Nguyễn Quang Lập's Blog, page 17

May 13, 2013

Chỉnh đốn Đảng- Dấu chấm hỏi hay dấu chấm hết?

Han Times


Chỉ còn anh và em cùng tinh yêu ở lại (chú thích ảnh từ cô Fs)

Chỉ còn anh và em cùng tinh yêu ở lại (chú thích ảnh từ cô Fs)


Trong lịch sử đi đến chung cuộc của mình, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã từng có những con người mang tầm ảnh hưởng Quốc tế; đã từng có một nhà độc tài làm thay đổi cả địa chính trị khu vực Đông Nam Á Châu. Nhà độc tài này đã khiến láng giềng phương Bắc phải ôm hận trước “tiểu bá Xã hội chủ nghĩa”.


 Oái oăm thay, đúng lúc suy thoái kinh tế làm lộ rõ những hố đen của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đúng lúc những vấn đến “tồn tại từ nhiều khóa trước” bùng phát đe dọa tồn vong của chế độ thì Đảng lại có bác cả Trọng.


 Áp lực thời đại, áp lực chính trị và nhu cầu đổi mới có vẻ là quá lớn khi được đặt trên vai Trọng giáo sư. Kết thúc hội nghị Trung ương VI, người ta thấy Trọng giáo sư nghẹn ngào khóc trước bàn dân thiên hạ. Kết thúc Hội nghị Trung ương VII người ta lại thấy những cộng sự (hay bầy tôi thân tín) của Trọng giáo sư – Ý thức hệ Cộng Sản trượt rớt khỏi những chiếc ghế đầy quyền lực trong BCT.


 Những ngày đầu của chỉnh đốn


Thời kỳ tan rã của ước mơ thiên đường qua rồi, thế vào đó là thời đại bùng nổ thông tin, thời kỳ khẳng định những giá trị bất hủ của quyền con người. Trong khi đó Việt Nam bước vào giai đoạn rã đám lòng tin (với hiện thân cao nhất là chủ nghĩa Mắc Kê Nô) và lợi ích nhóm “đe dọa sự tồn vong của Đảng”.


 Không chịu ngồi một cách vô thưởng vô phạt như cụ Nông răng trắng, Trọng giáo sư quyết định một phen “vần thiên cổ”, thế thiên hành đạo. Và trước khi ông nắm chiếc ghế Tổng Bí Thư, thiên hạ đã từng xì xầm bàn tán về cuộc đại chiến Ba – Tư.


 Công cuộc chỉnh đốn Đảng được Trọng giáo sư khởi xướng, đó là hành động thực sự chứ không trông chờ vào lý thuyết đạo đức suông kiểu học tập làm theo (một phong trào tốn quá nhiều thời lượng trên báo giới và phí phạm công quỹ quốc gia). Đây cũng là niềm tin của ông Nguyễn Bá Thanh – đương kim Trưởng ban Nội chính trung ương, nguyên Bí thư thành ủy Đà Nẵng.


Việt Nam quay cuồng theo chỉnh đốn, sôi theo cuộc chiến giữa nhóm lợi ích và những “ông thiện chân chính”, hi vọng được nhen nhóm trở lại. Người ta hi vọng bởi người ta muốn cứu vớt lòng tin vơ bèo bọt tép của mình, người ta muốn những kẻ gây phương hại đến lợi ích kinh tế quốc gia và người dân phải chịu trách nhiệm


 Nhưng đến giờ dường như thế cục ngã ngũ. Những “ông thiện” chỉ để hương nhang thờ vọng trong “ngôi chùa Chủ nghĩa xã hội”, còn “nhóm lợi ích” thu về những chiến quả lớn lao, họ đã khiến thượng phương bảo kiếm (Ban Nội Chính Trung ương) phải chùn.


 Nhiều người đã bắt đầu tính đến mô hình nước Nga tại Việt Nam. Và trong sự nhiễu loạn thông tin – lòng tin, nhiều người cho rằng Thủ tướng có thể làm được điều này – cũng có thể đó chỉ là tin đồn thất thiệt – mà dạo này tin đồn oái oăm lại thường hay đúng.


 Thất bại của ý thức hệ cộng sản?


Thiện- Ác trong chùa cổ

Thiện- Ác trong chùa cổ


Tất nhiên chúng ta có thể hỏi căn nguyên vì đâu, những “Ông Thiện” từng gióng trống khua chiêng ầm ỹ trên báo đài, trước dân chúng hay chém gió phần phật ở Hải Vân quan lại trở thành những kẻ mình đầy hương khói trong ngôi ngôi chùa cổ?


Điều đầu tiên phải nói có lẽ là ý thức hệ cộng sản, luận thuyết cộng sản đã không đáp ứng được nhu cầu thời đại. Đúng hơn sự không cân xứng giữa triết học cộng sản với thực tế nhãn tiền đã làm tình hình kinh tế chính trị Việt Nam thêm rối rắm, âm dương đảo lộn.


 Với sự bảo thủ về tư tưởng, bảo thủ về đặc quyền đặc lợi của mình và sự xơ cứng, già lão bệnh tật cố hữu của một lão già hơn 80 tuổi đã không cho phép ĐCS có được nhà tư tưởng cập thời. Chỉnh đốn Đảng trở về với bản chất đầy thất vọng: ” vì tồn vong chế độ” chứ không phải là vì lợi ích quốc gia, dân tộc.


 Khẳng định lại chế độ công hữu ruộng đất, chối bỏ tam quyền phân lập (tức là nền tảng khoa học của một thiết chế chính trị hiện đại), coi nhẹ dân chủ, chỉnh đốn Đảng vô hình chung trở thành cuộc chiến quyền lực giữa nhóm lợi ích lớn (ý thức hệ) và nhóm lợi ích nhỏ. Giai cấp – đặc quyền đã không dung hòa với dân tộc dân chủ.


 Cuộc chỉnh đốn không có được nền tảng tư tưởng mạnh, lại phạm phải khá nhiều lỗi kỹ thuật. Họp kín liên miên đã khiến bầu không khí chính trị ở Việt Nam trở nên u minh. Người dân thì không biết tin vào cái gì (ngoài một sự thực là Đảng cầm quyền – tự coi mình là kẻ đại diện quốc gia) đang họp kín và vẫn họp kín. Và tin đồn từ các nguồn tin dò rỉ được thổi bùng lên.


 Đoàn kết toàn dân, tinh thần dân chủ bị coi rẻ trong chính thời đại dân chủ. Lỗi kỹ thuật nói lên bản chất của Đảng: sợ hãi bảo thủ và xơ cứng tư duy.


 Những mỹ từ về sự lãnh đạo và tinh thần đại đoàn kết của Đảng đã không che dấu được thực tế Đảng Cộng Sản Việt Nam đang đại mất đoàn kết. Với phát ngôn “bên ấy”, chính Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đã phơi bày cho cả bàn dân thiên hạ thấy cuộc tranh đấu khốc liệt giữa Đảng và Chính phủ. Việc rủa những người cấp tiến (trong chính ĐCS) là phường “suy thoái đạo đức” ông Trọng đã tự kéo tụt uy tín chính trị của mình.


 Người ta sẵn lòng chỉ trích rồi hợp thức hóa biệt danh của ông.


 Không minh bạch thông tin, không dân chủ, không có lộ trình khoa học. Nền tảng quyền lực và tầm ảnh hưởng chính trị của Trọng Bí thư đã không thể nào áp đảo hoặc chí ít là cân bằng được với phe đồng chí X. Đó là những điểm yếu cốt tử làm nên thất bại của Trọng giáo sư với công cuộc chỉnh đốn.


 ”Ông Thiện” không xấu mà là ông đã quá lạc hậuCó lẽ chúng ta sẽ được chứng kiến Trọng giáo sư lại nghẹn ngào trong một ngày không xa? Xin chúc mừng “bên ấy” và chia buồn với loài Lừa bởi vì chúng ta còn hỗn mang ít nhất mười niên nữa!!



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 13, 2013 01:21

Rất nhiều người Việt ham tiền, vô cảm, hèn nhát

GDVN phỏng vấn Gs Nguyễn Lân Dũng


nguyen_lan_dung_nguoi_viet_xau_xi_giaoduc.net.vn_copyPGS.TS Trịnh Hòa Bình, Giám đốc Trung tâm Điều tra Dư luận xã hội (Viện Xã hội học) cho rằng: Người Việt hiện đại xấu nhất là thói hám danh, chuộng lạ, sính ngoại, sính hình thức,… còn với GS Nguyễn Lân Dũng thì: “Tự nhiên biến mình thành hèn hạ, chịu khuất phục, làm ngơ trước mọi sai trái, mọi diễn biến xấu trong xã hội (cái gọi là chủ nghĩa mackeno) – Tôi cho đó là cái xấu nhất đang kìm hãm sự phát triển của xã hội ta, cản trở việc phát huy các thành tựu của sự nghiệp Đổi mới do Đảng ta khởi xướng. 


Báo Giáo dục Việt Nam đã có buổi trao đổi với GS.Nguyễn Lân Dũng xung quanh vấn đề này.


Tự biến mình thành hèn hạ


-  Là một Giáo sư – Tiến sỹ, Nhà giáo Nhân dân rất gần gũi với người Việt Nam, theo ông, người Việt có  tính xấu nào cần phải thay đổi trong thế giới hiện đại?


GS.NGND Nguyễn Lân Dũng: Không có tính xấu nào là của mọi người Việt, nhưng có thể có những tính xấu của một bộ phận không nhỏ người Việt. Trong thế giới hiện đại mọi người đều tiếp nhận được không ít những nét đẹp văn hóa do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đem lại. Chẳng hạn như thói quen thường xuyên theo dõi tin tức trong và ngoài nước thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là truyền thanh, truyền hình. Với giới trẻ là thông qua internet, điện thoại trực tuyến…


Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường bên cạnh các ưu việt rõ rệt so với nền kinh tế kế hoạch hóa trước đây, nhưng do tính tự phát vốn có, kinh tế thị trường có thể mang lại không chỉ có tiến bộ mà còn cả suy thoái, khủng hoảng và xung đột xã hội. Cái chính là việc chạy theo đồng tiền bằng mọi giá.


Trước đây trong các cuộc kháng chiến, mọi người sống giản dị, thân thiện với nhau, khoảng cách giàu nghèo thu hẹp, cán bộ gần gũi với dân và tôn trọng dân. Ngày này, bộ phận nhẽ ra phải là ưu tú nhất trong xã hội là cán bộ, đảng viên nhưng như nhận xét của Đảng trong Nghị quyết Trung ương 4 thì: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”.

Chúng ta từng có khẩu hiệu “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Nay một bộ phận không nhỏ Đảng


viên suy thoái, biến chất thì tránh sao khỏi sự suy thoái, biến chất của quần chúng? Người ta coi chuyện chạy chọt bằng phong bì là chuyện bình thường và thường được gọi là văn hóa phong bì. Từ vị trí  chủ nhân ông của đất nước người dân mặc nhiên hạ thấp vị trí của mình xuống, việc gì cũng phải xin xỏ, cầu cạnh, không dám công khai tố cáo các hành động sai trái của những người có chức có quyền (một phần do pháp luật quy định người đưa hối lộ cũng có tội). Tự nhiên biến mình thành hèn hạ, chịu khuất phục, làm ngơ trước mọi sai trái, mọi diễn biến xấu trong xã hội.

Tôi cho đó là cái xấu nhất đang kìm hãm sự phát triển của xã hội ta, cản trở việc phát huy các thành tựu của sự nghiệp Đổi mới do Đảng ta khởi xướng.


- GS Văn hóa nổi tiếng Trần Lâm Biền đã từng ví: Lòng tham như một chất ma túy, phá hoại nhân cách con người và có sức cám dỗ ghê ghớm. Theo ông, lòng tham khiến người Việt xấu xí và suy yếu thế nào trong quan hệ cộng đồng và thế giới?


GS.NGND Nguyễn Lân Dũng: Lòng tham đẩy lùi nhân cách sống giản dị, vị tha, thương người như thể thương thân, lá lành đùm lá rách… những đức tính quý giá vốn là truyền thống của nhân dân ta. Lòng tham khiến mất đi sự quý trọng vốn có của nhân dân với  những người cán bộ,  nhẽ ra phải là công bộc của dân như lời dạy của Bác Hồ.


Lòng tham khiến mất đi sự chung thủy của không ít vợ chồng, kể cả những cặp vợ chồng trẻ biểu hiện qua tỷ lệ ly hôn ngày càng tăng. Lòng tham khiến láng quê vốn yên lành nay trở nên náo loạn vì chuyện tịch thu bờ xôi ruộng mật một cách bừa bãi, thiếu cơ sở khoa học và pháp lý, còn vì cắt tóc thư giãn, karaoke, nhà nghỉ, game online… đã len lỏi tới tận các vùng quê.


