Nguyễn Quang Lập's Blog, page 13
May 16, 2013
Những chuyện bên trong và chưa nói về phiên tòa xử sinh viên yêu nước Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha
Kết quả phiên tòa do nhà cầm quyền cộng sản dàn dựng nhằm trả thù 2 sinh viên yêu nước tại Long An ngày 16.5.2013 thì ai cũng đã biết. Chúng tôi lược thuật một số chuyện mà ít người biết đến.
A. Thủ tục tố tụng:
Cũng như bao phiên tòa xét xử người yêu nước khác về điều luật mơ hồ là điều 88 và 79 an ninh tại tòa án và khu vực xung quanh luôn gắt gao: phá sóng điện thoại, ngăn cản người dân tiếp xúc phiên tòa, hạn chế thân nhân của các nạn nhạn tham dự phiên tòa, công an thì nhiều hơn các thành phần khác tham dự phiên tòa nhiều lần. Tuy nhiên phiên tòa ở Long An có một số đáng ghi nhận như sau:
1. Về thủ tục tố tụng nhà cầm quyền ở Long An lần này tỏ ra “dễ chịu” hơn các nơi như ở Sài Gòn, Hà Nội, Bến Tre, An Giang. Luật sư có nhiều thời gian hơn, gia đình gặp được người thân bị giam giữ trước khi ra tòa. Có sự tranh luận sòng phẳng giữa công tố viên buộc tội và luật sư. Lần đầu tiên ở Việt Nam kiểm soát viên chấp nhận đuối lý trước luật sư và rút lại việc truy tố 2 nạn nhận tội “chống Trung Quốc”. Dù việc rút lại lời buộc tội chỉ có tính hình thức vì sau đó bản án hình phạt rất nặng nề. Nhưng chúng ta cũng ghi nhận quan điểm chống ngoại xâm ít ra đã đi vào chính trường của Việt nam và đã được chấp nhận.
2. Dù an ninh hạn chế gia đình gởi trang phục cho các sinh viên yêu nước nhưng hình ảnh 2 sinh viên trong trang phục đồng phục học sinh áo sơ mi trắng và quần tây sẫm màu nói lên rằng họ đẹp hơn nhiều. Và quan trọng hơn là minh họa cho lời tố cáo nhà cầm quyền đàn áp sinh viên thì hình ảnh đó hiệu quả hơn nhiều. Chưa đi vào nội dung phiên tòa thì hình ảnh 2 sinh viên tao nhã thanh lịch giữa một rừng công an y hệt như 2 con chiên thơ giữa một bầy sói hung bạo.
3. Vào buổi chiều nhằm phản ứng việc công an bảo vệ và an ninh ngăn chặn những thân nhân khác không vào tham dự phiên tòa thì mẹ Phương Uyên, mẹ và anh của Nguyên Kha không vào tham dự. Chủ tọa phiên tòa công bố họ không tham dự buổi chiều. Nhưng sau hơn nữa giờ họ vào tham dự thì chủ tọa vẫn đồng ý cho họ mà không làm khó dễ gì họ.
4. Diễn biến bên ngoài dù có bắt bớ 1 số người dự tính tham dự phiên tòa nhưng lần này có vẻ như là công an Long An không dám tàn độc như công an Sài Gòn hay ở Hà Nội.
B. Về nội dung bàn chất phiên tòa:
Không hẹn mà gặp cả 3 luật sư bào chữa cho 2 sinh viên yêu nước họ có luận chứng bào chữa rất giống nhau và hợp lý: 2 sinh viên này chỉ yêu nước và chống Trung Quốc xâm lược và chống đảng cộng sản chứ không chống nhà nước CHXHCNVN. Dù trước đó an ninh làm khó dễ các luật sư rất nhiều: chặn các cuộc gọi vào máy của các luật sư, không cho họ có thời gian nhiều tiếp xúc với thân chủ cũng như toàn bộ hồ sơ vụ án. Nhưng rất trùng hợp là các luận cứ của các luật sư rất sắc bén không chỉ kiểm soát viên giữ quyền công tố bị đuối lý mà cả thẩm phán chủ tọa cũng như các hội thẩm nhân dân cũng thua lý và họ tìm cách tránh né các vấn đề và yêu cầu của luật sư đưa ra:
1. Phương Uyên và Kha có thừa nhận hành vi “vi phạm” nhưng chỉ chung chung không nói là vi phạm cái gì. Chống Trung Quốc thì chắc không có điều nào trong cả Bộ Luật Hình sự quy định. Tội chống đảng thì không phải là điều 88 của Bộ luật hình sự hiện nay mà phải là điều khác. Tuy nhiên cộng sản không dám trơ trẻn áp dụng thực chất cái điều này sợ bị dư luận trong và ngoài nước lên án nên họ miễn cưởng “ép” vào điều 88 chống nhà nước.
2. Nhân chứng của vụ án: dù bản cáo trạng và kết luận điều tra có ghi là có 3 nhân chứng nhưng 3 nhân chứng này không có mặt ở phiên tòa tại Long An vào ngày 16.5.2013. Rõ ràng việc thiếu vắng 3 nhân chứng đã chứng tỏ rằng nhà cầm quyền lấn cấn trong việc buộc tội và tiền hậu bất nhất.
3. Vật chứng: quan trọng nhất là vật chứng là các khẩu hiệu buộc tội 2 sinh viên yêu nước. Thế nhưng phiên tòa này không dám trưng ra cái vật chứng này. Đó chính là các khẩu hiệu chống Trung Quốc xâm lược và chống đảng cộng sản. Dù các luật sư yêu cầu nhiều lần nhưng chủ tọa không dám đề cập đến các khẩu hiệu này. Cũng như biên bản yêu cầu giám định nội dung của các khẩu hiệu cũng không có. Điều này chứng tỏ rằng phiên tòa của đảng cộng sản chỉ dùng nó như là một công cụ để trả thù các sinh viên yêu nước qua đó đe dọa nhiều người khác có ý chống đảng.
4. Chống đối tôn giáo: trong cáo trạng để thêm màu sắc buộc tội thì phía an ninh điều tra cố “nắn, ép” cái này vào nhưng ra trước tòa thì không có gì liên quan đến việc chống đối các tôn giáo của 2 sinh viên yêu nước. Việc này lố bịch y như chuyện 2 cái bao cao su trong vụ án của tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ.
5. Lời nói sau cùng: Đinh Nguyên Kha cho rằng Kha không có tội, chỉ hành động vì lòng yêu nước. Riêng lời nói sau cùng của Phương Uyên mới làm cho cả phòng xử án bàng hoàng và không khí chùng xuống. Đứng trước vành móng ngựa của cộng sản để nói lời nói sau cùng thì Phương Uyên dũng cảm tuyến bố: “Việc tôi làm thì tôi chịu xin nhà cầm quyền đừng làm khó dễ mẹ hay gia đình của chúng tôi. Chúng tôi làm để thức tỉnh mọi người trước hiểm họa Trung Quốc xâm lược đất nước và cuối cùng là chúng tôi làm xuất phát từ cái tấm lòng yêu nước nhằm chống cái xấu để làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp tươi sáng hơn“. Giữa một rừng công an hùng hổ mà Phương Uyên dám tuyên bố như vậy chứng tỏ bản lĩnh của Phương Uyên như thế nào. Khác xa chuyện an ninh điều tra ép cung nhục hình để ra một Phương Uyên theo ý của an ninh là hành động chỉ để nhận 100 USD và máy chụp hình kỷ thuật số từ phản động hải ngoại.
C. Phản ứng của giới am hiểu luật pháp tại Việt Nam về phiên tòa tại Long An ngày 16.5.2013:
1. Luật sư Nguyễn Thanh Lương: “Tôi thấy mình hèn hạ và bất lực khi chỉ đòi cho Phương Uyên được 5 ngày tù mà không làm cho bản án của em nhẹ đi. Phương Uyên bi bắt ngày 14 tháng 10 năm 2012 nhưng đến ngày 19 tháng 10 thì mới công khai. Kết luận điều tra và cả bản cáo trạng “quên” đi 5 ngày dấu nhẹm này. Tôi đã yêu cầu chủ tọa tính án phải từ ngày 14.10.1012 là ngày họ tạm giam em Phương Uyên. Tôi không có biết là 2 em sinh viên có kháng án hay không nhưng hình ảnh của họ ở phiên tòa hôm nay nó đay đáy vào tận giác ngủ của tôi trong nhiều ngày tới”.
2. Nhà báo T. D. (yêu cầu dấu tên): “Thì cũng như bao phiên tòa khác các nạn nhân của điều luật X nếu ai mà ” ăn năn nhận tội” thì án nhẹ. Ai mà “cương” thì lãnh án nặng. Thấy Anh Ba Sài Gòn của vụ anh Điếu cày không? án nhẹ hơn so với 2 người khác. Gần đây vụ Lô Thanh Thảo im lìm thì họ kéo xuống 2 năm từ 3 năm rưỡi ban đầu. Đó thấy chửa nhưng đừng ghi tên tôi ra đấy đó nha”.
3. Luật sư N. thuộc đoàn Luật sư Thành Phố: “Bị cáo Kha không phải khủng bố, nếu khủng bố thì án khác cơ!”
4. Thẩm phán H. của tòa án tỉnh Đồng Nai: “Tôi không theo dõi phiên tòa, nhưng thẩm quyền xét xử phải là của Tòa án thành phố Hồ Chí Minh chứ không phải là Tòa án tỉnh Long An vì nơi diễn ra các hành vi vi phạm pháp luật là tại thành phố Hồ Chí Minh chứ không phải ở tỉnh Long An”.
5. Một phóng viên dấu tên của báo Pháp Luật: “Thực chất thì mấy ông tòa án không đủ tư cách và nhân cách để xét xử mấy sinh viên này”.








Nhân sĩ trí thức gửi thư khẩn tới Chủ tịch nước về vụ bắt Phương Uyên
NQL: Cái thư gửi đi từ tháng 10/2012 với 144 chữ kí của nhân sĩ trí thức, trong đó có những tên tuổi lớn Huỳnh Tấn Mẫm, Ngô Bảo Châu, Hoàng Tụy… đã không có một hồi âm. Đến nay là bản án quá năng nề đối với hai thanh niên yêu nước
BVN: Ngày hôm qua, 16/5, tòa án tỉnh Long An đã kết án nặng nề sinh viên Nguyễn Phương Uyên, 21 tuổi, 6 năm tù và 3 năm quản chế, và sinh viên Đinh Nguyên Kha, 25 tuổi, 8 năm tù, cùng 3 năm quản chế về tội “tuyên truyền chống Nhà nước”. Chúng tôi xin đăng lại bản Kiến nghị với 157 chữ ký của các công dân, đã đăng trên Bauxite Việt Nam ngày 2/11/2012.
Kiến nghị ấy không vô ích. Nó cho thấy thời thế đã thay đổi: người dân Việt Nam nay công khai bênh vực người bị chính quyền kết án phản động! Nó đánh thức lương tâm của những người Việt Nam khác và qua đó gửi cho họ một thông điệp tối quan trọng: Đừng sợ! Chế độ toàn trị nào cũng cần sự sợ hãi làm chất bôi trơn để cỗ máy vận hành êm ả. Không có sự sợ hãi, bất cứ cỗ máy toàn trị nào, dù “hoàn hảo” đến đâu, cũng sẽ cọ xát cho đến lúc tự tan rã như một tất yếu. Do đó, các chế độ toàn trị rất quyết liệt sản xuất sự sợ hãi. Nhưng thời thế đã đổi thay như một nghịch lý: càng cố dùng bạo lực để đàn áp, thì càng nhanh chóng kết thúc!
Đăng lại, để thấm thía hơn cái cùng quẫn của những kẻ tưởng có thể dựa vào các biện pháp (nói mỹ miều là) “chuyên chính” hòng cứu chế độ toàn trị đang lao dốc. Đăng lại, để thấy cái phi lý của một nền tư pháp bất chấp công lý. Và đăng lại, để bày tỏ lòng cảm phục và niềm hy vọng vào tương lai của đất nước khi vẫn còn có lớp trẻ biết lo lắng cho dân tộc.
Từ cụ già thuộc thế hệ U100 như Đặng Văn Việt đến người trẻ măng bị hành hạ trong tù như Phương Uyên, hoàn cảnh khác hẳn nhau, nhưng không ai bảo ai đều ngẩng cao đầu. Điều đó báo hiệu một sự đột biến về chất trong tư duy của dân tộc về vận mạng đất nước. Niềm hy vọng cho chúng ta là ở đấy chứ không phải là ở những quyết định cử người này và không cử người kia vào Bộ Chính trị – một đồng một cốt cả – như ai đó đã lầm tưởng.
