Nguyễn Quang Lập's Blog, page 42
April 10, 2013
Truy bức đến ba đời?
Đứa bé một tháng tuổi và người mẹ trẻ nầy là tội phạm quốc gia cần phải trừng trị?
Thời phong kiến, vua tự cho mình là con trời, ai có ý gì không đồng tình với vua liền bị ghép vào tội phản nghịch, bị tru di đến ba họ và xử trảm đến ba đời.
Tưởng cái thời mông muội ấy đã qua, đất nước đi vào thời kỳ văn minh dân chủ, quyền con người được tôn trọng như pháp luật đã ghi, người dân có quyền nói lên bất kỳ ý kiến nào của mình, dù cho tiếng nói ấy có khác với đường lối của bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào, miễn không vi phạm pháp luật.
Ấy vậy mà không phải như thế. Ông Huỳnh Ngọc Tuấn vì những bài viết đi ngược lại chủ trương đường lối của đảng cầm quyền cách đây trên mươi năm, đã phải bị đi tù.
Tưởng rằng chỉ mình ông làm thì ông chịu (dù không đúng). Nhưng không, các con ông đều bị liên lụy. Con gái lớn của ông là Huỳnh Thục Vy đã không vào được đại học, phải tự học ở nhà rồi sau đó bị biết bao điều phiền nhiễu kể ra không hết. Con trai ông là Huỳnh Trọng Hiếu, mới đây bị cấm đi ra nước ngoài một cách bất ngờ, khi đã ra đến sân bay, mà không cần có lý do chính đáng. Rồi mới đây nhất, con gái út của ông là Huỳnh Khánh Vy, được học bổng đi Úc thì bị gây cản trở một cách khó hiểu để rồi phải bỏ học.
Nhưng vẫn chưa hết, việc trả thù còn được đẩy đến tận cùng của sự ti tiện mà ngay cả quan lại nhũng nhiễu thời phong kiến thối nát cũng không thể nào hạ tư cách của mình xuống thấp hơn nữa để gây ra. Khi Huỳnh Khánh Vy lập gia đình, hai vợ chồng trẻ không dám ở trong nhà của ông Tuấn, nơi liên tục bị quấy nhiễu, bèn thuê một căn phòng tạm trú tại Đa Nẵng để tìm sự yên ổn cho sự ra đời của đứa con đầu lòng.
Thế nhưng thế hệ thứ ba của gia đình họ Huỳnh nầy vẫn không được yên ổn kể từ lúc chưa sinh ra đời. Chủ nhà cho đôi vợ chông trẻ thuê và đôi vợ chồng trẻ liên tục bị hạch sách quấy nhiễu. Đứa bé trong bụng mẹ phải liên tục theo mẹ di chuyển chỗ ở, từ khi thụ thai cho đến lúc chào đời, đến 5 lần.
Cuối cùng khi bé chào đời, hai vợ chồng trẻ phải đành đưa cháu về Tam Kỳ, nhà ông ngoại Tuấn để trú ẩn vì không còn chỗ nào để thuê được nhà dù biết về đây cũng chẳng an toàn gì.
[image error]
Tội phạm một tháng tuổi?
Quả nhiên đúng như vậy, chỉ ở được vài đêm, nhà ông ngoại Tuấn liền bị bọn xấu (???) lén lút ném mắm tôm và cá thối vào nhà. Nôi đứa bé chưa tròn tháng tuổi cũng ướt đẩm nước cá thối. Đứa bé một tháng tuổi ấy cũng là tội phạm quốc gia hay sao?
Nếu xét thấy ba đời nhà ông Huỳnh Ngọc Tuấn đều có tội trước pháp luật thì cứ mang cả ba đời ấy ra xét xử và cần thiết cứ xử trảm hết kể cả đứa cháu ngoại chưa tròn tháng tuổi như thời phong kiến cho hả dạ. Còn nếu không căn cứ vào pháp luật để buộc tội được ba đời nhà họ thì hãy để họ sống tối thiểu cho ra những con người.
Chúng ta có còn đang sống trong thời đại văn minh và trong xã hội loài người hay không đây?
Xem nhật ký trên Facebook của Jane Hoàng Huỳnh Thục Vy để cảm nhận cái cùng cực của sự ti tiện mà ba đời nhà nầy phải gánh chịu.
[image error]
Jane Hoang
ngày 4 tháng 4
Lại những trò bẩn của an ninh cộng sản (5 ảnh)
Nửa đêm ngày 3 tháng 4 năm 2013, lúc cả gia đình đang ngủ, thì ba tôi nghe tiếng xe gắn máy trờ tới trước nhà, sát chỗ ông ngủ (phòng ngủ ba tôi ngay sát mặt đường làng). Sau đó, là tiếng ào ào, nước văng tung tóe và một mùi hôi thối kinh khủng bốc lên. Ba tôi bật dậy và thoáng thấy chiếc xe máy chở hai tên thanh niên rồ ga bỏ chạy. Cả nhà thức giấc và hiểu ra đó là trò bẩn thỉu của an ninh mà nhiều người bất đồng chính kiến đã từng phải chịu trước đây như cụ Hoàng Minh Chính, bà Trần Khải Thanh Thủy… và gần đây là chị Bùi Hằng. Nhân tiện, xin nhắc lại là trước đó, họ đã bỏ hai con rắn độc vào nhà tôi năm ngoái. Khi tôi làm việc với an ninh, tôi đã tố cáo họ dùng rắn độc hãm hại người nhà tôi. Tên an ninh Huỳnh Ngọc Truyền đã nói: “Gia đình mấy người làm gì để hàng xóm căm thù mà muốn giết mấy người đó thôi”. Vậy là cả đêm hôm qua, cả nhà tôi mất ngủ kẻ cả em bé chưa đầy một tháng tuổi, một sản phụ còn yếu và một cụ già 87 tuổi. Có một điều lạ là, những nhà hàng xóm xung quanh nhà mình mọi ngày cứ đến tối là thắp điện sáng trước cửa nhà, ngay sát đường. Nhưng đếm qua, cả ba nhà đó đồng loạt không thắp điện như mọi hôm.
[image error]
Mắm thối được tạt vào ngôi nhà của thế hệ thứ nhất: Nhà ông Huỳnh Ngọc Tuấn
[image error]
Dọn dẹp đến 4g sáng vẫn chưa hết mùi thối
[image error]
Nước thối chảy ra khắp đường
Jane Hoang
4 tháng 4
Rứa là hết cả bao dủ dẻ của em gái mình. Người quê mình khi sinh đẻ xong hay uống thứ nước nấu từ thân cây dủ dẻ để bổ sung chất sắt. Đó là loại nước uống dân gian lâu đời và cũng rất thơm ngon. Nhưng cả bao dủ dẻ đã bị nước cá thối đổ vào tối hôm qua. Ba mình, em rể, em trai và cả chồng mình đã mất hai ngày để đi chặt những cây dủ dẻ hiếm hoi còn sót lại ở vùng quê mình đem về để dành. Cái nôi em bé chưa kịp nằm cũng ướt đẫm nước bẩn. Giờ cái phòng ba mình còn nguyên cái mùi như mùi tanh hôi như cái mùi ở những bến cảng cá. Ai đã từng sống gần những bến cá này mới biết được. Khổ kinh! Mình không tức giận, chỉ thấy buồn nôn. Cái mùi cá thối, tôm chết giống y như mùi của chế độ cộng sản. Cả nhà mình đang chuẩn bị tinh thần để chờ đón những đợt sách nhiễu tiếp theo. Xin cô chú bác, anh chị em yểm trợ tinh thần.
[image error]
[image error]
Phải di chuyển chỗ trọ 5 lần từ ngày mang thai đến ngày sinh
[image error]
Thế hệ thứ 2 và thứ 3: Cậu và cháu không lúc nào được yên thân
Jane Hoang
Ngay 9 tháng 4
Hai mẹ con
Cha mẹ bé phải chuyển chỗ trọ 5 lần khi mẹ bé mang thai bé. Bé sinh thiếu một tháng và bị
vàng da.
Nhớ chị Bội Trâm, thời rượu chịu cá trộm văn chui
Mình kể chuyện chị Bội Trâm làm vợ cho nhiều cô, bà nghe. Ai cũng cảm phục tấm lòng của chị nhưng khi hỏi họ: nếu rơi vào hoàn cảnh như chị Bội Trâm thì cô bà có làm được như chị không, đa số đều trả lời không, không dám và không muốn. Mình cho chị Trâm biết, chị cười, nói chị cũng không dám và không muốn, chẳng qua trời khiến thì chị phải sống thôi. Mình hỏi nhỏ chị, nói em hỏi thật chị nhé, sống với anh Quán chị có thấy hạnh phúc không. Chị im lặng hồi lâu rồi thì thầm, nói nhiều lần anh Quán hỏi chị vậy, lần nào chị cũng chỉ một câu trả lời: nếu không hạnh phúc em đã bỏ anh lâu rồi.