Lòng tham khiến bố mẹ nhắm mắt chạy theo đồng tiền để các quý tử tự do phá phách, bỏ học, trở thành những anh hùng xa lộ hoặc những tên Đông Gioăng (Don Juan) chuyên hại đời các cô gái mới lớn…


Đạo lý đang bị thách thức, đơn từ khiếu nại, tố cáo xếp đầy các tủ hồ sơ mà không kịp giải quyết thỏa đáng. Hãy để mắt đến các trang mạng xã hội, trong đó có không ít những tiếng nói trung thực, thẳng thắn, chứ đâu phải toàn là những điều bị chụp mũ là “diễn biến hòa bình” hay bị lôi kéo bởi các thế lực thù địch.


Gần đây vang lên bài thơ thật buồn của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị phụ tách văn hóa- tư tưởng của Đảng ta:


“Đất nước những năm thật buồn

Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt

Lần mò trên trang mạng tìm một tin lành

Như kẻ khát nước qua sa mạc

Chung quanh yên ắng cả

Ngoài đường nhựa vắng tiếng xe lại qua

Người giàu, người nghèo đều ngủ

Cả bầy ve vừa lột xác

Sao mình thức?

Sao mình mải mê đeo đuổi một ngày mai tốt lành?

Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội

Có còn bay trong đêm

Sớm mai còn giữ được màu đỏ?

Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng

Mong gặp một con cá hanh khác?

Bao giờ buổi sáng, buổi chiều nhìn ra đường

Thấy mọi người nhẹ nhàng, vui tươi

Ấm áp ly cà phê sớm

Các bà các cô khỏe mạnh yêu đời

Hớn hở tập thể dục

Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má

Không phải gạt vội vì xấu hổ

Ngước mắt, tin yêu mọi người

Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta

Trong không gian đầy sợ hãi?

Những cây thông trên núi Ngự Bình thấp thoáng ngọn nến xanh

Đời đời an ủi

Cho người đã khuất và người sống hôm nay …”


Ai có thể suy diễn nhà thơ – chiến sĩ này đang bị suy thoái chính trị, suy thoái đạo đức?


“Vĩ cuồng vì chút địa vị của mình thật là vô kể”


- Thói tham danh, bệnh sùng bái danh hiệu, chức vụ… trong giới trí thức đã được nhạc sĩ Đặng Hữu Phúc xem như một quốc nạn. Còn Giáo sư Cao Xuân Hạo trong một bài viết ở cuốn Tâm lý người Việt nhìn từ nhiều góc độ gọi là bệnh vĩ cuồng (me’ganomanie). Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn bảo đó là căn bệnh nan y khó chữa. Theo ông, thói háo danh của người Việt hiện nay đã ở mức báo động ra sao?


GS.NGND Nguyễn Lân Dũng: Danh lợi có nghĩa là cái danh hiện nay đi liền với cái lợi. Hầu như ai có chút quyền hành gì đều cố hết sức tận dụng cái uy quyền ấy để làm giàu một cách bất chính. Vì vậy dân gian mới có câu “Nhà mặt phố, bố làm quan”. Cũng còn có những ông quan thanh liêm, nhưng số đó quả không nhiều.


Vĩ cuồng vì chút địa vị của mình thật là vô kể. Chuyện mãi lộ của Cảnh sát giao thông ai cũng biết mà có lẽ không có cách gì khắc phục nổi. Một lái xe taxi nói với tôi đưa bệnh nhân đến cổng bệnh viện, vì không được đỗ (?) nên đã cẩn thận hỏi anh CSGT là phải đỗ chỗ nào? Anh ấy trả lời là lên quá chỗ cầu vượt kia. Làm đúng như vậy thì lại đã có anh CSGT khác xông ra đòi phạt với số tiền cao ngất ngưởng. Đành phải đưa một nửa số tiền ấy mà không lấy biên bản (!).


Chuyện này tôi đã nói ở Diễn đàn Quốc hội nhiều lần mà hầu như chả có chuyển biến gì. Sao ta không học hỏi cảnh sát nước ngoài – Xe đỗ sai quy định họ gài giấy phạt lên cái gạt nước mưa, lái xe cứ việc nhanh chóng chuyển tiền qua ngân hàng, càng chậm số tiền phạt càng tăng. Đấy chỉ là một ví dụ trong muôn vàn ví dụ.


Một nữ doanh nhân rất thành đạt đã trả lời khi tôi hỏi sao không thấy xuất hiện trên TV trong các lần được lãnh đạo đeo cho vòng hoa và cổ: “Chú tưởng ngon lành thế à? Nộp nhiều tiền lắm đấy chú ạ!”. Thật ngoài trí tưởng tượng của tôi!


Tham lam còn dẫn đến mất uy tín quốc tế. Nào là tôm bị trả lại vì có đinh đóng vào đầu tôm cho tăng cân (!), nào cà phê thì hái lẫn lộn cả quả xanh (vì nếu để chín hết sẽ mất trộm!), nào giầy vải lẫn cả loại vải có lẫn formalin (do nhập ẩu nguyên liệu rẻ), nào phạt gây ô nhiễm chỉ nắm “anh có tóc” trong khi hàng chục cơ sở cùng gây ô nhiễm tại cùng chỗ đó…


Ai cũng có thể kể ra hàng trăm ví dụ về việc lạm dụng chức quyền để gây tác hại cho xã hội. Học hàm, học vị là chuyện nghiêm túc với các quy định hết sức chặt chẽ. Vậy mà vẫn có những người có bằng Tiến sĩ nước ngoài trong khi tiếng Anh chỉ đủ ở mức biết vài câu chào hỏi (!). May mà báo chí chưa sờ đến hay không dám sờ đến đấy. Học hàm Giáo sư, Phó giáo sư trên toàn thế giới là chuyện chỉ dành riêng cho các trường Đại học và thường chỉ cần do Hiệu trưởng Đại học quyết định. Hơn nữa cần ghi rõ là Giáo sư của trường nào? Làm gì có chuyện dành cho vô số vụ trưởng, thứ trưởng, sĩ quan quân đội, công an… như ở nước ta?


Chuyện xưng danh Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học New York cũng thực nực cười. Chữ Academy còn có nghĩa là Học viện, Trường phái, Hội đoàn… Member chỉ có nghĩa là Thành viên, còn Academician mới là Viện sĩ!


Chuyện háo danh còn ở mức Nhà nước. Quốc hội đã từng thảo luận về việc đã nên thành lập Viện Hàn lâm chưa, ý kiến chung là “chưa”. Vậy mà bỗng nhiên xuất hiện hai Viện hàn lâm trong khi không có Viện sĩ nào (?). Ai tham mưu làm chuyện này, phải chăng xuất phát từ việc có ba Viện từ lâu đã tự tiện đặt tên nước ngoài là Academy (?). Có lẽ ai cũng nên tìm xem trên YouTube sự hùng biện tài hoa và khá có lý trong trên 1 giờ liền của một học sinh lớp 12 với nhan đề “Sự trăn trở của một kẻ lười biếng”.


Tôi cảm thấy nó có tính thuyết phục hơn nhiều tham luận của không ít học giả về những tồn tạo kéo dài của nền giáo dục nước nhà. Nên chăng cần viết lại bài độc diễn này dưới dạng văn bản để nhiều người, nhất là những người chịu trách nhiệm, có điều kiện tham khảo. Trong các tồn tại được cậu học sinh này thẳng thắn nêu lên thì chính là bệnh thành tích và một chương trình học tập vừa nặng, vừa thấp (!) so với thế giới, hơn nữa khá xa lạ với nhu cầu của đời sống (!).


Coi nặng tiền tài hơn giáo dục


- Trong cuộc sống, nếu phải kể tên ra 5 tính xấu đáng sợ nhất của người Việt thì ông “dị ứng” nhất với những loại tham nào? Muốn thay đổi nó, người Việt phải làm gì?


GS.NGND Nguyễn Lân Dũng: Tôi nghĩ không nên nói của người Việt Nam mà nên nói của không ít người Việt Nam: Nếu cần chọn ra 5 điều thì tôi chọn là:


- Ham tiền

– Hiếu danh

– Coi thường danh dự

– Vô cảm và hèn nhát

– Coi nhẹ ý nghĩa “đồng bào”


- Theo ông, căn nguyên của những tính xấu mà ông kể trên là gì?


GS.NGND Nguyễn Lân Dũng: Thứ nhất, tôi cho là do chưa hiểu đúng mặt tích cực của kinh tế thị trường, nhưng lại chịu những ảnh hưởng xấu của kinh tế thị trường. Thứ hai là tính thiếu dân chủ trong đời sống xã hội, nhất là trên phương tiện truyền thông, khiến cái xấu không được chỉ đích danh, kể cả trong lĩnh vực khoa học như anh Dương Trung Quốc đã phải thốt lên là: một kiểu Lịch sử học vô nhân xưng.


Chính vì vậy mà không ít người đọc đã quay lưng lại với báo viết mà quay sang báo mạng (bên cạnh nhiều trang tốt còn có cả những trang xấu của một số ít người có ác ý).


Thứ ba là do thiếu duy trì truyền thống gia giáo, coi nặng tiền tài hơn giáo dục, chăm sóc con cái.


Thứ tư là sự thiếu gương mẫu của các quan phụ mẫu các cấp, những người coi chức vụ là cần câu cơm (đúng hơn là cần câu vàng bạc, ngoại tệ).


Và thứ năm là tình trạng thiếu tin tưởng và ít trọng dụng người tài, không có lý do gì mọi chức vụ từ cấp thôn xóm trở lên đều phải là đảng viên (trong khi tỷ lệ đảng viên chỉ là 3 triệu trong 90 triệu dân số).


- Nhà văn Vương Trí Nhàn đã từng viết rất nhiều sách về tính xấu của người Việt, và trao đổi với báo GDVN, vị này cũng nói: Người Việt chẳng có tính tốt nào. Với GS.Nguyễn Lân Dũng thì sao? Người Việt có thể tự hào về điều gì?


GS.NGND Nguyễn Lân Dũng: Tôi nghĩ chẳng có ai muốn “vơ đũa cả nắm” như vậy! Chúng ta cần tự hào về những truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta. Nếu không có những truyền thống tốt đẹp ấy thì làm sao giữ vững được nền độc lập quốc gia, làm sao có được những tiến bộ trông thấy trong đời sống kinh tế-xã hội, làm sao có được những bước bứt phá về Tổng thu nhập quốc nội (GDP) mà quốc tế cũng phải thừa nhận, làm sao có vị trí ngày càng được tôn trọng trên thế giới….


Hãy tiếp xúc với các cựu chiến binh, với lớp người cao tuổi, với đa số bà con ở nông thôn, ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa… Ta sẽ gặp biết bao những tấm gương tuy còn nghèo khổ nhưng vẫn nêu cao sự trong sáng về đạo đức, về lòng nhân ái và sự hy sinh  hết mình dành cho việc học hành của con cái cũng như cho sự đóng góp theo quy định của Nhà nước (kể cả những quy định tuy tôi đã chất vấn nhiều lần tại Quốc hội mà đến nay nay tôi và rất nhiều người vẫn chưa thông được – chẳng hạn như chuyện phải bắt buộc trích đóng góp từ quỹ lương cho Công đoàn , chứ không phải cho Hội Nông dân, trong khi chưa chắc nơi nào cần hơn?).


Bản thân người Việt chúng ta có sẵn một truyền thống đạo đức tốt đẹp. Chỉ cần khắc phục những bất cập trong quản lý Nhà nước, trước hết hãy thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 Khóa XI, để loại hết mọi con sâu, dù là một đàn sâu như lời Chủ tịch Nước, thì xã hội sẽ sớm ổn định , điều tốt đẹp sẽ nầy nở và các tính xấu chắc chắn sẽ bị đẩy lùi. Tôi vững tin là như vậy.



Hà Nhi (Thực hiện)

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 13, 2013 00:12

May 12, 2013

Lãnh đạo cả tiếng khóc

Trần Trung Đạo- BVB


khoc1Người dân Bắc Hàn khóc vì sợ hãi, giả dối, bắt buộc hay bị tẩy não, đều đáng thương, đáng được cảm thông hơn là đáng trách hay đáng bị cười khinh dễ. Những giọt nước mắt đó trước lương tâm nhân loại chính là những lời tố cáo hùng hồn về một chế đô phi nhân đang tồn tại ở Á Châu.


Dù dưới một quan điểm tôn giáo nào, sự có mặt của con người trên thế giới này chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian rất ngắn. Với tác giả bài viết này và có lẽ với nhiều độc giả, tiếng sóng vỗ vào thành ghe trong một đêm giông bão như vẫn còn vang vọng đâu đây nhưng đã hơn 30 năm rồi. Một triết gia đã viết, mỗi bước chân ta đi trong ngày là một bước gần hơn đến với ngôi mộ của mình.


Con người sinh ra đều trơ trụi giống nhau nhưng cuộc đời và cách chết đã làm họ khác nhau. Có những người chết đi để lại nhiều lợi lạc cho hậu thế, một cách sống đạo đức cho con cháu noi gương nhưng cũng có những kẻ chết đi, dù được che đậy dưới lớp hào quang giả tạo rực rỡ dường nào hay bức tường thành thông tin bưng bít dày đến bao nhiêu, tội ác của họ cũng có một ngày được phanh phui để lộ nguyên hình những ác nhân thời đại. Con khủng long chết 65 triệu năm trước vẫn được tìm ra, nói chi là con người. Lịch sử là lương tri và từ sơ khai đến hiện đại lịch sử luôn phán xét công bằng, cho đến nay chưa ai tránh thoát.


