huy động vàng của dân về hoặc đem cho vay lại, hoặc bán ra lấy tiền kinh doanh nay phải mua vàng để trả lại cho dân. Cho nên về mặt kỹ thuật có hai loại trạng thái: trạng thái cho vay và huy động và trạng thái kinh doanh. Cái đầu đã có lâu rồi còn cái sau mới có từ cuối năm 2011 và có phần trách nhiệm rất lớn của NHNN.
Đã làm thì phải chịu
Nếu nhớ lại, vào ngày 6-10-2011, NHNN thành lập nhóm G5+1, tức gồm năm ngân hàng thương mại (ACB, Đông Á, Techcombank, Eximbank và Sacombank) cộng với SJC với mục đích bình ổn giá vàng. Các ngân hàng này được chuyển đổi tối đa 40% số vàng tồn quỹ đã huy động của dân từ trước thành tiền mặt, tức bán vàng ồ ạt ra thị trường dưới danh nghĩa bình ổn giá theo yêu cầu của NHNN mặc dù trước đó đã có nhiều văn bản yêu cầu chấm dứt việc huy động vàng, cho vay bằng vàng…
Ngày đầu tiên bán ra 5 tấn và chỉ trong một tuần 10 tấn vàng đã được bán ra, sau đó lên 16 tấn (giá lúc đó khoảng 44-45 triệu/lượng, chênh lệch so với giá vàng thế giới chừng 1 triệu đến 1,5 triệu đồng).
Trên nguyên tắc, các ngân hàng này bán ra bao nhiêu vàng thì phải mua vào bấy nhiêu vàng trên tài khoản ở nước ngoài. Lúc đó ngân hàng nào được chọn cũng “phấn khởi” vì kiếm lãi dễ dàng. Nói là chỉ được bán 40% vàng tồn quỹ nhưng chắc chắn có tình trạng lấy vàng ở các ngân hàng khác về bán bởi lúc đó nhiều ngân hàng không nằm trong G5+1 vẫn nâng lãi suất huy động vàng lên cao, có khả năng đưa vàng cho G5+1 bán, lấy tiền về kinh doanh. Lãi suất huy động vàng được nâng lên cao từ 2% đến 3%, và trên nguyên tắc họ bị cấm huy động vàng nhưng vẫn huy động được theo kiểu giữ hộ. Nhiều nguồn tin nói người dân mua vàng về lại đem vào ngân hàng gởi hưởng lãi, ngân hàng lại tiếp tục bán ra. Tổng số vàng bán ra trong đợt bình ổn giá này là bao nhiêu, không rõ nhưng chắc chắn cao hơn con số 16 tấn, có lẽ vào khoảng 25 tấn như một số nguồn cho biết.
Ai nấy cứ tưởng giá vàng sẽ giảm, lúc đó họ sẽ mua lại vàng để bù lại chỗ đã bán ra hoặc cùng lắm thì nhập vàng từ tài khoản vàng ở nước ngoài về.
Không ngờ NHNN không cho nhập vàng vật chất, dành lấy vị thế độc quyền vàng, giá vàng thế giới lại tăng tiếp mãi cho đến gần đây mới giảm. Vậy là từ đó đến nay các ngân hàng liên tục mua vàng vào để tất toán trạng thái và chịu lỗ nặng. Đông Á cho biết lỗ trên 137 tỷ đồng do phải tất toán tài khoản vàng, ACB lỗ đến 1.800 tỷ đồng mới tất toán xong trạng thái. Eximbank cũng lỗ vài trăm tỷ đồng. Đó là chưa kể vàng trên tài khoản nước ngoài nay cũng lỗ vì mua với giá cao nay giá giảm mạnh.
Một người rành hoạt động kinh doanh vàng kiểu này cho rằng, do liên đới chịu trách nhiệm nên NHNN nay phải tìm cách bán vàng cho các ngân hàng thôi. Có người cho rằng các ngân hàng đã tất toán trạng thái kinh doanh vàng nay chỉ còn trạng thái cho vay và huy động vàng mà thôi. Dù sao đi nữa, vàng bán ra bao nhiêu là các ngân hàng mua hết chính vì nhu cầu tất toán đó.
Thử đặt mình vào vị trí của NHNN thì thấy nếu NHNN bán với giá thấp (gần bằng giá quốc tế) thì thiệt hại cho dự trữ quốc gia, lại mang tiếng hỗ trợ cho lợi ích nhóm; cho ngân hàng thương mại nhập khẩu thì phải bán đô-la cho họ với giá chính thức, cũng thiệt hại cho dự trữ ngoại hối. Nhưng thế thì phải nói thật, trình bày cho người dân nắm rõ chứ đừng loanh quanh lúc nói thế này lúc nói thế khác.
Thật ra, nếu NHNN lên tiếng thừa nhận sai lầm vào thời điểm yêu cầu G5+1 bán vàng bình ổn rồi làm đúng cam kết là cho các ngân hàng này nhập vàng từ tài khoản nước ngoài thì đã giải quyết được vấn đề một cách khéo léo hơn nhiều. Đằng này NHNN chọn cách giải thích vòng vo, đòi độc quyền vàng và đích thân bán vàng như một tổ chức kinh doanh. Hành động đó đã có những tác hại sẽ nói kỹ ở phần hai.
Vàng tiền tệ và vàng phi tiền tệ
Người ta thường phân vàng thành hai loại:
Vàng tiền tệ: Theo định nghĩa của các tổ chức tài chính quốc tế thì đây là loại vàng ngân hàng trung ương đưa vào dự trữ ngoại tệ. Tất cả các loại vàng còn lại là vàng phi tiền tệ. Tuy nhiên trong trường hợp Việt Nam, nhiều nhà kinh tế cho rằng cần phải xem vàng miếng do các ngân hàng thương mại huy động từ người dân, trả lãi cho họ, rồi đem cho vay cũng là vàng tiền tệ. Thậm chí vàng được đem ra để làm phương tiện thanh toán vào những năm trước cũng là vàng tiền tệ.
Vàng phi tiền tệ: Gồm cả vàng của người dân mua về làm trang sức, cất giữ như một phương tiện lưu trữ giá trị, hay vàng dùng trong công nghiệp.
Trước đây, NHNN đã làm đúng khi cố gắng hạn chế loại vàng tiền tệ, như không cho ngân hàng thương mại huy động vốn bằng vàng, không cho phép cho vay vốn bằng vàng, không được chuyển đổi vàng cất giữ dùm người dân thành tiền để kinh doanh. Nhà nước cũng dần dần xóa bỏ được thói quen dùng vàng làm phương tiện thanh toán, hiện nay ngay cả mua bán nhà, ít ai tính bằng vàng nữa. Lý do là khi tồn tại vàng tiền tệ trong nền kinh tế, xem như lượng tiền lưu thông bị thay đổi, bị khếch đại lên, mà sự thay đổi, biến động đó không nằm trong vòng kiểm soát của NHNN nên dễ xảy ra biến động tỷ giá, lãi suất…
Có lẽ phần ở trên ai cũng thấy và ai cũng đồng ý. Chính Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình cũng nói vàng là ngoại tệ.
Thế thì chỉ vì lý do như ở phần một mà NHNN lại lấy vàng từ dự trữ ngoại hối của quốc gia, tức vàng tiền tệ đem ra bán rộng rãi ra bên ngoài. Có phải Ngân hàng Nhà nước đang đi ngược lại chủ trương chống “vàng hóa” của mình? Có phải Ngân hàng Nhà nước đang pha loãng lượng tiền lưu thông bằng ngoại tệ, một yếu tố nằm ngoài sự kiểm soát của chính mình?
Quản lý dự trữ ngoại hối là một công tác quan trọng, không thể khinh suất bán hết vàng dự trữ trong khi các nước đã từng nâng tỷ lệ vàng dự trữ lên trong những năm qua. Bán như thế thì tỷ lệ vàng trong dự trữ ngoại hối sẽ giảm xuống còn bao nhiêu?
Việc Ngân hàng Nhà nước bán vàng tiền tệ ra thị trường như thế dẫn đến những hệ lụy:
- Hút tiền đồng về trong khi thị trường vẫn đang thiếu thanh khoản, dư nợ tín dụng tăng không đáng kể, đi ngược lại nỗ lực giảm lãi suất của thị trường.
- Làm giảm dự trữ ngoại hối trong bối cảnh xuất siêu chưa bền vững, vẫn còn nguy cơ nhập siêu lớn.
- Thay vì tìm cách huy động vàng trong dân như từng chủ trương, nay lại đưa vàng về cho dân cất dưới nệm.
Chính vì thế nhiều chuyên gia đã tiên đoán việc đấu thầu vàng như hiện nay sẽ không kéo dài được lâu, sẽ phải sớm chấm dứt.
Ở đây có câu hỏi nhiều người đặt ra: vì sao có sự chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế cao như thế mặc cho NHNN bán ra thị trường trên 15 tấn vàng? Lý do thì có nhiều nhưng một chuyên gia về vàng đưa ra một lý do mà tôi cho là chính xác nhất: Chừng nào NHNN còn độc quyền về vàng chừng đó giá sẽ còn chênh lệch như thế bởi độc quyền đồng nghĩa với khó mua nên dẫn đến tâm lý găm giữ vàng, ai có đều lo thủ thế nắm giữ chứ không bán ra, làm sao giá không chênh lệch cho được.
Khi NHNN nói và làm sai luật
Nghị định 86 về quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước quy định: Dự trữ ngoại hối nhà nước bao gồm “vàng tiêu chuẩn quốc tế”. Điều 10 còn nói rõ hơn: “Vàng của Quỹ dự trữ ngoại hối phải là vàng tiêu chuẩn quốc tế”.
Nghị định 24 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng quy định: “Vàng miếng là vàng được dập thành miếng, có đóng chữ, số chỉ khối lượng, chất lượng và ký mã hiệu của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước cho phép sản xuất hoặc vàng miếng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức sản xuất trong từng thời kỳ”.
Trong hai văn bản này hoàn toàn không có dòng chữ nào về vàng thương hiệu quốc gia, không đề cập đến nhãn hiệu SJC.
Ngay chính Ngân hàng Nhà nước, trong một văn bản gần đây nhất, vẫn khẳng định:
- Nhà nước công nhận quyền nắm giữ, mua, bán tất cả các thương hiệu vàng miếng hợp pháp của người dân, không có sự phân biệt đối xử và không hạn chế lưu thông các thương hiệu vàng miếng khác SJC.
- Nghị định 24 và các quy định khác của pháp luật không có quy định nào bắt buộc phải chuyển đổi các loại vàng miếng khác sang vàng miếng SJC.
Khi ra Thông tư 16, hướng dẫn thi hành Nghị định 24, Ngân hàng Nhà nước cũng chưa đề cập đến thương hiện vàng quốc gia cũng như nhãn hiệu SJC.
Đến Thông tư 06, hướng dẫn hoạt động mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước thì Ngân hàng Nhà nước mới quy định loại vàng miếng được giao dịch mua bán: “Ngân hàng Nhà nước mua, bán vàng miếng hàm lượng 99,99%, loại 01 (một) lượng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức sản xuất hoặc đã cho phép sản xuất trong các thời kỳ”. Cũng không có cụm từ “thương hiệu vàng quốc gia” hay “SJC”.
Trong lúc đó, phát biểu trước Quốc hội vào ngày 25-11-2012, Thống đốc Nguyễn Văn Bình nói “Nhà nước sẽ độc quyền về sản xuất vàng miếng và trước mắt, SJC sẽ là thương hiệu vàng của Ngân hàng Nhà nước”.
Trước đó vào ngày 4-7-2012, Phó Thống đốc Lê Minh Hưng cũng cho báo chí biết “Ngân hàng Nhà nước đã báo cáo Chính phủ và thống nhất với UBND TPHCM quyết định lựa chọn thương hiệu vàng miếng SJC là thương hiệu vàng miếng của Nhà nước”.
Như vậy luật từ nghị định đến thông tư không đề cập, chỉ có lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước phát biểu một cách chính thức về SJC đã gây ra không biết bao nhiêu là tốn kém, phiền toái và lộn xộn.
