Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 68
April 16, 2018
Vài hình ảnh buổi gặp gỡ anh em bè bạn ở Lagi
Vài hình ảnh về buổi gặp gỡ anh em bè bạn ở Lagi
(Ngày 3.4.2018)
Về Lagi nhiều lần nhưng ít có dịp họp mặt với anh em ”văn nghệ sĩ Lagi” đông vui như lần này. Cũng là dịp ”ra mắt bỏ túi” tập Thơ Ngắn Đỗ Nghê ở một quán cà-phê trên đường ra Đồi Dương quen thuộc.
Đỗ Ái Liên (nhà thơ Đỗ Quyên) chịu trách nhiêm… tổ chức buổi họp mặt thân tình và.. thân tộc này!
Ái Liên là em, con Chú Chín, chú ruột của Đỗ Hồng Ngọc. Em làm thơ khá nhiều và cũng vừa mới in tập thơ mới: Chạm Cõi Mênh Mông.
Hai anh em trao đổi thơ cho nhau đó mà! Hàng ngồi bên trái là Nguyễn Ngọc Mỹ, người viết nhạc và bên phải là Trần Kim Trung, nhà thơ.
Gần hai mươi anh chị em ”văn nghệ sĩ” có mặt trong buổi gặp gỡ này. Từ trái: Minh Trinh, Hồ Minh Tuấn, Ái Liên, Lê Ngọc Trác, Cao Hoàng Trầm, Đỗ Hồng Sa, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Huỳnh Sa, Nguyễn Đình Nghĩa.
Và… mỗi người phát biểu đôi lời bên cạnh lời ca tiếng đàn, giọng ngâm thơ của các ”nghệ sĩ”: Mỹ Duyên, Kim Phụng, Anh Thư, Dũng Nguyên, Ngọc Mỹ…
Nguyễn Huỳnh Sa nói về Thơ Đỗ Nghê…
Kim Phụng ngâm một vài bài thơ của Đỗ Nghê…
Nhà giáo, nhà thơ La Thụy
Tiếng đàn giọng ca của Nguyên Lực và Mỹ Duyên
Nhà thơ Trần Kim Trung, người cao niên nhất, nay đã 89 tuổi, nói về bài thơ Bông hồng cho Mẹ của Đỗ Hồng Ngọc. ”Theo tôi đây là một bài tứ tuyệt hay nhứt bây giờ, chịu hổng nổi, hết chỗ nói nữa rồi…”, anh bày tỏ.
Dũng Nguyên, ngâm bài thơ ”Trên sông khói sóng” của ĐHN…
Nguyễn Ngọc Mỹ, hát một bài do anh phổ nhạc bài thơ Một ngày ở Huế của Đỗ Nghê. Mỹ là người bạn cùng thời, hồi lên mười, cùng học ở trường Nam Bình, Gò Ông Nồm… Tân Thuận (1951).
Và không thể không nhắc Anh Thư hát bài Đêm trên biển Lagi, nhạc sĩ Bùi Tuấn Anh phổ thơ Đỗ Hồng Ngọc.
Đây là bài thơ ”thất ngôn bát cú” viết năm 1990, tặng cậu Nguiễn Ngu Í, nhạc sĩ Bùi Tuấn Anh phổ nhạc nguyên lời và Anh Thư hát rất hay.
Buổi họp mặt vào ngày Thứ hai (3.4.2018), nên nhiều anh em bạn bè còn bận không đến được. Tiếc không có Phan Chính, Ngô Văn Tuấn, Lương Bút, Thái Anh, Lương Minh Vũ, Đại đức Thích Tấn Tuệ tức nhà thơ Đinh Hồi Tưởng, Linh mục Nguyễn Kim Anh…
Hẹn một dịp khác nhé,
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê)
April 15, 2018
Thư gởi bạn xa xôi: Còn Bấc
Thư gởi bạn xa xôi,
Còn Bấc…
(Photo by Đỗ Hồng Ngọc)
Bạn thấy đó. Mình ngày càng lười biếng kinh khủng. Hứa rồi… quên. Phải chờ bạn nhắc đôi lần. Già nó vậy. Thôi kệ nghen!
Giữa tháng 2 âm lịch rồi mà còn Bấc bạn ạ. Còn bấc nghĩa là còn Tết phải không? Hồi nhỏ bọn mình ở Phan Thiết cứ nghe gió bấc hiu hiu về và mùi cốm thoang thoảng là biết ngay Tết đến. Được mặc bộ pyjama mới với đôi guốc xuồng mộc, lốp cốp nện trên đường Gia Long Đồng Khánh phố chợ và Trưng Nhị Trưng Trắc bờ sông đó nhớ không. Có một thứ mùi thơm đặc trưng suốt dọc con sông Cà Ty: nước mắm Phan Thiết.
Cái thứ gió bấc se se lạnh sượt qua da, mang theo cái mùi nước mắm thoang thoảng và mùi cốm gừng đường tán nồng nàn đó đủ nghe Tết tràn đầy khắp ngã. Qua trường thấy cả bầy bướm tung bay phất phới áo dài trắng đến nỗi mình kêu lên “bấc ơi bấc thổi/ làm xuân tràn đầy” nhớ không?
Với mình, cái thứ gió bấc miền biển vùng mình nó như đánh bật khứu giác, xúc giác, thính giác, vị giác… nói chung là lục căn không sao còn thanh tịnh được nữa dù mình đang ở trong một ngôi chùa nhỏ cạnh bờ sông. Ở Saigon hơn nửa thế kỷ, vậy mà lúc nào mình cũng thấy ” đi giữa Saigon/ phố nhà cao ngất/ hoa nở rực vàng/ mà không thấy Tết” để rồi chỉ “một sáng về quê/ chợt nghe gió bấc/ ơ hay xuân về/ vỡ òa ngực biếc!” (ĐHN)…
Lần này về Mũi Né giữa tháng hai âm lịch tưởng đã hết Tết, vậy mà còn bấc. Mình vẫn thấy lâng lâng, ngơ ngác, bâng khuâng, một thứ “mùa ơi gió bấc nhớ không ngờ” nào đó đã vời vợi xa (Mũi Né, ĐHN).
Gió quần quật trên những ngọn dừa. Gió mặn. Gió rải muối trên thảm cỏ trên thềm nhà ẩm ướt không khô.
Biển vắng. Sóng lớn. Buốt lạnh dù giữa trưa nắng gắt. Thuyền bè né núp đâu hết, để lại một cái biển hoang ầm ầm sóng giận. Thỉnh thoảng mới thấy một bóng người lang thang hay túm tụm thì thầm đâu đó.