“Một buổi sáng tháng Chín 1997, trên đường phố Calcutta, hàng triệu dân Ấn đứng dọc hai bên đường để tiễn đưa một nữ tu đã dâng hiến gần trọn đời mình cho lớp người cùng khổ. Con đường đó, từ 1929, nữ tu gốc Albany thuộc dòng Loreto Sisters đặt chân đến lần đầu khi mới 19 tuổi. Vỉa hè Calcutta là nơi nữ tu thường đến để ngồi an ủi những người đang chết. Không có ngay cả một viên thuốc, nữ tu chỉ biết cầm lấy bàn tay đầy máu mủ của bịnh nhân và xua đuổi đi bầy kiến đang bám lên vết thương đau nhức. Nhiều bịnh nhân đã đáp lại bằng cách mỉm cười thay cho lời cám ơn trước khi hắt ra hơi thở cuối cùng. Và những khu nhà ổ chuột Calcutta này là nơi chiều chiều nữ tu một tay cầm một chiếc khăn và tay kia cầm một cục xà phòng đến tắm cho trẻ em nghèo trong xóm. Nhiều năm sau, chính đám trẻ này là những người đầu tiên gọi nữ tu là mẹ. Mẹ Teresa như nhân loại biết hôm nay.


imagesNgày 5 tháng 9 năm 1997, mẹ không đến nữa vì hôm đó là ngày mẹ ra đi. Quan tài Mẹ Teresa được phủ quốc kỳ Ấn Độ thay vì Albania, nơi mẹ chưa một lần trở lại. Ngày đi, mẹ vẫn mặc chiếc áo vải trắng viền xanh Sari trị giá 1 rupee mẹ tự sắm cho mình sau khi chính thức rời khỏi dòng tu Loreto Sisters. Đoạn đường từ quảng trường Netaji, nơi tổ chức thánh lễ, đến Căn Nhà Của Mẹ, nơi mẹ sẽ yên nghỉ, chìm trong không khí tôn nghiêm trang trọng. Những em bé Ấn Độ tay cầm những bông hoa nhỏ vẫy chào. Tất cả đều cúi đầu khi quan tài do một chiếc xe kéo súng quân đội kéo ngang qua. Chính phủ Ấn dành cho mẹ một vinh dự đặc biệt vì chính chiếc xe kéo pháo cũ kỹ này đã kéo quan tài của Thánh Mahatma Ghandi ra nghĩa trang 1948. Nhân loại tiếc thương mẹ, nhân dân Ấn Độ biết ơn mẹ và chính những người cùng khổ ở Calcutta đang sắp hàng hai bên đường cám ơn mẹ, nhưng ngoài tiếng máy xe kéo pháo nhịp đều, không có một sự ồn ào nào khác. Trên xe, những nữ tu và người lính ngồi im lặng. Không ai khóc lớn, không ai than van, không ai lăn lộn, không ai kể lể. Niềm thương tiếc chân thành thánh thiện đã cô đọng thành ngọc bích và lắng sâu xuống tận đáy lòng. Sự ra đi của Mẹ Teresa và nhiều bậc vĩ nhân khác đơn giản như họ một lần đã ghé thăm hành tinh chúng ta.


Bên kia những cuộc chia tay đầy ắp tình nhân loại như thế là những cái chết của các lãnh tụ cộng sản đã diễn ra như những vở kịch được biên tập tất cả đặc tính bi, hài, tò mò, chân thành, giả dối đến tận cùng.


802764-111223-kim-jong-il-mourning Trước tang lễ có một không hai của Kim Nhật Thành, tang lễ Stalin được xem như một tang lễ đáng ghi nhớ nhất trong lịch sử tang lễ các lãnh tụ cộng sản. Ngày 9 tháng 3 1953, hàng triệu người tập hợp tại Hồng trường để chào vĩnh biệt “đại nguyên soái” Joseph Stalin của họ. Theo chi tiết ghi lại trong trang web của báo Pravada, cũng như theo mô tả của Brenda Haugen trong tác phẩm Joselp Stalin : Dictator of the Soviet Union, khoảng 500 người chết chỉ vì chen lấn nhau để đến gần khán đài. Tại Việt Nam vì xa xôi cách trở không tham dự được nhưng cũng “làng trên xóm dưới xôn xao” khi nghe tin “Ông mất” và ít ra cũng có Tố Hữu đã khóc đến mức “xé ruột, xé lòng” trong bài thơ Đời đời nhớ ông bất hủ. Cảnh khóc than thê thảm tương tự đã diễn ra tại Thiên An Môn 1976, Hà Nội 1969 với những cô công nhân mặt sưng húp vì mấy ngày đêm khóc không còn nước mắt. Nếu những tên đô tể Nicolae Ceausescu không bị xử bắn, Pol Pot không chết trong rừng, Erich Honecker không chết trong lưu đày, tang lễ của họ hẳn cũng ngập đầy nước mắt.


Và mới đây, các cơ quan truyền hình trên thế giới đồng loạt đưa tin về cái chết đột ngột của lãnh tụ Bắc Hàn Kim Chính Nhật và lồng trong các bản tin là cảnh hàng trăm ngàn người dân Bắc Hàn, từ cụ già đến em bé, từ thiếu nữ đến thanh niên đều khóc thê thảm, khó lăn lộn, khóc đến ngất xỉu. Theo tin chính thức của Bắc Hàn, đã có năm triệu người, tức hơn hai mươi phần trăm dân số, bằng nhiều cách bày tỏ lòng thương tiếc dành cho lãnh tụ kính yêu Kim Chính Nhật. Các cơ quan truyền thông quốc tế dành nhiều thời gian để tìm hiểu về hiện tượng khóc rất lạ đời này. Son Jeong Hun, trước đây vượt thoát từ Bắc Hàn cho biết “Nếu bạn không khóc một cách công khai, bạn bị xem là có thái độ sỉ nhục lãnh tụ và có thể bị kết án chống lại nhà nước”. Tuy nhiên, trong lúc rất nhiều người phải khóc, khóc không ra nước mắt, cũng có rất nhiều người đã khóc một cách chân thành chỉ vì các vi trùng tôn thờ cá nhân ăn sâu vào nhận thức và họ đã bị hoàn toàn tẩy não.


Tại Bắc Hàn, mỗi gia đình đều có một bức ảnh của Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật. Ban kiểm tra hình lãnh tụ theo định kỳ đến khám xét từng nhà. Gia chủ sẽ bị phạt nếu hình của cha con họ Kim không được lau chùi đúng tiêu chuẩn. Bịnh tôn thờ lãnh tụ tại Bắc Hàn trầm trọng đến nỗi người dân có thể chết chỉ để bảo vệ bức ảnh của “cha già dân tộc”. Theo hồ sơ tội ác của Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật do giáo sư Grace M. Kang chuẩn bị để truy tố trước tòa án quốc tế, ngày 4 tháng Sáu 1997 một chiếc ghe đánh cá bị sóng đánh chìm, thủy thủ trên ghe đã buộc chân dung của Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật vào phao cấp cứu để hai bức ảnh khỏi chìm trong lúc các thủy thủy đã chết đuối. Khi hai bức ảnh được hải quân Bắc Hàn tìm được, những thủy thủ bị chết đuối được tặng danh hiệu Anh Hùng Cộng Hòa. Ngoài ra, tạp chí Time cũng đã tường thuật một trường hợp hỏa hoạn ở Bắc Hàn, chủ nhà đã lo cứu bức ảnh trước khi cứu con mình. Tháng 4/2003, theo tạp chí Economist, một chiếc xe lửa ở Bắc Hàn không may chạy trật đường rầy và đụng vào một toà nhà lớn, cả xe lửa lẫn toà nhà đều bốc cháy, hàng trăm khách trong xe, người trong toà nhà vừa chết vừa bị thương. Thế nhưng khi những người dân Bắc Hàn tới cứu, họ đã cố tìm cách dập tắt ngọn lửa đang đốt cháy tấm chân dung lớn của Kim Chính Nhật treo trên toà nhà trước khi cứu chữa những người bị thương đang sắp chết cháy trong nhà.


imagesNgười dân Bắc Hàn không có cùng một ý niệm về không gian và thời gian như phần còn lại của nhân loại. Ngày tháng và nơi chốn đã bị đổi thay sau khi Kim Nhật Thành xóa bỏ niên lịch AD và thay vào đó bằng lịch Juche, lấy năm sinh của ông ta làm chuẩn. Ví dụ, năm 2000 là năm cuối cùng của thiên niên kỷ đối với phần lớn thế giới nhưng tại Bắc Hàn chỉ mới là năm Juche 99. Trong một bài bình luận của Rodong Sinmun, cơ quan thông tin chính thức của Đảng Công nhân Triều Tiên phát hành ngày 31 tháng 8 năm 1997, viết về Kim Chính Nhật : “Nhân dân Triều Tiên tuyệt đối tôn kính, tin tưởng và theo chân Tướng Quân như Thượng Đế. Tư tưởng quý giá này căn cứ vào sự kiện rằng họ đã cảm nhận một cách sâu sắc sự vĩ đại của Tướng Quân từ đáy lòng họ. Tướng Quân là thầy giáo vĩ đại dạy nhân dân Triều Tiên ý nghĩa thật sự của cuộc sống, là người cha đã ban cho họ đức tính liêm khiết chính trị quý giá và là một ân nhân có trái tim nồng ấm dịu dàng, đã mang đến cho nhân dân Triều Tiên niềm hạnh phúc trọn vẹn… Tướng Quân là cây trụ tinh thần và là vầng thái dương vĩnh cửu của nhân dân Triều Tiên”.


Một số nhà phân tích tâm lý cho rằng, vấn đề không phải người dân Bắc Hàn khóc thật hay khóc giả nhưng chỉ việc khóc một cách tự nhiên và công khai trước ống kính truyền hình đã cho thấy khả năng của chế độ kiểm soát hành vi của người dân chặt chẽ đến chừng nào. Bộ máy tuyên truyền của đảng cộng sản Bắc Hàn đã biến toàn xã hội thành một đại gia đình trong đó Kim Nhật Thành là ông nội, Kim Chính Nhật là cha già, và Kim Jong Un đang là đích tôn gia trưởng. Các bức hình trẻ em vui mừng ngồi trên đùi Kim Nhật Thành hay những cặp vợ chồng mới cưới thay vì đến nhà thờ hay chùa, đã đến trước tượng Kim Nhật Thành làm lễ ra mắt tổ tiên cho thấy mối quan hệ giữa quần chúng và lãnh tụ đã vượt qua mối quan hệ chính trị bình thường để trở thành mối giây thiêng liêng bền bỉ rất thích hợp với văn hóa Á Đông.


Trong lúc, theo Katharina Zellweger, giám đốc cơ quan thiện nguyện Thụy Sĩ có văn phòng tại Nhưỡng Quang, mỗi người dân Bắc Hàn chỉ được cấp tiêu chuẩn thực phẩm 150 gram mỗi ngày và rất đông người quá đói phải ra đồng đào rễ, cắt cỏ và hái lá để ăn, gia đình Kim Chính Nhật sống như một đế vương. Theo hồi ký ” Tôi từng là đầu bếp của Kim Chính Nhật” (I Was Kim Jong Il’s Cook) của đầu bếp Nhật Bản từng phục vụ Kim Chính Nhật và ký dưới tên Kenji Fujimoto, món ăn khoái khẩu của họ Kim là sushi với tôm tươi. Các thức ăn phục vụ Kim được chọn lựa theo đặc sản của mỗi nước như thịt heo Đan Mạch, đồ biển Nhật, bia Tiệp Khắc, chuối Thái Lan, đu đủ Mã Lai… Kim Chính Nhật nghiện rượu vang. Hầm rượu của y có khoảng 10.000 chai. Theo hồ sơ của BBC trong thượng đỉnh năm 2000 tiếp cựu Tổng thống Nam Hàn Kim Đại Trọng, Kim Chính Nhật đã uống 10 ly rượu vang. Phòng phim của Kim Chính Nhật chứa khoảng 20.000 phim, trong đó Rambo và Jame Bond là những bộ phim y thích nhất. Gia đình họ Kim không thiếu một món giải trí nào từ sân bóng rổ đúng NBA tiêu chuẩn, xe gắn máy trượt tuyết, giàn karaoke… Cũng theo lời kể của đầu bếp Kenji Fujimoto, Kim Chính Nhật nuôi chó đầy đủ hơn nuôi dân. Trong nạn đói, những nhân viên coi chó cho y đã phải ăn trộm thức ăn của chó để ăn. Bị bắt được, toán trưởng bị đày hai năm trong trại tập trung và các đội viên mỗi người bị đày một năm.