- Chỉ tính riêng việc tạm xuất vàng bốn số chín phi SJC rồi nhập lại vàng nguyên liệu cũng bốn số chín về để dập thành vàng SJC, đã lãng phí biết bao nhiêu công sức và chi phí.
- Chênh lệch giá giữa vàng SJC và vàng phi SJC ngày càng lớn cũng do những tuyên bố và cách làm này.
Như vậy rõ ràng NHNN cần phải làm hai việc để chấm dứt sự bất ổn chung quanh vàng.
- Chấm dứt việc bán vàng từ nguồn dự trữ quốc gia vì góp phần tạo nên tình trạng vàng hóa và làm giảm dự trữ ngoại hối quốc gia. Tìm con đường khác để buộc các NHTM tất toán vàng, trả lại cho dân.
- Lãnh đạo NHNN lên chính thức đính chính phát biểu của mình để nói rõ không chọn SJC làm thương hiệu vàng quốc gia.
Chỉ cần làm hai điều đó, tôi nghĩ cũng đã ổn định được thị trường.








Ngoảnh mặt làm ngơ, tỉnh bơ mà sống …
Trong những ngày hội nghị trung ương 7, ông đại tá hưu yêu cầu mở thời sự tivi để bà con quán triệt công việc của đảng. Tối nay thằng Bảy xe ôm bỗng tròn mắt:
“ Í trời ơi..anh nào lên tivi đẹp trai quá ta…”
Cô Phượng cave cười ngỏn nghẻn :
“ Anh Bình “ruồi”, Thống đốc ngân hàng chớ ai, anh đang bốc phét ghê chưa . “Trước đây, cho tư nhân nhập vàng thì sự chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới các đối tượng này hưởng hết…”
Thằng Bảy xe ôm văng tục :
“ Cho tư nhân nhập vàng…ĐM nói như bố con chó bông, ông con chó xồm…”
Cô Phượng cave ngắt lời :
“ Im nghe kìa…ổng nói từ nay chỉ Nhà nước nhập vàng, lời lãi vào công quỹ để đầu tư cho nền kinh tế, cho các công trình phúc lợi xã hội kià.”
Ông Tư Gà nướng càm ràm :
“ Vào ngân sách nhà nước hay vào túi mấy cha ?”
Thằng Bảy xe ôm bực dọc :
“Chơi kiểu này thì từ nay mua bán nhà đất, xăng dầu, ô tô xe máy… Nhà nước cũng sẽ làm tuốt luốt để lời lãi vào công quỹ hết ?”
Cô Phượng cave cười rú :
“ Í chết cha, mai mốt nhà nước cũng mua bán cả chân gà là chú Tư dẹp tiệm,…”
Cả quán cười ầm ầm. Bỗng từ ngoài , gã Ký Quèn phóng vào, la lớn :
“ Nguy rồi…nguy rồi…mất nước đến nơi rồi…”
Ông đại tá hưu quát :
“ Cái gì? Mày nói cái gì ? Quân đội ta ngày đêm lăm lăm tay súng bảo vệ Đảng và Nhà nước sao mày dám nói là mất nước hả ?”
Cô Phượng cave cười rinh rích :
“ Hic hic …quân đội ta làm kinh tế là giỏi thôi…đánh giặc chưa chắc ạ…”
Thằng Bảy xe ôm vội vàng :
“ Thôi thôi, im để hỏi anh Ký Quèn sao la mất nước đùng đùng vậy ?’
Gã Ký Quèn hớt hải :
“ Sáng nay tàu ngư chính Trung Quốc ngang nhiên dùng vòi rồng xua đuổi tàu cá của ta tại khu vực đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Nó chơi trắng trợn vậy mà đảng nhà nước vẫn im re, thế là mất nước rồi còn gì ?”
Ông Tư Gà nướng càm ràm :
“ Vậy nay mai nước ta thành tỉnh Quảng Nam của thằng Tàu ?.”
Ông đại tá hưu quát :
“ Ông Tư gà nướng già rồi, nói năng cẩn thận nha…”
Ông Tư Gà nướng cãi :
“ Thì thằng tàu đã có tỉnh Quảng Đông, tỉnh Quảng Tây , bây giờ mình biến thành một tỉnh của nó thì chẳng phải Quảng Nam là gì ?’
Cô Phượng cave chen ngang :
“ Nói chuyện xa xôi làm gì. Bữa trước mấy chú Hà Nội mời đi Đà Lạt chơi, lúc về rẽ vào thị trấn Bảo Lâm cách Bảo Lộc có 10 kilômét coi Trung Quốc khai thác bâu xít. Chèn đéc ôi, cả một thị trấn Tàu. Nhà ăn thì có bảng hiệu “ Trung Hoa quán”, rồi chuyên gia, công nhân tàu đi lại cứ nườm nượp. Mai mốt nó mở rộng sang cả Đak Lak, cả vạn cả triệu thằng Tàu kéo sang thì ôi thôi lúc đó người Việt mình tha hồ đổ xô nhau đi … học tiếng Trung Quốc…”
Thằng Bảy xe ôm cười lớn :
“ Vậy chị Phượng tiên phong đi tắt đón đầu , lên Bảo Lâm mở nhà hàng karaoke chuyên hát nhạc Tàu chắc đông khách lắm !”
Cô Phượng cave la chói lói :
“ Có mà các vàng tao cũng không cho ba thằng tàu mó vào người. Mà nghe mấy bà bán hàng ở trển kể chuyện tụi nó kẹo lắm, mua gì cũng mặc cả, phải trừ một phần ba giá tiền mới chịu mua…”
Gã Ký Quèn hỏi to :
“ Vậy mai kia tàu kéo sang đô hộ Việt Nam quý vị tính sao ?”
Ông Tư gà nướng càm ràm :
“ Còn tính với toán gì ? Tao đành phải bán chân gà nướng cho tụi nó chứ biết làm sao ? Mà nghe nói tàu nó chở sang ta toàn chân gà chết cả thôi, kinh lắm…”
Thằng Bảy xe ôm hăng hái :
“ Lúc đó bất cứ thằng Tàu nào leo lên xe tôi , tôi sẽ giết nó giá gấp đôi…”
Gã Ký Quèn cười hô hố :
“ Hoan hô, tinh thần chống ngoại xâm của thằng Bảy xe ôm ! Thế còn chú Ba, lúc đó chú làm gì ?”
Ông đại tá hưu nín lặng không trả lời. Cô Phượng cave cười rinh rích :
“ Thì cũng lại “ngoảnh mặt làm ngơ, tỉnh bơ mà sống ” chứ còn biết làm sao ?”
Cả quán lại cười ầm ầm .
7-5-2013








Thống đốc Nguyễn Văn Bình
Chỉ trong chưa đầy hai năm từ khi trở thành lãnh đạo đầu bảng của Ngân hàng Nhà nước, ông Nguyễn Văn Bình đã dính líu trực tiếp về trách nhiệm đối với ít nhất hàng trăm ngàn doanh nghiệp phải giải thể và phá sản cùng tình trạng thất nghiệp lan tràn không thể thống kê ở Việt Nam.
Tháng 4/2013, lần đầu tiên từ khi chấp nhiệm chức vụ thống đốc, ông Nguyễn Văn Bình và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phát hành một văn bản chưa có tiền lệ: đề nghị Tổng cục An ninh II thuộc Bộ Công an phối hợp xử lý theo pháp luật vụ việc báo Thanh Niên đăng bài “Từ thống kê về Việt Nam của Hiệp hội vàng thế giới: “Rửa” vàng bằng cơ chế?”
Công văn trên, không đóng dấu mật theo nguyên tắc bảo vệ nội bộ, được Ngân hàng Nhà nước tung ra trong một cuộc họp báo cùng ngày với bài đăng tải trên báo Thanh Niên, cho rằng bài báo đã “cố tình suy diễn, bóp méo hàng loạt chủ trương chính sách của Nhà nước về quản lý thị trường vàng, chuyển tải tới người đọc thông tin sai về cơ chế, chính sách của Chính phủ, Ngân hàng nhà nước, tạo sự hoài nghi đối với các chủ trương, chính sách quản lý thị trường vàng… của các cơ quan nhà nước”.
Đúng bảy năm sau vụ PMU18, một lần nữa tờ báo của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có nguy cơ phải đối mặt với vành móng ngựa.
Chỉ nhẹ nhàng đề cập đến cơ chế tạm xuất – tái nhập vàng, cùng việc tham khảo những số liệu của Hiệp hội vàng thế giới, báo Thanh niên đặt ra câu hỏi phải chăng đã có một cuộc rửa vàng mang lại lời lãi khủng khiếp cho nhóm lợi ích.
Dù bài báo chỉ có vậy, song dường như cơ quan được xem là cánh tay phải của Chính phủ lại vẫn muốn “cánh tay phải của Đảng” không bị nhiễm những thói hư tật xấu của “lề trái”.
Bởi điều luôn bị xem là cố tật khó bỏ của Ngân hàng nhà nước và bản thân Thống đốc Nguyễn Văn Bình lại là thói quen mập mờ trong diễn giải thực trạng cùng những số liệu khá bất nhất.
Là một trong những quan chức cao cấp nêu ra nhiều hứa hẹn nhất, vào năm 2012 ông Bình đã thản nhiên khẳng định ông đã “làm những gì đã hứa”.
Một trong “Làm những gì đã hứa” của Thống đốc Nguyễn Văn Bình trong 20 tháng qua là thành tích “bình ổn thị trường vàng”.
Vàng: Lấy dân nuôi nó?
Suốt từ tháng 10/2011 – thời điểm Ngân hàng Nhà nước chính thức phác ra đề xuất về đề án huy động vàng trong dân mà đã gây tranh cãi sôi động, cho tới nay ngay cả hoạt động nhập khẩu vàng của các doanh nghiệp cũng chưa từng được Ngân hàng Nhà nước công bố theo cách “minh bạch hóa”, từ mà ngân hàng này dùng để trấn an dư luận.
Ngay từ cuối năm 2011, giới chuyên gia phản biện đã rộ lên nhiều ý kiến phản ứng đối với sính ngữ “minh bạch hóa” của Ngân hàng nhà nước.
Nguồn cơn của việc thiếu minh bạch cơ chế nhập khẩu vàng, hiểu một cách đơn giản, là một khi người dân nắm được tình hình cung tương đương hoặc lớn hơn cầu, giá vàng trong nước sẽ bắt buộc phải “bám sát giá thế giới”.
Nhưng trong suốt thời gian gần hai năm qua, giá vàng trong nước đã không một lần “bám sát giá thế giới”. Hoàn toàn đảo lộn, bị nạn đầu cơ “bóp méo” và liên đới trực tiếp đến trách nhiệm báo cáo và phát ngôn của ông Nguyễn Văn Bình, giá vàng trong nước luôn duy trì một khoảng cách biệt rất lớn so với giá vàng quốc tế.
Khoảng cách đó lại chính là lợi nhuận của SJC – một công ty chủ lực về nhập khẩu và kinh doanh vàng mà vào cuối năm 2011, một số tờ báo trong nước đã “tiết lộ” về một mối quan hệ nào đó giữa Thống đốc Nguyễn Văn Bình với công ty đầy tiềm năng này.
Cũng vào cuối tháng 11/2011, trong buổi trả lời chất vấn trước Quốc hội, thống đốc Nguyễn Văn Bình lần đầu tiên tiết lộ ý định sẽ đưa SJC trực thuộc sự quản lý của Ngân hàng nhà nước và tập trung thế độc quyền sản xuất, kinh doanh vàng miếng vào công ty này.
Những nghi ngờ của dư luận về mối quan hệ thân thiết giữa ông Nguyễn Văn Bình và “tập đoàn độc quyền”’ SJC càng trở nên rõ rệt hơn theo thời gian. Không ít lần báo chí Việt Nam đã đề cập đến việc SJC có được những khoản lợi nhuận khổng lồ từ “cơ chế ưu ái” mà Ngân hàng nhà nước đã dành cho công ty này.