Bauxite Việt Nam
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Ngày 30 tháng 10 năm 2012
Kính gửi: Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang
Tiếp theo thư của các cháu sinh viên trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh gửi Chủ tịch Nước ngày 20.10. 2012 và nhằm hậu thuẫn cho đề nghị chính đáng của sinh viên, chúng tôi, những người ký tên dưới đây, trân trọng kính gửi đến Chủ tịch Nước những ý kiến và kiến nghị sau đây.Vừa qua, theo dõi thông tin trên mạng, chúng tôi hết sức bức xúc về tin nữ sinh viên Nguyễn Phương Uyên, trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm, bị công an bắt. Công an chỉ mới thừa nhận bắt giữ sinh viên Nguyễn Phương Uyên dù trước đó họ phủ nhận. Bạn học của Phương Uyên cho biết khi tràn vào phòng trọ bắt cô hôm 14/10, công an chỉ nói lý do là “để điều tra về các truyền đơn chống Trung Quốc” mà không hề có bất kỳ một lệnh bắt hay một văn bản nào. Sau 10 ngày kể từ khi sinh viên này bị bắt, gia đình Phương Uyên mới chính thức nhận được thông báo của công an tỉnh Long An về việc bắt giữ người để điều tra về hành vi “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo điều 88”.
Hầu hết bạn bè đều nói rằng, Phương Uyên, Ủy viên Ban Chấp hành Chi đoàn Thanh niên Lớp 10CDTP1 của trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh là “một người bạn tốt, hiền ngoan và học giỏi, rất năng động trong những hoạt động của trường lớp, hòa đồng với bạn bè…”. Mẹ của Phương Uyên thì cho biết đã được công an thông báo lý do bắt giữ cô là vì tội “tuyên truyền chống Nhà nước”. Bà nói: “Theo lời thuật lại của cháu Phương ở chung phòng với nó nói là Uyên bị bắt vì làm bốn câu thơ chốngTrung Quốc. Nói vậy chứ không biết rõ ràng, nhưng thực chất cháu Uyên ghét Trung Quốc thì khi tôi lên công an phường Tây Thạnh thì tôi mới biết. Người ta kể lại là cháu Uyên trả lời mấy chú công an là nó rất ghét Trung Quốc. Nếu như cháu Uyên ghét Trung Quốc thì tôi nghĩ nó không sai trái gì hết.”
Những bạn cùng lớp của Nguyễn Phương Uyên tại trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh đã viết một đơn cầu cứu khẩn cấp gửi Chủ tịch Nước để xin can thiệp giúp cho Nguyễn Phương Uyên sớm trở về với gia đình, với trường lớp và thầy cô. Bức thư viết: “Về việc làm của bạn Nguyễn Phương Uyên xét cho cùng tất cả đều xuất phát từ tinh thần yêu nước của tuổi trẻ. Đã là tuổi trẻ thì luôn thể hiện tinh thần và thái độ của mình một cách trong sáng dù đôi khi bồng bột, luôn muốn thử sức mình và đôi khi phải chịu đựng sự vấp ngã trong cuộc sống. Tuy nhiên, dù với cách thức thể hiện như thế nào, chúng cháu luôn luôn tin rằng tận trong thâm tâm của bạn Nguyễn Phương Uyên vẫn mang tinh thần giống như những gì mà bác đã gửi đến chúng cháu nhân ngày Quốc Khánh 2 tháng 9: “Phải biết hổ thẹn với tiền nhân, với những bậc tiên liệt về những yếu kém, khuyết điểm của mình đã cản trở bước đi lên của dân tộc. Hổ thẹn không phải để bạc nhược, mất ý chí mà để vươn lên gấp hai, gấp ba, để tiếp tục đi tới với tư thế vững vàng, khí phách hiên ngang vốn là truyền thống dân tộc, góp phần làm cho đất nước ta phát triển và trường tồn mãi mãi.”
Trong chúng tôi cũng có những người đã từng đứng trên bục giảng và hiểu được tâm trạng của tuổi trẻ. Có những người từng là tù Côn Đảo trước 1975,vốn từng trải qua tâm trạng của tuổi thanh niên bị kẻ thù giam cầm khủng bố khi tham gia cách mạng, có người bị chính quyền của chế độ cũ bắt không cho gia đình biết theo kiểu cách như công an ta vừa bắt cô sinh viên 20 tuổi Phương Uyên cũng trạc tuổi chúng tôi dạo ấy, nhằm lung lạc tinh thần tuổi trẻ và gây hoang mang cho gia đình. Tâm trạng của chúng tôi khi ấy là chỉ thầm mong sao cha mẹ mình biết tin, chứ bản thân mình vốn đã xác định “dấn thân vô là phải chịu tù đày, là gươm kề tận cổ, súng kề tai, là thân sống chỉ coi còn một nửa”,vì vậy“Dù ai ngon ngọt nuông chiều, cũng không nói yêu thành ghét. Dù ai cầm dao dọa giết, cũng không nói ghét thành yêu” như những dòng thơ mà chúng tôi đã thuộc nằm lòng từng giục giã tuổi trẻ có lương tri, biết sống cuộc sống có ý nghĩa, không chỉ “hiền ngoan” để trở thành phường “giá áo túi cơm”, khuất phục trước cường quyền, áp bức và bất công.
Trên bục giảng cũng như trong cuộc sống gia đình và trên đường phố, đường làng, chúng tôi từng dạy dỗ con cháu mình phải sống có hoài bão cao đẹp, biết rèn luyện phẩm chất và trí tuệ để trở thành người hữu ích cho xã hội. Chừng nào Biển Đông còn dập dồn những con sóng xâm lược của các thế lực hiếu chiến trong giới cầm quyền Bắc Kinh thì tuổi trẻ Việt Nam phải nung nấu và tỏ rõ tinh thần yêu nước, khí phách quật cường của Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Lê Lợi, Nguyễn Huệ từng viết nên những trang sử vàng của dân tộc, từng khắc trên cánh tay hai chữ Sát Thát, đánh tan tác quân xâm lược “ra đến biển chưa thôi trống ngực, về đến Tàu còn đổ mồ hôi” như Nguyễn Trãi từng viết trong “Bình Ngô Đại cáo”! Phải thường xuyên nhắc nhở thế hệ trẻ hôm nay phải biết căm ghét, phỉ nhổ những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống do “úy tử tham sinh”, muốn “ngôi cao, lộc lớn” đã hèn nhát cúi đầu theo giặc, treo một tấm gương nhơ bẩn trong lịch sử, muôn đời bị nhân dân nguyền rủa.
Chính vì thế, khi cháu Phương Uyên vì lòng yêu nước, ghét kẻ thù xâm lược, không chịu “hiền lành, ngoan ngoãn” như bản tính vốn có của cháu, mà dám dấn thân vào chuyện “mạo hiểm”, thì những người làm cha chú như chúng ta, trong đó có Chủ tịch Nước, cần phải ứng xử như thế nào với cháu, người cùng trang lứa với Võ Thị Sáu, Quách Thị Trang trước đây? Phải chăng cháu Phương Uyên đã thực hiện mơ ước mà nhiều người trong số chúng tôi, khi đứng trên bục giảng, đã từng giải thích cho sinh viên “Nếu tôi không cháy lên, Nếu anh không cháy lên, Nếu chúng ta không cháy lên, Thì làm sao / Bóng tối / Có thể trở thành / Ánh sáng?”.
Hành động của Phương Uyên biểu tỏ khí phách của tuổi trẻ, cho dù có bị quy kết thế nào, thì trước hết cũng phải thấy rằng cô đã biểu thị một phẩm chất đáng quý, có tác dụng cổ vũ, động viên thanh niên biết sống vì mục đích cao đẹp, yêu nước chống xâm lược, sao lại bắt giam và hành hạ cháu? Cũng như vậy, với những thanh niên yêu nước khác đang bị bắt giam và kết án rất nặng, và mới đây thôi, người viết các bài hát nói lên nỗi phẫn nộ trước việc Trung Quốc gây hấn tại Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông đã bị quy tội là chống nhà nước để xử tù người nhạc sĩ yêu nước Việt Khang, thì như vậy có phải là đã làm xấu gương mặt của đất nước trước thế giới không?
Chẳng phải Chủ tịch Nước, trong các cuộc tiếp xúc cử tri vừa rồi cũng đã nói đến những bức xúc của dân về vấn đề Biển Đông và nhấn mạnh rằng “chủ quyền đất nước là thiêng liêng, chúng tôi không bao giờ lơi lỏng vấn đề này”, đó sao? Khi cháu Phương Uyên cũng như nhiều thanh niên cùng trang lứa với cháu thực hiện ý nguyện đó bằng hành vi cụ thể của mình chứ không bằng những lời nói suông, thì chúng ta phải động viên, khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho họ hành động, nếu cần thì đối thoại với họ chứ sao lại dung dưỡng cho sự trấn áp thô bạo nhằm khủng bố và triệt tiêu những tư tưởng và hành vi yêu nước của tuổi trẻ?
Chẳng lẽ bao nhiêu xương máu của nhiều thế hệ Việt Nam đổ ra để rồi đất nước sẽ lại phải chứng kiến những sự kiện Quách Thị Trang, Trần Văn Ơn mới với những hành vi trấn áp bạo tàn mới theo kiểu phát xít hóa đời sống xã hội?
Kính thưa Chủ tịch Nước,
Bức xúc trước thời cuộc, trong chúng tôi đã có những người ký tên vào Thư Ngỏ ngày 6.8.2012, trong đó đã nói rõ: “Nhân dân đang đòi hỏi khẩn trương xây dựng luật bảo đảm thực hiện quyền biểu tình của công dân đã ghi trong Hiến pháp. Chúng tôi cho rằng chính quyền nước ta cùng với ý thức làm chủ của nhân dân ta hoàn toàn có đủ khả năng bảo đảm các cuộc biểu tình phản đối hành động xâm lược, bành trướng của Trung Quốc diễn ra ôn hòa, trật tự, đúng mục đích. Điều có thể làm ngay để biểu thị quyết tâm cải cách chính trị hợp lòng dân là chấm dứt các hành động trấn áp, quy kết tùy tiện đối với người dân biểu tình yêu nước; trả tự do cho những người bị giam giữ vì bất đồng chính kiến, chỉ công khai bày tỏ quan điểm chính trị của mình mà đã và đang bị kết án hình sự”. Cũng trên tinh thần đó, một số trong chúng tôi đã ký vào Đề nghị ngày 27.7.2012 của 42 nhân sĩ trí thức gửi đến Thường trực Hội đồng Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Thường trực Thành ủy Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị có chủ trương tổ chức biểu tình để biểu thị tình cảm, ý chí của người dân thành phố trước hành động gây hấn mưu toan độc chiếm Biển Đông của thế lực hiếu chiến trong giới cầm quyền Bắc Kinh. Thế nhưng, cho đến nay, ngoài việc một vị Phó Chủ tịch UBNDTPHCM tiếp ba trong số 42 nhân sĩ, trí thức ký tên vào văn bản đề nghị nói trên với những lời giải thích loanh quanh không cho thấy một hướng giải quyết nào, thì hiện chưa có thêm bất cứ hồi âm cụ thể nào.
Chúng tôi nhắc lại ý kiến này nhằm biểu tỏ ý chí của chúng tôi trước họa xâm lược, đòi hỏi cần phải có hành động mạnh mẽ để nhà cầm quyền Trung Quốc hiểu rằng, bất cứ mưu ma chước quỷ quen thuộc hay nham hiểm mới mẻ nào cũng không thể lừa bịp được nhân dân Việt Nam, trong đó có giới trí thức và tuổi trẻ Việt Nam. Chúng tôi biểu tỏ quyết tâm sát cánh với tuổi trẻ yêu nước với bản lĩnh kiên cường không nao núng trước cường quyền và bạo lực của con cháu chúng ta, mà cháu Phương Uyên là một ví dụ, nhằm động viên cổ vũ họ rèn luyện và phấn đấu để xứng đáng với cha anh đã kiên cường, quật khởi trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Chính vì thế, chúng tôi nhắc lại một lần nữa những điều đã nêu trong các Thư ngỏ ngày 6.8.2012 và Đề nghị ngày 27.7.2012: “chấm dứt các hành động trấn áp, quy kết tùy tiện đối với người dân biểu tình yêu nước”, đặc biệt là chấm dứt hành động đàn áp, khủng bố những thanh niên yêu nước đã dám dấn thân vào các hành động cứu nước một cách cụ thể, trong sáng và mạnh mẽ.
Trước mắt, chúng tôi đề nghị Chủ tịch Nước đòi cơ quan có trách nhiệm phải công khai giải thích về việc bắt giam cháu Nguyễn Phương Uyên một cách tùy tiện, trái pháp luật. Cũng đã từng có những vụ bắt bớ không theo đúng quy định của pháp luật mà vụ này là thô bạo và trắng trợn nhất, gây phẫn nộ trong công luận trên cả nước và thế giới. Vì vậy, chúng tôi đề nghị Chủ tịch có chỉ thị cụ thể cho việc xử lý có tình, có lý đối với hành vi yêu nước của một cô gái 20 tuổi đã dám biểu tỏ bằng hành động cụ thể tinh thần dân tộc và lòng căm thù quân xâm lược cho dù hành động đó có bị quy kết vào bất cứ tội trạng nào.