Nhân dân Bắc Hàn không biết đời sống xa hoa và tánh tình bịnh hoạn của Kim Chính Nhật. Với đa số người dân Bắc Hàn, Kim Chính Nhật từ khi còn sống cho đến lúc qua đời là thần thoại diệu kỳ. Cơ quan truyền hình chính thức của Bắc Hàn KCNA cho biết trước giờ họ Kim chết, đỉnh núi thánh Bạch Đầu Sơn (Paektu) được bao phủ bằng một ánh sáng màu đỏ rực đầy huyền bí. Cũng theo KCNA, không chỉ nhân dân Triều Tiên hay loài người mà cả trời đất cũng tiếc thương trước cái chết của lãnh tụ kính yêu. Nói theo kiểu Tố Hữu của Việt Nam là “Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”. Mobutu Sese Seko trước đây được là người có những danh xưng rất độc đáo như “Nhà cứu rỗi dân tộc”, “Cha già dân tộc” v.v… nhưng so với cha con họ Kim, Mobutu chỉ đáng là học trò. Tại Bắc Hàn, Kim Chính Nhật ngoài các danh dự được gọi hàng ngày như “Lãnh tụ kính yêu”, “Đồng chí vĩ đại”, “Tư lịnh tối cao” v.v… còn được gọi trong tiểu sử chính thức là “Con trời”, “Ngôi sao sáng của đỉnh Bạch Đầu Sơn”.


Với các bằng chứng tẩy não tinh vi như vậy, việc dân Bắc Hàn khóc thật cũng chẳng phải là chuyện lạ.


Nhân dịp bàn chuyện khóc lóc của người dân Bắc Hàn, thử phân tích một số lý do tại sao chế độ cộng sản có thể tồn tại lâu dài hơn nhiều chế độ độc tài khác trong lịch sử nhân loại thời hiện đại. Một số lý do trực tiếp liên hệ đến Bắc Hàn trong khi một số lý do khác là lý do tổng quát chung cho cả phong trào cộng sản.


- Lý do thứ nhất là bộ máy kiểm soát chính trị và xã hội. Đảng cộng sản kiểm soát chặt chẽ toàn bộ cơ cấu xã hội một cách tinh vi, từ các đơn vị nhỏ đến các ban ngành lớn. Cơ quan tuyên truyền trung ương đảng kiểm soát từng chi tiết các sinh hoạt tri thức, thông tin, truyền thanh, truyền hình, báo chí. Hệ thống kiểm duyệt trong chế độ cộng sản không chỉ ở trung ương mà theo nhiều tầng lớp. Ngay cả khi tác giả viết bài cũng đã thực thi tự kiểm duyệt vì họ biết những gì nên viết và những gì không được viết trước khi nạp bản thảo cho cơ quan kiểm duyệt nhà nước. Bức tường bưng bít thông tin dày nhiều lớp như thế đã che đậy tội ác ngập trời của các lãnh tụ cộng sản. Giáo sư Brian Reynolds Myers giảng dạy môn nghiên cứu quốc tế tại đại học Dongseo University in Busan, South Korea cho biết ngoài một rất ít lén lút mua được vài bộ phim Nam Hàn, máy truyền hình Trung Quốc, tuyệt đại đa số sản phẩm văn hóa nghệ thuật là sản phẩm của tuyên truyền. Các tác phẩm phim ảnh được duyệt nhiều lần để bảo đảm khi đến người dân không có một tình tiết nào đi ngược với đường lối của Đảng.


- Lý do thứ hai vì họ chỉ giết chính nhân dân nước họ. Không giống chế độ độc tài Đức Quốc Xã tàn sát dân Do Thái, lãnh đạo cộng sản các nước thường giết chính đồng bào cùng máu mủ, cùng tổ tiên, cùng đất nước với họ. Ngay từ sau 1975, dư luận thế giới đã biết đến tội ác của chế độ Pol Pot. Tạp chí Time còn đăng cả bức hình một tội nhân đang bị đánh vào đầu bằng cuốc. Tuy nhiên, ngoài Việt Nam tấn công chế độ bằng một lý do riêng vào tháng Giêng 1978, không một quốc gia nào kể Liên Hiệp Quốc có hành động cụ thể để ngăn chặn tội ác của Pol Pot. Khi một chế độ có toàn quyền sinh sát với nhân dân, họ cũng có điều kiện để tồn tại lâu dài. Giống như Pol Pot, cha con Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật đã can tội diệt chủng và chống lại nhân loại. Theo ước lượng của báo chí ít nhất một triệu người đã chết trong các trại tù Bắc Hàn từ ngày đình chiến đến nay. Bộ Ngoại Giao Mỹ cho biết khoảng 150 ngàn đến 200 ngàn người vẫn còn đang bị ở tù. Ngoài ra, khoảng 2,5 triệu người dân Bắc Hàn đã chết trong các nạn đói từ 1990.


- Lý do thứ ba, cũng khác với các lãnh tụ Đức Quốc Xã thường bị truy tố ngay sau chiến tranh, tội ác của các lãnh tụ cộng sản còn được che dấu một cách tinh vi, có hệ thống dưới các nhãn hiệu vô cùng tốt đẹp như “độc lập, tự do, hạnh phúc”. Vai trò của Kim Nhật Thành trong chiến tranh chống Phát Xít Nhật, Hồ Chí Minh trong chiến tranh chống Pháp, Fidel Castro trong chiến tranh chống độc tài Batista, Stalin trong chiến tranh chống Đức, Mao Trạch Đông trong chiến tranh chống Nhật được đề cao đến độ nếu không có họ có thể toàn dân tộc đã bị xóa tên khỏi lịch sử loài người. Hình ảnh Mao Trạch Đông chính thức tuyên bố thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa…đã được đánh bóng sáng đến mức mọi tội tác tày trời khác đã trở thành trộm vặt. Chỉ trong vòng vài năm sau ngày tuyên bố “Nhân dân Trung Hoa đã đứng lên” 30 triệu “nhân dân” đã bị giết trong hàng loạt các chiến dịch chống hữu khuynh, trăm hoa đua nở, bước tiến nhảy vọt, công xã nhân dân, cách mạng văn hóa. Tội ác của Mao chống lại nhân dân Trung Hoa nói riêng và loài người nói chung vượt qua con số do Hitler, Stalin và Leopold II cộng lại. Tương tự tại Hà Nội chỉ vài năm sau ngày “tôi nói đồng bào nghe rõ không”, nhiều vạn “đồng bào” đã không còn cơ hội nghe rõ nữa vì họ đã chết một cách oan ức trong các cuộc đấu tố vô cùng tàn ác.


- Lý do thứ tư, ngoại trừ trường hợp Khrushchev, ít khi nào một lãnh đạo cộng sản đứng lên thẳng thắn vạch trần tội lỗi của lớp lãnh đạo trước, bởi vì làm như thế là tạo chỗ hở cho kẻ thù chung tấn công vào chế độ. Trường hợp Đặng Tiểu Bình đối với Mao Trạch Đông là một ví dụ điển hình. Đặng Tiểu Bình là một trong những người chịu đựng sự hành hạ và mất mát lớn lao về nhân mạng trong thời Cách mạng văn hóa. Bản thân Đặng Tiểu Bình bị chính Mao thanh trừng nhiều lần và con trai của Đặng Tiểu Bình đã chết một cách thê thảm khi bị ném từ cửa sổ xuống đường. Chuyện đời tư của Mao, từ bản chất độc tài, nghi kỵ cho đến cá tính trăng hoa dâm dật, Đặng Tiểu Bình biết hơn ai hết, nhưng khi lên nắm quyền hành, họ Đặng vẫn tiếp tục sơn son thiếp vàng lên một hình tượng mà cá nhân y vô cùng căm hận. Trên đồng nhân dân tệ từ đơn vị một đồng cho đến một trăm đồng vẫn in khuôn mặt mỉm cười của kẻ từng điều khiển bộ máy giết người khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Bởi vì, là một trong số rất ít lãnh đạo cộng sản lão thành còn sót lại từ thời Vạn lý trường chinh và cũng quá thuộc sử Tàu, Đặng Tiểu Bình biết, giống như các triều đại phong kiến Trung Hoa, đặc tính kế thừa của một quyền lực trung tâm là một yếu tố sinh tử không thể phủ định của chế độ cộng sản. Điểm trung tâm vỡ toàn bộ hệ thống cai trị sẽ vỡ theo.


- Lý do thứ năm, các lãnh đạo cộng sản thường tận dụng vị trí của kẻ thù đã chết. Những lãnh tụ cộng sản thường tận diệt kẻ thù còn sống nhưng ca tụng kẻ thù đã chết. Stalin ca tụng Lenin, Fidel Castro ca tụng Ernesto “Che” Guevara, Đặng Tiểu Bình ca tụng Mao Trạch Đông. Lấy trường hợp Che làm ví dụ. Nếu Ernesto “Che” Guevara không làm cách mạng phiêu lưu Nam Mỹ mà tiếp tục ở lại Cu Ba, thất khó tưởng tượng ông ta có thể sống sót dưới bàn tay của Fidel Castro. Một rừng không có hai cọp, một nước không có hai vua, đừng nói chi là quan hệ giữa Che và Fidel Castro rạn nứt trước khi Che tạm biệt vợ con lần cuối và lên đường đi Bolivia cuối năm 1966. Che chủ trương kỹ nghệ hóa đất nước, Fidel Castro chủ trương củng cố quyền lực trung ương. Sự khác biệt của Che và Fidel Castro khá giống trường hợp của Lưu Thiếu Kỳ và Mao Trạch Đông. Nhưng hôm nay, nếu ai đến Havana, sẽ gặp hình ảnh Che trên khắp ngả đường. Xác chết không nghe được lời ca tụng, không nếm được mỹ vị cao lương, không sống trong các biệt thự có kẻ hầu người hạ, chỉ có đám độc tài đang thống trị đất nước mới thật sự là những kẻ hưởng thụ quyền lực.


- Lý do thứ sáu, che đậy tội ác của nhau. Thật vậy, nếu không chính từ cửa miệng Khrushchev nói ra trong diễn văn dài 4 giờ đồng hồ giữa khuya ngày 2 tháng 5/1956 trước đại hội lần thứ 20 đảng cộng sản Liên Xô, có thể sau khi chế độ Xô Viết sụp đổ, nhân loại mới biết Stalin là “một người luôn ngờ vực một cách bịnh hoạn… Sự hoài nghi bịnh hoạn đó làm cho Stalin không tin tưởng ngay cả những lãnh đạo cao cấp đã từng làm việc với y nhiều năm. Nhìn đâu Stalin cũng thấy những “kẻ thù”, “những người hai lòng dạ”, “gián điệp”. Theo Khrushchev, Stalin đã dùng “tất cả các phương tiện lừa dối, xây dựng vinh quang cho chính bản thân y”. Khrushchev kể, năm 1948, tác phẩm “Tiểu Sử Ngắn” của Stalin được trình lên cho y coi lại trước khi in “Stalin không có một sự tự trọng tối thiểu nào khi tự sửa đổi bản thảo để gọi chính mình là lãnh tụ vĩ đại, nhà chiến lược siêu phàm của mọi thời đại và sửa bất cứ đoạn nào ca ngợi y không đủ”. Ở Việt Nam cũng có chuyện lãnh tụ tối cao tự ca ngợi đời mình như thế.


Thật vậy, nếu không phải do chính cửa miệng Nuon Chea, Anh Hai (Brother Number Two) của Khờ Me Đỏ, sau Anh Cả Pol Pot thốt ra, thế giới không biết lý do hàng triệu người dân Cambode bị giết chỉ vì “họ là kẻ thù của nhân dân”. Tên đao thủ phủ Nuon Chea khi trả lời không hiện ra trên khuôn mặt một dấu hiệu xót thương, hối tiếc, dường như ông ta vừa giết một con gà, con vịt chứ không phải 1,7 triệu người trong một đất nước chỉ có 7 triệu dân. Chỉ trong thời gian 4 năm từ 1975 đến 1979, 21%, dân Cambode đã bị giết bằng các hình thức vô cùng thảm khốc, kể cả cắt cổ, chặt đầu, gây thương thích và để chảy máu cho đến chết. Những chi tiết trong hồ sơ tòa án do Liên Hiệp Quốc bảo trợ về nhà tù Tuol Sleng hay được gọi theo mã số S-21sẽ mãi mãi ám ảnh trong lịch sử Cambode. Phần lớn tù nhân tại S-21 bị giết sau thời gian tra tấn bằng các thủ đoạn tàn độc như xẻ thịt, đổ rượu vào vết thương. Trong số 17 ngàn tù nhân tại Tuol Sleng chỉ có 7 người sống sót. Trong phiên tòa hôm 8 tháng 12/2011, thậm chí Nuon Chea còn phản đối dư luận dám nói xấu đảng cộng sản : “Khờ Me Đỏ không phải là những người xấu đâu nhé”.