“Nhóm lợi ích vàng” cũng là thuật ngữ lần đầu tiên được phát lộ vào thời gian cuối năm 2011.
Người ta còn ngờ rằng giải pháp “lấy nó nuôi nó” – được thể hiện trong đề án huy động vàng của Ngân hàng nhà nước vào cuối năm 2011 – thực ra chỉ là một bức bình phong giúp cho các doanh nghiệp vàng có thêm thời gian để tiếp tục bán vàng giá cao, bao gồm vàng tự có và lượng vàng đã nhập khẩu, theo phương châm riêng của họ: lấy vàng nuôi vàng.
Tức giá vàng trong nước được các “ông lớn” trong giới kim loại quý điều chỉnh cuộc chơi theo trình tự: áp giá thấp để thu mua rồi mang đi xuất khẩu trong trường hợp giá thế giới cao hơn; giữ giá trong nước cao, nhập khẩu vàng về bán trong trường hợp giá vàng thế giới thấp hơn!
Nếu mọi chuyện đúng như quy trình khép kín trên, và trong thực tế lại có không ít biểu lộ cho thấy nghi ngờ trên là không thể khép kín, đã không hề có một quy trình khả thi nào về việc lấy vàng nuôi vàng, mà chỉ có thể là “lấy dân nuôi nó”.
“Nó” ở đây, không phải ai khác, chính là nhóm lợi ích vàng.
Box 1
Điều luôn bị xem là cố tật khó bỏ của Ngân hàng nhà nước và bản thân Thống đốc Nguyễn Văn Bình lại là thói quen mập mờ trong diễn giải thực trạng cùng những số liệu khá bất nhất.“
Vàng: chính sách thất bại hoàn toàn!
Ngày 15/12/2011, ông Nguyễn Văn Bình, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã được báo điện tử Vnexpress bình chọn là “Nhân vật của năm 2011”.
Cũng cùng thời điểm trên, nạn đầu cơ vàng lại tái diễn.
Ở một khía cạnh khác, ý nghĩa sâu sắc đã thể hiện một cách lộ liễu và thách thức. So với “tiêu chí” mà ông Nguyễn Văn Bình nêu ra khi mới nhậm chức thống đốc “chỉ cần giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới 400.000 đồng/lượng là có dấu hiệu đầu cơ”, điều có thể được gọi là “dấu hiệu đầu cơ” đã thường vượt gấp 10 lần chiều cao của chính nó.
Chiều cao đó lại là là chiều sâu lợi nhuận của kẻ đã tạo ra nó.
Trong khi đó, một trong những bản báo cáo của Ngân hàng Nhà nước đã nêu ra một đánh giá rất đáng lưu tâm: “Việc triển khai quyết liệt các giải pháp nhằm ổn định giá vàng và thị trường vàng trong nước đã góp phần đưa giá vàng trong nước bám sát với giá vàng thế giới; giới đầu cơ đã không còn khả năng thao túng thị trường”.
Nhưng cho đến tháng 4/2013, chênh lệch giữa giá vàng trong nước với giá vàng thế giới đã vọt lên đến mức kỷ lục: 7 triệu đồng/lượng.
Sự cải thiện hình ảnh theo chiều hướng tuột dốc của Ngân hàng Nhà nước cũng vì thế đã đi xuống từ tháng 10/2011 cho đến nay.
Bất kể Nguyễn Văn Bình đã trở thành “Nhân vật của năm 2011” hay tuyên bố “Làm những gì đã hứa”, cho tới nay người ta hoàn toàn dễ dàng nhận ra rằng với cách thức điều hành trên cương vị trọng trách về quản lý thị trường vàng của ông, nạn đầu cơ vàng vẫn còn nguyên những hàm ý sâu sắc của nó – liên quan đến những biến tướng về hình thể và không hề thay đổi về bản chất.
Chuyên gia phản biện kinh tế Lê Đăng Doanh đã phải thốt lên: “Có thể nói tất cả chính sách điều hành về thị trường vàng của Ngân hàng nhà nước áp dụng đến nay đã thất bại hoàn toàn!”
Con đường ngắn nhất để tự sát
“Thất bại hoàn toàn” cũng hiện ra ở đoạn cuối con đường tín dụng.
Qua gần hai năm kể từ lúc ông Nguyễn Văn Bình nhậm chức thống đốc Ngân hàng Nhà nước, trong khi giá vàng và nạn đầu cơ vàng vẫn không ngớt nhảy múa theo một điệp khúc như đã được dàn xếp kịch bản, dòng chảy tín dụng vào khối doanh nghiệp và dân sinh lại chìm lắng không sủi tăm.
Những cái Tết chính là tiêu điểm để đo đếm sâu xa nhất về hố phân cách người cười kẻ khóc.
Những ngày sát Tết 2012, hơi thở cuộc sống toát ra một hương vị lạnh lẽo và xa lạ. Phản ánh của báo chí đã mô tả về hàng trăm ngàn công nhân không có đủ tiền chỉ để mua vé tàu về quê. Nhiều thân phận làm thuê trở nên lạc lõng trong không khí phố phường đô thị.
Nguồn cơn của hơi thở ảm đạm cũng đến từ hàng chục ngàn doanh nghiệp, vốn đã vật vã trong suốt năm 2011 vì suy thoái kinh tế, không biết tìm đâu ra tiền để thanh toán đủ lương tháng cho người lao động.
Nhưng đó lại là những ngày mà nhân viên ngân hàng rạo rực tiền thưởng Tết – lên đến năm bảy chục triệu đồng cho mỗi đầu người.
Phần lớn các ngân hàng cũng đua nhau khoe sắc lợi nhuận nhiều ngàn tỷ đồng đã kiếm được “trên nỗi đau của người khác”.
Nỗi đau đó lại được khắc tượng ghi hình: việc lao đầu vào vay với mức lãi suất 21-23%/năm là con đường ngắn nhất dẫn các doanh nghiệp sản xuất đến chỗ tự sát.
Trong một năm trời từ giữa 2011 đến giữa 2012, thị trường tín dụng đóng băng và hầu hết các cánh cửa đối với doanh nghiệp cũng đều đóng chặt.
Bất chấp lời kêu cứu của đại bộ phận doanh nghiệp và ít nhất 55.000 doanh nghiệp không còn khả năng lên tiếng, mặt bằng lãi suất cho vay vẫn treo cao ở mức “không giống ai” – như nhận định của những chuyên gia luôn đau đáu về hiện tồn hệ thống ngân hàng Việt Nam một mình một chợ trên thế giới.
Vào quý 2 năm 2012, trừ BIDV, Vietcombank và một ít ngân hàng thương mại khác, số còn lại vẫn gần như đóng cửa với doanh nghiệp. Lý do? Họ chờ đợi những động thái mới của Ngân hàng Nhà nước.
Nhưng sự chờ đợi như vậy lại kéo dài quá lâu, cũng không hề diễn ra một hình ảnh “thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” nào. Càng chẳng có một hy vọng nào cho sự hy sinh tự nguyện của các ngân hàng.
Những ngày gần Tết 2013, sức tiêu thụ hàng hóa giảm đến 30-40% so với thời gian gần Tết năm 2012 là một minh chứng điển hình. Cùng với sự sụt giảm về nhu cầu mua sắm là tỷ lệ hàng tồn kho tăng mạnh đến 20-30%.
Ngay cả những doanh nghiệp còn tiềm năng sản xuất vẫn nhìn rõ một nguy cơ nào đó có thể “chết trên đống tài sản của mình”.
Tết 2013 cũng là thời điểm mà số doanh nghiệp phải giải thể và phá sản đã được Ủy ban thường vụ quốc hội chính thức công bố: 100.000.
Độ trơ lì lợm
Trong hơn một năm trời, các ngân hàng đã biến doanh nghiệp và người dân thành con tin của họ, nhưng chẳng bao lâu sau, ngân hàng lại trở thành nạn nhân của chính mình.
Từ trạng thái “khó khăn thanh khoản” vào năm 2011 như trần thuật không ngớt của Thống đốc Nguyễn Văn Bình, cho đến sự chuyển trạng thái đột ngột vào đầu năm 2012 khi “thanh khoản được cải thiện”, và tới giữa năm 2012 thì thanh khoản bỗng trở nên “dồi dào”, cùng với dấu hiệu phát lộ từ một số ngân hàng về trạng huống vốn tồn ứ ở mức cao.
Trong một cuộc họp của giới ngân hàng vào cuối tháng 3/2012, lãnh đạo của ACB – một ngân hàng tư nhân thuộc loại lớn nhất ở Việt Nam, đã tiết lộ một thông tin chưa có tiền lệ: ngân hàng này dư thừa đến 3 tỷ USD mà không cho vay được.
Sau đó, hàng loạt ngân hàng khác như Vietinbank, Eximbank, BIDV… đã thừa nhận về sự thật khó tưởng tượng như thế. Ước tính của chuyên gia cho thấy con số dư thừa vốn có thể lên đến khoảng 200.000 tỷ đồng.
Dư thừa vốn đã trở thành nỗi đau của những nhà giàu và của cả kẻ nghèo hèn không đồng xu dính túi.
Quá già hóa non – như một câu tục ngữ của người Việt. Vốn ngân hàng bị găm vào thế không thể tiêu thụ được, không chỉ do mặt bằng lãi suất cho vay vẫn treo rất cao, mà bởi điểm bùng vỡ đã bị giới ngân hàng đẩy vượt qua giới hạn của nó: nền kinh tế mất hẳn sức sống, vòng quay vốn trong hai năm 2011 và 2012 chỉ còn 0,8 lần so với 2 lần của những năm trước đó.
Nhiều doanh nghiệp phải thốt lên “không biết vay vốn để làm gì!”.
Đình đốn sản xuất cũng là thực trạng mà nền kinh tế cùng phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đang lâm vào, một thực trạng không thể phủ nhận được với tỷ lệ hàng tồn kho một số ngành lên tới 60-70%, sức sản xuất giảm đi 30-40%, bất chấp những con số vẫn thường cho thấy “những chuyển biến tích cực” về GDP hay chỉ số tăng trưởng ở một số khu vực, như báo cáo thường thấy của những ngành tham mưu đắc lực cho chính phủ như Ngân hàng nhà nước, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ công thương, Bộ tài chính…
Hàng ngày, người dân đọc thấy nhan nhản trên báo chí các thông tin về ngành thủy sản, mía đường, da giày, cà phê, thép, xi măng, cá tra, tôm… đang trong tình trạng nguy cấp, với tỷ lệ bình quân đang lâm vào nguy cơ phải phá sản và ngừng hoạt động lên đến 30-40%, thậm chí có ngành đến 2/3.
Gậy ông đập lưng ông – lợi nhuận ngành ngân hàng toàn quốc vào đầu năm 2013 cũng đã bị sụt giảm đến hơn phân nửa so với một năm trước đó. Tại TP.HCM, tình hình lợi nhuận còn thê thảm hơn khi chỉ bằng 4% so với đầu năm 2012.
Độ trơ của thị trường đã trở nên lì lợm – hệt như những khuôn mặt quan chức vẫn nhắc đi nhắc lại điệp khúc “đề phòng lạm phát”, nhưng lại không thiếu ý chí “vươn lên một tầm cao mới” ứng với giá xăng dầu và giá điện tăng vọt.
Box 2
Độ trơ của thị trường đã trở nên lì lợm – hệt như những khuôn mặt quan chức vẫn nhắc đi nhắc lại điệp khúc “đề phòng lạm phát”, nhưng lại không thiếu ý chí “vươn lên một tầm cao mới” ứng với giá xăng dầu và giá điện tăng vọt.“
Con tin
Phải chăng để hạn chế lạm phát mà Ngân hàng Nhà nước đã thắt quá chặt dòng chảy tín dụng?
Một con số mà chỉ sau Tết Âm lịch 2012 mới lộ ra là vào trước tết, Ngân hàng nhà nước đã bơm khoảng 76.000 tỷ đồng cho các ngân hàng – một động thái được đánh giá là nhằm cứu thanh khoản của ngân hàng.