Thực hiện điều đó chính là một biểu hiện cụ thể khiến cho bất cứ người dân nào, đặc biệt là đối với con cháu chúng ta đang ngồi trên ghế nhà trường đều hiểu được rằng: đoàn kết, hòa hợp dân tộc, đặt Tổ quốc lên trên hết là đòi hỏi sống còn của đất nước ta trong bối cảnh mới của thế giới với những biến động khó lường trong khi họa ngoại xâm lại đang rình rập đất nước ta từng phút, từng giờ.
Vì những lý do đã trình bày ở trên, chúng tôi đề nghị Chủ tịch Nước, với trọng trách của mình, chỉ thị cho các cơ quan có trách nhiệm trả tự do ngay cho cháu Nguyễn Phương Uyên để cháu nhanh chóng trở lại nhà trường, tiếp tục nhiệm vụ học tập như mong muốn của các bạn cháu trong thư gửi Chủ tịch Nướcđể cháu “tiếp tục đi tới với tư thế vững vàng, khí phách hiên ngang vốn là truyền thống dân tộc, góp phần làm cho đất nước ta phát triển và trường tồn mãi mãi” mà Chủ tịch đã phát biểu.
Chúng tôi cũng đề nghị Chủ tịch xem xét, rà soát lại những bản án đã xử rất nặng những người yêu nước biểu tỏ sự bất đồng chính kiến bằng tư tưởng mà không có hành vi bạo động nào nguy hại đến lợi ích quốc gia như người ta đã quy kết. Những bản án đó chính là sự phá hoại uy tín của Nhà nước, bôi xấu hình ảnh của Việt Nam trước thế giới hơn bất cứ hành động phá hoại nào mà công an đang ra sức truy lùng và đàn áp.
Chúng tôi nghĩ, bạo lực và trấn áp không thể nào là phương thuốc chữa trị những yếu kém của tình hình đất nước hiện nay thay vì thực hiện một cách trung thực lời dạy của Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa của thế giới, nhà chính trị lỗi lạc bậc nhất của nước ta: “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”.
Càng quay cuồng với bạo lực và trấn áp càng bộc lộ tính phi nhân nghĩa và không thể nào an dân khi mà lòng dân đang hết sức bất an trước họa xâm lăng, trước bầy sâu tham nhũng đang nhung nhúc đục khoét cơ thể đất nước, khi một “bộ phận không nhỏ những người cầm quyền đang thoái hóa biến chất” chưa bị xử lý để lấy lại lòng tin của dân. Đã đến lúc phải nhìn thẳng vào sự thật và nói lên sự thật đau xót đó để có những quyết sách an dân khi lòng dân đang phẫn nộ, đặc biệt là thế hệ trẻ, chứ không thể bằng biện pháp “phát xít hóa” đã từng là giải pháp bế tắc mà lịch sử đã cho thấy đó là cách giải khát bằng thuốc độc!
Kính gửi đến Chủ tịch lời chào trân trọng và kính chúc Chủ tịch dồi dào sức khỏe để tiếp tục những điều mà Chủ tịch đã bộc bạch và hứa hẹn với cử tri trong những cuộc tiếp xúc vừa qua.
Sao kính gửi:
Văn phòng Thủ tướng Chính phủ
Văn phòng Chủ tịch Quốc hội
Văn phòng Trung ương Đảng
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI CÙNG KÝ TÊN:
1.
Hoàng Tụy
GS TS, nguyên Chủ tịch Hội đồng Viện IDS
Hà Nội
2.
Ngô Bảo Châu
GS TS, Đại học Chicago, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cao cấp về Toán của Việt Nam (VIASM)
Hoa Kỳ
3.
Ngô Huy Cẩn
GS TSKH, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Hà Nội
4.
Trần Lưu Vân Hiền
PGS TS
Hà Nội
5.
Trần Việt Phương
Nguyên thành viên Viện IDS
Hà Nội
6.
Trần Đức Nguyên
Nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội, nguyên Trưởng Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ
Hà Nội
7.
Phaolô Nguyễn Thái Hợp
Giám mục Giáo phận Vinh
Nghệ An
8.
Nguyễn Đình Đầu
Nhà nghiên cứu
TP HCM
9.
Bùi Ngọc Tấn
Nhà văn
Hải Phòng
10.
Hồ Ngọc Nhuận
Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc chính trị nhật báo Tin Sáng
TP HCM
11.
Huỳnh Tấn Mẫm
Bác sĩ, Đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975
TP HCM
12.
Lê Hiếu Đằng
Nguyên Phó Tổng thư ký UBTƯ Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch UB MTTQ Việt Nam TP HCM, đại biểu HĐND TP. HCM khóa IV, V
TP HCM
13.
Lê Công Giàu
Nguyên Phó Bí thư thường trực Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Phó Giám đốc Tổng Công ty Du lịch Thành phố (Saigontourist)
TP HCM
14.
Nguyễn Quang A
TS, nguyên Viện trưởng Viện IDS
Hà Nội
15.
Phùng Liên Đoàn
TS, chuyên viên an toàn điện hạt nhân, Oak Ridge, Tennessee
Hoa Kỳ
16.
Nguyễn Huệ Chi
Nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học, Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam
Hà Nội
17.
Phạm Toàn
Nhà giáo
Hà Nội
18.
Nguyễn Thế Hùng
GT TS, Đại học Bách khoa, Đà Nẵng, Phó Tổng thư ký Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam
Đà Nẵng
19.
Trần Văn Thọ
GS TS, Đại học Waseda, Tokyo
Nhật Bản
20.
Trần Quốc Thuận
Luật sư, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
TP HCM
21.
Nguyên Ngọc
Nhà văn, nguyên thành viên Viện IDS
Hà Nội
22.
Nguyễn Trung
Nguyên thành viên Viện IDS, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan
Hà Nội
23.
Tương Lai
Nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Viện IDS, nguyên thành viên Tổ Tư vấn và Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ
TP HCM
24.
Chu Hảo
Nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, nguyên thành viên Viện IDS, Giám đốc Nhà xuất bản Tri Thức
Hà Nội
25.
Lê Đăng Doanh
TS, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương
Hà Nội
26.
Phạm Duy Hiển
GS TS, nguyên Viện trưởng Viện Nguyên tử Đà Lạt, nguyên thành viên Viện IDS
Hà Nội
27.
Hoàng Dũng
PGS TS, Đại học Sư phạm TP HCM
TP HCM
28.
Tống Văn Công
Nguyên Tổng Biên tập báo Lao Động
TP HCM
29.
Đào Hùng
Phó Tổng biên tập Tạp chí Xưa & Nay, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam
Hà Nội
30.
Huỳnh Công Minh
Linh mục
TP HCM
31.
Huỳnh Kim Báu
Nguyên Tổng Thư ký Hội Trí thức Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh)
TP HCM
32.
Phạm Xuân Phương
Đại tá, Cựu chiến binh
Hà Nội
33.
Nguyễn Thị Ngọc Toản
Đại tá, Giáo sư bác sĩ, nguyên Chủ nhiệm Khoa Sản, Quân y Viện 108
Hà Nội
34.
Tô Văn Trường
TS, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch Thuỷ lợi miền Nam
TP HCM
35.
Nguyễn Xuân Diện
TS, Viện Hán Nôm
Hà Nội
36.
Kha Lương Ngãi
Nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng
TP HCM
37.
Trần Văn Long
Nguyên Phó Bí thư Thành Đoàn TP HCM, nguyên Phó giám đốc Công ty Du lịch TP HCM (Saigontourist)
TP HCM
38.
Trịnh Đình Ban
Luật sư, nguyên Phó Chủ tịch Hội Luật gia TP.HCM
TP HCM
39.
Hồ Ngọc Cứ
Luật gia, nguyên Phó Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về dân chủ và pháp luật thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
TP HCM
40.
Hạ Đình Nguyên
Nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành động thuộc Tổng Hội Sinh viên Học sinh trước 1975
TP HCM
41.
Cao Lập
Cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới
TP HCM
42.
Tạ Duy Anh
Nhà văn
Hà Nội
43.
Hoàng Hưng
Nhà thơ
TP HCM
44.
Thanh Thảo
Nhà thơ, Phó Chủ tịch Hội đồng Thơ, Hội Nhà văn Việt Nam
Quảng Ngãi
45.
Lưu Trọng Văn
Nhà báo
TP HCM
46.
Lê Hiền Đức
Giải thưởng Liêm chính năm 2007 của Tổ chức Minh bạch Quốc tế
Hà Nội
47.
Trần Thanh Vân
Kiến trúc sư
Hà Nội
48.
Trần Thị Băng Thanh
PGS TS, nguyên cán bộ Viện Văn học
Hà Nội
49.
Phạm Khiêm Ích
GS TS, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Thông Tin thuộc UBKHXHVN trước đây
Hà Nội
50.
Lê Văn Tâm
Cựu Chủ tịch “Tổ chức người Việt tại Nhật Bản đấu tranh cho Hòa bình và Thống Nhất đất nước”, nguyên Chủ tịch Tổng hội Người Việt Nam tại Nhật Bản
Nhật Bản
51.
Đặng Đình Cung
ME, DS, DBA
Pháp
52.
Vo Van Giap
Kỹ sư, Toronto, Ontario
Canada
53.
Khương Quang Đính
Chuyên gia công nghệ thông tin, Paris
Pháp
54.
Đoàn Viết Hiệp
Pháp
55.
Trần Minh Khôi
Kỹ sư điện toán, Berlin
Đức
56.
Hà Sĩ Phu
TS
Đà Lạt
57.
Nguyễn Thanh Giang
TS
Hà Nội
58.
Nguyễn Đăng Hưng
GS TS, Giáo sư Danh dự Thực thụ Đại Học Liège, Bỉ
TP HCM
59.
Vũ Quang Việt
Nguyên chuyên viên cấp cao về thống kê kinh tế của Liên Hiệp Quốc
Hoa Kỳ
60.
Trần Hải Hạc
Nguyên PGS Đại học Paris 13
Pháp
61.
Lê Phú Khải
Nguyên phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam
TP HCM
62.
Nguyễn Quốc Thái
Nhà báo
TP HCM
63.
Huỳnh Ngọc Chênh
Nhà báo
TP HCM
64.
Phạm Đình Trọng
Nhà văn
TP HCM
65.
Tô Lê Sơn
Kỹ sư
TP HCM
66.
Nguyễn Lê Thu Mỹ
Nguyên chiến sĩ biệt động, quân báo khu Sài Gòn – Gia Định, cựu tù Côn Đảo
TP HCM
67.
Lê Thân
Cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Tổng thư ký Lực lượng nhân dân tranh thủ dân chủ Đà Lạt
Nha Trang
68.
Tuấn Khanh
Nhạc sĩ
TP HCM
69.
Vũ Hồng Ánh
Nghệ sĩ cello
TP HCM
70.
Phạm Xuân Yêm
Nguyên Giám đốc nghiên cứu thuộc Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học, làm việc tại Đại học Pierre & Marie Curie, Paris
Pháp
71.
Nguyễn Trường Tiến
GS TS, Chủ tịch Hội Cơ học Địa chất Việt Nam
Hà Nội
72.
Tran Van Binh
TS, Kỹ sư, Maintal / Frankfurt
Đức
73.
Ton That Hung
Kỹ sư Lâm nghiệp
Hoa Kỳ
74.
Trần Văn Cung
Kỹ sư luyện kim, Sulzbach-Rosenberg
Đức
75.
Trần Thu Thủy
Nội trợ, Sulzbach-Rosenberg
Đức
76.
Nguyễn Đức Hiệp
Chuyên gia khoa học khí quyển, Office of Environment & Heritage, NSW
Australia
77.
Tiêu Dao Bảo Cự
Nhà văn tự do
Đà Lạt
78.
Bùi Minh Quốc
Nhà thơ, nguyên Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lâm Đồng
Đà Lạt
79.
Trần Minh Thảo
Viết văn
Lâm Đồng
80.
Hà Dương Tường
Nguyên Giáo sư Đại học Compiègne
Pháp
81.
Ly Hoàng Ly
MFA Candidate 2013, Art in Studio - Sculpture Department School of the Art Institute of Chicago
Hoa Kỳ
82.
Hoàng Ngọc Biên
Nguyên Giáo sư thỉnh giảng, Phân khoa Giáo dục, Đại học Bách khoa Sài Gòn (73-75)
Hoa Kỳ
83.
Nguyễn Thế Quang
Nhà giáo, San Jose
Hoa Kỳ
84.
Phan Quốc Tuyên
Kỹ sư tin học, Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU), Geneva
Thụy Sĩ
85.
Hà Thúc Huy
PGS TS, Đại học Khoa học Tự nhiên TP HCM
TP HCM
86.
Nguyễn Viện
Nhà văn
TP HCM
87.
Nguyễn Hòa
Trang mạng Văn chương Việt
TP HCM
88.
Vũ Thế Khôi
Nhà giáo ưu tú
Hà Nội
89.
Vũ Thế Cường
TS, Kỹ sư Cơ khí, Munich
Đức
90.