Một ‘chuyện’ nữa, nếu không phải do chính ngòi bút của Hoàng Tùng, nguyên bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam và là một trong số rất ít người gần gũi với Hồ Chí Minh nhiều năm viết ra có lẽ còn rất lâu người dân Việt Nam mới biết Hồ Chí Minh không những biết trước mà còn là người bỏ lá phiếu quyết định xử tử bà Nguyễn Thị Năm : “Sau cố vấn Trung Quốc là La Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói : “Thôi tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải”. “Nếu trong buổi họp đó, với tư cách chủ tịch Ban chấp hành Trung ương đảng và người có quyền lực tối thượng bao trùm lên cả đám đệ tử “đa số” kia trong bộ chính trị, Hồ Chí Minh quyết định khác đi, chẳng những số phận của người phụ nữ yêu nước, cống hiến con cái của mình, tài sản của mình cho cuộc kháng chiến chống Thực Dân Pháp đầy gian khổ của dân tộc không phải chết một cách oan ức mà còn cứu mạng nhiều ngàn người dân vô tội khác trong những lần đấu tố sau đó. Tòa án lịch sử dân tộc Việt Nam hôm nay và ngàn đời sau phán xét ông Hồ không phải dựa vào việc ông ta “cho là phải” hay “cho là không phải” khi giết bà Nguyễn Thị Năm nhưng ở chỗ ông ta đã quyết định bỏ phiếu “theo đa số”…


Chủ nghĩa cộng sản đã tàn rụi ở châu Âu nhưng trong năm nước còn sót lại sự khổ đau, chịu đựng vẫn còn đến hôm nay và không biết đến bao giờ mới hết. Chiến tranh lạnh đã tàn. Các nước tư bản tự do vì lý do kinh tế đã không còn giương cao ngọn cờ dân chủ như trước nữa. Họ mặc nhiên chấp nhận chế độ cộng sản như là một thực tế của mỗi quốc gia hơn là một phong trào quốc tế. Nhân dân Bắc Hàn, Cu Ba, Việt Nam, Lào, Trung Hoa là những dân tộc chịu đựng trong cô đơn. Người dân Bắc Hàn khóc vì sợ hãi, giả dối, bắt buộc hay bị tẩy não, đều đáng thương, đáng được cảm thông hơn là đáng trách hay đáng bị cười khinh dễ. Những giọt nước mắt đó trước lương tâm nhân loại chính là những lời tố cáo hùng hồn về một chế đô phi nhân đang tồn tại ở Á Châu.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 12, 2013 21:55

“Làm gì cũng phải có lợi cho đảng và nhà nước”

Phương Bích


283683_10151043539413808_2098832430_nĐấy là câu nói của anh chủ tịch phường chỗ tôi, khiến tôi suýt té. Hôm trước nghe Xuân Diện nói, cái câu còn đảng còn mình không phải là chuyện tiếu lâm mà là có thật, treo biển đàng hoàng ở trước cổng trụ sở Bộ Công an ở phố Yết Kiêu. Nhưng giờ thì dỡ bỏ rồi.


 Thói đời càng cấm càng gây tò mò. Càng cấm càng gây phản kháng. Tôi sẽ chẳng có chuyện gì để kể, nếu chả có chuyện ngăn cấm này nọ. Thế nên mới nói có khi họ sợ quá hóa rồ, đâm ra làm bừa.


 Hồi trước, hễ cứ rậm rịch “hắt hơi” chuyện gì đó là ông bà Trâm Khánh ở phường Cầu Dền lại bị người nhà nước đến “bế quan tỏa cảng”, đến đi chợ cũng chả được. Lúc đầu thấy vô lý quá, thắc mắc thì người nhà nước thản nhiên bảo “đời còn nhiều cái vô lý hơn thế cơ”!


 Nhưng chặn mãi thấy chả ăn giải gì, nên chắc bây giờ phường Cầu Dền cũng chán, bắt đầu mặc kệ. Nhờ vậy ông bà Trâm Khánh lại được “tung tăng” ra khỏi nhà.


 Thật sung sướng làm sao khi sống ở đời muốn đi đâu là đi, muốm làm gì tùy thích. Tôi chỉ hiểu điều này khi chính mình phải nếm mùi “mất tự do”, một cách quái đản đến mức không thể tin được.


Mà quái lạ là họ cứ nhè vào những người già yếu như chúng tôi là thế nào? Ông bà Trâm Khánh mỗi người chỉ nặng trên dưới bốn chục ký, cụ bà Lê Hiền Đức còn già yếu hơn. Oanh liệt gì khi chặn cửa những đối tượng như thế ?


 Có một điều rất buồn cười là họ cứ trơn như trạch khi bị căn vặn lý do. Vâng! Chả có lý do gì, nhưng cụ, hay chị cứ ở nhà nghỉ ngơi, đừng đi đâu kẻo mệt, vân vân. Hình thức mà họ áp dụng chỉ là mời, khuyên, vận động (chứ không cấm). Nhưng mời, hay khuyên, hay vận động là phải bằng được mới thôi. Không nghe thì tiếp tục mời, khuyên, vận động….Tôi cáu tiết bảo, thế nếu tôi không nghe thì sao? Bắt à? Vậy thì bắt luôn đi. Lúc ấy họ lại giả lả cười: úi, có ai bắt chị đâu. Chỉ là mời, khuyên, vận động….thật hết chịu nổi với cái điệp khúc dai nhanh nhách ấy


 Thứ sáu vừa rồi thư thả, tôi sang phường tìm gặp tay chủ tịch để làm cho ra nhẽ cái vụ mồng 5/5. Vì không hẹn trước nên đúng buổi anh ta phải lên quận tập huấn gì đó. Anh ta hẹn hôm sau sẽ tiếp tôi. Trước khi tôi ra về, anh ta còn nói thêm: Làm gì cũng phải có lợi cho đảng và nhà nước!


 Tôi không tin vào tai mình. Không nghĩ họ lại có thể công khai nói ra điều đó. Tôi vốn nóng tính, nghe thế không “choảng” không chịu được


 - Ô hay! Thế hóa ra các anh đặt đảng và nhà nước cao hơn cả nhân dân và đất nước à? Nhà nước chỉ là một tổ chức được nhân dân trao quyền quản lý. Bất cứ nhà nước nào, hay đảng phái nào cũng phải phục vụ cho đất nước chứ. Chết thật, tôi không thể tin được anh lại nghĩ như thế.


 Anh chủ tịch phường cười, đánh trống lảng bằng cách hẹn thứ bảy sẽ nói chuyện.


 Ồ! Tôi cũng mong như thế. Nhưng trước giờ gặp thì anh chủ tịch phường lại báo hoãn vì lý do sức khỏe, hẹn nhất định trong tuần tới sẽ gặp.


 Không biết có phải vì lý do sức khỏe hay không, nhưng buổi trưa hôm đó, hàng xóm mách là có nghe lỏm được chuyện tuần này họ sẽ canh tôi ngay từ chiều thứ bẩy. Tôi ngẩn người, nghĩ hay trên mạng có thông tin gì mà mình không biết? Kiểm tra lại trên mạng, thấy rõ ràng chả có tin tức gì. Đúng là hâm pha điên!


 Sáng chủ nhật, tôi dậy muộn vì đêm qua thức khuya. Thử kiểm tra những nghi vấn vụn vặt trong ngày bằng cách mở cửa ngó ra hành lang. Thực sự ngạc nhiên khi vẫn ngần ấy con người đang ngồi vạ vật ở đầu cầu thang. Nói thế nào họ cũng vẫn cứ ngồi đó, bảo không có lệnh thì không được rời vị trí. Tôi bèn gọi điện cho chủ tịch phường, bảo anh làm thế là quân nó oán anh chứ chả phải oán tôi đâu. Các anh chả nắm tin tức gì cả, hôm nay làm gì có “vụ” gì mà bắt họ canh?


 Tay chủ tịch phường thanh minh thanh nga lý do hoãn gặp tôi xong thì bảo, để anh ta kiểm tra. Lát sau ngó ra hành lang thì chỉ còn hai cô gái trẻ tuần trước (là học viên trường cảnh sát) ngồi đó. Vừa nãy lại nghe hàng xóm mách là họ canh từ đêm thứ bảy.


 Tôi không rõ trong đầu những người ngồi canh nghĩ gì về tôi, về cấp trên của họ. Chỉ có hai giả thiết, một là tôi là kẻ nguy hiểm, hai là sếp của họ ngu dốt.


 Ngày nay, sếp không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với năng lực, vì người ta có thể leo lên cao bằng nhiều con đường. Tôi biết rất nhiều trường hợp các nhân viên coi khinh sếp của mình, cả về năng lực chuyên môn lẫn đạo đức. Chẳng qua vì miếng com manh áo mà họ phải chịu nhịn thôi.


 Tôi hỏi một người, có phải chủ tịch phường trước là công an không? Họ cười bảo, nói chung chủ tịch phường chủ yếu là công an chuyển sang!


 Ra thế! Thế nên có câu chính quyền này là công an trị cũng đúng. Vốn là công an thì làm gì có tư duy của nhà quản lý? Cứ quản không được thì cấm là hết chuyện!


 Tôi chợt nghĩ ra một câu hỏi sẽ dành cho anh chủ tịch phường: anh có dám chắc chế độ cộng sản ở Việt Nam sẽ tồn tại mãi mãi không?



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 12, 2013 21:03

Dân vận hay dân hận?

Đức Thành- BVN


h319Sau mười ngày tập trung các đỉnh cao trí tuệ, tinh hoa nhất của một đảng cầm quyền đang ở thời kỳ thoái trào nhưng lại luôn hiển hiện tính ích kỷ, bóp nghẹt nền dân chủ của đất nước để độc quyền dẫn dắt dân tộc theo những luận thuyết không có thực trên trái đất này.


Với định hướng cơ bản như thế cuối cùng “đám đông ấy” sau khi tiêu một số khá lớn tiền thuế của dân cho 10 ngày họp cũng cố phải đưa ra được cái thứ gì để gọi nghị quyết cho dù nó không khác mấy cái luận thuyết kia. Họ đưa ra hay liệt kê được mấy thứ chẳng có gì mới, chỉ là bổn cũ soạn lại cho phù hợp với tình hình mới (của ai? – Đảng hay dân tộc?) nhằm đánh lạc hướng dư luận nhân dân.


Cái “thứ nhất” họ nêu tiếp tục đổi mới hoàn thiện hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở. Thật chẳng mới tý nào vì nhiệm kỳ nào chẳng thế. Họ gắn đổi mới hệ thống chính trị phải gắn với đổi mới cơ cấu kinh tế nhưng họ có dám đổi mới đâu, vì nền kinh tế nước ta đã đa thành phần từ gần 30 năm nay nhưng nền (hệ thống) chính trị vẫn chỉ có một đảng cầm quyền và các cánh tay nối dài đắc lực được đảng trả lương được nằm trong mỹ từ đẹp đẽ “hệ thống chính trị”… thì nhân dân ta có nên tin “đổi mới kinh tế phải gắn liền với đổi mới chính trị” như họ tuyên truyền?


Cái “thứ hai” họ đưa ra trong trong nghị quyết 7 là “trung ương bàn và ban hành nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác dân vận là rất cần thiết trong tình hình hiện nay”. Thực ra họ đã kéo dài tình trạng để “dân hận” trong suốt mấy chục năm vừa qua kể từ sau khi kết thúc chiến tranh. Tình trạng này khiến có không ít những cán bộ đảng viên cấp cao phải giận dữ mà nhận xét rằng đảng đang trở thành ông vua tập thể, trở thành nơi tập trung “đầu mối” của những lợi ích nhóm,của “một bộ phận suy thoái”… Khi kết quả hội nghị Trung ương 4 và phong trào học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được chứng minh bằng nghị quyết “Ban chấp hành Trung ương nhất trí không thi hành kỷ luật một đồng chí là Ủy viên bộ chính trị” với núi nợ khổng lồ của các tập đoàn kinh tế nhà nước không được giải quyết thấu đáo… thì họ lại quay về hô hào “tăng cường đổi mới công tác dân vận”. Điều này cho thấy họ chẳng hề coi dân tộc đất nước là thứ gì mặc dù trong nghị quyết này họ vẫn ra rả như cuốc kêu là nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, quan hệ đảng dân là quan hệ máu thịt…


Cái “thứ ba” là sau khi họ dùng các chuyến công cán tại các địa phương và các cơ quan truyền thông nhà nước để thóa mạ vu cáo kích động thù hằn dân tộc bằng việc vu khống những công dân có trách nhiệm, có hiểu biết trên tinh thần khoa học đã đóng góp ý kiến trung thực khách quan nhất trong việc góp ý sửa đổi Hiến pháp ngay trong dịp nhà nước kêu gọi toàn dân tộc phát huy mọi trí tuệ công sức, tâm huyết vào việc góp ý sửa đổi hiến pháp nhằm xây dựng một bản hiến pháp tiến bộ, văn minh và dân chủ. Những lời lẽ thóa mạ mạt sát ấy lại phát ngôn ra từ chính những người có trọng trách cao nhất của đảng khiến rất nhiều người dân từ nông dân đến trí thức phẫn nộ lên tiếng phản bác lại. Trong nghị quyết này đảng “cám ơn đồng bào chiến sĩ cả nước và kiều bào nước ngoài đã nhiệt tình hưởng ứng, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng sửa đổi Hiến pháp 1992”.