Một con số khác mà vào đầu tháng 4/2012 mới được tiết lộ là lượng tiền mà Ngân hàng Nhà nước bơm vào thị trường liên ngân hàng trước tết lên đến hơn 170.000 tỷ đồng.
Cùng với những tuyên bố về “thanh khoản dồi dào” của Thống đốc Nguyễn Văn Bình, con số bơm tiền của Ngân hàng Nhà nước cho một số ngân hàng thương mại là bằng chứng rõ rệt cho thấy ngân hàng không thiếu tiền. Chỉ có điều, nghịch lý ghê gớm lại xảy ra khi đa số thành phần khác của nền kinh tế không thể tiếp cận được nguồn tiền ấy.
Đó cũng chính là nguyên do vì sao nền kinh tế rơi vào suy thoái nhanh chóng cùng sức cầu xã hội gần như biến mất.
Một lần nữa, báo chí và dư luận phẫn nộ: phải chăng lãi suất và các nhóm lợi ích nào đó đứng đằng sau nó đang biến các doanh nghiệp sản xuất, người lao động và một phần không nhỏ nền kinh tế quốc dân thành con tin?
Và tại sao duy trì được trần lãi suất huy động nhưng không giảm được lãi suất cho vay?
Hơn ai hết, khoảng 2/3 số doanh nghiệp Việt Nam đứng trước nguy cơ thiếu vốn trầm trọng – một trong những tiền đề có thể dẫn tới phá sản và gây nhiều hệ lụy cho nền kinh tế.
Nhưng khác nhiều với các báo cáo của ngành ngân hàng về “giảm đáng kể”, lãi suất cho vay hiện thời vẫn được các ngân hàng duy trì ở mức 15-17%/năm. Song Ngân hàng Nhà nước lại không thể nào “điều tiết linh hoạt” được các ngân hàng thương mại để giảm lãi suất cho vay, với một trong những lý do then chốt mà báo chí tiết lộ là ngân hàng thương mại vẫn cần có thời gian để tiêu thụ lượng tín dụng đã huy động với “giá cao” trước đó.
Tình hình quay quắt như thế vẫn còn kéo dài cho đến nay, khi báo chí trong nước một lần nữa gào thét về chuyện “doanh nghiệp chết như ngả rạ”, còn thống đốc Ngân hàng Nhà nước đang khuấy động chiến dịch “bình ổn thị trường vàng” với một thông điệp chưa từng có “Chênh lệch giá vàng là thuộc về đất nước, thuộc về nhân dân”, và Chính phủ lại đang tìm cách hướng ngoại để có thể tham gia vào Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP).
(Còn tiếp)








3 mẩu chuyện nhỏ
Nguyễn Khoa Điềm
NQL: Quê choa thường vẫn không nhận đăng văn xuôi, nhưng với anh Điềm cần có ngoại lệ. Mọi người cứ nghĩ Nguyễn Khoa Điềm chỉ làm thơ, không viết văn xuôi. Mình cũng nghĩ thế. Nhưng một ngày tình cờ mình đọc được ký sự Cửa Thép của Nguyễn Khoa Điểm và thật bất ngờ trước văn xuôi của anh. Cái kí sự không kém gì kí sự Trần Đăng ấy đến nay không ai nhắc, anh Điềm cũng không nhắc, nhưng mình thì nhớ mãi.
Chùm chuyện nhỏ dưới đây Nguyễn Khoa Điềm nói anh viết “để tặng cháu ngoại đọc cho vui”, nhưng đọc chúng thấy 3 sự đời, 3 nỗi niềm chua chát…
Chuyện cây táo
Một cây táo mẹ có nhiều trái táo con rất đẹp, rất thơm. Táo mẹ không muốn cho ai hái những trái táo quý giá đó. Táo mẹ cho treo một tấm biển lên thân cây với dòng chữ : “ Táo chua lắm, ăn vào sinh ghẻ”. Mọi người hoảng sợ, thậm chí không dám đến gần cây táo.
Các trái táo cứ thế chín và rụng dần.
Năm sau, táo lại ra hoa, kết trái, quả rất đẹp nhưng không tròn trĩnh như trước. Bọn táo con hỏi mẹ táo : “ Mẹ ơi, năm nay chúng ta có treo biển như năm trước không ?”.
Mẹ táo trả lời : “ Không con ạ. Nếu không ai ăn được táo của chúng ta thì người ta cũng không còn chăm sóc chúng ta nữa. Chúng ta sẽ tàn lụi”
Hai chú cóc con nhìn trời
Hai chú cóc con nhìn trời, chúng chỉ mong mưa. Một con, rồi hai con cùng nghiến răng. Chúng nghĩ : Mình nghiến răng, trời nghe thấy thì sẽ mưa. Nghiến cả buổi trời vẫn không mưa mà đau răng lắm. Mẹ cóc nói :
- Thôi , nghiến răng làm gì cho rụng răng, các con. Trời bận họp. Các cụ nín đái cả rồi .
Cậu bé và con chim lạ
Có một cậu bé nghèo. Nhà nó chỉ có cây khế là đáng giá. Cây khế tươi tốt, lá cành xum xuê, trĩu quả . Những lúc ngồi với mẹ dưới gốc khế nó thường hỏi : Mẹ ơi, có chuyện con chim ăn khế rồi chở người qua biển lấy vàng. Con chim đó còn đến nhà ta không mẹ ?
Mẹ nó phì cười : Bây giờ có máy bay thì không còn chuyện đó đâu con ạ .
Nó không chịu : Nhưng chim thì vẫn còn đấy chứ !
Một đêm nó nằm ngủ thì nghe tiếng chim đập cánh và một tiếng độp khá to. Nó mò ra sân thì thấy một con chim lạ đang ăn khế. Dưới đất là một hạt cây lóng lánh. Thấy bóng cậu bé con chim bay đi.
Cậu bé đem hạt cây lạ đó vùi xuống đất rồi cũng quên luôn.
Một năm sau một mầm cây nhú lên, rồi mầm cây thành thân cây, lá xòe ra như chiếc quạt. Cây lớn như thổi. Một ông giáo già dạy sinh vật học nói : Cái cây này đã đi nửa vòng trái đất đến đây. Nó từng bị coi là thứ đã tuyệt chủng.
Tác giả gửi Quê Choa








May 7, 2013
Con khỉ của Xuân Đàm
Chả hiểu sao mấy hôm nay cứ lởn vởn bóng dáng con khỉ của anh Xuân Đàm, con vẹt của anh Hải Bằng, đi đâu cũng nhớ về chúng nó. Lạ quá, hay là do biến đổi khí hậu? Hi hi. Chuyện con vẹt của anh Hải Bằng kể sau, bây giờ kể chuyện con khỉ của anh Xuân Đàm trước đã.
Anh Xuân Đàm là đạo diễn sân khấu lứa “Tây học”, lứa đạo diễn đã làm nên một giai đoạn rực rỡ của sân khấu nước nhà (1980-1995). Giống như thơ tiền chiến đã làm nên một cuộc mạng thơ ca vô tiền khoáng hậu, các đạo diễn “Tây học”, trong đó có anh Xuân Đàm, đã làm nên một cuộc cách mạng sân khấu có một không hai. Họ đã rũ bỏ thứ ngôn ngữ tả thực thô sơ để đem đến sân khấu một ngôn ngữ ước lệ hiện đại làm nức lòng khán giả đương thời. Nhưng thôi, chuyện này nói sau.
Mình không rõ Xuân Đàm về nước từ khi nào, chỉ biết anh đạo diễn lặt vặt ở trong tỉnh (Bình Trị Thiên) cũng đã lâu rồi, giới sân khấu trong tỉnh (Bình Trị Thiên) ai nấy đều nể phục anh nhưng khán giả và giới sân khấu cả nước vẫn ít biết về anh. Đến Hội diễn sân khấu năm 1983 anh xuất chiêu với vở diễn Bão tố ngoài khơi gây chấn động Hội diễn, khi đó sân khấu nước nhà mới ồn ào xuýt xoa về anh. Đạo diễn Xuân Đàm với không gian dây đầy ấn tượng đã giật luôn năm, sáu huy chương vàng trong một vở diễn. Xin nói luôn huy chương vàng hồi đó còn giá trị lắm, không phải như bây giờ. Anh được điều lên Sở văn hóa làm phó giám đốc sau thắng lợi của vở diễn, đúng là một bước lên tiên, hi hi.
Khi mình về Sở văn hóa Bình Trị Thiên, Xuân Đàm đã là phó sở. Chẳng biết anh giầu nghèo thế nào nhưng lúc nào cũng thấy anh thong dong. Khi mà tụi mình đa số nhá bữa sáng bằng bát cơm nguội khúc cá kho thì sáng sáng anh cưỡi Honda 50 (Thời này là oách xì dầu lắm rồi) chở chị Kim Quí váy xống sáng ngời tới nhà hàng ăn sáng, uống cà phê rồi mới thong dong đến công sở. Hồi này ai nấy đều nhớn nhác hốc hác vì cơm áo gạo tiền, vợ chồng Xuân Đàm, Kim Quý vẫn váy xống sáng ngời, thong dong giữa đường phố Huế, thật phục lắm.
Sống lâu mới biết tại tính thích chơi sang, không chịu lọ mọ cá gỗ chứ Xuân Đàm, Kim Quý cũng khổ bỏ bà. Chiếc xe máy mua trả góp, cả năm mới trả hết. Mình đến chơi nhà thấy bữa cơm của họ cũng đạm bạc như nhà mình. Chị Kim Quý cũng ứng lương trước tháng giống như bất kì ai ở Hội văn nghệ. Rứa đó. Nghệ sĩ vẫn vậy, nghèo thì chịu chứ không chịu nghèo hèn, nghèo sang đó là cách chơi của họ. Cũng vì cái tính thích chơi sang mà Xuân Đàm, Kim Quý dính tới một con khỉ, hi hi.
Một buổi sáng mình đang đứng chơi với anh Ngọc Tranh và thằng Ngọc Bình ở sân đoàn kịch nói , anh Đàm chở chị Quý vè vè đi vào, trên đầu xe máy có một con khỉ ngồi chồm hổm. Con khỉ bé tí, cái mặt hiền khô, đôi mắt tròn xoe như mắt con nít ngơ ngác nhìn mọi người, trông thật thương. Tụi mình xúm lại ngắm ngắm nghía nghía, ai cũng xuýt xoa khen con khỉ đẹp, dễ thương. Anh Ngọc Tranh hỏi anh Đàm, nói Xuân Đàm kiếm mô ra con khỉ hay rứa bay. Anh Đàm đắc chí mặt vênh lên cái miệng nhọn hoắt, nói oa chà kể hết công phu của tao để có con khỉ ni phải mất mấy ngày, kể răng hết được. Anh Đàm cười hề hề, mắt sáng lên kiêu hãnh cũng với miệng nhọn hoắt. Mỗi khi phỡn một điều gì cái miệng vẩu của anh lại nhọn hoắt, y chang cái miệng Huy Đức mỗi khi phỡn chí lại nhọn miệng đơn ca, hi hi.
Chị Quý bảo con khỉ, nói chào các bác đi con. Con khỉ khoanh tay gật đầu rất chi là lễ phép, hi hi. Chị Qúi lấy ra quả chuối tiêu đưa cho con khỉ, chị tươi tỉnh khoe với mọi người, nói nó phải ăn chuối tiêu, chuối khác nó không ăn. Anh Ngọc Tranh cười, nói chà, khỉ cũng học làm sang, mi thử bỏ đói cho hắn một ngày coi thử. Chị Quý nói không mà không mà, giống khỉ ni sang lắm, không phải khỉ thường mô. Con khỉ ngồi bóc vỏ chuối ăn, trông cái tay mềm mại nhẹ nhàng bóc vỏ chuối, cái miệng bé xíu của nó thỏn thẻn ăn và đôi mắt tròn xoe háo hức… yêu ơi là yêu!
