Nguyễn Quang Lập's Blog, page 20

May 9, 2013

Xâm lược không tiếng súng


Trung Quốc đưa hơn 30 tàu cá lớn cùng nhiều tàu hải giám xuống quần đảo Trường Sa (tháng 5, 2013)

Trung Quốc đưa hơn 30 tàu cá lớn cùng nhiều tàu hải giám xuống quần đảo Trường Sa (tháng 5, 2013)


Trung Quốc lại một lại một lần nữa tìm cách bẻ gãy sự hợp lực của ASEAN qua chuyến công du của Ngoại trưởng Vương Nghị nhưng xem ra không thành công. Con bài tiếp theo nhằm khống chế các nước đang tranh chấp trong khu vực có phải là cuộc chiến lấn biển bằng tàu dân sự, bằng giàn khoan khổng lồ và các khảo sát mang tên khoa học trong vùng biển hoàn toàn  không phải của họ?


Vừa đánh trống vừa ăn cướp


Chuyến công du đầu tiên của ông Vương Nghị sau khi nhậm chức Bộ trưởng Ngoại Giao Trung Quốc đã làm các nước hiếm hoi còn nằm trong khối cộng sản bỡ ngỡ khi ông này không ghé Việt Nam như thường lệ mà lại dừng chân tại Thái Lan nhằm đưa một thông điệp cho nước này rằng mối quan hệ Trung – Thái là kho báu và cần được nuôi dưỡng bởi hai quốc gia.


Điều mà Ngoại trưởng Vương Nghị gọi là kho báu ấy có khác với 16 chữ vàng và bốn tốt như từng đưa ra với Việt Nam hay không thì khối ASEAN đã biết rất rõ và vì vậy mặc dù ông Vương Nghị thăm thêm ba nước nữa là Indonesia, Singapore và Brunei nhưng khi hội nghị ASEAN kết thúc Trung Quốc vẫn không nhận được lợi lộc nào như từng nhận tại Campuchia trong phiên họp ASEAN trước đây.


Trước cách hành xử này TS Luật sư Trần Công Trục nguyên Trưởng ban Biên giới chính phủ nhận xét:


Trong chuyến thăm vừa rồi của ông Ngoại trưởng mới Vương Nghị của Trung Quốc thăm một số nước Đông Nam Á nói rằng ông ta sẵn sàng thúc đẩy xúc tiến đàm phán COC nhưng ông ta cũng nói rằng cho đến hôm nay sở dĩ vấn đề đàm phán COC chưa thể đàm phán được là vì các nước trong khu vực thiếu sự tôn trọng về tuyên bố ứng xử trên biển Đông DOC. Thế nhưng rõ ràng trong thực tế họ vừa nói xong thì họ tiếp tục có những hành động tiếp tục một loạt các hành động trắng trợn và mạnh mẽ. Tôi nghĩ đấy là một sự thật rõ ràng họ nói một đàng nhưng làm một nẻo.


Box 1


“Ván bài Trung Quốc lập đi lập lại mỗi khi ASEAN tổ chức gặp nhau là y như Trung Quốc phải vận động các nước không có phần tranh chấp trên biển Đông nhằm lôi kéo và bẻ từng chiếc đũa trong khối qua sức mạnh kinh tế của mình.”


Một đội tàu cá hơn 30 chiếc của Trung Quốc làm lễ xuất phát tại Hải Nam trước khi di chuyển xuống khu vực đảo Trường Sa đánh bắt hải sản

Một đội tàu cá hơn 30 chiếc của Trung Quốc làm lễ xuất phát tại Hải Nam trước khi di chuyển xuống khu vực đảo Trường Sa đánh bắt hải sản


Việt Nam hơn ai hết biết chủ tâm của Trung Quốc khi không ghé Hà Nội. Ván bài Trung Quốc lập đi lập lại mỗi khi ASEAN tổ chức gặp nhau là y như Trung Quốc phải vận động các nước không có phần tranh chấp trên biển Đông nhằm lôi kéo và bẻ từng chiếc đũa trong khối qua sức mạnh kinh tế của mình.


Trong khi công du với những lời lẽ mềm mỏng hiền hòa như vậy thì trên Biển Đông, Trung Quốc lại công khai phát động những việc làm hoàn toàn khác. Đem dân ra Hoàng Sa du lịch, cơ cấu lãnh đạo cấp ủy tại Tam Sa, dùng súng bắn nước tấn công tàu cá ngư dân và cuối cùng xua hơn 30 tàu công suất lớn vào vùng biển Trường Sa, nơi Việt Nam đang có chủ quyền hợp pháp từ hàng trăm năm qua. TS Luật sư Trần Công Trục cho biết nhận xét của ông về những mục tiêu này của Bắc Kinh:


Tháng trước các phương tiện thông tin đã thông báo là họ có công bố ban hành việc phát triển hải dương 5 năm lần thứ 12 do Cục Hải dương Quốc gia là cơ quan quản lý cấp bộ của Trung Quốc ban hành. Trong nội dung đó nhằm mục tiêu tiến hành xúc tiến việc khai thác tài nguyên như dầu khí, đánh cá, khai thác năng lượng nước biển…thì bây giờ trên thực tế họ đang làm. Rõ ràng đây là một sự tính toán trong khi muốn kéo dài thời gian bằng vận động ngoại giao.



Chiến lược và âm mưu

Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị ( Wang Yi) (trái) và Ngoại trưởng Marty Natalegawa của Indonesia (phải) trong một cuộc họp báo chung sau cuộc gặp song phương tại Jakarta vào ngày 02 tháng Năm 2013. AFP

Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị ( Wang Yi) (trái) và Ngoại trưởng Marty Natalegawa của Indonesia (phải) trong một cuộc họp báo chung sau cuộc gặp song phương tại Jakarta vào ngày 02 tháng Năm 2013. AFP


Trung Quốc bất chấp công pháp quốc tế vì Bắc Kinh biết rõ lổ hỗng trong hệ thống này giúp cho những hành vi của họ không bị chế tài khi một nước bị kiện ra tòa án có quyền không tham gia tố tụng. Đây là yếu tố lợi hại khiến Bắc Kinh luôn dùng kèm theo sức mạnh đang lên của họ.


Ông Dương Danh Dy, một nhà ngoại giao kỳ cựu có thâm niên kinh nghiệm đối với Trung Quốc cho biết nhận xét của ông:


Cái thủ đoạn ở biển Đông của Trung Quốc vừa rồi nhìn chung là vừa đấm vừa xoa. Mặc dù báo chí Việt Nam gần đây nói xấu Trung Quốc rất nhiều nhưng họ lại không nói xấu không công kích Việt Nam như trước đây. Điều này chứng tỏ cái gì? Trung Quốc muốn xoa dịu Việt Nam: “ tôi vẫn tử tế với chú đấy nhé!” Nhưng qua canh bạc này thì thấy rõ cái chuyện vừa đấm vừa xoa vì họ đang lấn biển Đông. Trên thực chất họ vừa công bố danh sách bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Tam Sa rồi đến chuyện cho tàu phun nước vào tàu cá Việt Nam tại Trường Sa rồi xua hàng chục tàu cá đến Trường Sa…Đây là một trong âm mưu bá chiếm Biển Đông của Trung Quốc một cách lặng lẽ. Từ chỗ chiếm bằng lời nói, tới chiếm bằng bản đồ rồi tiến tới chiếm bằng hành động thực tế.


Box 2


“Trong khi công du với những lời lẽ mềm mỏng hiền hòa như vậy thì trên Biển Đông, Trung Quốc lại công khai phát động những việc làm hoàn toàn khác. Đem dân ra Hoàng Sa du lịch, cơ cấu lãnh đạo cấp ủy tại Tam Sa, dùng súng bắn nước tấn công tàu cá ngư dân và cuối cùng xua hơn 30 tàu công suất lớn vào vùng biển Trường Sa”


Tàu cung cấp mang tên Quỳnh Tam Á F8138 và lực lượng chức năng của Cục Ngư chính Nam Hải cũng tham gia hỗ trợ cho đoàn 30 tàu cá Trung Quốc ở Trường Sa. (China News)

Tàu cung cấp mang tên Quỳnh Tam Á F8138 và lực lượng chức năng của Cục Ngư chính Nam Hải cũng tham gia hỗ trợ cho đoàn 30 tàu cá Trung Quốc ở Trường Sa. (China News)


Trong lần họp này, ASEAN tỏ ra cương quyết hơn khi yêu cầu Trung Quốc có thiện chí trong vấn đề Biển Đông qua việc đàm phán DOC và điều này cho thấy âm mưu chia rẽ ASEAN bằng kinh tế của Trung Quốc không thành công ít nhất là vào thời điểm này.


Sự cương quyết trở lại Châu Á thái Bình Dương của Mỹ và phản ứng quyết liệt của Nhật trong hồ sơ Senkaku cho Việt Nam thấy Trung Quốc chưa thể sử dụng vũ lực đối với Việt Nam cũng như các nước đang có tranh chấp. Bắc Kinh đang thử nghiệm thủ thuật lấn biển một cách tiệm tiến, không tiếng súng nổ nhưng các nước như Việt Nam và Philippines không dễ dàng đối phó. Khi các hoạt động lấn biển chín muồi Bắc Kinh sẽ khẳng định chủ quyền một cách trơ tráo để đòi hỏi thế thượng phong khi ngồi vào bàn đàm phán.


Con bài tẩy đã được Bắc Kinh tự ý lật ra nhưng toàn bộ các cây bài của đối phương lại quá yếu do đó Bắc Kinh sẽ bất chấp mọi lý lẽ kể cả sĩ diện của một nước lớn nhằm bá chiếm Biển Đông để rồi sau đó xâm lăng toàn phần nước nào không đủ nội lực để gìn giữ biên giới trên bộ, đặc biệt là Việt Nam. Ông Dương Danh Dy thẳng thắn đưa ra cách mà chính phủ cần phải giải quyết:


Cứ như thế này thế nay mai tôi giả dụ họ cho lính giả làm dân tới làm một giàn khoan, xây dựng một nhà giàn tại một hòn đảo không người ở như họ đã từng làm tại những hòn đảo ở Trường Sa thì Việt Nam sẽ ứng xử như thế nào? Hay thậm chí họ chiếm một hai đảo, bãi ở Trường Sa mà hiện nay Việt Nam đang chiếm giữ thì chúng ta sẽ làm gì?


Cho nên tôi nghĩ đây là những bước lấn tới, lấn tới và chưa phải là cuối cùng, chưa phải là những hành động xấu nhất của Trung Quốc. Cho nên cách duy nhất để mà ngăn chặn mưu đồ này thì tôi xin nói thật: chúng ta phải có những hành động thực tế và nhất là sau khi họ vượt ra khỏi phạm vi Hoàng Sa để tiến vào Trường Sa hoặc tiến vào khu vực đường lưỡi bò thì chúng ta không thể im lặng được nữa mà phải có những hành động cụ thể để mà đối phó với họ.


Box 3


Trên thực chất họ vừa công bố danh sách bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Tam Sa rồi đến chuyện cho tàu phun nước vào tàu cá VN tại Trường Sa rồi xua hàng chục tàu cá đến Trường Sa…Đây là một trong âm mưu bá chiếm Biển Đông của Trung Quốc một cách lặng lẽ.


Ông Dương Danh Dy



Việt Nam có chọn lựa nào trong ván bài thua trước này? Tuy không nhiều phương án vượt ra khỏi sự bao vây kín kẽ của Trung Quốc nhưng lòng dân là lợi thế gần như duy nhất có khả năng chuyển bị động thành thế chủ động qua sự khuấy động dư luận quốc tế. Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh nói quan điểm của ông:


Tôi cho rằng mỗi lần nó xâm phạm hoành hành như thế thì chính phủ ta phải có phản ứng mạnh mẽ không vì hữu nghị mà không phản ứng. Phải phản ứng mạnh mẽ hơn chứ không phải thỉnh thoảng mới có như người phát ngôn ta trả lời phỏng vấn thì nó nhẹ lắm. Một là phải có công hàm phản đối, hai nữa là một người nào đó có vị trí tương đối khá để lên tiếng phản đối. Mặt khác thì phải để cho dân chúng người ta tham gia biểu tình phản đối thì sức mạnh quần chúng nó cũng có tác dụng. Phải quan hệ chặt chẽ hơn nữa với các nước lớn. Tuy rằng không phá vỡ hữu nghị với Trung Quốc nhưng đồng thời phải thắt chặt hữu nghị với các nước như Nga, Nhật, Ấn Độ và cả Mỹ nữa. Tôi từng phát biểu như vậy nhưng tiếc rằng lãnh đạo chúng tôi lại làm theo kiểu của họ, tôi không hiểu được.