Và đó là lúc ngư dân vá lại tấm lưới để sẵn sàng cho một ngày tới khi trời yên bể lặng.
Có vẻ như mấy cây bàng dọc biển cũng chịu không nổi gió bấc. Chúng đành khoét lỗ chỗ trong lá cho gió xuyên qua… Khánh Minh bảo đó là lá bàng “rổ hoa”…
Ơ mà đừng quên món bánh xèo bánh căn bên lò than hồng giữa mùa bấc lạnh nhé…
Đường về quê bây giờ cũng đã thoáng, đẹp, nhất là đường dọc biển.
Rồi lạ thay. Sáng hôm sau trời lại im phăng phắc. Bình minh lại rạng ngời. Biển lại mời gọi. Như không hề có một chút bấc nào cả đêm qua!
(Photo by Do Hong Ngoc)
Kể lung tung cho bạn nghe vui thôi nhé.
Hẹn một hôm nào,
Đỗ Hồng Ngọc.
(Mũi Né 2.4.2018)
April 12, 2018
Kỳ 19: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG (Chùa Xá Lợi, Saigon)
Kỳ 19: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG
Ngày 7-4-2018, tại Chùa Xá Lợi, Saigon (Tp.HCM)
TỪ, BI, HỶ, XẢ (tiếp theo)
Thân mời các anh chị, các bạn xem video clip do nvquyen vừa gởi đến.
***
Ngày mai, Thứ bảy 14.4.2018, tiếp tục Kỳ 20: Phật Học & Đời Sống, lúc 15-16h30 tại Phòng học Chùa Xá Lợi, 89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3.
Chủ đề: Từ Bi với mình!
Thân mời các anh chị, các bạn tham dự,
Cảm ơn quyen,
Đỗ Hồng Ngọc.
April 11, 2018
Lại Đính Chính: Một bài viết của ông Đỗ Hồng bị sửa thành của Đỗ Hồng Ngọc!
Lại Đính Chính: Một bài viết của ông Đỗ Hồng bị sửa thành của Đỗ Hồng Ngọc!
Ghi chú: Trang Quán Ven Đường của anh Huỳnh Chiếu Đẳng rất nổi tiếng, chuyên ‘’bắt vịt cồ”, rất được bà con tín nhiệm. Sáng nay, 12/4/2018, mở ‘’meo’’ thấy cái thư này của anh:
HuynhChieuDang
7:41 AM (1 hour ago)
to hoanvu88, me
Xin Bs và cô Bé Mytho xem coi đúng không.
Hcd
———- Forwarded message ———
From: Mr. Money Nguyen
Date: Wed, Apr 11, 2018, 4:06 PM
Subject: Fw: DO HONG NGOC :Những mũi giáo đâm sau lưng hay những kẻ nối giáo cho giặc
To:
…………………………………………………..
Và trả lời của Đỗ Hồng Ngọc gởi anh Huỳnh Chiếu Đẳng:
Ngọc Đỗ
8:35 AM (15 minutes ago)
to HuynhChieuDang
Thưa anh HuynhChieuDang,
Cảm ơn anh nhiều lắm. Đọc qua cái Tựa chắc anh đã biết ngay không phải của tôi rồi phải không?
Bài gốc ở đây anh ạ:
http://danlambaovn.blogspot.com/2018/...
Tác giả là ông Đỗ Hồng.
Có lẽ một số bạn quý tôi, thương tôi nên thêm vào chữ NGỌC. thành tác giả là Đỗ Hồng NGỌC và tung lên mạng. Lan truyền như chong chóng.
Hôm trước, có bài Toàn Láo Cả của ông Đỗ Duy Ngọc thì họ sửa chữ DUY thành chữ HỒNG. Đỗ Duy Ngọc thành Đỗ Hồng Ngọc. Cả tôi và ông Đỗ Duy Ngọc đều lên tiếng đính chính thì có một số trang mạng đã chỉnh sửa và xin lỗi ngay khi biết mình nhầm lẫn, nhưng một số trang mạng khác vẫn… giữ nguyên!
Trước nữa, có ông Bs ký tắt là BSngoc (không ghi rõ họ tên), thì họ sửa thành Bs Đỗ Hồng Ngọc.
Tôi thực tình không hiểu tại sao. Có lẽ chỉ vì họ quý mến mình mà làm vậy. Nếu các bạn này chịu khó vào www.dohongngoc.com đọc thì họ biết ngay cái “AIR” của tôi rồi anh ạ.
Hy vọng ông Đỗ Hồng, tác giả bài ‘’ Những mũi giáo…’’ cũng sẽ lên tiếng để tránh vụ việc ‘’thay tên đổi họ’’ không hay thế này cứ tiếp diễn.
Một lần nữa, nếu có thể lại nhờ anh HCĐ đính chính giùm trên Quán Ven Đường, vì bà con đọc anh rất nhiều và rất tin tưởng anh.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
April 10, 2018
Đôi dòng về ”ĐƯỜNG VỀ NHÀ” của Thái Kim Lan
“chẳng có nơi đâu là chốn xa nhà…” (*)
Đỗ Hồng Ngọc
Cứ tưởng tượng một phụ nữ Huế nhẹ như cây sậy mặc áo dài phất phơ như cánh bướm đứng ở giảng đường một trường Đại học nào đó ở Đức dạy triết học cho… người Đức, thì chắc là hết sức thú vị. Thái Kim Lan đó!
Hãy nghe Thái Kim Lan nói về Hegel và Thiền: ‘’Thiền dừng lại nơi cánh cửa “mở ngõ” ấy, không khép kín và dặn đừng khép kín, nên dừng lại nơi TÍNH KHÔNG như khả thể hội nhập thể tính đồng nhất (unite) giữa vô thường và tuyệt đối, như một khả năng TỰ DO sáng tạo tính nhất thể “núi nhìn ta, ta nhìn núi” nơi một chân trời đã gột rửa hết những đám mây vô minh chấp trước vào một cái ngã ảo tưởng… nơi chân trời tuôn trào sáng tạo của “vô danh thiên địa chi thủy”.
Hegel thì không! Hegel khép cánh cửa hiện tượng luận, khép tròn biện chứng thành một hệ thống khoa học khởi từ một chủ thể tuyệt đối rỗng không đã được đổ đầy nội dung khách thể, một chủ thể tuyệt đối với tính khách quan phổ quát làm nền tảng cho khoa học. Hegel chìm đắm trong tuyệt đối của duy tâm. Có phải Hegel là một Huệ Khả chưa giác ngộ?