Lê Mạnh Đức
Kỹ sư
TP HCM
91.
Đặng Thị Hảo
TS, nguyên cán bộ Viện Văn học
Hà Nội
92.
Nguyễn Tiến Dũng
TS, nguyên giảng viên Đại học Kỹ thuật Quân sự. Hiện là Ủy viên BCH Hội Tự động hóa Việt Nam
Hà Nội
93.
Nguyễn Hồng Khoái
Chuyên viên Tư vấn Tài chính, Hội viên CLB Kế toán trưởng toàn quốc, Hội viên hội Tư vấn Thuế Việt Nam
Hà Nội
94.
Nguyễn Thị Khánh Trâm
Nghiên cứu viên Viện VHNT Việt Nam – Phân viện TP HCM
TP HCM
95.
Nguyễn Đức Tường
GS TS, nguyên Giáo sư Đại học Ottawa, Canada, Quebec
Canada
96.
Đào Xuân Dũng
Bác sĩ
Hà Nội
97.
Triệu Xuân
Nhà văn
TP HCM
98.
Vũ Trọng Khải
PGS TS, Chuyên gia kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn
TP HCM
99.
Xà Quế Châu
Đầu bếp
TP HCM
100.
Song Chi
Đạo diễn
Đan Mạch
101.
Nguyễn Đăng Nghĩa
TS, nguyên Đại biểu HĐNDTP/HCM Khóa VII, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu đất, Phân bón và Môi trường phía Nam
TP HCM
102.
Nguyễn Thiện Công
Kỹ sư Cơ khí
Đức
103.
Nguyễn Lân Thắng
Hà Nội
104.
Lê Dũng
Hà Nội
105.
Nguyễn Chí Tuyến
Hà Nội
106.
Nguyễn Hồng Kiên
Hà Nội
107.
Lê Gia Khánh
Hà Nội
108.
Ngô Quỳnh
Hà Nội
109.
Phan Văn Phong
Hà Nội
110.
Lê Hồng Phong
Hà Nội
111.
Trương Minh Tam
Ninh Bình
112.
Nguyễn Hữu Khiêm
Bắc Ninh
113.
Bùi Tiến Hưng
Hà Nội
114.
Nguyễn Thế Anh
Hà Nội
115.
Hoàng Anh
Hà Nội
116.
Vũ Quốc Ngữ
Hà Nội
117.
Nguyễn Tường Thụy
Hà Nội
118.
Lê Hùng
Hà Nội
119.
Lê Anh Hùng
Hà Nội
120.
Từ Anh Tú
Bắc Giang
121.
Nguyễn Chí Đức
Hà Nội
122.
Ngô Thùy Trang
Hà Nội
123.
Đinh Trần Nhật Minh
Hà Nội
124.
Lê Thị Hồng Hạnh
Hà Nội
125.
Ngô Nhật Đăng
Hà Nội
126.
Vũ Triệu Bảo Ngọc
Hà Nội
127.
Bùi Thị Huệ
Hưng Yên
128.
Hà Thị Vân
Bắc Ninh
129.
Phạm Thanh Nghiên
Hải Phòng
130.
Hoàng Thị Hà
Hà Nội
131.
Bùi Thanh Hiếu
Hà Nội
132.
Bùi Việt Hà
Công ty Công nghệ Tin học Nhà trường
Hà Nội
133.
Nguyễn Mậu Cường
Nguyên giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội (từ 1966 đến 1995), PGS Đại học Agostinho – Luanda
Angola
134.
Nguyễn Văn Tạc
Nhà giáo, đã nghỉ hưu
Hà Nội
135.
Đặng Thị Hải Ninh
Hưng Yên
136.
Nguyễn Hữu Tùng
Hà Nội
137.
Nguyễn Thị Thanh Tâm
Hà Nội
138.
Nguyễn Thúy Hà
Hà Nội
139.
Phạm Vương Anh
Cựu sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, Kỹ sư kinh tế, đã nghỉ hưu
Nghệ An
140.
Hà Văn Thùy
Nhà văn
TP HCM
141.
Lê Mạnh Chiến
Hưu trí
Hà Nội
142.
Hà Dương Tuấn
Cố vấn công nghệ thông tin
Pháp
143.
Vũ Cao Đàm
PGS TS, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách Khoa học và công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ
Hà Nội
144.
André Menras – Hồ Cương Quyết
Chủ tịch Hiệp hội trao đổi sư phạm Pháp – Việt (ADEP)
Pháp








Huyết thư
Chiều 16.5, hệ thống báo chí của nhà nước đã thông tin kết quả phiên tòa xử cô sinh viên Nguyễn Phương Uyên 6 năm tù với cáo buộc tội “tuyên truyền chống nhà nước”, trong đó có việc lấy máu viết lên vải “nội dung không hay về Trung Quốc”. Xem kỹ tang chứng vật chứng ghi cái nội dung không hay đó thì thấy cô gái đề dòng chữ “Tàu khựa cút khỏi biển Đông“.
Huyết thư
Thơ Nguyễn Thông
Xưa chích máu viết thư ra trận
Được tôn vinh cao cả anh hùng
Nay lấy máu đuổi quân Tàu cộng
Cửa nhà tù ưu ái ghi công.
16.5.2013








Suốt phiên tòa, Uyên & Kha đều ngẩng cao đầu.
Tòa án Nhân dân tỉnh Long An tuyên án 6 năm tù đối với Nguyễn Phương Uyên, sinh viên Đại học Công Nghệ Thực phẩm TPHCM, và 8 năm tù đối với Đinh Nguyên Kha, sinh viên Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An.
Hai nhà hoạt động trẻ bị tuyên án tổng cộng 14 năm tù về tội “tuyên truyền chống nhà nước” vì rải truyền đơn kêu gọi tự do-dân chủ, phản đối độc tài, và chống Trung Quốc xâm lược Biển Đông.
Tòa án Nhân dân tỉnh Long An ngày 16/5 kêu án 6 năm tù đối với Nguyễn Phương Uyên, sinh viên Đại học Công Nghệ Thực phẩm TPHCM, và 8 năm tù đối với Đinh Nguyên Kha, sinh viên Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An.
Uyên và Kha bị cáo buộc tội xuyên tạc chính sách của đảng và nhà nước về vấn đề tôn giáo, đất đai, biên giới-chủ quyền, và kích động dân chúng chống lại đảng và nhà nước.
Sau phiên xử, bà Nguyễn Thị Nhung, mẹ của Phương Uyên thuật lại với VOA Việt ngữ diễn tiến phiên tòa:
Bà Nhung: Thành phần tham dự phiên tòa hôm nay hoàn toàn là lực lượng an ninh mặc thường phục. Những người an ninh này tôi đã từng gặp mặt họ. Phía Nguyễn Phương Uyên, bố mẹ không hề nhận được giấy báo về phiên xử. Khi đến tòa, chỉ có mẹ và cậu của Uyên được vào bên trong. Bố và em trai Uyên phải ngồi ngoài cổng tòa. Hết sức phẫn uất. Phẫn uất đến độ không thể chịu đựng được. Bố của bị can tranh đấu với họ xin vào, họ bảo hết chỗ ngồi, xin vào đứng nghe, họ vẫn không cho vào. Tôi hỏi họ: “Đây là phiên tòa công khai mà bố đẻ không được vào dự thì công khai như thế nào?” Họ không trả lời được. Ở phiên tòa, họ gán ghép cho Uyên và Kha trong tổ chức Tuổi trẻ Yêu nước, chống chính quyền, kêu gọi đứng lên lật đổ chính quyền. Hai đứa trẻ “trói gà chưa chặt” mà bị nói là “lật đổ chính quyền”.
VOA: Tại tòa cô Uyên đã phát biểu thế nào?

Uyên nói: “Tôi dùng máu viết khẩu hiệu ‘Tàu khựa cút khỏi Biển Đông’ và ‘Đảng cộng sản chết đi’, khẩu hiệu bị cho là ‘phỉ báng đảng cộng sản Việt Nam’
Bà Nhung: Uyên phát biểu rất mạnh mẽ và cứng rắn. Điển hình như Uyên nói: “Tôi dùng máu viết khẩu hiệu ‘Tàu khựa cút khỏi Biển Đông’ và ‘Đảng cộng sản chết đi’, khẩu hiệu bị cho là ‘phỉ báng đảng cộng sản Việt Nam’, là vì tôi thể hiện lòng yêu nước khi tôi căm phẫn Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam đến tột cùng sự phẫn uất.” Khi cháu Uyên nói đến đây, quan tòa ngăn lại, không cho nói nữa. Tíêp đó, Uyên có nói về bức biếm họa Uyên vẽ đoàn người đứng trước một công an cầm dùi cui chỉ về hướng dân, phía trên ghi dòng chữ “Tự do-dân chủ”. Uyên nói tôi vẽ bức tranh này trong 15 phút để thể hiện thực tế người dân thấp cổ bé miệng khi nói ra thì bị đàn áp. Trước tòa, Uyên phát biểu mạnh mẽ, phản bác các công tố viên. Lời cuối cùng Uyên nói: “Việc tôi làm, tôi chịu, yêu cầu không gây khó khăn cho gia đình tôi. Tôi là một sinh viên, là đại diện cho tầng lớp trí thức, sức mạnh của đất nước, tôi mong muốn phiên tòa hôm nay xét xử công bằng để tôi sớm được trở về với cộng đồng, tiếp tục cống hiến cho đất nước và thể hiện lòng yêu nước.” Uyên chỉ nói vậy thôi chứ không xin xỏ gì hết.
VOA: Uyên không có thái độ ‘nhận tội xin khoan hồng’?
Bà Nhung: Hoàn toàn không có điều đó. Suốt phiên tòa, Uyên ngẩng cao đầu.
VOA: Trước đây truyền hình trong nước đăng tải những đoạn video chiếu cảnh Uyên ‘nhận tội xin khoan hồng’. Điều này hoàn toàn khác với những gì diễn ra tại tòa hôm nay?
Bà Nhung: Hôm nay tại tòa Uyên có nói Uyên bị giam giữ ở công an phường Tây Thạnh 2 hôm. Khi bắt, họ không đưa ra một chứng từ pháp lý nào, hoàn tòan vi phạm luật pháp. Sau đó, Uyên bị họ ép vào trong khách sạn, giữ trong khách sạn 5 ngày. Uyên xin gọi điện về cho gia đình họ cũng không cho. Họ bắt Uyên phải viết giấy hợp tác. Uyên nói rõ là lúc đó đang trong giai đoạn học thi, khi bị ép vào khách sạn buộc viết giấy thì Uyên viết vì họ hứa sẽ cho về thi. Uyên nói: “Trong lúc đó tôi rất hoảng hốt, sợ bỏ thi, cho nên họ bắt viết giấy, tôi viết.” Uyên nói trong giai đoạn đó bị ép buộc, họ bắt làm gì, viết gì, Uyên đành chấp nhận để được trở về thi theo lời hứa của họ.
VOA: Sau những gì diễn ra tại phiên tòa hôm nay, suy nghĩ của gia đình và ý định sắp tới của gia đình như thế nào?
Bà Nhung: Thật sự gia đình rất sốc với bản án, nhưng ngược lại được bù đắp bởi sự mạnh mẽ của Uyên. Uyên cứng rắn hơn mức tưởng tượng của gia đình. Cháu đã nói lên tất cả những uẩn khúc trong vụ án và thể hiện lòng yêu nước. Phiên tòa hôm nay, bản án hôm nay rõ ràng là bản án dành cho người yêu nước. Trước tòa, Uyên nói dõng dạc: “Tôi yêu nước, tôi thể hiện lòng yêu nước. Tôi không ngờ tôi bị bỏ tù vì thể hiện lòng yêu nước.” Gia đình rất lấy làm vinh dự, vinh hạnh về những việc con mình đã làm. Nhưng sự mất mát của Uyên rất lớn, gia đình rất là sốc. Gia đình và Uyên có hướng kháng cáo lên tới phúc thẩm và giám đốc thẩm.
VOA: Xin được hỏi thăm về Đinh Nguyên Kha…
Bà Nhung: Tại tòa, Kha cũng không ‘nhận tội hay xin khoan hồng’. Kha cũng nói chỉ thể hiện lòng yêu nước, không ngờ bị bỏ tù. Kha rất vững vàng, ngẩng cao đầu thể hiện là một công dân yêu nước. Kha nói mong mức án được giảm nhẹ, nhưng thực chất họ đã ra đòn rất mạnh.
Đại diện pháp lý của Uyên, luật sư Nguyễn Thanh Lương, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư Bến Tre, xác nhận là tại phiên xử Uyên và Kha thừa nhận hành vi của mình, nhưng không nhìn nhận vi phạm điều 88. Cả hai đều khẳng định không có mục đích chống nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Luật sư Lương nói sự khác biệt giữa bản án 6 năm và 8 năm của Uyên và Kha là do Kha có vai trò chủ động nhiều hơn. Tuy nhiên, luật sư Lương cho rằng điểm đáng chú ý ở hai bản án này chính là hành vi “phỉ báng đảng cộng sản”, như cáo buộc đối với Uyên và Kha, bị truy tố theo điều 88 “tuyên truyền chống nhà nước” là không thỏa đáng, không thể chấp nhận.