Box 4


chúng ta phải có những hành động thực tế và nhất là sau khi họ vượt ra khỏi phạm vi Hoàng Sa để tiến vào Trường Sa hoặc tiến vào khu vực đường lưỡi bò thì chúng ta không thể im lặng được nữa mà phải có những hành động cụ thể để mà đối phó với họ


Ông Dương Danh Dy


Xâm lược bằng những hoạt động dân sự trên biển là phương pháp mà Trung Quốc đang áp dụng. Vấn đề lớn nhất đối với Việt Nam phải chăng cần lấy lòng yêu nước của dân mình để đối phó với khối dân đại Hán tuy đông nhưng kinh tế mới là điểm nhắm?



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 09, 2013 06:10

Hãy lớn lên đi chàng trai Việt

Tặng con trai Trần Minh Hoàng


Trần Chấn Uy


210px-Statue_of_Tran_Hung_Dao,_Ho_Chi_Minh_City,_VietnamKhi con ra đời


Đất nước đã bốn ngàn năm


Nhà Trần ta đã khắc vào lịch sử


Những Đông bộ đầu, Bạch đằng giang


Bến Chương dương, cửa Hàm Tử.


Những chiến công khiến giặc kinh hồn bạt vía


Lập nên một quốc gia thái bình thịnh trị


“Xã tắc đôi phen bon ngựa đá


Non sông nghìn thuở vững âu vàng”*.


 


Cha ước mong


Sẽ đến một ngày


Con soạn


Binh thư yếu lược


Viết hịch tướng sĩ


Nối nghiệp lớn


Của tổ tiên


Quốc Công tiết chế


Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn.


 


Cả dân tộc ta không muốn


Nước Việt cứ nghìn năm gươm giáo


Máu dân lành đẫm ướt đất cha ông


Nhưng gặc giã còn lăm le ngoài biển đảo


Chiếm từng tấc đất biên cương.


 


Con là dòng dõi tiên rồng


Hậu duệ Trần triều oanh liệt


Ba lần đại phá giặc Nguyên


Hào khí Đông A


át cả vầng nhật nguyệt.


 


Con ơi nước Việt


Chưa mấy thời yên ả


Hết thù trong lại giặc ngoài


Cha từng thức suốt những đêm dài


Đọc cạn từng trang sử máu.


Tổ quốc ta bốn nghìn năm giông bão


Đất quê hương chưa lặng gió bao giờ.


 


Hãy khắc lên trời xanh những câu thơ đuổi giặc


Hãy cầm chắc thanh gươm giữ nước


Chẻ núi ngăn sông, chém bay đầu giặc .


Hãy lớn lên đi hỡi chàng trai Việt


Hậu duệ của Quốc Công tiết chế


Chàng trai trẻ


Trần Minh Hoàng.**


Tác giả gửi Quê Choa


……………………………


*Thơ Trần Nhân Tông


** Cậu bé Trần Minh Hoàng mới 8 tuổi cao 1.4 m, nặng 45 kg ( chú thích của QC)



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 09, 2013 04:46

Lựa chọn nào cho chính trường Việt Nam?

Trần Kinh Nghị


imagesHội nghị TW 7 chưa hoàn toàn kết thúc, nhưng những gì diễn ra từ sau Đại hội Đảng lần thứ XI đang cho thấy một tình hình mới hiếm có trong chính trường đất nước, đó là sự bất đồng giữa Trung ương và Bô Chính trị xung quanh chủ đề nhân sự và chiến dịch chống tham nhũng. Điều này được thể hiện qua kết quả của Hội nghị TW 6 và Hội nghị TW 7 cách nhau không đầy một năm. Tại Hội nghị TW 6 qua đã bỏ phiếu đa số tuyệt đối bác bỏ nghị quyết của Bộ Chính trị về việc “thi hành kỷ luật một ủy viên bộ Chính trị…”. Và mới đây tại Hội nghị TW 7 đã bác bỏ danh sách đề cử bổ sung nhân sự của Bộ Chính trị, trong đó có nhân vật chủ chốt là ông Nguyễn Bá Thanh-người đang giữ chức Trưởng Ban chống tham nhũng Trung ương và do đó rất cần thiết có chân trong Bộ Chính trị để phát huy đầy đủ quyền lực. Đó là những dấu hiệu cho thấy mức độ mâu thuẩn đến mức nào và không chỉ giữa các thế lực lãnh đạo chóp bu mà còn giữa các trào lưu tư tưởng và lợi ích trên quy mô toàn quốc.


 Có thể nói đại đa số người dân Việt Nam không tránh khỏi cảm giác thất vọng trước diễn biến tình hình nói trên. Với lòng tin sâu sắc rằng tham nhũng là nguyên nhân chính ngăn cản bước tiến của đất nước và được Đại Hôi Đảng XI tái xác nhận “đang đe dọa sự tồn vong của chế độ”, người dân đặt kỳ vọng vào chiến dịch chống tham nhũng do vị Tổng Bí thư (được hiểu là Đảng và Nhà nước) phát động. Đó cũng là lý do để người dân cảm thấy thất vọng về vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đồng thời bất bình trước sự cố kết của các thế lực tham nhũng đang ăn tàn phá nát nền kinh tế đất nước với những hậu quả nhãn tiền. Nhiều ý kiến quả quyết rằng “bác Tổng đi sai nước cờ” hoặc “thiếu quyết đoán” nên đã thất bại … Dĩ nhiên, trong khi ván cờ còn chưa đến hồi kết thúc, thì ai đó vẫn có quyền hy vọng… Nhưng đối với những người xem bên ngoài thì thắng thua coi như đã rõ. Và cảm nhận chung là một sự bi quan bao trùm.


 Tuy nhiên, còn một “cách tiếp cận win-win” khác xem ra cũng rất có lý. Đó là hãy coi tình hình hiện nay như một hình thái mới xuất hiện trong chính trường Việt Nam, mà từ đây sẽ có thể dẫn đến những thay đổi theo hướng tích cực. Cơ sở cho cách tiếp cận này là dựa vào quy luật tiến hóa: Những gì đã lỗi thời sớm muộn cũng phải bị đào thải để nhường chỗ cho cái mới phát huy. Cách tiếp cận này cho rằng trong chính trường Việt Nam lâu nay mọi thứ thường diễn ra một hướng và khá êm đềm, chẳng có đối lập cũng không có cánh tả, cánh hữu hay quân đỏ, quân đen… Do đó, sự kiện đấu đá nội bộ vừa xảy ra giữa Ban Chấp hành TW và Bộ Chính trị đúng là một hiện tượng mới, thậm chí đáng lo ngại (đến nỗi ông Tổng Bí thư cũng phải khóc đấy thôi!). Nhưng, so với thế giới thì đó là một hiện tượng rất bình thường. Đúng ra, nên coi đó là hiện tượng lành mạnh hiếm có trong chính trường Việt Nam để lấy đó làm niềm an ủi và cảm hứng. Có người mô tả nó như cuộc đấu giữa “Phủ chúa” và “Cung vua” nghe khá hình tượng. Nhưng nếu gọi đó là cuộc đấu giữa “Nhóm lợi ích” và “Nhóm bảo thủ” thì có lẽ chính xác hơn. Thực ra hai nhóm đó chẳng nhóm nào tốt hơn nhóm nào. Nhưng vào lúc này nếu có thể lựa chọn thì người ta nên lựa chọn cái “ít xấu hơn”, đó là Nhóm lợi ích. Lý do đơn giản là vi dù sao nhóm này đã “ăn đủ” rồi và hi vọng bọn họ ít nhiều đã hiểu được cái giá phải trả cho sự tham nhũng(?). Còn Nhóm bảo thủ như thường lệ quá đề cao lý thuyết chính trị là thống soái hoàn toàn xa rời với thực tế. Đơn giản là không thể chống tham nhũng bằng “phê và tự phê” trong khi vẫn duy trì cơ chế và luật lệ đã bị đánh giá là “bất cập”.


 Đó là nói trong trường hợp có thể chọn lựa. Nhưng e rằng không dễ diễn ra kịch bản lựa chọn như vậy! Bởi lẽ luôn còn đó nguy cơ của sự thỏa hiệp giữa Nhóm bảo thủ và Nhóm lợi ich như nó vốn đã diễn ra. Đó cũng là nguyên nhân của tình tráng tiến thoái lưỡng nan thường thấy trong chính trường Việt Nam lâu nay./.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 09, 2013 03:56

Đôi điều về Minh triết Các Mác hay những nghịch lý“cộng sản”

Nguyễn Khắc Mai


Ông Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên Cứu, Ban Dân vận Trung ương, hiện là giám đốc Trung tâm nghiên cứu Văn hoá Minh Triết.

Ông Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên Cứu, Ban Dân vận Trung ương, hiện là giám đốc Trung tâm nghiên cứu Văn hoá Minh Triết.


NQL: Mất gần nửa buổi chiều để sửa lỗi đánh máy cho cụ Mai nhưng không tiếc thời gian vì đọc được bài cực sướng, giá như một số ông lú đọc được bài này thì hay quá.


Hegel nói : Những gì tồn tại đều có tính hợp lý, hay trong tồn tại đều có tính hợp lý của chúng. Cái gọi là chủ nghĩa “cọng sản”có gì là rationnel ? Chúng tôi cho rằng những tư tưởng của Mác và Ăng ghen mà tiệm cận được với chân thiên mỹ đều là những giá trị văn hóa, trong đó có một số giá trị mà chúng tôi gọi là “giá trị minh triết”. Trong một bài viết về giá trị minh triết của Đông Kinh Nghĩa Thục chúng tôi thử đưa ra cách hiểu Minh triết như sau : “Minh triết là những tư tưởng và rộng hơn là những gíá trị văn hóa có tính khái quát và phổ quát, ý nghĩa rộng,trường tồn,có thể đem ứng dụng cho nhiều hệ thống. Chúng đạt tới tính chất của những gíá trị xã hội và nhân sinh phổ quát. Minh triết tham gia vào đời sống xã hội giống như chất tủy của một sinh vật, ta gọi đó là cốt tủy, là tinh túy của một hệ thống xã hội.” Khi nghiên cứu những giá trị minh triết C. Mác, ta sẽ đễ dàng nhận ra những nghịch lý của nhận thức và hành động của quá trình vận dụng những tư tưởng của Mác.


Trước khi đi vào một số vấn đề cụ thể, tôi xin kể hai chuyện có liên quan ít nhiều tới vấn đề này.


Chuyện thứ nhất. Vào năm 1948 lũ chúng tôi 5 tên Việt minh nhí, tôi, thằng Thanh nay đang ở Sài gòn, thằng Quế nay đang vừa là người Việt vừa là người Mỹ, thằng Nghị đã hi sinh ở chiến khu Dương hòa, Thằng Điền sau này từng là chủ tịch Hội Sinh viên giải phóng đã hi sinh ở Củ chi. Vào một chiều đã chạng vạng, chúng tôi gặp nhau ở ngã tư Am Hồn Huế, sau khi bàn những hành động của nhóm, tự nhiên thằng Điền nêu ra một câu hỏi: Bây giờ chúng mình theo Việt minh hay theo ‘cọng sản”. Cải nhau một hồi, tôi đưa ra ý kiến: Cọng sản là gì chúng mình không biết. Nhưng Việt Minh đánh Tây giành độc lập ta theo. Cho đến bây giờ những người uyên bác nhất nước ta cũng không thể nói cho rành rọt thế nào là chủ nghĩa cọng sản, huống chi là công nông. Có lần vào năm 1988 tôi được mời tới gặp một vị lãnh đạo của Ban tổ chức TƯ, tôi đã thưa giá trị lớn nhất của đảng là giành độc lập dân tộc , phải cố gắng giữ lấy giá trị này. Còn cái goi là giá trị XHCN thì đang bị tranh chấp. Mà trong tay chủ nghĩa tư bản là cây kiếm thật, còn trong tay ta là cây kiếm ảo, ta tưởng tượng là có kiếm. Thế thì ai thua là cái chắc .Bây giờ thì cả giá trị dân tộc yêu nước cũng đang bị thách đố, cũng đang đánh mất.


Vào năm Bính ngọ, tôi có viết một bài đăng trên Tuổi trẻ Tp HCM nhan đề: Tâm hồn gặp gỡ kể chuyện Mã khắc Tư (C.Mác) cởi con ngựa hồng rũ Ân cách Tư(Ăng ghen) cùng đi, đến thăm khu những linh hồn Việt, gặp Phan huy Chú. Hai ông càng đi càng thấy bóng đỗ dài trước mặt. Vì càng đi về phương đông mặt trời càng chếch về tây. Trần Hữu Pháp, một nhà nghiên cứu Hán Nôm bảo với tôi, phương đông, kinh Dịch gọi là u phương nơi tăm tối vì mặt trời đã đi khỏi. Nhiều năm tôi vẫn tự nhủ tại sao chủ nghĩa Mác không thể thực hiện được ở phương tây, nó chỉ vào được Nga, rồi Trung hoa, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Cu Ba…Có cái gì gọi là rationnel ở đây. Anh Nguyễn Khắc Viện có lần bảo tôi là do Khổng giáo. Còn Hồ chí Minh cũng có lần nói xã hội Phương Đông rất thuận cho chủ nghĩa Mác.! Lý giải vấn đề này cũng thú vị đấy. Thật ra những nước phương đông này không thực hành tư tưởng minh triết của Mác mà là một thứ chủ nghĩa cọng sản đã chệch hướng theo lăng kính mugich Nga, Tàu, Việt lạc hậu. Đến một lúc nào đó, lúc trà dư tửu hậu sẽ trở lại vấn đề này.