Nhưng Hegel có thể trở về để gặp Thiền nơi một chung trà nhỏ’’
Nghe lùng bùng chưa. Nhưng triết học thì phải vậy. Điều gì đơn giản phải làm ra phức tạp… . Vì thế mà Hegel chỉ cần một chung trà nhỏ. Nếu không thì Hegel vẫn cứ là một Huệ Khả chưa giác ngộ.
Cái may lớn nhất tôi nghĩ của Thái Kim Lan là đã lớn lên ở Huế, đã thấm đẫm Phật giáo từ ngày còn thơ nên giữa một rừng triết học mênh mông, giữa một thứ ‘tánh Đức’ kỳ đặc… thì cũng không ra khỏi bàn tay Như Lai với Nhất thiết chủng trí…
Nhưng bất ngờ với tôi khi đọc Thái Kim Lan là điều quan trọng lại không phải chuyện triết học, không phải chuyện ‘’cây sậy biết suy nghĩ’’, chuyện ‘’tôi tư duy vậy có tôi’’, chuyện phi lý, duy tâm duy vật chi đâu, bởi những chuyện đó chẳng qua cũng chỉ để cãi nhau chí chóe, không ai chịu ai, không ai biết im lặng như Duy Ma Cật khi nói về Bất Nhị. Điều quan trọng ở đây lại là chiếc áo dài phất phơ như cánh bướm kia và ‘’văn phong thi vị và trong sáng’’ nọ mà Trần Văn Khê đã tấm tắc ngợi khen:
“…người phụ nữ Huế ấy vừa tài giỏi trong nghiên cứu giảng dạy triết học, vừa có cách viết về Phật giáo giản dị và đầy thiền vị, lại có một văn phong thi vị và trong sáng’’ (Trần Văn Khê).
Hãy nghe Thái Kim Lan kể về áo dài:
‘’Năm 1965, khi tôi sang Ðức du học, “gia tài” tôi mang theo là sáu bộ áo dài bằng lụa nội hóa. Ngày khai giảng đầu tiên, tôi cùng năm nữ giáo viên khác cùng du học đến trình diện ở trường trong những chiếc áo dài. Những đồng nghiệp ngoại quốc dự khai giảng ngỡ ngàng khi thấy trang phục của chúng tôi. Họ trầm trồ trước vẻ uyển chuyển thướt tha và ngợi khen đây là một trang phục rất lạ, đẹp, lịch sự và thích hợp với dáng dấp mảnh khảnh của phụ nữ Á Ðông”.
Thì ra ‘’áo dài Việt Nam’’ đã chinh phục được xứ sở ‘’triết học’’ mà không cần phải ‘’thiệt chiến quần nho’’ chi cả, để rồi từ đó
“…ÁO DÀI giúp tôi đắc lực nhất, thể hiện sức mạnh chinh phục của nó đối với những người khách chung quanh bằng sự vững chãi và tự tin, tự chủ là người Việt giữa muôn người.”
Khi TKL gởi tôi tập sách Đường Về Nhà này kêu tôi ‘’noái’’ đôi lời, tôi bất ngờ thấy có Đường sương, Đường mưa, và cả ‘’Đường phượng bay mù không lối vào’’ (TCS) mà Đường Về Nhà thì không thấy đâu cả! Sao vậy? Vì sao mà TKL cứ loay hoay tìm kiếm đường về nhà mà vẫn không thấy đâu? Có phải từ cái lúc bứng mình ra khỏi Huế ? hay từ cái lúc cấy mình vào một thứ thổ ngơi xa lạ kia?
Chắc không ít lần nàng kêu lên Đi về sao chẳng về đi/ Ruộng hoang vườn rậm còn chi không về? (Đào Tiềm), nhưng rồi cũng không ít lần giật mình: ‘’chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà’’ (TCS). Cho nên Ôn Từ Đàm đã nói chính xác:
“Ừ răng nghe lạ! Xác bên nớ mà hồn thì ở bên ni, nói nghe như người nằm ngủ nói mê!”.
Ðôi khi… giữa hai điểm hẹn căng thẳng trong cái lưới nhện của đèn xanh đèn đỏ xứ người, trong sự hối hả quay cuồng của thời gian ngộp thở trong hệ thống máy móc công việc của Âu châu, trong sức căng thẳng trí óc với chiếc xe hơi nhấn hết ga trong thành phố viễn xứ, bỗng dưng – vâng bỗng dưng! – vì không có một định luật liên tưởng hoài niệm nào đang vận hành trong giây phút ấy – bỗng dưng vọng lại bên tai mấy câu Kiều …”
Nàng cứ loay hoay giữa đi và ở. Cứ dùng dằng như con Sông Hương không chảy trong thơ Thu Bồn.
Thì mới đó, mấy ngày trước tôi nhất quyết năm ni sẽ ăn Tết ở Muenchen, bộ tịch của tôi chắc mẩm, tỉnh bơ, lạnh lùng, khi rời Huế. Ấy thế mà…
Thì đi, không nên dây dưa như những lần trước, dứt khoát mà đi, đừng có nhớ nhung lôi thôi kiểu Huế, nhớ này nhớ nọ mất công, lòng dặn lòng như thế, nằm nghiêng cánh gối, như chuẩn bị một thế hờ hững với mọi ngổn ngang có thể có vài giờ sau…
Cái gì đã giữ cô lại. Thì ra mưa. Mưa Huế. Rồi nắng. Nắng Huế. Rồi thu vàng rồi lá đỏ rồi rêu xanh…’’ cái gì cũng làm cho tôi quyến luyến khác thường’’ (Quốc văn giáo khoa thư).
Rồi Mạ, rồi Bà, rồi em, rồi chị… rồi Phật Đản, rồi Vu Lan, và Tết… Ăn Tết nơi mô? Ăn Tết ở nhà, Nơi tôi ăn Tết, Tết xưa… bao nhiêu là tết trong Đường Về Nhà này đó vậy.
Cho nên đã mấy mươi năm ăn Tết ở Muenchen, thật ra không phải “ăn” mà hoá ra “nhớ”. Nhưng về Huế, ăn Tết thì quả có ăn Tết thiệt, ấy thế mà lại thiếu chút chi cái “nhớ Tết Huế” ở nơi Muenchen, tuồng như cái nhớ đã mắc vào người, khó gỡ… Rứa là Huế – Muenchen cứ như tơ vò.
Còn cái ‘’văn phong thi vị và trong sáng’’ thì sao?