Thằng Ngọc Bình ( nay là giám đốc nhà hát ca kịch Huế) đứng nhìn con khỉ ngẩn ngơ. Nó lấy vợ hơn chục năm không có con, hai vợ chồng nó thèm con gần chết. Thấy con khỉ cơn ghiền con nít của nó lại nổi lên. Nó túm lấy áo anh Đàm, nói chú chú… chú để lại con khỉ cho con. Anh Đàm trợn mắt lên, nói thăng ni nói chi rứa mi, một chỉ của người ta đó mi. Một chỉ vàng hồi đó to lắm, anh Đàm tưởng hét vậy thằng Ngọc Bình phải thụt đi, ai dè nó cũng trợn mắt lên, nói một chỉ con cũng mua. Con bù thêm cho chú vài phân uống cà phê, công lao chú tìm kiếm vất vả. Anh Đàm cười lắc đầu, nói tao nói chơi rứa thôi, một cây tao chắc chi tao đã bán. Chiều tối thằng Ngọc Bình đem vợ nó là Tiểu Hoa đến nhà anh Đàm, nói chú ơi một cây thì một cây. Nó xòe ra năm chỉ trước mặt anh Đàm, nói vợ chồng con tích cóp được năm chỉ, chú để lại con khỉ cho vợ chồng con, coi như vợ chồng con nợ chú năm chỉ.
Anh Đàm, chị Quí nhìn vợ chồng thằng Ngọc Bình ngao ngán, họ lắc đầu nói con khỉ bây giờ như con của cô chú rồi, cô chú làm răng cam tâm bán con mình đi được Bình ơi. Chị Quí ôm con khỉ vào lòng, tay lắc miệng nựng, nói con ơi con ơi, con yêu quí của me ơi, me yêu con lắm. Thằng Ngọc ứa nước mắt kéo vợ phủi đít ra về.
Khổ nỗi con khỉ chỉ ngoan ba ngày đầu, đến ngày thứ tư quen chỗ rồi nó bắt đầu hành Xuân Đàm, Kim Quí ra bã, hi hi.
Thoạt đầu là màn biểu diễn quần áo lót của con khỉ. Nó nhặt nhạnh quần lót của người này đem nhét vào tủ người kia. Một hôm anh Đàm giật mình thấy quần lót của con gái trong ngăn tủ áo quần của mình, sau rồi cả nhà phát hiện ra tất cả tủ áo quần của cả nhà đã bị xáo trộn hoàn toàn. Họ rú lên đi tìm con khỉ. Con khỉ vẫn ngồi đó hiền lành, đưa đôi mắt tròn xoe ngây thơ. Không thể tin nổi con khí nhỏ bé ngây thơ đáng yêu thế kia lại có thể lục tung cả nhà từ tầng một lên tầng hai, xáo trộn đảo điên cả nhà, mình nó làm việc của một toán cướp. Thất kinh.
Chị Quí cho nó ngủ chung trong phòng ngủ của anh chị, nó có cái nôi tre làm giường, chăn gối đàng hoàng lắm. Đêm đêm hễ khi nào anh chị yêu nhau là con khỉ tỉnh dậy liền. Thoạt đầu nó còn ngồi bên giường của nó ngấp nghé nhìn trộm, sau nó nhảy đại lên giường anh chị chạy vòng vòng coi bộ phấn khích lắm. Không gì chán bằng đang yêu nhau có người nhìn trộm, cụt cả hứng. Lâu lâu mới có chút hứng tình, con khỉ làm hỏng cả. Anh Đàm bắt nhốt nó vào thùng giấy, nó đập phá rất dữ, vừa đập phá vừa hú hét rất kinh. Anh Đàm cho nó ra khỏi phòng, nó nhảy nhét hú hét vang vang, không cho ai ngủ ngáy gì cả. Anh Đàm buộc phải đầu hàng nó, cho nó vào phòng ngủ chung với anh chị
Khổ thân Kim Quý, Xuân Đàm, tích cóp cả tuần được trận tình con khỉ phá hỏng hết! Đêm nào cũng giống đêm nào, hễ anh chị yêu nhau là con khỉ nhảy ra phá. Mỗi lần họ yêu nhau lập tức nó nhảy lên giường chạy vòng quanh. Nó còn nhảy chồm lên lưng anh, ôm lấy cổ anh nhún nhún, vừa nhún vừa kêu khẹc khẹc như muốn nói cố lên cố lên! He he.
Một đêm thấy con khỉ ngủ say, hai người lén dậy vội vã yêu nhau, nửa chừng sực nhớ chưa đeo bao ok, họ vùng dậy đào bới cả cái tủ, tìm được bao ok rồi chim chóc cũng rũ cánh, xong om. Hi hi. Ai ngờ con khỉ trông thấy hết, từ đó hễ có khách nào là phụ nữ tới nhà, anh Đàm ra tiếp được mấy phút là con khỉ cầm bao ok chạy ra dứ dứ trước mặt anh. Ngượng đến chín mặt, hi hi.
Có lần chị X. đến nhà chơi, chị là nghệ sĩ có số của Sài Gòn, nổi tiếng khắp ba miền. Việc chị đến thăm nhà ai đó được xem như một sự kiện. Anh Đàm đón tiếp chị rất trọng thị. Ngồi chưa nóng đít con khỉ vọt ra, nó nhảy lên bàn khoanh tay gật đầu chào chị X. Chị X, cười tươi, nói con khỉ ngoan dữ hen. Chị chưa dứt lời đã thấy bao ok đu đưa trước mặt. Con khỉ cầm ba cao ok đưa đi đưa lại trước mặt chị X., rồi nó quay lại đưa bao ok cho anh Đàm miệng kêu khẹc khẹc như muốn nói cố lên cố lên! Mặt chị X. đỏ bừng, chị vụt đứng dậy đi ngay ra khỏi nhà. Anh Đàm ngồi trơ không biết nói thế nào.
Mấy hôm sau anh Đàm ôm con khỉ tới nhà thằng Ngọc Bình, nói chú nghĩ chán ra rồi, hoàn cảnh nhà mi không con cái, không để con khỉ cho mi thì cô chú chẳng ra chi. Thôi, cô chú để cho mi, chỉ một chỉ không hơn. Thằng Ngọc Bình cười he he, nói con biết con khỉ ni rồi chú ơi, chú đừng có mà xui con nít ăn cứt gà! Thằng Bình cười hi hi, nói trước nay con tưởng chửi nhau đồ chó đồ mèo là ghê, mấy bữa nghe chuyện con khỉ của chú mới hiểu vì răng ghét nhau lắm người ta mới chửi nhau đồ khỉ, trò khỉ. Thôi chú ơi, bỏ đi bỏ đi, ba vạn cũng bỏ.
Anh Xuân Đàm ngồi thừ, nước mắt rơm rớm, nói không biết kiếp trước tao sống ra răng để kiếp này trời bắt tao nuôi khỉ, cực chi lạ nhục chi lạ!
Hi hi








Thư của Tổng Thống Lyndon B. Johnson gửi Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Thư trả lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh
GS Lê Xuân Khoa: Đây là một trường hợp mà cả Hoa Kỳ và VNDCCH đều bị chê trách là đã bỏ lỡ cơ hội hòa bình. Johnson bị trách là đã làm hỏng kế hoạch hòa bình Wilson-Kosygin chỉ vì ông đã “đổi thì của động từ,” (xem trang 369) nhưng Johnson đã cho thấy lý do là mỗi lần Mỹ ngưng ném bom thì việc chuyển người và vũ khí từ Bắc vào Nam tấp nập “như một ngày Chủ Nhật trên xa lộ New Jersey Turnpike”. Nếu đọc kỹ thư trả lời của Hồ Chí Minh thì không thấy có dấu hiệu ông phản ứng về chuyện những chuyến thâm nhập này “sẽ ngưng” hay “đã ngưng”. Lời lẽ cứng rắn trong thư không phản ánh con người Hồ Chí Minh vốn có tài ngoại giao, uyển chuyển, biết nắm bắt thời cơ. Năm 1954, sau khi thắng Pháp, ông đã nhắc tổng biên tập báo Nhân Dân là không nên làm Pháp bị mất mặt vì “sau chiến tranh, chúng ta còn cần Pháp giúp đỡ”. Có thể thái độ cứng rắn này là do sự điều động của Lê Duẩn, người đã nắm thực quyền từ khi làm Tổng Bí thư năm 1959. Hồ Chí Minh thường bị đau yếu trong mấy năm cuối đời (ông mất năm 1969).
——
Ngày 8 tháng Hai 1967
Kinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
Thưa Ngài,
Tôi viết cho Ngài với niềm hi vọng là cuộc chiến Việt Nam có thể chấm đứt. Cuộc chiến này đã gây tổn thất nặng nề — về sinh mạng, về thương tích, về tài sản và tình trạng khốn khổ của con người. Nếu chúng ta không tìm được một giải pháp hòa bình và công chính, lịch sử sẽ nghiêm khắc phán xét chúng ta.
Vì vậy, tôi tin rằng cả hai chúng ta đều có một nghĩa vụ nặng nề là sốt sắng tìm kiếm con đường đưa đến hoà bình. Chính vì cần đáp ứng nghĩa vụ đó mà tôi trực tiếp viết cho Ngài.
Từ mây năm qua, chúng tôi đã cố gắng bằng nhiều cách và qua một số đường liên lạc chuyển đến Ngài và các cộng sự viên của Ngài điều mong muốn của chúng tôi đạt được một giải pháp hòa bình. Vì những lý do nào đó, những nỗ lực đó đã không đem lại kết quả nào.
Có thể là những ý nghĩ của phía chúng tôi và của phía Ngài, thái độ của chúng tôi và của phía Ngài, đã bị bóp méo hay ngộ nhận khi chúng đi ngang những đường liên lạc khác nhau ấy. Quả thật việc thông tin liên lạc gián tiếp luôn luôn nguy hiểm.
Có một cách vượt qua được khó khăn này để tiến tới việc tìm kiếm một giải pháp hòa bình. Đó là việc chúng ta thu xếp những cuộc hội đàm trực tiếp giữa những đại diện được tin cậy trong một khung cảnh yên ổn và xa cách mọi nguồn quảng bá. Những cuộc hội đàm này sẽ không được dùng như một hoạt động tuyên truyền mà phải là một nỗ lực nghiêm túc để tìm kiếm một giải pháp khả thi và có thể được cả hai bên chấp thuận.
Trong hai tuần qua, tôi có ghi nhận những điều công bố bởi các đại diện chính phủ của Ngài, gợi ý rằng phía Ngài sẵn sàng thương thuyết song phương trực tiếp với các đại diện của chính phủ Hoa Kỳ, với điều kiện là chúng tôi ngưng các cuộc oanh tạc “vô điều kiện” và vô thời hạn trên xứ sở của Ngài và cũng ngưng mọi hoạt động quân sự. Vào ngày chót, có những giới đứng đắn và có trách nhiệm đã đoan chắc với chúng tôi một cách gián tiếp rằng đây quả thật là đề nghị của Ngài.
Tôi xin thành thật nói rằng tôi thấy có hai khó khăn lớn trong đề nghị của Ngài. Vì lập trường công khai của Ngài, một hành động như thế từ phía chúng tôi sẽ không tránh khỏi gây nên sự suy đoán khắp nơi trên thế giới rằng các cuộc thảo luận đang diễn ra, và sẽ làm phương hại đến tính cách riêng tư và kín đáo của những cuộc thảo luận ấy. Thứ hai là se không tránh khỏi mỗì quan ngại sâu sắc về phía chúng tôi là liệu chính phủ của Ngài có lợi dụng hành động ấy của chúng tôi để tăng cường vị thế quân sự của phía Ngài hay không.
Mặc dù những khó khăn đó, tôi vẫn chuẩn bị tiến đến việc chấm dứt xung đột, xa hơn cả điều chính phủ Ngài đã đề nghị trong những lời tuyên bố công khai hay qua những đường dây ngoại giao riêng. Tôi chuẩn bị ra lệnh ngưng oanh tạc trên xứ sở của Ngài và ngưng gia tăng các lực lượng quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam ngay khi tôi được cam kết là sự thâm nhập miền Nam bằng đường bộ hay đường biển đã ngưng. Tôi tin rằng những hành động kiềm chế này của cả hai bên sẽ khiến chúng ta có thể có những cuộc thảo luận riêng tư và nghiêm chỉnh sớm dẫn đến hòa bình.