.Người ta nghiệm ra rằng một thực thể chứa trong bản thân nó quá nhiều nghịch lý nó không thể tồn tại như là chính nó. Hoặc nó biến thành quái dị, dị dạng, đầy khuyết tật…, hoặc tan rã hũy hoại. Thử tìm hiểu xem có những nghich lý nào đã tồn tại trong thực tế với chủ nghĩa “cọng sản”. Thường khi một thực thể ra đời mà tiên thiên bất túc, nghĩa là cái cơ địa của nó không hoàn chỉnh, nghịch lý chứa đầy trong bản thân nó. Rồi cái hậu thiên của nó càng đầy rẫy những nghịch lý. Những nghịch lý thường được phát hiện bỡi nhận thức, có khi là do một trực cảm minh triết. Như trường hợp cụ Nguyễn Hữu Cầu, một yếu nhân của ĐKNT. Ngay sau khi Việt Minh cướp được chính quyền, cụ đã nói, nền độc lập này vừa giành lại được, ta phải biết bảo vệ bằng những hoạt động tinh thần. Nhưng cụ cũng nhận xét, ngày nay, chúng ta quá Tây, quá Tàu, là những kẻ giáo điều ba rọi, lại còn là đám XHCN cậy quyền! Phần lớn các trường hợp phải qua thực tiễn, đối chiếu, so sánh lý thuyết, thực tế, đặc biệt là chiêm nghiệm từ những thất bại. Vừa rồi tôi đọc được một câu , nói là của Khổng tử : Có ba cách học được “minh triết”. Thứ nhất từ thần hứng ( trực cảm, tâm linh) cách này linh diệu. Thứ hai, hoc nhờ thầy( bắt chước) cách dễ nhất.Thứ ba qua trải nghiệm, cách đau đớn nhất. (By three methods, we may learn wisdom.First,by reflection,wich is noblest.Second by imitation,wich is easiest.And third,by experience,wich is bilterest.)


1-Nghịch lý thứ nhất: Cái gọi là giá trị minh triết đầu tiên của C,Mác là sự thừa nhận không có chủ nghĩa cọng sản. Hai ông nhiều lần khẳng định điều này. (xem Ăng ghen trả lời phỏng vấn của K.Heinzen, cũng như bài tựa tác phẩm Cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp) Trong bài tựa này Ăng ghen viết: “Phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã lỗi thời về mọi mặt, chẳng có mục tiêu lớn chủ nghĩa cọng sản gì cả. Đó chỉ là một mệnh đề được người khai sáng chủ nghĩa Mác đề xuất lúc trẻ nhưng vứt bỏ nó trong cuối đời.” Trong bài trả lời phỏng vấn K Heinzen Ăng ghen nói, chúng tôi không coi CNCS là lý tưởng, bởi lý tưởng là từ ý chí chủ quan, nó chỉ là phong trào hành động thực tiễn, những người CS phải lấy thực tế văn minh của những dân tộc hiện đại làm tiền đề cho chính sách của mình. (nôm na là hãy học những bài học văn minh của thế giới mà hành động!) Ông còn cẩn thận chỉ ra rằng thực tế văn minh chứ không phải thực tế lạc hậu,mà phải là của những dân tộc hiện đại chứ không phải của những dân tộc trung bình. Với quan niệm như thế hai ông cũng đã khẳng định không có cách mạng, mà chỉ có tiến hóa mà thôi. Tiến Hóa đó mới thật là giá trị minh triết của hai ông.


Thế mà ngay cả tên gọi, chúng ta cũng dịch không chính xác.Trong thuật ngữ Kommunismus không có cái gì là “sản” cả. Nó chỉ có hai từ tố, cộng đồng và chủ nghĩa (commune và ismus) Người Nhật đã dịch là cọng sản rồi Trung hoa bắt chước và truyền sang Việt Nam. Năm 1988 tôi đã thưa với một vị lãnh đao BTCTW rằng tên đảng đả dịch sai nên đính chính. Từ ấy phải được hiểu là chủ nghìa cọng đồng. Anh Việt Phương còn kể, trước đó vào những năm 60, 70, các anh ấy đã nói với ông Nguyễn Duy Trinh rằng tên đảng dịch sai, trong Tuyên ngôn 1848, có hai phạm trù là cá nhân và cọng đồng. Bọn mình nói vui là nên đặt tên là chủ nghĩa cá cộng.


Tiện thể cũng xin nói qua về cái gọi là chính danh. Khổng tử nói, danh bất chính, ngôn bất thuận, sự bất thành, lễ nhạc bất hưng, hình phạt bất trúng, dân vô sở thố thủ túc. Câu ấy đã khẳng định tầm quan trọng của chính danh, đến nỗi nếu danh không chính nó sẽ dẫn theo sự rối loạn hệ thống, khiến cho “lời nói không thuận, việc chẳng thành, lễ nhạc (văn hóa đạo đức) không chấn hưng được, luật pháp không còn đúng phép, rốt cuộc dân chúng không biết chỗ nào mà đặt chân tay (sống còn và hành động) (Luận ngữ, thiên Tử Lộ). Sách Lã Thị Xuân Thu, còn bình luận gay gắt hơn: “Danh chính thì trị, danh mất thì loạn. Kẻ làm cho mất danh, là kẻ nói, chủ trương quá mức. Nói, chủ trương quá mức, tức là biến cái có thể, cái cho phép thành cái không có thể, không cho phép. Cho nên cái phải biến thành cái không phải, biến cái đúng thành cái không đúng, nên cái sai thành cái không sai…Phàm mọi sự loạn là do hình danh, chế danh không đúng vậy.”(xem Chính Danh, Từ Điển Triết học Trung quốc NXB CTQG 2009 ) Cái tâm thức nào khiến cho cả Trung và Việt đều say mê cái “sản”. Nghiên cứu điều này cũng thú vị và có ích. Thư thả rồi cũng phải làm. Thực ra danh và thực phải đi liền với nhau. Xác định sai cái danh cũng tức là đã làm chệch đi cái thực, khiến cho đúng sai lẫn lộn! Như trên đã nói, thật ra CNCS không thể có đất sống như một “doctrine” ở Nhật và Nam Hàn. Vì hai nơi này họ đã siêu vào văn minh hậu tư bản chủ nghĩa.


Cũng nên liên hệ một chút cái quan niệm của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh: “Đạo khả Đạo phi thường Đạo. Danh khả Danh phi thường Danh.” Có thể hiểu như sau: Cái Đạo đúng như nó thì không phải là cái Đạo như thường thấy. Cái Danh (sự vật) đúng như nó thì không như cái ta vẫn thường thấy. Cái gọi là CNCS ta thường thấy thì không phải là chính nó. Cái gọi là CNCS là sự hình dung của Mác và Ăng ghen, mà ta thì không phải là hai ông ấy. Hơn nữa cái mà hai ông gọi bằng cái tên như thế thì chính hai ông đã “vứt bỏ “rồi. Huống nữa ta lại chấp nhận cái đã bị dịch sai. Bây giờ thì không còn là một ly, một dặm nữa.


2.Nghịch lý thứ hai: Phát triển Tự do cá nhân. Nhiều người cho rằng giải phóng cá nhân là một hòn đá tảng của lý thuyết Các Mác, với câu nói nỗi tiếng trong Tuyên ngôn CĐCN: Thay cho những cọng đồng kiểu cũ là cọng đồng kiểu mới, trong đó phát triển tự do cá nhân là tiền đề của phát triển tự do toàn xã hội. Liệu có thể suy luận rằng tâm thức nông dân lạc hậu của những xã hôi Nga, Tàu, Việt…đã dị ứng với sự phát triển cá nhân? Chỉ tính từ 1917 đến nay không có bất kỳ một đảng CĐ cầm quyền nào dù là Nga,Tàu hay Việt đã làm theo chủ thuyết của Mác. Mọi quyền tự do cá nhân của con người, cũng như của công dân đều bị cắt xén gọt rũa cho vừa với chiếc giày chật hẹp của chế độ toàn trị.


Đi đôi với tự do cá nhân là vấn đề Dân Chủ (dân trị hay dân quyền). Mác khẳng định Dân chủ là câu đố đã được giải đáp của mọi thể chế nhà nước. Nghĩa là mọi hình thức nhà nươc xứng danh là nhà nước thì phải dân chủ. Ở nước ta Hồ Chí Minh cũng nói được rằng, nước ta là nước dân chủ, vì dân là chủ. Vào năm 1967 trước lúc mất hơn một năm tại Hà tây, HCM từng nói, phải làm cho dân dùng được quyền dân chủ, hưởng được quyền dân chủ. Dân chủ thật ra là một sáng tạo của nhân loại trong thời hiện đại với nhiều hình thức đã tồn tại hợp lý tại nhiều nước văn minh và hiện đại. Nhưng các đồ đệ của Mác dù ở Nga, Tàu hay Việt đều dị ứng và tránh né nó. Nói gì đến việc thực hành tư tưởng của Mác! Dân chủ, dân quyền là những thách đố của những hệ thống cực quyền, toàn trị, dù là nhà nước hay là trong xã hội dân sự. Xã hội ta luôn trăn trở một câu hỏi, tại sao những hình thức dân chủ mà nhân loại đã sáng tạo ra trong hàng trăm năm qua dân ta cũng không dùng được, hưởng được? Tại sao những hệ thống cầm quyền VN không trở thành lực lượng mở đường cho dân chủ tiến lên, như trong câu hát đầy hứng khởi vào những ngày Tháng Tám năm xưa, tiến lên nền dân chủ cọng hòa! Cũng có một nghịch lý là tại Miền Nam VN trong thể chế VNCH nhiều quyền dân chủ đã được tồn tại dù còn chút ít chật hẹp.


Bàn về dân chủ, không thể không nói về dân chủ trong đảng. Lênin đã tạo ra một chế độ chuyên quyền trong đảng khi thủ tiêu phái gọi là mensevich. Chế độ xô viết toàn trị được Xtalin hoàn chỉnh ngày càng chặt chẽ, được áp dụng ráo riết ở Nga, Tàu, Việt, những người đối lập bị đàn áp, thủ tiêu. VN cũng đã thực hiện rất nghiêm chỉnh. Trong đảng quyền dân chủ của đảng viên bị thu hẹp lại thành cái mà HCM gọi là quyền phục tùng chân lý, mà chân lý bị hiểu là ý kiến của lãnh đạo! Trong cái chính đề mà HCM đưa ra Quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý, còn có cái phản đề. Thế nhưng người ta lại cố tình quên đi ý nghĩa của phản đề. Có quyền tự do phục tùng chân lý cũng có nghĩa là người ta có quyền không phục tùng ngụy lý! Nghịch lý này càng nỗi bật lên khi ta nhớ lại một câu nói ngậm ngùi , mà là như một dự báo rất sớm của Ăng ghen rằng : “Cuối cùng cũng phải làm sao đễ mọi người chấm dứt kiểu cư xử với các quan chức của đảng-những người đầy tớ của mình – luôn luôn bằng sự tế nhị đặc biệt, và thay cho sự phê bình, lại ngoan ngoản vâng lời họ, như những kẻ quan liêu không bao giờ mắc sai lầm.” (Ăng ghen : Những ngày hội các dân tộc ở Luân đôn, Chúng tôi đã vạch trần) Vì sao trong những hệ thống tự xưng tiên phong mở đường cho xã hội mới lại ứng xử theo những thể chế đã thoái hóa, lạc hậu cần thay đổi, bác bỏ. Lênin từng nói phải có 70 ông Mác may ra mới giải quyết được những lý thuyết và thực tiễn đễ xây dựng xã hội mới. Nhưng một Mác mà còn không nhận thức nỗi, nói gì đến 70 ông.


Nói dân chủ của đảng cđ, phải đề cập đến vấn đề tư tưởng đa nguyên chính trị, (đa đảng).Trong tuyên ngôn “CS”, Mac và Ăng ghen khẳng định : Những người “cs” phải biết đoàn kết và hợp tác với các đảng dân tộc, dân chủ. Giờ đây khi người ta phê phán đa nguyên chính trị, đa đảng là người ta không hiểu gì tư tưởng của Mác, người ta đã xuyên tạc Mác vì những lợi ích không còn là cđcn nữa. Tại sao các đảng đệ tamqt, theo cái gọi là chủ nghĩa Mác-Lênin đã thủ tiêu tư tưởng của Mác mà vẫn cứ leo lẻo kiên trì chủ nghĩa Mác Lênin. Chính những đảng dân chủ xã hội đã biết tiếp thu tư tưởng của Mác nên họ đã có vai trò nhân văn và tiến hóa trong thời đại hiện nay.