Mình cũng đã nghe nhiều cô, bà nói với mình như vậy, bà xã nhà mình cũng nói với mình như vậy, hi hi… Nhưng làm được như chị Bội Trâm khó có ai dám. Suốt cả cuộc đời ngụp lặn trong túng thiếu ( cả tình cảm lẫn vật chất) để tìm kiếm hạnh phúc, trong số phụ nữ mình quen biết chắc chỉ có chị Bội Trâm, không còn ai.
Cưới xong anh Quán phải đi lao động cải tạo ở Thái Bình, Thanh Hoá, Việt Trì. Chẳng ai buộc anh phải đi cải tạo cả, Hội nhà văn, Bộ văn hóa muốn Phùng Quán trở thành nhà văn tốt nên động viên anh đi thôi, hi hi. Thời đó nó hồn nhiên như thế, nhà văn tài không quan trọng bằng nhà văn tốt, nhà văn tốt là nhà văn biết ba cùng với nông dân. Bác Tô Hoài kể Phùng Quán trở thành “vua phân bò” từ đó, những ngày ba cùng ở Thái Bình anh nhặt phân bò tài đến nỗi hố ủ phân vừa đào xong đã đầy, dân không kịp đào hố ủ cho Phùng Quán.
Mọi người phong Phùng Quán là “vua phân bò”, anh phấn khởi lắm, nói nhờ rứa mà văn Phùng Quán khỏi bị thối như phân. Anh còn xung phong lên rừng núi Thái Nguyên suốt ba năm liến, một mình canh mấy hecta ngô khoai sắn của cơ quan. Mình hỏi anh Quán, nói anh xung phong thiệt à? Anh cười cái hậc, nói người ta gợi ý mình xung phong thì mình xung phong chớ răng. Chẳng ai ép mình, chỉ nói tùy đồng chí thôi, nhưng thời đó cái chữ tùy dễ sợ lắm.
Trong suốt mười năm sau ngày cưới, chị Trâm ở nhà mẹ phố Hàng Cân, anh Quán đi cải tạo lao động thỉnh thoảng về nhà mẹ nuôi là bà Tưởng Dơi, vợ chồng lại gặp nhau ở đấy, bí mật lén lút như đang yêu vậy. Ngay cả khi có hai mặt con, cái Quyên và thằng Quân, anh chị cũng chỉ dám hẹn hò gặp nhau ở nhà bà Tưởng Dơi, chưa dám công khai cho mọi người biết, “phần tử chống đảng” dễ sợ vậy đó.
Anh Quán đi cải tạo chị Trâm một mình nuôi hai đứa con, đến khi anh Quán trở về, chị còn phải nuôi thêm anh Quán. Nuôi thêm anh Quán tức là nuôi thêm bạn bè của anh Quán nữa. Từ khi trường Chu Văn An thương tình cho vợ chồng anh Quán ở tạm nơi chứa đồ mộc thí nghiệm của nhà trường, có chỗ chui vào chui ra, nhà chị không khi nào ngớt khách, luôn luôn có ít nhất một bạn anh Quán ăn ở trong nhà anh chị. Lương giáo viên cấp 3 chỉ dùng được một tuần là hết, thỉnh thoảng anh Tuân Nguyễn, anh Xuân Đài lấy một phần lương của họ đưa cho chị Trâm nhưng cũng chỉ như muối bỏ bể, không ăn thua.
Nhiều lần tan lớp chị Trâm đứng ở cổng trường, ngẩn ngơ không biết phải đi đâu, làm gì có được một, hai đồng đi chợ. Tất cả những gì bán được đều đã bán, tất cả những ai vay được đều đã vay, phòng tài vụ đã cho ứng trước mấy tháng lương rồi, không thể ứng thêm được nữa. Khi đó chỉ có khóc, trông chờ ông Bụt hiện ra hỏi vì sao con khóc, chẳng có cách nào khác. Chị Trâm không khóc, ông Bụt cũng không hiện ra, nhưng lần nào cũng vậy, cái số “có quí nhân phù trợ” đã giúp chị qua được cơn bĩ cực. Thế nào rồi cũng có người đi qua, khi thì bạn chị khi thì bạn anh Quán, nói đứng làm gì đó hả con kia, sao trông cái mặt như mặt mất sổ gạo thế hả? Rồi người đó dúi cho một hai đồng, rất nhiều lần như thế.
Cũng rất nhiều lần cầm một hai đồng về nhà chị thấy trong nhà vài ba người khách, bữa cơm rượu hèn lắm cũng phải mất năm sáu đồng. Chị cứ xách giỏ đi liều ra chợ, hy vọng cái số “ có quí nhân phù trợ” sẽ giúp chị. Nếu hỏi nếu chẳng ai giúp thì sao, chị cũng chỉ biết cười trừ, chị hoàn toàn không có câu trả lời. Trời đã trả lời giúp chị, đúng vậy, trời đã giúp chị, chưa khi nào chị phải xách giỏ không trở về.
Một lần bà hàng cá thấy chị đứng tần ngần trước mớ cá chép, lật đi lật lại cái đầu cá mà không dám hỏi giá, hỏi làm sao khi túi chị chỉ còn có hơn một đồng. Mãi rồi chị cũng phải đứng dậy bỏ đi. Bà hàng cá liền gọi giật hỏi nhỏ, nói vợ Phùng Quán phải không? Và rồi con cá chép hai cân có người mua bốn đồng rưỡi không chịu bán đã lọt vào cái giỏ nhựa rách của chị. Chị xách con cá ra khỏi chợ không biết mơ hay thực nữa, lâu lâu lại nhìn vào giỏ, chỉ sợ con cá tự dưng biến mất.
Anh Quán nghe chị Trâm kể cảm động lắm, quyết ra Hồ Tây câu trộm một con cá chép hai cân trả ơn bà hàng cá. Không câu được cá chép hai cân, bù lại anh câu được sáu con cá mè và hai con cá chuối, con nào con ấy cỡ một cân. Chị mang hết ra tặng lại bà hàng cá. Bà hàng cá mừng lắm, trả chị mười hai đồng, nói ơn nghĩa là đây, em giúp chị có cá bán buôn là may cho chị lắm rồi. Từ nay chị em mình dựa vào nhau mà sống. Nghề cá trộm của Phùng Quán bắt đầu từ đó.
Còn văn chui thì thế nào? Chị Bội Trâm mỉm cười, nói cũng nhờ bác Thanh Tịnh cả đấy. Trước đó anh Quán chẳng dám nghĩ đến cái nghề văn chui đâu, nhờ bác Thanh Tịnh bày cho đấy.
Chuyện là thế này.
Xưa làm ở Văn nghệ Quân đội, Phùng Quán vẫn hay hầu rượu hầu trà Thanh Tịnh, họ là đồng hương Thừa Thiên- Huế. Sau vụ Nhân văn giai phẩm, Thanh Tịnh là người duy nhất trong Văn nghệ quân đội vẫn quan hệ với Phùng Quán (là nói thời kì đầu, về sau còn có Tào Mạt), ông vẫn hay đến nhà Phùng Quán chơi, thân thiết cả hai vợ chồng.
Một hôm chi Bội Trâm đạp xe về phố Hàng Cân, dọc đường gặp Thanh Tịnh đang đi bộ trên vỉa hè, bác vẫy chị dừng xe, nói tao nghe nói thằng Quán rượu chè ghê lắm, tiền rượu chịu lên bạc nghìn có phải không? Chị giật mình ngạc nhiên, nói đâu có anh, anh Quán có rượu chịu nhưng chỉ năm bảy chục một trăm đồng là anh í trả thôi mà. Thanh Tịnh lắc đầu nhăn mặt, nói cô còn bao che cho chồng nữa. Chúng nó bảo tiền rượu lên tới ngàn hai rồi đó, có bán nhà cô chú cũng không đủ trả.
Chị Trâm thất sắc chạy về nhà bà chủ hàng rượu, cái cột nhà vạch vôi chi chít, cứ một lít là một vạch, có đến hàng trăm vạch như thế, tính ra chừng bốn trăm đồng. Chị thở phào nhẹ nhõm, bốn trăm còn hy vọng trả được chứ nghìn hai thì chắc chết. Bà chủ chỉ cho chị Trâm ba cột khác đầy vạch, nói còn ba cột năm ngoái đây nữa cô Trâm ơi. Chị hoa mắt, suýt té xỉu. Chị về nhà ngồi khóc một mình không biết ngỏ cùng ai. Anh Quán hiếu khách. Hễ có khách là có rượu, ngày nào cũng vài ba khách, tích tiểu thành đại giờ lên đến ngàn hai trăm đồng. Thất kinh. Cái nhà mặt tiền phố Huế lúc đó cũng giá nghìn hai trăm đồng chứ bao nhiêu đâu.
Vừa lúc Thanh Tịnh đến chơi, thấy chị khóc ông mắng át đi, nói khóc có ra tiền ra bạc được không? Lôi đống bản thảo thằng Quán cho tao xem may ra có thể in được cái gì. Chị Trâm càng khóc to hơn, nói anh ơi anh Quán bị treo bút, ai cho in mà in. Thời buổi nhất thân nhì quen này lấy tên người lạ người ta không in cho đâu. Anh Tịnh cốc đầu chị Trâm, nói vợ chồng chúng mày ngu lắm, không cho lấy tên thằng Quán thì lấy tên bạn bè thằng Quán, ít nhất cũng có tên tao. Tao cho nó mượn tên cả đời.