Tôi đưa đề nghị này cho Ngài bây giờ với một cảm nghĩ khẩn cấp rõ rệt vì những ngày nghỉ Tết sắp tới ở Việt Nam. Nếu Ngài có thể chấp nhận đề nghị này thì tôi không thấy có lý do gì mà nó không có hiệu lực vào cuối những ngày nghỉ Năm Mới hay Tết. Đề nghị của tôi sẽ được thêm nhiều sức mạnh nếu các nhà lãnh đạo quân sự của Ngài và các nhà đối tác bên Chính phủ miền Nam Việt Nam có thể mau chóng thương thảo về một cuộc gia hạn đình chiến ngày Tết.
Về địa điểm cho những cuộc thảo luận song phương, tôi đề nghị có nhiều nơi. Chẳng hạn, chúng ta có thể cho các đại diện của chúng ta gặp nhau ở Mat-scơ-va là nơi đã có những cuộc tiếp xúc. Họ có thể gặp nhau ở một nước khác như Miến Điện. Có thể Ngài đã nghĩ đến những cách thu xếp hay địa điểm khác, tôi sẽ cố thoả thuận với đề nghị của Ngài.
Điều quan trọng là chấm dứt một cuộc xung đột đã chồng chất gánh nặng lên hai dân tộc chúng ta, và trên hết là đân chúng miền Nam Việt Nam. Nếu Ngài có những ý kiến gì về những điều mà tôi đề nghị, tôi rất cần nhận được những ý kiến đó sớm chừng nào hay chừng nấy.
Trân trọng kính chào,
Lyndon B. Johnson
———-
Ngày 15 tháng Hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời:
Kính gửi Tổng Thống Lyndon B. Johnson
Hợp Chủng Quôc Hoa Kỳ
Thưa Ngài,
Tôi nhận được thư của Ngài ngày 10 tháng Hai 1967. Đây là phúc đáp của tôi:
Việt Nam ở cách xa nước Mỹ hàng chục ngàn dặm. Dân Việt Nam chưa bao giờ làm điều gì hại cho nước Mỹ. Nhưng trái với những lời hứa của đại diện nước Mỹ tại Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, Chính phủ Mỹ đã không ngừng can thiệp vào Việt Nam; chính phủ đó đã mở một cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam và gia tăng cường độ nhằm kéo dài sự chia cắt Việt Nam và biến Nam Việt Nam thành một tân thuộc địa và một căn cứ quân sự của nước Mỹ. Đã hơn hai năm nay, Chính phủ Mỹ đã dùng các lực lượng không quân và hải quân để gây chiến với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, một nước độc lập có chủ quyền.
Chính phủ Mỹ đã phạm tội ác chiến tranh, tội ác chống lại hòa bình và chõng lại loài người. Ở Nam Việt Nam, một nửa triệu binh sĩ Mỹ và chư hầu đã sử dụng những vũ khí vô nhân đạo nhất và những phương pháp chiến tranh dã man nhất, như bom lửa, chất độc hóa học và hơi ngạt, để tàn sát đồng bào chúng tôi, phá hủy mùa màng và san bằng các làng mạc.
Ớ miền Bắc Việt Nam, hàng ngàn máy bay Mỹ đã trút hàng trăm ngàn tấn bom, phá hủy các thành phố, làng mạc, nhà máy, đường xá, cầu cống, đê điều, đập nước, và ngay cả nhà thờ, chùa chiền, nhà thương, trường học. Trong thông điệp của Ngài, Ngài tỏ vẻ buồn phiền về những nỗi đau khổ và tàn phá ở Việt Nam. Tôi xin hỏi Ngài: Ai đã gây ra những tội ác ghê tởm này? Đó là binh sĩ Mỹ và chư hầu. Chính phủ Mỹ hoàn toàn chịu trách nhiệm về tình trạng cực kỳ nghiêm trọng ở Việt Nam.
Chiến tranh xâm lược Mỹ chống nhân dân Việt Nam là một thách thức đối với các nước thuộc khối Xã hội chủ nghĩa, một đe dọa đối với phong trào dân tộc độc lập vã một mối nguy cho hòa bình ở Á châu và thế giới.
Nhân dân Việt Nam yêu chuộng độc lập, tự do và hòa bình. Nhưng trước cuộc xâm lược của Mỹ, họ đã đứng lên, đoàn kết muôn người như một. Không sợ hi sinh và gian khổ, họ quyết tâm kháng chiến cho đến khi giành được độc lập, tự do và hòa bình thật sự. Chính nghĩa của chúng tôi được nhân dân toàn thế giới bày tỏ thiện cảm và ủng hộ mạnh mẽ, kể cả những thành phần rộng lớn của nhân dân Mỹ.
Chính phủ Mỹ đã mở cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam. Chính phủ ấy phải chấm dứt xâm lược. Đó là cách duy nhất để khôi phục hoà bình. Chính phủ Mỹ phải ngưng vĩnh viễn và vô điều kiện những cuộc oanh tạc và tất cả mọi hành động gây chiến chống Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, rút hết quân sĩ Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam, và để cho nhân dân Việt Nam giải quyết lấy các vấn đề của họ. Đó là nội dung căn bản của lập trường bốn điểm của Chính phủ VNDCCH, thể hiện những nguyên tắc- căn bản và những điều khoản dự liệu của Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 về Việt Nam. Đó là cơ sở của một giải pháp chính trị đúng đắn cho vấn đề Việt Nam.
Trong thông điệp của Ngài, Ngài đề nghị những cuộc hội đàm trực tiếp giữa VNDCCH và Hoa Kỳ. Nếu Chính phủ Mỹ thật sự muốn có những cuộc hội đàm này, trước hết chính phủ ấy phải ngưng vô điều kiện các vụ oanh tạc và mọi hành động gây chiến khác chống VNDCCH. Chỉ sau khi có sự chấm dứt vô điều kiện các vụ oanh tạc và các hành động gây chiến khác của Mỹ chống VNDCCH thì VNDCCH và nước Mỹ mới ngồi vào bàn thương thuyết và thảo luận các vấn đề liên quan tới hai bên.
Nhân dân Việt Nam sẽ không bao giờ chịu khuất phục trước sức mạnh, họ sẽ không bao giờ chấp thuận thương thuyết dưới sự đe dọa của bom đạn.
Chính nghĩa của chúng tôi tuyệt đối đúng. Hi vọng rằng Chính phủ Mỹ sẽ hành động theo lý trí.
Hồ Chí Minh








Khi ” cái dây kinh nghiệm” quá dài
Đầu tháng 1-2013, nói chuyện với cán bộ, đảng viên thành phó Đà Nẵng, khi đề cập đến vấn đề thực hiện Nghị quyết TW 4, chống tham nhũng, ông Nguyễn Bá Thanh thẳng thắn, mạnh bạo nói (đại ý):
… Như Mỹ và các nước tư bản, họ đề cao vai trò cá nhân, chọn người có học, có đức, có tài ; còn ta thì đề cao vai trò tập thể, chủ nghĩa tập thể, lãnh đạo tập thể, cá nhân chỉ để phụ trách – theo phân công. Ông Ôbama trúng Tổng thống nhiệm kỳ 2, nhưng nếu ông ta loạng quạng mà đưa ra bầu tại Việt Nam chưa biết được mấy lá phiếu…Người ta không làm được việc hoặc sai lầm thì tự giác xin từ chức, còn ở ta kiên quyết không ai từ chức; có cách chức thì đành chịu, chứ từ chức thì dứt khoát không. Cách chức và kỷ luật không dễ mà có…Anh tưởng anh ‘ngon’ lắm à? Anh tưởng thiên hạ phải vái lạy anh à?… Cùng lắm là rút kinh nghiệm. Cái dây kinh nghiệm nó quá dài, rút mãi, rút hoài không hét, nhưng rồi vẫn cứ “rút kinh nghiệm”. Họ coi trọng chất lượng sống, còn ta thì lại coi trọng số lượng…
Dù là tin vỉa hè, chủ yếu qua mạng (lề trái), nhưng người ta đã đồn đoán rằng ông Nguyễn Bá Thanh có danh sách (ưu tiên 1) bầu bổ sung nhân sự vào Bộ Chính trị, nhưng qua hai lần bầu đều bị trật.
Nhiều người rất muốn ông Nguyễn Bá Thanh (gương mặt sáng giá, được lòng dân) vào Bộ Chính trị, mong chờ có nhân vật mới, nhân vật có chính kiến, có bản lĩnh, trung thực, thẳng thắn, dám nghĩ dám làn, hăng hái chông tiêu cực, chống tham nhũng, một nhân vật có tài lãnh đạo đưa thành phố Đà Nẵng nhanh chóng nhiều đổi mới, trong hoàn cảnh cả nước ở đâu cũng đầy tiêu cực, tham nhũng, bê bối, ăn đất đai, ăn dụ án, công trình…
Nhưng, thực tế rất khó. Nếu ông Thanh vào Bộ Chính trị, dù có giữ cương vị quan trọng, cũng khó xoay chuyển được tình hình, khi “cái dây kinh nghiệm” của đảng ta , trong nhận thức của lãnh đạo ta, còn quá dài.
Tại Hội nghị Trung ương 6, biết là suy thoái, đổi màu, biến chất, tham nhũng đã quá nặng nề, đã trở thành “bộ phận lớn”, mà TBT và Bộ Chính trị không dám quyết “kỷ luật đồng chí X”, lại ù xọe lấy cớ “tôn trọng dân chủ rộng rái” đưa ra xin ý kiến BCHTW về thực thi kỷ luật đảng, quả là “tìm bông lúa trong ruộng cỏ”. Cuối cùng, vẫn coi Hội nghị TW 6 là thành công tốt đẹp, chuyện tiêu cực, tham nhũng coi như rút kinh nghiệm, chủ yếu là phải “trong tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, giúp nhau cùng tién bộ”, rồi (thì, là, mà) chủ yếu là “cảnh báo, cảnh tỉnh, giáo dục, răn đe”; là coi như việc triển khai thực hiện NQTW 4 thắng lợi, “khối thằng sợ”, ít nhất đạt yêu cầu…
Lần này, “bộ phận lớn” đâu có dại mà dễ bị dụ, họ sẽ kiên quyết không ủng hộ ai có động cơ, thái độ, bản lĩnh chông lại họ. Đừng mong họ chọn người vì dân vì nước. Trước hết, họ phải vì chính bản than và gia đình họ…cái đã! Ông Thanh dù ‘trung kiên, trung thành’ cách mạng vẫn là “bộ phận nhỏ”, khi mà “quyền” không đủ, “hành” sao được? Sẽ không đủ thế và lực, sẽ ‘lực bất tòng tâm’! Có vào Bộ CT thì cái “Bộ máy chủ” vẫn vậy, ông vẫn chịu “dưới sự lãnh đạo”, phải phục tùng tổ chức, phải làm theo phân công, cái gì cũng phải “tập thể quyết” thì liệu có dễ dàng? Một bình thuốc sâu dù chất lượng cũng có thấm gì trước những bầy sâu mà nhiều chủng lại sâu đã thành tinh? Với cái “dây kinh nghiệm” càng rút càng dài ấy, đã thành nếp quen trong phương pháp, tác phong lãnh đạo của đảng, ông Thanh và những đảng viên ở các cương vị lãnh đạo dù có lớn và có muốn cũng không thể làm được gì!
BVB








Trách nhiệm với non sông
Thư trao đổi gửi ông Đặng Văn Âu và các bạn của ông
Tôi đọc trên Dân Luận bài “Trách nhiệm với non sông phần II” của ông. Cảm giác đầu tiên tôi thấy ông là người thật thà, thẳng thắn và tương đối phục thiện. Ông công nhận những lý do Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) thua trận, đồng thời nói thêm về tình hình miền Nam trước đây mà ông biết. Ông nói đến cách nhìn của ông về 2 nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm, đồng thời nói đến cách đánh giá của ông đối với các lão thành cách mạng đương thời. Tôi rất kính trọng ông, vì vậy xin có lời trao đổi lại với ông và các bằng hữu đáng quý của ông.