Sự cảm ơn này là vô nghĩa và không đúng chủ thể phải nói lời cảm ơn, bởi vì đã là Hiến pháp thì nó là một đạo luật cơ bản của Quốc gia, của dân tộc chứ nó không phải là một bản điều lệ của một đảng dù đảng đó đang tự cho mình quyền lãnh đạo dân tộc. Nên câu cảm ơn này phải được phát ra từ người đứng đầu nhà nước mới đúng! Việc một tổ chức đảng ra nghị quyết cám ơn nhân dân đóng góp sửa đổi Hiến pháp của một quốc gia nó chứng minh cho điều đảng công sản Việt Nam đang tiếp tục lấy tư tưởng đảng quyền, đảng trị chứ không phải dân quyền, pháp quyền trong Hiến pháp mới. Mặt khác nó cũng chứng minh cho việc đảng tiếp thị uy tín của mình không đúng lúc đúng chỗ.


Cái “thứ tư” – về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường luôn luôn là điều cần thiết và cực kỳ quan trọng đã được các nhà khoa học cảnh báo từ rất nhiều năm qua chứ không phải bây giờ mới quan trọng như BCHTW đề cập trong hội nghị này. Tuy nhiên tăng cường quản lý là cần thiết nếu như tăng cường quản lý để giảm thiểu ô nhiễm, khai thác tài nguyên một cách hợp lý cho dân tộc Việt được nhờ chứ không phải tăng cường quản lý để mỗi một nhóm lợi ích trong đảng “kiếm chác thêm được một tý”.


Và cái “thứ năm” thì chẳng nói dân cũng đã biết rất rõ rằng BCHTW nhất trí rất cao, đã vào cuộc quyết liệt để thực hiện cho được nghị quyết TW4 được nhân dân ủng hộ rất cao, đã chỉ ra được cả một bầy sâu bự, đã lập lại một ban Nội chính TW để chuyên bắt sâu, đã tiêu tốn rất nhiều tiền thuế của dân vào việc bắt sâu nhưng chưa thấy con sâu nào bị bắt mà mới chỉ “sâu này” bới “sâu kia” khiến nhân dân không biết đâu là sự thật.


Trong bối cảnh như trên với 10 ngày làm việc “khẩn trương, dân chủ, nghiêm túc” tập trung những tinh hoa nhất của một đảng mà chỉ đưa ra năm vấn đề nghe có vẻ rất quan trọng. Đặc biệt là vấn đề tăng cường sự lãnh đạo của một đảng đang suy thoái đối với công tác “dân vận trong tình hình mới” nhưng lại rất chung chung dàn trải không hề gợi mở được bất cứ hướng đột phá nào để tiếp cận, nhận thức hay thực hiên được những vấn đề được đặt ra.


Một hội nghị bàn về dân vận nhưng lại thể hiện tính tiếp thị rất cao


Xin có mấy lời phân tích như trên nhằm làm rõ hơn Hội nghị TW Đảng lần này đang hướng nhân dân đến cái gì.


Đ.T.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 12, 2013 20:00

Đôi lời sau thất bại của bác Cả Trọng

Gò Cỏ May


2uvSau sự thất bại  của TBT Nguyễn Phú Trọng (xin được gọi theo kiểu dân Bắc là bác Cả Trọng cho nó thân thiện) tại hai hội nghị TƯ.6 & 7 vừa diễn ra. Người am tường thời cuộc cho đó cũng là sự tất yếu của qui luật sinh tồn. Khi kiến không ăn được cá thì cá ăn kiến là điều khó tránh.


Những ai quan tâm đến chính sự thời gian qua đều nhận thấy tư duy và bản lĩnh chính trị của bác Cả Trọng là lạc hậu và yếu kém. (Xem ở đây). Đã vậy ông còn đại ngôn như đã từng lên lớp ở trường đảng bên Cu-ba. Khiến cho bà Tổng thống cánh tả của xứ Ba-tây (Braxin) sợ tới mức phải đột ngột cáo bận mà không dám tiếp ông (dù trước đó đã long trọng kính mời) để tránh “gần mực“ khỏi bị đen lây?


Nếu nói theo logic lập luận của bác Cả hôm đầu xuân vừa qua ở Thạch Thất (“mình phải như thế nào thì người ta mới mời chứ“). Thì có thể hiểu bác Cả phải nói năng thất thố trước cửa ngõ nhà người ta (ở Cu-ba) tới mức nào thì bà Tổng thống Ba-tây mới cực chẳng đã, phải hủy lời mời như vậy?


Thử nghe lại một trích đoạn ngắn xem sao?


Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghiã: đời sống của đa số cư dân lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn. Những tình huống “phát triển xấu”, những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế – tài chính đã tràn vào lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội và ở không ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với biểu tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế. Sự thật đơn giản là bản thân thị trường tự do của chủ nghiã tư bản không thể giúp giải quyết được những khó khăn, và trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu… “.


Những khó khăn và mâu thuẫn này xem ra gần với nền “kinh tế thị trường định hướng XHCN“ ở xứ ta hơn thì phải?!


Ở đoạn khác ông Trọng khoe :


“Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, chứ không phải cạnh tranh thắng – thua vì lợi ích vị kỷ của các cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác và chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có” *


BT Nguyễn Phú Trọng trên bục giảng tại trường Đảng Cao cấp Nico Lopez – ngày 10.04.2012 (Ảnh: Trí Dũng -TTXVN)

BT Nguyễn Phú Trọng trên bục giảng tại trường Đảng Cao cấp Nico Lopez – ngày 10.04.2012 (Ảnh: Trí Dũng -TTXVN)


Đến đây thì chả cần bình bọt thêm làm gì cho mất thì giờ. Từ miệng ông Trọng tuôn ra cả đấy nhá. Chứ có tụi “thế lực thù địch“ nào xui ông đâu. Khi chỉ cần thay hai chữ ”chúng ta” thành chữ “chúng nó“ (CNTB Tây Phương) là chuẩn không cần chỉnh. Thật đúng là “cóc chết tại miệng“ là thế. Mang chuông đi đấm nước người, sứ giả còn phải giữ gìn huống chi nhà vua. Ai lại đi xưng xưng “Nói những gì không biết, viết những gì không hiểu và sợ mất những gì mình không có!” bất cẩn như thế bao giờ?


Xuất thân từ một anh thư lại không có công trạng gì với non sông. Chỉ theo học chuyên ngành về “xây dựng đảng“ ở cái nơi vốn là “thành trì của CNXH“ mà ngày nay người dân ở đó cũng đã kiên quyết khước từ. Bởi lỗi hệ thống của thứ chủ nghiã này qúa lớn (“được duy trì bằng sự giả dối“ – Lời Gorbachev). Ông Trọng sở dĩ có được cái may mắn leo cao không phải bằng tài ba lỗi lạc.(QC bỏ một câu)) Nếu so với đồng chí X (hơn nửa thế kỷ theo đảng, từng vào sinh ra tử), bác Cả Trọng chưa thấm vào đâu. Nhưng cái qúy nhất của bác Cả là đời tư liêm khiết và gia cảnh vợ con chưa hề có tai tiếng gì. Việc bác Cả quyết tâm chống “một bộ phận không nhỏ“ (“bầy sâu“) tham nhũng làm mất lòng tin của nhân dân với đảng và có nguy cơ làm sụp chế độ là một thiện ý tốt rất đáng ghi nhận. Nhưng bác Cả lại tự mâu thuẫn với chính mình khi kiên quyết đòi duy trì cho bằng được cái môi trường thuận lợi cho bầy sâu tham nhũng kia sinh sôi nảy nở (như giữ điều 4 và kiên quyết không tam quyền phân lập). Chính việc này đã là nguyên nhân sâu xa của sự thất bại ê chề. Nếu chưa muốn nói sự nghiệp chính trị của người đứng đầu ĐCS coi như kết thúc.


Lỗi là tại ông Trọng mà thôi, tuyên bố của ông ở Vĩnh Phúc đã đẩy ông vào thế đối đầu với dân chúng. Sau bài nói đó và cả bức thư của Nguyễn Đức Kiên uy tín của ông Trọng rớt thảm hại. Làm chính trị phạm những sai lầm kiểu ấy là sai lầm không thể sửa được. Các đối thủ của ông không nói ra nhưng rất biết và hết sức tận dụng điều đó. Mà, ông Trọng lại hoàn toàn không biết tự đánh giá lực lượng của mình (HN 6 đã thấy rõ…). Từ HN 6 đến HN7 đối thủ của ông không ngừng tập hợp gia cố uy tín ảnh hưởng. Lạ lùng là chính ông Trọng không biết điều đó. Làm chính trị lên đến chức vụ như ông mà như vậy quả thật là điều ngoài sức tưởng tượng. Không có gì để nói nữa…


Đó là nhận định của hậu duệ cụ Ngô Đức Kế trên trang nhà của nhà văn Phạm Viết Đào (xem ở đây)


TBT Nguyễn Phú Trọng thăm Bắc Kinh từ 11-15.10.2011

TBT Nguyễn Phú Trọng thăm Bắc Kinh từ 11-15.10.2011


Cũng như hôm khai mạc (1/5), hôm qua (11/5), sau khi nghe ông Trọng đọc lời bế mạc HN7, vẫn lại phải nghe những lời tua đi tua lại cũ rích đổ tội cho các “thế lực thù địch“ chống phá làm suy yếu đảng và làm mất lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của đảng… Mới thấy sự lạc hậu của cỗ máy cũ do ông Trọng cầm lái đã tới mức nào rồi. Bình luận về việc này có ý kiến cho rằng, về mặt lý mà nói, chống tham nhũng là công việc của bên hành pháp. Hành pháp chống không được, hay không có chút tiến bộ nào, mà lại còn đầu têu, thì người đứng đầu hành pháp (thủ tướng) phải từ chức. Ngoài ra, chả có anh quái nào có tư cách chống tham nhũng cả.


Người đứng đầu chế độ như ông Trọng, lẽ ra phải là người hơn ai hết phải hiểu điều này. Thay vì tinh giản bộ máy cồng kềnh cho đỡ tốn tiền thuế của dân, ông Trọng lại cho đẻ thêm ra hai cái ban đảng (trước đây đã bỏ đi). Chẳng qua hai ban mới này chỉ là công cụ làm tăng uy thế của TBT mà cũng là nhằm gia cố cơ chế đảng trị lên trên guồng máy nhà nước. Làm như vậy là đi ngược với thiết chế của một nhà nước pháp quyền. Nên đã bị vô hiệu hóa bởi chính những người đã từng đưa ông Trọng lên chiếc ghế đầu triều ngày hôm nay.


Chỉ tội nghiệp cho hai ông Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ. Những gương mặt tương đối sáng trên chính trường thời gian qua. Hăng hái tham gia bài toán vô nghiệm của bác Cả mà thành nhỡ nhàng. Như ông Bá Thanh, ngoại lục tuần rồi. Không nắm chắc được kiếm trong tay… thật đi cũng dở mà ở thì không xong!


Nếu ở một đất nước dân chủ đa nguyên thì một người có năng lực như ông Bá Thanh, bị thất sủng ở đảng này có thể đầu quân hay đứng ra lập riêng một đảng chính trị khác. Nếu có tài và tâm mà lại được người dân tín nhiệm thì con đường hoạn lộ của những người như ông Thanh vẫn thênh thang chán. Nhưng với chế độ độc đảng toàn trị thì chấm hết (Stop). Như lời khuyên của blogger Trương Duy Nhất, ông Thanh nên sớm từ chức là hơn.


Bàn về chuyện thất bại của ông Trọng có độc giả nhận định:


Hiện tượng Nguyễn Bá Thanh rớt Bộ Chính trị, mặc dù được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hết sức ủng hộ cho thấy cuộc chiến chống tham nhũng trong Đảng còn vô cùng gian nan. Không thể chống tham nhũng khi duy trì thể chế độc đảng, vì bản thân độc đảng chính là hiện tượng tham nhũng điển hình: tham nhũng chính trị – nguồn gốc của mọi tham nhũng.

(QC bỏ một câu)

Muốn thoát cảnh bế tắc này, chỉ có đi theo con đường đa nguyên chính trị, đa đảng, tự do, dân chủ đích thực mà hầu hết nhân loại văn minh đã lựa chọn, hòa nhập đầy đủ với thế giới, tranh thủ được ủng hộ của quốc tế. Khi ấy, có được lòng dân, chính quyền VN Hà Nội sẽ thoát vòng cương tỏa của Bắc Kinh, mở ra thời kỳ độc lập thật sự, dân giàu, nước mạnh.


(QC bỏ một câu)


Còn blogger nổi tiếng Nguyễn Huy Canh cũng góp lời:


TBT Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Vĩnh Phúc hôm 25/2/2013.