Anh Quán về nhà, chị Trâm kể cho anh nghe, anh nhảy lên hú mấy tiếng, nói sáng kiến sáng kiến, Thanh Tịnh muôn năm! Hôm sau anh Quán ôm chồng kí sự Vĩnh Linh đất lửa đến nhà Thanh Tịnh, nói chọ ni được mấy trăm đồng? Thanh Tịnh ngắm nghía gật gù, nói chọ ni được chừng tám trăm. Mày về viết thêm cuốn Nghệ thuật viết tấu và đọc tấu nữa, ráng bôi ra hơn trăm trang cũng được bốn trăm đồng, vừa đủ trả nợ tiền rượu. Anh Quán nói cuốn ấy có đặt người ta mới in, mình tự viết không ai in cho đâu. Anh Tịnh cú đầu anh Quán, nói ngu lắm. Mày không nhớ tao là cây tấu nổi tiếng à. Nhà xuất bản văn hóa đặt tao viết cả năm rồi nhưng tao nhác chưa viết được, mày viết đi.
Mấy tháng sau hai cuốn sách lấy tên Thanh Tịnh ra đời, Thanh Tịnh tự đến Nhà xuất bản lấy nhuận bút đưa cho chị Trâm. Anh Quán biện mâm rượu nhỏ đội đến nhà Thanh Tịnh, anh quì sụp xuống vái Thạnh Tịnh ba vái, nói sư huynh đã chỉ cho em con đường sống, đội ơn sư huynh suốt đời.
Cái nghề văn chui của Phùng Quán cũng bắt đầu từ đó, cũng từ đó anh Quán chị Trâm sống trong nơm nớp lo sợ. Lo bà chủ hàng rượu đòi nợ bất ngờ, chưa bao giờ bà đòi nợ anh Quán cả nhưng phàm đã mắc nợ không thoát được sự lo. Lo nhất vẫn là lo trộm cá bị bắt, văn chui bị phát hiện. Ba chục năm sống trong nơm nớp, nghe tiếng chó sủa lạ cũng giật mình thon thót, khổ thân anh Quán chị Trâm.
Sau ngày anh Quán mất, mình nghĩ chị Bội Trâm sẽ khó khăn về kinh tế nên cố tìm mọi cách tái bản sách anh Quán để chị có thêm đồng vào đồng ra. Bộ Tuổi thơ dữ dội được Nhà xuất bản Kim Đồng in thành 6 tập rất đẹp, nhuận bút tính kịt tường, mình mừng lắm vội vàng đem lên cho chị. Chị Trâm ôm bộ sách đặt lên bàn thờ, nói anh ơi, nhà Kim Đồng vừa in Tuổi thơ dữ dội đẹp chưa này. Mình đưa nhuận bút cho chị, chị đặt lên bàn thờ, nói Lập nó đưa nhuận bút đây anh, nhiều thế này em tiêu làm sao hết. Vừa nói xong chị bật khóc, ngồi run rẩy bên bàn thờ không nói được câu nào nữa.
Sau rồi chị tâm sự, nói ngày anh Quán mất, anh em bạn bè cúng rất nhiều tiền, đến mấy chục triệu chứ không ít. Một mình chị Trâm chỉ tiêu hết 5 ngàn một ngày, lương hưu tiêu hảy còn thừa, chị không biết làm gì với mấy chục triệu tiền cúng. Mình cười, nói chị lo bò trắng răng, lo gì lại lo thừa tiền. Chị xua tay, nói không không, ý chị không phải vậy. Mình hỏi sao. Chị ngồi thừ hồi lâu rồi khẽ thở dài, nói mấy chục năm sống với anh Quán không một ngày nào chị không mơ có được nhiều tiền nhưng không bao giờ có. Bây giờ có nhiều tiền rồi anh Quán lại bỏ chị mà đi.
Chị ngồi run rẫy bên bàn thờ, ngước nhìn anh Quán, nước mắt dàn dụa.
NQL
Mộ anh chị Phùng Quán- Bội Trâm
Thấy gì khi đọc kỹ bản Dự thảo Hiến Pháp?
Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh-Blog BVB
Có những điểm mâu thuẫn. Điều 2 Chương I ghi “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…”. Nhưng nhân dân không được làm và phúc quyết Hiến pháp là văn bản luật cơ bản và cao nhất liên quan đến quyền lợi của dân và chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của chính quyền. Điều 74, 75 chương V ghi “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến… làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp…” là phủ định quyền được làm và phúc quyết của dân.
Việc làm này trái với tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện trong Điều 21 của Hiến pháp 1946 ghi “Nhân dân có quyền phúc quyết Hiến pháp…” và Điều 70 trong Hiến pháp đó ghi: “Những điều thay đổi khi đã được nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”. Mấy năm trước Đảng đã phát động học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nay sao lại làm trái tư tưởng của Người?
Điều 15 trên thực tế vô hiệu hóa gần hết Điều 26. Điều 26 ghi: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, được hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”. Khoản 2 Điều 15 ghi: “quyền con người, quyền công dân “chỉ có thể” bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe cộng đồng”. Nói “chỉ có thể bị giới hạn”… là nói “khéo”, thực ra trong thâm ý là “có thể bị giới hạn”… Trước đây đã thế, sau này thiếu gì cách người ta viện cớ “ảnh hưởng an ninh quốc gia, ảnh hưởng trật tự an toàn xã hội và đủ thứ v.v…” để hạn chế quyền của dân, để cấm.
Có những điều trong “dự thảo” mới đọc tưởng là rất dân chủ, nhưng rất khó khả thí, ví dụ:
Khoản 2 Điều 4 ghi “… Đảng… chịu sự giám sát của nhân dân…”; Khoản 2 Điều 8 ghi: “… cán bộ, công chức, viên chức… chịu sự giám sát của nhân dân…”. Bằng cách nào, những việc cần biết lại không được biết thì làm sao giám sát được? Cơ chế gì để dân thực hiện quyền giám sát?
Có những điều ghi chung chung trong “dự thảo” chẳng có ý nghĩa gì, ghi cũng bằng không, ví dụ:
Điều 35 ghi: Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội.
Điều 41 ghi: Công dân có quyền được bảo vệ sức khỏe.
Điều 46 ghi: Mọi người được sống trong môi trường trong lành.
Ai đảm bảo cho? Nhà nước? Bộ Y tế? Bộ Tài nguyên môi trường? Nếu người dân tự đảm bảo lấy thì ghi vào Hiến pháp làm gì?
Điều 32 Khoản 4 ghi không rõ: “Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần…”. Cá nhân hay tổ chức nào bồi thường? Nếu không rõ thì lại chỉ là “đánh bùn sang ao” mà thôi.
Điều 59 trong Hiến pháp năm 1992 ghi 2 ý:
Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí.
Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hóa và học nghề phù hợp.
là rất đúng và rất cần thiết, tại sao Điều 42 “dự thảo mới” lại bớt đi. Chả lẻ mang danh là Nhà nước XHCN lại cắt xén phúc lợi của dân và bớt trách nhiệm của Nhà nước; Điều 42 cần ghi lại 2 ý nói trên.
Điều 71 Hiến pháp năm 1992 ghi câu: “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.” là rất đúng pháp luật và rất cần thiết để bảo vệ quyền công dân. Tại sao Điều 22 “dự thảo mới” lại bỏ đi? Thế là buông lỏng cho các nhà chức trách tùy tiện muốn bắt ai thì bắt như từ trước đến nay sao? Nếu thật sự tôn trọng, đảm bảo quyền của công dân thì Điều 22 khoản 1 phải ghi lại câu:
“Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.”
Nói về nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang, Điều 45 Hiến pháp 1992 ghi: “Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân… chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc…” là rất đầy đủ và cụ thể. Tại sao ỦY BAN sửa đổi Hiến pháp lại bỏ đi những ý kiến mà chỉ ghi “… bảo vệ vững chắc Tổ quốc”. Không thể lập luận là “bảo vệ Tổ quốc” là đủ cả, nhất là trong tình hình Trung Quốc đã và đang dùng mọi thủ đoạn tranh cướp chủ quyền biển đảo của chúng ta. Chẳng lẽ ý của Ủy ban dự thảo là “đành bỏ chủ quyền” hoặc ghi như Điều 45 Hiến pháp 1992 là “phật lòng Trung Quốc”, “không giữ được tình hữu nghị”?
Yêu cầu nhất thiết phải ghi: “Các lực lượng vũ trang có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc…” vào Điều 69 mới.