Đinh Nguyên Kha: “Tôi trước sau vẫn là một người yêu nước, yêu Dân Tộc tôi. Tôi không hề chống Dân Tộc tôi, tôi chỉ chống đảng cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là tội“.
Luật sư Nguyễn Thanh Lương: “Các luật sư tại tòa đều đồng cho rằng ‘phỉ báng đảng cộng sản’ không áp dụng theo điều 88. Điều 88 “Tuyên truyền chống nhà nước” là điều luật bảo vệ an ninh quốc gia. Đảng cộng sản và chính quyền nhà nước CHXHCN Việt Nam là hai vấn đề khác nhau mà trong thực tế xã hội Việt Nam gần 40 năm nay, người ta nhầm lẫn hay sùng bái. Nhưng về tính khoa học pháp lý, tôi cho rằng đây là hai vấn đề khác nhau. Cho nên xâm phạm quyền lợi của một tổ chức thì nên áp dụng tội danh khác nhẹ hơn. Còn ở đây họ áp dụng điều 88 về an ninh quốc gia rất là nặng nề.”
Vẫn theo luật sư Lương, những gút mắc trong vụ án được các luật sư trình bày tại tòa hôm nay, bao gồm đề nghị của luật sư đòi rút truy tố các hành vi chống Trung Quốc của Uyên và Kha, vẫn không làm thay đổi mức án của tòa.
Luật sư Lương: “Họ xác nhận không truy tố hành vi chống Trung Quốc. Nhưng đó chỉ là về hình thức. Về thực chất, về mức lượng hình phạt thì không có gì thay đổi. Sau khi Viện kiểm sát thừa nhận sẽ rút không truy tố hành vi, khẩu hiệu chống Trung Quốc (của bị can), mức lượng hình cũng không thay đổi. Thực chất của vụ án, các em vẫn bị mức án nặng nề.”
Bản án dành cho Uyên và Kha ngay lập tức bị giới bảo vệ nhân quyền quốc tế chỉ trích là vi phạm quyền con người giữa lúc thành tích nhân quyền của Hà Nội đang bị thế giới lên án gay gắt.
Ông Phil Robertson, Phó giám đốc phụ trách khu vực Châu Á thuộc Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch, nói với VOA Việt ngữ:
“Bản án này thật sự gây căm phẫn và chúng tôi sẽ tiếp tục nêu các bản án này ra trước công luận quốc tế càng nhiều càng tốt. Bản án này cho thấy sự phá sản của thành tích nhân quyền Hà Nội. Trong khi nhà cầm quyền Việt Nam nói họ hành xử theo luật pháp và tôn trọng nhân quyền thì các bản án này chứng tỏ họ chỉ hành xử theo quyền lợi của đảng cộng sản cầm quyền, bất chấp quyền căn bản của con người bị chà đạp.”
Theo thống kê của Human Rights Watch, tính đến thời điểm này năm nay, có ít nhất 36 người bị kết án vì “hoạt động chống nhà nước” theo các điều khoản của Bộ Luật Hình Việt Nam mà giới bảo vệ nhân quyền cho rằng có nội dung bao quát, mơ hồ.








Nước đổ ra rồi -2
Hôm qua tôi có viết về chuyện sunk cost ở dự án khai thác Bauxite Nhân Cơ dưới hình ảnh “nước đổ ra rồi” cho dễ hình dung ( xem Nước đổ ra rồi -1 tại đây). Hôm nay đại diện chủ đầu tư là Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã họp báo với những phát biểu rất điển hình cho một tình huống sunk cost fallacy: “Chúng tôi không dám dừng vì thiệt hại sẽ rất lớn”; “Số tiền mà chúng tôi đã bỏ ra là rất lớn”; “Những thiệt hại mà chúng tôi sẽ phải gánh vác xử lý, khó khăn còn nhiều hơn là tiếp tục dự án”.
Thiệt đáng tiếc cái tâm lý “nước đổ ra rồi” người ngoài dễ thấy còn người trong cuộc với nhiều ràng buộc thì khó nhận ra.
Theo tôi tốt nhất là thuyết phục cho Nhà nước thấy nếu tiếp tục thì càng mất thêm tiền, mới hy vọng sẽ có một quyết định can đảm dừng dự án Nhân Cơ.
Thuyết phục như thế cũng dễ nếu chịu lắng nghe: 1. Tổng mức đầu tư tăng 37,80% thì mọi thông số cũ xem như bỏ, làm lại từ đầu. Nếu cứ cho là khi tổng mức đầu tư chưa tăng thì dự án có lãi chút ít, nay tăng đến gần 40% thì chắc chắn sẽ lỗ.
2. Khi Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng báo cáo với Quốc hội thì IRR của Nhân Cơ là 10,6% nay chỉ còn 7,62% thì lãi ở chỗ nào nữa. (Chúng ta không cần biết IRR là gì, chỉ cần nhớ nếu IRR này thấp hơn mức sinh lời mong muốn thì xem như dự án đổ sông đổ biển – ít nhất IRR cũng phải cao hơn mức lãi vay ngân hàng).

Tổng vốn mà TKV đã rót cho hai dự án bauxite tại Tây Nguyên hiện đã lên tới trên 18.000 tỷ đồng.
3. Cái con số IRR đó được 7,62% là do biến báo nhiều con số khác; ví dụ thuế xuất khẩu nay được miễn còn 0% (đào tài nguyên lên bán mà được miễn thuế thì làm để làm gì nhỉ?); vốn vay thì kê khống lên là vay được của nước ngoài lên trên 2/3 tổng mức đầu tư và lãi suất hạ thấp xuống từ 8% nay chỉ còn 5,45% (vay ở đâu thì không thấy nói). Tất cả những con số nói trên là lấy từ các con số chính thức của TKV. Nếu không biến báo như thế, IRR còn thấp hơn nữa.
Theo tôi bản thân TKV cũng muốn dừng dự án Nhân Cơ nhưng chưa tìm ra lý do chính đáng, lại sợ trách nhiệm nên bản thân họ khó có quyết định dừng. Chỉ có một nơi có thể ra lệnh dừng để giảm bớt thiệt hại: Đó là bên phía Đảng và dựa vào kết luận của Bộ Chính trị ngày 24-4-2009 trong Thông báo số 245- TB/TW ghi rõ: “Riêng Dự án Nhân Cơ, cần rà soát lại toàn bộ các vấn đề có liên quan, nhất là việc đánh giá hiệu quả kinh tế và tác động môi trường, nếu thực sự có hiệu quả và bảo đảm yêu cầu về bảo vệ môi trường thì mới tiếp tục triển khai thực hiện”. Đó là lối thoát trong danh dự duy nhất.








Tuyệt vời tuổi trẻ Việt Nam!
Tôi thích nụ cười ngạo nghễ của Võ Thị Thắng, tôi cũng thích sự bình thản trong suốt của Phương Uyên, cả hai đều ở tuổi hai mươi.
Đinh Nguyên Kha 8 năm cộng 2 năm cho tội cố ý gây thương tích trong một vụ án khác chưa chấp hành hình phạt, Nguyễn Phương Uyên 6 năm. Cả hai cùng bị quản thúc thêm 3 năm sau khi mãn hạn tù.
Một bản án quá nặng nhưng không lạ, ở cái nơi “dân chủ vạn lần hơn” thường vẫn có những bản án như thế. Bản án chắc chắn không có răn đe được ai. Nó càng làm chất cao thêm niềm uất hận và càng chứng tỏ khẩu hiệu vì dân do dân thảm hại đến thế nào.
Theo Trương Duy Nhất ( tại đây) và nhiều nguồn tin khác, Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên đều không nhận tội và tự bào chữa đó là hành vi yêu nước. Tuyệt vời tuổi trẻ Việt Nam!








Đi theo Tàu là mất nước, mất đảng
Mấy hôm nay tôi vô cùng bức xúc với việc, ngày 13-5, 32 tàu cá Trung Quốc đã kéo đến vùng biển phía tây nam quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đoàn tàu “đánh cá” của bọn Đại Hán này hoàn toàn nằm trong thềm lục địa của Việt Nam. Ấy thế mà Việt Nam không một lời lên tiếng*. Nghĩa là Trung ương đã để mặc lãnh hải cho bọn Trung Quốc muốn làm gì thì làm. Uất quá, buộc phải lên tiếng.
Trong lịch sử Việt Nam, nước ta bị giặc Tàu đô hộ ngàn năm, nhưng từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn , không có triều đại nào đi theo Tàu, bán đất nước cho Tàu. Nhiều triều đại còn xưng “ĐẾ” ngang với Thiên Triều. Nam quốc sơn hà Nam đế cư/Tuyệt nhiên định phận tại Thiên Thư- “Đế”, con trời do Sách Trời định , ngang hàng với Đế Tàu, chứ không phải vua do Tàu phong…. Hay như Nguyễn Huệ tự xưng là Hoàng đế Quang Trung.
Bọn Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc ôm chân giặc Tàu để mong chúng giúp giành ngôi để làm tôi mọi cho Tàu, bị lịch sử lên án ngàn đời. Lịch sử Việt Nam thời cận đại có ba triều đại Lê Trịnh, Tây Sơn và Nguyễn, đối nghịch lăm le tiêu diệt lẫn nhau, gây cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn hàng thế kỷ, tuy nhiên có điều là cả ba cùng một ý nguyện tìm cách đòi lại phần đất bị mất bởi Trung Quốc, đòi lại 10 châu thuộc phủ An Tây, Hưng Hóa, là địa phận tỉnh Điện Biên, Lai Châu hiện nay . Ðại Nam Nhất Thống Chí xác nhận rằng 6 châu bị mất vào nhà Thanh gồm : Tung Lăng, Hoàng Nham, Hợp Phì, Lễ Tuyền, Tuy Phụ, Khiêm. Riêng 4 châu còn lại thì đời đầu Nguyễn thuộc phủ An Tây, đến thời Thiệu Trị trích lấy đất lập Châu Lai, tiền thân của tỉnh Lai Châu, năm Tự Ðức thứ 4 [1851] trích lấy châu Quỳnh Nhai và châu Luân cho lập phủ Ðiện Biên, tiền thân của tỉnh Ðiện Biên ngày nay. Đó mới là người Việt Nam
Đau đớn thay, từ giữa thế kỷ XX đến nay, nước ta dưới thời CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN, với khẩu hiệu “Bốn phương vô sản đều là anh em”, ngây thơ “đi theo” Trung Quốc đã bị mất đất, mất người nhiều lần. Chúng lấm chiếm biên giới lấy mất Mục Nam Quan, lấy mất 2/3 Thác Bản Dốc. Theo nhà báo Huy Đức trong tác phẩm ”Bên thắng cuộc”, thì Trung Quốc đã dừng mọi thủ đoạn để lấn chiếm 50.000 m2 Việt Nam dọc biên giới. Năm 1974, giặc Tàu chiếm Quần đảo Hoàng Sa, 1988, chúng đánh chiếm đảo Gạc Ma thuộc Trường Sa của Việt Nam. Các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam là đội quân thiện chiến vừa mới thắng Mỹ, nhưng “lệnh trên” để “giữ tình hữu nghị”, không được bắn trả, chỉ ôm lá cờ chịu chết , chịu mất đảo . Đau đớn thay. Việt Nam chiến tranh 20 năm, trên 5 triệu người cả hai miền Nam-Bắc bi chết, để thực hiện âm mưu “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” của Mao Trạch Đông. Hiện nay, sâu trong lãnh thổ Việt Nam, hàng ngàn lính Tàu gian manh đã đứng chân trên đất Tây Nguyên với kế hoạch khai thác boxite ký kết giữa Tổng Bí thư 2 đảng. Boxite là thứ rẻ độn, mua đâu cũng có hàng tỷ tấn, tại sao chúng đòi cho bằng được Tây Nguyên? Vì ai chiếm được Tây Nguyên thì kẻ đó chiếm được Đông Dương. Quân tàu cũng đang chiếm cứ 300.000 ha rừng đầu nguồn phía Bắc, do bọn quan tỉnh tham lam bán đất cho chúng. Nếu chiến tranh xẩy ra thì đất ấy là hậu cứ của Tàu.