TBT Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Vĩnh Phúc hôm 25/2/2013.


Nếu tôi là UVTW, được bỏ phiếu, tôi cũng sẽ bỏ phiếu chống lại ông Cả Trọng. Vì bây giờ ông vẫn còn khuyên người ta quay lưng lại với tiền bạc, với cám dỗ vật chất. Ông định biến tất cả cán bộ nhà nước và chúng ta thành nhà sư ư? Ông vẫn quyết tâm sở hữu toàn dân về đất đai, đó chính là ý chí của Marx đã trở thành lỗi thời, là tàn dư của tư duy Phật giáo; ông vẫn quyết không tam quyền… chính ông là người mong muốn, là kẻ đam mê quyền lực nhất hòng trị vì cả dân tộc này theo cách của những kẻ chăn cừu. **


Hiện tình của Đảng CSVN hiện nay được ví như một quả bưởi ngoài bóng trong khô. Trông chờ có được một phép lạ thay đổi chỉ là điều không tưởng. Bởi đáng ra trong lúc kinh tế đất nước đang suy thoái như hiện nay, những người đứng mũi chịu sào phải đoàn kết tạo thành một khối vững chắc để lèo lái con thuyền vượt qua cơn khủng hoảng thì nội bộ lãnh đạo quay ra tỷ thí tranh giành quyền lực bách hại muôn dân.


Vậy nên đồng giao mới xuất hiện trên mạng gần đây đang loan truyền câu ca như thế này:


Thịt xôi ngập ngụa vương triều

Rằng ông Tổng Trọng chẳng điều được quân

Đảng đang phân liệt chia phần

Các nhóm lợi ích xoay vần choảng nhau


__………………………………………….


* Chủ nghiã xã hội và con đường đi lên Chủ nghiã xã hội – Nhìn từ thực tiễn Việt Nam – http://www.sggp.org.vn/chinhtri/2012/4/285915/


**  NHỮNG PHẢN HỒI ĐÁNG CHỦ Ý TRÊN BLOG PHAMVIETDAO.NET VỀ KẾT QUẢ HỘI NGHỊ TW 7… – http://phamvietdao4.blogspot.de/2013/05/nhung-phan-hoi-ang-chu-y-tren-blog.html



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 12, 2013 18:37

Phấn Đấu & Cơ Cấu

Huy Đức


373111_513382712014083_581802536_nThay vì bỏ phiếu chuẩn thuận ba ứng cử viên do Bộ chính trị đưa ra, Trung ương đã đề cử thêm rất nhiều người. Kết quả, sau 3 vòng bỏ phiếu, hai ứng cử viên do Bộ chính trị đưa ra thất cử.


 Chiến thuật làm loãng phiếu bằng cách đưa thêm ứng cử viên từng được “áp dụng” hồi tháng 1-2009, đánh rớt cơ hội vào Ban bí thư của Tướng Lê Thế Tiệm. Nhưng không chỉ đơn giản là gạch bỏ Vương Đình Huệ hay Nguyễn Bá Thanh, lần này, dường như đang có nhiều Trung ương ủy viên muốn giành lại quyền quyết định (theo điều lệ) của Trung ương thay vì cam lòng biểu quyết như cơ quan chấp hành của Bộ chính trị.


 Trong lịch sử bầu bán của Đảng cộng sản Việt Nam, những người không được Bộ chính trị hoặc Ban chấp hành trung ương giới thiệu, khi được các đại biểu hoặc các ủy viên trung ương khác giới thiệu, đều tự giác rút lui hoặc được yêu cầu rút lui. Không cần chờ tới Đại hội hay Hội nghị trung ương, một nhân vật đã được Bộ chính trị, được tổng bí thư hoặc có thời chỉ cần được Lê Đức Thọ “chấm” là chắc chắn vào Trung ương, thậm chí vào những vị trí cao hơn trong Đảng.


 Dưới thời Tổng bí thư Đỗ Mười, có những câu chuyện làm nhân sự nghe cứ như giai thoại: Trước Đại hội VIII (1996), ông Đỗ Mười cho gọi một vị phó thủ tướng tới bảo: “Kỳ này tôi nghỉ anh thấy sao?”. Vị phó thủ tướng, vốn là một trí thức lịch lãm, chân thành hỏi lại: “Ai sẽ thay anh?”. Kết quả, ông bị loại ra khỏi danh sách tái cử. Ông Đỗ Mười lại cho mời một nhà lý luận bảo thủ tới và khi ông vừa dứt lời thì nhà lý luận này liền đập tay xuống bàn: “Trời ơi, đất nước đang như thế này anh nghỉ làm sao được”. Kết quả, nhà lý luận giữ được ghế ủy viên Bộ chính trị.


 Ngày 19-6-1996, tại Hội nghị Trung ương 12 (Hội nghị trước khi Đại hội VIII bắt đầu), Tổng bí thư Đỗ Mười đã yêu cầu Trung ương đưa vào danh sách đề cử ủy viên Bộ chính trị hai nhân vật bị Hội nghị Trung ương 11 đưa ra và yêu cầu tái cử thêm hai ủy viên Bộ chính trị quá tuổi, Đoàn Khuê và Nguyễn Đức Bình. Tuy bị ba uỷ viên trung ương phản ứng, khi ông yêu cầu “giơ tay biểu quyết”, đa số Trung ương phải “chấp hành” ý kiến của ông. Sau Đỗ Mười, không có tổng bí thư nào có khả năng thô bạo với Trung ương như thế.


 Từ Đại hội VI bắt đầu có chuyện ứng cử viên được đề cử bởi Ban chấp hành Trung ương bị thất cử ở trong đại hội. Hai nhân vật “tạo tiền lệ” là Tố Hữu (từng được Lê Duẩn chọn kế vị Tổng bí thư) và Hoàng Tùng, khi ấy đang là Bí thư trung ương Đảng. Năm 2011, Trung ương cũng từng đánh rớt một nhân vật được Bộ chính trị tái cơ cấu, Hồ Đức Việt, và Đại hội cũng đã không bầu Phạm Gia Khiêm một người được đưa vào danh sách chính thức của Trung ương.


 Càng về sau, càng có nhiều ứng cử viên “giới thiệu thêm” được đưa vào danh sách bầu. Nhưng, cho dù danh sách ứng cử viên có đông hơn thì xác suất thất cử của các ứng cử viên được Bộ chính trị, Trung ương trình ra là rất thấp.


 Ông Nguyễn Phú Trọng là “người của thiểu số” ngay khi bắt đầu trở thành Tổng bí thư. Ông ủng hộ “chế độ công hữu về tư liệu sản xuất” trong khi chiều 18-1-2011, 61,70% đại biểu của Đại hội XI đã chọn định nghĩa đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp”.


 Việc Đại hội không coi “sở hữu công” như là một đặc trưng chủ yếu của chủ nghĩa xã hội lẽ ra phải có giá trị như một hành động vứt bỏ vòng kim cô cuối cùng của Marx (căn cứ theo Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản). Ông Trọng có thể đã có một vị trí lịch sử khác nếu ông “phục tùng đa số” như ông tuyên bố khi nhận chức Tổng bí thư, đẩy mạnh giải tư khu vực kinh tế quốc doanh và trao quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân. Nhưng, Nguyễn Phú Trọng đã chứng tỏ một cách hùng hồn là ông không có khả năng nhận ra thời cuộc cho chính ông, đừng nói là cho đất nước.


 Từ Hội nghị Trung ương Bốn, ông Nguyễn Phú Trọng rõ ràng đã có nỗ lực để trở nên không tẻ nhạt như người tiền nhiệm của mình. Chỉnh đốn Đảng và chống tham nhũng là một lựa chọn khá được lòng dân. Nhưng, thay vì thừa nhận nguyên nhân tham nhũng là từ “lỗi hệ thống” để cải cách chính trị theo hướng dân chủ hơn; thay vì để cho Quốc hội và tư pháp được thực thi các quyền hiến định của mình, ông lại sử dụng những công cụ hết sức giáo điều trong khi trung ương không còn một đa số chỉ biết vâng lời như trước nữa.


  Việc các cơ quan trung ương được cắt giảm chỉ còn sáu ban, kể từ năm 2006, là kết quả của gần hai thập niên cải cách chính trị theo hướng “Đảng lãnh đạo nhà nước chứ không làm thay nhà nước”. Vậy mà tại Hội nghị Trung ương Năm, ông Trọng lại cho khôi phục Ban Nội chính và Ban Kinh tế trung ương (một ban chỉ mới được giải tán từ năm 2006).


 Sau khi Hội nghị trung ương Sáu đồng ý “cơ cấu” chức ủy viên Bộ chính trị cho các trưởng ban. Thay vì bầu bổ sung Bộ chính trị trước, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những bước đi “chắc ăn”: Bổ nhiệm Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ làm trưởng ban rồi mới đưa ra Trung ương bầu bổ sung. Kết quả cả hai đều không đắc cử.


 Đây không chỉ là vấn đề tiêu chuẩn cá nhân của ông Huệ hay ông Thanh mà là “sự nổi loạn” của các ủy viên trung ương. Có lẽ không mấy trung ương ủy viên không từng mơ tới chiếc ghế trong Bộ chính trị cao sang, và giờ đây không ít người trong số họ không muốn chỉ ngồi nhìn những kẻ có tiền qua mặt mình, hoặc không muốn chấp nhận nguyên lý “mười năm phấn đấu không bằng một lần cơ cấu”.


 Sau thất bại ở Trung ương Bảy, lẽ ra ông Trọng và Bộ chínhtrị phải nhận ra trong Đảng đã tự diễn biến, các phương thức chính trị cổ hũ đã không còn thích hợp với thực tiễn hiện nay. Thời kỳ các lãnh tụ áp đặt niềm tin cá nhân lên toàn đảng, toàn dân tộc đã qua, ngay trong nội bộ của hệ thống toàn trị cũng cần phải có những chính trị gia thật sự.


 Thay vì dừng lại để tìm một hướng đột phá, lấy phương thức vận động tranh cử để làm “công tác cán bộ trong tình hình mới”, Trung ương Bảy vẫn thông qua chiến lược nhân sự cho Đảng tới 2021 và vẫn dựa trên nguyên tắc “cơ cấu” và “quy hoạch”.


 Năm 2001, khi Trưởng ban Tổ chức trung ương Nguyễn Văn An được cơ cấu làm Chủ tịch Quốc hội, tôi đặt vấn đề “tranh cử trong đảng” với ông. Ông An lúc ấy cho rằng: “Tranh cử không khéo sẽ thành tranh giành, cục bộ. Hiện giờ trong Đảng mình chỉ bàn bạc dân chủ rồi phân công. Đảng phải làm sao đảm bảo có dân chủ mà trong Đảng vẫn giữ được sự thống nhất” (Thời báo Kinh Tế Sài Gòn 28-6-2001). Giờ đây, ông Nguyễn Văn An cũng phải nhận ra rằng chính “sự thống nhất” nếu còn thì chỉ để cho một số cá nhân lũng đoạn.


 Nếu như tiến trình tranh cử trong đảng diễn ra công khai, thì người thực sự tài hơn trong đội ngũ hiện tại sẽ vượt lên; đội ngũ kế cận sẽ tự nó xuất hiện chứ không phải chỉ những kẻ biết làm vừa lòng cha chú được cơ cấu.


 Đặc biệt, nếu tiến trình tranh cử bắt đầu nhiều tháng trước các dịp bầu bán, thì không cần “Nghị quyết trung ương Bốn”, các ứng cử viên sẽ giúp Đảng phát hiện tài sản nổi, tài sản chìm, bồ nhí, con rơi…Giúp dân chúng hiểu được kẻ nào đã ban hành những chính sách hại dân, hại nước. Chính sự “rạn nứt” do tranh cử sẽ tạo ra một tiền đề mới cho cải cách chính trị.


 Bản chất của độc tài, toàn trị là đối lập với dân chủ. Tuy nhiên trong điều kiện đảng vẫn cứ một mình cầm quyền và dân chưa biết làm thế nào để thay đổi tương lai chính trị của mình thì áp dụng một số phương thức dân chủ trong đảng cũng giảm được cho nước, cho dân phần nào tai họa.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 12, 2013 16:47

Liệu Việt Nam có thể có một hệ thống một đảng, hai cử ứng viên?

Nguyễn Hồng Hải-CVHP


hienphap4cViệt Nam đang tiến hành một trong những cải tổ chính trị lớn nhất và hào hứng nhất trong hai thập niên qua – soạn thảo lại Hiến pháp quốc gia.


Nhiều vấn đề trong hiến pháp đang được tranh luận – vai trò của Đảng Cộng sản (ĐCS) đang cầm quyền đối với các bộ phận của nhà nước và xã hội; vai trò của quân đội; hệ thống quản lý nhà nước và tư nhân và sở hữu đất đai; và những cơ chế cần thiết để bảo vệ quyền công dân và quyền con người.