Điều 57 vẫn ghi “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” là không hợp lý, bất công và sinh nhiều tiêu cực tệ hại. “Sở hữu toàn dân” thành ra “không ngươi dân nào có quyền sở hữu cả”. Người có ruộng đất từ mấy đời ông cha để lại, người trước đây tích cóp được tiền mua được mảnh đất, thửa ruộng nay cũng bị tước mất quyền, không còn là của mình nữa. Nhà nước quản lý thực chất là các cấp chính quyền tha hồ có quyền thu hồi, cấp, bán đất.
Từ trước đến nay biết bao nhiêu vụ thu hồi đất ruộng của nông dân gây nên bức xúc, khiếu kiện, giao cho người có tiền kinh doanh lấy lãi kếch xù, thu hồi đất quá mức giao cho nhà kinh doanh địa ốc khiến nông dân thất nghiệp sống vật vờ và hàng vạn căn hộ trên nhà cao tầng thừa ế, thúc ngân hàng rót tiền cho vay để “cứu”, sẽ tăng thêm “nợ xấu khó đòi”. Về nông thôn sẽ thấy không ít chủ tịch xã cấp đất, bán đất làm giầu. Ngay ở cấp cao, nhiều vị đã có nhà cửa đàng hoàng, vẫn được cấp đất xây nhà, ví dụ nguyên Tổng bí thư Nông Đức Mạnh công lao, thành tích gì, đã có nhà, vườn khá phong quang ở Narì, vẫn được cấp 800m2 đất ở Hồ Tây giá trị biết bao nhiêu tỷ.
Công bằng nhất nên sửa: “Đất đai thuộc đa sở hữu, có sở hữu cá nhân (chủ yếu là nông dân), có sở hữu tập thể, có sở hữu nhà nước.”
Trung với nước, hiếu với dân là tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ra từ cái ca sắt tráng men phát cho bộ đội, lá cờ nhỏ tặng Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, đến lá thư gửi cho thanh niên… Trong nhiều cuộc thăm và nói chuyện với bộ đội, Người thường nhắc lại câu: “Quân đội ta trung với nước, hiếu với dân, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Nay Ủy ban dự thảo tự cho mình là sáng suốt hơn, đúng hơn nên sửa sai của lãnh tụ ư? Đảng đã từng phát động phong trào học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, sao bây giờ lại làm trái với tư tưởng của Người?
Thêm nữa Điều 51 Hiến pháp 1980 và Điều 45 Hiến pháp 1992 đều ghi: “Các lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân…” là rất đúng và không hề lỗi thời. Tại sao người viết lại sửa đi, chả lẽ ông không trung thành với Tổ quốc ư? Điều 70 sửa lại là “Lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân…” đưa Đảng đứng trên Tổ quốc. Từ xưa đến nay, đối với mọi người dân, “Tổ quốc là trên hết”. Dù là Đảng lãnh đạo, cũng từ trong lòng Tổ quốc mà sinh ra, không thể đứng trên Tổ quốc được. Đảng sinh ra là để phục vụ Tổ quốc chứ không phải đứng trên Tổ quốc. Đạo lý là như vậy.
VỀ VIỆC LẤY Ý KIẾN NHÂN DÂN GÓP VÀO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
Đã gọi là ý kiến nhân dân thì muôn hình muôn vẻ, rất nhiều ý kiến khác nhau. Với những ý kiến khác nhau tiêu biểu đều cần được đưa lên các phương tiên truyền thông đại chúng của nhà nước mới công bằng. Đằng này chỉ đưa ý kiến một chiều là không quang minh chính đại.
Đối với những điều “quan trọng, nhậy cảm”, có ý kiến không tán thành, muốn thay đổi cho hợp quyền dân, lợi nước, có ý kiến đồng ý với dự thảo, có người cố bệnh vực ý kiến của Ủy ban dự thảo bằng lập luận nguy biện, không mấy đáng giá. Những ý kiến trái ngược nhau như thế, nếu thật dân chủ, thì phải đưa cả 2 loại ý kiến với lập luận của mỗi bên lên báo, đài để bàn dân thiên hạ lập luận xem bên nào có lý. Đằng này chỉ đưa toàn người phát biểu đông ý, còn những ý kiến khác với dự thảo dù đúng, dù hợp với thời đại thì bị quy chụp cho là suy thoái, theo nước ngoài, chống Đảng, chống Nhà nước v.v…
Nói là lấy ý kiến nhân dân, “không có vùng cấm” cho có vẻ dân chủ, nhưng chỉ những ý kiến đồng ý với dự thảo mới được cấp nhận, cuối cùng Hiến pháp được thông qua đại để như bản dự thảo. Như vậy, phát động lấy ý kiến nhân dân làm gi cho phí thời gian, công sức, giấy mực, tốn hàng mấy chục tỷ tiền của Nhà nước.
Cách lấy được nhiều chữ ký hoặc điểm chỉ “đồng ý dự thảo” thì dễ thôi. Bà bán rau, chị hàng cá, anh bán đậu phụ có thì giờ đâu mà đọc dự thảo, họp tổ khu phố thấy bà tổ trưởng bảo ký “đồng ý” thì ký thôi; công nhân, viên chức không ký “đồng ý” thì sợ mất việc, sợ bị “trù”; ở nông thôn chị nông dân, bác nuôi cá, trưởng thôn bảo ký thì ký, không ký sau này xin giấy tờ khó; họp chi bộ, đồng chí nào không ký “đồng ý” thì sợ thiếu ý thức tổ chức; kiểu như thế thì lấy bao nhiêu chữ ký đồng ý mà chả được.
Còn việc công bố là có 20 triệu, 30, 40 triệu người đồng ý với dự thảo Hiến pháp thì đó là độc quyền thông tin của T.V., báo chí nhà nước, nói sao chả được, ai biết đâu mà cãi.
N.T.V
April 9, 2013
Thất vọng và niềm vui
Mấy ngày nay ông già Alan bị “chất vấn” tới tấp về chuyện định bỏ Việt Nam đi làm ăn nơi khác. Nếu các bạn biết rằng ngày nay, kinh tế là “kiến thức” và “toàn cầu”, thì sân chơi hay đấu trường không phải là điều quan trọng. Như Alan đã nói nhiều lần, bất cứ dự án làm ăn nào, yếu tố tối ưu là “lợi thế cạnh tranh”. Alan không biết phá rừng để trồng cao su, hay ngăn sông để làm thủy điện hay có quan hệ để mua đất rẻ…(cái này giỡn chút chơi, đừng mách đại ca, ông ấy nổi xung lên thì phiền cả hàng xóm..).
Nghiêm túc hơn, môi trường kinh doanh Việt Nam có nhiều điểm mạnh cho những doanh nhân biết khai thác và phát triển. Ngành nông hải sản, nếu biết ứng dụng công nghệ cao, xanh và sạch, và bảo đảm tính đặc thù cùng chất lượng của sản phẩm, thì cơ hội tràn ngập. Ngành công nghệ thông tin, nếu biết đào tạo đội ngũ chuyên viên, gắn bó lợi ích và động lực, thì khả năng cạnh tranh sẽ có đẳng cấp thế giới. Nhu cầu của các ngành y tế, giáo dục, ngay cả BDS phân khúc rẻ tiền…sẽ vươn mạnh trong thập kỷ tới. Tôi tin vào kỹ năng và sức chiến đấu của các doanh nghiệp tư nhân sẽ mang lại những tài sản to lớn và chính trực cho những ai có tầm nhìn dài hạn, ý chí, kiên nhẫn và sáng tạo.
Tôi hy vọng sẽ tìm được tại quê hương một cơ hội phù hợp với khả năng của mình (thước đo là giá trị thặng dư mà tôi đóng góp). Tuy nhiên, tôi vẫn đang tư vấn cho một vài doanh nghiệp Việt Nam, đem họ ra biển lớn qua M&A, qua việc gây vốn, hay tìm đối tác trong các thị trường tôi đã quen thuộc, Mỹ và Trung Quốc. Các đòi hỏi về công việc này, cũng như những dự án mà tôi định đầu tư với tiền của mình (không xin chánh phủ tiền cứu trợ hay kích cầu), có thể đem tôi ra khỏi Việt Nam một khoảng thời gian dài.
Đây là lý do chính cho câu nói ở bài blog tôi viết trước đây, không phải vì tôi thất vọng hay nản hay bỏ cuộc hay sợ sệt các “thế lực thù địch”. Tôi vẫn yêu đời, vẫn tích cực…và vẫn thanh bình trong cuộc sống, nhưng phải đi tìm “lợi thế cạnh tranh” của mình nếu còn muốn kinh doanh hữu hiệu.
Nói đến thất vọng…tôi cũng xin nói thêm là chúng ta đều đối diện với ít nhiều thất vọng, lớn hay nhỏ, bất ngờ hay mong đợi, trong hành trình mỗi ngày. Từ gia đình đến bạn bẻ, nhân viên đến khách hàng, chủ đến tớ, chính phủ đến dân đen…ai cũng đều có thể mang đến những thất vọng khiến chúng ta nản và mỏi mệt. Người thành đạt thường là người có khả năng thâu ngắn giai đoạn “hậu thất vọng” để tiếp tục bước tới.