Trước hết, xin nói về 2 nhân vật lịch sử. Ở miền Bắc từ trước đến nay luôn đề cao Chủ tịch Hồ Chí Minh. Do ảnh hưởng của cách giáo dục này, cả miền Bắc đều gọi là Bác Hồ, và nếu nói không quá, nhiều người dân miền Nam cũng gọi là Bác Hồ. Bác Hồ đã trở thành biểu tượng sáng chói, là niềm tin cho nhiều chiến sĩ trẻ trên đường ra trận. Sau năm 1975, một số thông tin “cung đình” lộ ra ngoài, hỉnh ảnh Bác Hồ có khác đi trong dư luận. Tuy nhiên, đối với nhiều người dân ở miền Bắc, hình ảnh Bác Hồ vẫn là hình ảnh đẹp. Đấy là chuyện thực tế. Cho đến tận bây giờ, nhiều thông tin về Bác Hồ vẫn trong vòng bí mật. Cách đây hơn chục năm, tôi có dịp trò chuyện với bậc đàn anh của tôi là anh Hoàng Kỳ, con trai nhà thơ Hoàng Cầm. Anh Kỳ cho biết: Nhà nghiên cứu Đào Phan (Đào Duy Dếnh) có viết một quyển sách dài 2000 trang tên là Bi kịch Hồ Chí Minh. Sách chưa thể xuất bản nên ông Đào Phan gửi nhà thơ Hoàng Cầm giữ hộ. Lúc đó tôi muốn mượn xem nhựng anh Hoàng Kỳ không cho mượn. Bây giờ cả nhà thơ Hoàng Cầm và anh Hoàng Kỳ đều qua đời nên tôi không biết bản thảo quyển sách đó ở đâu. Điều mà tôi muốn nói đến ở đây là: Bây giờ chưa phải lúc đánh giá toàn diện, đầy đủ về Chủ tịch Hồ Chí Minh, hãy để cho lịch sử sau này phán xét. Tất nhiên, cần bỏ cách nhìn “thần thánh hóa” lãnh tụ, đưa Bác Hồ trở lại với đời thường.
Về Tổng thống Ngô Đình Diệm, tôi được biết qua một số ấn phẩm xuất bản trước năm 1975 ở Sài gòn. Theo tôi, ông là một người yêu nước đáng kính. Sau này, nhà văn Hữu Mai có viết quyển Ông cố vấn kể về nhà tình báo Vũ Ngọc Nhạ. Trong quyển sách này, hình ảnh Ngô Tổng thống hiện lên rất đẹp. Đọc sách, những người trẻ như chúng tôi biết thêm về gia đình họ Ngô, cũng hiểu thêm vì sao Ngô Tổng thống rút cuộc lại thất bại.
Thưa ông, trong bài trước tôi có nói đến một nguyên nhân thất bại của VNCH là ở lòng dân. Trong cuộc chiến vừa qua, nguyên nhân thắng bại có rất nhiều, nhưng ở một bài ngắn tôi không thể kể hết được. Mà thật ra cũng không nên kể hết, vì các nguyên nhân có nặng nhẹ khác nhau, giá trị từng giai đoạn khác nhau. Tôi nhắc đến nguyên nhân có tính quyết định, giá trị lâu dài suốt cuộc chiến là lòng dân. Điều này thì chính ông đã biết. Miền Bắc thời chiến tranh là một xã hội kín, khá thuần nhất, tương đối đoàn kết, trong khi miền Nam là một xã hội chia năm xẻ bẩy, nhiều đảng phái, nhiều nhóm hoạt động xã hội tranh chấp nhau ác liệt. Ngô Tổng thống không sao thống nhất ý chí, thống nhất lực lượng được thì nói gì đến chiến thắng? Còn một nguyên nhân khác cũng cần phải nói đến: VNCH thua hoàn toàn về chính trị.
Tôi sẽ cố gắng làm rõ cái thua này vì theo tôi đây là cái thua gốc rễ của chính quyền miền Nam trước người anh em miền Bắc. Cái thua về lòng dân còn có thể đổ lỗi cho khách quan vì những người đứng đầu miền Nam đôi khi không tác động vào được lòng dân, nhưng cái thua về chính trị thì không đổ lỗi được cho ai, vì nó thuộc về hành động chủ quan của lãnh đạo miền Nam.
Để giành chính nghĩa về mình, miền Bắc giương cao ngọn cờ chống xâm lược, như báo chí miền Bắc thường gọi là “chống Mỹ cứu nước”. Như ông biết, chính trị luôn dẫn đường cho kinh tế, vì vậy lãnh đạo miền Bắc tuyên truyền phải xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Thời đó người dân nhìn vào các nước XHCN Đông Âu mà hi vọng. Ông thấy đấy, nhiều lớp thanh niên miền Bắc được trang bị tinh thần chống Mỹ cứu nước, hi vọng sau chiến thắng sẽ được hưởng cuộc sống no đủ như các nước Đông Âu, họ lại không có những mối lo lớn về gia đình vì đã được nhà nước “lo hộ” thông qua chính sách hợp tác xã. Những khó khăn thiếu thốn đều được giải thích do hoàn cảnh chiến tranh nên người lính thanh thản ra trận, và đương nhiên là họ “chỉ biết có tiến công”. Về phía miền Nam, các nhà lãnh đạo giương ngọn cờ “chính nghĩa quốc gia”, nhưng chính nghĩa quốc gia là cái gì vậy? Cơ quan tuyên truyền miền Bắc sẽ bảo chính nghĩa quốc gia là độc quyền làm tay sai, giết hại đồng bào, bóc lột lao động của nhân dân…Chính nghĩa quốc gia tỏ ra hết sức yếu ớt trước ngọn cờ chống Mỹ cứu nước mà miền Bắc đang giương cao. Các bạn ở miền Nam không nhìn ra sức mạnh tập hợp lực lượng của ngọn cờ chống Mỹ cứu nước trên tầm quốc tế. Tôi nhắc lại một sự kiện này là ông hiểu: Cuối năm 1972, khi Mỹ dùng B-52 đánh phá Hà Nội rất nhiều nhân sĩ, trí thức trên thế giới phản đối Mỹ, thậm chí có người còn đề nghị những người nổi tiếng đến Hà Nội đứng dưới bom. Có thể nhiều người sẽ chết, nhưng chính phủ Mỹ nhất định phải chùn tay!
Để tập hợp lực lượng dân tộc trong một cuộc chiến tranh, những người lãnh đạo một tổ chức, một quốc gia phải biết giương cao ngọn cờ chính trị, giành chính nghĩa về mình, tổ chức lực lượng vũ trang đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống. Đáng tiếc là những người lãnh đạo ở miền Nam không làm nổi điều đó. Tôi nhắc lại một chuyện: Tướng Nguyễn Cao Kỳ từng tuyên bố ông ta rất ngưỡng mộ Hít-le, miền Nam cần người như Hít-le(?). Tuyên bố như vậy thì thật là …vô chính trị hết biết, vì Hít-le là người bị cả thế giới ghét. Người lính miền Nam nghe ông Kỳ nói thế chắc là…không còn muốn chiến đấu nữa, nếu thực sự họ là người có nhân bản. Ở miền Bắc đã từng thực hiện chính sách rất mất lòng dân, như việc cải cách ruộng đất. Tôi không nhắc lại những tổn thất ghê gớm của chính sách này, nhưng nói đi cũng phải nói lại, chính sách đó đem lại ruộng đất cho rất nhiều người. Số người hưởng lợi nhờ chính sách đó lớn hơn số người bị thiệt hại vì chính sách. Đấy là lý do giải thích vì sao cuối cùng chính quyền vượt qua cuộc khủng hoảng trầm trọng nói trên. Ở miền Nam, có chính sách tương tự gọi là “cải cách điền địa”. Tôi thấy chính sách cải cách điền địa của TT Ngô Đình Diệm rất nhân bản, ông mua lại đất của địa chủ để giao cho nông dân. Theo ông, làm như vậy không gây ra mâu thuẫn trong xã hội mà vẫn giải quyết được vấn đề “người cày có ruộng”. Ý tưởng thật là hay! Nhưng vấn đề là thực hiện như thế nào? Theo từ điển Wikipedia, ông Diệm nhờ cố vấn Đài Loan vạch kế hoạch, rồi ông hạn định cho mỗi chủ đất được giữ không quá 100 ha. Đây là con số lớn hơn nhiều so với chính sách cải cách điền địa ở Nam Hàn, Đài Loan…những nước có hoàn cảnh giống Việt Nam. Do đó, chính sách của ông chỉ tác động được đến khoảng 1/3 số người sử dụng đất, và thực tế diễn ra là chính phủ thu lại số đất mà nông dân nghèo được giao để trao cho lớp người giầu. Có thể thấy quá trình thực hiện đã làm hỏng ý tưởng ban đầu. Cải cách điền địa thất bại nên đến năm 1970 chính quyền VNCH phải tiến hành cải cách điền địa lần thứ hai. Đấy là thất bại của chính sách cụ thể, nhưng tôi muốn nói đến thất bại sâu xa hơn, thất bại về mặt chính trị. Người nông dân sẽ mất niềm tin với chính phủ VNCH, nếu họ có ủng hộ chính quyền Việt Minh, người đã đem lại quyền lợi thiết thân cho họ thì cũng không đáng ngạc nhiên. Nhiều chính sách khác của chính quyền VNCH cũng giống như thế, nghĩa là rất hay trên giấy tờ, nhưng khi thực hiện thì hỏng. Có thể nói đến quốc sách ấp chiến lược của cố vấn Ngô Đình Nhu. Nhìn thử vào lịch sử chúng ta thấy gì? Vào thời Tam quốc ở Trung Hoa cổ, Tào Tháo vận dụng chính sách đồn điền đã xây dựng một nước Ngụy hùng mạnh ở phía Bắc. Tôn Quyền theo đề nghị của Cố Ung cũng dùng đến chính sách này để xây dựng nước Ngô ở phía Nam. Chính quyền Thục Hán áp dụng chính sách đồn điền, là người thực hiện kém nhất trong 3 nước nhưng nhà văn La Quán Trung lại quy công lao đó cho Gia Cát Lượng. Chính sách đồn điền chậm thực hiện, không giúp Khương Duy cứu được nước Thục. Thời phong kiến nước ta, các triều vua áp dụng chính sách “ngụ binh ư nông”, điều đó bảo đảm cho triều đại phát triển kinh tế, bảo vệ Tổ quốc. Thời hiện đại, chính quyền Ix-ra-el áp dụng mô hình xây dựng các kíp-bu, tạo thế đứng vững trước uy hiếp của khối A-rập đông đảo. Bên cạnh Việt Nam, chính quyền Mã Lai vận dụng thành công chính sách “tát cá ra khỏi nước”, quét sạch du kích cộng sản. Ông Ngô Đình Nhu học tập Mã Lai, thiết kế quốc sách ấp chiến lược, hi vọng đẩy cộng sản ra khỏi vùng chiến lược nông thôn. Quốc sách ấp chiến lược của ông Nhu là một chính sách hay, nhưng ông thất bại khi áp dụng nó, do đó không có hậu thuẫn của lực lượng nông dân đông đảo. Các tướng lĩnh miền Nam sau này không có tầm nhìn chính trị như ông Nhu, chỉ biết cầm súng đánh nhau (đánh cộng sản và đánh lẫn nhau), thua trận là điều tất nhiên.