Vào tháng Hai, “Nhóm 72”, một tập thể gồm 72 cán bộ Đảng cao cấp, các trí thức nổi tiếng, các cựu chiến binh và những nhân vật khác, đã hoàn thành một bản dự thảo hiến pháp theo phong cách phương Tây và gửi đến một cơ quan chuyên trách của Quốc hội là Uỷ ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp 1992. Hành động này khiến nhiều người nghĩ rằng việc sửa đổi Hiến pháp sẽ nằm trong tay của người dân thay vì của Đảng. Tuy nhiên, cảm nhận này không kéo dài bao lâu. Vài tuần sau Tổng Bí thư ĐCS đề cập đến vấn đề mà ông gọi là ‘sự suy thoái tư tưởng và đạo đức’ tại một hội nghị ở Vĩnh Phúc, bên ngoài Hà Nội. Lời phê phán này được hiểu là nhắm vào những ai đề xuất những thay đổi đi ngược lại bản dự thảo do ĐCS chỉ đạo, trong có có cả Nhóm 72.


Trong đệ trình của mình, Nhóm 72 đề nghị rằng để Việt Nam có được một nền dân chủ hiệu quả, cần có một hệ thống đa đảng, hoặc ít nhất là chế độ bầu cử mang tính cạnh tranh. Nhưng ĐCS đã không chấp nhận điều này, quan điểm của họ đối là Việt Nam dân chủ phải theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa và do ĐCS lãnh đạo. ĐCS không bác bỏ chế độ bầu cử cạnh tranh nhưng nhấn mạnh rằng các ứng cử viên phải do Đảng hoặc Mặt trận Tổ quốc đề cử.


Một biểu tượng của dân chủ là việc bầu cử công bằng, không phân biệt và bao gồm mọi thành phần. Thường thì điều này chỉ xảy ra trong một thể chế đa đảng được bảo vệ bởi một hệ thống kiểm soát và cân bằng và nguyên tắc pháp lý để bảo đảm sự cạnh tranh công bằng. Đối với các nhà lý luận phương Tây, Việt Nam còn xa mới đạt được những điều kiện trên. Nhưng điều này không có nghĩa là nó không thể có một chế độ bầu cử công bằng và cạnh tranh trong một thể chế độc đảng. Một thoả hiệp chính trị của các bên vì sự tiến triển của đất nước có thể tạo điều kiện cần có cho một chế độ bầu cử cạnh tranh công bằng trong một hệ thống độc đảng.


Người dân Việt Nam dường như vẫn ủng hộ mạnh mẽ sự cầm quyền của ĐCS. Điều này có được đặc biệt là nhờ tính đáp ứng nhanh của chính phủ đối với đòi hỏi của xã hội và tính ổn định xã hội của đất nước. Những cuộc biểu tình thường xuyên của nông dân đã phản bác lại lập luận trên, nhưng những cuộc biểu tình này thì nhằm vào chính quyền địa phương chứ không phải trung ương, và chưa bao giờ có một cuộc biểu tình lớn chống lại sự lãnh đạo của ĐCS. Vai trò của ĐCS đối với sự độc lập và thống nhất nước nhà cũng như tỉ lệ tăng trưởng kinh tế cao trong giai đoạn đầu của thời kỳ Đổi mới cần được ghi nhận, nhưng các chỉ trích đã nhắm vào ĐCS vì tình trạng suy giảm kinh tế và nạn tham nhũng lan tràn gần đây.


ĐCS phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, như bản dự thảo hiến pháp hiện nay đề nghị – đây là điều mà ĐCS có thể làm được bằng cách bảo đảm bầu cử cạnh tranh công bằng. Vai trò của nó trong những cuộc bầu cử này có thể được xem như một “quan toà không thiên vị”. Điều này có nghĩa là nó sẽ để các ứng cử viên tự do cạnh tranh trong khuôn khổ luật pháp. ĐCS có thể đề xuất ứng cử viên của mình và chắc chắn là sẽ luôn làm điều này. Nhưng nó cũng phải tạo chỗ đứng công bằng cho các ứng cử viên độc lập mà không cần phải có đảng chính trị riêng của họ. Điều này có thể được gọi là ‘hệ thống một đảng, hai ứng viên’. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả, hệ thống này phải được đưa vào hiến pháp.


Hệ thống này chưa được thực hiện ở mức quốc gia, mặc dù khuôn mẫu hai-ứng viên từng xảy ra ở những cấp thấp hơn trong cơ chế dân chủ từ quần chúng – một dự án thí điểm chính trị do ĐCS đưa ra vào năm 1998. Không có nhiều ứng cử viên độc lập đắc cử vì ảnh hưởng của đảng, nhưng cũng có một số thành công. Kinh nghiệm thực tế cho thấy muốn thành công cần phải có một số điều kiện. Chúng bao gồm, nhưng không giới hạn: sự không can thiệp của ĐCS, uy tín và khả năng của ứng cử viên và sự tham gia mạnh mẽ của quần chúng.


Việt Nam từ lâu vẫn được các nhà lý luận chính trị và chính trị gia phương Tây xem như là một thể chế một đảng, một ứng cử viên. Bất chấp những cải cách chính trị, các ứng cử viên của ĐCS vẫn giữ vị trí thống trị trong cả ba nhánh quyền lực và vì thế nhiều người vẫn hoài nghi về ý nghĩa của những cải cách này. Việc sửa đổi Hiến pháp quốc gia là một cơ hội tốt cho ĐCS Việt Nam bắt đầu thay đổi quan điểm này. Nó cần hợp thức hoá hệ thống một đảng, hai ứng cử viên ở cấp quốc gia, theo sau những thí điểm thành công ở cấp thấp hơn. Hệ thống này cũng là một bước đi tốt hướng đến việc cải cách chính trị. Nếu Việt Nam làm được điều này, nó sẽ tạo ra một khuôn mẫu cho những quốc gia cộng sản khác noi theo.


Diên Vỹ chuyển ngữ


……………………………….


Nguyễn Hồng Hải là Ứng cử viên Tiến sĩ tại Phân viện Nghiên cứu Khoa học Chính trị và Quốc tế thuộc Đại học Queenslan



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 12, 2013 02:52

Quan Tòa

Thái Bá Tân-DL


Những bản án bỏ túi Theo lệnh của cấp trên.

Những bản án bỏ túi
Theo lệnh của cấp trên.


Những bản án bỏ túi

Theo lệnh của cấp trên.

Không có phần tranh luận

Giữa bên bị, bên nguyên.


Những quan tòa tuyên chúng,

Dẫu thông minh vừa vừa,

Bề ngoài mặt nghiêm lắm,

Nhưng biết thì biết thừa.


Thế là, bất chấp luật,

Bất chấp tiếng xì xầm,

Các blogger dũng cảm

Lĩnh án tù nhiều năm.


Nhiều khi tôi tự hỏi

Mấy lão quan tòa này

Có lương tâm không nhỉ,

Và rồi sẽ sao đây?


Tôi nghĩ chắc là có,

Vì bọn này dẫu sao,

Còn là người, có lẽ

Cũng không đến nỗi nào.


Nghe nói có trường hợp,

Mấy quan tòa Đông Âu,

Xử oan, rồi tự tử

Vì ăn năn về sau.


Cũng khó mà nói trước

Các quan tòa của ta

Tự tử, không tự tử -

Theo lệnh cấp trên mà.


Tôi mong họ đừng chết,

Vì còn có gia đình

Thấy lương tâm cắn rứt

Thì về vườn cho lành.


PS:


Các bác đừng học luật,

Vì hiện ở nước ta

Làm gì có tòa án

Mà học làm quan tòa!



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 12, 2013 01:59

Hà Nội bắn vào quá khứ bằng súng gì?

Phạm Xuân Nguyên-PL TpHCM


dan-xa-tac-giao-thongHà Nội đang có sự “dị ứng” đối với các di tích lịch sử, văn hóa tại thủ đô.


 Đầu tiên là chuyện đàn Xã Tắc. Cách đây dăm năm khi làm đường Kim Liên mới, giới khảo cổ học đã khai quật được một khu vực có thể là đàn tế trời đất từ thời Lý. Giải pháp được chọn khi đó là chưa mở rộng khai quật, tạm lấp cát hố đã đào, xây một cảnh quan và đặt một phiến đá đánh dấu ngay trên con đường mới mở. Việc đó có nghĩa là đến một lúc nào đấy giới khảo cổ lại có thể tiếp tục khai quật vùng đất này để tìm kiếm và khẳng định có thật đây đúng là đàn Xã Tắc từ thời Lý không.


 Khi đó không ai, cả giới quản lý và giới khoa học, nghĩ là sẽ phải giải tỏa giao thông ở khu vực này một lần nữa vì đã có thêm một con đường mới. Đây chính là nguyên nhân đã làm bùng ra cuộc tranh luận hiện nay giữa bảo tồn và phát triển khi một dự án cầu vượt qua nút giao thông Kim Liên – Ô Chợ Dừa của Hà Nội được phép thi công sẽ đụng chạm đến di tích. Nguyên nhân là sự thiếu quy hoạch xây dựng, thiếu một tầm nhìn xa trông rộng, thiếu một sự phối hợp đồng bộ giữa các bên. Một thành phố lớn, lại là thủ đô, mà quy hoạch giao thông cũng như xây dựng đô thị chỉ mới năm năm đã phải thay đổi, sửa chữa. Cuộc tranh luận về đàn Xã Tắc và cầu vượt giữa giới khảo cổ và ngành giao thông vẫn chưa ngã ngũ nhưng cũng đã cho thấy những bất cập, hạn chế trong nhận thức và cách xử lý của các nhà quản lý đô thị của ta hiện nay, không riêng gì ở Hà Nội.


 Làng cổ Đường Lâm trước thuộc Hà Tây nay thuộc Hà Nội lại gây rúng động vì lá đơn của hơn sáu chục hộ dân ở làng đòi trả di tích. Lý do là vì luật bảo tồn nên dân không được xây cất, sửa chữa nhà cửa chật chội ngay trên mảnh đất của mình, ngay nơi mình sinh sống đã nhiều đời. Được công nhận di tích thì tự hào, vinh dự nhưng sống trong lòng di tích, sống bằng di tích như thế nào thì người dân không được chính quyền hướng dẫn, tạo điều kiện. Thế là lợi ích dân sinh và lợi ích văn hóa va chạm nhau. Cái quá khứ đáng trân trọng nhưng hiện tại là người ta phải sống cái đã. Khổ quá, không chịu được nữa, người dân kêu. Ông xã, ông huyện giải tỏa nhà cải tạo, sửa chữa của dân cũng thấy bức xúc, không phải với dân. Trong khi đó, các cấp quản lý cao hơn thì không có một quy hoạch, một kế hoạch rõ ràng cho người dân sống và phát huy giá trị, lợi ích của di tích của chính mình. Thí dụ như phải có một làng Đường Lâm mới giãn dân ra, từ đó làng Đường Lâm cổ mới có không gian cho di tích được bảo tồn và phát sáng.


 Chùa Một Cột từ lâu đã thành biểu tượng của Hà Nội và đất nước. Nhưng biểu tượng thì đó vẫn là một vật thể bằng gạch ngói, tre gỗ, không thể trụ mãi với thời gian mưa nắng, với tác hại xâm thực và hủy hoại của môi trường. Ngôi chùa nhiều năm qua đã trong tình trạng hư hỏng nhiều, xuống cấp nhiều, cứ nhìn cảnh tượng trong chùa phải đội nón tránh dột những ngày mưa thì đủ rõ. Các sư ở chùa thấy, các tăng ni, Phật tử vào chùa thấy, các khách thăm chùa thấy nhưng có vẻ như các quan sở tại không thấy hoặc giả có thấy nhưng cho là chuyện nhỏ, chuyện thường, chuyện không cấp bách. Nhìn tượng đội nón ngồi trên tòa sen mà không chối mắt! Nghe nói đã có một dự án trùng tu lại chùa cách đây năm năm nhưng năm năm qua chỉ mới làm vài cuộc hội thảo, nghĩa là dự án chỉ cứ trên giấy, trong khi tượng cứ bị thấm dột, mái chùa cứ bị xô ngói, cột kèo cứ bị mối mọt khoét rỗng. Sư trụ trì chùa đã gửi đơn nhiều lần mà không thấy động tĩnh gì. Cho đến lần này sư lại gửi đơn thống thiết kêu và tỏ thái độ kiên quyết nếu chính quyền không làm thì nhà chùa sẽ làm, vụ việc mới bùng ra. Nhưng hỡi ôi, chùa hỏng đến nơi, mà nghe ý kiến của một vị chức sắc thì vẫn cứ là “hãy đợi đấy”. Đã năm năm trôi qua, còn đợi đến khi nào?


 Tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác nếu hiện tại anh bắn quá khứ bằng súng lục! Nhưng kiểu dị ứng với đàn Xã Tắc, làng Đường Lâm, chùa Một Cột thế này thì Hà Nội  đang bắn vào quá khứ bằng súng gì?



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 12, 2013 00:59

Nguyễn Quang Lập's Blog

Nguyễn Quang Lập
Nguyễn Quang Lập isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Quang Lập's blog with rss.