Một thói quen khi tôi bị thất vọng là tự nhủ,” OK, cho ông già…(một khoảng thời gian nào đó)…để ông khóc lóc sầu khổ. Hết giờ rồi thì lo mà lau nước mắt để còn đi tìm nguồn vui hay động lực khác”. Tôi không bao giờ cho phép mình khóc quá giờ…vì hành động là cứu cánh cho mọi tự ti. Các bạn BCA nên tập thói quen này. Chẳng hạn, khi bị nhân tình cho rơi, tôi thường giới hạn nước mắt trong 15 đến 45 phút “để tang” cho cuộc tình (tùy con bé đẹp xấu); mất tài sản trên 1 triệu đô là 2 giờ; bị thiên hạ hay vợ mắng oan là 30 phút…Nhưng cho tôi giấu kín thời gian đã khóc khi thất vọng về …văn hóa, kinh tế hay chính trị xứ sở này.
Trong khi đó, một nụ cười tuyệt đẹp trong sương mát đầu xuân có thể làm tâm hồn phơi phới cả ngày; một hoàng hôn rực rỡ nhìn qua sông có thể làm giấc ngủ suốt đêm hiền như mộng trẻ; và một món quà tri kỷ có thể thắm thía cả một đời người.
Tóm lại, thất vọng và niềm vui luôn hiện diện, các bạn BCA đừng quan tâm quá cho mình hay ông già Alan. Bằng một thái độ tích cực sống cho lý tưởng và đạo đức của mình, bằng niềm tin vào một Đấng Tối Cao nào đó, chúng ta sẽ hiểu rằng những cục sạn trên đường chỉ có mục đích làm đôi chân ta cứng cáp ra…Với tầm nhìn dài hạn, life is always beautiful (đời luôn tươi đẹp).
Alan
PS. Một bạn giáo viên khoa học vừa cho biết, “ Khi nằm ngửa, cá mập sẽ rơi vào tình trạng hôn mê”. Tôi nghĩ chúng ta phải tổ chức các tình nguyện viên lén đi lật ngửa các “đại gia lợi ích” khi họ nằm ngủ?
Văn Hiệp tiên sinh
NQL: Nghệ sĩ Văn Hiệp, người vác tù và hàng tổng, đã về trời ngày 9/4/2013, hưởng thọ 71 tuổi. Suốt cuộc đời mang đến tiếng cười cho thiên hạ, có ai biết đời ông là cả tấn bi kịch đắng cay. Phúc bị tuột mất cách đây hai chục năm, lộc một đời không có, may trời thương còn cho cái chữ thọ. Ừ thôi, bảy mươi tuổi cũng gọi là thọ, kính tiễn anh về trời bình an vô sự. T
hương nhớ anh vô cùng.
Bái biệt anh!
Tôi là thế hệ đàn em. Nhưng lại may mắn được cộng tác với lão ca Văn Hiệp từ rất sớm (những năm 1980). Thuở còn là thằng diễn viên oắt con ở xưởng phim truyện VN tôi đã có dịp chạm mặt đàn anh trong những buổi lồng tiếng phim truyện. Choáng! Đó là ấn tượng đầu tiên mà tôi còn nhớ. Văn Hiệp học lời thoại cực nhanh nhưng khi lồng tiếng thì ông lại rất láu cá trong kỹ thuật khớp tiếng. Ông không bao giờ chính xác được 100% nhưng ông lại rất giỏi để tạo ra một kết quả mà cả đạo diễn khó tính vẫn chấp nhận.
Thật ra tôi biết Văn Hiệp trước khi quen ông, vì từ khi còn học trong trường nghệ thuật, lớp diễn viên điện ảnh khóa 2 chúng tôi vẫn nhiều lần được chiêm ngưỡng ông trong các vở diễn của NHK Trung ương.
Loắt choắt, nhỏ con, lanh lẹ… ông luôn tạo được những ấn tượng thú vị trong những vai diễn của mình. Đó cũng là một trong những hình mẫu mà lớp đàn em chúng tôi luôn noi theo.
Có lẽ cũng là do duyên số nào đó mà tôi có dịp gắn kết với ông một quãng thời gian khá dài. Đầu những năm 1990, chương trình Văn nghệ chủ nhật của NSND Khải Hưng sáng lập đã tạo dựng cơ hội cho anh em chúng tôi có dịp “đồng cam cộng khổ” Nghề diễn ư..- Thì cũng đã nhiều người nói về sự vất vả. Tôi có lẽ cũng vất vả chẳng kém ai. Nhưng so với lão ca Văn Hiệp thì hình như tôi vẫn còn may mắn hơn lão. Tôi nhớ: Một buổi quay (khoảng năm 1995) khi nghỉ trưa, mọi người nghỉ ngơi ăn uống. Ông (Văn Hiệp) xách chiếc điếu cày cố hữu ra một chỗ, rít liên tiếp cho đã cơn thèm. Mọi người trong đoàn phim hò nhau đi ăn cơm (tất nhiên là cơm bụi thôi) , Văn Hiệp tiên sinh vẫn ngồi uống nước trà loãng của đoàn. Tôi nói: Lão kia. Đi ăn đi mà còn về làm./ Văn Hiệp cười hiền lành: Tao no, chẳng muốn ăn. Nghe vậy rồi cũng chẳng để ý (đoàn phim chuyện đó bình thường mà) Nhưng rồi cuối chiều thấy anh tôi (Văn Hiệp) lúng túng khẽ hỏi: Trọng ơi, hôm nay anh không ăn với đoàn thì anh có được lấy tiền ăn không? / Tôi ngớ ra: Sao anh lại hỏi thế? Anh không ăn thì đấy là tiền của anh mà? Lão cười hiền lành: à.là tao hỏi thế thôi Chuyện chỉ vớ vẩn vậy thôi. Nhưng rồi sau tôi mới hiểu được. Đằng sau những câu hỏi thật thà, những nụ cười hiền lành cam chịu của ông anh tôi là cả một bể đắng cay. Một kiếp nghệ sĩ đầy tài năng mà quá thiệt thòi….Nhớ lại và viết những dòng này mà tôi không kìm nổi nước mắt.
Văn Hiệp ơi! Khi anh em chúng mình làm phim Trạng, anh mắng em, anh khen em thế nào thằng Trọng vẫn còn nhớ như in. Vẫn đó, vẫn đây… vậy mà giờ anh lãng đãng phiêu du nơi nào. Xót xa lắm!… Nhưng rồi lại tự an ủi mình vì cảm thấy hình như anh đã được giải thoát.
“Nơi trần thế bon chen lắm nỗi
Lúc người về thể xác cũng về theo
Trong trăm năm phút chốc bay vèo
Hồn bảng lảng lạc vào tiên giới lạ”
…
Bình an nơi cõi vĩnh hằng anh nhé!
Đồng chí 4 tốt giở trò gì vậy ta?
Báo Đảng loan tin: “Chiều 9-4, Nhân Dân điện tử nhận được một chiếc đĩa bị vỡ của bạn đọc gửi, bên trong có gắn chặt những gói “lạ” màu trắng. Hiện chưa rõ chất gì được chứa bên trong hai gói “lạ” này.” ( Tại đây)
Không biết đồng chí 4 tốt định giở trò gì vậy ta?
Bắn súng, cởi truồng hay nằm vỉa hè sẽ giữ được đất?
Chuyện gia đình anh em họ Đoàn dùng súng bắn chim (bắn đạn ghém chì) hay còn gọi “súng hoa cải” để giữ mảnh đất khai hoang lấn biển của mình đã được dư luận bàn tán nhiều rồi. Đồng chí X thì dù chê trách các đệ tử của mình ở Hải Phòng là “sai toàn diện“. Nhưng cũng không quên nhắc nhở thuộc cấp bên dưới phải “khẩn trương đưa vụ án “giết người và chống người thi hành công vụ” ra xét xử công khai, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật”. (Xem ở đây).
Đó chính là lý do khiến anh em nhà ông Vươn bị tuyên án 15 năm rưỡi tù giam. Còn 2 bà vợ bị 33 tháng án treo (chắc tội chi tiền mua súng?).
Quan điểm của chính quyền từ cấp thượng tầng thì đã rõ. Còn tầng lớp thảo dân bên dưới, đa phần khen ngợi hành động của anh Vươn và gia đình chống lại lệnh cưỡng chế là đúng. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng chống bằng cách nổ súng là sai. Vậy phải làm cách nào cho hay và tốt hơn?
Ta thử tham khảo qua mấy trường hợp sau đây!