Ở trên là nói về đất. Bây giờ xin nới về người. Ngoài việc hàng triệu người hy sinh trong “chiến tranh lạnh” để bảo vệ Trung Quốc và “phe XHCN”, 74 chiến sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng hòa hy sinh ở Hoàng Sa, 64 chiến sĩ Hải Quân Việt Nam hy sinh ở Gạc Ma, còn một kiểu “mất người” tàn bạo khác do đi theo Tàu. Đó là thảm họa Cải cách ruộng đất theo mô hình thổ địa cải cách của Mao Trạch Đông , cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tổ chức với tinh thần đấu tranh giai cấp triệt để với sự chỉ huy trực tiếp của cố vấn Trung Quốc với phương châm: “Trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ”. Kết quả từ 1953- 1956 đã phá nát hệ thống thiết chế văn hóa nông thôn Việt Nam, làm cho nông thôn tan nát. Theo thông kế chưa đầy đủ, cả nước , Đội CCRĐ đã bắt tù đày đọa 5% nông dân, nghĩa là gần 500.000 người bị bắt tù, bị đấu tố, nhục mạ. Đội CCRĐ đã giết 15 vạn địa chủ, thực ra là những người có tài kinh doanh, biết sử dụng ruộng đất hiệu quả, nên đời sống cao hơn người khác và cả những chí sĩ yêu nước bị ghép vào tội “Quốc dân đảng”, bị quy địa chủ bị bắt tù rồi chết oan trong tù như Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm ở Hà Tĩnh.
Sau CCRĐ là Cải tạo Công thương nghiệp tư doanh ở miền Bắc năm 1956 và ở miền Nam sau năm 1975, cũng là cách làm theo Mao Trạch Đông và Stalin, đã phá nát nền công nghiệp non trẻ của Việt nam, đẩy các chủ doanh nghiệp tài giỏi đến cùng quẫn phải đi bán hàng rong hoặc vượt biên, làm mồi cho cá trên đại đương.
Về văn hóa, chính trị, 2 lần làm theo lệnh Trung Quốc, làm cho hàng ngàn vạn trí thức lớn Việt Nam bị bắt bớ, tù đày, bị quản thúc. Đó là vụ Nhân Văn-Giai phẩm và vụ Chống xét lại. Vụ Nhân Văn Giai phẩm bắt đầu diễn ra đấu tố năm 1958. Hàng trăm văn nghệ sĩ , trí thức lớn như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Trần Dần, Văn Cao, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang… và những người liên quan vị bắt tù, bị treo bút hoặc mất việc. Có người như ông Nguyễn Hữu Đang- nhà văn hóa lớn, Trưởng ban tổ chức Lễ tuyên ngôn Độc lập Quảng Trường Ba Đình 2-9 1945, bị tù ở nhà tù heo hút ở sát biên giới Trung Quốc, dài đến mức ông không biết có một cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc do không quân Mỹ tiến hành. Nhà văn Lê Hoài Nguyên tên thật là Thái Kế Toại, nguyên Đại tá công an, công tác tại A25 (chuyên theo dõi văn nghệ sĩ và văn hóa) sau này đã có chuyên luận dài về Nhân Văn Giai Phẩm, đã nhận định: VỤ NHÂN VĂN–GIAI PHẨM TỪ GÓC NHÌN MỘT TRÀO LƯU TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ, MỘT CUỘC CÁCH MẠNG VĂN HỌC KHÔNG THÀNH. Ông Thái Kế Toại cho rằng, NVGP không phải là một vụ án gián điệp phản động. Các văn nghệ sỹ trí thức NVGP không có mục đích lật đổ chế độ. Họ chỉ mong muốn ĐCSVN, chính phủ sửa chữa những sai lầm và xây dựng ngay một nền dân chủ pháp trị, một đời sống tinh thần có tự do tư tưởng, một đời sống văn học nghệ thuật tự do sáng tạo”. Vụ án đã tiệt tiêu một thế hệ văn nghệ vàng của Việt Nam.
Vụ án Xét lại hiện đại cũng xuất phát từ việc đi theo và làm theo Trung Quốc. Vụ này có hai giai đoạn : giai đoạn đầu , bắt đầu từ đầu những năm 1960, đối tượng đấu tố là các văn nghệ sĩ có các tác phẩm yêu đương, buồn rất người, theo cách của các tác phẩm Khi đàn sếu bay qua, Người thứ 41.v.v.. ở Liên Xô sau chiến tranh thế giới thứ 2, như : Mở hầm của Nguyễn Dậu, Mùa hoa dẻ của Văn Linh.v.v..Các văn nghệ sĩ và các giáo viên dạy văn cấp 3 bị quy là xét lại phải kiểm điểm. Có người mất việc trong cơ quan nhà nước. Vụ án xét lại lớn thứ hai được gọi là Vụ án Tổ chức chống Ðảng, chống Nhà nước, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài” do Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn trực tiếp chỉ đạo, là vụ bắt giam lâu năm không xét xử nhiều nhân vật quan trọng trong nội bộ Đảng và bộ máy chính quyền tại miền bắc Việt Nam từ năm 1967, với cáo buộc là đi theo Chủ nghĩa Xét lại. Vụ án bắt đầu từ việc, tại đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, Khrushchyov TBT Đảng CS Liên Xô đã đọc báo cáo về Tệ sùng bái cá nhân của I.V. Stalin. Ông chủ trương chung sống hòa bình với thế giới Tư bản (“Các nước không cùng lập trường chính trị có thể sống chung”). Đường lối của Khrushchyov bị Mao Trạch Đông, chống lại và gọi là “Chủ nghĩa Xét lại”. Việt Nam đi theo Mao nên cũng triển khai bắt giam và giết hại “bọn xét lại trong nước”. Ước lượng trong Vụ án Xét lại Chống Đảng, khoảng 300 người bị bắt trong đó có 30 nhân vật cao cấp. Đây là thế hệ trí thức, cán bộ cấp cao có trình độ nhất Việt Nam thời bấy giờ. Có nhà phân tích cho rằng, vụ án xét lại này cũng là do Lê Đức Thọ muốn dùng “hiểm họa xét lại” để hạ bệ tướng Võ Nguyên Giáp. Dù phân tích theo hướng nào thì những vụ án như thế cũng là do Trung Quốc chỉ đạo nhằm tiêu diệt giới trí thức hàng đầu Việt Nam.
Trung Quốc là quốc gia do bọn bành trướng Đại Hán thống trị. Chúng không bao giờ là “anh em hòa hảo” với ai mà coi các nước lân bang là miếng mồi để chiếm đất. Chúng đã chiếm Tây Tạng, gây hấn với Mông Cổ, Liên Xô , Ấn Độ, Việt Nam …Theo tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, một trong số ít người Việt nam hiểu Trung Quốc nhất, thì chúng không bao giờ có truyền thống văn hóa với Việt Nam, không chung ý thức hệ với Việt Nam (Lãnh đạo Trung Quốc đã từ lâu rời bỏ ý thức hệ Mác-Lê Nin, để trở thành một tập đoàn Hán tộc tham lam, muốn đầu độc cả thế giới bằng hàng hóa độc hại và chiến tranh, lấn đất, lấn biển). Cho nên đi theo Tàu là chết !
o0o
Chỉ có 2 lần lãnh đạo Việt Nam không nghe theo Trung Quốc và đã giành thắng lợi vang dội : Đó là Chiến dịch Điện biên Phủ ( 1954) và Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 và Chiến dịch Hổ chí Minh năm 1975. Trong Chiến dịch Điên Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyễn Giáp đã không nghe theo sự chỉ đạo của cố vấn Trung Quốc, dù kế hoạch của cố vấn đã được Bộ chỉ huy chiến trường phê duyệt, đã thay đổi cách đánh từ “Đánh nhanh tiến nhanh” của Trung Quốc thành “Đánh chắc, tiến chắc” của Việt Nam . Nên kéo pháo vào rồi lại kéo pháo ra. Kết quả là Võ Nguyên Giáp đã đúng. Việt Nam đã thắng Pháp và thắng cả mưu mô của Trung Quốc. Còn thời đánh Mỹ, TBT Lê Duẩn đã không nghe theo Mao Trạch Đông “Đánh Mỹ đến người Việt nam cuối cùng”, nên đã tổ chức các cuộc tấn công năm 1968, 1972, 1975 và đã giành thắng lợi. Việt Nam đã thắng Mỹ và thắng cả mưu mô thâm hiểm của Trung Quốc.
Nhân dân Việt Nam, đặc biệt là giới trí thức hiểu rất rõ bản chất thâm hậu của bọn Tàu. Nhưng đáng buồn thay , một số lãnh đạo Đảng CS Việt Nam lại mơ hồ ( hay giả vờ mơ hồ ?) về người bạn “16 chữ vàng”, “4 tốt “ lừa mị, để hướng đất nước theo chúng. Một số học giả chính trị của Quân Đội nhân dân Việt Nam mà tiêu biểu là Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú Trần Đăng Thanh thuộc Học viện Chính trị của Bộ Quốc phòng, người đã đăng đàn bảo vệ quan điểm “đi theo Trung Quốc” để “bảo vệ cái sổ hưu”. Họ cho rằng: “Trung Quốc có đánh ta, nhưng là ân nhân của nước ta”. Thậm chí họ còn vạch chiến lược huấn luyện tác chiến của Quân đội Việt Nam với đối tượng tác chiến là Quân Mỹ chứ không phải quân Trung Quốc. Tôi cho rằng, đó là nhận định sai lầm, có nguy cơ dẫn đến mất nước và mất cả đảng ( đối với những người cộng sản chân chính). Vì ta đánh Mỹ là bảo vệ Trung Quốc và phe XHCN, không có nợ nần gì chúng. Nếu có chút nợ nần thì cuộc chiến xâm lược Việt Nam mà Trung Quốc phát động tháng 2- 1979 và cuộc chiến Gạc Ma 1988, hàng chục vạn người Việt Nam dọc biên giới đã bị giết hại, không những xóa sạch nợ nần, mà chúng còn gây nợ máu đối với nhân dân Việt Nam rất lớn. Thế thì làm sao gọi là “ân nhân” hỡi ông Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú ” bảo vệ cái sổ hưu”?
Cả ngàn năm Bắc thuộc, đất nước ta nghèo, không biết gì thế giới bên ngoài, mà các triều đại tuyệt đối không theo Trung Quốc, không bị Trung Quốc đồng hóa. Ngày nay Việt Nam có thế lực và tiềm năng rất lớn để giữ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trước bọn bành trướng Đại Hán, vì chúng ta có Nhân Dân cực kỳ yêu nước, Quân đội nhân dân thiện chiến, có điểm tựa là khối ASAEN với 10 nước liền kề, lại còn có các nước bè bạn khắp năm châu như Nga, Ấn Độ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ…Nếu chúng ta biết khai thác những lợi thế đó thì bọn Đại Hán không làm gì được ta.
Trung Quốc là nước láng giềng. Chúng ta phải tôn trọng và ứng xử hữu hảo theo luật lệ thế giới. Nước Việt Nam là nước độc lập có chủ quyền, nếu Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông hay biên giới, nhân dân Việt Nam biểu tình phản đối sao lại “bắt tù “ nhân dân ? Phải ngay lập tức triệu đại sứ Trung Quốc tới, trao công hàm, nói với họ rằng, nếu các ông sống hữu hảo, đừng xâm phạm lãnh hải Việt Nam thì nhân dân Việt Nam sẽ không biểu tình chống Trung Quốc. Sao không nói với họ như thế, lại đi đàn áp nhân dân mình ? Nước có chủ quyền gì mà lạ thế !
Có người bảo:” Đi với Trung Quốc thì mất nước, nhưng còn đảng” . “Đi với Mỹ thì mất đảng, nhưng còn nước”. Nên các vị lãnh đạo ĐCS Việt Nam đã chọn con đường đi theo Trung Quốc, vậy còn đất nước và nhân dân thì sao ? Đây là một thực tế rõ ràng, 86 triệu dân Việt Nam ai cũng biết, chứ không phải là luận điệu của “bọn thù địch”. Người viết bài này là một người từng đi đánh Mỹ, vào Đảng nhân dân Cách mạng miền Nam, là nhà văn sống bằng lương tâm và lao động của mình, không bao giờ bị bọn thù địch nào mua chuộc nổi .
Vì thế tôi cầu mong các vị hãy tỉnh trí lại , và khắc sâu vào tâm can : Đi với Trung Quốc, nghe theo Trung Quốc sẽ mất nước và mất cả đảng !
……………………….
* Sự lên tiếng như ông Lương Thanh Nghị vẫn lên tiếng đã nhàm, rập khuôn và giả tạo, dân không còn coi đó là “sự lên tiếng” nữa. (QC)








Đừng xuyên tạc lịch sử để đưa những điều sai trái vào Dự thảo Hiến pháp sửa đổi
Toàn bộ quá trình đưa Dự thảo Hiến pháp sửa đổi ra thảo luận trong cả nước cho đến nay vẫn thiếu vắng hẳn những cuộc thảo luận công khai, xây dựng theo tinh thần đoàn kết và hòa hợp dân tộc mọi ý kiến khác nhau của các tầng lớp nhân dân. Thay vào đó là cách làm rất hình thức, phô trương, vô cùng tốn kém.