Còn một vấn đề rất tế nhị và không kém phần quan trọng, là một chính đảng trong thời hiện đại phải thể hiện văn hóa và dân chủ như thế nào. Một chính đảng có quyền giữ lấy cái tư tưởng mà mình tôn thờ, phải tìm cách ngày càng hiểu nó một cách sâu sắc, khoa học, tìm tòi mọi phương thức văn minh, nhân văn khoa học đễ thực hiện, làm cho mọi thành viên của mình có nhân cách văn minh dân chủ. Rồi trên cơ sở đó mà thuyết phục nhân dân, dân tộc mình mới là “văn minh, là đạo đức”(chữ của HCM).Còn như dùng bạo lực xây dựng chế độ toàn trị, ép dân tộc cũng độc nguyên như mình là trái đạo lý, trái tinh thần dân chủ, nhân văn của ngay cả chính Các Mác. Lịch sử khẳng định rằng nhân loại không hình thành với độc nguyên văn hóa. Mà dân tộc Việt Nam cũng như thế. Thời nào nhấn mạnh cái độc nguyên văn hóa thì biến dạng, trì trệ, vọng ngoại, suy đồi. Không đưa dân tộc phát triển lên được. Buộc dân tộc đeo mãi cái ốp che mắt, có người còn gọi là cái vòng kim cô. Mọi ứng xử của dân tộc buộc phải theo cái lăng kính mác lênin. Đưa vào luật, vào hiến pháp, và chế định cái giá trị văn hóa không đến đầu đến đũa như thế đã tạo nên sự méo mó của xã hội, làm lệch chuẩn, giam hãm cầm tù mọi sáng tạo của nhân dân của xã hội.


Nói tự do, dân chủ mà không đi đôi với pháp quyền thì cũng chỉ là nói đạo lý suông mà thôi. Cái nghịch lý là giữa quan niệm pháp quyền của Mác và cái quan niệm pháp quyền hiện nay do những người cầm quyền ở nước ta dựng lên trong cái công thức “pháp quyền xhcn”thì vênh hẵn nhau. Mặc dầu về lôgich cả trong lý lẽ cũng như thực tế thì, quan niệm của Mác chính xác hơn. Mác nói: Khi chưa có con người phát triển toàn diện, chưa có nền kinh tế sản xuất hàng hóa, vật phẩm dồi dào, thì pháp quyền tư sản dù hạn hẹp, cũng không thể vượt qua. Những người lãnh đạo của đảng hiện nay đang cho thi hành một quan niệm pháp quyền chỉ nhằm phục vụ cho một đường lối chính trị cực quyền đễ dễ biện hộ cho những hành vi chà đạp những quyền tự do dân chủ đích thực của nhân dân. Theo Mác, cả hai điều kiện cần và đủ đễ có thể vượt khỏi pháp quyền tư sản hiện nay, cả ở những nước tiên tiến hiện đại nhất,cũng chưa đủ, nói gì đến VN.


3.Nghịch lý thứ 3. Nói về pháp quyền tư sản thì đụng đến phạm trù thời đại. Những nhà lãnh đạo của đảng áp đặt một quan niệm đễ cho những nhà lý luận của đảng đi rao giảng về cái quan niệm thời đại này là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thật ra cái gọi là thời đại quá độ chỉ là ý niệm của Mác về sự quá độ lên chủ nghĩa cọng đồng, như thế cái gọi là thời kỳ quá độ chính là cái xã hội đã là xã hội xhcn đã chín muồi, nó mới tạo ra sự quá độ. Những quan niệm hiện nay nếu không là tạp nham thì cũng là hồ đồ, dân gian gọi là nói lấy được!


Nói về cái cnxh thì trên thế giới hiện đang có hai phạm trù rất phân biệt không thể lẫn lộn. Đó là phạm trù tư tưởng xã hội và cái gọi là chế đô xã hội xhcn. Tư tưởng Xã hội đã từng hình thành trước Mác, nó tràn đầy trong văn hóa dân gian, trong những hệ thống triết học và đặc biệt là trong tôn giáo. Từ thế kỹ 18 nó được định hình trong những nhà xhcn cổ điển và không tưởng. Nhiều tư tưởng của Mác và Ăng ghen cũng dặt cơ sở cho sự hình thành hệ thống các đảng xã hội dân chủ. Khuynh hướng này đã bị Lênin và phong trào đệ tam QT công kich dữ dội cho đó là khuynh hướng tư sản, xét lại. Trong thực tế phong trào này cùng các đảng xã hôi dân chủ nhất là ở châu Âu từng có vai trò có ý nghĩa góp vào sự phục hưng của tây phương sau thế chiến thứ hai. Khuynh hướng này hiện nay đang là chủ thể ở một số nước Mỹ La tinh. Chính ông Phú Trọng đã nhầm lẫn hai phạm trù này, nên đã gây nên cái xi căng đan khi vào Braxin.


Cái gọi là xã hội xhcn, thì đã có hai sắc thái. Thứ nhất là cái phạm trù lý thuyết trong Tuyên ngôn các đảng cọng đồng, với cái gọi là chủ nghĩa xã hôi khoa học, mà về sau cả Mác và Ăng ghen đều đã phủ định. Cho đến nay lý thuyết ấy chưa được chứng minh. Còn cái gọi là chủ nghĩa xã hội đã hình thành như là một chế độ xã hội thì hình thù của nó chính là chế độ Xô viết đã phá sản ngay trên quê hương của nó. Những bản sao chép của nó ở Việt Nam Trung hoa, Bắc Triều tiên, Cu ba…thì mỗi anh một phách, và đều đi vào ngõ cụt. Trung hoa đã vứt bỏ và đang làm một thứ chủ nghĩa tư bản tiến đến chủ nghĩa đế quốc mới! VN thì đổi mới nhỏ giọt và đang khiến cho đất nước và xã hội lâm vào khủng hoảng liên tục, trên tất cả mọi phương diện xã hội. Như thế giá trị minh triết của Mác ở đây là gì. Như trên đã nói là Mác đã dám thừa nhận cái sai và đã dũng cảm vứt bỏ vào cuối đời. Biết sai mới là thực biết. (Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết. Ấy chính là biết vậy.) Tuy nhiên giá trị minh triết ở đây là ở ý niệm về cái lẽ tiến hóa, khi hai ông cho rằng không có cái gọi là cncđ mà chỉ có sự tiến hóa của xã hội, và những xã hội chậm tiến chỉ có thể học theo những thực tế văn minh của những dân tộc văn minh hiện đại mà thôi. Mấy nước chung quanh ta có lẽ họ đi nhanh hơn ta trong mấy chục năm lại đây có thể họ “minh triết “ rằng không có cái gọi là “cncs”mà họ thực hành ngay lẽ tiến hóa, học lấy những bài học đã được chứng nghiệm. Còn Việt Nam đã vứt bỏ minh triết và cứ tưởng rằng mình thông thái hơn người và đã khư khư ôm lấy cái cặn bã đã bị chính ông thầy vứt bỏ mà lại đi nghe theo những ông đồng bà cốt rỡm.


4.Nghịch lý 4. Về Giai cấp vô sản ( công nhân). Trong tuyên ngôn cđcn, Mác và Ăng ghen đã đề cao g/c công nhân và cho đó là người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên vào cuối đời, khi hai ông đã phủ định cái gọi là chủ nghĩa cđ(cs), thì có nghĩa là cái gọi bằng vai trò của g/c công nhân cũng bị phủ định theo. Cho đến nay những nhà tuyên huấn của những đảng cncđ cầm quyền vẫn khẳng định g/c công nhân là g/c lãnh đạo xă hội. Tuy nhiên, từ gần hai trăm năm nay, chưa có một đảng”cs” cầm quyền nào đã thành công trong chính sách g/c công nhân. Nghĩa là biến g/c này thật sự là g/c lãnh đạo. Về lý thuyết và trong thực tế, một giai cấp lãnh đạo phải thỏa mãn 4 điều kiện cơ bản sau đây, và đó là nguyên tắc mà Mác vẫn dùng thuật ngữ la tinh đễ nói: condition sine qua non (điều kiện không thể thiếu.) Thứ nhất, họ (cn) phải là g/c có cuộc sống vật chất và tinh thần trên trung bình của xã hội. Ngay Lênin cũng biết được rằng khi không đủ sống người ta không thể làm chính trị được. Ở Nga, Tàu, cả Việt Nam nữa, g/c cn vẫn là g/c nghèo khổ lương không đủ sống. Thứ hai, họ phải là g/c vănhóa, học vấn cao, nghĩa là bảy tám mươi phần trăm có trình độ đại học, có lối sống văn hóa, có nhân cách của những con người tiến tiến của thời đại, mà Mác mơ tưởng là con người phát triển toàn diện. Thứ ba, họ phải có năng lực chi phối, điều tiết được cơ chế vận hành của nền kinh tế.Hiện nay họ chưa vượt khỏi chủ nghĩa nghiệp đoàn, nghĩa là tác động vào kinh tế chủ yếu bằng hành động đình công. Ở nước ta cũng như ở những nước do đảng “CS” cầm quyền, họ không có cái gọi là nghiệp đoàn thật, chỉ là tổ chức công đoàn mà đảng nắm hết mọi quyền hành, chỉ là công cụ của bộ máy nhà nước toàn trị. Cho nên những quyền lợi kinh tế (lao động, tiền lương…) họ cũng không thể bảo vệ được. Thân phận của họ cũng chỉ là kẻ làm thuê lệ thuộc, nghĩa là không làm chủ được thân phận mình, nói chi đến “làm chủ xí nghiệp” như những nhà tuyên huấn của đảng nói. Còn nói tác động vào cơ chế vận hành của nền kinh tế chỉ là nói tào lao cho vui, hoặc đễ lừa mị mà thôi. Thứ tư, họ phải là g/c có quyền lực chính trị thật sự. Về điều này Mác đã có một phán đoán sắc sảo. Trong một cuộc tranh luận với Bakounine, Mác nói: “Chính quyền của g/c công nhân sẽ được thực hiện bởi chế độ ủy quyền. Người ta sẽ phó thác cho một nhóm người bầu cữ bởi chính mình, đễ đại diện cho họ (cn), đễ cai trị họ, điều ấy sẽ làm cho họ (cn) chắc chắn là rơi tỏm vào tất cả mọi trò dối trá, và trong tất tật sự lệ thuộc của chế độ đại diện và tư sản. Sau một hồi được tự do, say sưa cách mạng, là công dân của một chế độ mới, họ sẽ tỉnh ngộ ra thấy mình là nô lệ, con rối hay con mồi của những tham vọng mới.” Nếu phân tích cho rõ những nghịch lý như thế, ta sẽ dễ dàng giải quyết vấn đề. Chỉ cần trả lại cho công nhân cái quyền mặc nhiên của họ, quyền nghiệp đoàn,họ sẽ biết cách làm chủ được thân phận mình,và trong lẽ tiến hóa, họ sẽ làm tròn cái thiên chức của họ trong quốc gia dân tộc.


5.Nghịch lý 5.Tại sao tắc tỵ.? Có một lần tôi đến làm việc ở một Bộ, một nhóm cán bộ cấp vụ tiếp tôi. Làm việc xong, ngồi nói chuyện, tôi than phiền rằng ở tuổi của tôi, sao tôi thấy Đất Nước ta nhiều trì trệ quá. Họ bảo, không không, chúng em không nghĩ thế. Tôi cứ tưởng họ sẽ phê phán rằng sao tôi lại nhận định tiêu cực như vậy. Nhưng họ nói, chúng em cho rằng chúng ta đang tắc tị. Giữa hai sắc thái thì tắc tị quyết liệt, mạnh mẽ hơn. Tôi đã từng thưa lại ở một hội thảo do HĐLLTƯ tổ chức, tôi nghiệm ra cái nghịch lý lớn nhất, cơ bản nhất là:


Khi giao Đất Nước vào tay đảng “CS” ở thời điểm 1960, rồi 1975 , thì chúng ta cùng với các nước trong khu vực là cùng một trình độ ( tất cả đều có GDP trong vòng 1000 đô la) Nay sau nửa thế kỹ càng ngày ta càng lạc hậu xa so với họ, cả về tăng trưởng kinh tế, cả về văn hóa, xã hội đặc biệt là về khoa học và giáo dục. Xét ở bình diện nào ta cũng cầm đèn đỏ chạy sau. Vào 1960 nhà tương lai học nỗi tiếng cuả Mỹ là Herman Kahn còn xếp hạng ta trên cả Trung quốc. Nếu phân tích kỹ thì trong thời hiện đại, một Quốc gia dân tộc phát triển lên là dựa vào bốn yếu tố cơ bản. Một là tài nguyên. Tài nguyên của ta có mặt không bằng thiên hạ, nhưng không phải là không có những thế mạnh. Mặc dầu có thế mạnh nhưng phương thức khai thác của ta lại rất lạc hậu. Thứ hai là truyền thống văn hóa. truyền thống văn hóa của ta dù còn những mặt hạn chế thậm chí lạc hậu. Nhưng là một yếu tố mà thiên hạ cũng thèm thuồng, nhiều giá trị rất nhân văn dư thừa đễ làm nội lực cho phát triển.Thứ ba, tố chất con ngưới Việt. Con người Việt dẫu có những tiêu cực, nhưng những tố chất ưu trội lại rất lớn. Vào thời hiên đại người sáng tạo ra chiếc máy tính điện tử đầu tiên là một người Viêt sống ở Pháp. Người chơi đàn đẳng cấp hành tinh là Việt. Người tạo ra phương pháp mỗ gan trình độ quốc tế là Việt, những nhà toán học đẳng cấp quốc tế là việt, những công chức cao cấp ở một số nước lớn là việt. Những bàn tay vàng của người thợ việt đã được nhiều công ty đa quốc gia thừa nhận. Chúng ta đã có trong tay nhưng yếu tố văn hóa tinh thần và cả vốn con người, đễ cho phát triển. Nhưng tại sao chúng ta thua chị kém em quá thể như vậy? Chỉ còn yếu tố thứ tư-những quan hệ xã hội hiện hữu. Những quan hệ xã hội hiện hữu của chúng ta cả về thiết chế chính trị, vả về thiết chế xã hội thể hiện trong mọi mặt bằng của cái gọi là kiến trúc thượng tầng đều khấp khểnh, lạc hậu. Mấy mươi năm vẫn chưa tạo ra cái mặt bằng của pháp luật và chuẩn mực giá trị của xã hội, đễ có một sân chơi trên đó có được sự phát triển tự do cá nhân làm bừng nở mọi giá trị sáng tạo. Đảng “CSVN” trong hơn nửa thế kỹ vẫn không tạo ra được một mặt bằng tử tế cho sự tăng trưởng kinh tế. Mọi sự so sánh với khu vực đều lạc hậu. Không tạo ra được một hệ thống nhà nước tiến bộ, nhân văn thật sự là của dân, do dân, vì dân. Không hình thành nỗi một lực lượng công chức có chất lượng điều hành hữu hiệu,trong sạch, mẫn cán,có lương tâm nghề nghiệp, tinh gọn, có năng lực và đạo đức của một lực lượng cầm trịch, định hướng xã hội. Có thể kết luận một cách đau đớn rằng mọi quan hệ xã hội hiện hữu của VN hiện nay đều không tương thích cho sự phục hưng dân tộc trong thế kỹ 21. Điều gì khiến VN đổi mới cầm chừng tiến được một bước lại lùi hai bước? Nếu thật sự vì Dân vì Nước nhất định phải đổi mới vòng hai, quyết tâm từ bỏ mô hình xô viết, đã là một vòng kim cô kìm hãm sự phát triển tự nhiên của Dân tộc trong thời gian qua. Có một số anh từng giữ cương vị lãnh đạo cao cấp nói, cậu có đeo kính dâm đễ nhìn sự vật không? Tại sao không thấy những đổi mới, biết bao cơ sở cả hạ tầng, cả thượng tầng đã được xây dựng. Có thế thật. Nhưng cái hiện thực mà chúng ta đang có lại có quá nhiều bôi bác. Cũng là C.Mác từng mượn thành ngữ latinh đễ nói hộ chúng ta một cái nhìn điềm tĩnh hơn khi ông bảo : Cacatum non es pictum! (cái bôi bác không phải là bức tranh.)


6. Những mong ước thiết tha.


a. Chúng ta dang đặt ra vấn đề tái cấu trúc một số lĩnh vực kinh tế, như thế cũng chỉ là vá víu một cái áo cũ đã chật chội, lại lỗi thời không còn thích hợp cho bước phát triển mới của Dân tộc. Phải thay đổi mô hình phát triển đất nước. Quyết tâm từ bỏ mô hình xô viết. Tái cấu trúc thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục…


b.Thành tâm đoàn kết dân tộc, vượt qua tâm thức quốc cọng lỗi thời, lấy đại đồng là Chấn hưng và phát triển Đất nước, xây dựng một nước VN Độc lập, Thống nhất, Dân chủ, Thịnh vượng, Hạnh phúc, phát triển trong Hòa bình. Tôn trọng tiểu dị, hóa giải mọi ân oán tiêu cực của quá khứ, làm lành những vết thương do quá khứ lầm lỗi đễ lại.


c.Kiến tạo một thập niên :Hòa hợp, hòa giải, chỉnh đốn, tạo đà cho bước phát triển,xây dựng nhân cách mới của Dân tộc.


-Hình thành Đại Diển Đàn Diên Hồng, với thành phần 30% đảng “CS”, 30% thành phần lập trường VNCH, 30% phái trung tính, bàn thảo và quy định những vấn đề quan trọng của Đất Nước như thể chế chính trị xã hội, chương trình tái cấu trúc kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, an sinh xã hội , đối ngoại v.v…


-Thành lập một ủy ban Giám quốc, một chính phủ lâm thời, ban hành và thi hành chương trình tái cấu trúc chính trị kinh tế xã hội…Thực hành tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hoạt động chính trị…thúc đẩy dân chủ phát triển. Hàn gắn vết thương chính trị, xã hội do hậu quả của cuộc chiến tranh ý thức hệ đễ lại. Tổ chức Hội đồng lập hiến, dự thảo Hiến Pháp mới phù hợp với tiến trình chấn hưng và phát triển Đất Nước, trưng cầu ý kiến nhân dân.Đễ nhân dân phúc quyết.


-Xây dựng xã hội dân sự văn hiến, có trách nhiệm xã hội, công tâm cùng chính phủ đoàn kết dân tộc vượt lên mọi khó khăn của thời kỳ biến đổi xã hội. Trong đó ưu tiên vận động hình thành một đọi ngũ lối ngót vạn người là những specialists (xin không dùng chữ chuyên viên vì nó không còn nghĩa đúng và tốt) đễ làm nòng cốt (cũng không dùng chữ cốt cán vì cũng đã hỏng) cho hầu hết các lĩnh vực xã hội cần chuyển đổi.


–Tổ chức lại bộ máy hành chính, đào tạo lại đội ngũ công chức…


7. Đôi lời kết: Mừơi năm cho chuyển dịch hòa bình, êm thấm, nhân văn đầy tình thương yêu, đoàn kết dân tộc, đừng đễ diễn ra cảnh, khi cái bình Pandora được mở nắp thì ma quỹ nhảy ra chứ không phải là những con người lương thiện, tử tế, có trí có tâm. Và phải có ý chí mạnh mẽ nhưng cao thượng, có công tâm chứ không phải là một bè lũ cơ hội mới, một lũ lợi ích mới. Cũng nên dè chừng tâm lý trả thù hạ đẳng. Tôi tin và mong ước sẽ có những con người Việt, có trí, có dũng,có nhân cách mới, cao thượng có đủ năng lực làm thành ”Nhóm xã hội định hướng mới của Đất Nước.”(groupe social orientee)


Mười năm đễ sửa soạn cho dân tộc một nhân cách mới, đễ chỉnh đốn những hư hỏng cũ kỹ, tạo dựng một bệ phóng mới cho sự phát triển bền vững của dân tộc, là một nghĩa vụ lớn lao, khó khăn và phức tạp. Đó sẽ là trạng thái “văn hóa phục hưng”cần thiết đễ cho Việt nghĩa là siêu việt lên vượt qua chính mình,vượt qua mọi thử thách tiến vào một thời kỳ mới tự do, hạnh phúc.


Gate gate Pẩragate Parasamgate.Bodhi satsva. Vượt lên vượt lên Hãy vượt lên Hãy tự vượt lên Hỡi người giác ngộ. ( thần chú của kinh Prajna Paramita)


Tôi viết những dòng này dâng cho ngày 30-tháng Tư như một khấn nguyện để cho ngày này trở thành ngày của thương yêu hòa giải đoàn kết dân tộc, để mỗi người Việt là một nhân vị cao quý,hạnh phúc và tự do, đễ xây dựng một nền Thống nhất xứng đáng của Dân tộc.


 Ô Đồng LầmKinh thành Thăng long


29-4-2013


Tác giả gửi Quê Choa


Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả


……………………………


Những Trích Dẫn Cần Thiết:


1.Ang ghen: Lời nói đầu tác phẩm Cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp của C,Mác.”Lịch sử chứng tỏ chúng ta đã mắc sai lầm.Quan điểm của chúng ta hồi đó chỉ là ảo tưởng.Lịch sử còn làm được nhiều hơn, không những đã xóa bỏ mê muội của chúng ta hồi đó mà còn thay đổi điều kiện đấu tranh của G/C vô sản. Phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã lỗi thời về mọi mặt, chẵng có mục tiêu lớn chủ nghĩa cọng sản gì cả. Đó chỉ là một mệnh đề được người khai sáng cn Mác đề xuất lúc trẻ. Nhưng đã vứt bỏ nó trong cuối đời.”


2.C.Mác: Đối với chúng ta, chủ nghĩa “cọng đồng” không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo .Chúng ta gọi phong trào cđ là một phong trào hiện thực ,nó xóa bỏ trạng thái hiện nay.(Hệ tư tưởng Đức)


3.Ăng ghen : “CNCĐ “ không phải là một học thuyết, mà là một phong trào. Nó xuất phát không phải từ những nguyên tắc mà từ những sự thực. Người “CĐ” không lấy thứ triết học này nọ mà lấy toàn bộ quá trình lịch sử trước đây và đặc biệt là những kết quả thực tế của quá trình trước mắt tại các nước văn minh làm tiền đề của họ. Bài những người “CĐ” và K.Heinzen.


4.C.Mác :Chế độ dân chủ là câu đố đã được giải đáp của mọi hình thức nhà nước. Ở đây chế độ nhà nước ngày càng hướng tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân. Góp phần phê phán Tư tưởng pháp quyền của Hegel.NXBCTQG 1995 TI tr349.


Dưới chế độ dân chủ,không phải con người tồn tại vi pháp luật,mà luật pháp tồn tại vì con người.Dấu hiệu đặc trưng cơ bản của chế độ dân chủ là như vậy.sđd tr354.


5.C.Mác: Tự do chính là biến nhà nước,cơ quan đặt trên xã hội,thành cơ quan hoàn toàn phụ thuộc vào xã hội. C.Mác Ăng ghen Toàn tập (bộ cũ)XBST 1980 tr22.


6. Ăng ghen:” Mác cho rằng nói chung, không phải nhà nước quy định và điều chỉnh xã hội dân sự, ,mà xã hội dân sự quy định và điều chỉnh nhà nước.( Góp vào lịch sử của Đồng minh những người “CS”.)


7 .C.Mác : Tự do là biến nhà nước, cơ quan cao nhất của xã hội thành một cơ quan hoàn toàn phụ thuộc vào xã hội,và ngay cả ngày nay nữa, các hình thức nhà nước được gọi là tự do hay không, tùy thuộc ở chỗ trong những nhà nước ấy, hình thức ấy, sự tự do của nhà nước bị hạn chế nhiều hay ít. ( Phê phán cương lĩnh Gôtha.)


8.C.Mác : Luật kiểm duỵệt không phả là luật,mà là biện pháp cảnh sát,và thậm chí còn là biện pháp cảnh sát tồi,bởi vì nó không đạt được điều nó muốn và nó không muốn điều nó đạt được. Mác-Ăng ghen Toàn tập.NXBCTQG 1995 tr98.


9.Đạo Đức Kinh (chương 14): Thái thượng bất tri hữu chi.Kỳ thứ thân nhi dự chi.Kỳ thứ úy chi.Kỳ thứ,vu chi.Minh Chi dịch :Nhà nước tốt nhất ( quản lý giỏi tới mức ngưới dân không biết nhà nước tồn tại.) Dưới một bực là nhà nước mà nhân dân gần gũi và ngợi khen. Dưới nữa là dân sợ. Dưới cùng là dân khinh.


10.Hồ Chí Minh: Cần một cuộc chiến(tranh) đấu đễ chống lại những hư hỏng cũ kỹ. Di chúc, NXBST.(phần viết bằng bút bi màu lục)


11.Ngô Thì Sĩ: Đem đạo thánh hiền đễ quở trách thói đời, không bằng đem đạo đời thường đễ cảm hóa lòng người. Dẫn theo Phan Huy Chú. Lịch triếu Hiến Chương loại Chí,NXBSH 1961 t2 tr71.


12. HCM: Quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý.Toàn tập ST1987t7 tr482.


13. Thơ văn ĐKNT : Nước muốn mạnh thời Dân phải mạnh.


Dân có khôn thì nước mới khôn.


Xin sửa lại:


Nhà nước muốn mạnh, thời dân phải mạnh,


Dân có khôn thì nhà nước mới khôn.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 09, 2013 03:45

Tượng Phật chùa Một Cột đội nón, mặc áo mưa

chua_Mot_Cot_7


Tượng Phật trong chùa Một Cột – một biểu tượng văn hóa Hà Nội – phải đội nón, mặc áo mưa mỗi khi trời mưa vì tình trạng dột nát và xuống cấp của chùa. ( Theo VTC news): Đến thăm ngôi chùa Diên Hựu – Một Cột có lịch sử lâu đời và kiến trúc độc đáo nằm ngay gần Lăng Bác vào những ngày mưa lớn, rất có thể nhiều người sẽ phải ngỡ ngàng trước hình ảnh tượng Phật đội nón, mặc áo mưa, còn các sư trong chùa phải đứng co ro trong làn nước xâm xấp dưới chân. Mỗi lần mưa xuống là trên thì dột, dưới sàn thì lênh láng nước




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 09, 2013 01:42

5 thủ đoạn cai trị dưới thời CNXH

Mao Vũ Thức & Hidematsu Hiyoshi


Lê Thời Tân dịch từ nguyên bản tiếng Trung.


2dba8ce63cb1549403e1384ad120d6b7_LNQL: Trong bài Cách mạng Văn hóa – tội lỗi của ai? đăng ở VHNA ( tại đây), Giao sư Mao Vũ Thức trao đổi với nhà nghiên cứu người Nhật  Hidematsu Hiyoshi đề cập thời kì Cách mạng văn hóa dưới thời Mao với 5 thủ đoan cai trị đặc biệt. Thực ra thủ đoạn cai trị này không phải dưới thời Mao mới có. Nó có ở mọi thời dưới CNXH. Ngay bây giờ ở Trung Quốc và Việt Nam vẫn còn áp dụng, còn Bắc Triều và Cu Ba thì khỏi nói. Vì vậy Quê Choa giới thiệu 5 thủ đoản cai trị này, coi như là đặc sản của CNXH, gọi là 5 thủ đoạn dưới thời CNXH.


Mai này khi Việt Nam không còn CNXH, con cháu ta sẽ rùng mình kinh hãi không hiểu sao bố mẹ ông bà của chúng là chúng ta đây lại có thể sống nổi với 5 thủ đoạn đó, trong khi chính chúng ta lại đinh ninh đó mới thể hiện tính ưu việt vạn lần hơn của CNXH.


Thủ đoạn thứ nhất – Chế độ hộ khẩu


Chế độ hộ khẩu kiểu Trung Quốc phân tách thành thị và nông thôn. Nông dân suốt đời bị cầm cố ở nông thôn, các hộ dân quê không có cách nào để dời lên thành phố. Không có hộ khẩu thành phố thì không có chỗ làm, không có hộ khẩu thành phố thì không có phân phối lương thực, không có hộ khẩu thành phố không những không làm được bất cứ việc gì mà chính ra là không thể sinh tồn. Dân thành phố cũng bị cầm cố tại chính nơi cư trú của mình. Việc chuyển chỗ ở giữa các thành phố cũng vì chế độ hộ khẩu mà chịu sự khống chế hoàn toàn. Chế độ hộ khẩu đó dẫn đến vấn đề bất bình đẳng về mức sống, việc làm, đi học giữa nông thôn và thành phố. Vậy nhưng chỗ giống nhau về quyền lợi chính trị mà dân nông thôn và dân thành phố được hưởng đều là “không có gì”. Chế độ hộ khẩu Trung Quốc còn có một công năng khác, đó là thông qua hộ khẩu cưỡng chế những ai không phục tùng hay có kiến giải độc lập về nông thôn tiếp thu giáo dục lao động cải tạo. Sự khác biệt giữa thành phố và nông thôn kiểu như thế hoàn toàn là do con người tạo nên. Những ai có hiểu biết về thời kì lịch sử đó đều thấy rõ như thế.   


Thủ đoạn thứ hai – Chế độ tem phiếu phân phối


Mao Trạch Đông dùng chế độ phân phối tem phiếu để nắm chặt trong tay mình nguồn nhu yếu phẩm phục vụ đời sống nhân sinh. Bất cứ một số lượng tiêu dùng nhu yếu phẩm nào cần thiết cho sinh hoạt đều được phân phối, người dân không thể tự do có được các nhu yếu phẩm đó. Khi mua lương thực không những cần có sổ mà còn cần cả tem phiếu, có tiền cũng không mua được định mức quy định theo tháng. Điều cần phải chỉ rõ là, phiếu lương thực còn chia thành loại phiếu thông dụng toàn quốc, loại phiếu dùng ở địa phương các tỉnh và loại phiếu dùng cho các thành phố. Trừ loại phiếu lương thực thông dụng toàn quốc ra, hai loại sau chỉ có thể dùng trong phạm vi các tỉnh các thành phố. Người ta không thể xoay trở được nếu như không có phiếu lương thực. Chỉ riêng với chế độ phiếu lương thực đã có thể khống chế được quyền tự do hành động của dân chúng. Nhưng chế độ phân phối của Mao gồm một nội dung hết sức rộng rãi. Tất cả đều được phân phối theo phiếu – có phiếu dầu ăn, phiếu vải, phiếu trứng, phiếu đường, phiếu thịt, phiếu máy khâu, phiếu xe đạp,… Đến tết có phiếu hàng tết. Đủ loại tem phiếu quán xuyến toàn bộ đời sống người dân Trung Quốc.


Thủ đoạn thứ ba – Chế độ hồ sơ lí lịch


Chế độ hồ sơ lí lịch không xa lạ đối với mỗi người dân Trung Quốc. Cho dù anh học ở trường, công tác ở các đơn vị cơ quan hay về hưu ở nhà (về hưu hồ sơ lí lịch được chuyển về khối phố hoặc công xã nơi đương sự sinh sống). Hồ sơ lí lịch theo liền với từng người cho đến hết đời. Chức năng của chế độ hồ sơ lí lịch không thua kém gì một sự theo dõi ngầm của cơ quan công an. Trường học và cơ quan sẽ ghi vào hồ sơ nếu đương sự bị kỉ luật. Những nhận xét hay giới thiệu mà chính đương sự không được đọc thấy hay không được chính đương sự xác nhận cũng được phê viết vào hồ sơ lí lịch. Tính cách tiêu cực hay tích cực của những lời phê đó ảnh hưởng đến đến cuộc sống giữa xã hội của chủ nhân bộ hồ sơ. Những ai có dũng cảm phàn nàn, nêu ý kiến hay phát ngôn trái lạ đều bị ghi vào trong hồ sơ lí lịch. Còn như việc sẽ chịu xử lí như thế nào thì chỉ còn trông chờ vào may rủi. Chế độ hồ sơ lí lịch phi nhân tính đó trên thực tế đã tước đi quyền tự do ngôn luận. 


Thủ đoạn thứ tư – Chế độ giáo dục lao động cải tạo


Giáo dục lao động cải tạo được nói là một loại xử phạt hành chính nhưng trên thực tế rất gống với xử phạt hình sự. Chế độ giáo dục lao động có tính tùy tiện, nó có thể do một đơn vị cơ quan quyết định. Như thế chế độ giáo dục lao động khiến cho các cơ quan đơn vị trở nên rất gần với một cấp tư pháp nhưng tùy tiện và vô pháp luật. Mặc dù nói là  xử phạt hành chính và được gọi là “trị bệnh cứu người” nhưng những người bị bắt đi lao động không những mất quyền tự do nhân thân đồng thời họ cũng trở thành “tiện dân” của xã hội và chịu sự kì thị. Nghiêm trọng hơn là khi mãn hạn lao-giáo rồi người ta vẫn có thể cưỡng chế người bị giáo dục bằng lao động đó ở làm việc tại chỗ. Trên thực tế đó là một thứ tù không kì hạn, suốt đời bị giam thân cảnh tù, mất hẳn tự do. Việc có thể tùy ý thực hiện chế độ lao-giáo đối với dân chúng là biểu hiện của sự khủng bố chính trị thời Mao.


Thủ đoạn thứ năm – Chế độ cơ quan đơn vị


Dưới thời Mao, “cơ quan/đơn vị” trên thực tế chính là chỗ để khống chế cá nhân. Quyền tự do theo đuổi nghề nghiệp bị tước bỏ, tất cả mọi người đều nhận công tác theo sự sắp xếp của nhà nước. Người ta không có quyền chọn công việc và cũng không có quyền từ chối công việc được phân công. Nhà nước không cho phép tùy ý từ chức hay đổi công tác. Mỗi một người suốt đời làm việc ở những vị trí công tác đã được phân công. Tiền lương do nhà nước quy định. Tình trạng đi làm cả đời không có tăng lương là rất nổi bật. Một khi anh rời khỏi đơn vị hoặc bị đơn vị khai trừ đồng nghĩa với việc hoặc là anh đã ra khỏi cái xã hội mà Mao đang khống chế hoặc là anh bị cái xã hội đó khai trừ. Anh sẽ lâm cảnh đường cùng, mất hết nền tảng sinh hoạt. Trong cái chế độ cơ quan-đơn vị đó, để sinh tồn kiếm sống nuôi gia đình anh chỉ có thể phục tùng và phục tùng. Nhân dân Trung Quốc không có tội và cũng không có trách nhiệm về Cách mạng Văn hóa.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 09, 2013 00:37

May 8, 2013

Đất nước đến hoa còn xấu hổ

Trần Mạnh Hảo-DL


h319 Một nhà nước như không còn ai biết ngượng

Lại mọc đầy hoa xấu hổ nơi nơi


Cây thẹn thùng nép cỏ

Lá nhắm hờ mắt gió trêu ngươi


Nói dối mọi nơi

Nói dối mọi điều

Nói dối quá làm hoa đỏ mặt


Muôn năm cái không có thật

Không có thật ở đâu?

Ai áp giải nhân dân phải tìm ra ma xó?

Đất nước nằm mơ trên quả địa cầu

Đất nước khom lưng tìm thiên đường không có

Một thiên đường ý cuội mạo lòng dân


Hoa thay người xấu hổ

Kẻ gian manh mang mặt nạ thánh thần

Hoa xấu hổ mọc trong tờ hộ chiếu

Ra nước ngoài thương người Việt tủi thân


Sự trâng tráo làm vương làm tướng

Xấu hổ ơi xấu hổ mọc nơi nào?

Kẻ ăn cắp lên truyền hình dạy người tự trọng

Lê Chiêu Thống gào: phải yêu nước như tao…


Ai đang chọn quốc hoa giữa thời quốc nhục

Đất nước ơi xin thẹn với Tiên Rồng

Trong băng hoại hoa giữ mình nhân cách

Giữa lòng người hoa xấu hổ còn không?


Sài Gòn 08-5-2013



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 08, 2013 21:43

Kẻ giấu mặt- dư luận viên

Nhà văn Thùy Linh


561205_582164278460351_313041926_nMới đây, trong hội nghị “Tổng kết công tác tuyên truyền miệng năm 2012”, người ta đã đưa ra con số là trong hệ thống tuyên truyền “nói tốt cho chế độ” lên tới 80,000 người – những dư luận viên. Nghe nói họ được trả lương để làm việc theo đơn đặt hàng của chính quyền. Nhưng cho đến nay chưa thấy có cuộc tranh luận chính danh, công khai nào trên các diễn đàn.


 Gần đây vài dư luận viên cũng lập blog để viết bài phản biện lại những “kẻ phản biện nổi loạn”, nhưng chưa nhiều người biết đến. Hầu hết họ lấy nickname như “mõ làng”; “loa phường”; “tre làng”; “vua làm báo”; “người con đấy mẹ”…Dư luận viên này là ai? An ninh tư tưởng văn hóa hay đơn thuần là người được trả lương để viết thể loại “nói tốt cho chế độ” và công kích các blogger?


 Dù nhân thân các dư luận viên này là ai thì thấy nổi bật một đặc điểm giống nhau giữa họ: sự hận thù, tính bạo lực trong ngôn từ khi nhìn nhận các vấn đề và những người bất đồng chính kiến với họ. Họ đã biến các cuộc tranh luận công khai trên diễn đàn về các vấn đề đang tồn tại sự bất đồng trong xã hội thành một chiến trường thực sự giữa hai bờ chiến tuyến.


 Ngoài sự chế riễu cợt nhả, đắc thắng, thóa mạ, họ còn lạm dụng sức mạnh quyền lực để đe dọa blogger đối lập như muốn khởi tố, bắt bỏ tù tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện, JB Nguyễn Hữu Vinh…


 Lạ lùng hơn nữa là trên trang web mang tên ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đăng lại những bài viết như vậy. Dường như họ không ngần ngại bộc lộ giá trị thấp kém, hằn học của cả người viết lẫn người sử dụng các bài viết đó.


 Bao giờ thực sự có tranh luận chính danh công khai, đàng hoàng?


 Nhắc các bạn dự luận viên một điều rằng: các bạn có những 80.000 đồng đội (có thể nhiều hơn thế) với vô vàn lợi thế trong tay: đừng bao giờ tranh luận bắt đầu với những kết luận kiểu như “đây là thế lực thù địch”; “những kẻ cơ hội chính trị: “lợi dụng để chống phá đảng, chính phủ, nhà nước”…Không gì thảm hại hơn khi thể hiện sức mạnh chỉ bằng quyền lực thông qua bạo lực (kể cả bạo lực ngôn từ) chứ không phải bằng trí tuệ và trái tim hiểu biết.