- Cách đây ngót một năm, vào trưa ngày 22/5/2012, tại Quận Cái Răng TP Cần Thơ, do không
2 phụ nữ không mặc gì bị cưỡng chế ra khỏi mảnh đất của họ.
tán thành với mức đền bù qúa rẻ mạt của Công ty cổ phần xây dựng số 8 thuộc CIC 18 (Bộ Xây dựng) trên miếng đất của mình đã bỏ tiền ra mua và sống hợp pháp tại đó suốt mấy chục năm. Bà Phạm Thị Lài (sinh năm 1960) và con gái là Hồ Nguyên Thủy (sinh năm 1979), cực chẳng đã phải cởi truồng để giữ đất. Mà cũng không tài nào giữ được. Hai mẹ con bà đã bị đám vệ sĩ dùng vũ lực thô bạo đàn áp bằng cách lôi sềnh sệch trên cát, bãi cỏ và các đống vật liệu trong tình trạng khoả thân dưới cái nắng gay gắt. (Xem tại đây). Sau đó còn bị Công an quận Cái Răng (Cần Thơ) đề nghị xử phạt gia đình bà Lài 1,5 triệu đồng về hành vi cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức và phạt 80.000 đồng vì vi phạm thuần phong mỹ tục vào ngày 19/6/2012. (Xem ở đây).
Em Lê Xuân Dũng trước lúc bị “bắn chỉ thiên” vào bụng
- Trước vụ “khoả thân giữ đất” đúng hai năm, một vụ cũng khá ầm ĩ nhưng nay cũng đi vào quên lãng đó là vào ngày 25/5/2010, trong cuộc biểu tình giữ đất vì mức đền bù chưa thỏa đáng tại địa điểm xây dựng nhà máy lọc dầu Nghi Sơn Thanh Hóa, em Lê Xuân Dũng, 13 tuổi, một học sinh ngoan học giỏi ở xã Tĩnh Hải, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, đã bị trúng đạn của sỹ quan CA Nguyễn Mạnh Thư (CA huyện Tĩnh Gia) vào bụng chết ngay tại chỗ. Một người nữa dính đạn và chết vào 5 hôm sau là anh Lê Hữu Nam, 43 tuổi bị đạn bắn vào đầu. Ngoài ra có Bà Lê Thị Thanh, 37 tuổi bị trúng đạn xuyên táo vào tay, bị thương. Cả hai nạn nhân người lớn đều cùng làng với em Dũng. Các phát đạn bắn gần, bắn thẳng này được cho là “bắn chỉ thiên” cảnh cáo và cướp cò. (Xem và ở đây).
- Nhắc đến cái tên Dũng, ở quê, tôi có thằng bạn đồng môn cấp 1, 2 trường làng là thằng Dũng (trong giấy khai sinh tên
Bản đồ qui hoạch khu đô thị Thăng Long 9 – Ảnh: Phạm Yên
là Lê Đình Hỷ). Nhà nó có mấy sào đất được sở hữu hợp pháp từ sau cải cách ruộng đất. Đến năm 2008, Hà Nội mở rộng, đất bị qui hoạch (treo) thành Khu đô thị mới Thăng Long 9. Mức đền bù giá bèo chỉ được 45 triệu VNĐ/sào (360 m²) trong khi giá thị trường đất sát đường QL.32 lúc đó tới hơn trăm triệu một m². Tiếc của, không nhận đền bù, Dũng-Hỷ mang bàn thờ tổ tiên ra giữ đất. Bị chính quyền bắt giam và truy tố ra toà về tội “chống người thi hành công vụ”. Kết cục đất vẫn không giữ được và còn bị 2 năm bóc lịch nữa. (Xem ở đây).
Như vậy, nếu gia đình anh Đoàn Văn Vươn mà cứ ngoan ngoãn chấp hành nghiêm lệnh cưỡng chế ”sai toàn diện” của huyện Tiên Lãng. Thì chắc chắn vụ này sẽ rơi tõm vào quên lãng. Đất cũng không giữ được. Mà tù tội là ở nhãn
Dân oan cả nước kéo về vườn hoa Mai Xuân Thưởng Hà Nội khiếu kiện về đất đai. Ảnh: Vietnamexodus
tiền. Bởi trong thực tế ở ta, chính quyền là luôn luôn đúng. Toàn bộ gia đình anh sẽ mang công nợ (các khoản “nợ xấu”) và anh sẽ phải đối diện với các án phạt tù với các tội “lừa đảo chiếm dụng vốn” của ngân hàng cũng chưa biết chừng. May hơn chút nữa, thoát tù tội thì suốt đời vợ chồng mấy anh em nhà anh sẽ sống trong bần cùng và sẽ phải gia nhập đội quân dân oan đi khiếu kiện vượt cấp ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng, Ba Đình, Hà Nội: ”làm xấu hình ảnh thủ đô” (Lời Nguyễn Thế Thảo - Tổng đốc HN thời nay) là không cần phải bàn cãi.
Trong các tình huống đặng chẳng đừng đó, rõ ràng tiếng súng hoa cải (không làm chết ai) của anh em Đoàn Văn Vươn là sự lựa chọn sáng suốt nhất. Tiếng súng ấy “đã khiến cả một xã hội choàng tỉnh, nó khởi đầu cho một thời kỳ mà người ta không còn nghĩ rằng, cứ người nhà nước là bất khả xâm phạm. Nó buộc những kẻ nhân danh nhà nước để làm bậy phải chùn tay…” (nhận định của blogger Phương Bích)
Về ý nghĩa sâu xa, ”tiếng súng hoa cải” Đoàn Văn Vươn còn là tiếng súng yêu thương nhằm lay động một chút lương tri còn sót
Cụ Lê Hiền Đức và anh chị em ở Hà Nội xuống thăm và động viên gia đình anh Vươn hôm 5/4/2013. Ảnh: Xuân Diện.
lại của cái thể chế mà bố anh đã từng hàng chục năm phụng sự (là Bí thư Chi bộ đảng ở địa phương). Rồi đến lượt anh từng là sỹ quan quân đội. Phục viên cởi áo lính anh lao vào học thành kỹ sư canh nông trồng rừng. Nhận bằng tốt nghiệp, anh không màng chốn quan trường. Để lao vào chinh phục một vùng đồng biển khó khăn gian khổ vào bậc nhất nước này. Điều đó cho thấy cái bản án “giết người” mà đảng, nhà nước ở Hải Phòng nói riêng và ở cả nước nói chung đối với anh em họ Đoàn chính là sự kết tội và bỏ tù chính cái động lực phát triển đáng qúi nhất trên đất nước giữa cơn suy thoái kinh tế trầm trọng hiện nay.
Nó lại diễn ra trong thời điểm quan trọng: sửa đổi Hiến pháp 1992! Đã cho thấy cái “Đảng cầm quyền thay vì nắm bắt tư duy của thời đại và ý chí của nhân dân, chỉ có thể loay hoay trong một cái vòng tự vẽ”. Và cái “Hệ thống chính trị, trải qua nhiều thế hệ, càng về sau lại càng có ít khả năng khắc phục sai lầm”. Như nhận xét của nhà báo Huy Đức là chính xác hoàn toàn!
Xử quan nhạt hơn xử dân
Mấy ngày tòa xử anh em nhà họ Đoàn, cả trên báo chí chính thống (dù chỉ được đưa tin theo kiểu tăng phản ánh kết quả, giảm bình luận), trên các kênh truyền thông xã hội, truyền thông chém gió vỉa hè, âm ỉ trong từng gia đình, công sở, bàn phát sốt. Có thể quan điểm có khác, thậm chí chênh nhau, thậm chí còn bị soi là có kẻ thù địch ở đâu đó giật dây kích động, thì vẫn phải khẳng định là mối quan tâm của cộng đồng với số phận anh em họ Đoàn rất nóng, từng buổi một, từng ngày một, từng chi tiết một.
Đến giờ, qua hai ngày xét xử các quan phạm tội trong vụ cưỡng chế đầm Vươn, gọi nôm là vụ Vươn 2, thì không khí chùng xuống đến ngạc nhiên: Báo chí đưa tin một cách trể nãi và đơn điệu, công chúng thì chẳng mấy ngó ngàng gì đến, trên mạng xã hội hình như cũng quên…Nói theo ngôn ngữ sân khấu hồi kịch Vươn 1 viết khá, đạo khá, âm thanh, tiếng động, nhạc khá, cuốn, hấp dẫn , nhưng đến hồi kịch Vươn 2, nhạt hẳn, đuối, chán, chẳng bõ xem.
Nhạt 1: Vì sai kịch. Vấn đề kịch ở Vươn 2 hoàn toàn không chỉ là cái nhà hai tầng (lúc xảy ra nhiều bác quan cứ đau đáu ghi vào tim mình cái chữ lều cơ). Cái nhà ấy chỉ là một trong nhiều thứ thiệt hai mà gia đình họ Đoàn đã cay đắng gặt hái phải vụ cưỡng chế trái pháp luật. Hàng mấy năm đi khiếu nại, rồi xử, rồi khiếu nại, thậm chí còn bị tòa lừa, là ngần ấy thời gian gia đình họ Đoàn thấp thỏm, không dám đầu tư, không dám làm ăn lớn, cò cưa sinh sống vậy qua ngày qua tháng để đợi kết quả khiếu nại. Và tới khi một lệnh cưỡng chế sai bét tung ra, cộng tất tần tật thiệt hại thì nói như anh Vươn phát biểu trước tòa là không thể biết đã thiệt hại bao nhiêu tỉ, chứ không hẳn là con số mấy trăm triệu được tòa công bố. Kịch sai nên nhạt. Người ta chăm chú vào việc xử việc bắn chết một con chim và đền một con chim mà không thèm tính đến, vì phát súng bắn chết con chim đó mà cả đàn chim ngàn con bay mất. Khi xem kịch, khán giả thấy kịch sai thì chán, ngáp, bỏ về, nói chuyện, hoặc ngủ, thì vụ án này cũng thế, nhận định thiệt hại chưa tới nơi tới chốn, chưa tổng quát, chưa chính xác thì còn gì để xem? Nếu đặt lên bàn cân công lý phép cộng của những thiệt hại sau mấy năm chính quyền gây khó cho dân, ngáng trở dân, dọa dẫm dân, thì tội của mấy quan kia cộng lại sẽ là bao nhiêu năm tù cho xứng, và đó không còn là tội “ hủy hoại tài sản” nữa.