Trên mọi phương tiện truyền thông của “lề phải” và trong không biết bao nhiêu cuộc nói chuyện ở cấp cơ sở khắp cả nước, các dư luận viên liên tiếp một chiều các bài nói, bài viết, các phát ngôn.., nội dung cùng một giọng điệu gần giống như được gỡ ra hoặc được “tua” lại từ các băng ghi âm – nghĩa là giáo điều, không lý lẽ, áp đặt, không có sức sống, na ná giống nhau…
Tham gia mặt trận độc thoại này của những dư luận viên có không ít cây lý luận của các trường Đảng và cơ quan nghiên cứu lý luận của Đảng… Trong những người này có các vị mang học hàm giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ.., đôi ba người có cả quân hàm đại tá… Không cần phân tích, họ lớn tiếng phê phán những ý kiến khác, những người nói khác với Dự thảo. Không thiếu trường hợp ngôn ngữ của các dư luận viên này thật ra là sự đả kích như mạt sát. Họ thẳng thừng quy kết những người nói khác là “thoái hóa về đạo đức chính trị, tư tưởng”, xếp những người nói khác như thế vào loại “các thế lực thù địch chống phá nhà nước xã hội chủ nghĩa và chống phá Đảng…”
Để làm chỗ dựa cho những lời phê phán kiểu độc thoại như thế, một số cây lý luận đã viện dẫn lịch sử, đại ý:
Các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô Đông Âu cũ sở dĩ sụp đổ là vì đã phạm phải 3 sai lầm chết người: (1) phản bội chủ nghĩa Mác – Lênin, (2) xóa vai trò lãnh đạo của Đảng, (3) phi chính trị hóa các lực lượng vũ trang…
Lập luận như thế trong thảo luận xây dựng hiến pháp mới, thật chẳng khác vừa cảnh cáo, vừa hù dọa.
Vậy sự thật là thế nào?
Nói khái quát, sự thật là chủ nghĩa Mác – Lênin, diễn đạt đầy đủ hơn là mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước LXĐÂ cũ, đã bắt đầu khủng hoảng mang tính hệ thống từ những năm 1960. Vào lúc nổ ra phong trào Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan trong những năm của thập kỷ 1980, tất cả các nước LXĐÂ đã đi vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng. Cao điểm của thời kỳ khủng hoảng này xảy ra vào cuối thập kỷ 1980 và đã dẫn tới sụp đổ của toàn hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa LXĐÂ, trong đó Liên Xô là nước sụp đổ sau cùng (ngày 25-12-1991).
Nhìn lại, lịch sử khủng hoảng của các nước xã hội chủ nghĩa LXĐÂ thật ra bắt đầu sớm hơn nhiều. Sớm nhất là cuộc nổi dậy của công nhân xây dựng ở Đông Berlin, rồi lan ra toàn Cộng Hòa Dân Chủ Đức tháng 6-1953. Lãnh đạo Cộng Hòa Dân Chủ Đức hồi ấy phải nhờ quân đội Liên Xô đập tan.
Kế tiếp là cuộc nổi dậy đẫm máu ở Hungari tháng 10-1956, bắt đầu từ phong trào sinh viên chống lại nhà nước stalinist, sau đó là sự tham gia của nhân dân cả nước. Quân đội Liên Xô phải trực tiếp can thiệp, đến tháng 1-1957 mới dập tắt được.
“Mùa xuân Phaha 1968” là cuộc nổi dậy tiếp theo ở Tiệp Khắc, lập ra chính quyền chống lại mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa, tồn tại được 8 tháng (từ tháng 1 đến tháng 8-1968), quân đội khối Varsovie do quân Liên Xô là chủ lực phải kéo vào dẹp bỏ.
“Phong trào Công đoàn đoàn kết” ở Ba Lan (tên đầy đủ: Phong trào Công đoàn Độc lập Tự trị “Đoàn kết”), bắt đầu từ tháng 8-1980. Với mọi bước đi thăng trầm quyết liệt, phong trào này giành được thắng lợi quyết định trong cuộc bầu cử ngày 04-06-1989, kết thúc mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa tại đây. Từ tháng 12-1990 Balan đi vào thể chế dân chủ hiện nay.
Nguyên nhân sụp đổ của các nước LXĐÂ cũ không phải là các đảng cộng sản cầm quyền ở những quốc gia này đã phạm phải 3 sai lầm chết người như đã được giảng giải trên mọi diễn đàn “lề phải”.
Có thể đánh giá các đảng cộng sản cầm quyền tại các nước LXĐÂ cũ hồi ấy đã làm tất cả để đối phó với khủng hoảng, nhưng không chống đỡ nổi sự sụp đổ. Đơn giản là họ bị các lực lượng dân chủ của nhân dân nước mình đánh bại; mặc dù vào thời điểm sụp đổ, hiến pháp và điều lệ các đảng cộng sản cầm quyền ở những nước này vẫn còn quyên vẹn. Giả thử các đảng này lúc ấy được ai cố vấn và muốn cố thực hiện “3 sai lầm chết người” này để cứu vãn tình hình – như các cây lý luận của mặt trận dư luận viên biện bạch, chắc cũng không kịp. Đơn giản là hệ thống chế độ chính trị cũ của những nước này cuối cùng đã bị phong trào dân chủ của nhân dân nước họ thay thế nhanh quá, bằng những biện pháp hòa bình.
Riêng tại Rumani, chế độ độc đảng toàn trị diễn ra khắc nghiệt nhất so với các nước LXĐÂ khác. Tổng bí thư Nicolae Ceausescu sớm theo đuổi đường lối thân phương Tây và Trung Quốc, chống Liên Xô, ngay giữa lúc phe xã hội chủ nghĩa còn đang mạnh. Ông ta cũng là người trực tiếp chỉ huy quân đội. Nhưng tại đây chế độ chính trị của ông ta đã bị thay thế bằng bạo lực, quân đội lại là người trực tiếp kết liễu vợ chồng ông ta.
Nói thêm về Liên Xô
Khói súng của Chiến hạm Rạng Đông chưa tắt, nước Nga của Cách mạng tháng Mười đã sớm rơi vào cuộc nội chiến khắc nghiệt và đẫm máu (1917-1922). Nói khái quát, giữa một bên là cách mạng và một bên là phản cách mạng.
Chẳng những thế, từ năm 1918 đến năm 1920, trên đất nước Liên Xô còn xảy ra cuộc chiến tranh can thiệp của các nước tư bản, đi đầu là các cường quốc Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Nhật. Những nước này cùng với các lực lượng phản cách mạng ở LX quyết tâm tiêu diệt bằng được nhà nước cộng sản đầu tiên trên thế giới.
Cuối cùng Liên Xô đã đánh bại cuộc chiến tranh can thiệp này và dập tắt nội chiến. Chẳng những thế, Liên Xô sau này còn là lực lượng chủ chốt nhất đánh bại phát xít Đức và phát xít Nhật trong chiến tranh thế giới II, góp phần quyết định tạo ra sự hình thành phe xã hội chủ nghĩa làm chủ 1/3 địa cầu, sau đó kiềm chế phe đế quốc ngót nửa thế kỷ (xin được dùng khái niệm “phe” theo ngôn ngữ thời ấy – N.T.).
Đáng lưu ý: Ngày nay, dưới chính thể mới của Liên bang Nga, quân đội Liên bang Nga vẫn kế tục truyền thống hào hùng của Hồng quân Liên Xô, mặc dù quân đội đã hoàn toàn đứng ngoài cuộc chính biến 1990-1991 xóa bỏ nhà nước xô-viết.
Hiển nhiên không thể không đặt ra câu hỏi: Tại sao Liên Xô sụp đổ ở lúc đạt đỉnh cao mọi mặt của chính quyền và sức mạnh xô-viết? Sụp đổ không nội chiến, không có lấy một phát súng can thiệp từ bên ngoài? Sụp đổ nhanh tới mức toàn bộ thế giới phương Tây ngỡ ngàng, toàn bộ mạng lưới tình báo phương Tây chết khựng vì bất ngờ! Sụp đổ ở đỉnh cao của một cường quốc và trong nguyên vẹn sự tồn tại của Đảng Cộng Sản Liên Xô và Hồng quân Liên Xô!?…
Chỉ xin điểm lại một số sự việc có liên quan đến hiến pháp:
Toàn bộ lịch sử Liên Xô có 4 hiến pháp. Hiến pháp năm 1977 (còn gọi là Hiến pháp Brejnev) là hiến pháp đầu tiên có riêng một điều nói cao hơn rất nhiều so với cả 3 hiến pháp trước đó (các Hiến pháp năm 1918, 1924 và 1936) về ĐCSLX và về chế độ xô-viết – đấy là điều 6. Hiến pháp Brejnev là hiến pháp cuối cùng khi Liên Xô sụp đổ.
Thời Brejnev là thời kỳ Liên Xô lâm vào đình đốn và trì trệ toàn diện. Để cứu vãn tình hình này, khi được bầu làm Tổng bí thư ĐCSLX, ông Gorbachov đề xướng đổi mới kinh tế và dân chủ hóa hệ thống nhà nước, cũng giống như những công việc đổi mới được đề xướng ở nước ta bây giờ. Nhưng ông ta thất bại.
Tuy nhiên không thấy Gorbachov đề ra việc sửa đổi hiến pháp. Hay là ông ta chưa kịp làm việc này?.. Chỉ biết rằng tháng 1-1991 ông ta vẫn còn vận dụng Hiến pháp xô-viết 1977 (Hiến pháp Brejnev) chống lại việc ly khai của nước Cộng hòa Lít-va… Không lâu trước khi thất sủng, Gorbachov muốn đưa ĐCSLX đi theo con đường xã hội dân chủ. Nhưng ông ta chưa kịp làm gì, thì ĐCSLX tan rã. Vì đảng đã bị tổng thống Yeltsin thông qua Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga đặt ra ngoài vòng pháp luật…
Nhìn thẳng vào sự thật
Tới đây mọi người có thể thấy: Không có chuyện xẩy ra “3 sai lầm chết người” trong việc sửa đổi hiến pháp tại các nước LXĐÂ với hệ quả dẫn tới sự sụp đổ chế độ XHCN ở những quốc gia này. Thậm chí tại những nước xã hội chủ nghĩa này không có cả việc sửa đổi hiến pháp trong những thập niên cuối cùng trước khi sụp đổ.
Cũng không có chuyện các đảng cộng sản cầm quyền ở đấy đã phạm phải 3 sai lầm chết người này trong những nỗ lực cứu vãn tình hình, có lẽ đơn giản vì họ không đủ thời giờ để kịp đề ra và thực hiện 3 sai lầm này. Song có sự thật rành rành là các đảng này đã bị các lực lượng dân chủ trong nhân dân nước mình đánh bại.
Ngoài ra còn có một sự thật nữa rất quan trọng: Vô luận hiến pháp và điều lệ đảng đang có hiệu lực hồi đó ở những nước này được viết như thế nào, quân đội của những nước này đi với nhân dân và chỉ trung thành với tổ quốc. Nhờ vậy đã không xảy ra tắm máu khi chế độ xã hội chủ nghĩa bị chính thể dân chủ thay thế.
Vậy phải đi tìm những nguyên nhân thực đã dẫn tới sự sụp đổ chế độ XHCN ở các nước LXĐÂ, song đấy không phải là mục đích của bài viết này.
Bài này chỉ lưu ý: Dư luận viên không biết lấy ở đâu ra, hay là tự đặt ra những điều không có thật như thế để tác động vào nhân dân trong bàn thảo về sửa đổi hiến pháp lần này là việc làm với dụng ý sai trái. Làm như thế, chỉ tự bộc lộ cái dở, cái yếu của đội ngũ dư luận viên và chế độ, chỉ là tự phơi bầy cái thấp kém của đảng cầm quyền. Đấy lại càng không thể là biện pháp hữu hiệu để bảo vệ, củng cố sự tồn tại của chế độ.
Nếu sự sụp đổ của các nước LXĐÂ có điều gì khác nữa đáng liên hệ với nước ta, phải chăng đó là: Quyền lực dù hà khắc đến đâu, dù được bảo hộ bằng cách nào, nhưng một khi đã mất dân thì mất tất cả.
Đứng trước những mối nguy và thách thức mất còn đang hiện hữu của đất nước, với tính cách là một lực lượng chính trị lớn nhất và mạnh nhất trong cả nước, tại sao ĐCSVN không coi việc sửa đổi hiến pháp lần này là một cơ hội giương cao ngọn cờ dân chủ và hòa hợp hòa giải dân tộc để phát huy sức mạnh cả nước, mở ra một thời kỳ phát triển mới cho đất nước? Một sự nghiệp như thế không đáng để cho ĐCSVN dấn thân cùng với toàn thể dân tộc thực hiện? Lợi ích nào, hay yếu kém nào khiến ĐCSVN không lựa chọn như thế?…
Có nghĩa vụ và trách nhiệm ràng buộc đối với đất nước cũng như đối với sự tồn vong của chính mình, ĐCSVN phải đặt ra cho mình những câu hỏi nêu trên. Những gì đã và đang diễn ra trong những hoạt động vận động dư luận về sửa đổi hiến pháp hiện nay chỉ cho thấy: Đảng đang tìm mọi cách khư khư nắm giữ quyền lực của mình. Thật ra Đảng đang tự vứt bỏ vai trò lãnh đạo của mình, chẳng thế lực diễn biến hòa bình nào bên ngoài Đảng có thể làm nổi việc này.