Thưa ông Đặng Văn Âu, ông là thiếu tá quân lực VNCH, vậy thì ông phải biết các nguyên tắc quân sự cơ bản như: nguyên tắc bảo vệ mình, tiêu diệt địch, nguyên tắc tập trung binh lực ưu thế tiêu diệt từng bộ phận quân địch… Trong đấu tranh chính trị cũng có những nguyên tắc cơ bản tương tự, như nguyên tắc “thêm bạn bớt thù”, nguyên tắc tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu… Về việc này, lịch sử cho ta nhiều bài học. Nếu ông đọc sách, chắc ông biết khi mới khởi nghĩa, quân của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ giương cao ngọn cờ “hoàng tôn Dương” để tập trung mũi nhọn vào quyền thần Trương Phúc Loan chứ không chĩa mũi nhọn vào chúa Nguyễn, mặc dù chúa Nguyễn là kẻ thù chính. Khi bị chúa Trịnh và chúa Nguyễn đánh kẹp 2 đầu, Nguyễn Nhạc rất nhanh chóng “xin hàng” chúa Trịnh, nhận làm tiên phong đánh quân Nguyễn. Nhờ đó, Nguyễn Nhạc có thể tập trung toàn lực giải quyết chúa Nguyễn ở phía Nam rồi mới đối đầu với chúa Trịnh ở phía Bắc. Thời cộng sản, ông Hồ Chí Minh cho ta nhiều bài học hay. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Ông Hồ Chí Minh ra chỉ thị tập trung vào kẻ thù chủ yếu là phát-xít Nhật và liên minh tạm thời với Pháp. Sau khi cướp được chính quyền, chính phủ ông Hồ Chí Minh đối diện với nhiều kẻ thù, trong đó có quân Pháp đang theo chân quân Anh vào nước ta, quân Tầu Tưởng cũng vào miền Bắc. Ông Hồ Chí Minh xử lý bằng cách chấp nhận đàm phán với Pháp để đuổi quân Tầu Tưởng đi, loại bớt kẻ thù nguy hiểm. Đoàn kết với mọi lực lượng có thể đoàn kết được, dù chỉ là tạm thời để tập trung mũi nhọn vào kẻ thù nguy hiểm nhất trước mắt là một nguyên tắc lớn trong đấu tranh chính trị, bất kể thời nào.
Tôi xin quay về với tình hình hiện nay ở Việt Nam (…)* Nhân dân khắp nơi trong nước đang đấu tranh với chính quyền, yêu cầu chính quyền phải tuân thủ pháp luật, tiến tới thực hiện dân chủ, công bằng để xây dựng một nước Việt Nam giầu mạnh, đủ sức tự bảo vệ trước nguy cơ xâm lược của bá quyền phương Bắc. Cuộc đấu tranh này đang thức tỉnh tất cả những người yêu nước, kể cả những đảng viên cộng sản trung kiên của đảng. Mũi nhọn cần tập trung tiến công trong giai đoạn này là các nhóm lợi ích đang lũng đoạn đảng và đất nước. Vì vậy, mỗi tiếng nói góp vào cuộc đấu tranh đều đáng quý. Nếu đấy là tiếng nói của những đảng viên chân chính của đảng cộng sản thì càng đáng quý hơn nữa, vì nó có tác dụng cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có các đảng viên trẻ đang còn phân vân trước cuộc đấu tranh. Chính vì vậy, chúng tôi ủng hộ những lời tâm huyết của đại tướng Võ Nguyên Giáp góp ý về dự án bô-xít ở Tây nguyên, thư của tướng Nguyễn Trọng Vĩnh gửi Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, mặc dù những ý kiến của các vị không được Đảng tiếp thu. Điều đó sẽ làm rõ bộ mặt thật của nhóm lợi ích trước dư luận trong và ngoài nước. Các vị lão thành cách mạng khi góp ý tất nhiên phải nêu cao ngọn cờ Hồ Chí Minh, trong thực tiễn vẫn còn giá trị động viên nhiều tầng lớp nhân dân. Chúng tôi cho rằng phủ nhận ý kiến của các bậc lão thành cách mạng lúc này là việc làm quá khích, chỉ gây mất đoàn kết, không mang lại lợi ích gì. Hãy để cho các loại ý kiến đều được phát biểu công khai, thẳng thắn, nhân dân sẽ lựa chọn xem ý kiến nào đúng và ủng hộ. Hãy tin vào nhân dân, vì nâng thuyền hay lật thuyền vẫn là dân, thưa ông Đặng Văn Âu.
……..
*(…) kí hiệu đoạn QC tự đục bỏ








Anh ơi tha cho em… em là đảng viên!
Cái clip đang lưu hành trên mạng cho thấy sự thật bẽ bàng của một thằng đảng viên cao cấp. Nó là Phó chánh văn phòng Tỉnh Bình Định tên là Lê Văn Vương còn người được nó năn nỉ là Lê Anh Quốc, người có hân hạnh được nó lấy vợ giùm.
Khi bị bắt quả tang và bị súng điện dí vào người nó mếu máo bật lên lời năn nỉ hèn hạ:
“Anh Quốc ơi tha cho em, em là đảng viên…”
Nghe lời than não nuột của thằng này mà tôi tức muốn lộn ruột. Tôi cũng là đảng viên đây, tôi tự hứa trong lòng nhiều lần dù có chết cũng không bao giờ làm ô cái danh mà tôi từng ôm ấp từ nhiều chục năm nay mặc dù tôi không hề yêu thương cái đảng này một chút tẻo nào.
Tôi chưa bao giờ chịu ơn của đảng, chưa bao giờ lấy đảng làm bình phong, cũng như chưa bao giờ vận dụng chủ nghĩa Mác Lê một cách sáng tạo vào cuộc sống của chính tôi và gia đình, hay trong cái lý lịch đảng viên mà đã nhiều năm qua tôi không còn đóng nguyệt liễm nữa.
Tôi là một đảng viên không điển hình. Một đảng viên có nỗi buồn mang tên “lầm lẫn”. Và nhất là không cao cấp như thằng mếu máo này.
Tôi vào đảng do tâm lý …bầy đàn. Ban đầu thấy đảng viên có vẻ gì đó oai phong ngầm trong lời nói, trong cách hành xử đối với người khác. Những đảng viên trẻ lúc nào cũng tự hào mình là người biết lắng nghe đồng đội, đồng chí đã ám tôi. Đa số bạn bè tôi đều cảm thấy vào đảng là con đường dẫn tới thành công cho bản thân. Phấn đấu hôm nay sẽ gặt hái kết quả ngày mai. Vậy là tôi phấn đấu để vào đảng.
Không khó khăn lắm khi tôi làm đơn xin vào đảng bởi lý lịch đỏ hoét của mình.Từ ông tới cha cộng với hai người anh liệt sĩ. Tôi vào đảng như một sự hiển nhiên và từ cái hiển nhiên ấy khiến tôi thấy không cần thiết phải phấn đấu như nhiều người khác.
Sau vài năm sinh hoạt đảng, tôi bắt đầu chán. Chán vì nhiều thứ mà thứ quan trọng nhất là tôi không cảm thấy mình thích hợp với cái đám đông được tuyển chọn này. Cái đám đông ấy nếu người đứng bên ngoài nhìn vào sẽ thấy là một toán mặc đồng phục. Còn người bên trong thì lại thấy … bên trong những bộ đồng phục ấy là những con dao nhọn hoắt, sẵn sàng thọc sâu vào đồng chí, đồng đảng của mình nếu quyền lợi bị xâm phạm.
Tôi là người tự đẩy mình ra cái vòng tròn máu lạnh ấy vì …nhát. Và trên hết, tự biết khả năng chống chọi của mình không lại ai trong cái đám người sẵn sàng tàn nhẫn này.
Tôi an phận và đôi khi cảm thấy hối hận vì đã trót vào đảng. Vợ tôi cằn nhằn, mấy đứa con ngây thơ chờ đợi một cái gì đó mà bạn bè chúng có. Tôi không giải thích cho vợ lẫn con, tôi im lặng như gã thiền sư giả mạo, thích nhìn người khác sa vào vòng nghiệt ngã và tự an ủi mình bằng những kết quả mà các ông bà đảng viên kẻ trước người sau rơi vào tròng của nhau.
Mỗi lần như thế tôi hả dạ, tôi âm thầm sung sướng nhưng không lộ ra cho ai biết. Tôi tin nếu có người biết tôi nhát chứ không phải liêm chính như họ tưởng thì sẽ mặc sức mỉm cười. Tôi không chấp nhận những nụ cười như vậy và lý do này khiến tôi tiếp tục đóng vai thiện của cuộn phim nhiều tập về cuộc đời người đảng viên liêm chính.
Cho tới hôm nay thì tôi cảm thấy bị xúc phạm, xúc phạm trầm trọng cho vai diễn của tôi lẫn con người thật của mình. Cái clip quay cảnh một thằng Phó chánh văn phòng của tỉnh bị chồng kẻ ngoại tình với gã vào phòng bắt quả tang đang đóng phim con heo. “Anh Quốc” dùng súng điện bắn gã và mụ tình nhân. Gã đau, và khi ấy mếu máo lên tiếng năn nỉ thống thiết mà tôi chưa bao giờ nghe một gã đảng viên nào năn nỉ trước đó: “Anh Quốc ơi tha cho em, em là đảng viên, cả đời em theo đảng!..”
Có xem cái clip mới thấy sự đau khổ của tên này. Có điều thằng này dám chơi mà không dám chịu. Khi nó ngồi trong văn phòng tỉnh ủy liệu có ai trên đời này có thể làm cho nó kêu rên thống thiết như vậy hay không? Chắc chắn là không. Khi nó đánh người khác bằng giấy tờ, bằng chữ ký, bằng văn bản liệu nó có thương xót những tiếng kêu than thống thiết của nạn nhân như nó hay không? Cũng chắc chắn là không.
Và một điều nữa: khi nó trình ký lệnh cưỡng chế đất đai của người dân có bao giờ nó nghĩ sẽ có hằng trăm hàng ngàn người cũng đau đớn và hoảng sợ như nó hay không?
Nó hoảng sợ bị mất ghế, mất thẻ đảng. Người bị nó hại sợ té vãi vì sẽ mất đất, mất nồi cơm và có cơ đi ăn mày cả gia đình. Có bao giờ nó nghĩ tới điều này hay không? Cũng chắc chắn là không.
Nó là một tên lãnh đạo, nhưng vẫn còn nhỏ.
Tội ngoại tình của nó đáng bị như thế, nhưng vẫn còn nhỏ.
Những kẻ khác đang ngồi bàn chuyện nước non trong kia mới là lớn. Tội của họ mới là lớn so với tội lấy vợ người khác.
Tội của nó chỉ làm cho một thằng chồng đảng viên khác đau khổ. Tội của mấy người ngồi trong kia là tội làm cho những người không phải đảng viên phải đau khổ. Vì vậy bản án phải nặng hơn.
Không biết mai này khi bị súng điện của người dân cả nước dí vào thì mấy ông ở cái Bộ chính trị cao nhất nước ấy có khẩn thiết kêu than như thằng này không? Mà than sao được hở trời, không lẽ lại nói: Lạy các anh, các chị các bà các cô, em là đảng viên cao cấp cả đời hy sinh vì nhân dân!
Vì vậy mà tôi giận cho cái tên Phó chánh văn phòng tỉnh này. Nó đã làm hoen ố cho cái thẻ đảng của tôi. Mặc dù tôi không còn yêu thích đảng nữa nhưng cái thẻ đảng tôi vẫn thấy nó dễ thương lắm. Cái thẻ đảng không làm tôi sôi máu như mấy thằng đảng viên trong chi bộ của tôi. Cái thẻ nó không biết nói và tôi tin rằng nếu nó biết lên tiếng thì việc đầu tiên nó sẽ khen tôi: Mày là một thằng đảng viên ưu tú!
Và nhất là khi có biến cố gì đi nữa tôi vẫn thoát nạn! cái nạn mà một đảng viên không thể tránh khỏi nếu chưa làm điều gì khiến cho nhân dân căm thù. Cuối cùng cái thẻ đảng trong sạch sẽ cứu tôi vì nó cho phép lãnh lương hưu khi bất cứ chế độ nào nổi lên cầm quyền. Không lẽ họ cắt lương hưu của một đảng viên tốt như tôi?
Nhưng gì thì gì tôi quyết liệt không năn nỉ hay kêu gào bên thắng cuộc. Không lẽ lại la lên: Anh ấy ơi tha cho em, em là đảng viên nhát hít chứ không phải liêm chính gì đâu, anh ấy ơi…cho em xin cái sổ hưu!








Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