……………………………


 Sau đây giới thiệu cho bạn bè hai bài viết của các dư luận viên của đảng để hiểu hơn những người đang bảo vệ chế độ này là những người như thế nào… ( Tại đây) và ( Tại đây)



 



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 08, 2013 16:19

Nhớ Cụ Phan Chu Trinh với 10 điều bi ai của dân tộc Việt Nam

Trần Kinh Nghị



Pan Chu Trinh (1872-1926)

Phan Chu Trinh (1872-1926)


Sinh ngày 9/9/1872 tại Tây Lộc, Tiên Phước, Tam Kỳ (nay là Tam Lộc, Phú Ninh) tỉnh Quảng Nam, mất ngày 24/3/1926, Cụ Phan Chu Trinh là người Việt Nam đầu tiên (và duy nhất cho đến nay) nhìn thấy trước cảnh “dịch chủ tái nô” (đổi chủ nhưng dân vẫn là nô lệ)…Để tránh điều này, Cụ đã chỉ ra con đường giành độc lập – tự do cho dân tộc là phải bắt đầu từ “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”.


 Lời tiên tri của Cụ xuất phát từ 10 nhận xét vô cùng tinh tế và chính xác về đặc điểm con người Việt Nam mà đối chiếu thực tế ngày nay vẫn còn nguyên thâm căn cố đế (xem dưới đây). Tiếc thay các thế hệ nối tiếp nhau đến nay vẫn chưa thực hiện đúng theo lời lời giáo huấn của Cụ. Dẫu sao, chậm còn hơn không bao giờ, mỗi người Việt Nam chúng ta dù sống ở đâu và làm việc gì, còn trẻ hay đã già hãy chiêm nghiệm những lời dạy trên đây của bậc Tiền bối đáng kính của dân tộc-


 Mười điều bi ai của dân tộc Việt nam


Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh

Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh


 1. Trong khi người nước ngoài có chí cao, dám chết vì việc nghĩa, vì lợi dân ích nước; thì người nước mình tham sống sợ chết, chịu kiếp sống nhục nhã đoạ đày.


 2. Trong khi người ta dẫu sang hay hèn, nam hay nữ ai cũng lo học lấy một nghề; thì người mình chỉ biết ngồi không ăn bám.


 3. Trong khi họ có óc phiêu lưu mạo hiểm, dám đi khắp thế giới mở mang trí óc; thì ta suốt đời chỉ loanh quanh xó bếp, hú hí với vợ con.


 4. Trong khi họ có tinh thần đùm bọc, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau; thì ta lại chỉ quen thói giành giật, lừa đảo nhau vì chữ lợi.


5. Trong khi họ biết bỏ vốn lớn, giữ vững chữ tín trong kinh doanh làm cho tiền bạc lưu thông, đất nước ngày càng giàu có; thì ta quen thói bất nhân bất tín, cho vay cắt cổ, ăn quỵt vỗ nợ, để tiền bạc đất đai trở thành vô dụng.


6. Trong khi họ biết tiết kiệm tang lễ, cư xử hợp nghĩa với người chết; thì ta lo làm ma chay cho lớn, đến nỗi nhiều gia đình bán hết ruộng hết trâu.


7. Trong khi họ ra sức cải tiến phát minh, máy móc ngày càng tinh xảo; thì ta đầu óc thủ cựu, ếch ngồi đáy giếng, không có gan đua chen thực nghiệp.


8. Trong khi họ giỏi tổ chức công việc, sắp xếp giờ nghỉ giờ làm hợp lý, thì ta chỉ biết chơi bời, rượu chè cờ bạc, bỏ bê công việc.


9. Trong khi họ biết gắng gỏi tự lực tự cường, tin ở bản thân; thì ta chỉ mê tín nơi mồ mả, tướng số, việc gì cũng cầu trời khấn Phật.


10. Trong khi họ làm việc quan cốt ích nước lợi dân, đúng là “đầy tớ” của dân, được dân tín nhiệm; thì ta lo xoay xở chức quan để no ấm gia đình, vênh vang hoang phí, vơ vét áp bức dân chúng, v.v…


 



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 08, 2013 07:41

Tản mạn thời tôi sống*

Nhà giáo Trương Quang Đệ


cau-hoi-thiet-ke-websiteMỘT. Trong lúc người ta tìm tòi trong triết học những điều cơ bản về vũ trụ dựa trên sự tương tác đa ngành thì ở ta, các nhà triết học vẫn kiên trì minh hoạ cho các đường lối rõ ràng là đã lỗi thời. Bây giờ ai cũng thấy rõ là các môn Mác-Lê Nin, Kinh tế- chính trị, Chủ nghĩa xã hội khoa học… nên cấp tốc được loại bỏ trong các trường. Thay vào đó là những môn như triết học cơ bản, phương pháp tư duy khoa học, học cách hợp tác, cách tìm lời giải tối ưu… làm sao để học sinh- sinh viên suy nghĩ bằng cái đầu của họ chứ không theo đầu người khác. Chúng ta bị lạc hậu hàng thập niên so với thế giới bên ngoài, muốn đuổi kịp họ thì hành trang phải gọn nhẹ, hữu ích. Phải gạt bỏ những gánh nặng cồng kềnh làm hao tổn sức lực của lớp trẻ.


Bên cạnh việc học tập những học thuyết quan trọng về nhận thức như vừa đề cập trên, ta cần phải xây dựng những lối suy nghĩ lành mạnh cơ bản qua một số phương châm xử thế đã được kiểm nghiệm trong lịch sử.


Một là, trong bất cứ tình huống nào, sự trung thực vẫn phải là nguyên tắc không thể khoan nhượng. Sự trung thực đảm bảo lợi ích lâu dài, tạo nên chữ tín rất quan trọng trong giao thương, quan hệ quốc tế. Tiếc rằng trong một thời gian dài, lãnh đạo không những không rèn luyện cho cán bộ và dân chúng tính trung thực, ngược lại còn khuyến khích sự gian dối, xảo trá. Phong trào thi đua là vật chứng hiển nhiên cho cái gian dối thâm căn cố đế trong cơ quan nhà nước. Trong ngành giáo dục, việc gian dối rất phổ biến đến mức mọi người phải bó tay. Trong buôn bán làm ăn, hiện tượng gian dối quá nghiêm trọng. Bây giờ không có gì an toàn hết: thuốc tây dỏm, thực phẩm độc hại, bằng cấp giả, trường học dỏm vv… Từ lâu, có điều không nói ra nhưng ai cũng lấy làm phương châm xử thế, đó là trung thực thì thua thiệt. Nhà nước và Đảng không có chủ trương gì đáng kể để xoá bỏ lối suy nghĩ đáng buồn đó. Đáng ra phải xử lí thật nghiêm những cán bộ, dầu cấp cao đến mấy, mà thiếu trung thực.


Hai là, nhà nước phải công khai minh bạch trong mọi trường hợp, xoá bỏ lối úp mở che giấu, tung tin đồn thất thiệt. Trừ những bí mật quốc gia được qui định rõ ràng, mọi thứ khác phải thông tin cho dân chúng biết. Các buổi họp từ cao đến thấp phải được mở cửa cho người dân theo dõi. Người dân phải biết các đại biểu thảo luận những gì và trong nội bộ cán bộ ai đúng ai sai. Hiện nay có những sự việc người dân không hiểu mà trên vẫn im lặng, không giải đáp. Nếu minh bạch và công khai thì Mao đã không thể phát động cách mạng văn hoá để giết hại hàng triệu người. Năm 1959, Trung ương Đảng TQ họp hội nghị Tuấn Nghĩa phê bình Mao sai lầm trong việc chủ trương đại nhảy vọt và công xã nhân dân làm cho cả nước đói kém, lụn bại. Nhưng người ta không dám công khai điều đó, chỉ thông báo rằng Mao chủ tịch thôi làm chủ tịch nước để nghiên cứu lịch sử Đảng. Chính vì thế khi Mao quật lại các đồng chí của mình thì không ai biết Mao gian trá cả, cứ tưởng Mao bảo vệ cách mạng chống bọn hữu khuynh, theo tư bản.


Ở ta còn nhiều trường hợp dân chúng không hiểu được rõ ràng, chỉ truyền miệng cho nhau những tình tiết thu nhặt vỉa hè. Có những người từng được coi là kiệt xuất bỗng im hơi lặng tiếng, không biết đi đâu, làm gì. Lãnh đạo ta từ trước đến nay vẫn nghĩ là công khai minh bạch sẽ bị “địch lợi dụng”. Chẳng hạn nói lên sự bất đồng trong nội bộ sẽ làm dân chúng hoang mang, kẻ địch tuyên truyền chống lại ta. Không có gì sai lầm bằng những suy nghĩ như thế. Nếu dân chúng biết ai phải, ai trái trong nội bộ, họ sẽ bảo vệ người phải, chê trách người trái và đảm bảo cho cái đúng thắng thế. Còn nếu dân không biết gì cả thì phái xấu tha hồ thao túng, như Mao là trường hợp nguy hiểm nhất. Mà các lãnh tụ cũng nên nghĩ rằng chính công khai minh bạch sẽ cứu nguy cho họ, nếu họ gặp khó khăn. Chứ như hiện nay làm lãnh tụ đều giống như cỡi hổ, oai vệ đó nhưng rồi bị đày đoạ không biết lúc nào. Trong các nước dân chủ, mọi thứ đều được thảo luận công khai ở nghị trường. Thủ tướng tham nhũng thì bị chất vấn, rồi bị cách chức. Nước ta may thay cũng đang trên đà hội nhập, tức là theo con đường công khai minh bạch, chỉ có điều như vậy là còn ngỡ ngàng đối với thể chế của ta.


Ba là làm lợi cho dân tốt hơn là tìm cách tước đoạt. Thể chế xã hội chủ nghĩa từ thời Lê nin trở đi dùng cách tước đoạt để “đấu tranh giai cấp” (tước đoạt nhà cửa, ruộng đất, nơi thờ phụng, trâu bò, xe cộ). Ở Nga thì người ta tước đoạt bọn tư sản và bọn culắc, ở TQ và ta thì tước đoạt bọn tư sản, địa chủ, trung nông, phú nông, nhà giàu, tiểu thương… Khi đã tước đoạt hết bọn ấy rồi thì tiếp tục tước đoạt bọn mới ngoi đầu dậy như ông vua lốp nổi tiếng ở Hà nội. Và dầu có sai cũng không bao giờ sửa. Quốc hội đã quyết định nhưng Ủy ban nhân dân Hà nội vẫn làm ngơ. Mà Hà nội đúng vì chế độ cần phải trước sau như một! Việc đổi tiền là cách tước đoạt nguy hiểm nhất vì nó làm cho kinh tế quốc dân kiệt quệ. TQ hiện nay đã trả lại cho chủ cũ nhà cửa, dinh thự do cách mạng tước đoạt. Những thứ khác thì đã hư hỏng, làm sao mà trả được. Việc trả lại của cải tước đoạt cũng chỉ thực hiện ở mức độ nhà nước. Còn những thứ mà cán bộ các cấp chiếm đoạt dưới danh nghĩa nhà nước thì chịu. Sau giải phóng, ở miền Nam, những ngừơi có tiền gửi ngân hàng đều coi như mất trắng. Phải xin đủ thứ giấy tờ mới rút được mỗi tháng sáu chục đồng. Những thứ vàng bạc, giấy tờ kí gửi tại ngân hàng cũng mất luôn. Nhưng nếu ai nợ ngân hàng công hay tư, thì đều bị giấy đòi nợ! Thật là một chủ trương quá lỗi lạc, kiệt xuất(!). Nhà nước nếu tìm cách làm lợi cho dân thay vì chăm chăm để tước đoạt, sẽ được dân chúng tin cậy và ra sức bảo vệ. Họ sẽ tự nguyện đóng thuế đúng đắn để ngân khố ổn định.


Bốn là hợp tác tốt hơn nhiều so với ganh đua. Hiện nay các địa phương, các cơ quan, các trường lấy ganh đua làm chính, còn hợp tác là chuyện hiếm hoi. Có những tỉnh tìm cách làm khó khăn cho tỉnh bên cạnh bằng mọi cách. Các trường đại học trong một vùng lại ít khi hợp tác mà chỉ nhăm nhe cản trở nhau một cách kì cục. Ở các nước, người ta đưa vào chương trình trung học cách làm việc tập thể, dạy cho học sinh biết hợp tác với nhau để có năng suất cao. Ở cấp độ quốc gia cũng vậy, chẳng hạn giữa ta và các nước trồng cà phê cần có sự hợp tác thành thực trong một hội nghiêm chỉnh, hơn là mạnh ai nấy lo bán cho được nhiều.


Năm là sâu sắc tốt hơn dàn trải. Nói lại chuyện giao thông chẳng hạn, xưa nay một chủ trương gì đều được thực hiện cho toàn quốc, kết quả ra sao không ai kiểm tra được. Đáng ra chỉ nên lấy một thành phố hay địa phương nào đó làm điểm và làm cho thực tốt. Rồi cứ vậy lan toả dần trong một thời hạn nào đó. Chẳng hạn nếu lấy Hà nội làm điểm thì tập trung sức vào đó mà tạo ra môi trường giao thông thực sự tiên tiến. Ở nơi khác có thể lơi lỏng nhưng một khi xe cộ vào Hà nội thì không còn chuyện lôi thôi được. Người đi bộ cũng phải nghiêm chỉnh hoàn toàn. Và ngay tại Hà nội, không phải nơi nào cũng giống nơi nào. Ở các quận trung tâm phải nghiêm ngặt trăm phần trăm, các huyện ngoại thành cũng nghiêm ngặt nhưng ít cấp thiết hơn. Ngay việc học tập của học sinh- sinh viên cũng cần theo phương châm này. Chương trình hiện nay quá dàn trải khiến không có chỗ nào học sinh nắm sâu sắc cả. Nếu chương trình thu gọn lại nhưng được dạy thật sâu thì hiệu quả hơn nhiều.


Sáu là đất nước phải rút ra bài học cay đắng về bế quan toả cảng trong hơn hai thế kỉ qua mà lấy phương châm “mở cửa là thắng lợi, đóng cửa là thất bại” làm kim chỉ nam. Thực vậy, nước ta đã bỏ qua quá nhiều cơ hội mở cửa giao lưu quốc tế, thêm bạn bớt thù, sánh vai với các nước tiên tiến. Gia Long hợp tác với Pháp để đánh bại Tây sơn nhưng xong việc thì trở lại mô hình phong kiến cũ, không chịu duy tân (quyền lợi ích kỉ của đám quần thần thật đáng ghết biết bao!). Tự Đức không mở cửa nên không những không ngăn được ảnh hưởng của nước ngoài mà còn mất dần hết lãnh thổ. Các mốc 1945, 1954, 1975 đều để các cơ hội trôi qua vì vướng vào ý thức hệ.


Bảy là từ bỏ cái sĩ diện muôn thuở của người Á Đông và sự phô trương của chủ nghĩa xã hội kiển cũ. Yếu kém thì nhận là yếu kém và thành thực kêu gọi cộng đồng quốc tế giúp đõ. Có thế mạnh nào đó thì đừng phô trương rùm beng mà san sẻ kinh nghiệm cho người khác. Ví dụ việc kêu gọi cộng đồng quốc tế giúp đỡ chống bệnh SARS khiến quốc tế đánh giá cao tinh thần đó. Việc công khai các khó khăn và thành thật hợp tác với các nước khắc phục khó khăn là phương hướng rất đúng đắn. Việc phải làm còn nhiều như xoá bỏ dần các lớp luyện gà chọi đi thi quốc tế, tạo phong cách trung thực trong thể thao, loại bò hẳn những cán bộ nhiễm nặng bệnh lừa dối.


Tám là luyện tập thói quen tôn trọng quyền lựa chọn của nhân dân, tức là tạo lập một nền dân chủ thực sự. Không nên tự coi mình là ưu việt nhất, sáng suốt nhất- bởi tiền đề này ngăn chặn hết sự sáng tạo, óc tự chủ, phẩm chất của con người. Anh muốn anh ưu việt thì phải chứng minh bằng thực tế. Nếu anh yếu kém thì phải nhường chỗ cho kẻ khác không xấu hổ gì, không đố kị gì. Việc này còn phụ thuộc vào giáo dục. Làm sao tạo ra những con ngừơi văn minh, nhân ái. Hiện nay việc đó còn xa mới có được. Một con người tiên tiến, văn minh, nhân ái phải có những cách xử sự tiên tiến. Trước hết đó là tính trung dung, tránh mọi cực đoan, không chia sự vật thành các đối lập nhị phân cực đoan kiểu tốt/xấu, hay/dở, được/thua, trung thành/phản bội…Trong thực tế giữa các cực đó còn có cả một gam dài những sắc thái khác. Chẳng hạn giữa trung thành với chủ nghĩa xã hội/chống chủ nghĩa xã hội còn có nhiều từng lớp khác nhau, không nhất thiết phải trung thành hay chống đối. Phải chấp nhận cái tiêu cực nhất thiết phải có bên cạnh cái tích cực như cái phanh hãm bên cạnh cái tăng tốc, cực dương bên cực âm…Xoá bỏ một cực là chuyện không thể làm được mà vô cùng tai hại. Chúng ta đã có những kinh nghiệm chua xót khi cố gắng xoá đi một cực của các đối lập giàu/nghèo, bạn/thù, địch/ta, Đông/Tây, trung thành/phản bội… Suy cho cùng người lãnh đạo hay cả người dân thường phải có đầu óc thực tiễn, lấy thực tế làm cơ sở cho mọi quyết định, tránh giáo điều và a dua theo áp lực của bé phái; lấy trực giác làm trọng, cái gì trái với cảm tính, trái với kinh nghiệm thì phải xem xét cẩn thận.


Phương châm cuối cùng là chỉ làm cái tốt cho mọi người, cái không tốt, dầu do thánh thần nào ra lệnh, cũng không nên tuân thủ mà làm một cách mù quáng.


 


HAI. Thứ xiềng xích tàn bạo nhất hiện nay đối với đời sống nhân dân và đời sống các doanh nghiệp là sự vòi tiền, sự nhậu nhẹt hoành hành mà nhà nước cứ làm ngơ. Tôi đã từng học đại học và làm việc nhiều năm ở nước ngoài. Tôi chưa bao giờ mất tiền cho các cấp hành chính hay chuyên gia nào mà tôi liên hệ cả. Còn khi tôi được mời đến làm việc tại các cơ quan công hay tư, họ không có gì mời tôi ngoài nước lã lấy từ vòi nước trong phòng họp. Văn hoá của người ta là vậy, “ít đậm đà” hơn ta nhưng thật lành mạnh. Ở ta, nhậu nhẹt và vòi vĩnh trở thành thông lệ, không có các chuyện ấy thì không làm được gì hết. Một nghiên cứu sinh ở TP HCM cho tôi biết, anh ta đang làm luận văn tiến sĩ với một thầy ở Hà nội. Mỗi lần vào SG, thầy điện thoại cho học viên chuẩn bị tiếp, không chỉ ăn nhậu nhiều bữa mà còn phải tổ chức cho thầy đi chơi đây đó, tốn kém không kể xiết. Các thầy chấm luận văn cũng vậy, không có tiền cho họ là gay go lắm. Còn các quan chức bên trên có thói quen đi về các địa phương để được nhậu nhẹt và kiếm tiền phong bì. Có lẽ đây là hậu quả của tính công- nông trong giới lãnh đạo. Tôi đã từng chứng kiến nhiều cán bộ có gốc công- nông rất thích nhậu nhẹt, thích diễu hành, thích hội họp khoa trương hình thức. Ngược lại họ dị ứng với nghiên cứu, với học tập, với ngoại ngữ. Đã đến lúc nói thẳng ra việc ấy để chấn chỉnh tình hình.


Tôi thấy đã đến lúc cần thiết phải chốt lại một số nguyên tắc điều hành sự sống, trong đó có cả vấn đề lãnh đạo chính trị và văn hoá, kinh tế. Các đây ít lâu, nghị viện châu Âu thông qua nghị quyết lên án chủ nghĩa cộng sản, coi đó là thể chế chính trị cần tránh bằng bất kì giá nào. Chúng ta đã từng sống dưới chế độ do Staline và Mao chỉ đường, đã từng làm những chuyện phiền hà cho dân tộc. Sau này, bất kì ai lãnh đạo đất nước, chúng ta mong muốn họ rút kinh nghiệm lịch sử để tuân thủ những nguyên tắc quan trọng như sau:


1. Một chủ trương chính trị nào đó gây ra việc giết hại dù chỉ là một thường dân vô tội đều phải bị lên án. Ai đề ra chủ trương đó phải chịu trách nhiệm, phải bị cách chức, xử lí trước pháp luật và nhà nước phải bồi thường cho những nạn nhân.


2. Không được phép tước đoạt, dầu với danh nghĩa nào, tài sản của nhân dân như ruộng đất, nhà cửa, phương tiện đi lại, trâu bò vv.Chỉ được quyền tịch thu của cải vì thi hành án.


3. Bất kì ai lãnh đạo cũng phải lấy sự tiến bộ làm chuẩn, không dưới danh nghĩa nào để hạn chế sự tiến bộ. Trong những nhân tố tạo nên sự tiến bộ có tự do cá nhân, quyền con người, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và nam nữ bình đẳng. Nhà nước phải thế tục (không có màu sắc tôn giáo), của toàn dân không phân biệt tôn giáo, chủng tộc. Nhà nước không để một tôn giáo nào lên trên các tôn giáo khác. Bộ văn hoá qui định những lễ nghi phú hợp với nguyên tắc trung tính của chính phủ. Hiện nay, các vị lãnh đạo có thói quen thắp hương vái lạy ở các tượng đài liệt sĩ hay các nơi rhờ cúng. Họ không nhận ra rằng làm như vậy là lấy việc thờ cúng tổ tiên – trên cơ sở Nho và Lão – làm tôn giáo chủ đạo trong đời sống. Đáng ra họ chỉ đứng nghiêm thực hiện một phút mặc niệm là đủ, vì đó là điều mà mọi tôn giáo đều chấp nhận.


4. Xây dựng nhà nước pháp quyền lành mạnh nhưng đồng thời lấy sự khoan dung làm phương châm xử thế. Hiện nay tuy đã muộn nhưng việc hoà hợp dân tộc vẫn còn là nghĩa vụ hàng đầu của các nhà lãnh đạo, là thước đo lòng yêu nước của họ. Sau 1975, nhầm tưởng rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng lợi hoàn toàn trên trái đất, các nhà lãnh đạo Việt Nam không cần hoà giải dân tộc nữa, muốn thực thi đấu tranh giai cấp toàn diện ngay. Nước ta đã bỏ lỡ cơ hội quí giá mà phải ba mươi năm sau mới thấy ra.


5. Từ bỏ mọi giáo điều, mọi lí thuyết không phù hợp với lòng dân. Chỉ thực hiện điều gì mà con tim cảm nhận là có ích cho dân, cho nước.


6. Vững tin vào sự mở cửa thông thoáng trong quan hệ quốc tế. Việc hội nhập quốc tế, việc từ bỏ tham vọng đấu tranh giải phóng loài người theo kiểu Lê Nin phải dứt khoát và thành thực. Hội nhập và làm bạn với toàn thế giới chỉ có lợi chứ không có hại gì hết. Sự bế quan tỏa cảng, sự cảnh giác chống người nước ngoài, việc kì thị chủng tộc đều là biểu hiện của chế độ lạc hậu, lỗi thời.


7. Tìm cách xoá bỏ tất cả những hình thức bạo lực trong đời sống chính trị xã hội. Thay những cuộc hội nghị vô bổ bằng những điều tra xã hội học, những trao đổi ý kiến thẳng thắn trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là các quan chức phải đàm thoại thường xuyên trên mạng với cánh trẻ.


BA. Một sự kiện khác rất nhỏ nhưng phân tích tín hiệu học cho thấy tầm tư duy của lãnh đạo miền Bắc đối với khái niệm dân tộc hình thành qua lịch sử chiến đấu như thế nào. Sau khi hiệp định Paris ký kết đầu năm 1973, một phái đoàn quân sự VNDCCH, tức là miền Bắc, đồn trú tại sân bay Tân Sơn Nhất. Vào dịp Tết năm 1974, mặc dầu khó khăn về phương tiện, trung ương quyết tâm đưa một cành đào Hà nội vào cho phái đoàn vui Tết và để cho phe Sài gòn và Mỹ thấy đào Hà nội đẹp như thế nào. Việc đưa cành đào Hà nội vào Nam coi như một việc quốc gia hệ trọng và niềm tự hào về cành đào là cần phát huy triệt để.


Hồi đó khi nghe các vị tuyên huấn hào hứng nói chuyện về cành đào trong các buổi báo cáo thời sự ở Hà nội, tôi không khỏi giật mình vì tính chất nghiêm trọng của sự việc. Những người chủ trương đưa cành đào vào Nam bây giờ chỉ thấy mỗi một việc: họ đại diện cho lực lượng tiền đồn xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, họ sẽ dùng cành đào đè bẹp cành mai. Thắng lợi tương lai sẽ là thắng lợi của xã hội chủ nghĩa miền Bắc đối với miền Nam tư sản. Nếu tôi là trưởng phái đoàn đóng tại Tân sơn Nhất, vào dịp Tết, tôi ra chợ Bến Thành mua một cành mai, hay cành đào nếu có đem về nhà vui tết. Tôi là người Việt thì ăn tết nơi nào cũng là trên đất Việt, cành mai hay cành đào đều được cả. “Tư duy cành đào” đã thể hiện bản chất của nó sau ngày giải phóng trong tất cả các lĩnh vực kinh tế chính trị xã hội.


Tác giả gửi Quê Choa


 Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả


 ……………………..


*Mượn tên bài thơ của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 08, 2013 06:14

Nguyễn Quang Lập's Blog

Nguyễn Quang Lập
Nguyễn Quang Lập isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Quang Lập's blog with rss.