Nhạt 2: Ừ thì nếu cứ coi kết tội loanh quanh việc phá cái nhà anh em họ Đoàn đi, làm sao mà điều tra khó nhọc đến thế, làm sao mà phải nhiều tháng mới bắt, mới túm được tay day được trán người phạm tội như vậy, chắc chắn, với tài năng và kinh nghiệm của các điều tra viên, việc tóm cổ lũ phạm tội chỉ trong khoảnh khắc. Một vụ điều tra tội phạm như vụ này dễ lắm, vì nó không phức tạp, xe ủi của ai, biết rồi, ai thuê biết rồi, ai gọi biết rồi, hỏi lui hỏi tới vài ngày ra cả dây. Dân cũng biết thừa. Và không cãi được vì nó rành rành ra đó. Nhưng mà mãi không khởi tố bị can được, mãi không kết tội được. Dư luận không ai nói gì nhưng họ biết cả đấy. Kịch như thế gọi là kịch kẹo kéo, hết kịch rồi còn kéo, thấy rõ can phạm rồi vẫn kéo, vẫn chưa kết luận, vì thế nó nhạt, chán không muốn bàn. Đụng vào dân thì hăng thế, ầm ầm, đàn bà con trẻ đang đứng trên đê xa cả cây số cũng bắt ngay, còn mấy bác quan rõ tội, rõ lệnh, rõ hành vi mà kéo những nửa năm…Kẹo kéo thế là nghĩa làm sao? Nhạt.
Nhạt 3: Cái nhạt này nằm ở tình hình chung, dân gian biết rồi, xử quan bao giờ mà chẳng nâng lên thật cao rồi quạt gió phát mát rười rượi, người ta không còn tin vào sự nghiêm minh khi xử quan, trái lại người ta lo lắng sợ pháp luật chồng chềnh quả tạ rơi mạnh vào đầu dân đen khốn khổ. Thì hóa ra đúng trong vụ này, cáo trạng lừng lững tội danh, lừng lững điều khoản, lừng lững án phạt những 5 năm, những 10 năm, những 12 năm, vèo cái chẳng hiểu sao, tình tiết không thay đổi, chứng cứ không thay đổi mà cuối cùng thì treo treo treo treo. Làm thế dư luận không buồn theo dõi là phải, nhạt là phải. Nhạt này là nguy cơ, nguy cơ mất niềm tin vào cơ quan công quyền, nguy cơ này tất nhiên cao gấp triệu lần nguy cơ khán giả quay lưng với vở kịch nhạt ở nhà hát.
Nói thế không có nghĩa là mong người ra toà phải chịu án nặng. Nhà tù không phải là nơi mong muốn của con người. Nhưng khi đã sinh ra nhà tù, sinh ra án phạt, thì mọi thứ đều phải rành mạch, rõ ràng, tội đã kết phải xử đúng tội. Xử anh Vươn tội giết người mà án 5 năm ( dù dư luận mong anh Vươn trắng án) cũng là xử sai. Xử các quan thấp tụt dưới khung cáo trạng mà không có lấy lý do thuyết phục nào cũng là xử sai.
Kịch sai thì không thành tác phẩm.
Nếu cứ xử sai kiểu này bất thành tòa.
Bất thành tòa thì bất thành công lý.
Rứa thôi.
Sự bế tắc cùng cực của một thể chế phi dân chủ
Theo thông tin đăng tải trên các trang mạng, ngày hôm nay, Anh Nguyễn Chí Đức (người từng bị Đại úy công an Nguyễn Văn Minh đạp vào mặt trong lần biểu tình chống TQ tại Hà Nội năm 2011) trong lúc đi ăn cơm trưa tại khu công nghiệp Nam Thăng Long bị một nhóm thanh niên bịt mặt chặn đường hành hung, đánh đập gây nhiều thương tích.
Theo lời của người bị hại và dư luận, đây không phải là một vụ hành hung giống như rất nhiều vụ hành hung của côn đồ gây ra ở Hà nội và các địa phương khác trên cả nước mang mầu sắc hình sự mà là một vụ trả thù có sự bảo kê, giật giây, bật đèn xanh của “thế lực tà quyền”.
Ngay trong buổi chiều, hãng tin BBC đã có cuộc phỏng vấn và đăng tải trong chương trình Việt ngữ, theo đó Chí Đức “nói với BBC rằng ông bị “những người lạ” mà ông cho là “công an” cùng “côn đồ” đánh đập bằng hung khí và chân tay ở cơ quan tại Khu công nghiệp Nam Thăng Long, Hà Nội, “chắc chắn” ít nhất một người tấn công ông là “công an”.
Chính người này là người không bịt mặt và cầm cây gậy lớn đánh tôi, tôi nhớ rất rõ,” ông khẳng định khi thuật lại việc bị một nhóm người “bịt mặt” bất ngờ “phục kích” khi đi ăn trưa.
Người đồng thời là chủ blog “Đông Hải Long Vương” cho hay mới đây ông tham dự phiên tòa xử ông Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng, nơi mà ông nói cũng đã bị “hành hung” cùng với một nhà hoạt động khác là ông Trương Văn Dũng, nhưng ông không bị “đau” nặng nề như lần này”.
Vụ này làm bạn đọc nhớ lại trước đây không lâu, luật sư bất đồng chính kiến Lê Quốc cũng đã từng bị “một bọn côn đồ mai phục tấn công bằng gậy sắt” mà sau đó luật sư Lê Quốc Quân cũng đã nhận rõ mặt “một người trong số côn đồ tấn công ông là công an”.
Những vụ “côn đồ” tấn công những người bất đồng chính kiến, những blogger ở Việt nam bằng nhiều hình thức “phong phú, sáng tạo” xảy ra rất nhiều. Ngoài cách hành xử công khai coi thường luật pháp của chính quyền đối với các Blogger Nguyễn Tường Thụy, Bùi Thị Minh Hằng, Huỳnh Thục Vy, An Đổ Nguyễn…thì chính quyền còn sáng tạo ra cách sử dụng những phần tử xã hội đen để tấn công những người bất đồng chính kiến hoặc đơn giản chỉ là tham gia biểu tình chống Trung quốc gây hấn. Tất cả những hành động đó không phải là những hành động đơn lẻ có tính địa phương mà có sự chỉ đạo từ những cấp cao hơn. Điều đó đã để lại tiếng xấu không thể biện minh và khó rửa sạch của ngành công an Việt nam.
Dư luận lâu nay thường phê phán truyền thông “lề đảng” (đặc biệt là báo chuyên ngành Công an, An ninh) là loại truyền thông “cướp, giết, hiếp” vì họ đăng tải quá nhiều thông tin về chủ đề này. Bỏ qua tính kỹ thuật trong việc “câu view” người đọc hoàn toàn có lý khi nhận xét rằng tính bạo lực lan tràn trên báo chí phản ánh một sự thật đau lòng và đáng xấu hổ trong xã hội Việt nam ngày nay.
Ngoài truyền thông “lề đảng”, sự thực hiển nhiên về một xã hội tao loạn được phản ánh ngày càng nhiều trên truyền thông “lề dân”. Chỉ có điều, bạo lực được phản ánh trên truyền thông “lề đảng” và truyền thông “lề dân” khác hẳn nhau về nguyên nhân, bản chất.
Bạo lực xã hội ở bất kể quốc gia nào đều có nguyên nhân chủ yếu từ sự bất cập trong cơ cấu vận hành nhà nước dẫn đến các mâu thuẫn nội tại, giữa cá nhân với cá nhân, giữa các nhóm đối kháng quyền lợi. Các mâu thuẫn này, chủ thể nhà nước thiếu chế tài, năng lực hoặc do một số nguyên nhân khác, không thể (hoặc không muốn) can thiệp. Trong xã hội Việt nam, bạo lực lan tràn có nguyên nhân sâu xa từ thế giới quan của những người theo chủ nghĩa Marx, theo đó giai cấp công nhân nắm quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực nhà nước, lấy phương châm trấn áp giai cấp tư sản để xây dựng một xã hội không có giai cấp. Các học trò “xuất sắc” của Marx như Lê nin, Stalin, Mao trạch đông… luôn đề cao bạo lực, coi việc bắn giết (súng đẻ ra chính quyền) là đường lối giải quyết mâu thuẫn giai cấp nhằm đạt mục đích chính trị.