Thì, này là phượng huế: ‘’Sáng, trưa, chiều, màu hoa đỏ như môi son thiếu nữ nhoẻn nụ cười tươi nhất trên khắp các nẻo đường xứ Huế, khiến cho người Huế ở kiếp nào cũng sẵn lòng đổ mồ hôi hột, nhễ nhại trần thân chịu cơn nắng suốt cả đời người, để được một sáng ra đường gặp hoa, buổi trưa tình cờ thấy hoa và buổi chiều đi về với hoa trong những ngày hè thét lửa’’.
Thì, này là thu huế:
Huế đang vào thu! Những bước đi vào mùa của Huế thật là lạ lùng, bất chợt, làm cho mỗi giác quan của con người cứ bối rối ngẩn ngơ, không biết đón nhận buổi giao mùa bằng một thứ tình chi cho vừa lòng kẻ đến…”
Và cứ thế, cho những mai sau dù có bao giờ…
‘’Và cứ thế những ngày qua đi, không vội mà như có tiếng giục giã của thời gian đang nhuộm lần sắc nhớ… Có những khi… trong cuộc sống dồn dập ở xứ người, khoảng ngăn cách vời vợi giữa Huế và Muenchen, khoảng thời gian mấy mươi năm hun hút chia xa tuổi học trò với tuổi mai sau…
Để rồi,một mai hễ vương gió bên này thì lại nhớ mưa bên nớ, thấy nắng bên kia mà nhớ tuyết bên này.
Hạnh phúc ấy từ đó đọng sâu trong tiềm thức, qua năm tháng đã trở nên những xao xuyến vô hình thôi thúc trở về trong nỗi nhớ, lắm khi chẳng biết vì sao”.
Đọc Đường Về Nhà mà thương cho một Thái Kim Lan bơ vơ, trăn trở, mà nghe như có tiếng thời gian chạm vào ‘’đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà’’ (Nguyễn Xuân Sanh)…
(ĐHN)
Saigon, 8.4.2018
……………………………………………….
(*) Thái Kim Lan (Đường Về Nhà)
April 9, 2018
Lê Ký Thương: ”Hành trình nghiệp Thơ”
Lê Ký Thương: ”Hành trình nghiệp Thơ”
Ghi chú: Lê Ký Thương làm thơ trước khi làm họa sĩ, dịch giả… Năm 1974, anh ra mắt tập thơ: Bếp lửa thơm mùi bả mía ở Phan Rang và từ đó đăng nhiều thơ văn trên các báo ở Saigon. Anh cũng là người làm maquette đầu tiên cho tờ Ý Thức, tạp chí Văn học nghệ thuật những năm 70 của nhóm anh em Nguyên Minh, Lữ Kiều, Châu Văn Thuận, Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư, Nguyễn Mộng Giác, Đỗ Nghê, Lê Ký Thương…
Mấy năm trước, anh bị một cơn stroke, liệt nửa người phải, nhờ tích cực tập luyện với một ý chí cao nên phục hồi khá tốt. Thế rồi, một hôm đạp xe đi bơi, anh bị té gây chấn thương sọ não… Anh nói bây giờ chỉ với một tay, anh dư sức lo cả… gia đình!
Đi lại, nói năng hơi khó, nhưng lạ, trí nhớ tuyệt vời. Như một cuốn tự điển bách khoa về ”văn học nghệ thuật”. Anh nhớ vanh vách ai, làm gì, ở đâu… đời sống riêng tư ra sao! Thiệt lạ.
Mới đây, Quán Văn số 53 giới thiệu ”Lê Ký Thương”, anh được mời lên sân khấu ngồi nghe và cười… trong im lặng.
Anh vừa in một tập thơ dày đến 250 trang: Trò chơi trời cho. Hành trình nghiệp Thơ. Tự design, tự layout… còn sửa morasse đã có Kim Quy phu nhân lo (nhưng nghe nói giờ chót chàng không cho sửa…!), và in ấn thì đã có Nguyên Minh.
Xin giới thiệu với bạn bè.
(Lê Ký Thương, nói chung, là một người hiền lành, còn nói riêng thì hổng biết…!).
Đỗ Hồng Ngọc.
Thơ LKT:
LAI RAI BA ĐIỆU
Mai kia ta cháy trên đồi
Lửa siêu độ đốt sạch lời ba hoa
E rằng cô quán phải lo
Thiếu người tâm sự ngồi co một mình
Hôm nay ta nói hết mình
Rượu bao nhiêu độ say tình bấy nhiêu
Thân nhau nói ít hiểu nhiều
Khi mà thương thiệt mấy đèo cũng băng
Tình tang ứ hự tình tang
Cho thêm xị nữa cô hàng chịu chơi!
Phan Rang,1969
SAO CHIM CHƯA VỀ CHIM ƠI!
Đôi mắt tôi buồn cháy hai ngọn nến
những giọt lệ nồng không đủ ấm mùa đông
con chim Thúy Vũ chưa về
vườn mai trong hồn tôi xơ xác quá!
Thôi – tôi biết rồi
vừa qua có cơn bão lớn
gió thổi chim bay lạc hướng
mùa xuân này chắc không vui
cho dù vườn tôi mai tốt lá
Chim bay xa rồi
làm sao mai ra hoa?
Phan Rang, 1970
THƠ THẢ TRÊN SÔNG HƯƠNG
Anh xé lòng khơi nguồn sông Hương chảy
Dòng tình yêu cuồn cuộn bóng hình em
Trong tích tắc giao thừa anh bỗng thấy
Con ong ruồi chết ngộp giữa đài sen
Dẫu có buồn anh vẫn yêu em.
Huế, 1976
VIỆT VỊ
Trung thực tình em
giữa đường đua – anh
việt vị.
Không gian bốn chiều – anh
trượt lối
ngã lăn
quay.
Xương đá xanh rêu
tìm không thấy dấu trâu về…
Tiếng nói tình yêu
không đồng bộ.
Dẫu ngàn năm vẫn trắng xương
khô!
Huế, 1979
XUỐNG NÚI
Củi khô một bó
Lan rừng một đóa
Thênh thang đường về
Nước run đầu cỏ.
Nha Trang,1976
TẬP HÍT VÀ THỞ
Thoang thoảng mùi hương nghe lạ quá
Hít một hơi và thở một hơi
Hít và thở nghe quen mà rất lạ
Tập tập hoài – đâu có dễ như chơi!
Nha Trang, 1976
NẰM BỆNH I
Cõi người ta lạ quá!
Trắng – đen cứ nhập nhòa
Không rạch ròi thực – giả
Đành buông một tiếng: a!
Sài Gòn, 2011
TRA VẤN
Cái não sao mày cứ chọc tao.
Mới đầu gặp nạn tưởng không sao
Phim chụp 7 lần nay mới biết
Máu còn đọng lại, ít tiêu hao!
Mày nghĩ mày ngon nên quá lì.
Phần tao nhất quyết vẫn cười khì.
Vẫn sống phây phây và tự tại.
Coi mày như bạn – biết không mi?
Sài Gòn, bị stroke lần 2,
10 -2016
* Tập: Trò chơi trời cho – Hành trình nghiệp Thơ (gồm 321 bài, hầu hết chưa phổ biến). Nội dung chia làm 5 phần: 1.- Lạy tạ tình, 2.- Lạy tạ thơ, 3.- Thơ cà khịa, 4.- Thơ tai biến, 5.- Lướt gió xem mây, 6.- Tạm kết.
từ trái: Đỗ Hồng Ngọc,Thu Vàng, Kim Quy, Lê Ký Thương.
(Đường Sách Saigon, 5.4.2018)
Lê Ký Thương: ”Hành trình Nghiệp Thơ”
Lê Ký Thương: ”Hành trình Nghiệp Thơ”
Ghi chú: Lê Ký Thương làm thơ trước khi làm họa sĩ, dịch giả… Năm 1974, anh ra mắt tập thơ: Bếp lửa thơm mùi bả mía ở Phan Rang và từ đó đăng nhiều thơ văn trên các báo ở Saigon. Anh cũng là người làm maquette đầu tiên cho tờ Ý Thức, tạp chí Văn học nghệ thuật những năm 70 của nhóm anh em Nguyên Minh, Lữ Kiều, Châu Văn Thuận, Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư, Nguyễn Mộng Giác, Đỗ Nghê, Lê Ký Thương…
Mấy năm trước, anh bị một cơn stroke, liệt nửa người phải, nhờ tích cực tập luyện với một ý chí cao nên phục hồi khá tốt. Thế rồi, một hôm đạp xe đi bơi, anh bị té gây chấn thương sọ não… Anh nói bây giờ chỉ với một tay, anh dư sức nuôi cả… gia đình!
Đi lại, nói năng hơi khó, nhưng lạ, trí nhớ tuyệt vời. Như một cuốn tự điển bách khoa về ”văn học nghệ thuật”. Anh nhớ vanh vách ai, làm gì, ở đâu… đời sống riêng tư ra sao! Thiệt lạ.
Mới đây, Quán Văn số 53 giới thiệu ”Lê Ký Thương”, anh được mời lên sân khấu ngồi nghe và cười… trong im lặng như Duy Ma Cật khi được hỏi về Bất Nhị.
Anh vừa in một tập thơ dày đến 250 trang: Trời Cho Trò Chơi. Hành trình Nghiệp Thơ. Tự design, tự layout… còn sửa morasse đã có Kim Quy phu nhân lo, và in ấn thì đã có Nguyên Minh.
Xin giới thiệu với bạn bè.
(Lê Ký Thương, nói chung, là một người hiền lành, còn nói riêng thì hổng biết…!).
Đỗ Hồng Ngọc.
Thơ LKT:
LAI RAI BA ĐIỆU
Mai kia ta cháy trên đồi
Lửa siêu độ đốt sạch lời ba hoa
E rằng cô quán phải lo
Thiếu người tâm sự ngồi co một mình
Hôm nay ta nói hết mình
Rượu bao nhiêu độ say tình bấy nhiêu
Thân nhau nói ít hiểu nhiều
Khi mà thương thiệt mấy đèo cũng băng
Tình tang ứ hự tình tang
Cho thêm xị nữa cô hàng chịu chơi!
Phan Rang,1969
SAO CHIM CHƯA VỀ CHIM ƠI!
Đôi mắt tôi buồn cháy hai ngọn nến
những giọt lệ nồng không đủ ấm mùa đông
con chim Thúy Vũ chưa về
vườn mai trong hồn tôi xơ xác quá!
Thôi – tôi biết rồi
vừa qua có cơn bão lớn
gió thổi chim bay lạc hướng
mùa xuân này chắc không vui
cho dù vườn tôi mai tốt lá
Chim bay xa rồi
làm sao mai ra hoa?
Phan Rang, 1970
THƠ THẢ TRÊN SÔNG HƯƠNG
Anh xé lòng khơi nguồn sông Hương chảy
Dòng tình yêu cuồn cuộn bóng hình em
Trong tích tắc giao thừa anh bỗng thấy
Con ong ruồi chết ngộp giữa đài sen
Dẫu có buồn anh vẫn yêu em.
Huế, 1976
VIỆT VỊ
Trung thực tình em
giữa đường đua – anh
việt vị.
Không gian bốn chiều – anh
trượt lối
ngã lăn
quay.
Xương đá xanh rêu
tìm không thấy dấu trâu về…
Tiếng nói tình yêu
không đồng bộ.
Dẫu ngàn năm vẫn trắng xương
khô!
Huế, 1979
XUỐNG NÚI
Củi khô một bó
Lan rừng một đóa
Thênh thang đường về
Nước run đầu cỏ.
Nha Trang,1976
TẬP HÍT VÀ THỞ
Thoang thoảng mùi hương nghe lạ quá
Hít một hơi và thở một hơi
Hít và thở nghe quen mà rất lạ
Tập tập hoài – đâu có dễ như chơi!
Nha Trang, 1976
NẰM BỆNH I
Cõi người ta lạ quá!
Trắng – đen cứ nhập nhòa
Không rạch ròi thực – giả
Đành buông một tiếng: a!
Sài Gòn, 2011
TRA VẤN
Cái não sao mày cứ chọc tao.
Mới đầu gặp nạn tưởng không sao
Phim chụp 7 lần nay mới biết
Máu còn đọng lại, ít tiêu hao!
Mày nghĩ mày ngon nên quá lì.
Phần tao nhất quyết vẫn cười khì.
Vẫn sống phây phây và tự tại.
Coi mày như bạn – biết không mi?
Sài Gòn, bị stroke lần 2,
10 -201
* Tập: Trò chơi trời cho – Hành trình nghiệp Thơ (gồm 321 bài, hầu hết chưa phổ biến). Nội dung chia làm 5 phần: 1.- Lạy tạ tình, 2.- Lạy tạ thơ, 3.- Thơ cà khịa, 4.- Thơ tai biến, 5.- Lướt gió xem mây, 6.- Tạm kết.
từ trái: Đỗ Hồng Ngọc,Thu Vàng, Kim Quy, Lê Ký Thương.
(Đường Sách Saigon, 5.4.2018)
April 6, 2018
Kỳ 18: Phật Học & Đời Sống (Chùa Xá Lợi)
Kỳ 18: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG
Tứ Vô Lượng Tâm
Từ Bi Hỷ Xả (phần 2)
tại Chùa Xá Lợi (Saigon, Tp HCM) ngày 31.3.2018
Thứ bảy 7.4.2018 từ 15-16.30h tiếp tục
”Ứng dụng Từ, Bi, Hỷ, Xả vào Đời Sống hằng ngày”.
Trân trọng mời các bạn tham dự,
Cảm ơn nvquyen,
Bs Đỗ Hồng Ngọc.
April 4, 2018
Linh Thoại với THƠ NGẮN ĐỖ NGHÊ
Linh Thoại (Tuổi Trẻ) có một status trên facebook, viết mấy dòng cảm nghĩ về Thơ Ngắn Đỗ Nghê vừa gởi tôi để chia sẻ cùng ”Chú Ngọc”. Cô khoe viết linh tinh vậy mà đã có hơn 100 bạn ”like”… rồi đó chú!
Dưới đây là status của Linh Thoại về Thơ Ngắn Đỗ Nghê:
Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông
(Bông hồng cho mẹ, Đỗ Hồng Ngọc, 2012)
Bài thơ này nhỏ mình biết đến lần đầu khi phỏng vấn tác giả – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trong một quán café ở Quận 3, Sài Gòn. Chú và mình trò chuyện quanh quyển Thấp thoáng lời kinh, loanh quanh thế nào mà nói sang thơ ca, mình không còn nhớ rõ. Chú đọc cho mình nghe 4 câu đó, mình ấn tượng ngay. Những câu thơ nằm ngoài chủ đề câu chuyện nhưng mình vẫn tìm cách đưa vào bài viết. Trí nhớ mình đúng là thiên vị thơ, nhớ mãi 4 câu thơ từ hôm đó…
Với mình, ẩn sau “Bông hồng cho mẹ” là một ngày lễ dễ thương của văn hóa Phật giáo, văn hóa Việt: Lễ Vu Lan. Ẩn sau bài thơ giản dị đó là cả cái nhìn của phương Đông về hai cõi âm – dương. Mà thật ra, chẳng âm dương cách biệt gì cả, “ngoại”, “mẹ” và “con” đều ở đây, trong bài thơ nhỏ này, trong tâm tưởng của “con” – “con” nay đã nhìn về Còn – Mất trong cõi Ta-bà một cách nhẹ nhàng, an nhiên, dù đã bao mùa Vu Lan “con” cài hoa trắng, đóa hồng kia “con” “nhường” cho mẹ, mẹ ơi…
20 chữ thôi, mà khiến người đọc thấy cả ba “nhân vật” đều gần gũi, thấy yêu văn hóa Việt, yêu cuộc sống quá nhiều yêu thương và quá đỗi vô thường này…
Bẵng qua 5, 6 mùa Vu Lan, mình gặp lại bài thơ, lần này được in trong tập Thơ Ngắn Đỗ Nghê (Đỗ Nghê là một bút danh khác của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc), không khỏi thấy vui, không khỏi muốn nghe chính lời tác giả vang lên, như buổi chiều năm nao…
Mình mang tập thơ về, để ở đầu giường, một hôm thức dậy, trí não còn ngái ngủ, quơ tay lên mở sách, đọc đúng một bài rồi gấp sách lại vì nước mắt chảy:
Ba dạy con
Mỗi ngày
Một chút
Không bài học nào
Như ba đã học
Từ con
Nỗi mất!
(La Ngà 5, 1990)
Mình may mắn chưa có trải nghiệm đau đớn như vậy về nỗi mất, vậy mà 19 chữ kia cứ như một vết cắt bất thần vào con tim nhỏ…Lại một câu chuyện của sống chết vô thường, của có – không – còn – mất, của cõi đời mong manh cõi lòng mong manh…
Đâu cần dông dài, đâu cần khoác áo gấm áo lụa cho ngôn từ, đâu cần chiều kích suy tưởng, thơ, đôi khi chỉ cần là tiếng nói chân thật giản dị của khoảnh – khắc – trái – tim – cất – lời – như – không – khác – đi – được, vậy mà cứa đau, vậy mà xoa dịu…Mối tương giao và tri âm giữa người thơ với người đọc, đôi khi cũng lạ lùng như thơ vậy.
Nãy giờ mình nhắc hai lần chữ “vô thường”, với cả tập thơ, đúng là lẽ vô thường, “bài học” có – không bàng bạc khắp trong cái nhìn về đất, nước, sóng, hơi thở, tình yêu, tuổi già, về buổi ngày, buổi đêm, về sợi tóc bạc, về tấm thân tứ đại này….
Tình thương ư? Có một nỗi nhớ rất “y học” thế này:
Thôi hết cồn cào
Thôi không quặn thắt
Chỉ còn âm ỉ
Chỉ còn triền miên
Thì thôi cấp tính
Thì đành kinh niên
(Nỗi nhớ, 1995)
Vô thường ư? Cái thấy của y học đi cùng với cái thấy của thiền học:
Ta bay vù vù trong không gian
Mà cứ tưởng nằm im
Trên gối
Mỗi ngày ta rơi rụng
Mỗi ngày ta phục sinh
Mà cứ tưởng không hề thay đổi…
(Vô thường)
Có một bài mang tên “Về Thiền tập” tác giả để cuối tập thơ, mình không chép lại ở đây, thay vì vậy, mình chép “bài thơ 2 chữ” tác giả nhắn cho mình, sau khi nhìn thấy cái tựa “giựt gân” không đúng tinh thần bài điểm sách trên 1 tờ báo mạng:
Thôi kệ!
(“Thôi kệ!”, hai chữ đó, với con là “thơ ngắn Đỗ Nghê”, là “thơ Trịnh Công Sơn”, là “thơ thiền’ đó chú Ngọc ơi! 
ĐHN: Phật dạy con (Nguyên Giác dịch Anh ngữ)
Ghi chú: Nguyên Giác Phan Tấn Hải, tác giả của nhiều cuốn sách về Thiền học có giá trị, thực hiện một Blog Phật học song ngữ Việt Anh, VietRahula nhằm giúp giới trẻ ở hải ngoại có cơ hội tiếp cận Phật học.
Anh vừa gởi tôi bản dịch bài PHẬT DẠY CON. Xin trân trọng giới thiệu đến các bạn.
Viet Rahula, A Bilingual English-Vietnamese Blog — Trang Song Ngữ Anh-Việt — Webmaster: NguyenGiac@gmail.com
Tuesday, April 3, 2018
Phật dạy con
By Đỗ Hồng Ngọc
Phật tử thì ai chẳng là con Phật. Thế nhưng, La Hầu La là… con Phật lúc Phật còn là Thái tử. Một người con huyết thống. Trong cái đêm rời bỏ cung điện, “quyết tìm đạo sáng cứu chúng sanh” đó, Thái tử Tất-Đạt-Đa hẳn đã ít nhiều quyến luyến. Khi Phật thành đạo, có dịp về thăm Vua cha thì La-hầu- La đã lên bảy tuổi. Và ngay dịp đó, La Hầu La cũng xin theo Phật, xuất gia.
Tò mò coi Phật đã dạy La Hầu La những gì… để học lóm cũng hay!
Trước hết, Phật giao La Hầu La cho… ông “thầy dạy kèm” là Xá Lợi Phất. Sao lại Xá Lợi Phất mà không phải ai khác như Mục Kiền Liên chẳng hạn? Xá Lợi Phất thì mới đúng là một ông giáo, kiến thức uyên bác, đệ tử trí tuệ bậc nhất của Phật mà. Phật giao cậu bé La Hầu La cho Xá Lợi Phất dạy dỗ là muốn La Hầu La đi vào con đường tu tập bằng trí tuệ trước hết. Nếu Mục Kiền Liên mà làm thầy có khi La Hầu La mê… thần thông mất! Phật không trực tiếp dạy La Hầu La vì cha mà dạy con không dễ, nhứt là ông con có máu làm vua!
Và bài học đầu tiên Xá Lợi Phất dạy La Hầu La là thở. Tức là dạy kỹ năng đầu tiên của thiền định. Bởi đây cũng chính là con đường khai mở trí huệ. Có chánh định rồi mới mong có chánh kiến, chánh tư duy… chớ phải không? Thở là nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Ngay từ lúc sinh ra thì đã phải thiết lập ngay hơi thở đầu tiên – tiếng khóc “chào đời”- nếu không thì không có sự sống.
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra
(Nguyễn Gia Thiều).
Mới sinh ra thì đà khóc chóe
Trần có vui sao chẳng cười khì
(Nguyễn Công Trứ).
“Chào đời” bằng một tiếng khóc nên mới có “Khổ, Tập, Diệt, Đạo”!
Cuộc sống càng căng thẳng, càng đam mê, càng nhiều tham sân si nghi mạn tà kiến… thì người ta càng dễ quên thở. Người ta chỉ thoi thóp thở, khò khè thở, hời hợt thở, cà giựt thở, cà hước thở cho qua ngày đoạn tháng! Cho nên phải dạy thở trước hết cho La Hầu La là đúng.
Nhưng thở không chỉ là thở. Thở để thấy một kiếp người. Thở để thấy vô thường, vô ngã. Thở để thấy duyên sinh, thấy thực tướng vô tướng. Dĩ nhiên, Xá Lợi Phật sẽ dạy La Hầu La một cách đúng sư phạm, không sợ “tẩu hỏa nhập ma”!
Phật… vẫn phải theo dõi sát chuyện học hành của cậu bé La Hầu La. Khi thấy cậu đã biết thở, có chánh niệm, tỉnh giác, tinh cần rồi thì Phật mới bắt đầu dạy… đạo đức, lối sống. Nào không được nói dối – nào phải nghĩ kỹ trước mỗi ý tưởng, cử chỉ, lời nói… xem điều nào nên hay không nên làm, điều nào có hại, xấu ác thì không được làm, điều nào hay phải, lợi mình, lợi người thì làm.
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Trong khi chuẩn bị làm điều chi bằng thân, khẩu, ý, con phải quán chiếu: hành động này có gây tổn hại cho mình hoặc cho kẻ khác không. Nếu, sau khi suy xét, con thấy rằng hành động đó sẽ có hại, thì con hãy đừng làm. Còn nếu con thấy rằng hành động đó có ích lợi cho con và cho kẻ khác, thì con hãy làm.”
Trong các yếu tố thân khẩu ý thì “khẩu” có lẽ là quan trọng nhất để tạo nghiệp mặc dù nó được dẫn dắt bởi ý (ý dẫn các pháp) nhưng ý không bộc lộ ra để dễ nhận biết, chỉ có khẩu mới ầm ỉ, náo nhiệt, là đầu mối sinh sự, gây chiến! “Khẩu” chính là kẻ tạo nghiệp số một vậy. Ngày nay “khẩu” không chỉ là lời nói trực tiếp mà còn là cả hệ truyền thông, cả những “status” trên mạng internet, lan truyền khắp thế giới trong nháy mắt. Cho nên Phật dạy La Hầu La rất kỹ về “khẩu nghiệp”, bắt đầu bằng sự không nói dối. “Thập thiện” dành tới 4 món cho riêng khẩu: Không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói lời hung ác…
Ở tuổi mới lớn, biết mình là con Phật, được mọi người vì nể, quý trọng, chắc không khỏi có lúc La Hầu La làm phiền nhiễu, buồn lòng người khác. Thậm chí, thỉnh thoảng có thể còn chạy vào méc (mách) Phật điều này điều khác… Phật sẽ mỉm cười xoa đầu dạy hạnh Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn…
khi La Hầu La lớn dần lên, Phật dạy những bước tiếp theo.
Hãy học hạnh của Đất. Hãy như đất. Đất ở khắp nơi. Đất trong ta. Đất trong vũ trụ. Không có đất, ta không nên hình nên dạng. Không có đất, nhựa nguyên không thành nhựa luyện. Điều quan trọng: đất không hề phân biệt. Ném một thỏi vàng hay một đống rác xuống đất, đất vẫn « như như bất động »…Chẳng mừng chẳng giận.
Hãy học hạnh của Nước. Hãy như nước. Nước ở khắp nơi. Nước ở trong ta chiếm đến ba phần tư thể trọng. Cũng như biển cả sông ngòi chiếm ba phần tư mặt địa cầu. « Nước trôi ra biển lại tuôn về nguồn » (Tản Đà). Chẳng thêm chẳng bớt…
Hãy học hạnh của Gió. Hãy như gió. Gió ở khắp nơi. Gió trong ta. Trong bầu khí quyển. « Gió không có nhà/ Gió đi muôn phương… ». Đâu cũng là nhà của gió. « Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không ? Để gió cuốn đi ! » (TCS).
Hãy học hạnh của Lửa. Hãy như lửa. Lửa ở khắp nơi. Lửa trong ta. Lửa trong vũ trụ. Lửa ở mặt trời. Lửa giữa lòng đất. Lửa ở trong cây. Không có lửa sao cọ xát thì cây bốc lửa ? Lửa đốt cháy hết tham sân si. Lửa tam muội ngùn ngụt trong chánh định…
Tứ đại « đất, nước, gió, lửa », chính là những yếu tố cơ bản, Nitrogen (đất) Hydrogen (nước) Oxygen (gió), Carbon (lửa), những nguyên tố C, H, O, N tạo nên protein, chất liệu cuộc sống. Từ đó mà có vạn vật, từ đó mà có ngũ uẩn : sắc, thọ, tưởng, hành, thức…
Và dĩ nhiên Phật đã không quên nhắc đi nhắc lại với La hầu La: « không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta ».
Không phải của ta thì việc gì phải tham !
Không phải là ta thì việc gì phải sân !
Không phải là tự ngã của ta việc gì phải… si !
Vậy là đã đủ.
.
How the Buddha taught his son
By Đỗ Hồng Ngọc
Translated into English by Nguyên Giác
We are Buddhists and behave ourselves as children of the Buddha; however, Rahula had been already the son of the crown prince who later became Buddha. A biological son. In the night Prince Siddhartha left the royal palace to find the path of liberation, he somehow would have thoughts of attaching feelings. After becoming a Buddha, when he had a chance to visit his father king, his son, Rahula, was seven years old.
I am just curious to see what the Buddha taught his son. Curious to pick up something.
First, the Buddha assigned Sariputra as the tutor for Rahula. Why Sariputra? Why not somebody else? How about Mahamoggallana? Actually, Sariputra would work best as a teacher; he had vast knowledge and was foremost in wisdom among the disciples of the Buddha.
The Buddha wanted Rahula to follow his tutor Sariputra to train in wisdom first. If Rahula was a student of Mahamoggallana, he would be impassioned in psychic powers. The Buddha did not directly teach Rahula, because it was hard to teach a son, especially the one who would have wanted to become a king.
The first lesson Sariputra gave to Rahula was how to breathe. That was the first skill to practice meditation, and a way to attain wisdom. If he attain the Right Concentration first, he would easily attain later the Right View, Right Thought. Breath is life. When you were born, you started breathing – with a cry to say “Hello life”; thus, you could stay alive.
I’ve carried the first cry since the moment I was born.
(Poetry by Nguyễn Gia Thiều)
We cried when we were born! If life was joyful, why we did not laugh then?
(Poetry by Nguyễn Công Trứ)
Saying hello to life with a cry, we might feel the Four Noble Truths — suffering, the arising of suffering, the cessation of suffering, and the path leading to the cessation of suffering.
The more stress and passion we have, the more we get lost in the forest of greed, aversion, ignorance, conceit, doubt and wrong views, and the more we easily forget to breathe. People just breathe flickeringly, breathe waveringly, breathe shallowly, breathe sputteringly… and let the days and months passing by. Hence, it was right to teach Rahula first on how to breathe.
Breathing is not just for breathing. You breathe to see a life. You breathe to see the characteristics of impermanence and non-self. You breathe to see the dependent arising, the signless of the True Reality. Sariputra, of course, would teach Rahula correctly — no reason to worry about mental disorder.
The Buddha watched closely to see how the young Rahula studied. When seeing the youth knew how to breathe and live with mindfulness, alertness and diligence, the Buddha started teaching Rahula about morality – just tell the truth, not a lie; think deeply on any idea, any gesture, and word to choose to do good over evil, to do things helpful for us and others.
Not to do evil,
to cultivate merit,
to purify one’s mind…
“Whenever you want to do a bodily action, you should reflect on it: ‘This bodily action I want to do — would it lead to self-affliction, to the affliction of others, or to both? Would it be an unskillful bodily action, with painful consequences, painful results?’ If, on reflection, you know that it would lead to self-affliction, to the affliction of others, or to both; it would be an unskillful bodily action with painful consequences, painful results, then any bodily action of that sort is absolutely unfit for you to do. But if on reflection you know that it would not cause affliction… it would be a skillful bodily action with pleasant consequences, pleasant results, then any bodily action of that sort is fit for you to do….(and with verbal action, and mental action…) (link: Access To Insight)
Among all the actions, the verbal actions may be the most important to create karma; even the thoughts lead them all, it is very hard to see the thoughts. The vocal spoken words start all quarrels and wars. The verbal action is the one that creates the most karma. Not online the words you speak directly, but also the words you write on the Internet and spread out globally. Thus, the Buddha taught Rahula about the karma of verbal actions, starting with not telling a lie. Thus, there are four parts for the precept on verbal action: refrain from lying, from gossip, from harsh words, and from malicious words.
As a youth, respected by everyone for being the son of Buddha, Rahula might sometimes bother somebody. Rahula might come to see the Buddha and say things behind somebody’s back. The Buddha would smile, rub Rahula’s head and tell the youth to keep the precepts, be patient and learn diligently.
When Rahula grew up gradually, the Buddha taught the next steps.
Develop the meditation in tune with Earth. Earth appears everywhere. Earth appears in you. Earth appears in the universe. Without earth, you have no shape. Without earth, the tree sap cannot transform into other useful material. The important factor: earth discriminates nothing. Throwing a gold bar or a trash stuff onto the surface of the earth, you see the earth stay in the thusness nature – e.g., motionless… Neither happy nor angry.
Develop the meditation in tune with Water. Just be like water. Water appears everywhere. Water appears in you, keeping ¾ of your weight; also, the surface of seas and rivers cover ¾ of the surface of the earth. “All streams run to the sea and return to the source.” (Poetry by Tản Đà). Neither increasing nor decreasing.
Develop the meditation in tune with Wind. Just be like wind. Wind appears everywhere. Wind appears in you, and in the sky. “The wind has no home/ the wind flies in all directions…” Everywhere is home for the wind. “Living in life, we need a heart. For what, do you know? To let the wind float away.” (Lyrics by Trịnh Công Sơn)
Develop the meditation in tune with Fire. Just be like fire. The fire appears everywhere. The fire appears in you, in the universe, in the sun, deep inside the earth, and in the trees. Rubbing wood, you will have the fire. The fire burns all three poisons — greed, aversion, and ignorance. The fire of Samadhi starts the Right Dhyana.
The four basic elements — earth, water, fire, and wind– are the basic factors (for the forms of any existence), from which all things are built, and from which we have the five aggregates (the form, feeling, perception, volition, consciousness)…
And the Buddha, of course, always reminded Rahula that all things should be seen as, “That is not mine. That is not what I am. That is not my self.”
That is not mine; thus, why do we have greed.
That is not what I am; thus, why do we have the aversion.
That is not my self; thus, why do we have ignorance.
That’s good enough.
THE END
Image already added
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