Nếu tự hỏi mình được như thế, ĐCSVN sẽ tự trả lời được cho mình Làm gì? Làm như thế nào?
Điều chắc chắn, cải cách thể chế chính trị của đất nước là mặt yếu nhất của ĐCSVN, yếu đến mức hầu như là Đảng không thể! Cầm quyền đã 38 năm rồi mà vẫn không làm nổi, hoặc không có ý thức để làm!… Thậm chí Đảng đang muốn làm ngược lại!?…
Điều chắc chắn, cải cách thể chế chính trị chẳng những là đòi hỏi phát triển của đất nước, mà còn là con đường dẫn Đảng đi với dân tộc, đi với đất nước, sau khi đất nước đã giành được độc lập thống nhất. Đó là con đường tránh được cho đất nước thảm họa nồi da xáo thịt ở phía trước.
Điều chắc chắn, cải cách thể chế chính trị theo hướng dân chủ và hòa hợp hòa giải dân tộc, Việt Nam sẽ trở thành một nước phát triển, sẽ không phải hổ thẹn với chính mình, và sẽ chiếm được trái tim của cả thế giới tiến bộ. Đã đến lúc toàn thể dân tộc ta phải vượt lên mọi yếu kém của chính mình, quyết khép lại quá khứ, để cùng nhau phấn đấu cho mục tiêu đáng sống này!
Sửa đổi hiến pháp lần này đang mang lại cho đất nước một cơ hội như thế. Đây là cơ hội chiến lược thứ tư cho phép đổi đời đất nước kể từ khi giành được độc lập thống nhất. Vẫn còn thời gian, chỉ cần có cách làm đúng, để có thể xây dựng được một hiến pháp nước ta phải có, làm nền tảng cho nhân dân ta phấn đấu vì tự do hạnh phúc của chính mình và thay đổi được thân phận của đất nước trong thế giới ngày nay.
Ba cơ hội chiến lược trước đó của đất nước ĐCSVN đã để vuột mất.
Võng Thị, ngày 16-05-2013








Ai cho ông Bình ra đi? Đi đâu?
Ai điều tra Thống đốc Nguyễn Văn Bình “ngay lập tức”? Ai bãi chức Nguyễn Văn Bình? Ai lôi ra ngay được những lùm xùm trong nhóm lợi ích, cả cụm tập đoàn lợi ích tài chính, ngân hàng hiện nay? Trong bài viết mới đây gửi BBC ( tại đây), nhà báo (mới được thoát 4 bức tường) Phạm Chí Dũng đã ‘đề xuất’ như vậy.
Xem ra, tác giả bài báo đã phân tích, lý giải với những nội dung và chi tiết ‘có lý’, đưa ra đề xuất mạnh bạo ấy cũng có vẻ hợp lòng dân, rất được dân ý, dân nguyện. Nhưng, đề xuất mạnh mẽ và rất ‘quyết liệt’ này hơi na ná giống tuyên bố của ông Nguyễn Bá Thanh cách đây không lâu: “… rà vô ngân hàng, hốt liền, bắt nhốt ngay…”. Nói thì dễ, tuyên bố ‘mạnh mồm’ cũng khó gì, nhưng làm được mới là điều đáng nói!
Thưa hai ông Bá Thanh và Phạm Chí Dũng, đó là các ông cứ bộc trực và nóng vội, thấy bất bình là muốn làm ngay, làm liền. Xứ ta lâu nay làm gì có vụ tiêu cực, tham nhũng, vô trách nhiệm nào mà làm được “ngay lập tức“, cứ nói thế, viết thế, đọc thêm tức! Nhưng chuyện này đâu giống mì ăn liền? Khó lắm thay! Trong cơ chế, dưới thể chế này, với cái ‘dàn cầm cân nảy mực ‘ này, nếu cái gì đang tắc, vướng, bất ổn mà làm được liền, thì đâu để thực trạng đến bây giời ông nhà báo Chí Dũng mới thoát nạn đã phải bức xúc lên tiếng một bài chuyên đề đậm đà bản sắc …chống chọi, có ‘tính chién đấu’ cao như vậy?
Trước hết, ai tuyển chọn và giao chức đó cho ông Bình? Ai huấn thị và huấn luyện những biện pháp ngoài lý luận kinh tế cho ông Bình? Ai hàng ngày ‘rà soát, chỉ giáo’ mọi việc làm và cả phán quyết, tuyên bố, trả lời phỏng vấn trên TV của ông Bình? Tác giả đã nói thẳng ông Bình là ‘cánh tay phải’ của Chính phủ. Cái tiếng nhỏ nhí mà rất sắc cạnh sau phong màn mới là nặng ký.
Nếu như theo những bài bản đã tiếp nhận ở đại học, ông Bình có làm thế không? Vậy, mọi việc làm và bài đối phó của ông Bình không thể tự ông Bình, mà ông Bình vẫn là ‘đầu sai’ mà thôi. Một vị Thống đốc lo quản đồng tiền trong ngân khố quốc gia được đào tạo (nghe nói) cũng khá là bài bản, chẳng lẽ khi có chức quyền thì ông Bình ném hết sách vở, đốt cả luận án để làm tùy tiện, bất chấp như thế hay sao? Làm gì, trước hết vì lợi ích của chính ông ta, nhưng phải dưới những ‘cái roi’ chỉ đạo…Kho bạc Nhà nước bị khui rỗng, dân lao đao vì giá cả và rất thiếu tiền, nhưng chắc chắn những vị ‘cầm trịch’ không hề thiếu tièn. Có điều, họ bơm cho ai, bơm đến đâu, bơm xong rút về (hút lại) chỗ nào là cả một đội quân ‘tàng hình’. Đó không đơn thuần là ‘tình cảm’, là thiên vị hay là “do thiếu cân đối”, do “khiếm khuyết tronh điều hành, quản lý” mà là tính toán đầy mưu mô của nhóm lợi ích! Không ai dám nói cáo già bị nhìn thấy hoặc bị đánh khi bắt gà. Còn nếu như nói đến minh bạch – Minh bạch ư? Ai dám minh bạch? Minh bạch cái gì?
Năm xưa, cái vụ lình xình giá-lương-tiền, một nhóm gọi là cải tổ, ‘cấp tiến’ đã tỏ ra hùng hổ mạnh tay, cũng bất chấp các quy luật vận hành, xa thực tế, rồi khi đổ vỡ có vị trong nhóm Phương-Truyến- Quỳnh cũng phải thanh minh: “Trên tôi còn một nhà thơ / Dưới tôi một lũ ngẩn ngơ bất tài”. Nay, biết đâu khi ‘rờ đến’, ông Bình sẽ lý giải cái gốc nguyên nhân: “Trên tôi còn mấy đầu trâu / Dưới tôi lợi ích ruồi bâu cả đàn”, thì sao?








Máu và nước mắt từng ngày vẫn đổ
Thư của Nguyễn Thị Từ Huy gửi GS. Đàm Thanh Sơn
Nguyễn Thị Tự Huy
Tôi gửi nhà văn Nguyễn Quang Lập đăng mấy bức thư này vào ngày hôm nay, 16/5/2013, ngày xét xử các sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, như một cử chỉ nhỏ để nói với các thanh niên ấy rằng vẫn luôn có những người nghĩ đến họ.
Thư thứ nhất
(Gửi lúc 17h54 ngày 7/4/2013) :
GS. Đàm Thanh Sơn kính mến,
Tôi không đồng ý việc trang Cùng Viết Hiến Pháp đăng lại các bài của tôi.
Kính đề nghị BBT trang CVHP gỡ tất cả hai bài của tôi xuống!
Trân trọng cảm ơn!
Nguyễn Thị Từ Huy
PS: tôi đã tham gia bản lấy ý kiến của trang CVHP với tất cả thiện ý và sự trọng thị của mình, giờ đây tôi rất hối hận vì đã làm việc đó.
Thư thứ hai
(Gửi lúc 9h42 ngày 8/4/2013
Thư này trả lời hồi âm của GS. Đàm Thanh Sơn, nhận được vào lúc 00h26 ngày 7/4/2013, trong đó GS có viết : « Tôi rất mong chị cho biết tại sao chị quyết định như vậy. »)
Anh Đàm Thanh Sơn kính mến,
Vấn đề điều 4 là vấn đề căn gốc của Hiến Pháp, nếu không giải quyết nó thì Hiến Pháp chỉ là bánh vẽ, đây không chỉ là quan điểm riêng của tôi, không chỉ là quan điểm của những người muốn xây dựng một xã hội dân sự và nhà nước pháp quyền, mà đây là vấn đề thực tế. Nếu không giải quyết vấn đề của điều 4 thì tất cả những đề nghị khác mà các anh đặt ra sẽ không thực hiện được, không bao giờ có dân chủ, không bao giờ có pháp luật đúng nghĩa, mà pháp luật chỉ là công cụ để đảm bảo quyền lợi cho một nhóm nhỏ mà thôi.
Những điều này có lẽ các anh đều hiểu cả.
Tôi mượn một ý của nhà thơ Dương Tường để nói rằng: tôi đứng về phe nước mắt.
Nhưng giờ đây phải nói thêm: Máu và Nước Mắt.
Nhân dân chúng ta đang sống trong máu và nước mắt. Hẳn anh cũng biết các chị Trịnh Kim Tiến, Thanh Tuyền, bố họ, chồng họ đã bị giết chết bởi “những người thi hành công vụ” như thế nào. Còn nhiều chị khác phải chịu cảnh như thế mà báo chí
không nói đến. Hẳn các anh cũng biết cả gia đình anh Đoàn Văn Vươn giờ đây thành ra tù tội như thế nào trong khi nhà cửa đất đai mất hết.
Trong bức ảnh tôi gửi kèm cho anh đây, dưới túp lều đó có 4 gia đình đang sinh sống.
Trên khắp VN này có bao nhiêu cảnh như thế. Anh cũng biết các vấn đề biển đảo chủ quyền lãnh thổ, anh cũng biết sự khủng hoảng kinh tế, sự suy thoái của giáo dục, của văn hóa, của đạo đức đang hết sức trầm trọng trong xã hội này. Đó là hậu quả của một thể chế cho phép một nhóm nhỏ đứng lên trên pháp luật và điều khiển pháp luật, đó là hậu quả của một đường lối điều hành xã không hướng tới lợi ích chung, mà chỉ nhằm thỏa mãn lợi ích cá nhân và lợi ích nhóm. Làm sao có thể hy vọng các điều khoản khác của hiến pháp được thực thi trong một thể chế mà tính toàn trị được hiến định như vậy? Và làm sao có thể có dân chủ, có tự do ngôn luận, tự do công dân?
Lập luận về việc “tôn trọng sự khác biệt về quan điểm” trong trường hợp cụ thể này, theo tôi, chỉ là logic hình thức mà thôi. Còn thực tế, máu và nước mắt của người dân buộc chúng ta phải lựa chọn và chứng tỏ một cách rõ ràng vị thế của chúng ta, tư tưởng của chúng ta, tinh thần của chúng ta.
Tôi biết CVHP đăng bài của tôi từ lâu, và tôi đồng hành cùng các anh trong hy vọng rằng chúng ta sẽ góp phần làm vơi bớt máu và nước mắt trên xứ sở này. Và nay tôi rút ra vì tôi không muốn máu và nước mắt phải đổ ra nhiều hơn nữa, và vì tôi không muốn đi hàng hai, vì tôi muốn tên tôi chỉ được dùng cho một mục đích thôi: vì sự tiến bộ, công lý và bình đẳng cho mọi người.
Tôi cảm thấy anh thực sự mong muốn có lời giải thích của tôi, vì thế tôi đã viết cho anh rất thật, như vậy đó.
NTTH
Thư thứ ba
(Gửi lúc 22h05 ngày 6/5/2013
Thư này trả lời hồi âm của GS. Đàm Thanh Sơn, nhận được vào lúc 10h25 ngày 8/4/2013, trong đó GS viết : « Tôi nghĩ là tôi có cách tiếp cận vấn đề khác chị »)
GS Đàm Thanh Sơn kính mến,
Anh có theo dõi tin về cuộc dã ngoại ngày 5/5 của những thanh niên muốn tìm hiểu về quyền con người không? Anh có thấy những thiếu nữ vô tội bị đánh máu còn vương trên những khuôn mặt sưng vù không? Anh có thể tìm những tấm ảnh đau đớn đó trên internet.
Liệu chúng ta có thể nhân danh quyền được khác để giữ cho mình sự thanh thản trong khi máu và nước mắt vẫn chảy hàng ngày trên xứ sở này?
Gửi anh nỗi đau chung của chúng ta.
Kính thư!
NTTH
Tác giả gửi cho Quê Choa
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả








Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