Trong xã hội dân chủ, các mâu thuẫn xã hội bộc lộ bằng các phương tiện truyền thông, bằng các cuộc biểu tình phản đối nhà nước được coi là liều thuốc hiệu quả để điều trị căn bệnh lạm dụng quyền lực, giúp cho thể chế điều chỉnh chính sách bất cập tạo nên một xã hội hoàn thiện hơn. Ở nước ta các hoạt động nói trên đều bị coi là chống đối bởi “các thế lực thù địch” và bị trấn áp quyết liệt.
Giáo sư Ngô Bảo Châu từng nói: “không thể lấy sự sợ hãi và sự cẩu thả để bảo vệ chế độ”. Câu nói đó cũng đúng trong trường hợp này. Việc chính quyền lựa chọn phương cách “khủng bố” theo kiểu xã hội đen để gieo rắc sự sợ hãi trong nhân dân là một cách làm rất cẩu thả và hoàn toàn phản động. Đó là biểu hiện sự bế tắc đến cùng cực của một thể chế phi dân chủ.
Lại nhà đài!
Đài truyền hình VTV1 lại lải nhải những bình luận thiếu hiểu biết, mị dân và ngu dân nhằm phục vụ tuyên truyền cho sửa đổi Hiến pháp.
Trong một phóng sự phát 19 giờ tối 8/4/2013 nhằm minh họa cho cuộc họp trong ngày của Ủy ban dự thảo sủa đổi Hiến pháp 1992, nhà đài đã khai thác tối đa hình ảnh một bà tổ trưởng dân phố phải đến tận các hộ vào ban đêm, ngoài giờ làm việc để phát và thu phiếu góp ý, đồng thời phỏng vấn một vài “nhân dân” đã được mồi chài phát biểu suy nghĩ về cách làm này, từ đó đi đến nhận xét và bình luận khái quát rằng, đây là lần đầu tiên phiếu lấy ý kiến nhân dân về việc sửa đổi Hiến pháp được phát đến tận hộ gia đình trên cả nước; nhờ vậy, việc lấy ý kiến còn lớn hơn cả trưng cầu ý dân, vì người dân ngoài việc bày tỏ đồng ý/không đồng ý, còn được viết nhận xét của mình với sự tham gia của tất cả các thành viên trong gia đình.
Cùng với việc công bố số lượng 44 triệu lượt ý kiến của nhân dân tổng hợp đến ngày 32/3/2013, cách thông tin của cái loa ngốn tiền của nhân dân nhiều nhất đó chứng tỏ một cách làm ngây ngô, hợm hĩnh, kệch kỡm và xảo trá đến vô sỉ.
Rõ ràng, con số 44 triệu là không thể kiểm chứng được và đã bị nhiều người nghi ngờ. Đơn cử như trường hợp tôi khi quan sát và làm một khảo sát nhỏ: tại cơ quan gần trăm con người, không có tổ chức họp góp ý; hỏi 05 gia đình ở gần nơi cứ trú, không có góp ý; hỏi hơn mươi người bạn thường gặp gỡ quán cóc, không có góp ý. Vị chi, gấn 150 người lớn, chẳng có ai được một lần tham gia việc trọng đại ngày. Lấy đâu ra tỉ lệ gần 80% công dân như kết quả tổng hợp?
Về chuyện đài VTV1 tối 8/3/2013, có thể xem như một kiểu tuyên truyền hóa rồ khi cố tình bày tỏ vai trò minh họa phục tùng ý đảng đến mức làm lộ sự ngu dốt của các nhà báo, bộc lộ quá thật thà mục đích thông tin mị dân và ngu dân của mình.
Quá dễ dàng để thấy ngay sự thiếu hiểu biết của nhà đài khi so sánh “lấy ý kiến nhân dân” với “trưng cầu ý dân”. Về thuật ngữ cố định (referendum/plebiscite) và cách giải thích chiết tự, hai hoạt động này chỉ là một. Trong thông lệ chính trị thế giới, hoạt động này thường được tiến hành bằng cách bỏ phiếu kín, không bắt buộc, với các chủ thể là công dân và kết quả chỉ có ý nghĩa tham khảo, song rất quan trọng. Do tính chất tham khảo, trưng cầu ý dân có giá trị bắt buộc thấp hơn hình thức phúc quyết toàn dân về những vấn đề lớn của đất nước như đã được ghi trong Hiến pháp 1946 của Nước VNDCCH.
Công dân, khi tham gia ý kiến qua cuộc trưng cầu, vốn là hoạt động dân chủ, lại là phiếu kín nên không lo và không bị bất cứ sự kỳ thị, trù dập nào của các thế lực có lợi ích không phù hợp với ý kiến của công dân đó.
Khác với cách làm trên, cuộc lấy ý kiến nhân dân vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp Việt Nam lần này là một hoạt động bắt buộc; người dân bị ép phải có ý kiến bằng phiếu góp ý mà cả hình thức mẫu cũng như cách phát, thu không còn dành cho người trả lời phương án lựa chọn nào: không thể và không dám chọn không đồng ý vì phiếu phải được ký tên mà nếu không ký thì khi tổ trưởng dân phố lúc thu phiếu cũng đã biết ngay thái độ của người điền phiếu; không thể không thực hiện việc góp ý vì đã việc góp ý đã được “nghĩa vụ hóa”. Giống như trong các cuộc bầu cử, những người không đi bầu sẽ bị gọi tên liên tục qua hệ thống loa công cộng ngay từ đầu buổi chiều trong ngày; hoặc tổ bầu cử sẽ mang phiếu đến tận nhà; hoặc tổ bầu cử bầu thay không cần thẻ cử tri. Rủi cho ai nếu sau những nỗ lực ấy mà vẫn từ chối đi bầu thì không biết bao nhiêu chuyện nhiêu khê sẽ giáng xuống. Nhờ vậy, Việt Nam là nước kỷ lục về tỉ lệ người dân đi bầu đến 100%.
Về hình thức mẫu phiếu lấy ý kiến, như đã thấy, tại TP. Hồ Chí Minh, người ta chỉ ghi một phương án đồng ý.
Một chi tiết khác làm căn cứ cho sự so sánh hơn của việc lấy ý kiến theo nhận xét của đài là sự tham gia của cả nhà. Đúng là dân chủ Việt Nam. Trong khi trưng cầu dân ý, theo thông lệ nói trên, chỉ hạn chế trong đối tượng công dân, tức là những người có quyền tham gia bầu cử, là cử tri; bởi, trưng cầu ý dân là tham khảo ý dân đối với những vấn đề cực kỳ hệ trọng của đất nước. Khi đài nói cả nhà cùng tham gia góp ý, té ra cuộc lấy ý kiến mở rộng chủ thể đến cả nam phụ lão ấu cha con chồng vợ cháu chắt trong gia đình. Có lẽ nhờ vậy mà sau khi thu sổ với chữ ký của chủ hộ, người ta chỉ cần cộng gộp toàn bộ dân cư của tất cả các hộ trên địa bàn vào đó là có thể có ngay 44 triệu ý kiến.
Suy cho cùng, người ta bắt buộc nhân dân, mượn nhân dân để làm nên việc cho mình trong một qui trình không cho dân cái quyền gì hết. Còn nhân dân, trong vai trò chính trị đích thực của mình thì nói như Nguyễn Khải, trải qua nhiều chế độ chính trị, không có chế độ nào xem thường, lợi dụng nhân dân như chế độ này.
Cũng vì xem thường như thế nên trong những ngày này, ngoài sự hài hước, kệch kỡm ngày càng sâu thêm do cuộc lấy ý kiến sửa đổi Hiến pháp, người dân còn được hưởng cú lừa của đảng, nhà nước về việc tăng giá xăng dầu. Quyết định tăng được giải thích là do giá xăng Việt Nam thấp hơn các nước Đông Nam Á khác, nhất là Campuchea và Lào, dẫn đến buôn lậu; hơn nữa, quỹ bù lỗ để bình ổn giá mặt hàng này đã hết. Vài ngày sau, thấy vô lý và biết bị hớ về chuyện buôn lậu, ông Vũ Đức Đam họp báo giải thích lại là tăng giá không phải để chống buôn lậu. Song ngay trong bản tin thời sự tối cùng ngày, VTV1 lại phát phóng sự về hiện tượng giảm buôn lậu xăng qua biên giới Việt Nam – Campuchea.
Sự lúng túng đó cuối cùng đã bị phanh phui qua sự so sánh giá xăng dầu của một cán bộ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được đăng tải trên boxitvn.blogspot.com, rằng, giá xăng dầu Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước Đông Nam Á. Và đó là sự thật, thậm chí, trong những ngày này, giá xăng Việt Nam còn cao hơn so với một số bang của Mỹ.
Sự giả dối, xem thường nhân dân đã trở thành chiến lược. Một Hiến pháp còn có thể làm được bằng cách mượn tạm vai trò của nhân dân thì cái giá xăng và vô số những việc khác nữa có nhằm gì.
Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers


